Chương 10 Bấm để xem 7 Ðã hơn mười một giờ đêm- Thành phố Huế vùi dần Trong yên tĩnh. Con sông Hương sau một ngày náo động mệt lả bởi đò dọc đò ngang, ca nô, xuồng máy giặc chạy ngược, chạy xuôi, lúc này dường như cũng đã thiu thiu ngủ. Tiếng sóng vỗ bờ uể oải như tiếng thở dài buồn bã trong mơ. Giờ thiết quân luật, cả thành phố không còn một bóng người dân qua lại. Thỉnh thoảng một chiếc xe tuần tiễu của giặc ầm ầm lướt qua dọc các đại lộ hai bên cầu Tràng Tiền- Trên xe lố nhố bóng mũ sắt và nòng súng. Một vài toán Bảo Vệ Quân xách súng đi rong nện giầy đinh côm cốp trên hè phố. Riêng trong khu vực thành nội im ắng hoàn toàn. Bọn giặc ỷ thành nội có thành cao, hào sâu, các cửa thành như Thượng Tứ, đông Ba, Nhà đồ, Chánh Tây đều có bốt gác, Việt Minh khó lòng đột nhập nổi, nên chúng không tổ chức tuần tra nghiêm ngặt như ngoài phố. Nhiều con đường tối om không có đèn đóm gì. Nhiều công sở không có lính gác. Đại Nội, hồ Tĩnh Tâm, khu Tam Tòa lục bộ, khu Ngọ Môn, dãy nhà để súng thần công v. V.. Vắng lặng đến rợn người. Chính giữa cảnh tối tăm vắng lặng đó, bỗng xuất hiện hai bóng đen nhỏ bé, lúc ẩn lúc hiện, dọc con đường um tùm bóng cây, chạy qua khu Tam Tòa lục bộ. Một bóng đen đeo một cái giỏ, còn bóng kia cầm cái cần câu dài ngoằng- Hai thằng bé câu ếch. Một phần trời tối, một phần chúng đi len lỏi dưới bóng các tán cây đen xẩm, nên không thể nhìn rõ mặt Xem chừng chúng chỉ đeo giỏ vác cần cho có lệ chứ chẳng câu kéo gì hết- Mà cung cách chúng đi có vẻ dè dặt, lén lút, lo sợ người bắt gặp- Ngang qua một gốc cây một cột điện hoặc cổng một ngôi nhà công sở. Hai đứa đều dừng lại. Thằng vác cần câu rút trong ngực áo ra- một vuông trăng trắng, kêu sột soạt. Thằng đeo giỏ thọc vào miệng giỏ một cái que đen đen, rồi cầm que quệt quệt lên gốc cây cột điện. Thằng vác cần câu dùng cả hai tay áp vật trăng trắng vào đó. Thằng đeo giỏ thì thào: "Khéo cả lộn ngược!" - Thằng vác cần nói, đầu không ngoái lại- "Cứ yên trí!". Khi hai đứa rời chỗ, trên thân cây, cột điện, bức tường màu xám nhờ, hiện ra một hình chữ nhật trăng trắng như đột ngột trổ ra một khuôn cửa nhỏ. Cứ như thế hai đứa đi dọc theo các con đường lớn trong thành nội. Và lúc qua nửa đêm, hai thằng mất hút sau dãy nhà dài để súng thần công trước cửa Ngọ Môn. ° ° ° Một giờ hai mươi phút sáng. Phía khu vực đồn HỘ Thành bỗng lóe chớp và tiếp theo là một tiếng nổ lay chuyển cả trời đêm- Rồi tiếng súng máy, súng trường và cả tiếng lựu đạn nổ dồn dập, xối xả. Ðạn lửa bay đỏ lừ, rạch ngang rạch dọc bóng tối như muốn cắt thành từng tảng lớn nhỏ. Ôi quang cảnh hào hùng, sôi sục của năm mươi lăm ngày đêm chiến đấu bao vây giặc như bỗng chốc hiện về, dựng cả thành phố dậy. Cả thành phố đang ngủ say nhảy quáng quàng trên giường xuống đất, nằm bẹp, co đầu, rụt cổ. Đồng bào vừa kinh ngạc, vừa mừng, vừa sợ. HỌ thi thào hỏi nhau trong bóng tối: "Răng tụi hắn rải truyền đơn, đăng nhật trình, nói là Việt Minh đã bị tụi hắn tiêu diệt sạch rồi!"... " Cứ chờ đó mà coi, chưa biết ai tiêu ai!". Và phần đông bà con trong bụng chỉ thầm mong tiếng súng cứ thế mà nổ mãi, nổ mãi, to hơn nữa, mạnh hơn nữa, rung trời rung đất hơn nữa? Dù có phải tản cư lần nữa, dù có phải mất hết đồ đạc, tan cửa nát nhà lần nữa, HỌ cũng sướng bụng. Chỉ mới trong vòng một tháng sống trong lòng thành phố giặc chiếm, mà đồng bào đã thấy thấm thía gớm ghê nỗi tủi cực của người dân mất nước. Nhưng thật đau lòng, chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau, tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Rạng sáng hôm sau, một tin lan truyền đi rất nhanh khắp thành phố: Vệ Quốc đoàn không biết bằng cách nào đã lọt vào được thành nội, tập kích đồn HỘ Thành do hai trung đội Bảo Vệ Quân đóng giữ. HỌ đã giật bom sập rụi cổng đồn, giết hơn một chục lính Bảo vệ cắt mất mấy ngàn thước dây điện thoại- đặc biệt hơn nữa, trên nhiều gốc cây, cột đèn điện, tường các công sở, dán trắng xóa truyền đơn của Việt Minh. Truyền đơn kêu gọi đồng bào Huế hãy tin tưởng vào kháng chiến. Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi? Cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc, bán nước hại dân. Mật thám, an ninh, Bảo Vệ Quân v. V.. Kháng chiến không Ở đâu xa mà ngay sát nách chúng. Nếu chúng không mau mau hồi tỉnh thì kháng chiến sẽ thẳng tay trừng trị. Nhiều người còn thêm thắt đồn đại là truyền đơn được dán bằng một thứ hồ gì mà dính đến nỗi tụi cảnh sát bóc mãi không ra, phải lấy lưỡi lê mà cạo. Bọn Pháp và tay sai bị một đòn sấm sét bất ngờ, vừa khiếp đảm, vừa tức tối. Chúng đã bị Việt Minh làm cho mất mặt với đồng bào Huế. Mới hôm qua, báo, loa còn oang oang nói thánh nói tướng nào là trật tự hoàn toàn đã được lập lại trên toàn cõi Ðông Dương, nào là bọn đội Việt Minh đã bị tiêu diệt đến tên cuối cùng. Thế mà đùng một cái, Việt Minh chơi cho một vố ngay giữa trung tâm thành nội, có thành cao hào sâu bao bọc. Để vớt lại thanh thế, bọn giặc huy động một lực lượng quân khá đông, vây ráp khu thành nội. Từ năm giờ sáng, chúng đã cho đóng chặt các cửa ra vào, đặt các trạm kiểm soát trước mỗi cửa thành- Chúng ra lệnh dân chúng thành nội, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ai dám trái lệnh, xích cổ đưa về lao Thừa Phủ. Chúng chia quân thành nhiều toán, súng cắm lưỡi lê, đạn lên nòng, lùng soát vây ráp, ngồi trên xe bọc thép có gắn đại liên, chạy ngược chạy xuôi như ngựa tế. Tên chỉ huy vây ráp oang oang ra lệnh cho các toán quân vây ráp: "Kẻ nào khả nghi, có ý chạy trốn hoặc chống lại, cho phép nổ súng hạ sát ngay tại chỗ!". 8 Chính vào lúc đó, trên con đường kiệt Ở ngã tư âm Hồn, đột ngột xuất hiện Tư-dát và Lượm. Chúng đang đi về phía cổng Tam Tòa, nơi bọn giặc đang đi lại lố nhố rất đông. Hai đứa đầu trần chân đất, mặc sơ mi cộc tay màu cháo lòng, quần đùi xanh- Nếu nhìn kỹ, khắp trên hai má, cánh tay, cẳng chân, nốt muỗi đốt dày dịt, và nhiều vết gai cào xước. Lượm đi tay không, Tư-đát tay ôm một quả bóng tết bằng lá chuối khô và dây chuối. Trông dáng bộ nó ôm quả bóng lá chuối khô mà giống hệt một cầu thủ nhà nghề ôm bóng da ra sân cỏ. Thỉnh thoảng nó làm điệu dội bóng xuống mặt đường, nhưng quả bóng nằm bẹp dí như cục bùn- NÓ lấy bàn chân hất ngược bóng lên, bắt lấy, cầm quả bóng xoay xoay, xem xét. - Banh non hơi! - nó nói - đi đá tranh giải vô địch, đoạt "cúp" sư tử vàng mà banh biếc ra ri thì gay thiệt! Ngang qua một gốc cây có dán tờ truyền đơn mà bọn cảnh sát chưa kịp bóc, nó vội lánh xa sang bên kia lề đường, mắt liếc xéo một cái rất nhanh nói nhỏ với Lượm: - Dán lộn ngược rồi mi ơi! Chừ ai muốn đọc là phải làm xiếc trèo lên cây, móc hai chân vào cành cây đầu chúc xuống đất mà đọc. Khổ! Lượm phì cười nói: - Theo tao thì nhổ cây lên, dựng ngược rễ lên trời mà đọc đỡ mệt hơn. - Hay để tao sang bóc ra dán lại hí! - NÓ dợm chấn như định chạy sang bên gốc cây bóc tờ truyền đơn. Biết nó đùa mà Lượm vẫn hoảng, chụp níu tay nó lại, cau mắt nói khẽ. - Ba láp vừa chứ mi? Cả hai đứa đều nhớ rõ là đêm qua khi dán đến tờ - truyền đơn này, tờ truyền đơn cuối cùng thì phía đồn HỘ Thành rung lên tiếng bom nổ- Hai đứa giật mình, chui bùa qua một hàng rào bông cẩn cao quá đầu người, ngồi thụp xuống chân rào- Lượm thì thầm hồi hộp nói: "Chắc là các anh lớn lọt vô choảng tụi nó rồi! Hèn chi trong tờ lệnh của ban Tham mưu trung đoàn tối hôm qua tao đưa về cho anh Ðồng-râu, có dặn là tổ mình phải rải truyền đơn đúng vô đêm ni. Lúc đọc cái lệnh đó tao đã hơi. Ngờ.." - Không biết đơn vị mô đang chơi trận ni mi hè? Tao đoán là tiểu đoàn mười tám- Vỡ mặt trận, không thấy tiểu đoàn mười tám rút lên chiến khu Hòa Mỹ. Chửng hai tai lắng nghe tiếng súng một lúc một nổ rát- Tư-dát băn khoăn. - Các anh lọt vô lối mô được mi hè? Các cửa thành thì không qua được rồi nghe, lính gác đặc! Mà trèo thành thì trèo làm răng- Cao nghêu, lại có hồ sát chân thành? XÌ-- mi cứ lo chim không biết bay? Tư-dát vẫn mải theo đuổi ý nghĩ của mình- NÓ nói- - Nếu là tiểu đoàn mười tám thì chưa chừng có thằng Vệ-to đầu đang đánh Ở đó- Tao nhớ hắn quá mi ơi? Tiếng súng, tiếng lựu đạn, thưa thớt dần rồi im hẳn. Lượm nói: - Chắc các anh rút rồi. - Rứa, tau với mi cũng phải tìm cách mà chuồn ra khỏi thành thôi chứ mi? - Chuồn lúc ni là rất nguy. Tao chắc tụi lính gác các cửa thành đang đốt hết đèn đóm lên, canh gác còn ngặt gấp mười lúc thường- Theo tao chui hẳn vô giữa vườn tìm chỗ kín núp chờ cho trời sáng. Cửa thành mở, ta cứ đàng hoàng đi ra, tụi hắn mới khỏi nghi. Tư-dát nghe phải. Hai đứa lủi như hai con chuột vào giữa vườn, ngồi dựa vào lưng nhau dưới gốc một cây bưởi. Xung quanh cỏ tốt ngập đầu, muỗi hơn trấu. Muỗi bâu lại cắn hai đứa mỗi lúc một dày đặc. Chốc chốc, hai đứa lại đưa bàn tay xoa một cái, lòng bàn tay dính dính máu. Tư-dát đã thiu ngủ. NÓ giả giọng "các mệ" nói trong trạng thái dở thức dở ngủ: - Mi mắc cái màn buồm với trải cái đệm lông chim cho "mệ" nghỉ lưng một chút-.. Mệ hơi oải ba sườn. NÓ nằm dài luôn xuống đất lổn nhổn gạch đá, đầu gối bừa lên một búi cỏ, và bắt đầu ngáy. Lượm cũng mệt và muốn ngủ không kém, nhưng nó cố hết sức chống chọi- Hai đứa, phải có một đứa thức, lỡ gặp phải chuyện chi còn biết đường mà xoay trở - NÓ nghĩ vậy. NÓ căng mắt cố nhìn xuyên bóng tối bao quát cả khu vườn. Khu vườn như bỏ hoang lâu ngày không có người chăm xóc, chắc chủ nhà chưa hồi cư.. điều nhận xét này làm cho nó hơi yên bụng. NÓ nâng đầu Tư-dát đặt lên đùi nó rồi nhổ búi cỏ làm phất trần xua muỗi cho bạn và cho mình. Tư-dát vẫn ngủ say mê mệt. NÓ còn ú Ớ nói mê khá to, làm Lượm hốt hoảng đưa tay bịt mồm nó lại. Ðến một lúc, - Lượm cũng không còn đủ sức chống lại cơn buồn ngủ. Búi cỏ làm phất trần tự nhiên tuột khỏi tay, đầu nó ngoẹo sang một bên, gật lia gật lịa rồi dựa hẳn vào gốc cây ngủ thiếp luôn. Khi hai đứa choàng tỉnh dậy, trời đã sáng trợt. Hai đứa bò trong cỏ rậm, định chui rào ra ngoài. Nhưng ngoài đường tiếng xe chạy rầm rầm, tiếng giày đinh cồm cộp, tiếng súng lên đạn rôm rộp. Hai đứa vội thụt đầu bò lùi lại, nép sau một bụi chuối- Hú vía! Nếu chui ra thế nào cũng chạm trán tụi giặc đang vây ráp. Nhưng Ở lại trong vườn cũng không xong. Lỡ chủ nhà đi ra vườn, trông thấy hai đứa, họ hô hoán lên lại càng chết. Chưa biết làm cách nào, Lượm chợt trông thấy những bẹ lá chuối khô liền nảy ra một mẹo. NÓ ghé sát tai Tư-dát thì thầm. Tư-dát gật gật đầu. - Mẹo nghe được! Nghe được. Lượm bứt lá chuối khô để thành một đống. Tư-dát cuộn lá chuối lại, dùng dây chuối bện thành một quả banh lớn hơn quả bưởi. Tư-dát bện banh lá chuối phải nhận là thiện nghệ- Chỉ một loáng, đống lá chuối đã biến thành một quả banh khá tròn. Chờ cho ngoài đường im ắng hẳn, hai đứa ôm banh chui ra.. Và lúc này hai đứa đang đi về phía cửa Thượng Tứ. ° ° ° Dọc đường hai đứa chạm trán hết toán lính Tây Lê Dương này, lại toán Bảo Vệ Quân khác - Súng cắm lưỡi lê sáng quắc, mắt trợn trừng trợn trạc, chúng hằm hè xông vào các khu vườn, các ngôi nhà hai bền đường, lúc soát. Hễ nhìn thấy một toán giặc từ xa đi lại là Tư-dát thả quả banh xuống đường. Hai đứa làm bộ làm tịch tranh banh rất hăng - Vừa tranh banh vừa la lối om sòm. - Ê? Ê! Cấm chơi xấu! Cấm chơi xấu? - Mi bị "manh" rồi! "Manh-pê-răng-ti" hẳn hoi nghe! Mi bị cú "coóc-ne" thì có. Tau phải sút phạt mi cú "coóc-ne"! Và hai đứa làm như vô tình sút luôn quả banh vào chân bọn giặc. Tụi Bảo Vệ Quân tức tối nạt nộ: Đồ con ranh con lộn? Con cái nhà ai, hả? - Đây là chỗ tụi bay chơi đây, hả? - Ai cho tụi bay được đá banh giữa đường? - A lê cút? Tư-dát vội nhặt quả banh, miệng liến thoắng rối rít: Dạ, dạ.. Tụi cháu lỡ.. Xin các bác tha! Khi chúng qua khỏi, hai đứa đưa mắt nháy nhau, nhe răng cười. Tư-dát nói nhỏ: - Tụi hắn chắc đang tức Vệ Quốc Ðoàn nổ lòng bóng mi hè? - Tức mà thôi à? Sợ đái ra quằn ấy chứ! - Lọt ra thành thôi chứ mi? Ra chưa được mô. Mi không nghe tụi hắn loa- Cấm dân trong thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập à? Tư-dát nhăn nhó: - Lỡ mả cha hắn động, cấm hết cả ngày ni thì làm răng Tau đói xều mếu rồi. Tau xấu máu đói lắm. - - được, cứ để coi cái đã Lúc đó ta sẽ nghĩ mẹo mà ra. Chừ tao với mi giả đò lừa banh đến trước cửa đồn HỘ Thành, điều tra tình hình coi các anh đánh có kết quả không, để về báo cáo với anh đồng-râu. Hai đứa vừa chạy đuổi nhau vừa lừa quả banh lá chuối đến trước cửa đồn HỘ Thành. Cổng đồn xây bằng gạch khá kiên cố, lúc này chỉ còn là một đống gạch vụn. Bên trong đồn, giữa sân, đồ đạc 'bàn ghế vứt lung tung lộn tùng phèo như cảnh bị nhà cháy. Tụi lính nhốn nháo đi lại thu dọn, mang vác.. Hai đứa lừa banh qua cổng đồn, mắt liếc rất nhanh bao quát toàn cảnh bên trong- Mặt chúng tự nhiên ỉu xìu, trong lòng dậy lên một nỗi buồn tiếc ghê gớm- Chỉ trừ cái cổng đồn, còn nhà ngang dãy dọc vẫn nguyên vẹn cả. Lúc mà đêm qua, ngồi trong khu vườn hoang lắng nghe tiếng bom tiếng súng, chúng hồi hộp, hả hê hình dung cả cái đồn này đang bị các anh nghiền thành cám. Bên trái cổng đồn, cạnh đống gạch vụn ngổn ngang, có một xác chết đặt nằm giữa trên tấm cửa chớp. Xác chết ăn mặc áo quần Vệ Quốc đoàn, da mặt đen xạm dập nát, bám đầy bụi vôi, bồ hóng, miệng há to như đang hét xung phong. Vạt áo trước. Rách tả tơi, loang lổ máu khô bầm. Bên vai anh vẫn còn đeo một đòn bánh tét Ruồi, nhặng xanh vo ve bâu kín mảng áo dính máu, bò ngang bò dọc trên mặt anh. Chắc anh bị thương rồi chết vùi dưới vôi gạch, đơn vị rút vội không kịp phát hiện để mang đi. Bọn giặc bới được xác đem bêu ra đây cho người qua lại ngó thấy. Lừa quả banh qua khỏi cổng đồn chừng vài trăm thước. Lượm như bỗng kiệt sức. NÓ lảo đảo ngồi phịch xuống lề đường. Cặp mắt đỏ hoe, chăm chăm nhìn về phía cổng đồn. Tư-dát tái mặt lay lay vai bạn nói gần như van vỉ: - Đi mi! Đi. Ngồi đây lâu, tụi hắn nghi chết. Lượm như không nghe thấy bạn nói gì. NÓ lắp bắp thì thào như trong cơn mơ ngủ. - Thấy mấy con ruồi xanh bò bò trên mắt anh, tao chỉ muốn chạy lại xua tay đuổi.. Ngó mà không làm chi được tao đau ruột quá mi ơi. Nói đến đó, miệng Lượm bỗng mếu xệch. Tư-dát nhìn bạn, miệng tự nhiên cũng mếu theo. NÓ ngồi xuống cạnh bạn, giọng dỗ dành: - Nhưng biết làm răng được chừ.. mi- Tụi hắn chết mười, bên mình chết có một.. như rứa chắc anh ấy cũng thỏa. Lượm nghẹn ngào: - Cớ chi biết được nhà cha mạ anh ấy Ở mô hè.. mà tìm báo cho cha mạ anh biết, lên xin đem xác về chôn.. Tư dát đứng ra giữa đường đo bóng nắng, kêu: - Trưa quá rồi mi ơi. Phải tìm cách mà lọt ra thôi. Anh đồng-râu Ở nhà chắc đang nóng ruột lắm. Lượm như chợt tỉnh, đứng lên- Hai đứa lại lừa trái banh lá chuối về phía cửa đông Ba. Lúc này bọn giặc đã mở cửa thành, cho người vào ra, nhưng lục soát rất gắt gao. Một toán vừa Bảo Vệ Quân vừa Cảnh Sát, An Ninh, đứa súng trường, đứa súng lục đứng lố nhố trước cửa thành. Còn cách cửa thành chừng trăm thước. Lượm với Tư-dát sút banh thảng về phía cửa thành- Tư-dát lăn xả vào chặn banh, nhảy như choi choi, miệng la bai bải: - Ê- Không được chơi xấu? Không được chơi xấu! Khi trái banh lăn tới còn cách cửa thành chừng chục bước, Lượm la lên: - É "manh rồi"! "Manh" pê-răng-ti hẳn hoi nghe! - "Manh" mô mà "manh" ' Chi trúng Ở cùi chỏ thôi! Tư-dát gân cố cãi. - Mi chơi ăn gian! "Manh pê-răng-ti" sờ sờ còn chối- Biết điều thì giữ gôn đi cho người ta sút phạt! Tư-dát tỏ ý chịu thua- Hai đứa loay hoay tìm chỗ làm cọc gôn. Tư-dát chỉ từ bên này lề đường sang bên kia lề đường: "Gôn" ri được chưa? Hẹp quá! - Rộng thì có! Mi coi cổng gôn ngoài "Xịt tát" cũng còn hẹp hơn. Lượm chịu. Tư-dát đứng ra giữa đường, chổng mông ra phía cửa. Nó xắn tay áo, lưng cúi lom khom, vẻ mặt căng thẳng, làm bộ tịch anh giữ gôn đang sẵn sàng đón bắt quả banh sút phạt đền sáu mét. - Ðúng sáu bước nghe! Một tên Bảo Vệ-quân, cầm cây roi [bad word] bò bước đến quát: - Tụi con ranh con lộn' Chỗ ni là chỗ tụi bay chơi đấy hả? - Hắn quất luôn một roi vào cái mông nhọn veo của Tư-dát đang chổng về phía hắn. Tư-dát nhảy dựng lên kêu: "Ối?" Vừa lúc đó, Lượm sút rất mạnh, quả banh vọt qua chân Tư-dát, lăn ra đến tận bên ngoài cửa thành. Lượm nhảy lên reo to. - Bờ-ra-vô! Thủng lưới rồi! Tư-dát ôm cái mông gày nhom, nhăn nhó. - Phải sút lại! Sút lại' Tại bác Bảo Vệ đánh tau đau quá, tau mới không bắt được. - Nó quay lại, mếu máo nói với tên Bảo Vệ Quân: - Bác làm cháu bắt trật mất cú phạt "manh pê răng-ti" oan quá! Tên Bảo Vệ Quân giáng cao cây roi lên, chửi: Con mạ mi, Có xéo ngay không? Tư-dát nhảy tránh ra gần phía cửa, mắt le lé nhìn cây roi trong tay tên Bảo Vệ Quân, Lượm chạy đến kêu: - Ðược rồi, cho mi chạy ra nhặt banh vô, tao sút lại. Lần này mà còn bắt trật là mặc kệ mi đó nghe! Làm bộ quá mải chơi, hai đứa cùng một lúc chạy ùa ra khỏi cửa thành, xô đến bên trái banh lá chuối nằm lăn lóc cạnh lề đường. Chúng vừa la hét ầm ĩ vừa gàn chân nhau giành banh, hăng hái như một trận quyết đấu vậy Rồi làm như vô tình, hai đứa cứ sút mãi trái banh mỗi lúc một xa cổng thành, trước hàng chục cặp mắt của bọn lính Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh. 9 Khoảng mười giờ sáng hôm đó. Kim-điệu từ phía -trường Pơ-rô-vi-đăng đi ra đường ngang- Ðến Nông khố ngân hàng cũ, (bây giờ là một đống gạch vụn) nó rẽ xuồng con đường qua đập Ðá để sang Vĩ Dạ- Chiều qua, trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, anh dặn cả tổ: Muộn lắm là mười giờ sáng mai phải có mặt ở nhà để báo cáo công tác. Nhưng mới đi được mấy bước, nó lộn trở lại, vòng lên lối Trung bộ phủ cũ, và ra bến đò ngang sông Hương- "Bây giờ chưa đến mười giờ, ta qua chợ Ðông Ba, ních bụng bánh khoái rồi về cũng không sao - nó nghĩ vậy". Nó không bao giờ ngờ được rằng, mấy bước lộn trở lại đó đã mang lại biết bao nhiêu tại họa khủng khiếp cho cả tổ quân báo.. Và cho chính cả cuộc đời nó. Từ tám giờ đêm hôm qua, nó đã rải xong số truyền đơn được giao. Nó không khỏi hứng chí tự đắc về thành tích của mình - Mấy buổi đầu bắt tay vào công tác tình báo nội thành nó run lắm. Gặp khó khăn nguy hiểm nó dễ hốt hoảng, rối trí, mất bình tĩnh. Nhưng chỉ sau một tuần, quen dần với hoàn cảnh và công việc, qua vài lần rải truyền đơn, dán báo giết giặc ", vẽ bản đồ kho tàng, vị trí địch trót lọt, được anh Ðồng-râu biểu dương trước cả tổ, thế là nó phổng mũi- Nó sinh chủ quan, nghĩ bụng: Tướng công tác tình báo nội thành khó khăn như răng, chứ dễ ợt như ri thì mình có thể hoạt động được cả đời Cầu trời, ban quân báo Trung đoàn giao cho mình những công tác thật khó thật nguy hiểm cả đội không đứa mô làm nổi. Mình làm nổi, cả đội phải phục lác mắt. Vụt thấy mình tài giỏi, can đảm hơn hẳn các bạn, nó đã tự ý làm một vài việc không cần thiết, có thể dẫn đến tai họa. Chẳng hạn, đêm qua nó dành lại một tập truyền đơn và sáng nay nó đi thật sớm, đem rải trước ngõ mấy nhà những đứa bạn trước đây cùng học với nó ở trường Khải định. Hoặc như lúc này, đáng lý phải về ngay nơi trú quân nó lại lẻn qua chợ Ðông Ba ních bánh khoái. Con đò ngang ở bên kia bờ. Trên bến, lác đác mấy người gồng gánh ngồi, đứng đợi đò. Kim-điệu hai tay đút túi quần, miệng khe khẽ huýt sáo điệu nhạc bài hát" nước non Lam Sơn ", năm đầu ngón chân khẽ nhịp nhịp, Ngắm làn nước xanh trong, nhăn nhăn sóng, nó thấy lòng rộn ràng vui thích. Nó đang tưởng tượng cái cảnh mấy thằng bạn thân lúc ra ngõ vớ được những tờ truyền đơn nó vừa rải sáng nay.. Tụi hắn lượm lên gọi nhau í ới, châu đầu lại đọc. Mới đọc được mấy dòng, mặt đứa nào cũng xanh mét cả lại. Chúng nó chạy té tát hết vào nhà, nói lắp bắp không thành tiếng" Truyền đơn Việt Minh rải trắng ngõ nhà mình, cha ơi! Mạ ơi!.. "Tụi hắn chắc đứa mô cũng tưởng cái ông Việt Minh gan cóc tía dám đi rải những tờ truyền đơn đó, phải tài giỏi lắm- Võ nghệ cao cường lại có tài biến hóa xuất quỷ nhập thần như Long hình quái khách người Nhạn trắng. Côn lôn tiểu khách. Tụi hắn có đến nằm mê cũng không đám tin cái ông Việt Minh rải truyền đơn đó lại chính là thằng Kim, bạn nối khố của tụi hắn! Nghĩ đến đó nó khoái chí, bật cười to, làm mấy người ngồi đợi đò phải ngoảnh lại nhìn. Nó cứ tiếp tục huýt sáo, nhịp chân, tảng lờ như không biết. Ðò vẫn chưa sang. Người tụ tập đợi đò mỗi lúc một đông. Tụm năm, tụm bảy, họ thì thầm bàn tán về trận đánh đồn Hộ Thành tối qua, chuyện truyền đơn Việt Minh rải tứ tung bát giác, khắp cả ngoài phố, trong thành, mấy trăm Bảo vệ quân chia nhau đi lượm cả buổi sáng không hết! - Nghe nói đi rải truyền đơn toàn là quân cảm tử. Kim-điệu thôi huýt sáo. Nó lắng nghe chuyện mọi người thì thầm bàn tán. Nó khoái chí đến tột độ. Da mặt như căng lên, rần rật, nó bỗng thấy ngứa mồm ngứa miệng cách chi! Nó thèm được bước lên mấy bước, vỗ ngực nói với những người đợi đò:" Quân cảm tử Việt Minh chính là tôi đây! Chắc bà con không ai ngờ hè? "Vừa lúc đó có mấy tên lính Bảo vệ quân mang súng đi đến. Chúng nghiêng nghiêng, ngó ngó, nhìn những người đợi đò, trợn trạc, dò xét, nhác trông thấy tụi lính, sự thèm muốn khoe khoang ngông cuồng trong lòng nó vụt tan biến hết. Mặt nó tự nhiên hơi tái đi, chân run run, tim đập thon thót. Nó chụm môi lại cố huýt sáo, nhưng huýt mãi không thành tiếng. Nó hụt hơi. Ðò cập bến. Người dưới đò bước lên. Người trên đò tranh nhau bước xuống. Con đò sang đến bến chợ Ðông Ba. Kim đi vào chợ. Nó lượn một vòng quanh chợ, rồi sà luôn vào cửa hàng bánh khoái. Ăn một bụng no nê đã đời, môi đỏ mọng lên vì húp nước lèo và cắn rau ráu ớt tươi. Nó bước khỏi cửa hàng mấy bước thì bất ngờ chạm trán Nguyễn Trì, ông anh nuôi của nó hồi còn ở Trung đoàn bộ. Phải gánh vác trách nhiệm nặng nề của người chiến sĩ cứu nước, nhưng các đội viên đội Thiếu niên trinh sát vẫn còn là những chú bé. Các em thèm khát được yêu thương, vỗ về, chăm chút, và thỉnh thoảng được làm nũng với cha, mạ, anh chị.. Xa gia đình, cha, mạ, anh, chị ruột các em nhận cha nuôi, mẹ nuôi, anh, chị nuôi. Anh, chị nuôi là các chiến sĩ hơn tuổi cùng đơn vị, hoặc ở các đơn vị khác mà mỗi em cảm thấy gắn bó, yêu thương. Phần lớn các đội viên trong đội Thiếu niên trinh. Sát đều có anh nuôi, chị nuôi. Riêng Kim-điệu không những chỉ có một mà đến ba bốn ông anh nuôi, ba bốn bà chị nuôi. Nó xinh trai, láu lỉnh nhất đội nên được nhiều anh, nhiều chị thích nhận làm em nuôi. Và nó rất biết lợi dụng cái ưu thế của nó. Nó nhận anh chị nuôi này một thời gian thấy không thích nữa, lại bỏ, nhận anh chị nuôi khác. Và nó cũng rất thích thú, hãnh diện khi thấy vì nó mà các anh chị nuôi, nhất là các chị nuôi, giận hờn, ghen tức nhau. Có chị còn khóc đỏ cả mắt khi thấy người khác tranh mất đứa em nuôi xinh trai của mình. Nguyễn Trì là ông anh nuôi thân thiết, gắn bó nhất của nó. Trước ngày Huế nổ súng, Nguyễn Trì làm quản lý của cơ quan Trung đoàn bộ. Ngày đó Lượm và Kim đều là liên lạc của trung đoàn bộ. Nguyễn Trì yêu Kim bao nhiêu thì ghét Lượm bấy nhiêu. Ngược lại Lượm cũng ghét Nguyễn Trì ra mặt ngay từ buổi đầu mới gặp Lượm thấy ghét Nguyễn Trì mà chính nó cũng không hiểu tại sao. Không những ghét Nguyễn Trì, nó còn ghét luôn cả Lê Thành, thư ký đánh máy của Trung đoàn bộ, bạn thân của Trì. Do ghét mà tự nhiên Lượm thường xuyên để mắt xem xét lời nói, việc làm của Trì và Thành. Một hôm nó nghe lỏm được Nguyễn Trì bàn với Lê Thành: Sáng hôm sau đi nhận gạo ở kho quân lương của Trung đoàn, Nguyễn Trì sẽ lấy cắp hai bao một trăm cân gạo, giao cho Lê Thành đi bán. Trì hẹn Thành đón gạo ở chân cầu Ðông Ba cũ. Lượm gặp tham mưu trưởng Phùng Ðông - sau này là chi huy trưởng mặt trận C - báo cáo điều nghe lỏm được. Tham mưu trưởng bèn bố trí lính cảnh vệ bí mật theo dõi, và bắt quả tang hai đứa ăn cắp gạo. Cả hai bị tống cải hối thất. Sau khi ra khỏi cải hối thất, tham mưu trưởng đưa Nguyễn Trì về một đại đội làm lính trơn. Ít lâu sau nhờ chú em nuôi Kim, Nguyễn Trì biết được chính Lượm đã tố cáo hắn. Ðối với Lượm, Nguyễn Trì không phải chỉ là ghét mà thù hận. Có lần Trì nói với chú em nuôi dễ thương và xinh trai của mình:" Nếu tình cờ anh gặp thằng chó chết đó ngoài mặt trận, anh thề sẽ cho hắn ăn đạn ". Nét mặt Trì sa sầm và cười gằn một cách dữ tợn. Kim lo lắng kể chuyện lại với - Lượm, và khuyên: " Hay là mi chịu khó tìm anh ấy mà xin lỗi.. ". Lượm tức tối nói:" Việc chi tau phải xin lỗi thằng ăn cắp của Vệ Quốc đoàn? Hắn có đạn cho tau ăn dễ chừng tau không có đạn cho hắn ăn chắc? " ° ° ° Nguyễn Trì đang từ cửa hàng bún bò khô đi ra. Trì vẫn như ngày làm quản lý ở Trung đoàn bộ. Mặt đầy trứng cá, nặn nhiều nên từng đám đen bầm, đầu tóc đít vịt chải bị-dăng-tin bóng loáng tưởng ruồi đậu cũng phải trượt chân ngã oạch; cổ tay đồng hồ vàng lấp lánh. Chỉ có khác trước kia là Trì mặc quân phục kaki gabađin, bây giờ mặc" Com lê "mới tinh như vừa lấy ở hiệu may ra, chân dận giày da đen mõm nhái soi gương được đầu đội mũ phớt, mắt đeo kính râm. Kim đâm bổ tới, mừng rỡ gọi: - Anh Trì, anh Trì! Trì quay lại, nhìn Kim vẻ hơi ngớ ra một chút. Nhưng chỉ thoáng một giây, Trì đã đổi ngay nét mặt tươi cười vồn vã: - Kim đấy à? Dạo này chú em lớn và đẹp trai quá ta? Mặt Kim rạng rỡ lên vì được khen. Nó bước đến sát bên anh nuôi thì thầm hỏi: - Chớ anh về đây khi mô? Trì đưa mắt nhìn quanh vẻ sợ sệt, nhíu trán lại nói khẽ với Kim: - Ðứng đây nói chuyện không tiện. Anh em mình ra cái ghế đá ngoài kia. Trì dắt tay Kim ra khỏi chợ, đến cái ghế đá gần đầu cầu Tràng Tiền- Hai anh em ngồi sát bên nhau. Trì rút thuốc lá châm hút, vừa thở khói vừa hỏi: - Em đi mô mà qua đây? Em ở bên nhà qua. Mạ em biểu qua chợ mua mấy hộp hương vòng thắp bàn thờ Phật.. - Lúc này Kim đã nhớ lại lời dặn của anh đồng-râu. Em hồi cư lâu chưa? Chạy đến mô thì lộn lại? - Em rút theo Trung đoàn bộ, ra đến Hiền Sĩ thì gặp gia đình em tản cư ở đó. Em liền bỏ trốn về nhà. Em theo cha mạ hồi cư đã được gần tháng nay. Rứa anh? - Anh thì chán quá! - Nguyễn Trì lắc lắc đầu vẻ buồn bã trả lời- Chạy ra đến Cổ Bi bị lạc mất đơn vị- Anh tìm đỏ cả mắt đến tận Mỹ Chánh cũng chẳng thấy tăm dạng. Chắc các cha hoảng quá, chạy tuốt ra thấu Vinh hay rút lên núi rồi cũng nên. Anh đành phải chôn súng chôn đạn bò về Huế. Dọc đường, mấy lần suýt bị Tây bắn chết.. Nguyên Trì thở dài, búng cái tàn thuốc ra xa, nói tiếp giọng uất ức: - Không ngờ Vệ Quốc Ðoàn ta lại tan rã mau đến rứa! Bao nhiêu công lao cướp chính quyền, làm cách mạng, rứa là tan ra mây khói hết? Kim-điệu lúc này tự nhiên thấy thương hại cho ông anh nuôi to xác, diện ngất trời của mình." Chắc là anh ấy chưa được biết chuyện chiến khu, chưa được học tập về ba giai đoạn kháng chiến.. nó nghĩ thầm vậy ". Nó nói, mặt hơi vênh lên: - Anh cứ tưởng rứa chứ tan răng được anh? - Em nói không tan, răng chẳng còn thấy bóng một mống Việt Minh nào? - Rứa anh không nghe chuyện Vệ Quốc Ðoàn đánh đồn Hộ Thành đêm qua với truyền đơn rải trắng đường phố đó à? - Nó suýt buột miệng khoe-" Chính em rải truyền đơn đó chứ ai. Anh đang ngồi cạnh Việt Minh chính cống mà anh không biết ". Nhưng nó đã cố gắng hết sức kiềm lại được. Nguyễn Trì châm điều thuốc khác, chuyển giọng trầm trồ thán phục. - Không biết đơn vị mô của Trung đoàn mình chơi cái vố Hộ Thành tối qua khá thiệt! Kim-điệu hơi ngập ngừng một chút, rồi hỏi: - Giả dụ anh mà được gặp họ anh có theo không? Nguyễn Trì đang đưa lưng vào thành ghế đá, thở khói liền ngồi thẳng ngay dậy, giọng sôi nổi. - Răng lại không theo? Em tưởng anh không nát ruột nát gan trước cảnh nước mất nhà tan ni à? - Tưởng anh bây giờ đã đi làm việc cho Tây? Làm cho Tây ấy à? - Nguyễn Trì khinh bỉ nhổ toẹt một bãi nước bọt qua kẽ răng. - Thà chết đói chết khát, xách bị đi ăn mày, chứ đời mô thanh danh là mọt thằng lính Vệ Quốc đoàn cũ như anh lại chịu nhục đi làm việc cho Tây. Vẻ mặt và giọng nói cảm khái của ông anh nuôi làm Kim-điệu tan biến hết mọi lo lắng, nghi ngờ. Nó cho rằng đã có thể thổ lộ với Nguyễn Trì những điều bí mật, và cùng chia sẻ với anh nuôi nỗi vui thích hãnh diện đang tràn ứ trong lòng. Nó còn nảy ra ý định sẽ dắt Nguyễn Trì về Vĩ Dạ giới thiệu với anh đồng-râu, đề nghị anh kết nạp Trì vào tổ quân báo-" Thêm được một người, tổ mình càng mạnh, thả sức mà hoạt động "Như đoán được chú em nuôi xinh. Trai, bồng bột, nhẹ dạ đang nghĩ gì, Nguyễn Trì làm vẻ mặt đau đáu, thở dài nói: - Nếu anh mà được biết quân mình bây giờ đang ở đâu, thì a-lê hấp! Anh sẽ quăng hết những thứ này xuống sông. - Trì trỏ bộ áo quần, giày, mũ phớt, đồng hồ vàng. - Dù họ có ở tận rừng xanh, rú đó anh cũng mò tới tìm theo. Kim hạ thấp giọng: - Em chắc quân mình không ở xa mô. Có khi ở sát ngay bên nách anh em mình cũng nên.. Làm chi có chuyện đó em- - Nguyễn Trì ném mẩu thuốc lá xuống đất. - đánh xong là phải tìm đường rút. - Tây, Bảo vệ quân ở đầy thành phố. Việt Minh có ba đầu sáu tay cũng chẳng dám ở lại.. Kim nói gần như thì thầm: - Rứa anh có dám tham gia hoạt động không? - Hoạt động cái chi rứa? - Nguyễn Trì hỏi lại giọng ngờ nghệch. - Hoạt động tình báo! Nguyễn Trì ghé sát mặt chú em nuôi, giọng run lên hồi hộp: - Nhưng biết chỗ họ ở mô mà đến xin hoạt động em? - Ở đây chứ còn ở mô nữa! - Kim đưa ngón tay cái chỉ vào ngực mình, cặp mắt long lanh đắc thắng hãnh diện. Nó thích thú thấy Nguyễn Trì cứ nhìn nó, mặt ngây ra. - Em không giấu gì anh, không phải em theo gia đình hồi cư mô.. Em được Trung đoàn cử về Huế hoạt động tình báo. Tất cả những truyền đơn đó đều do tay em rải cả. Nó đưa tay lên định phác một cử chỉ để nhấn mạnh thêm cho điều bí mật quan trọng mà nó vừa tiết lộ. Bất ngờ tay nó chạm phải một vật cứng và lạnh dắt bên sườn ông anh nuôi khuất bên trong áo vét tông. Tay nó rụt ngay lại như chạm phải lửa." Ui trời? Súng lục: ". Nói muốn kêu lên vậy mà không thành tiếng. - Hay là. Nó bàng hoàng nhìn Nguyễn Trì. Nó vùng đứng ngay dậy, định bỏ chạy. Nhưng ông anh nuôi với bàn tay cứng như sất nguội đã chộp lấy vai nó kéo giằng xuống, và nói qua kẽ răng: - Ngồi im đó- Cựa quậy tao cho ăn đạn ngay! Kim-điệu mặt tái nhợt, nhìn ông anh nuôi, giọng như sắp òa khóc: - Anh Trì, anh mà nở đối với em rứa à? Nguyễn Trì không trả lời, đưa mắt nhìn sang bên kia đường, đưa hai ngón tay lên búng tách một cái ra hiệu. Từ dãy phố bên kia đường, một thanh niên mặc áo ca rô, đầu đội bê-rê lệch, quần ống tuýp, đi giày bốt tin trắng, vừa huýt sáo vừa băng qua đường, đến đứng khép nép trước mặt Nguyễn Trì, Trì nói nhỏ giọng ra lệnh: - Giữ thằng này ngồi yên tại đây, chờ tao. Việt Minh chính cống đó. Coi chừng để nó thoát là mày phải thế mạng. - Thưa xếp, thằng em đã canh giữ, thì nó có chạy đằng trời? Thằng mặc áo ca rô ngồi xuống sát bên Kim đưa tay choàng qua vai ra chiều thân mật, kiểu đôi bạn tri kỷ khoác vai nhau dốc bầu tâm sự- Kim vừa quay người lại thì một hóng súng lục thúc đau nhói bên mạng sườn- Hắn gằn giọng nói: - Cứ ngồi yên vị như lứa? Mi mà cựa quậy, con" chó lửa "ni tức mình sủa lên là rồi đời đó nghe! - Hắn thúc mạnh hơn họng súng vào mạng sườn Kim để nhấn mạnh cho lời hăm dọa. Kim-điệu ngồi chết cứng trên ghế đá, mồ hôi vã ra, ướt đẫm suốt từ đầu tới chân. Nguyễn Trì đi đến một bót cảnh sát gần đó. Chừng hai chục phút sau một chiếc xe" jép "chạy đến đỗ xích sát lề đường, trước mặt ghế đá, máy vẫn nổ rù rù- Trên xe, ngoài thằng lái xe, còn có hai tên Bảo vệ quân cầm tiểu liên. Nguyễn Trì từ phía bót cảnh sát đi NAME = Desktop đến. Hắn đưa hai ngón tay búng đánh tách, ra lệnh cho thằng mặc áo ca rô: - Đưa nó về Ty An Ninh! Thằng này đứng lên, xốc nách Kim đứng lên theo dìu đến bên cửa xe, nói: - Mời chú em lên xe! Kim như người mất hồn, run rẩy đặt một chân lên thùng xe. Thằng này lên gối thúc mạnh vào lưng Kim. Mất đà, nó ngã nhào vào trong xe, đầu va phải cái cạnh ghế ngồi, máu lõa ra, chảy đỏ lòm cả mặt. Chiếc xe rồ máy lao đi, giữa những cặp mắt hãi hùng ngơ ngác cửa những người qua đường. 10 Gần hai giờ chiều. Ở Vĩ Dạ, anh Ðồng-râu hết đi ra lại đi vào. Anh bồn chồn nóng ruột, đợi mãi không thấy Kim về. Mâm cơm để phần nó vẫn còn úp lồng bàn trên phản. Lượm và tư-dát về từ lúc mười một giờ kém mười lăm. Hai đứa ăn cơm chưa kịp uống nước, xỉa răng đã phải tất tả mang báo cáo về cho tổ liên lạc ở Sịa. Lần này anh cử Tư-dát cùng đi với Lượm, để nó quen đường. Lở khi Lượm vắng mặt, nó có thể đi thay. Theo thông báo của ban quân báo trung đoàn, lần này phải chuyển về Huế khá nhiều truyền đơn và báo Giết giặc. Tư-dát cùng đi với Lượm, lở đọc đường gặp chuyện bất trắc, hai đứa có thể giúp nhau, bàn bạc, giải quyết. Bà o cũng vừa cắp rổ đi chợ. Ở nhà chỉ còn một mình anh. Quanh xóm im ắng khác thường. Xóm này người hồi cư còn thưa thớt. Nhiều nhà còn cửa đóng, then cài, sân đầy rêu, bậc cửa mốc meo. Anh vào buồng định chợp mắt một tí- Chờ đến ba giờ nêu không thấy Kim về, anh sẽ nhờ bà o lên phố dò la tin tức. Anh vừa đặt lưng xuống giường, bỗng nghe ở phía đầu xóm có tiếng lao xao lạ tai- Anh bật ngồi dậy dỏng tai chăm chú lắng nghe- Tiếng nhiều bước chân huỳnh huỵch và tiếng xát quy-lát súng. Tiếng một con chó sủa váng lên, hốt hoảng. Linh tính dường như báo cho anh biết có sự chẳng lành- Anh nhảy đến góc buồng, mở thập gạo, thọc tay vào lôi ra một khẩu súng mô-de, quấn trong cái khăn mặt cũ. Anh mở ra, lau nhanh khẩu súng, tháo băng đạn, kiểm tra rồi lắp vào và bật chốt an toàn. Ngay lúc đó, phía trước ngõ nổi lên một tiếng còi chói tai, và tiếng hàng rào bị đạp gãy răng rắc. Tiếng hô dữ tợn vang lên: - Không được để nó chạy thoát! Biết mình đã bị bao vây, anh Ðồng-râu đạp mạnh bức phên sát đầu chõng tre (bức phên này anh đã cẩn thận mở bứt nhiều nốt lạt buộc từ trước). Bức phên đổ ụp' Anh dẫm lên bức phên đổ lao ra phía vườn sau. Anh thấy lố nhố giữa những hàng cầy ăn quả, mũ sắt và những họng súng. - Nó thoát ra phía ni bay ơi Bắn! Một viên đạn rít, nóng bỏng sát sau gáy anh. Anh cúi khom người, siết chặt khẩu súng trong tay, bươn về phía bờ tre bên trái khu vườn. Tiếng bọn giặc nhao nhao hò hét: - Đứng lại? Ðứng lại! Hàng thì sống! Súng nổ từng loạt, tiếng chân rầm rập đuổi theo anh Ðồng-râu vọt qua bờ tre- Gai tre móc áo, kéo rách toạc từ ngực ra lưng. - Bắt sống? Bắt sống, Vòng ra bên trái đón đầu nó. Tiếng bọn giặc la hét rầm rầm. Anh vẫn chạy quay khẩu mô-de, bắn một phát qua vai. Một tiếng kêu rú đau đớn- ôi? Tiếng người ngã đánh uych. Nhiều tiếng la ré. - Thằng ni có súng Cẩn thận đấy? Gặp một con đường kiệt, anh rẽ ngang định lao ra bờ sông- Nhưng muộn mất rồi. Nhiều họng súng đón đầu anh- Cùng đường, anh lùi lại, vọt bừa qua mấy hàng rào đầy gai, bươn đến một ngôi đình bị phá hoại chỉ còn trơ mấy bức tường. Anh vọt mấy bậc tam cấp xây đá, lên nền đình ngổn ngang gạch vụn Ðưa mắt bao quát địa hình, anh đứng nép sau bức tường rạn nứt, cao quá đầu- Anh cúi khom người nhìn qua khe nứt, thấy bốn năm tên giặc, cầm súng lăm lăm chạy vào sân đình, mắt nhớn nhác tìm kiếm. Một thằng cao lòng khòng, tay cầm khẩu" côn-đu ", vẫy vẫy ra lệnh cho những thằng trước sân đình: - Chặn tất cả các lối ra xóm! Hắn đang núp sau mấy bức tường nứt kia thôi! Bắt tay lên miệng làm loa, tên này gọi to: Ðồng-râu! Bỏ súng hàng đi! Chúng tao sẽ tha chết, Chống cự vô ích! Mày không thoát nổi mô! Anh Ðồng-râu bàng hoàng trong khoảnh khắc" Tại sao tụi hắn biết tên mình! Thôi đúng rồi, Chắc là thằng Kim.. ". Một loạt đạn trung liên bắn thẳng vào bức tường anh đang nấp, cắt ngang ý nghĩ của anh. Vôi vữa gạch vụn bay rào rào quanh anh. Anh chỉ nòng khẩu Mô-de qua khe nứt, nhắm đúng ngực thằng chỉ huy, siết cò- Trượt! Viên đạn bay vù qua vai hắn, làm đứt tung cái cầu vai áo khía. Thằng này nổi nóng, vẫy khẩu" côn "bắn liền một băng vào khe tường nứt. Anh Ðồng-râu đổi vị trí bắn. Anh luồn sang bức tường bên phải, có cái cửa tròn chữ Thọ. Anh quỳ xuống nâng súng ngắm một thằng cầm tiểu liên" Tôm-sơn "đang cúi lom khom, lò dò bước lên bậc tam cấp. Anh bắn liền hai phát. Tên giặc đang cúi bỗng dướn thẳng người lên, cổ ngay ra như bị hóc xương, cặp mắt trợn ngược, miệng há to như sắp quát mắng. Bất thần hắn ngã vật ra đằng sau, gáy đập mạnh vào thềm đá. Khẩu tiều liên văng sang một bên. Hắn co quắp giẫy giụa, kêu ú ớ, và một dòng máu đỏ tươi vọt ra chính giữa trán. Ðạn hết, anh thò tay vào túi áo móc mấy viên đạn dự trữ, định lắp tiếp vào súng. Nhưng ngay lúc đó, một tên giặc đội mũ sắt, vòng ra phía sau ngôi đình, nhô đầu lên khỏi bức tường đổ. Anh chưa kịp quay đầu lại, hắn đã chĩa khẩu tiểu liên vào lưng anh, kéo hết một băng đạn. Cả băng đạn mấy chục viên ghim hết vào lưng anh. Anh chết tức khắc. Thân hình anh đổ nhào xuống cái bệ vôi có đặt những chiếc bát nhang sành sứt mẻ. Tay phải anh vẫn nấm chặt khẩu mô-de hết đạn. Bàn tay trái ngón quặp chặt bốn viên đạn vừa móc trong túi ra. Mái tóc rễ tre rậm lù xù thoáng điểm những sợi bạc, mồ hai dính bết trước trán. Chòm râu quai nón vênh ngược, bám trắng bụi vôi, đôi mắt có nhiều nếp nhăn rẽ quạt ở đuôi mắt mở to bất động. Bọn giặc xúm đen xúm đỏ quanh xác anh. Chúng bẻ những ngón tay anh ra tước lấy khẩu súng và mấy viên đạn. Tên chỉ huy ra lệnh lấy dây dừa buộc hai chân anh, kẻo xác ra tận đường cái. Một chiếc Ô tô tải G. M. C; thùng xe vải bạt bít kín, đỗ ở đó. Trong góc thùng xe, Kim-điệu mặt mũi tím bầm, sưng húp, ngồi thu lu, mặt gục xuống đầu gối. Chính nó đã dẫn đường cho bọn giặc vây bắn anh Ðồng-râu. Sự việc xảy ra khá đơn giản: Mười một giờ trưa hôm đó. Nguyễn Trì đưa Kim về đến Ty An Ninh. Lúc này nó đã rõ ông anh nuôi yêu quý, mà một giờ trước đãy nó có ý định giúp đỡ, dắt dẫn vào con đường hoạt động tình báo, lại chính là trưởng ban Di động của Ty An Ninh. Ban Di động của hắn đang lồng lộn tìm kiếm dầu vết, manh mồi của trận tấn công đồn Hộ Thành và rải truyền đơn đêm qua. Cách đây mấy hôm các quan thầy Pháp bên sở mật thám Phòng Nhì vừa" xà lù "Ty An ninh là kém cỏi, bất lực. Việt Minh ngày càng làm mưa làm gió ngay trước mũi mà không tóm nổi một tên nào? Cả Ty An Ninh lo sốt vó trước lời mắng mỏ của quan thầy. Dùi đánh đục, đục đánh sảng. Gã Ty trưởng trút hết nỗi lo sợ bực dọc lên đầu hắn, người chỉ huy đội quân điều tra, chỉ điểm của Ty. Gã gọi hắn là" Trưởng ban ăn hại ". Một sự may mắn tình cờ, hắn được gặp lại chú em nuôi quý hóa.. Chỉ sau mấy cái tát, mấy cú đấm của tên Năm-ngựa trước kia là dân dao búa côn đồ, bây giờ là chuyên nghiệp tra tấn của ty, Kim-điệu đã phun ra hết. Cả Ty An Ninh mừng rơn. Một mặt, tên Ty trưởng cho điều một trung đội Bảo vệ quân về Vĩ Dạ, do Kim dẫn đường, vây bắt anh đồng-râu. Mặt khác, Nguyễn Trì dẫn một tồ Di động viên về đầu cầu Bao Vinh đón bắt Lượm và Tư-dát từ Sịa trở về. Bọn Bảo vệ quân vứt xác anh đồng-râu vào thùng xe, ngay trước mặt Kim. Cái xác nằm ngửa. Nhìn thấy cái vạt ngực áo bà ba đũi Mỹ Lợi thân thuộc của người chỉ huy, đầm đìa những máu, và cặp mắt anh mở trừng, bất động, Kim kêu thét lên, hãi hùng, hoảng loạn. Nó ôm chặt lấy tên Bảo vệ quăn ngồi cạnh như cầu xin sự che chở. Xe nổ máy, chở xác anh về đến đầu đập Ðá. Chúng đỗ xe, lôi xác anh xuống đặt nằm trên vạt cỏ sát lề đường. Cạnh xác chúng cắm một tấm biển có dòng chữ: " Tên Ðồng-râu. Việt Minh đầu sỏ chỉ huy đánh đồn Hộ Thành và các vụ ám sát nhân viên nhà nước đã bị Ty An Ninh Thừa Thiên điều tra phát giác, phối hợp với Quân đội quốc gia lùng bắt được và bắn chết tại Vĩ Dạ vào lúc ba giờ bốn lăm phút ngày.. -. Tháng. -.. năm Chúng bêu xác anh tại đấy suốt ba ngày ba đêm khi đã gần thối rữa mới đem chôn. 11 Lượm và Tư-dát về đến trạm liên lạc khi mặt trời đã xế bóng. Trạm đóng trong nhà một cán bộ Việt Minh xã ở sâu cuối ngõ xóm. Ổ trạm lúc này chỉ có Hiền và Bồng. Châu đi liên lạc lên chiến khu từ chiều hôm kia chưa về. Công việc của tổ liên lạc khá vất vả. Chỉ có ba đứa mà phải lên về chiến khu xoành xoạch. Ðường từ Sịa lên chiến khu phải băng qua nhiều trảng cát, vượt đường quốc lộ Một lội qua mấy con sông, len lỏi qua nhiều xóm ấp nằm sát bên vị trí địch, đi hàng mấy giờ liền dọc những sườn đồi đá sỏi, gốc cỏ tranh mọc lởm chởm nhọn sắc như gai.. Lúc lên về chiến khu, ba đứa phải cải trang làm trẻ chăn trâu đi tìm trâu lạc. Ðó là hình thức cải trang thuận tiện, che mắt giặc tốt hơn cả. Ðầu đội nón mê (tài liệu thường cài trong lá nón), tay cầm roi, áo quần cộc rách vá tứ tung, bùn lấm từ đầu đến chân; dọc đường, hễ gặp người lớn có khi là tề dõng. Bảo vệ quân, là chúng lại mếu máo hỏi: "Anh ơi chú ơi, hoặc ông ơi, có thấy con trâu Ô sừng quặp của tui chạy lạc qua đây không?" Bồng mắc bệnh gì ngoài da không biết, cứ đến mùa đông da nổi vẩy lên như vẩy rắn, cả đội gọi nó là Bồng-da-rắn. Nó không chịu, bảo vẩy nó giống vẩy trăn hơn. Nhưng cả đội không đứa nào chịu cải tên cho nó là Bồng-da-trăn, cứ gọi Bồng-da-rắn. Nó ức lắm, mấy lần sinh sự đánh nhau. Bồng-da-rắn trước khi vào Vệ Quốc đoàn làm đủ nghề, bán đậu phụng rang, bắp rang, "bánh mì nóng mới ra lò", "Cà-rem" v. V.. Châu có một vết rám ở má bên trái, như bị lửa cháy sém, các bạn gọi Châu-sém. Châu-sém là con nhà thuyền chài trên sông Hương. Châu-sém trạc tuổi Hiền, nhưng khỏe gấp hai gấp ba. Người nó đen trùi trũi, tay chân đã có bắp thịt săn chắc như thừng neo thuyền. Bồng-da-rắn và Châu-sém cải trang làm trẻ chăn trâu thì không còn phải bàn. Như lột. Riêng Hiền trắng trẻo, xinh trai, dáng dấp đặc biệt học trò thành phố, đóng giả chăn trâu dễ lộ lắm. Nhưng nó vốn là đứa cứng đầu cứng cổ, không dễ gì chịu hàng trước khó khăn. Công việc càng khó khăn càng say mê hấp dẫn nó. Nhận lấy những việc thật khó, ít ai làm nổi, rồi làm tròn một cách xuất sắc, đó là điều nó luôn luôn mơ tưởng. Ngược lại; những việc dễ dàng làm cho nó buồn chán bỏ dở. Khi mới bắt tay vào việc đi liên lạc lên chiến khu, Bồng-da-rắn, Châu-sém đều tỏ ý lo lắng, không tin tưởng Hiền có thể đóng giả trẻ giữ trâu. Chúng nói: "Nước da mi trắng như bột lọc, bàn tay bàn chân sạch bong như tay chân mấy o nữ sinh Ðồng Khánh rứa mà mi đòi giả đò đứa đi giữ trâu, thì tụi Tây, tụi Bảo Vệ Quân có mù cũng biết là giả đò! Hay thôi mi ở nhà giữ nhà đề hai đứa tau đi cũng đủ.". Hiền cười: C- ảm ơn lòng tốt của tụi bay. Nếu ở nhà giữ nhà thì tao ở quách nhà tao, việc chi phải lặn lội đi Vệ Quốc Ðoàn làm chi cho mệt? Và cũng từ hôm đó, nó cởi trần, mặc quần đùi chạy ngoài đồng cát dang nắng ngày này qua ngày khác-Chỉ mấy ngày mà tóc tai, da thịt nó khét lẹt mùi nắng- Nó để đầu tóc bù xù, tóc phủ gáy. Trố như tổ quạ. Vốn là đứa sạch sẽ nhất đội, nhưng bây giờ nó tập ăn ở nhớp còn hơn cả Bồng-da-rắn là đứa nồi tiếng ở nhớp. Tay chân nó chỉ rửa qua quýt, móng tay móng chân ghét dắt đen kịt. Tối đi ngủ, nó học Châu-sém, Bồng-da-rắn rửa chân khô: Ngồi lên chõng, xoa xoa hai bàn chân vào nhau, vỗ đánh bép một cái, thế là xong. Ðêm đầu tiên ngủ theo lối "rửa chân khô", nó trằn trọc hoài không sao ngù được. Cái cảm giác gai gai, sạn sạn, nhớp nhúa ở hai bàn chân như ngấm khắp cơ thể nó, làm nó mất ngủ- Nó đổi bộ áo quần đẹp nhất của nó lấy bộ áo quần vá chằng vá đụp, hôi rinh rích của một thằng bé chăn trâu trong xóm- Lúc mặc bộ áo quần này vào người da thịt nó nổi hết gai ốc. Những hôm không phải đi liên lạc, nó ra bãi thả trâu, đánh bạn với bọn giữ trâu. Nó học cách gọi trâu lạc, nghé lạc: "Nghé ơi, nghé ơi!".. - Nó cỡi những con trâu đang nhởn nhơ gặm cỏ, nằm ép bụng lên lưng trâu để quần áo, da thịt nó ướp mùi trâu. Chỉ sau chưa đầy một tháng, Tư-dát gặp lại nó, suýt nữa không nhận ra- Tư-dát há miệng trợn mắt kêu lên: - Ui chao! Mi đó à Hiền? Vẻ sửng sốt, ngạc nhiên của Tư-dát làm Hiền thích thú hãnh diện ra mặt. Thích thú và hãnh diện không kém gì những người vốn nghèo khổ, rách rưới nay trở nên giàu có, trưng diện làm bạn cũ suýt không nhận ra. Trong ba đứa, nó đi bộ yếu nhất. Hồi còn ở nhà chân nó mấy khi rời khỏi được dép. Gót chân đỏ ong không có một vết nứt, một tí chai. Buổi đầu đi liên lạc lên chiến khu trở về, hai bàn chân nó sưng húp, gót chân nứt nẻ, rườm máu. Bồng-da rắn, Châu-sém thương nó quá. Hai đứa xúm lại chăm sóc. Đứa nấu nước nóng, đứa đi mượn chậu hòa muối cho nó ngâm chân. Hai đứa nhìn gan bàn chân nó, xót xa nói: - Úi chao, mi đi thêm vài lần nữa e què mất! Thôi để hai đứa tao đi thay cho. Thằng Hiền lắc lắc cái đầu tóc bù rối như tổ qua nói giọng ông cụ non: Hai đưa mi có đi thay lau cũng chỉ thay được năm bảy lần, chứ có thay được hết cả đời tau không? - Rứa mi định đi liên lạc hết cả đời mi à? - Ư, tau nghĩ kỹ rồi, tau phải rèn luyện cặp giò để làm chiến sĩ cách mạng như ông Minh-trâu mà thằng Lượm vẫn kể cho tau nghe. - Ông Minh-trâu là ông mô rứa? - Ông là đồng chí cách mạng với cha cậu Lượm. Ông tên Minh nhưng dáng người cục mịch đen đúa như cụ trâu, nên các đồng chí ông đặt biệt hiệu Minh-trâu. Hai đứa mi chưa biết chứ thằng Lượm là con nhà cách mạng nòi đó. Cha hắn làm chiến sĩ cách mạng từ thời tụi mình chưa đẻ, bị Tây bắt rồi vượt ngục mấy lần- Tụi mật thám Tây bắn chết cha hắn ở nhà tù Côn sơn lúc hắn mới có hai tuổi. Ông Minh-trâu làm chủ nhiệm Việt Minh huyện Hương Thủy. Hồi cách mạng tháng Tám, ông chỉ huy cả huyện nổi dậy cướp chính quyền. Ngày còn hoạt động bí mật, ông chuyên việc đi liên lạc cho Ðảng Cộng sản- Mà có phải đi liên lạc kiểu ấm ớ như mấy đứa mình từ đây lên chiến khu, từ chiến khu về đây mô? Ông đi phải đi từ Huế vô đến Công Tum Ðắc Lắc, rồi ra tới Nghệ An, Thanh Hóa. - Nhưng chắc ông ta đi mô, tàu hỏa? - Ði tàu hỏa Ô tô, thì nói làm chi! Ông toàn đi bộ, xuyên rừng mà đi! Mang toàn công văn tài liệu của Ðảng Cộng sản mà đi tàu hỏa, Ô tô, để mật thám tóm cho rồi đời à! Châu-sém, Bồng-da-rắn lè lười khiếp phục. Thằng Lượm kể chi ngó hai bàn chân ông cũng đủ biết ông đã đi bộ mấy nghìn mấy vạn cây số. Bàn chân to mà vuông như lưỡi cuốc tượng, Gan bàn chân dày cộm toàn chai, gót chân nứt nẻ như củ sắn bở luộc quá chín. Ði vấp phải mảnh lu, mảnh ghè, kêu cái cong! Làm chủ nhiệm Việt Minh huyện mà ông vẫn cứ đi đất, chẳng có thứ giày dép mô vừa chân ông ta cả.. Hiền nhúng hai bàn chân sưng húp, rát bỏng vào chậu nước muối nóng, mắt đăm đăm nhìn ra trảng cát chói nắng. Nó nói, giọng nghiêm trang như muốn thổ lộ một niềm tâm sự thầm kín, một nỗi áo ước nung nấu từ lâu: - Sau này lớn lên, nếu tau cũng được vào đảng Cộng sản, đảng có hỏi tau: "Ðồng chí Hiền muốn nhận công tác chi?". Tau sẽ xin với đảng: "Cho tui được đi liên lạc cho Ðảng như ông Minh-trâu". - Rứa mi không đi làm xiếc nữa à? - Bồng-da-rắn thật thà hỏi? - Xiếc xót chi! Tại hồi đó còn con nít nên tao hay thích loăng quăng. Nó làm như bây giờ nó đã người lớn lắm, và cái hồi còn thích đi làm xiếc ấy đã cách đây hàng bao nhiêu năm. Châu-sém và Bồng-da-rắn cũng lây niềm mơ ước sôi nổi của nó. Hai đứa cùng nói: - Lớn lên tau cũng sẽ xin vô Ðảng Cộng sản như mi. - Có được không mi hè? VÔ Ðảng Cộng sản là phải tài giỏi lắm, chứ mấy đứa liên lạc ấm ớ như tụi mình thì ai cho vô. - Châu-sém nói. - Ðể hôm mô gặp anh Ðồng-râu tụi mình hỏi thử coi- Giọng Hiền lộ vẻ băn khoăn. - Tau nghe lỏm mấy anh trên ban Tham mưu trung đoàn nói anh đồng-râu là Ðảng viên Cộng sản từ thời còn bí mật. Bồng-da-rắn nói: - Thằng Vịnh-sưa mà còn sống nhất định hắn phải được vô đảng Cộng sản- Hồi ở mặt trận Xê, tao hay nghe các anh lớn bàn nhau: Vô đảng Cộng sản trước hết là phải anh dũng. Cách mạng cần việc chi, làm việc đó Chết cũng không sợ. - Nó bỗng la lên, hết sức bất ngờ: - Có hai con gà trống nhà ai đang đá nhau ngoài ngõ ghê quá bây ơi Ta ra coi đi! Thế là cả ba đứa chạy ùa ra ngõ, xúm quanh đôi gà trống nhà ai đang cơn say máu chọi nhau, cánh đập phành phành, bụi đất, lông, bay mù. Mỗi cú đá hay, ba đứa đều nhảy dựng lên, cười reo, hoan hô, cổ vũ. 12 Lượm và tư-dát sửa soạn lên đường trở lại Huế thì châu-sém từ chiến khu về, tay xách ba đòn bánh tét khá to. Nó reo lên mừng rỡ: - Hay quá? May tau về vừa kịp không thì ba đòn bánh tét ni để mấy hôm chờ mi, thiu mất. Lượm hỏi: - Bánh chi đó? - Giết giặc! Lượm hiểu ngay trong ruột bánh là báo "Giết giặc", tờ báo kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên. Ngoài ba đòn "Giết giặc còn bốn đòn" truyền đơn đưa về Sịa từ hai hôm trước. Hai đứa phải mang cả bảy đòn này đưa về Huế. Tư-dát cười hề hề: - Mấy ông Tham mưu trung đoàn mất lập trường quá. Vệ Quốc đoàn mình thì đói vàng mắt lại cứ gửi bánh tét hết đòn to, đòn nhỏ cho Tây với Việt gian ăn! Hiền hỏi: - Truyền đơn rải còn dễ chứ báo Giết giặc thì tụi bay làm răng? Lượm nói: - Lúc đầu tụi tau cũng lúng túng lắm, không biết làm cách chi để đồng bào đọc được- Nếu đem rải như truyền đơn thì tờ báo to rứa, ai dám lượm? Sau anh Tư-dát nhà mình, - nó đưa mắt nhìn Tư-dát cười, - nghĩ được một mẹo- Mua báo Bình minh của tụi Việt gian, khổ cũng vừa in tờ Giết giặc, cắt lấy đầu đề báo, dán thay vô đầu đề báo Giết giặc. Rứa là mũ thì Bình minh mà đầu thì Giết giặc. Ba đứa tau cứ việc chia nhau báo, đem đi đón công khai giữa ban ngày, dán đúng vô những chỗ tụi hắn thường dán báo- Ðồng bào xúm xít tha hồ đọc. Hiền, Châu-sém, Bồng-da-rắn ôm lấy Tư-dát vật xuống đất, cù cho một trận. - Trời ơi, mi khôn thiệt! Mi cũng là loại cách mạng nòi. Tư-dát lăn lộn dưới đất cười chảy cả nước mắt đứt dây lưng quần thì ê chề lắm! Lượm hỏi Châu-sém: - Tình hình chiến khu dạo ni ra răng? Ðội mình còn ở trên đó hay về đồng bằng hoạt động? - À, tau quên chưa nói cho tụi bay biết. Tụi tây vừa kéo lên đóng đồn ở Ðất đỏ, cách chiến khu chỉ non bốn cây số Nghe nói tụi Tây đóng đồn ni toàn là quân thiện chiến nhất nhì Ðông Dương- Tụi hắn muốn chặn ngang cổ họng chiến khu, không cho đồng bằng tiếp tế lên. Nhìn thấy vẻ mặt lo lắng bồn chồn của các bạn, nó nói thêm như an ủi. - Nhưng ăn thua chi! Chặn đường đó ta đi đường khác. Chán vạn chỉ đường! Chừ nhà cửa chiến khu mọc lên nhiều lắm. Có cả bệnh viện, xưởng bào chế, xưởng quân giới, nhà Văn hóa đại chúng to rộng như cái đình. Còn đội mình không ở trong núi xanh nữa mà ra làm lán ngoài tiền chiến khu, ngay trên bờ sông Ô Lâu. Các tổ được phân công về đồng bằng hết. Tổ bám đường quốc lộ theo dõi xe cộ giặc đi lại hàng ngày, tổ bám vị trí giặc nắm tình hình tin tức càn quét, hành quân. Công việc tụi hắn cũng vất vả gớm lắm bay ạ. Cả đội chỉ còn lại thằng Mừng với thằng Quỳnh-sơn-ca ở nhà làm liên lạc cho đội trưởng. Hai đứa nhỏ mà đau luôn, nên đội trưởng bắt phải ở nhà. Tụi hắn khóc đã gớm. Ðội trưởng phải mua chè sắn dỗ mãi mới chịu nín. Thằng Mừng dạo ni chăm học lắm. Mấy lần lên chiến khu, tau đều gặp hắn ngồi trước cửa lán, cầm tờ báo Giết giặc, đánh vần đọc ê a. Lần vừa rồi lên, tao thấy hắn đang cởi trần phơi nắng, giăng áo ra bắt rận. Tau ngứa miệng nói chơi. "Mi đọc báo Giết giặc đó à? Có tin chi hay không?" Hắn cau mặt, xạc tau luôn: "Anh ăn nói ba láp quá! Ai lại đi ví cái áo rách đầy rận ni với tờ báo của Chiến khu giết giặc. Ui chao, giọng hắn răng mà giống đúc giọng thằng Vịnh-sưa hồi ở Huế. Thằng Quỳnh-sơn-ca mới làm được bài hát" Sông Ô Lâu kháng chiến ", hay lắm. Cả chiến khu ai cũng hát- Trung đoàn trưởng, chính ủy đều khen hay- Trung đoàn trưởng có viết thư gửi anh Dồng-râu đây, dặn anh mua cái đàn, măng tre" "măng lồ-ô" chi đó, lần sau tụi bay mang ra đây để tao xách lên cho ông, ông thưởng cho hắn. Châu-sém moi trong cán cái roi trâu ra một mảnh giấy cuộn tròn đưa cho Lượm- Tư-dát cầm đọc thư của Trung đoàn trưởng gửi anh Ðồng-râu, dặn anh tìm mua một cái đàn măng-đô-lin loại thật tốt, để thưởng cho em Quỳnh-sơn-ca đã có công sáng tác được một bài hát hay về dòng sông Ô Lâu, dòng sông của chiến khu cách mạng. Tư-dát cười ngặt nghẹo: - Ðàn măng-đô-lin mà mi nhớ ra thành đàn măng tre, măng lồ-ô, thì đến Bụt trên chùa cũng không nhịn được cười! Châu-sém, cũng cười: - Thì ai biết mô, cứ nghe nói măng là tao nghĩ là măng tre, măng lồ-ô, chứ cái măng-đô-lin thì cha ai mà nhớ được. Ổng thử dặn tau mua cá coi. Có giống cá trời tau cũng nhớ! 13 Sắp đến gần cầu ván Mậu tài, Lượm nói với Tư-dát: - Mi đưa bánh tét đây tao xách cho. Mi đi trước chừng trăm bước, giả đò bắn ná. Thấy có chi động dạng thì giương ná lên như sắp bắn, ra hiệu cho tao biết. Tư-dát trao bảy đòn bánh tét cho Lượm, rút ná cao su trong túi ra, lắp đạn, đi vượt lên trước. Bước lên cầu ván, Tư-dát lại gặp thằng Tặng ngồi vắt vẻo bên mép cầu câu cá. Lúc sáng qua đây, hai đứa đã gặp nó ngồi ở đó rồi. Lượm giới thiệu Tặng với Tư-dát. Hôm trước nó đã kể chuyện cho cả tổ nghe trường hợp oái oăm nó làm quen với thằng Tặng. Bây chừ được gặp mặt, Tư-dát thích lắm, cười nói: - Không khéo mi rồi thành ông Lã Vọng mất. Lã Vọng là việc chi không biết, chỉ biết là mới sáng hôm qua, thu tóm được một thằng Vê-giê đi qua đây Vê-giê chính cống chứ không phải loại Vê-giê ấm ớ như thằng ni mô. - Tặng cười khì khì chỉ vào Lượm. Lượm sờ cằm: - Ðúng là đánh nhau bể đầu mới nhận ra anh em chú bác. Cằm tau vẫn còn hơi ê ê. - Rứa cho hai đứa bay đứng chờ đây, tau chạy về nhà chặt cây mía đến ăn là hết ê ê ngay. Nó định đứng lên chạy về nhà chặt mía, nhưng Lượm nói: - Thôi Tặng ạ, để khi khác. Lần này hai đứa mình có việc vội lắm, phải đi ngay cho kịp. Tặng nhìn hai đứa, vẻ ái ngại: - Cuộc đời vê cu-đê coi bộ cũng tất tả gớm hè! Tư-dát vừa cười vừa ngâm nga: "Ðời cách mạng từ đây tui đã hiểu. Dấn thân vô là phải chịu tù đày- Là gươm kề tận cổ súng kề tai" Mi chưa nghe nói đó à? - Nó bỗng nhìn xuống nước kêu ầm lên: Giật! Giật! Phao chìm rồi! - Nó chộp lấy cần câu trong tay Tặng, giật phắt một cái thật mạnh làm lưỡi câu dính con cá rô văng ngược lên cành si và mắc luôn trên đó. Con cá bị treo mỏ giẫy giụa như điên, làm chỉ câu càng quấn chặt thêm vào cành si. Tư-dát xắm nắm định trèo lên gở. Tặng nói: - Ðể đó tau gở cho. Hai đứa bay cứ đi đi cho kịp công việc. Này! Cái đời cách mạng chi mi vừa đọc đó, mi viết giúp cho tau vô tờ giấy, tao đánh vần đọc chơi nghe! Ðó là thơ, - Tư-dát nhìn Tặng ngạc nhiên, - mi cũng thích thơ à? Bài đó dài lắm, để tau chép hết cả bài cho mi, tha hồ đọc. - Nì, có viết nhớ viết rõ rõ mà chữ to vô nghe. Ðây mới học bình dân, chữ thảo mà ngoằn ngoèo như chỉ câu rối là đây xin hàng đó nghe! Nghe nó nói, tự nhiên Tư-dát thấy gương mặt Tặng trở lên sáng sủa, thông minh và dễ thương quá chừng. Bây giờ trở về, nhìn thấy Tặng ngồi câu, Tư-dát mới chợt nhớ là quên chưa chép thơ cho nó. Tư-dát cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ. Bên cạnh chỗ ngồi. Tặng để sẵn hai đẵn mía tím, gióng rất dài, chặt rất đều như đo mà chặt. Hai đẵn mía để dằn lên một tờ giấy trắng khổ rộng, có kẻ dòng. Tư-dát hỏi: - Ðược mấy con rồi? - Một trê, một diếc. - Tặng cầm một đẫn mía đưa cho Tư-dát. - Phần của mi. Còn đây là tờ giấy để mi viết thơ đời cách mạng. Tư-dát xua tay: - Thôi, thôi, giấy thì ở Huế thiếu chi. Mi để đó mà học. Lần sau đi qua đây tau nhất định sẽ mang thơ cho mi. Tau sẽ chép đẹp như chữ in, không cần biết chữ cũng đọc được? Thằng Lượm đang đi sau kia- Chừ tao phải đi cái đã.. Tau làm nhiệm vụ xích hầu. Tư-dát vừa xướt mía ăn vừa vượt nhanh qua cầu để giữ đúng cự ly một trăm bước. Lượm bước lên cầu. Tặng đứng lên, đưa mía cho Lượm. - Cây mía ni tau chặt đúng cái bụi cây lần trước đó. Ngọt hết chê! Tặng chợt nhìn trật xuống xách bánh tét trong tay Lượm bằng cặp mắt ranh mãnh. - Bánh tét mua à? - Không- Của bà cụ quen ở Sịa gửi cho con gái bán hàng nước ở Cầu Ðông Ba cũ. Tặng cười tủm tỉm: - Bà cụ cậu quen chắc là hay lừa đảo ghê lắm Bánh gửi cho con gái ngó bộ thì to, mà xách thì nhẹ bỗng. Chắc bên trong, bà chỉ độn toàn giấy nhật trình. Nhận xét của Tặng làm Lượm giật bắn người. Ðó là một sơ xuất mà nó và tổ liên lạc không nghĩ ra. Những đòn bánh tét này xách quá nhẹ. Nó nói, giọng khâm phục: - Cậu mà làm Việt Minh thì chết cha Việt gian! Cậu mà làm Việt gian thì chết tổ Việt Minh? Nhưng cho biết làm răng hè? Không thể mở ra mà chêm thêm đá vô cho nặng được.. Mà cứ xách kiểu ni về đến Huế, lỡ gặp phải tụi kiểm soát cũng khôn như cậu thì rồi đời. Tặng nghênh nghênh cái đầu húi "cua" gần như trọc, cái trán nhăn, vẻ nghĩ ngợi: - Ừ gay thiệt! Mở ra thì lôi thôi lắm. Chỉ còn một cách lả phải giả đò xách nặng.. Tặng cầm lấy xâu bánh tét trong tay Lượm, đi thử qua cầu. Một vai nó lệch về một bên, bàn chân phía tay xách dẫm lên ván cầu vẻ nặng hơn hẳn bàn chần kia. Lượm nhìn theo càng thêm cảm phục: "Trời ơi, điệu bộ nó mới tuyệt chứ! Nhìn đúng như nó đang xách xâu bánh tét thật, nặng hàng bảy tám kí lô"! Tặng vòng lại đưa xâu bánh tét cho Lượm: - Cậu đi đi, không thì về đến Huế tối mất! Xách xâu bánh tét, qua khỏi cầu được một đoạn. Lượm quay đầu lại. Tặng đang đứng giữa cầu nhìn theo cười ranh mãnh, đầu gật gật như có ý bảo- "Ðược đó, Ðược đó" đi như rứa được đó! Cứ rứa mà đi nghe? ". 14 Nguyễn Trì đội mũ phớt, đeo kính rậm, mặc bộ áo quần ga-bạc-đin màu tro, ngồi vắt chéo chân trong tiệm cà phê nhỏ mới mở, cách cầu Bao Vinh chừng ba trăm thước. Hai tên nhân viên di động đứng ở bên kia đường. Mỗi đứa dựa lưng vào một gốc cây, cách nhau vài trăm thước, vẻ như người đi đường dừng lại nghỉ chân. Ba tên chó săn rình phục ở đây từ lúc một giờ ba mươi phút chiều. Coi bộ cả ba bồn chồn nóng ruột lắm. Nguyễn Trì ngồi khuất sau tấm rèm cửa sổ nhìn ra đường, một tay lần lần trên má nặn trứng cá, mắt hết nhìn phía cầu Bao Vinh lại nhìn đồng hồ đeo tay. Hắn đã gọi đến cốc cà phê thứ ba, đốt hết điếu thuốc lá này đến điếu khác. Theo lời khai của thằng Kim thì tên Lượm thường đi liên lạc về Sịa vào lúc mười giờ sáng và trở lại Huế khoảng ba bốn giờ chiều. Sao đến bây giờ đã gần bốn rưỡi, vẫn chưa thấy bóng hắn mò về? Hay nó về rồi nhưng bằng con đường khác? Hay chiều nay nó không về? Mỗi lúc hắn càng thêm tức tối nóng ruột." Ông nội mi! - Hắn gầm gừ chửi thầm, - tau mà tóm được, trước tiên tau phải cho mi rụng hàm răng cửa? "Bàn' tay hắn đang đặt trên đùi siết lại thành nắm đấm. Cánh tay giật giật như lên cơn động kinh- Hắn khoái trá tưởng tượng đến cái phút được giáng cật lực nắm đấm vào miệng cái thằng đã từng làm cho hắn phải vô cải hối thất hồi ở Trung đoàn bộ.. - Tự nhiên hắn nhếch mép cười gằn, làm o bán hàng cà phê liếc nhìn hắn, lo lắng, ngơ ngác. Toàn bộ con người hắn, từ diện mạo đến cử chỉ toát ra cái vẻ hung hãn, liều lĩnh của kẻ phản bội, quyết bán mình cho giặc, vì tiền bạc và cả vì thù hận. Ngày Huế vỡ mặt trận, hắn theo đơn vị chạy ra đến Hiền Sĩ thì bỏ trốn. Hắn quanh quẩn trong vùng này cho đến ngày bọn Pháp tràn đến. Hắn ra hàng giặc và tâng công bằng cách chỉ cho chúng bắt và bắn chết ba chiến sĩ bị thương không rút kịp, sống trà trộn trong dân- Hắn lại chỉ cho giặc đào được hai khẩu đại liên- hốt kít của đại đội liên pháo chôn giấu, mà do một sự tình cờ hắn biết được. Bọn giặc đưa hắn về Huế và cho làm trưởng ban Di động Ty An Ninh. Thật ra, trong nghề mật thám, hắn chẳng có tài ba gì, chỉ là loại lính mới tò te. Nhưng được cái hắn rất táo tợn, liều lĩnh và hay gặp vận may- Như việc bất ngờ gặp chú em nuôi sáng nay chẳng hạn. Sau vụ quân ta đột kích đồn Hộ Thành và rải truyền đơn, dán báo Giết giặc, bọn Pháp hết sức lo lắng và tức giận- Vì ảnh hưởng của vụ này trong dân chúng quá lớn. Ba tổ chức mật thám của Pháp và ngụy quyền. Phòng Nhì, sở Mật thám Liên bang và Ty An Ninh dưới sự chỉ huy chung của tên quan ba mặt thám Sô-lê, đã huy động gần hết lực lượng tác chiến để điều tra manh mối. Quan ba Sô-lê còn treo giải thưởng ba ngàn đồng Ðông Dương cho nhân viên nào phát hiện và bắt được những kẻ có liên quan trong vụ này. Nhờ gặp chú em nuôi mà món tiền thưởng đó. Nguyễn Trì coi như đã cầm chắc trong tay. Sau khi cùng với đội hành động bắn chết anh đồng-râu ở Vĩ Dạ. Nguyễn Trì dẫn hai nhân viên di động về phục ở đầu cầu Bao Vinh để đón bắt Lượm trên đường từ Sịa về Huế. Hắn rất hy vọng sau vụ này, sẽ được bọn Pháp cất nhắc lên chức phó ty An ninh. Chính trong cái phút hắn đang mơ màng danh vọng đó, thì Tư-dát đi ngang qua trước quán cà phê mà hắn không để ý! Trước hết, hắn không biết mặt Tư-dát. Và cũng theo lời khai của thằng Kim thì Tư-dát thường ở nhà với đồng-râu, Lượm chỉ đi liên lạc 1 mình về Sịa lúc vây bắt Ðồng râu không tìm thấy Tư-dát. Hắn đoán thằng Tư-dát được sai đi đâu đó nên đã may mắn trốn thoát. Sổng mất, Tư-dát, hắn có ý tiếc, nhưng tự an ủi:" Bắt được thằng Lượm, là coi như bắt được tất cả ". Theo lời khai của Kim-điệu, trong ba đứa- Lượm được đồng-râu tin cẩn nhất. Nó tuy nhỏ nhưng là dân" cách mạng nòi ". Cha nó làm cộng sản bị Tây bắn chết từ khi nó mới lên hai tuổi. Sau ngày Cách mạng tháng Tám, tên cha nó được dân làng đặt tên cho con đường chính chạy qua làng. Nó được đồng-râu giao riêng việc liên lạc với chiến khu. Nhiều việc bí mật, Ðồng-râu chỉ cho một mình nó biết. Bao nhiêu truyền đơn, báo Giết giặc, đều do một tay nó đưa về Huế- Trận đánh đồn Hộ Thành đêm qua nó cũng được Ðồng-râu cho biết trước và có thể chính nó đã dẫn đường cho Vệ Quốc đoàn lọt vào thành nội. Việt Minh đột nhập nội thành bằng đường nào, và bằng cách nào? Rút ra đường nào? Đã rút ra hay còn lẩn quất trong thành nội? Chắc là nó biết rõ. Sáng nay, trong phòng tra tấn của Ty An Ninh, thằng Kim chỉ mới nếm sơ mấy quả đấm của Năm-ngựa, đã phun ra không thiếu một điều gì. Để nhẹ bớt tội bao nhiêu việc lớn nhỏ, có nhiều việc nó bịa đặt thêm thắt, trút hết lên đầu Lượm. Bởi vậy, cả ty An ninh và Sở Mật thám Phòng Nhì Pháp hết sức quan tâm đến việc phục bắt Lượm." Trần Lượm, một tên tình báo Việt Minh hết sức lợi hại và nguy hiểm. Nếu bắt được hắn, sẽ khám phá ra nhiều tổ chức hoạt động bí mật của Việt Minh trong thành phố Huế"Viên chủ sự Ty An ninh đã điện cho quan ba mặt thám Sô-lê như vậy.
Chương 11 Bấm để xem 15 Làm nhiệm vụ đi trước dò đường (mà Tư-dát thích gọi là xích hầu) từ cầu Ván làng Mậu Tài đến cầu Bao Vinh, Tư-dát không gặp qua một trạm kiểm soát, một tên lính Bảo vệ quân hoặc cảnh sát nào. Lúc đầu nó có vẻ ngạc nhiên, tự hỏi: "Ơ! Tụi hắn chết rấp mô hết rồi?". Nhưng nó sực nhớ chiều hôm nay là chiều thứ bảy. Nó à một tiếng ngoác miệng cười. Rứa mà quên mất, Giờ ni chắc cha con tụi hắn đã về đi la-mát với vợ con cả rồi. Ði mần mật thám cho Tây kiếm ba miếng bơ thừa sữa cặn, có mô mà tích cực như mình đi mần cách mạng? "Tư-dát nghĩ vậy và lơ là dần nhiệm vụ xích hầu. Thế rồi, càng đi gần về Huế nó càng bị cuốn hút vào cái thú say mê bắn chim. Phải công nhận nó quả là thiện xạ. Vừa đi xích hầu vừa bắn mà nó hạ được bốn con chào mào và một con cu gáy, buộc chân xách một xách lủng lẳng. Đấy là chưa kể một con bói cá và một con chim gáy rơi quá xa đường cái, nó không dám bỏ quên nhiệm vụ chạy đi nhặt. Suốt đọc đường nó cứ xuýt xoa tiếc mãi. Lúc Tư-đát đi qua quán cà phê. Nguyễn Trì cũng nhìn thấy nó, nhưng nhìn xâu chim nó xách nhiều hơn. Hắn định gọi vào hỏi mua, nhưng nhớ đến công chuyện đang chờ, nên thôi. Say men thắng lợi, Tư-dát mắt cứ nghếch lên các ngọn cây tìm chim. Ði đến cây mù u có tên An ninh đứng dựa lưng rình, nó phát hiện thấy con cu xanh đậu khuất trong vòm lá ngọn cây. Trống ngực nó nện thình thình. Mặt nó bạc trắng đi vì hồi hộp. Nó cúi lom khom, thận trọng rón rén từng bước một, đến sát gốc cây tìm chỗ bắn thuận tiện. Mắt nó bị hút chặt vào cu xanh trên cao, nên chẳng chú ý gì tới cái thằng người mặt mũi khả nghi đang đứng sát ngay bên cạnh- nó nói lào thào, không nhìn mặt tên An ninh: Anh nhè nhẹ bước lui cho tui một chút, tui bắn con cu xanh trên ngọn kia. Chính cái vẻ say mê quá quắt của nó đã làm cho tên mật thám không chút ngờ vực- Hắn không ngờ cái thằng bé lẻo khoẻo lèo khoèo, mồ hồi mồ kê nhễ nhại này chính là người mà hắn đã mất công rình rập suốt ba tiếng đồng hồ qua. Hắn bước lui hai bước nhường chỗ cho Tư-dát. Và trong khoảnh khắc, hắn cũng quên béng cả công việc, căng mắt hồi hộp theo dõi cú bắn của Tư-dát. Tư-dát nghiêng nghiêng đầu giương súng cao su lên, kéo hết mức, mắt trái hơi nheo lại để lấy đường ngắm. Phụt Viên sỏi bay vút lên ngọn cây Tên nhân viên An ninh nhảy lên kêu: Trúng cha nó rồi! Con cu xanh nhào ra khỏi ngọn cây, lúng liếng chao đảo giữa khoảng không một tí rồi bất ngờ lộn nhào rơi xuống đất, cách chỗ Tư-dát đứng khoảng một trăm mét. Chính lúc đó, Lượm xách bảy đòn bánh tét, lệch vai đi gần đến quán cà phê. Nó nhìn hút theo Tư-dát đang chạy vồ chụp con chim vừa bắn được, bực bội nghĩ: Thằng ni bậy quái Mải bắn với biếc, chẳng còn chú ý chi tới nhiệm vụ". Nguyễn Trì vừa nhác thấy bóng Lượm đi đến, hắn mừng run cả người. Bước ra khỏi cửa quán cà phê, hắn đứng chắn ngang giữa đường- Khi Lượm chỉ còn cách dăm ba bước chân, một tay hắn thọc túi quần một tay lột kính râm. Hắn trừng mắt, gằn giọng hỏi Lượm: - Mi đã nhận ra tao là ai chưa? Lượm đứng sững lại? Buột miệng gọi: - Nguyễn Trì! - Phải. Đúng là ông nội mi đây! Chỉ một loáng Lượm vụt hiểu ngay cái thằng quản lý cũ mình đã cho vô tù một lần vì tội ăn cắp gạo của Vệ Quốc đoàn này định làm gì mình. Nó quay ngoắt lại, co giò định chạy. Nguyễn Trì nhào tới thộp cổ áo nó giật ngược lại. Hắn rút súng dí sát trán Lượm quát: - Đứng im Mi mà chạy tau bắn bể tan óc mi ngay. Những người đang uống trong quán cà phê, thấy chuyện lạ đổ xô ra xem. Hai tên nhân viên đi động từ xa cũng nhào tới, trong tay lăm lăm khẩu súng. Lượm thấy cơ sự hỏng mất rồi, không còn cách gì thoát được nữa. Chính nó cũng tự lấy làm ngạc nhiên không thấy sợ hãi lắm như từ trước đến nay nó vẫn tưởng trong hoàn cảnh này. Nó nghĩ ngay đến Tư-dát: Tư-dát đang ở đằng kia, lớ ngớ có thể bị bắt theo mình. Để đánh lừa cả bọn mật thám, nó ngoái mặt về phía cầu Bao Vinh, la to: - Tau bị mật thám bắt rồi Chạy đi Tư-dát ơi! Nguyễn Trì đấm một cú như trời giáng vào giữa mặt Lượm. Nó ngã dúi, máu mũi ộc ra. Hai tên di động bẻ quặt cánh tay Lượm, gối thúc vào lưng. Một tên rút đoạn dây điện thoại trong túi quần trói Lượm. Phía đầu cầu Bao Vinh có một tốp con nít bán đậu phụng rang, kẹo gừng, đứng lố nhố trước cái tiệm bán bún bò giò heo- Nguyễn Trì hất hàm về phía tụi con nít, bảo hai tên nhân viên di động: - Chạy mau lại tóm cổ tất cả cái tụi bán kẹo gừng đậu phụng rang kia lại đây cho tau. Đứa nào chạy cứ việc bắn què cẳng. Tội vạ đâu tau chịu! Hai tên mật thám cầm súng lăm lăm, chạy ào đến phía cầu Tụi con nít từ xa nhìn lại, nháo nhác chưa hiểu chuyện gì. Một thằng bỗng kêu lên- "Hai anh tê định đến bắt tụi mình bay ơi!". Thế là tất cả té tác bỏ chạy làm đổ tung tóe ra đường nào đậu phụng rang, nào kẹo gừng.. Tư-dát nhặt được con chim cu xanh vừa bị nó bắn hạ, đang mải vạch vạch lông bụng coi đạn trúng chỗ mô, thì chợt nghe tiếng Lượm kêu thét đằng sau. Nó quay lại, thấy Lượm đã bị trói giật cánh khỉ, xung quanh người đứng lố nhố. Nó hoảng sợ đến không nhúc nhích được tay chân. Xâu chim cầm trong tay rơi bịch xuống đất. Thấy đám người đều mải nhìn về phía cầu Bao Vinh Tư-dát hơi hoàn hồn, bước thụt lùi mấy bước. Gặp một con đường ngang, nó rẽ luôn, chạy biến. Lượm làm như bị trói quá đau, thả nhẹ đầu bánh tét xuống đường. Nó dạng hai chần như muốn che khuất để một người nào đó tưởng bánh thật, lén xách đi. Nhưng Nguyễn Trì cúi ngay xuống, xách xâu bánh lên. Nhẹ bỗng. Hắn mở lạt tháo tung ra một đòn. Cả mấy trăm tờ truyền đơn xổ xuống mặt đường, trắng xóa. Những người đứng xem dạt hết ra chung quanh, _ một vài người cúi lén nhặt- Nguyễn Trì liếc đọc qua một tờ. Cái bản mặt bầm tím mụn trứng cá, càng tối sầm lại vì căm tức. Hắn đấm liên tiếp vào mặt Lượm gầm ghè: - Gớm thiệt! Gớm thiệt! Lượm ngã sấp mặt xuống đường. Những người đứng xem phải quay mặt đi không dám nhìn. Họ tản đi rất nhanh vì sợ liên lụy. Hai tên nhân viên di động trở lại, điệu theo một thằng bán kẹo gừng, trạc mười hai, mười ba tuổi. Thằng bé chỉ đứng đến ngang tai Lượm, đầu nhỏ như đầu chim, đội cái mũ phở méo mó, lỏng lẻo, úp sụp xuống che kín cả mắt nên chốc chốc nó phải đưa tay đẩy vành mũ lên cao. Hai vai nó hẹp một mẩu, cánh tay, cẳng chân gầy và thẳng đuỗn như que diêm. Nó mặc cái áo sơ mi đà cộc tay và cái quần đùi xanh đã cũ nhưng vẫn còn lành lặn- Nó đeo trước bụng một rá kẹo, còn đầy, trên rá đậy cái mẹt lật ngửa, để chừng chục cái kẹo làm hàng mẫu. Nhìn cái dây đeo rá kẹo cũng đủ biết nó là đứa bán kẹo gừng chuyên nghiệp. Cái dây gai bện rất khéo đen bóng vì mồ hôi tay. Chỗ đeo vào cổ được lót thêm một miếng da cũ. Nó bị bắt vì chạy chậm nhất, hai tay lại còn bận ôm giữ rá kẹo cho khỏi đổ. Nó ngơ ngác, khiếp đảm, không hiểu tại sao mình bị bắt. Nó mếu máo khóc hu hu, van lạy hai tên An ninh. - Em lạy các anh trăm lạy, các anh tha cho em! Hu. -. Hu.. hu. - Ði! Một thằng đá phốc vào mông nó làm nó suýt ngã chúi về đằng trước. Về phòng tra tấn rồi tha hồ mà khóc. Ba thằng mật thám dong Lượm-sứt và thằng bán kẹo gừng về phía bến đò qua sông Hương. Gương mặt lượm sưng húp, nhoe nhoét bụi đất và máu. Nó liếc nhìn thằng bán kẹo gừng đi bên cạnh lòng không khỏi mừng thầm. "Tội nghiệp". Nó nghĩ bụng: Thằng ni vô phúc phải thế mạng anh Tư-dát đây. May quá, rứa là anh Tư-dát trốn thoát. Không biết hắn có khôn ngoan, chạy ngay về Vĩ Dạ báo cho anh đồng-râu biết để dời địa điểm ". Suốt dọc đường, nó cứ băn khoăn tự hỏi:" Tại răng thằng Trì lại biết mình đi qua đây để chặn bắt! Ai làm lộ? ". Một mối ngờ vực bỗng loé lên trong óc nó:" Nguyễn Trì hồi ở Trung đoàn bộ là anh nuôi của thằng Kim.. hay là.. ". Người ở các nhà dọc phố lấp ló ở cửa nhìn ra. Có mấy ả gái điếm cười toe toét hỏi ba tên mật thám: - Hai cái của nợ nó mắc tội chi mà các anh bắt trói dữ dằn rứa? Nguyễn Trì vênh mặt, chỉ Lượm nói với mấy ả: - Việt Minh đầu sỏ đó các em ơi? Đánh Hộ Thành, rải truyền đơn, ám sát lý trưởng, là chính nó đấy. Nó là tay chân đắc lực của cái thằng râu ria xồm xoàm bị các anh bắn chết dưới Vĩ Dạ trưa ni, đang phơi xác ở đầu Ðập Ðá đó. Ðang đi Lượm bỗng đứng sững lại. Trời đất như bỗng tối sầm trước mắt nó. Ðôi môi dập nát tái nhợt, run rẩy như muốn kêu lên một điều gì mà không sao kêu được. Ðầu óc Lượm choáng váng như bị nện một báng súng đúng giữa đinh đầu. Nó phải gắng gượng hết sức mới không té xỉu xuống mặt đường. 16 Trận đột kích đồn Hộ Thành chỉ là một trận đánh nhỏ nhưng tiếng vang và ảnh hưởng của nó trong nhân dần thành phố Huế và cả tỉnh Thừa Thiên rất lớn: Bởi vậy việc phát hiện được tổ quân báo nội thành của Trung đoàn chủ lực Thừa Thiên làm cho bọn giặc hết sức hý hửng. Chúng phóng đại kết quả và tuyên truyền rùm beng để chống lại ảnh hưởng của trận đánh. Dân chúng thành phố Huế hết sức quan tâm và bàn tán xôn xao về vụ bắt bờ những đội viên quân báo. Nhiều người kéo đến Ðập Ðá để nhìn xác anh đồng-râu. Sau hai ngày hai đêm phơi sương phơi nắng, xác anh trương phù và đen bầm, nom hết sức ghê rợn. Nhiều người phải quay mặt đi vì không nén nổi nước mắt. Họ nghiến răng căm hờn nguyền rủa hành động bạo ngược của quân cướp nước và b*n n**c. Suốt mấy ngày liền, báo Bình Minh liên tục đăng tin về vụ bắt bớ này. Bọn trẻ bán báo ôm nhũng cặp báo, rao inh ỏi cả thành phố. Chẳng mấy chốc những cái tên Ðồng-râu, Lượm-sứt, Kim-điệu, Tư-dát được cả thành phố nhớ và thuộc. Tiếng rao báo vẳng đến tận phòng tạm giam của ty An ninh, nơi Lượm và thằng bé bán kẹo gừng cùng với hơn ba chục người tù khác đang bị tra tấn chết đi, sống lại. °°° Phòng tạm giam của ty mật thám An ninh vốn là dãy nhà bếp một công sở cũ của ủy ban cách mạng Thành phố Huế. Công sở này, sau ngày chiếm đóng Huế, chúng biến thành cơ quan ty An ninh. Dãy nhà bếp nằm cách ngôi nhà chính cái sân rải đá dăm, dài và hẹp. Cuối sân là khu vườn rộng cỏ dại mọc lút người, bao quanh tường cao cắm mảnh chai. Bấu vào tường ở góc vườn là dãy nhà xí. Khu nhà này trong suốt thời gian quân ta bao vây Huế hoàn toàn bị bỏ trống nên hoang phế, tiêu điều và hết sức bần thỉu. Bọn ty an ninh chỉ mới dọn dẹp qua loa. Dấu tích tiêu điều hoang phế vẫn còn in đậm khắp nơi, từ trong nhà ra đến sân, vườn. Phòng tạm giam rộng chừng hai mươi lăm mét vuông, nền gạch vở nát, tường và mái ngói bồ hóng bám đen kịt, đóng thành cục thành hòn trên rui mè xà gỗ. Ba phía tường xây kín mít, phía cửa ra vào, ngoài lớp cửa cũ, chúng ốp thêm mấy cánh cửa lớn bằng gỗ lim dày có thêm sắt tán đinh (chúng dở từ một nhà kho nào đó). Chúng chỉ thừa một khoảng vừa người qua lọt và đóng mở bằng tấm cửa chấn song sắt, quấn hai vòng xích lớn với cái khóa bằng nắm đấm. Nhìn toàn cảnh, phòng tạm giam hao hao giống cái chuồng nhốt thú dữ. Trong cái chuồng kiên cố, tối tăm, nhớp nhúa ấy, chúng nhốt hơn ba chục con người. Quá nửa là thanh niên, số còn lại trạc trung niên, một ông già và bây giờ thêm Lượm và thằng bán kẹo gừng mà chúng cứ gọi bừa là Tư-dát. Hầu hết số người này chúng bắt được trong các trận vây ráp ở nhiều địa phương trong tỉnh. Chúng đưa về đây để tra tấn, lấy cung. Không một người nào mặt mũi còn lành lặn. Mắt họ sưng húp, má tím bầm, môi sưng vều dập nát, răng gãy, tai rách, áo quần rách tướp.. Họ nằm chen chúc trên nền gạch thủng vỡ, lồi lõm. Người lót mảnh bao bố, người manh chiếu, hoặc tờ báo. Nhiều người nằm trần trên nền gạch ướt nhơm nhớp. Thinh thoảng họ lại hứng một trận bụi mưa bồ hóng từ trên mái nhà rơi xuống nên ai nấy như được sơn quét nhọ nồi. Trong số ba chục người, có ba người bị đòn nặng nhất. Một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi dáng dấp học trò, một người đàn ông đã đứng tuổi, râu quai nón, mặc bộ áo quần xanh lấm lem dầu mỡ, dáng chừng là thợ máy, và người thứ ba là Lượm. Anh thanh niên và người thợ máy bị đưa về đây đã hơn một tháng. Cứ vài ngày họ lại bị gọi lên phòng tra tấn. Và mỗi lần trở về buồng giam người họ ướt sũng như vừa vớt dưới sông lên. Họ không lết nổi một mình, phải có hai tên An ninh xốc nách dìu về. Chúng xô họ ngã dúi vào buồng giam rồi đóng ập ngay cửa khóa lại. Ngã thế nào họ nằm nguyên thế đó, bất động hằng tiếng đồng hồ, nước trên người rỏ xuống đọng thành vũng, loang ướt cả những người nằm bên cạnh. Cả buồng giam không ai biết được họ mắc tội gì mà bị tra tấn đến thế. Chỉ biết qua những tiếng quát tháo gầm gừ của bọn mật thám từ buồng tra tấn vẳng xuống, thì hình như chúng tình nghi họ là trưởng ban ám sát. Buồng tra tấn lấy cung cách đó không xa, tiếng bọn chúng quát hỏi, tiếng đòn nện, tiếng kêu la đến lạc giọng của người bị tra vẳng xuống buồng giam rõ mồn một. - Tụi bay gọi tụi tao là Việt gian? Ừ thì Việt gian! Chừ Việt gian đánh Việt ngay đây? Huỵch' Huỵch! Hự? Hư! Có khai không- Gan hả? - Câu quát tháo này ngày nào chúng cũng lặp đi lặp lại gần như một thứ kinh nhật tụng. Hình như bọn bán mình cho giặc cũng cảm thấy hổ thẹn trước những người kháng chiến, nên chúng phải lấy sự trâng tráo, tàn bạo để che lấp nỗi hổ thẹn. Lượm mới được đưa về đây ba hôm. Hôm đầu tiên, nhìn Lượm bước ra khỏi buồng giam, theo tên lính ', Bê-vê-cu" cao to mang súng, đi qua cái săn hẹp rải đá dăm mọi người tự nhiên thấy ruột thắt lại- Họ đều nghĩ rằng sắp phải nghe tiếng la hét đau đớn, tiếng van khóc thương tâm của chú bé trạc tuổi em, tuổi con cháu họ ở nhà. Họ co rúm người, chờ đợi giây phút cực hình. Phải nghe tiếng kêu la xé ruột của một đứa con nít đang cái tuổi chơi bi, chơi đáo mà bị búa đinh dần vào mắt cá chân, bị roi da xé tướp thịt, bị thúc đầu gối vào ngực, vào bụng cho đến trào máu. Quả là một cực hình đối với những người lớn tuổi. Nhưng mọi người như bị hẫng Họ không nghe tiếng chú bé kêu la. Chỉ nghe tiếng quát hỏi, gầm rít hung tợn của tên võ sĩ Năm ngựa. - Ai dẫn đường cho tụi Việt Minh đánh đồn Hộ Thành? - Tụi nó hiện chừ núp ở mô? - Súng đạn tụi hắn giấu ở mô? - Mi liên lạc với những ai trong thành phố? Tên chi? Nhà ở mô? Sau mỗi câu hỏi là tiếng những cú đấm, cú đá, tiếng thân người ngã vật xuống nền xi măng. - Lấy búa đinh nện vào mắt cá chân cho tao? - Phang đúng vào giữa gan bàn chân! - Xối nước vô! Vẫn không nghe thấy tiếng thằng bé đáp lại hoặc kêu khóc. Mọi người đoán chừng, tụi chúng chỉ quát tháo dọa nạt vậy thôi, có đánh cũng đánh đấm tát tai, chứ tay chân nào mà nó khảo tra con nít. Khoảng một giờ sau, cửa buồng giam mở, tên cai ngục xốc nách Lượm xô dúi vào, chửi: - Ông nội mi! Mi đã muốn ra gan thì mi còn chết. Cả những người đang nằm cũng bật vùng dậy, lết xúm đến quanh Lượm. Áo quần nó ướt sũng nước, cặp môi sưng vều, khóe mắt chảy dài hai vết máu; khuôn mặt tím bầm như quả bồ quân; hai mí mắt húp lên không mở ra được; hai mắt cá chân như hai quả trứng xanh tím máu máu đọng; gan bàn chân đỏ hỏn. Họ bế nó lên, cởi áo quần ướt ra. Nó bật rên đau đớn như bị lột da. Tấm lưng bé nhỏ ôm tròn những làn roi tím sẫm. Nhiều người quên phức cả tụi mật thám có thể đang nghe ở bên ngoài, căm phẫn kêu lên: - Ui chao! Con nít mà họ tra khảo đến nước ni thì không biết họ là cái giống chi! - Chắc họ không con, không cái! Toàn đồ tuyệt tự cả. Người lộ vẻ xót xa, uất ức hơn cả là một ông cụ khoảng trên dưới bảy mươi nhưng dáng bộ khí sắc còn quắc thước. Ðầu quấn khăn nhiễu tam giang tóc búi tó củ hành, râu ba chòm tiêu muối dài gần chấm ngực, mặc áo đoạn năm thân bằng thao nhuộm đà. Suốt ngày cụ ngồi xếp bằng ở một góc buồng giam, từ bi từ tại, như tham thiền nhập định. Nghe đâu cụ bị bắt vì có hai con trai là cán bộ Việt Minh cao cấp. Cụ ngồi sát bên Lượm, đưa bàn tay khô héo nhăn nheo, sờ nắn khe khẽ những vết đánh tím bầm trên mặt nó. Nước mắt cụ tự nhiên ứa ra, lăn dài trên đôi gò má hóp, chui biến vào chòm râu bạc tiêu muối. Cụ nâng vạt áo lên chùi mắt, hỏi: - Chớ họ vu cho cháu tội chi mà họ đánh đập cháu dữ ri? Lượm mấp máy cặp môi sưng vều, yếu ớt trả lời: - Dạ họ nghi cháu là tình báo, liên lạc của Việt Minh. - Răng cháu không nói với họ: Tui nhỏ ri thì đã biết cái chi mà vu cho tui là tình với báo? - Dạ không chối được- Họ bắt cháu có cả truyền đơn Việt Minh. - Dại quá cháu ơi! Thì cháu cứ nói là thấy giấy rớt giữa đường, tui không biết mới lượm chơi. - Nhưng cháu mang cả ngàn tờ lận. Cả buồng giam đều phải phì cười. Ông cụ cũng mếu máo cười. - Giỏi! Giỏi? - ông cụ tự nhiên buột miệng khen. - ừ mang cả ngàn tờ thì khó chối thiệt! - Cháu cũng không thèm chối. Làm thì nhận chớ sợ chi mà phải chối, ông! - Nhưng đã nhận rồi thì việc chi họ còn đánh? - Anh thợ máy hỏi chen vô. Họ còn bắt tui phải khai: Liên lạc với ai, tên chi, ở mô. Bắt khai rứa thì làm răng mà khai được. Bên ngoài song sắt cửa bỗng có tiếng nạt: - Ai cho phép tụi bây được xúm xít nói chuyện với hắn? Bay không biết hắn là loại Việt Minh nguy hiểm à? Bay muốn ăn [bad word] bò chắc? Mọi người giật bắn, ngẩng nhìn. Bản mặt to bè của thằng cai ngục với cái mũi sần sùi, bằng nắm đấm cặp mắt trợn ngược, áp dính vào chấn song sắt: Ông cụ nói: - Thấy cháu nó nhỏ dại mà bị đòn đau quá, chúng tôi thương tình săn sóc cháu, chứ có chuyện chi mô. Nhỏ? - Cai ngục nhếch miệng, gằn giọng. - Nhỏ rứa chứ tụi tao mà ngó lơ một cái là hắn chồm lên cứa cổ tụi tao ngay! Tản ra! Bay mà còn xúm lại với hắn, đừng có trách tao là ác. - Lượm nằm nghiêng mặt ngoảnh ra phía cửa- Nó cố mở hé mắt nhìn xéo lên mặt tên cai ngục. Cặp môi sưng vều như cũng nhệch cười: "Mi nói rứa mà e coi bộ đúng đó!". Nó lẩm bẩm nói vậy, không thành tiếng. Ðược hai hôm chúng lại xuống xốc nách Lượm lôi lên phòng lấy cung. Lần này trở về khắp thân hình Lượm không còn một chỗ nào không có lằn roi rướm máu. Ðể "thằng đánh đồn Hộ Thành" (chúng gọi Lượm như vậy) có thì giờ hồi lại trận đòn cũ, trước khi hỏi cung tiếp, bọn an ninh gọi đến thằng bé bán kẹo gừng, "một trong mấy tên tay chân lợi hại của đồng-râu". Thằng bé bán kẹo gừng bị bọn di động viên giải cùng với Lượm về ty An ninh. Khi bước qua cái cổng có hai cánh cửa sắt lớn với thằng bảo vệ quân cầm súng đứng gác, hai trụ cổng đội tấm biển đề: Ty An Thừa Thiên. Lượm ngoảnh nhìn thằng bán kẹo gừng gầy gò, ngơ ngác, lủi thủi đi sát bên mình, tay bị trói bằng dây điện thoại liền vào tay mình. "Thiệt là chuyện cắc cớ" - Lượm nghĩ nhanh như người đang bơi giữa sông, hắn như thanh củi rêu đang trôi, tự nhiên vướng vào người mình rồi mắc cứng vô luôn? Không biết rồi đây hắn có gở ra được mà trôi đi không? Thằng Tư-dát mà biết chuyện ni thì chắc hắn phải cười đến nứt lòng bóng mà chết "' Từ hôm vào đây Lượm vẫn nằm chung với nó trên một manh bao tải rách ở góc trong cùng buồng giam. Mảnh bao tải là của người đàn ông có dáng dấp thợ máy cho. Ðêm đầu tiên, hai đứa lúi húi lấy tay phủi bụi rác-trên nền gạch, dọn chỗ nằm. Anh thợ máy nằm ở góc đàng kia đưa mắt nhìn chúng. Anh chợt nhổm dậy rút cái bao tải đang lót dưới lưng lấy mảnh dao cạo giấu dưới hòn gạch, cắt làm đôi, quẳng cho hai đứa một nửa- Anh lại nằm vật xuống, không nói một tiếng, hai tay ôm lấy bụng- Sáng hôm đó anh vừa bị đòn hỏi cung. Ba ngày đêm nằm chung với nhau- Lượm mới có dịp nhìn kỹ" thanh củi rều ". Nó teo tóp quắt queo như một thân cây non bị đem phơi nắng. Đầu nó nhỏ như đầu chim cái mũ phở cứ xoay tròn trên đầu như chong chóng. Chốc chốc nó lại đưa tay chộp mũ như sợ gió thổi bay. Da mặt nó xanh bủng xanh beo, cặp mắt nhỏ mà dài như hai vết nứt. Hơi hiêng hiếng, Nó có cái nhìn lén lút sợ sệt, nhẫn nhục chịu đựng - cái nhìn của những con vật nuôi trong nhà, thường xuyên bị hàng hạ, đánh đập. Lúc bị bắt, rá kẹo gừng của nó còn đến hơn một nửa, trên rá đậy cái mẹt lấm tấm bột trắng. Hôm đầu tiên, khi tên cai ngục cởi trói cho nó và Lượm mở cửa đẩy hai đứa vào buồng giam, nó cứ đứng sững ở gần cửa, hai cánh tay vòng ôm khư khư rá kẹo như sợ bị ai giật mất. Nó bất chợt òa khóc rất to. Nước mắt nước mũi chảy lầm lòa lầm lện. Lúc ấy cả buồng giam mới biết nó cùng chung số phận với họ. Lượm thấy nó khóc thảm thiết quá liền nổi cáu vì ngượng với những người xung quanh đang chăm chăm nhìn mình." Không chi thì nó cũng bị bắt cùng với mình. Nó khóc làm xấu hổ lây cả mình - Lượm nghĩ vậy ". Lượm ẩy nhẹ thằng bé kẹo gừng, nói như gắt: - Việc chi mà mi khóc- Có khóc hết hơi thì người ta chẳng tha mô. Đi vô chỗ góc tê, tìm chỗ mà nằm nghỉ cái cho khỏe còn hơn! Lượm len qua những người đang nằm ngồi ngang dọc, đi vào chỗ còn trống ở góc trong cùng, dọn dẹp chỗ nằm cho cả hai đứa. Lượm kéo tay nó ngồi xuống bên cạnh nói: - Thôi mi đừng khóc nữa- Nằm xuống đây mà ngủ đi một giấc. Rồi sáng mai xin người ta tha cho về, khóc làm chi thêm tốn hơi. Thấy hai tay nó vẫn ôm khư khư rá kẹo -đeo trước bụng, Lượm gắt: - Mi cởi ra rồi để lên phía đầu nằm tê. Ai người ta lấy mà cứ ôm kè kè. Nó nhìn Lượm vẻ sợ sệt, nghi ngờ, không biết có nên nghe theo hay không. Thì kệ mi. Cứ ngồi đó mà ôm lấy rá kẹo cho đến sáng mai. Lượm ngả lưng xuống tấm bao tải, ngoảnh mặt vô tường- Ngồi mãi cũng mỏi, thằng bé bán kẹo gừng đành phải cởi rá kẹo, sẽ sàng đặt lên phía đầu nằm, nằm co quắp sát bên Lượm. Sáng hôm sau vừa choàng tỉnh dậy, hai tay nó đã chấp ngay lấy rá kẹo. Nó mở cái mẹt đậy, nhìn và kêu lên, giọng sợ hãi: - Ui chao ơi! Kẹo chảy nước hết rồi! Nó có vẻ sợ rá kẹo chảy nước hơn cả việc bị bắt vào tù. Cả ngày hôm đó nó chỉ ngồi xắm nắm sửa sang rá kẹo- Nó vét bột áo dưới đáy rá, bốc bỏ lên cái mẹt bột áo và cẩn thận xếp ra một góc. Bàn tay nó mới khéo léo, thành thục, tỷ mẩn làm sao! Bột và nước kẹo chỉ định tí chút ở chót mấy đầu ngón tay. Lượm ngồi dựa lưng vào tường, nhìn nó ngồi dạng hai cẳng chân như hai ống quyển, làm mầu làm mè cho những viên kẹo mà phải phì cười. - Mi sửa sang làm chi cho mệt! - Lượm nói- - Trước sau rồi cũng chảy nước hết thôi. - Trưa ni là tui bán hết chứ dại chi để cho chảy nước. Nó nói không ngẩng lên, bàn tay vẫn thoăn thoắt áo bột cho kẹo, môi mấp máy đếm số kẹo. - Mi bán ở mô mà bán hết mau rứa? - Tui chi đi một vòng từ cửa Thượng Tứ xuống chợ đông Ba, vòng qua cầu Gia Hội rồi vòng về cầu Ðông ba cũ là hết, chớ khó chi? - Nhưng lở người ta không thả mi ra, giam mi cả tháng thì làm răng? Nó hoảng hốt nhìn Lượm, bàn tay đang lăn kẹo sững lại giữa mớ bột. - Ui chao ôi! Rứa thì chết tui! - Chết cóc khô chi! Chảy nước thì đem ra ăn quách. - Ăn? Có mà tui muốn chết! - Nó trề môi vẻ chế giễu khinh khi câu nói dại ngộ của Lượm- - Anh cứ làm như là kẹo của cha mạ mình sai mình đi bán không bằng? Tui mà để cho kẹo chảy nước chiếc mô là mấy roi quăn mông đít chiếc nớ. - Rứa mi đi bán kẹo cho ai? - Bán cho mụ Cả Lễ, chủ lò kẹo gừng, kẹo đậu phụng, kẹo kéo ở Bao Vinh, anh không biết à? Tui ở cho mụ. Mụ giao cho tui mỗi ngày phải bán cho hết năm trăm kẹo. Sáng đi, tối về, phải đem nộp đủ cả vốn cả lời- Thiếu một xu là mụ bắt nhịn đói. Mụ chửi cho lút mặt lút mũi." Mụ tổ tiên cha mi ". - Nó nhại giọng chửi. -" Mi bán không có lời thì ra ngoài bờ sông xúc cứt mà ăn- Bà chẳng có cơm mô mà cho mi hốc để mi đi chơi-.. ơi.. ơn ". Gặp phải ngày mưa ngày gió, lỡ để kẹo chảy nước, bán ế, thì cứ việc nằm dài sấp mặt trật khu ra mà ăn roi mây. Rứa đó, có giỏi cứ để cho kẹo chảy nước mà ăn.. Nó kể với giọng dửng dưng, như đã quá quen với tất cả những cái đó. Câu chuyện của nó lâm cho cả buồng giam chú ý. Anh thanh niên có dáng dấp học trò hỏi: - Rứa cha mẹ em mô cả? - Cha mẹ em chết hết năm đói rồi. Em phải đi ăn mày ở ngoài chợ đông Ba. Một bữa, mụ nớ đi chợ gặp hỏi chuyện rồi đem em với hai đứa nữa cũng bằng em về nuôi. Mụ bắt tụi em đi bán kẹo gừng kẹo đậu phụng cho mụ. Nó trả lời, giọng không lộ chút buồn thương, đưa mấy ngón tay lên miệng mút mút chỗ mật và bột đính. Lúc đầu Lượm nhìn nó với cái nhìn vừa thương hại vừa ác cảm. Con nít mà nom nó dễ ghét thế nào ấy! Cặp mắt thì lấm la lấm lét, dáng bộ thì co ro run rẩy như con chó đứng trước cái gậy giáng cao của chủ. Nhưng sau khi nghe nó kể chuyện; Lượm thấy lòng se lại." Kể nó cũng khổ và tội nghiệp thật! "- Lượm nghĩ bụng- Chỉ nhìn nó săn sóc cái rá kẹo gừng, mút mấy đầu ngón tay dính mật bột với vẻ đói khát thèm thuồng Lượm đã hình dung khá rõ sự độc ác của mụ chủ khốn nạn của nó. Lượm hỏi: - Mi tên chi? - Thúi. Trước tui tên là Thơm, nhưng mụ chủ chửi:" Mi như bãi cứt khô năm nắng mà đòi là Thơm! "Rồi mụ cải tên tui là Thúi. Ai gọi tên tui là Thơm là mụ đè tui ra mụ đập. Anh thanh niên bị tình nghi là trưởng ban ám sát buột miệng chửi: - Tổ cha cái loại người nớ phải cho đạn găm vô óc, để sống làm chi cho nhớp đất! - Mi mấy tuổi rồi? - Mười hai. Ông cụ đang ngồi từ bi từ tại, lắc đầu chép miệng: - Thằng cháu nội ông ở nhà lên mười mà còn cao to phốp pháp hơn cháu. Nó ngước cặp mắt nhỏ như hai vết nứt nhìn ông cụ, nói: - Cháu được ăn mỗi bữa có hai chén cơm lưng lưng với muối mè mặn chát, không ngày mô roi không quất lên đầu lên lưng thì lớn làm răng được ông! Lượm nhìn rá kẹo gừng, nói với nó: - Chưa chắc hôm ni người ta thả mi ra, mà ngó ra chỉ đến sáng mai là kẹo gừng chảy nước hết. Rứa thì mi nhờ các anh các bác ở đây mỗi người mua cho một ít. Không đến lúc thả ra, không bán được xu mô cho mụ chủ thì mi chết.. Cả buồng giam nhiều người cùng nói: - Ừ, đưa lại đây tao mua cho mấy đồng. Nhiều người lần cạp quần, móc túi áo lấy tiền. Anh thợ máy cười nói: - Nhưng chú mình phải giả bộ như đang bán ngoài phố ấy đeo rá vô cổ, rồi đi quanh mà rao.. Nhiều người hưởng ứng: - Ðúng, đúng? Phải rao cho thiệt hay thì sẽ mua hết rá kẹo. Không thì thôi! Vẻ mặt thằng Thúi vụt tươi hẳn lên." Hơ hớ? Bị bắt vô tù mà lại hóa hên! Nó mừng rơn nghĩ bụng. Bán ở đây chẳng lo đứa mô tranh mất khách của mình ". Nó yếu, bán hàng thường bị những đứa khỏe hơn ăn hiếp, tranh mất khách. Nó đứng ngay dậy, chụp cái mũ phở lên đầu, đeo quai rá kẹo gừng vô cổ, rao khe khẽ: - Ai kẹo gừng đê.. ê.. ê.. - Phải rao to như lúc rao ngoài phố ấy, - nhiều người cười nói. - Rao nhỏ trong cổ rứa, ai biết mi bán cái chi mà mua. Thằng Thút sợ sệt nhìn ra cửa: - Nhưng lỡ họ nghe tiếng họ đập chết? - Việc chi đến họ mà họ đập? - Anh thanh niên nói. - Ði bán kẹo gừng chứ có mần trưởng ban ám sát mô mà lo họ đập? Ðược cả buồng giam khuyến khích, thằng Thúi cất cao giọng rao to: - Ai ăn kẹo gừng đê-.. ê.. -ê Kẹo gừng nóng mới ra lò.. Ngọt như đường cát, mát như đường phèn én.. én.. đê ê! Giọng rao nó quả là tuyệt, lanh lãnh trong veo, ngân nga và vang rất xa. Cái cảnh tranh tối tranh sáng buồn bã ảm đạm, nhớp nhúa của buồng giam như bỗng tan biến bởi giọng rao lảnh lói của nó. Nhiều người nhắm mắt lại, tưởng như đang đứng trên một đường phố, hay ngồi trên ghế đá dọc bờ sông Hương, đầu cầu Tràng Tiền, trước bến Phu Văn Lâu.. dưới bóng mát tán lá xanh đậm cây me, cầy phượng, cây vông đồng, cây mù u. Góc này, góc kia, nhiều người vui vẻ cất tiếng gọi: -? Kẹo gừng bán năm giác đây! - Bán một đồng đây! Bán rẻ vô nghe? - Kẹo mới ra lò chi mà ướt mèm ri! Buồng giam phút chốc nhộn nhịp và vui hẳn lên. Góc này góc kia nổi lên tiếng nhai kẹo lốc cốc, tiếng xuýt nước ngọt, tiếng bình phẩm khen chê kẹo bở kẹo dai. Loáng một cái, rá kẹo đã vơi hẳn, chỉ còn vài chục chiếc. Thằng Thúi sướng rơn; miệng nó cười, mắt nó cũng cười, tiếng rao của nó cũng lảnh lói vang xa. Và sự vui mừng của nó như lây ra tất cả mọi người. - Tồ cha tụi bây muốn làm loạn nhà tù à? Tiếng quát giật giọng làm mọi tiếng động vui nhộn vụt ngừng cả lại như bị một lát dao chém đứt ngang. Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng khóa lách cách, cánh cửa giật mở toang. Tên cai ngục cầm cây roi [bad word] bò sừng sộ bước vào. Một người nào đó nói: - Tụi tui mua kẹo gừng ăn chứ có dám làm chi mô.. Hắn quắc mắt nhìn mọi người, rồi như không biết trút tức giận vào ai, hắn bước vào giữa buồng, quất một roi tướt thịt vào giữa tấm lưng bé bỏng, còm nhom của thằng Thúi, và co chân dộng một đạp, làm nó ngã dúi vào tận góc phòng, mấy chục chiếc kẹo gừng chưa bán hết và bột trắng đổ tung tóe lên đầu lên cổ những người ngồi gần đó. Lượm giận muốn phát điên, tay chân nó run lên lẩy bẩy. Nó quài tay ra sau lưng, nắm lấy hòn gạch vỡ mà nó vẫn kê làm gối.. Một người ngồi cạnh liền giữ chặt tay nó lại Cảnh đó diễn ra chỉ khoảnh khắc trong bóng tối mờ mờ góc buồng, tên cai ngục không nhìn thấy. Hắn nói: - Tụi bay cứ liệu cái thần hồn! Một tay thằng này đã từng đánh chết khối thằng tù Cộng sản cứng đầu cứng cổ nhất ở lao Thừa Phủ trước tê. Hạng tụi bay thì chưa thấm béo chi mô. Hắn hằm hằm bước ra, đóng sầm cửa, khóa lại. Bị đánh quá bất ngờ, thằng Thúi không kêu được một tiếng, nằm lịm, chết khiếp. Lượm bò ra đỡ nó dậy, rồi lần mò nhặt những chiếc kẹo rơi vãi bỏ vào rá cho nó. - Thôi đi vô tê nằm chút cho đỡ đau, kẹo văng ra thu lượm cho hết rồi đó. Thằng Thúi lết vô chỗ nằm, gương mặt còn dại đi vì chưa hết cơn khiếp đảm. Nó nằm xuống bên cạnh Lượm, tay chân vẫn còn run rẩy. Lát sau, nó bật khóc thút thít, vừa khóc vừa nói nhỏ vào tai Lượm: Anh có ăn kẹo thì ăn đi. Tụi bán rứa là đủ vốn rồi.. Anh muốn ăn mấy cái thì ăn, tui không lấy tiền của anh mô. Nghe nó nói tự nhiên Lượm ứa nước mắt, quàng tay ôm ngang người nó kéo sát vào mình. 18 - Thằng bán kẹo gừng mô, ra ngay! Cánh cửa sắt loảng xoảng hé mở, bản mặt đao phủ và cái thân hình to lớn, vuông chằn chặn của tên cai ngục đứng chắn gần kín cả khuôn cửa. Thằng Thúi đang ngồi ở xó buồng cạnh Lượm chăm chú đếm lại số tiền bán kẹo được, không biết lần thứ bao nhiêu. Nghe gọi, nó vội vàng gấp nhỏ tập giấy bạc đen bẩn, nhàu nát đút nhanh vào túi áo, cài kim băng lại. Nó đứng lên dạ một tiếng thật to. Nó ngỡ người ta gọi để thả nó ra tù nên. Tiếng dạ nghe mừng rỡ như tiếng reo. Tay chụp cái mũ phở lên đầu, tay quàng dây đeo rá kẹo qua cổ, nó hớp tớp chạy ra. - Dạ cháu đây ạ. - nó nói giọng nịnh nọt, xun xoe. Cái dáng bé quắt của nó đứng khúm núm trước tên cai ngục giống như con chuột nhất trước con mèo cụ. Ðáp lại vẻ mừng rỡ xun xoe của nó, tên cai ngục trừng mắt chửi: - Tổ cha mi- để mũ với rá kẹo lại đó, đi người không theo tao. Dạ cháu tưởng bác gọi để tha cháu ra. - Tha! Có tha về âm phủi Ði! Thằng Thúi tiu nghỉu lột mũ, cởi rá kẹo đặt xuống đất. Nó theo tên cai ngục bước ra khỏi buồng giam, đi sát sau lưng như sợ bị lạc. Khoảng hai mươi phút sau, từ phía gian phòng lấy cung, bỗng dội lên tiếng trẻ con kêu rống thảm thiết. - Cháu lạy các bác! Các bác tha cho cháu! Úi chao ôi đau quái.. Cháu lạy các bác! Ai cứu tôi với! Làng nước ơi Ai cứu tôi với! Tiếng nó kêu la van lạy mỗi lúc một to, chuyển động cả khu nhà. Tất cả những người trong buồng giam đang nằm phải ngồi bật hết cả dậy, nháo nhác nhìn ra phía cửa. Ai nấy đều ngơ ngác, kinh ngạc. Người nó nhỏ như củ khoai rứa, không biết lấy hơi sức đâu mà nó la to đến thế Thật giống như con ệch oang. Từ trước đến nay, tiếng quát tháo của tụi nhân viên tra tấn vẳng xuống buồng giam rõ mồn một bửa nay cũng bị chìm lấp trong tiếng kêu la của thằng Thúi. Nghe tiếng kêu la chuyển nhà chuyển cửa của nó ai cũng tưởng nó đang bị đè ra lột da hay cắt tiết. Tiếng kêu la của nó bùng lên đột ngột như thế nào thì cũng lặng tắt đột ngột như vậy. Lát sau nghe tiếng nó khóc hu hu ngoài sân và tiếng chửi rủa quen thuộc của viên cai ngục: - Tổ cha mi! Chiều ni tao cho nhịn đói, coi mi còn hơi sức mà la nữa không! Ngay đến tụi ty An ninh cũng phải ngạc nhiên- Có lẽ từ ngày có cái ty An ninh, chúng chưa gặp một tên Việt Minh nào bị tra khảo mà la to chuyển nhà chuyển cửa, đến ngoài đường cũng nghe tiếng, như cái thằng bé bằng củ khoai này. Nó bước vào buồng giam, mọi người nhìn nó càng ngạc nhiên hơn. Nó chỉ bị đánh sơ sơ. Hai má hai vệt tím, trên cổ một lằn roi. Áo quần nó không bị rách chỗ nào. Khi cửa buồng giam đóng lại, mọi người xúm đến hỏi: - Họ làm chi mi mà mi la to đến rứa? - Họ đập. - Đập đau không? - Dạ hai tát tai, một roi [bad word] bò. - Rứa mà nghe mi la trên đó, dưới ni cứ tưởng họ đang lột da mi! - Nhờ tui la to họ mới đập ít. Không thì họ ăn thịt tui. Nhiều người bật cười. Anh thợ máy vừa cười vừa nói: - Đúng là to đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn- Mai có bị điệu lên hỏi cung, anh cũng phải học chú mi la to để họ bớt đập đi mới được. Ông cụ hỏi: - Rứa chớ họ khép cháu vô tội chi? - Dạ họ nói cháu là Việt Minh hạng nặng, đáng tội tử hình. - Rứa cháu có đúng là Việt Minh thật như cái chú mang cả ngàn tờ truyền đơn tê không? - ông cụ chỉ về phía Lượm. - Dạ cháu đi bán kẹo gừng chớ có biết Việt Minh Việt miết chi mô, nhưng cháu sợ họ đánh chết mất, nên họ hỏi chi cháu cũng nhận hết. - Rứa họ hỏi những cái chi? Dạ họ hỏi cháu có phải tên là Nguyễn Văn Tư mật danh là Tư -dát không. Cháu nói cháu tên Thơm sau cải thành Thúi, rứa là họ quất cháu một roi [bad word] bò. Họ hỏi cháu có làm cái chi báo cho Việt Minh không- Mi có dẫn Việt Minh vô đánh đồn Hộ Thành không? Mi có đi rải truyền đơn với thằng Trần Lượm, mật danh là Lượm-sứt không? Anh thanh niên có dáng dấp là học trò hỏi chen vô: - Rứa họ có hỏi mi làm trưởng ban ám sát không? - Dạ có! Họ hỏi nhiều thứ lắm, hỏi tối tăm mặt mũi, cháu không nhớ hết. Họ dọa không khai họ lấy kìm nung lửa rứt thịt vứt cho chó ăn. Rứa là cháu nhận hết. - Nó bật khóc thành tiếng. Ông cụ an ủi: - Thôi đứng khóc nữa cháu ơi, mai mốt răng họ cũng xét lại, thấy cháu vô tội, họ lại thả ra thôi. Thằng Thúi sịt mũi, đưa ống tay áo quệt nước mũi, mếu máo nói: - Họ nói mấy bữa nữa, họ giao cháu cho Tây mũi đỏ bắn chết. Hu hu. Có bắn cái con C.. một người nào đó buột miệng văng tục. Thằng Thúi đang khóc, chợt im bặt đảo mắt lơ láo nhìn khắp gian buồng, hớt hải hỏi: - úi, cái mũ với cái rá kẹo gừng của tui mô rồi? - Tao cất cho đây rồi, - Lượm nói. Nó bước vô ngồi phệt xuống cạnh Lượm, nói rủ rỉ: - Có được họ tha về mà mất cái mũ với cái rá ni thì mụ chủ hành hạ cho còn cực hơn ở tù. Lượm nhìn nó ngồi co ro, ốm o gầy còm như con mèo đói, thấy khó tin chính nó vừa mới la hét chuyển cái ty An ninh Người ta nói những người ăn to nói lớn miệng phải rộng hoác, mà thằng ni miệng nhỏ chum chúm như đít gà. Lượm tò mò hỏi: - Rứa ở nhà, lúc bị chủ đánh mi có la to như vừa rồi không? - Tui còn la to hơn nữa tê. Mụ chưa đụng đến người, tui đã la rồi. Mụ càng đánh, tui càng la to rứa là mụ phải thôi đánh. Mụ sợ hàng xóm nghe tiếng, cho mụ là đồ bạc ác bất nhơn. Tui mà không la to được như rứa thì tui chỉ còn da bọc xương. Nhưng mi lấy hơi sức mô mà la to được rứa? - Lúc đầu la còn nhỏ, cứ la nhiều thì giọng to ra, khó chi anh- Anh đừng dại, họ đập mình mà mình cứ nín im? Họ mạnh tay mình phải mạnh miệng - nó hạ thấp giọng hỏi Lượm: - Rứa anh có phải tên là Lượm không? - Ừ. Còn Tư-dát là ai rứa? Bạn anh à? - Ừ. - Anh nó nhỏ bằng tui hay lớn hơn tui? Lớn hơn một chút. - Anh ấy cũng là Việt Minh à? Việt Minh hạng nặng. - Anh ấy tài giỏi lắm à? - Tài nhất Cậu ta đã từng đám đứng trên thành cầu đông Ba nhảy cái ùm xuống sông, chìm nghỉm lại còn suýt bắt được con cá gáy to bằng hai bàn tay. Thằng Thúi vừa nằm xuống, nhưng mải nghĩ ngợi chuyện gì đó, nó chống tay ngồi dậy hỏi: - Có ai nhỏ bằng tui ri mà đi Việt Minh không? Khối! Ở đội tao còn có đứa nhỏ hơn mi, nhưng đánh Tây anh dũng hết chê- Người lớn cũng phải phục. Họ còn đăng lên báo thành phố Huế mình biết tên biết tuổi. Ðêm đó, hai đứa nằm co quắp sát bên nhau, trằn trọc cho đến tận khuya, mỗi đứa theo đuổi một ý nghĩ- Cả hai cùng lặng lẽ khóc không thành tiếng. 19 Lượm bỗng sực nhớ từ hôm bị bắt đến nay nó chưa đi ngoài. Nó lo lắng nghĩ bụng-" Mình bị táo lâu ri e sinh bệnh mất. Ở tù, ăn ngày hai vắt cơm bằng hai cái trứng ngỗng với muối, bị tra tấn, lại thêm mắc-bệnh nữa chỉ có chết ". Nó đứng bật dậy, đi ra cửa gọi to:" Ông cai ơi, cho tui đi ca-bi-nê, tui đau bụng lắm ". Không có tiếng trả lời, nó ráng sức gọi to hơn- Lát sau có tiếng tên cai ngục chửi rủa từ đằng xa: - Tổ cha thằng mô đó? Làm cái chi mà la làng la nước lên rứa hứ? - Dạ, tui đau bụng quá? Ông mở cửa cho tui đi ca bi-nê. - Nè nói chi! Ðến chiều đi một thể. - Nhưng tui đau bụng lắm. Tui không nhịn được. Tiếng nhiều người trong buồng giam phụ họa. - Ông làm ơn làm phước cho nó đi chứ nó sắp ỉa ra quần rồi ông ơi! Tiếng tên cai ngục cáu kỉnh chửi rủa, tiếng khóa cửa lách cách mở. - Tổ cha mi, đi! Lại đằng dãy nhà tiêu kia. Lượm loạng choạng bước ra khỏi buồng giam. Lúc đó vào khoảng 10 giờ sáng. Nó thấy quáng mắt vì ánh nắng mới tươi vàng rực rỡ. Nó liếc nhìn tên cai ngục. Một tay hắn cầm đôi đũa, chắc hẳn đang ăn dở bửa cơm. Nó bước đọc theo cái sân rải đá dăm, cỏ mọc lún phún. Nó thấy buốt nhói đến tận óc. Hai gan bàn chân bị đánh sưng phồng, dẫm lên đá dăm đau xé ruột. Nó co rúm người, nhón gót bước bằng năm đầu ngón chân. Ði mau lên, - tên cai ngục bợp gáy Lượm- - Rứa mới đáng kiếp thằng cha mi! Con nít mới lớn đã học đòi làm cộng sản? Thứ ni không đem bắn quách để lớn chút nữa thì khó mà trị nổi. - Hắn nói với một tên an ninh đang đi ngược lại. Tên an ninh không nói gì, chỉ nhún vai- Lượm cố nén đau, nhót nhanh về phía dãy nhà xí. Dãy nhà xí có bốn gian, hai gian mái ngói thủng nát, cánh cửa xiêu vẹo. Hai gian mới được sửa lại có cửa đóng nẹp sắt. Ðứng chờ tên cai ngục mở chốt cửa gian nhà xí thứ hai. Lượm đưa mắt quan sát rất nhanh địa hình địa vật chung quanh. Dãy nhà xí nằm bấu vào bức tường cắm mảnh chai dọc khu vườn. Phía bên kia tường nhô cao một hàng cây phượng, mù u, vông đồng. Chắc ngoài đó là đường phố. Đặc biệt có một cành cây phượng mọc vươn qua bức tường, là là gần sát nóc cái chuồng xí mà tên cai ngục đang mở chốt.. - Không hiểu sao. Lượm thấy trống ngực mình đập mạnh một cách kỳ lạ. Nó bước lên mấy bậc tam cấp nhầy nhụa, lọt vào bên trong nhà xí. Một đàn nhặng xanh bay vù lên như một đám mây. Cứt đái, giấy lộn, lá khô, rác, ngập ngụa không có chỗ mà đặt chân. Mùi hôi thối xông lên nhức óc. Tên cai ngục khạc nhổ, đóng ập cửa lại, đập chốt sắt: - Cứ việc ngồi yên trong đó- Lúc mô tau ra mở mới được ra. Mi mà gọi ầm lên thì đừng có trách tau ác. Tiếng bước chân nặng nề của tên cai ngục xa dần. Một quyết định bất ngờ vụt lóe lên trong óe Lượm, làm tim nó đập mạnh đến nỗi nó phải đưa tay lên ôm ngực: Trốn! Cái âm thanh của từ ngữ gai góc dễ sợ này dồn dập vang dội khắp cơ thể nó, và có một sức hấp dẫn ghê gớm không sao cưỡng lại được. Vốn liều lĩnh và rất nhanh trí, chỉ một khoảnh khắc nó đã phác xong kế hoạch đào tẩu- Nó bặm môi bặm miệng, hai tay cố hết sức xoắn vặn bẻ gãy một đoạn dây thép treo lòng thòng ở góc tường. Ðoạn đây thép ở chỗ xoắn vặn đốt cháy năm đầu ngón tay nó, nhưng nó không buông rời cho đến lúc bẻ gãy. Nó dùng đoạn dây thép xâu qua cái đinh khuy trên cánh cửa, và buộc xoắn nhiều vòng quanh cái đinh lớn đóng trên tường" để tụi hắn phải loay hoay mất ít nhất mười lăm phút mới mở được cửa "- Nó nghĩ vậy. Thấy một viên ngói vở dưới chân, gợi lên trong óc nó một sáng kiến. Nó cúi nhặt viên ngói làm cái xẻng xúc từng đống cứt trát lên cánh cửa. Nó cười gằn: " Tao cho cả lò. Việt gian tụi bay ăn cứt? "Một chân nó đạp lên cái thanh gỗ nẹp cửa, một chân đạp vào góc tường, gắng hết sức vươn người bíu lấy mép cửa bên trên, đu người lên. Cạnh thành cửa như dao cắt đúng vào chỗ rộp phồng gần gút chân- Nó cắn chặt răng để khỏi bật tiếng rên. Bàn tay trái bíu chặt mép cửa, bàn tay phải vươn hết sức cố bám được cái trên đầu. Khi buông bàn tay trái ra để bám tiếp vào xà gỗ phía xà gồ, nó suýt tuột tay rơi xuống miệng hố xí. Nhưng với một sự gắng sức khủng khiếp nó đã giữ được khỏi rơi. Nó co hai chân đưa lên quặp chặt thành xà gỗ, rồi lật người ngồi được lên trên. Nó run run quỳ lên thành xà gỗ, một tay bíu vào cái đòn tay, một tay dở ngói. Cành phượng xum xuê lá vả khoảng trời xanh lơ hiện ra ngay trên đầu nó. Nó gỡ thêm bốn viên ngói nữa để đủ vừa người chui lọt. Nó thận trọng xếp những viên ngói dỡ ra lên cái xà gỗ. Nó đứng thẳng người chui qua chỗ thủng lên mái ngói. Ngồi khom mình trên mái ngói, nó đưa mắt quan sát chung quanh- Phía dãy nhà làm việc thoáng có bóng người đi lại. Xung quanh vắng ngắt, yên tĩnh. Nó đứng hẳn lên, đánh đu vào cành cây, và co hai chân quấn vào một nhánh mọc ngang. Ðèo sức nặng của nó, cành cây hơi sà xuống một chút. Nó cố hết sức để cành cây khỏi rung động mạnh, lật mình cời lên được bên trên cành. Nó bò như một con mối, dọc theo cành cây Bên dưới nó đã là lề đường phố xanh ri cỏ dại- Sắp sửa ôm thân cây tụt xuống, nó chợt thấy có hai người đi xe đạp ngang qua. Ứng phó rất nhanh, nó liền vươn người, với tay, hái một trái phượng đung đưa trước mặt, giả bộ vừa trèo lên hái quả phượng. Một người đạp xe chậm lại, nhìn lên hỏi: - Thằng con nít tê! Mi muốn chết hay rang mà mi dám trèo cây ở khu vực hung thần ni! - Dạ, dạ -.. em xuống ngay đây. Em lỡ không biết - chờ cho hai người đạp xe quá lên trước, nó mới tụt thật nhanh xuống gốc. Hai chân nó vừa chạm lớp cỏ mềm hè phố, cả người nó run lên- may ra thì mình sẽ thoát. Ý nghi đó làm cho con tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nghẹt thở. Ðường phố này rất vắng người qua lại. Nó quyết định rất nhanh: Đi về phía sông Hương, qua đò, sang bên tê Phải qua được sông trước khi tụi hắn biết mình trốn. Nếu không qua kịp thì nguy mất- Sang bên đó rồi sẽ tính sau. Có điều, thời gian rất gấp mà nó không dám chạy. Chạy gặp người qua lại, tất họ sinh nghi- Nếu không may chạm trán tụi bảo vệ quân, cảnh sát thì thế nào chúng cũng đoán mình là tù trốn- Mặt mũi sứt mẻ gớm ghiếc, áo quần rách như tổ đỉa, khó giấu lắm. Nó gần như nửa đi nửa chạy, thấp thỏm bàng hoàng như chạy trốn trong một cơn mơ.. 20 Khoảng hai mươi lăm phút sau, tên cai ngục mắt đỏ gay như cổ gà chọi, chếnh choáng hơi men, vừa xỉa răng vừa đi ra dãy nhà xí. Hắn mở chốt cửa, bước lùi lại, đứng tránh sang một bên, nạt: - Nào, đi ra? Mau lên cho ông nội mi về nghỉ trưa. Nhưng cửa vẫn đóng im, bên trong không động tĩnh. Hắn cáu kỉnh chửi: - Tổ cha mi! Mi chết rấp trong đó răng mà không chui ra há? Vẫn không có tiếng trả lời- Hắn bước lại, giật cửa nhưng cánh cửa chặt cứng như đã bị chốt ở bên trong. Hắn nổi điên, đấm cửa rầm rầm quát: - Mi muốn bóp dái ngựa hay răng mà dám chọc tau hả? - Hắn cho là Lượm chốt cửa lại để chọc tức hắn. - Mở ra! Mở ra? Tổ cha mi chuyến ni thì tau giết chết? Hắn giật giật cánh cửa. Vẫn không một tiếng trả lời. Hắn bắt đầu chột dạ, ghé sát mắt vào một khe ván hở, nhìn vào bên trong- Hắn bật kêu một tiếng rụng rời: - Thằng tù con nít trốn mất rồi! Hắn toát hết mồ hôi, tỉnh hẳn cơn say ngà ngà. Nghe tiếng kêu hoảng hốt, hai tên lính Bảo vệ xách súng chạy lại. Cả ba đứa phụ nhau, đứng dạng chân chèo, giật mạnh cánh cửa- Cài đinh khuy Lượm buộc dây thép bật tung. Cánh cửa mở toang, những tảng phân quánh đặc lúc nãy Lượm xúc trát lên cánh cửa, theo đà giật quá mạnh, bản tung tóe vào đúng giữa mặt cả ba đứa như một loạt đạn ria- Chúng hớt hải đưa tay lên vuốt mặt và cùng ré lên một tiếng ghê sợ: - Ui chao ui! Cứt! Chúng vuốt mặt, rảy tay, khạc nhổ, quay cuồng như phải bỏng. Gian nhà xí trống rỗng, chúng nhìn lên mái ngói một lỗ thủng lớn. Vừa tiếp tục vuốt mặt, khạc nhổ, chúng vừa chạy ngược chạy xuôi la lối om xòm. - Thằng tù con nít chui qua mái ngói trốn mất rồi. Phút chốc cả ty An ninh nhốn nháo. Nhiều tên đổ xô ra nhìn ngó gian chuồng xí mái ngói bị dở tung. Ðứa nào cũng lắc đầu: - Thằng oắt ni gớm thiệt! Tên chủ sự ty An ninh đấm bàn, xô ghế, chửi mắng bọn tay chân: - Ðồ ăn hại! Tụi bay gác xách rứa à? Bay mà không tìm thấy hắn, tao cho vô tù cả nút! Ðể cho một thằng con nít mới nứt mắt trốn thoát giữa ban ngày ban mặt, thì dân chúng nó còn coi cái ty An ninh ra cái cứt gì nữa! Một lũ ăn hại! Một lũ ăn hại! Hắn hối hả gọi điện thoại báo cho các trạm kiểm soát các ngả vào thành phố, tả hình dáng tên tù trốn. Hắn huy động tất cả lực lượng hành động của ty An ninh, phóng xe đạp, xe máy đi lùng bắt. Viên cai ngục lo lắng hoảng sợ hơn cả Mặt dính trát đầy cứt nhưng hắn chẳng kịp rửa, mở cửa buồng giam thét lác: - Thằng mô biết hắn trốn ngả mô thì khai ra ngay! Không khai tau giết- Thằng ni - hắn đấm ngực sòm sòm. Giết cộng sản là không biết gớm tay mô! Cả buồng giam nín im thin thít. Tên cai ngục bỗng xô đến chỗ ông cụ ngồi trong góc, tóm lấy bộ râu, xoắn một vòng, nhấc bổng ông cụ lên lôi xềnh xệch ra sân- Mắt hắn đỏ ngầu như con thú nổi cơn điên, quát thét rất to: - Chính mi xui thằng nớ trốn? Sáng ni rõ ràng mắt tao trông thấy mi cho hắn ăn bánh mì, để hắn có sức hắn trốn. Mi với hắn là cùng một bọn với nhau!.. Chẳng là ông cụ ngày nào cũng được người nhà gửi đồ tiếp tế: Khi xôi, khi bánh chưng, bánh mì.. Lần nào mở thức ăn ra ăn, ông cụ cũng bẻ cho Lượm- ăn đi cháu, cơ khổ. Họ đánh đập đến nước nớ mà không ăn uống chi thì sống làm ráng nổi?" Sáng nay ông cụ bẻ cho Lượm nửa ổ bánh mì - Lượm lại bẻ làm đôi cho thằng Thúi một nửa. Kéo râu ông cụ ra đến giữa sân, hắn dúi ông cụ ngã ngửa xuống sân- Cái khăn nhiễu tam giang quấn chữ nhân trên đầu xổ tung- Hắn dậm một chân lên ngực ông cụ, một tay túm râu kẻo giật đầu ông lên, gầm ghè: - Mi có khai không? Thằng nó bàn với mi là hắn trốn đường mô? Chạy núp vô nhà ai? Mi mà không khai, tao giết! Ông cụ râu tóc tả tơi, mặt tái nhợt vì đau đớn và khiếp sợ. Ông rên rỉ: - Ui chao ơi, oan uổng cho tui quá! Tui làm răng biết được hắn trốn đường mô? Tui có quen biết chi hắn. - Không quen này! Không quen này! - Hắn đấm ông cụ thùm thụp như giã dò. - Không quen mà sáng mô mi cũng chia bánh, chia xôi cho hắn. Trong thâm tâm, hắn cũng tin là việc Lượm trốn không liên quan gì tới ông cụ. Nhưng hắn vẫn cứ đánh. Hắn mong lấy sự tàn ác điên cuồng để may ra có thể chuộc một phần tội với cấp trên về việc để cho tên tù con nít trốn. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, có tiếng nhốn nháo phía trước cổng. - Bắt được thằng trốn tù rồi? Bắt được rồi! Hai tên Bảo vệ quân cầm ngang súng dẫn Lượm đi vào sân Tóc tai, áo quần nó ướt sũng nước. Mặt mũi nhoe nhoét máu Chứng tỏ trên đường dẫn về ty An ninh, Lượm bị chúng đánh rát dữ. Vừa nhìn thấy Lượm tên cai ngục buông ngay ông cụ ra, nhảy chồm đến chộp lấy cổ Lượm, thét lên một tiếng gần như tiếng rống của mãnh thú: - Tồ cha mi! - Hắn lẳng một cái, Lượm ngã vật xuống sân như con nhái bén. Hắn tóm ngực áo Lượm dồi lên dập xuống. Tay đấm chân đạp. Vừa đấm đạp, hắn vừa nhảy chồm chồm như thật sự đã phát điên. Ông cụ lóp ngóp bò dậy, búi lại búi tóc củ hành, nhặt cái khăn nhiễu quấn vào cánh tay, chạy đến cạnh tên cai ngục, rên rỉ: - Xin ông để tui đánh chết hắn cho! Hắn báo hại tui! Ông cụ nhặt chiếc guốc mộc đánh vào Lượm hai phát. Sợ đánh quá tay thằng tù con nít chết mất, tên cai ngục phải ngừng- Hắn lôi xềnh xệch Lượm vào buồng giam và đóng ập cửa lại. Cả buồng giam xúm lại quanh Lượm- Họ nâng nó dậy cởi bộ áo quần ướt sũng nước và bê bết đất cát, vải khô. Anh thợ máy cởi cái áo đang mặc, mặc vào cho Lượm rồi nhẹ nhàng bế nó lên, đặt vào chỗ nằm ở góc buồng. Thằng Thúi sợ quá, từ nãy tới giờ ngồi co rúm như chết cứng một xó Lúc này, nhìn thấy Lượm mặt mũi méo mó, dính đầy máu, tự nhiên nó bật khóc hu hu- Nó vừa khóc vừa lấy cái mũ phở, lót xuống đầu Lượm. Anh thợ máy, lay nhè nhẹ, gọi nó: - Em! Em! Phải một lúc sau, Lượm mới mở hé hé cặp mắt sưng húp, nhìn anh rồi lại nhắm ngay lại. Anh cắn môi tưởng đến bật máu, khẽ rít lên: - Quân chó má thật! Con nít mà chúng nó đánh đến nước ni thì còn trời đất mô nữa? Lượm mấp máy đôi môi bầm dập, thều thào: - Cho em hớp nước.. Thằng Thúi cầm ngay lay cái lon, ra gần cửa xin chén nước của một người tù, mang lại- Anh thợ máy khẽ nâng đầu Lượm, kề miệng lon nước sát vành môi sưng tím của nó. Nó không đủ sức để hớp nước, anh phải khẽ nghiêng lon nước rót từ từ từng ngụm nhỏ. Nó uống nước với vẻ đau đớn như nuốt than đỏ. Gần chiều tối, sức lực Lượm hồi dần. Nó đã nhúc nhích được tay chân, và cái miệng sưng vều chảy máu đã trệu trạo nhai được nửa vắt cơm. Ăn xong, chưa kịp uống nước nó đã nằm vật xuống tấm bao bố rách và ngủ li bì như chết. Khoảng nửa đêm, nó chợt thức dậy. Trong bóng tối câm đặc, một bàn tay ai đó run run vuốt tóc nó. Hơi thở ấm có mùi dầu nhị thiên đường phả vào mặt nó. Và trên má nó có những sợi tóc quét nhè nhẹ. Tiếng lào thào: Cháu còn thức hay ngủ. Ông đây.. Lượm nhận ra tiếng ông cụ. - Ông đánh cháu hai chiếc guốc rứa cháu có đau không? Cháu đừng giận ông mà tội. Ông phải làm rứa để che mắt tụi hắn.. Lượm tỉnh ngủ hẳn- Khắp người nó đau ê ẩm. Những chỗ bị chúng đánh lúc này rát bỏng như lửa đốt. Nó cố sức lật người nằm ngửa, đưa bàn tay sờ soạng nắm lấy bàn tay khô gầy của ông cụ. Nước mắt nó tự nhiên ứa ra. - Cháu đời mô lại giận ông. Tụi hắn đánh cháu ra ri. Ông có đánh cháu thêm vài chiếc guốc nữa có thấm béo chi - Rứa cháu chạy đến khúc mô thì bị tụi hán bắt được? - Đến bến đò Trường Súng. Cháu chưa kịp xuống đò thì tụi hắn ập tới- Cháu nhảy xuống sông định bơi nhưng tụi hắn đông quá, chống đò ra, xách cổ cháu từ dưới nước lên.. Nói đến đó, Lượm như kiệt sức, lại ngủ thiếp đi- Chốc chốc nó lại cựa mình, ú ớ nói mê. Ông cụ vẫn ngồi còm cọm bên nó, lấy vạt áo làm quạt, xua muỗi cho nó đến tận sáng. Sau vụ vượt tù hết sức bất ngờ, táo bạo, liều lĩnh của Lượm, tất cả những người cùng giam đều nhìn nó với cặp mắt đầy thiện cảm và không khỏi có phần thán phục. Họ nói với nhau: - Không biết con cái nhà ai mà to gan thật! - Con cái nhà họ Việt chứ còn con cái nhà ai. - Mà hắn cũng bợm thiệt! Sấp mình ở đây hàng tháng đi vô đi ra cái nhà tiêu nớ mấy chục lần vẫn thấy cửa kín tường xây như bưng Rứa mà hắn mới vô có một lần đã tìm được khe hở, chui lọt ngay ra ngoài chẳng khác chi con cá rô rạch ra khỏi hom giỏ. - Chuyện! Chiến sĩ tình báo hoạt động nội thành mà lại. - Mới chừng nớ tuổi, thì không biết chú ta học Cái nghề tình báo đó khi mô? E học trong bụng mẹ chắc! - Cả cái ty An ninh bị ông Vệ Quốc Ðoàn con nớ mần cho một trận méo mặt! Lượm trở thành con cưng của cả buồng giam. Mọi người xúm lại săn sóc em. Người thì săn sóc ngang nhiên trước mặt tên cai ngục, tụi an ninh. Người thì lén lút, thậm thụt, mắt trước mắt sau. Một ngày nam bảy lần là ít, tên cai ngục hé cửa nhìn vào góc Lượm nằm. Hắn như chưa hết thấp thỏm, sợ hãi, lo Lượm lại bất thình lình chui lọt ra khỏi trại tù lần nữa. Ngày chiều hôm Lượm trốn, ty An ninh cho thợ đến lắp lên trần hai gian nhà xí hai tấm lưới sắt, với những nẹp sắt to vặn siết bù loong. Tất cả những cái đó càng làm mọi người thêm yêu mến Lượm: Họ coi như Lượm đã thay mặt cả buồng giam đánh trả ty An ninh một cái tát có thể gọi là đích đáng. Người săn sóc Lượm tận tình hơn cả là anh thợ máy, như săn sóc em ruột, săn sóc con đẻ. Mỗi bữa chiều, sau bửa ăn, anh đều để dành một ống bơ nước nóng hòa muối. Anh dùng để rửa hai gan bàn chân Lượm sưng vù vì những vết đánh lau khô rồi xé cái áo cũ băng lại- Anh nhai muối vỗ lên những chỗ bầm tím trên mặt, trên lưng, khe khẽ bóp cho tan máu. Vừa bóp vừa dỗ dành- "em chịu rát chút nghen, chỉ vài bữa là khỏi thôi em ạ? Ngồi rửa chân cho nó, anh nháy mắt hỏi khẽ: - Chú em đã thất kinh chưa? Lượm nhíu mày bướng bỉnh trả lời: - Còn lâu em mới thất kinh! Cha em trước làm Cộng sản, vượt tù đến năm lần tê anh ạ- Vượt đến lần thứ năm thì tụi hắn bắn chết. - Nếu gặp dịp hay, em còn dám chơi tụi hắn một vố nữa không? - Sợ chi mà không chơi anh! - Phải. Sợ chi! - Anh bỗng chụm môi lại, huýt sáo nho nhỏ câu hát" "Sống tranh đấu thà không sờn lao khổ. Chết huy hoàng mà không khuất phục ai". Anh đặt hai bàn chân nó vào lòng vừa lấy vạt áo thấm khô, rủ rỉ nói: Lúc nghe tụi hắn rống lên phía nhà xí: Thằng tù con nít trốn mẹ nó mất rồi! Anh mừng đến chảy nước mắt, bụng nghĩ: "Hắn thì trốn mẹ nó mất rồi, còn bay thì chết cha tụi bay" Mừng thì mừng nhưng anh không hy vọng là em thoát nổi. Hai chân em đau như ri với mặt mũi áo quần như ông ba bị rứa mà chạy giữa đường phố thì lọt qua răng cho khỏi mắt tụi mật thám, Bảo vệ quân, An ninh. Lượm xuýt xoa: - Tại em ngu quá. CƠ chi lúc đó em đừng thoát ra bến đò vội Em lựa một cây mô bên đường thật cao, thật rậm lá, trèo tót lên ngọn, nằm thật im - Có tài thánh tụi hắn cũng chẳng tìm ra được em- Em cứ nằm im trên đó chờ cho đến tối mịt mới tụt xuống tót ra bờ sông, thì răng em cũng thoát. Chừ nằm nghĩ lại em cứ tiếc đứt cả ruột! Việc dễ như ăn ớt rứa mà lúc đó răng em lại không nghĩ ra. Em ngu thiệt! - Nó nắm tay đập đập lên trán, nhắc đi nhắc lại hoài: - Em ngu thiệt! Em ngu thiệt! Anh thợ máy nhìn Lượm, ánh mắt âu yếm, và khe khẽ ngâm: "Ai chiến thắng nhà không hề chiến bại. Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần".
Chương 12 Bấm để xem 21 Năm hôm sau, chúng gọi Lượm lên phòng hỏi cung- Cả buồng giam ngồi dậy tiễn đưa Lượm. Tia mắt mọi người nặng tựrĩ đau buồn, căm giận. Họ tin chắc lần này chúng phải đánh Lượm cho đến chết- Thằng Thúcingồi thu lu trong góc bỗng òa khóc thành tiếng, miệng mếu máo dặn với theo: Anh la thiệt to vô anh nghe.. hu hu hu.. Họ đập anh chết mất.. hu hu! Tội nghiệp, thằng bé bắt đầu quyến luyến Lượm. Ra đến cửa buồng giam, ljợm ngoái cổ lại nhìn nó, định nói câu gì vui để ra bộ cứng cỏi, nhưng cổ cứ tác nghẹn Và tự nhiên Lượm cũng mếu theo. Buồng lấy cung là một gian phòng rộng hình chữ nhật, được ngăn đôi bằng một vách gỗ, theo chiều dọc, ngoài đặt bàn giấy hỏi cung, nửa trong là phòng tra tấn. Ðối điện với bàn giấy lớn của tên trưởng phòng hỏi cung là một ghế băng kê sát tường, cho phạm nhân ngồi Tên Bảo vệ quân giải Lượm, mở cửa đẩy nó vào buồng, nó thấy trong buồng có năm sáu tên An ninh đang túm tụm quanh cái bàn nhỏ kê ở cuối phòng, sát bên cửa sổ. Trong tay mỗi đứa cầm một tệp giấy bạc- Hình như chúng nó vừa lĩnh lương, cả bọn đứa nào cũng lúi húi đếm bạc- Chúng vừa đếm vừa tán gẫu- Chuyện xoay quanh những nỗi "cực khổ, trần ai" dưới thời Việt Minh- Hình như bọn chúng trước đây đều là nhân viên, công chức công sở của nhà nước ta; sau khi hồi cư nhảy luôn vô làm mật thám, an ninh. Trong số này có một tên mặc bộ áo quần ka ki xám, quay lưng phía Lượm, nhưng thoạt nhìn nó đã nhận ra ngay, Lê Thành, thư ký đánh máy trung đoàn bộ! Cái thằng đã cùng với Nguyễn Trì ăn cắp một tạ gạo của Vệ Quốc đoàn, bị Lượm phát hiện phải vào cải hối thất. Lê Thành đếm xong tiền, đút tệp giấy bạc vào túi quần, quay lại định đi ra cửa. Bất thình lình nó chạm phải ánh mắt xoi móc của Lượm đang nhìn nó- ánh mất Lượm như muốn nói: "Tưởng ai té ra tụi ăn cắp ăn trộm của Vệ Quốc Ðoàn!" - Lê Thành quay ngoắt tránh vội cặp mắt Lượm, vờ như không biết. Hắn nói với thằng đứng cạnh: -, Moa "về trước có chút việc, các" toa "về sau nghe! Và nó bước nhanh qua cái cửa ngách gần đó. Lượm nhìn hút theo cái dáng cao lêu đêu như sếu vườn- lưng gù gù của tên phản bội. Hai khóe môi Lượm hằn vẻ căm tức như sắp buột miệng chửi. Sau cái bàn giấy lớn chất những chồng hồ sơ cao nghệu tên trưởng phòng lấy cung chăm chú quan sát gương mặt của tên" Vệ quốc quân con "(chúng gọi Lượm như vậy). Trưởng phòng lấy cung trạc ngoài bốn mươi tuổi, trán hói đến tận đỉnh đầu, mũi nhòm mồm ánh mắt sát lạnh, ghê ghê như ánh dao. Hắn vốn là một tên mật thám nhà nghề. Hắn như đọc thấy hết những gì đang diễn ra trong đầu Lượm lúc này Hắn có vẻ thích thú trước cái gương mặt trẻ con méo mó. Tím bầm và ánh mắt tức giận của Lượm khi nhìn hút theo bóng Lê Thành - nhân viên của hắn- Hắn biết khá rõ mối liên hệ trước đây giữa Lượm và hai nhân viên của hắn. Những chuyện này do chính Lê Thành và Nguyễn Trì kể với hắn. Qua câu chuyện thì Lượm tuy là con nít nhưng rất được Việt Minh tin cậy. Còn hai đứa thì đã chống đối Việt Minh từ ngày còn làm việc dưới quyền của họ Nét mặt ánh mắt, khóe môi của thằng" Vệ quốc quân con ", lúc này càng xác nhận rõ hơn những điều chúng đã kể. Hắn thở dài nghĩ bụng:" Bọn Việt Minh thật đã biết cách đào luyện cái thế hệ nối tiếp chúng! Những đứa con nít loại ni chỉ lớn lên vài tuổi nữa, hắn sẽ dám cầm dao lừng lững vô nhà mình, cắt cổ mình giữa ban ngày. Hắn nhếch mép cười gằn dữ tợn, lẩm bẩm: "Thật đáng tiếc là mi chưa đủ tuổi để tao cột cổ mi vô cọc xử bắn?" Hắn chỉ cho Lượm ngồi xuống cái ghế băng kê sát tường, mặt đối mặt. Hắn mở ra tập giày Lượm đoán là hồ sơ hỏi cung mình. Vừa gõ gõ cây bút chì xanh đỏ vào tập giấy, hắn hỏi Lượm, giọng khá ôn tồn: - Em vừa nhận ra người quen phải không? Trước tê thì cũng quen đó. Trước tê cũng là Vệ Quốc đoàn. - Lượm trả lời trống không, mặt ngoảnh nhìn cái cửa ngách mà Lê Thành vừa đi ra. - Rứa chứ không quen à? - Chừ quen răng được.. Cung cách trả lời của Lượm như muốn nói với hắn "Ðằng mô thì tụi bay cũng nện tao nhừ tử. Rứa thì việc chi tao phải giữ mồm giữ miệng với tụi bay". Tên trưởng phòng lấy cung cũng nghe được như vậy, nhưng hắn cố nén giận: - Em thấy chưa, trước anh ấy cũng là Vệ Quốc Ðoàn chức vụ còn to hơn em. -. "Thư ký đánh máy lóc cóc, to cứt chi" Lượm trề môi, trả lời thầm trong bụng. - Rứa mà anh ấy khôn ngoan, biết quay về làm việc với chính phủ Nam triều, được chính phủ trọng dụng, sung sướng đủ điều. Lượm ngồi đu đưa hai chân, trả lời giọng ngây thơ: - Hồi còn ở Vệ Quốc Ðoàn anh ấy cũng khôn lắm. Anh ấy thông đồng với Nguyễn Trì, ăn cắp không, biết bao nhiêu gạo, bao nhiêu tiền của Vệ Quốc đoàn rứa mà thoát hết, chỉ bị bắt có một lần rồi vô nằm cải hối thất. Ðang gõ gõ nhè nhẹ, hắn bỗng ấn mạnh đầu cây bút chì xuống trang giấy, làm cái đầu chì xanh gãy lìa: - Em chỉ có một mạ một con phải không? Lượm gật đầu thay cho câu trả lời. - Cha em nghe chết trong nhà tù, chết vì tội chi rứa? - Tội làm cộng sản đánh Tây chứ không phải tội ăn cắp như Lê Thành với Nguyễn Trì mô. Hắn quắc mắt nhìn Lượm, hăm dọa. Nhưng Lượm ngó ngơ chỗ khác như không nhìn thấy. "Mi tức à?" Lượm cười thầm hả hê: "Tức thì ăn cứt mà chết" - Anh thấy em còn nhỏ, chỉ vì dại dột nghe Việt Minh xúi bậy mà theo họ làm loạn, đến nỗi phải vô tù, bị đánh đập, anh rất thương.. Chừ em biết nghĩ lại, bỏ phứt Việt Minh mà theo chính phủ Nam triều thì anh sẽ báo lên trên tuyển dụng em ngay, vô làm việc ở ty An ninh. Nếu mà cứ tiếp tục ngang bướng, dại dột thì.. hắn phát một cử chỉ chặt đầu, - đừng có trách. Lượm vẫn trả lời với giọng ngây thơ, khờ khạo: - Ở nhà mạ tui vẫn nói tui với cha tui là giống to đầu cho nên dại lắm, chẳng có khi mô khôn được. Ðến đây thì hắn không thể kiềm mình được nữa. Cái trán hói của hắn đỏ tía lên như vỏ tôm luộc. Hắn xô ghế, đứng phắt dậy, nét mặt hằm hằm như sắp nhảy xổ vô Lượm mà đấm đá. Như nhại theo hắn, Lượm cũng thả chân xuống đất, đứng phắt dậy khỏi ghế, hai tay cởi nhanh cúc áo với ý nghĩ- "Phải rút kinh nghiệm mấy lần trước mới được. Mình mặc áo, lúc tụi hắn đánh xong, xối nước, áo dính vô các chỗ chảy máu, rát không chịu thấu!". Nhưng hắn không đụng đến Lượm. Hắn quát tên Bảo vệ quân đang ngồi chờ ngoài cửa: - Dẫn nó về buồng giam. Hắn lăm lăm ngón tay trỏ chỉ vào mũi Lượm, nói với giọng căm tức cố nén giữ: - Ðã rứa tao sẽ chặt đứt cổ mi, cho mi về gặp cha mi dưới âm phủ, cho tiệt cái giống to đầu mà dại! Cho mi đừng hòng còn thấy lại mặt con mạ mi nữa. Vẻ mặt và ánh mắt hung ác ghê rợn như ánh dao của hắn không có vẻ gì cho là nói dọa- "Hắn sẽ chặt đầu mình thật" - Lượm nghĩ vậy. Nó phải cố hết sức lấn át nỗi sợ để cài cúc áo mà bàn tay đừng run. Không phải vô cớ mà tên Giản, phó ty kiêm trưởng phòng ba của ty An ninh Thừa Thiên khét tiếng tàn ác lần này lại đối xử với Lượm một cách khá ôn tồn như vậy. Sáng hôm ấy, viên quan ba Sô-lê, chủ sự Sở mật thám Phòng nhì Pháp vừa gọi Giản đến gặp, Sô-lê chỉ thị cho hắn: "Thôi không tra khảo thằng bé con Việt Minh ấy nữa. Phải tìm cách dụ dỗ nó, sau đó sẽ gửi nó đi học một lớp điệp viên ngắn ngày cùng với thằng Kim. Hai đứa sẽ được tung lên chiến khu của Việt Minh làm nội gián- Việc này hết sức cần thiết. Lượm vừa theo tên lính ra khỏi phòng lấy cung, tên Giản gọi điện thoại cho SÔ lê:" Thưa ngài không thể dụ dỗ nó được. Mới tí tuổi nhưng nó hết sức cứng cổ và xấc láo, giọng lưỡi nó là giọng lưỡi của những tên Việt Minh từ trong máu? ". Tiếng Sô-lê cười khảy trong máy, hỏi lại bằng tiếng Việt, giọng đơn đớt nhưng rất sõi: - Nó bao nhiêu tuổi? - Dạ-mới mười bốn tuổi. - Ồ mười bốn? - Với cái tuổi đó thì có thế xoa đầu và cho nó ăn kẹo. Phòng lấy cung của các anh có kẹo không? - Thưa ngài. Chúng tôi không những đã xoa đầu mà đã xoa khắp người nó bằng roi da. Nhưng đều không ăn thua. Tiếng Sô-lê lai cười khảy: - Roi da là cái cách kém cỏi nhất trong nghề nghiệp của chúng ta- Mà xem ra bên các anh chỉ có độc một cách đó. Bị chủ khinh miệt, tên trưởng phòng lấy cung thấy nóng mặt. Nhưng hắn nhẫn nhục, cố giữ giọng lễ phép: - Thưa ngài, chúng tôi cũng đã dùng nhiều cách khác ngoài roi da- Nhưng thằng con nít này không giống những đứa con nít khác mà ngài thường gặp. - Nó có hai đầu chắc? - Thưa ngài, tất nhiên một thôi, nhưng là một cái đầu rất cứng, rất khó trị. - Thằng Kim thì sao? - Thằng Kim so với thằng này sao được? Cha nó là một tay Cộng sản sừng sỏ, đã năm lần vượt ngục và đã bị bắn chết! Ta père ta fils! (cha nào con nấy). Các anh đưa nó sang đây cho tôi. Rồi các anh sẽ thấy tôi thuần phục nó dễ dàng như thuần phục một con thú nhỏ hung hăng. - Vâng, tôi sẽ cho dẫn nó sang ngay. Và tôi cũng rất hy vọng ngài sẽ thành công - Giọng nói của hắn lộ chút mỉa mai, mặc dầu đã cố kiềm nén. Và thật ngược đời, trong giây phút ấy, hắn thầm mong Lượm sẽ chơi cho tên Sô-lê một vố gì đó để cho hắn bớt thói ngạo mạn, tự đắc. Hắn còn mong Lượm vẫn giữ được thái độ xấc láo, cứng đầu, cứng cổ với tên trùm mật thám Phòng nhì như vừa rồi đối với hắn. Hắn đặt mạnh ống nghe xuống máy, buột miệng chửi: - Ông nội mi- Qua bên đó mà mi lại chịu để cho cái thằng Tây ăn mắm nêm, chửi tiếng mình ngoen ngoét ấy mua chuộc, thì về đây tao sẽ cho thằng võ sĩ Năm-ngựa đánh chết mi như đánh chết con chó! 22 Khoảng chín giờ sáng ngày hôm sau, một tên Bảo vệ quân, cắp khẩu tiêu liên" Mát "dẫn bộ Lượm từ ty An ninh đến Sở mật thám Phòng nhì Pháp. Nắng chợt hửng lên sau nhiều ngày mưa dầm dề thối đất Nắng chan đầy ắp thành phố màu vàng non rực rỡ. Một buổi sáng như sáng nay mà được đi chơi phố thì thật tuyệt! Nhất là khi người ta mới mười bốn tuổi! Người ta có thể lúc đi, lúc nhảy chân sáo, nhẹ tâng tâng, miệng chúm lại huýt sáo- Gặp một hòn sỏi, một trái mù u trên đường, người ta tiện chân làm một cú sút hòn sỏi, trái mù u bay thẳng tắp trên đường nhựa. Người ta có thể tay cầm cái ná cao su, viên sỏi đã kẹp sẵn, mặt nghênh nghênh nhìn lên cây tìm chim.. Nếu trong túi người ta có tiền, người ta có thể mua một que cà rem, rồi vừa đi vừa mút. Lượm cũng vào trạc tuổi ấy, và sáng nay cũng đang đi" dạo "phố, nhưng với hai cổ tay bị trói quặt sau lưng, mặt mũi bầm dập, thâm tím, áo quần rách ngược rách xuôi. Ðằng sau" người ta "là một tên lính mặt đầy những mụn cóc, kẹp tiểu liên 'mát" hộ tống. Chỉ cần "người ta" nhấp nhổm định chạy là súng nó liền, bắn thẳng vào lưng.. "Người ta" không ngó ngang, ngó ngửa mà cúi nhìn xuống chân. Ánh mắt người ta rầu rầu, bồn chồn, lo lắng: Hắn đưa mình đi mô đây? Đưa lên cửa An Hòa chặt cổ mình chắc- Lượm nghĩ thầm và tự nhiên muốn khóc. Bỗng dưng nó chợt nhớ mấy câu thơ mà Tư-dát vẫn thường ngâm nga, và thằng Tặng câu cá, đen như cục than hầm, cứ đòi chép cho bằng được: "Ðời cách mạng từ khi tôi đã hiểu. Dấn thân vô là phải chịu tù đày. Là gươm kề tận cổ súng kề tai..". Câu thơ như có phép lạ làm cho cái miệng nó sắp mếu, nhếch ra thành một nụ cười ngạo. Những người qua đường nhìn thấy Lượm, đều bước chậm lại, ngây người ngó theo. Họ đều đoán chừng chú bé này tên là Lượm-sứt hoặc Tư-dát gì đó, trong cái tổ tình báo Việt Minh vừa bị ty An ninh vây bắt ở Vĩ Dạ, mà các nhật trình thi nhau đăng tin mấy hôm liền. Và trong đáy mắt nhiều người không giấu được vẻ ái ngại, xót xa, khâm phục. Nhưng Lượm không nhìn thấy họ, mặt vẫn cúi nhìn xuống đường. Ðầu óc nó còn rối bời với bao nỗi lo lắng: "Không biết" anh Tư-dát "có dại dột quay về Vĩ Dạ không Nó mà về đó thì răng cũng chui đầu vô ổ phục kích của tụi An ninh. Thằng Hiền, thằng Bồng thằng Châu-sém liệu đã biết tin anh đồng-râu bị bắn chết chưa- Nếu biết, chắc cả tổ đã bỏ Sịa rút lên chiến khu rồi..". Lượm còn nghĩ đến cả cái đàn măng-đô-lin Trung đoàn trưởng dạn mua gửi lên thưởng cho thằng Quỳnh-sơn-ca. Cổ nó tự nhiên nghẹn lại: "Quỳnh ơi, rứa là chẳng còn ai mua đàn cho mi nữa- Bao nhiêu tiền của Ban Tham Mưu cấp cho tổ quân báo - chính tay tau chuyển về cho anh Ðồng - chắc tụi hắn lục soát nhà lấy hết rồi"... " Không biết mình, có còn khi mô gặp lại các bạn trong đội nữa không Nghĩ đến đó nó không cầm nổi nước mắt. Mải nghĩ ngợi miên man, thằng Bảo vệ quăn dẫn nó đến trước cổng Sở mật thám Phòng nhì Pháp lúc nào không hay. Ðó là một ngôi nhà hai tầng xây kiểu biệt thự, xung quanh có hàng rào sắt sơn xanh bao bọc. Cổng lớn với hai cánh cửa sắt đồ sộ, bên cạnh có chòi gác. Hai lối đi rải sỏi trắng tinh, ôm lấy một bồn hoa lớn hình thuẫn, cây cỏ tốt tươi, trăm hoa đua sắc. Phía sau nhà là một vườn rộng thênh thang, vươn cao quá nóc ngói tầu những tán cây cổ thụ. Nhìn cái vẻ ngoài tĩnh mịch, trang nhã, xinh xắn của khu nhà, khó ai ngờ được nó chứa chấp bên trong biết bao nhiêu âm mưu thâm hiểm; bao nhiêu tội ác đẫm máu. Bọn thực dân cáo già chuyên trách nghề tình báo, gián điệp của quân đội viễn chinh Pháp ở Huế - Thừa Thiên và cả Trung phần Việt Nam đang ngự trị trong đó. Thằng Bảo vệ quân đưa giấy tờ và giao Lượm cho một thằng Tây đeo lon cai, đứng chực sẵn trước cổng. Thằng cai Tây mày râu nhẵn nhụi, cặp mắt màu nước biển gườm nhìn Lượm, không nói một tiếng, dẫn Lượm qua cổng, đi dọc theo con đường vòng cung rải sỏi phía bên trái cái sân rộng thênh thang. Nó chạm trán rặt những Tây với Tây. Chúng đi lại tất bật, vội vã. Bước lên những bậc thềm đá xanh bóng loáng, gặp một thằng Tây đeo lon quan một đang đứng trước máy điện thoại- Hắn bảo tên cai:" Dẫn tên bé con Việt Minh vào gặp Ca-pi-ten Sô-lê ". Nghe đến cái tên Sô-lê, Lượm bất giác rùng mình như bị lạnh đột ngột. Những ngày bị giam ở ty An ninh nó thường nghe các anh tù kháo nhau:" Gặp thằng quan ba SÔ lê ở "đơ dem buya rô" là coi như rồi đời ". Theo các anh, Sô-lê là tên chi huy mật thám tàn bạo, thâm hiểm nhất. Các anh gọi hắn" hung thần mũi lõ ". Lượm tin chắc chuyến này mình sẽ bị tra tấn cho đến chết. Nó hình dung Sô-lê là một thằng Tây cao lớn như hộ pháp, mặt mũi dữ dằn, hai bàn tay lông lá lúc nào cũng đỏ lòm vì vay máu những tù nhân bị hắn tra tấn. Còn gian buồng làm việc của hắn, xung quanh tường treo la liệt nhưng dụng cụ tra tấn ghê rợn nhất. Lượm sững sờ, gần như kinh ngạc, khi tên cai Tây gõ cửa, đẩy nó vào một gian phòng bày biện rất sang trọng, diêm dúa. Nền đá hoa bóng loáng, các cửa sổ treo rèm lụa trắng muốt viền đăng ten. Bàn giấy, tủ, xa lông đều như soi gương được. Một thằng Tây nửa ngồi nửa đứng ở góc mép bàn giấy. Hắn trạc ngoài ba mươi tuổi, mày râu nhẵn nhụi, tóc vàng, mắt xanh lơ, đặc biệt đôi môi hắn rất mỏng và có vẻ như lúc nào cũng sẵn sàng để mỉm cười. Hắn mặc bộ áo quần màu kem, cầu vai đeo lon quan ba. Cả con người hắn sực nức mùi nước hoa hảo hạng. Lúc hắn đứng lên, dáng người dong dỏng cao, mảnh mai, cân đối, có thể nói là đẹp. Hắn hỏi bằng tiếng Việt sõi đến nỗi Lượm cứ nhìn hắn trân trân, ngờ rằng hắn là người Việt đội lốt Tây. - Chào chú bé. Chú tên là Lượm, Trần Lượm phải không? Hắn nhìn thấy hai tay Lượm bị trói, nét mặt liền lộ vẻ tức giận: - Ô lá là! Sao người ta lại nỡ trói một em bé như thế này- Em có đau lắm không? Hắn bước đến, với hai bàn tay ngón rất dài và trắng muốt như ngón tay phụ nữ, cởi trói cho Lượm- Hắn nhìn hai cổ tay Lượm bị dây trói cắn sâu thành hai cái vòng đỏ bầm, giọng thương cảm kêu lên: - Thật là khốn nạn? - Rồi hắn quẳng sợi dây thừng qua cửa sổ. Hắn đặt tay lên vai Lượm, ấn xuống cái ghế dựa bọc da kê sát tường, nói thật dịu dàng: - Em ngồi xuống cho đỡ mỏi, ngồi xuống đi, Em đói lắm phải không? Chưa kịp để Lượm trả lời, hắn quay ra cửa, búng hai ngón tay đánh tách, gọi: - Bồi! Ðem vào đây một ly sữa ca cao và một ổ mì kẹp chả. Chỉ mấy phút sau, một tên bồi Tây đen bưng vào một cái khay nhôm, trên đặt ly sữa ca cao màu nâu sẫm bốc khói, một ổ mì vàng rộm, bụng nhồi căng chả; chả thè cả ra ngoài. Sô-lê chỉ cho tên bồi đặt khay lên cái bàn thấp bốn chân có bánh xe; và tự tay hắn đẩy đến trước mặt Lượm. Cặp mắt xanh lơ không rời gương mặt Lượm, và cặp môi mỏng dính như mỉm cười. Tuy không ngửng nhìn lên - từ nãy đến giờ Lượm vẫn cúi nhìn chăm chăm sàn đá hoa bóng loáng mà hai bàn chân đất trần trụi của nó vừa in lên những vết đen ngòm - nhưng nó vẫn có cảm giác rất rõ cặp mắt tên chỉ huy mật thám Pháp đang bám chặt vào người mình- Biết vậy nó cố không nhìn cái khay nhôm. Nhưng mùi thơm sữa ca cao bốc khói và ổ mì nhồi căng chả, cứ xộc thẳng vào mũi, nó không làm sao giữ được nước bọt tứa ra từng đợt, đầy mồm. Và nó bỗng thấy đói ghê gớm, tưởng đâu như cả chục ngày rồi chưa có miếng gì vào bụng- Lúc người ta đói khứu giác bỗng trở nên tinh nhạy một cách khác thường. Nó có cảm giác mùi thơm của sữa ca cao và bánh mì nhồi chả cứ tăng mãi lên, mỗi lúc một thêm dậm đặc, hành hạ nó còn hơn cả những trận đòn của tên võ sĩ Năm-ngựa.. Sự đối xử quá ư đặc biệt của tên mật thám cáo già làm cho Lượm vừa kinh ngạc vừa hoang mang. Ðang chuẩn bị để nghe tiếng quát mắng, chửi bới tục tĩu thì được nghe những lời hỏi han ân cần- chuẩn bị để ăn báng súng, roi [bad word] bò.. thì lại được mời ăn bánh mì nhồi chả với uống sữa ca cao.. Ðối với một chiến sĩ lớn tuổi, từng trải hơn, sẽ hiểu ra đây chỉ là cách mua chuộc dụ dỗ của kẻ thù. Nó còn đáng sợ và nguy hiểm hơn những đòn tra tấn man rợ. Nhưng Lượm mới có mười bốn tuổi, và lần đầu tiên sa vào nanh vuốt bọn giặc già, hỏi chú không kinh ngạc hoang mang sao được! Lòng nó phút chốc như mềm đi. Nó nghĩ bung:" Hay thằng Tây ni không phải là thằng "Sô-lê hung thần" mà các anh lớn vẫn kể chuyện? Thằng ni coi bộ hiền khô mà tử tế quá Chắc hắn thấy mình còn nhỏ mà bị tụi An ninh đánh đập nát cả người, nên hắn thương ". Lượm đưa mắt nhìn ly sữa ca cao, ồ mì trắng nhồi chả no căng, nó thấy thèm đến cháy ruột cháy gan-" Hay là mình cứ ăn đại đi, miễn là mình cứ giữ vững, không khai báo chi với hắn hết.. ". Lượm nghĩ vậy và chỉ một tí tẹo nữa là nó rơi vào bẫy. Nó bỗng vụt nhớ một hôm anh thợ máy vừa rửa chân cho nó bằng nước muối, -vừa rủ rỉ nói:" Em ạ.. kể ra nó đánh em đến nước ni thì cũng khốn nạn thật. Nhưng có những thằng mật thám không đánh đập chi hết, ăn nói cứ ngọt xớt mới là những thằng nguy hiểm, gớm ghiếc ". Câu nói vụt hiện ra như một lời chỉ giáo cách mạng đúng lúc nhất, đã kịp thời nâng đỡ người chiến sĩ nhỏ dại của mình, phải chiến đấu đơn độc giữa hang ổ giặc- Lượm thầm" à "lên một tiếng như ngày còn đi học ở trường tiểu học An Cựu vào kỳ thi lên lớp phải giải một bài tính đố mẹo hắc búa đến nỗi đầu óc cứ mê mụ ra; bất ngờ được một cậu ở lớp trên lén búng vào một mảnh giấy bày cho cách giải. Nó hiểu ngay ra, đằng sau ly sữa ca cao, ổ mì nhồi chả và những lời ân cần, ngon ngọt của thằng Tây mật thám đẹp trai này, có gài phục một cái bẫy dễ sợ nào đó! Nó cũng giống như - hồi còn ở nhà, mình đi câu cá, nó nghĩ bụng trong cái đống thính cám rang thơm điếc mũi mình ném xuống nước để nhử bọn cá, nằm phục chiếc lưỡi câu ngạnh và mũi sắc như gươm. Chừ biết làm cách chi để tiêu được cái búng nước miếng đang tứa ra đầy một miệng mình đây? Nó cau trán day đứt, băn khoăn. Nuốt thì không tiện- Thằng chó chết sẽ biết ngay mình đang chày nước miếng vì thèm sữa ca cao với bánh mì cặp chả của hắn, nhục lắm. Mà nhổ ra lại càng không xong- Thật khó khăn nan giải. Chợt nảy ra một mẹo, Lượm đưa tay cầm ly sữa ca cao. Quan ba mật thám Sô-lê mỉm cười đắc ý, nói giọng khuyến khích: Em uống đi! Uống hết tôi sẽ gọi lấy thêm ly khác. Lượm đưa ly sữa lên mũi, hít hít, rồi làm bộ nhăn mặt rùng mình như ngửi phải một đống ruột cá ươn. Nó ọe luôn cả bãi nước miếng vào ly nữa. Nó đặt ly sữa trộn nước miếng xuống khay, lắc lắc đầu, đưa ống tay quệt miệng, nói: - Tanh quá! Tanh quái Tưởng nước chi té nước sữa! Tui mới ngửi cái đã buồn mửa ghê! Nó lại gù người tiếp tục nôn ọe, và khạc nhổ lung tung xuống nền đá hoa. SÔ lê cười khanh khách: Bé con không biết uống sữa? Ðồ nhà quê, nhà.. à quê! Không uống được sữa thì ăn ổ mì nhồi chả vậy. Lượm cũng nhếch mép cười không thành tiếng, một tay vỗ bồm bộp vào cái bụng lép kẹp: - Tui no rồi? Tui không quen ăn bánh mì chả- Sáng ni tui ăn cơm bên ty An ninh no căng cả bụng.. Tên mật thám Tây bắt đầu hiểu ra- Thằng bé đang ngồi trước mặt mình không phải là một đứa con nít bình thường, đúng như lời tên phó ty An ninh. Ðằng sau cái vẻ ngây ngô, quê mùa ấy ẩn giấu bản lĩnh của một tên Việt Minh cứng đầu, xấc láo. Cặp mắt xanh lơ của hắn sầm lại vì tức giận, nhưng cặp môi mỏng dính vẫn tươi cười: -? N đi Không ăn thì không tốt? Lượm nghe ngứa tai, chửi thầm:" Tốt! Tốt cái con mạ mày ấy à? Tốt với tụi bay thì chỉ có ba thằng Việt gian thôi. "Nó nhìn tên Sô-lê và nói với giọng thật' thà trẻ con: - Tui không quen ăn bánh mì thiệt mà.. Tui ở nhà quê.. - Tôi rất thích những chú bé gan dạ như em. Tình báo là một nghề rất hợp với những em bé gan dạ. Tôi không ngạc nhiên khi biết em là một tình báo viên giỏi của Việt Minh. Em có thể tiếp tục theo nghề tỉnh báo nếu em thích. Lượm chưa hiểu hắn muốn nói gì. Nó cau trán nghĩ ngợi một thoáng, rồi nói: - Nếu ông tha tui ra, tui sẽ về nhà đi học. - Không cần về nhà em vẫn có thể đi học được, học đúng cái nghề mà em yêu thích- Tôi sẽ gửi em đến một trường dạy nghề tình báo ở ngoại quốc. Học xong em sẽ trở thành một tình báo viên xuất sắc làm việc cho người Pháp. Em sẽ tha hồ sung sướng có nhiều tiền, có Ô tô nhà lầu, lấy vợ đẹp. " À, té ra rứa đó. Mi cho tao uống sữa ca cao ăn bánh mì cặp chả là để tao đi làm Việt gian, làm tình báo viên cho Sở mật thám của mi. May cho tao là chưa uống, chưa ăn. Lượm nghĩ vậy và nói: - Tui chi muốn các ông tha cho tui về nhà với mạ tui, tui đi học chữ.. - Em khoan trả lời tôi vội. - Sô-lê đưa bàn tay ngoắc ngoắc trước mặt Lượm như muốn ngăn lại- Tôi muốn em có thì giờ suy nghĩ trước khi trả lời. Hắn bấm chuông, gọi một thằng lính Tây vào và bảo: - Mày hãy dẫn chú bé ra vườn cho chú dạo chơi từ bây giờ đến hai giờ chiều. - Hắn quay sang nói với Lượm bằng tiếng Việt. - Em đi theo người lính này ra sau vườn dạo chơi và suy nghĩ kỹ những điều tôi vừa nói với em. Hai giờ chiều em sẽ vào đây trả lời tôi. Tôi rất mong em đồng ý. Ðây là một dịp may hiếm có, mà chỉ có những chú bé thằng tinh Tây đứng nghiêm chào tê. Quan lí, rồi vẫy tay, huýt một tiếng như gọi chó, gọi Lượm theo hắn đi ra đường gan dạ như em mới gặp được màvườn. Lượm không ngờ khu vườn đằng sau ngôi nhà này lại rộng đến thế. Như một cánh rừng nhỏ. Cây mọc san sát. Nhiều thân cây đến hai người ôm. Trên thân cây quấn quýt dây leo với những ngọn lá xanh như ngọc đúc, to bằng cái quạt- Ngoài mấy lối đi hẹp rải sỏi, cả khu vườn cỏ mọc xanh um. Những đốm nắng như những đóa hoa màu vàng chanh hình thù kỷ dị điểm rải rác trên thảm cỏ. Thấp thoáng cuối vườn là hàng rào sắt sơn xanh tua tủa những cọc nhọn hình mũi giáo; các khe hở được thưng kín bằng tôn. Dẫn Lượm ra đến vườn, tên lính gác lại huýt một tiếng như gọi chó, bảo Lượm đứng lại và nói: - Ê, bé con Bây giờ thì cho mày được dạo chơi tha hồ. Nhưng cấm không được đến gần hàng rào kia - Nó đưa mũi súng tiểu liên chỉ về phía hàng rào sắt. Lượm lắc đầu, ngồi phịch xuống một rễ cây nổi gồ trên mặt đất, nói với hắn bằng tiếng Pháp. - Tôi chỉ muốn ngồi nghỉ ở đây thôi. Hai chân tôi đau. Nó chỉ xuống hai bàn chân. - Ngồi nghỉ? Tốt lắm! Tốt lắm! Lượm bỗng thấy người mệt rã rời và hâm hấp sốt. Nó nằm dài trên cỏ, một tay co gối đầu: - Tôi muốn ngủ. Nghe đến ngủ, tên lính Pháp ngáp dài, nhún vai: - Nếu vậy tao với mày cùng ngủ. Hắn chạy vụt vào nhà, và trở ra ngay, tay cầm sợi xích sắt dài (chắc vẫn dùng để xích chó) và một cái khóa lớn. Hắn nói giọng cười cười: - Bé con vui lòng để tao xích tạm mày vào gốc cây. Nghe người ta nói mày là một tên đào tẩu có hạng - Hắn bỗng nghiêm mặt nói giọng hăm dọa. - Cái bọn đã để cho một thằng nhóc như mày đào tẩu trước họng súng là bọn ăn hại, Vào tay tao thì mày đừng hòng! Hắn luồn dây xích sắt qua kẽ hở cái rễ cây to bằng bắp đùi, quấn hai đầu dây xích vòng quanh cổ chân trái Lượm, rồi dùng khóa, khóa lại. Hắn bấm khóa kêu đánh tách, rút chìa khóa ra, đút chùm chìa khóa vào túi quần. Hắn đứng lên, miệng húyt sáo, đi đến một gốc cây cách chỗ Lượm nằm chừng mười thước. Hắn dựa khẩu tiểu liên "Tôm-sơn" vào gốc cây, nằm dài xuống cỏ, đầu gối lên bao đạn. Ngoảnh mặt về phía Lượm, hắn nháy mắt nói. - Nào, ngủ đi bé con! Một tiếng đồng hồ nữa tao sẽ đánh thức mày dậy- Không được dùng răng cắn đứt sợi dây xích của tao nhé! - Tự thưởng thức câu nói đùa ý vị của mình, hắn cười lên hô hố, nhe hết cả hai hàm răng sáng lóa, nhọn hoắt như răng thú dữ. Lượm ngoảnh mặt, chẳng thèm chú ý đến câu nói đùa vô duyên của hắn. Thằng Tây này lùn thấp, to ngang trông gần. Hình như vuông. Mắt hắn vàng như mắt rắn, mũi gồ lên giữa mặt như một đống thịt thừa đỏ hỏn, cằm vểnh lên trở trẽn một chòm râu dê. 23 Lượm nhắm mắt cố nhớ lại một cách thứ tự câu chuyện của tên quan ba mật thám nói với mình Nhưng đầu óc Lượm như mê mụ hẳn đi. Cái mùi thơm của ly sữa ca cao bốc khói với ổ bánh mì vàng rộm, cặp chả, đột ngột hiện ra choán hết mọi ý nghĩ của nó. Trán và hai thái dương nó mồ hồi toát ra đầm đìa- Mắt nó hoa lên, đầu nó quay cuồng như say nắng. Một cơn đói dữ tợn chưa từng thấy bùng lên, hành hạ nó Tay chân Lượm bủn rủn cơ bộ muốn ngất xỉu. Nó đưa tay vặt mấy ngọn cỏ non, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến, nghĩ bụng: Mình cứ nằm ri e chút nữa không ngồi dậy nổi! ". Nó liền chống tay, gắng hết sức ngồi dậy. Nó nhìn sang thấy tên lính gác đã ngủ say, phủ ngang mắt cái mũ ca-lô, miệng há hốc, ngáy như sấm. Nó nhích lại gần cái rễ cây để đây xích chùng bớt. Nó xoay trở cố tìm cách nới rộng sợi xích, hy vọng có thể rút chân được Nhưng mất công vô ích. Hai vòng dây xích ôm chặt như cắn vào cổ chân, không một chỗ nào có thể đút lọt ngón tay út. Nó muốn phát khóc vì bất lực và căm tức. Nếu hắn trói bằng các thứ dây khác, không phải dây xích, nhất định mình sẽ dùng răng cắn cho kỳ đứt! Nó nghĩ vậy và ao ước: Chừ mình có phép chi hóa cho bàn chân nhỏ lại bằng cái que! Tau mà rút được chân ra thì tụi bay đừng có hòng bắt lại được tau!". Tên lính gáy phè phè trở mình xoay lưng lại phía nó. Có một vật gì sáng lấp lánh trên cỏ. Chùm chìa khóa? Chắc lúc hắn trở mình, chùm chìa khóa đã rơi ra khỏi túi quần.. Hai mắt Lượm mở to, căng thẳng, đau đớn, tia nhìn như bị dính chặt vào những mẩu ngắn kim loại nằm đè dẹp mấy lá cỏ xanh tơ. Ôi, tia nhìn nó lúc này sao mà giống hệt một người đang khát cháy cổ nhìn ly nước để ở chỗ mà không có cách gì với lấy được. Nó nghiến răng, bặm môi, đáy mắt lóe ánh thù hận. Những giọt nước mắt cay đắng ứa ra, chảy tràn trên hai gò má. Bỗng một vật gì trắng muốt, mềm nhẹ và thơm, úp chụp lên đầu nó, lút đến vai. Lượm giật mình, ngơ ngác, đưa tay lên định gở. Một chuỗi cười ròn tan non mướt, nghịch ngợm, cất lên ngay sau lưng nó. Tiếng reo của trẻ con bằng tiếng Pháp. - Anh Giắc ơi! Con bướm này nó mới to làm sao! Lượm không kịp gỡ cái vặt trắng muốt úp chụp trên đầu, quay lại. Miệng nó há ra. Sửng sốt. Trước mặt nó là một con bé con Tây khoảng năm sáu tuổi. Trời ơi nó mới xinh làm sao. Tóc nó màu vàng nhạt óng ánh như tơ, cuộn thành từng búp nhỏ xoăn xoăn quanh cổ. Ðôi mắt to xanh biếc hai hàng lông mi dài cong vút che rợp tia nhìn, hai má nó đỏ au, cái mũi cao hơi hếch, cái miệng nhỏ chum chúm như một nụ hồng- Nó mặc váy ngắn đỏ viền đăng-ten và cái áo ngắn tay màu hồng nhạt. Tay chân nó trông mũm mĩm, có ngấn, như nặn bằng bột. Nó cầm trong tay cái vợt bắt bướm may bằng vải màn tuyn và chính nó vừa úp vợt lên đầu Lượm- Con bé nhấc vợt ra khỏi đầu Lượm, cúi nhìn gần sát vào mắt Lượm. Cặp mất xanh biếc, lông mi dài và cong vừa dạn vừa tinh nghịch. Bất giác Lượm gật đầu, mỉm cười với nó và nói bằng tiếng Pháp: - Chào em bé! Thằng Giắc, anh con bé, đang mải mê đuổi rượt bướm phía gần cuối vườn. Nghe tiếng em gọi, nó vác vợt, chạy lại. Nó trạc bảy, tám tuổi, gương mặt giống em gái như lột. Chỉ khác là tóc nó sẫm màu hơn và xoăn tít- Nó mặc áo may Ô trắng, quần "soóc" xanh nước biển, ống quần bó chít đôi bắp đùi vạm vỡ. Nó đứng sát bên em gái, chống cán vợt xuống đất, tò mò coi Lượm: - Mày là ai thế? - Là một thằng nhóc như hai đứa mày thôi. - Mày ngồi ở đây làm gì? - Tau ngồi chơi, tau ngắm cây, ngắm trời và ngắm chúng mày.. Con bé chợt nhìn xuống chân Lượm, bật kêu, giọng sợ hãi: - Ôi? Chân nó bị trói kìa! Thằng anh cúi nhìn cái dây xích với ổ khóa quanh chân Lượm quay lại nói với con em. - Tao biết nó là ai rồi, Viết Min! - Viết Min? - con em hỏi lại giọng không tin. - Sao em nghe nói bọn Viết Min dử tợn như con yêu râu xanh kia mà? - Tao biết đâu đấy - Thằng anh nhún vai trả lời. - Bọn Viết Min người ta cầm súng dẫn đến chỗ ba đều bị trói. Nó đột ngột hỏi Lượm: - Mày hay cắt cổ trẻ con lắm phải không? - Nó đưa bàn tay cứa cứa vào cổ nó ra hiệu. - Ai bảo mày thế? - Ba tao. - Ba mày là ai? - Ca-pi-ten Sô-lê. - Nó trả lời mặt vênh lên. "A, té ra hai đứa bay là con thằng chánh mật thám SÔ lê Cha bay vừa mới dụ tau nốc sửa ca cao với ăn bánh mì cặp chả, rồi chút nữa phải vô trả lời có đồng ý đi làm Việt gian hay không. Làm Việt gian sướng lắm, có Ô tô, nhà lầu, lấy vợ đẹp" May mà tau chưa uống, chưa ăn ". Lượm nghĩ vậy, và nhếch mép cười, mắt vẫn đăm đắm nhìn hai đứa con Tây. Và nó nhận ra nhiều nét Sô-lê trên gương mặt trẻ con của mỗi đứa- Thằng anh thì cặp môi mỏng dính, còn con em thì có vết lõm ở giữa cằm. Lượm hỏi chúng giọng thân mật: - Chúng mày có bắt được nhiều bướm đẹp không? - Ở đằng kia nhiều bướm đẹp lắm, nhưng chúng bay nhanh quá- Thằng anh chỉ về phía cuối vườn trả lời vẻ mặt ỉu xìu. Con em hỏi: - Mày có biết bắt bướm không? - Không những bắt bướm, tao còn bắt được cả châu chấu, cả chuồn chuồn, cả chim. Ðúng lúc đó một con chuồn chuồn ớt từ đâu bay lại, đậu xuống một nhánh cỏ ngay phía trước mặt Lượm. Con bé rụt đầu, lè lưỡi, gương mặt sáng bừng một vẻ vui thích khôn tả. Nó kêu lên khe khẽ, giọng nghẹn lại vì hồi hộp: - Ôi! Ôi! Đẹp quá.. Ðẹp quá! Anh Giắc Anh bắt đi.. bắt đi. Nó bay mất!.. ôi? Thằng anh đưa cao cây vợt, nét mặt căng thẳng rón rén bước gần đến con chuồn chuồn, nhưng Lượm kịp đưa tay ngăn nó lại, giọng thì thào, hồi hộp không kém: - Ðừng, đừng.. mày làm nó bay mất! Ðể tao bắt giúp mày- Lượm nhón người, cố thật khẽ để dây xích trói chân không khua thành tiếng. Nó quỳ cái chân không bị xích lên cố vươn người về phía con chuồn chuồn cho thật vừa tầm tay.. Ngay lúc đó một ý nghĩ rất mơ hồ lướt nhanh qua óc nó:" Tóm cổ được con chuồn chuồn đỏ như quả ớt chín này, mình sẽ có cơ rút chân ra khỏi dây xích ". Không hiểu sao trống ngực nó đập mạnh đến nỗi nó phải đưa bàn tay trái lên ép chặt lấy lồng ngực. Nó chĩa ngón tay trỏ, quay tít trước mặt con chuồn chuồn, rồi bất thần xòe cả bàn tay chộp thật nhanh. Con chuồn chuồn đã nằm gọn trong bàn tay nó, đôi cánh mỏng như voan hồng rung lên thành tiếng tuyệt vọng. Thằng anh và con em vứt cả vợt bướm xuống cỏ nhảy lên, vỗ tay reo. - Bravô! Ðược rồi! Bắt được rồi Mày bắt nó tài quá! Lượm đưa bàn tay trái vuốt mồ hồi dầm dề trên mặt, lào thào nói: - Suỵt! Đừng làm ồn! Bàn tay nó, cầm con chuồn chuồn rung lên như đang cầm một vật gì quá nặng. Nó trao con chuồn chuồn cho con em. - Ðây, cho mày. Cầm vào cánh không nó bay mất. Lượm quay sang nói với thằng anh: Mày là anh, mày phải nhường nó. Nếu có một con khác bay đến tao sẽ bắt cho mày. Thằng anh lúc này không còn nhớ gì đến chuyện Việt Minh cắt cổ trẻ con. Nó chỉ còn thán phục cái tài bắt chuồn chuồn bằng tay không của Lượm- Nó hỏi, cặp mắt xanh cười tít: - Mày có bắt được chim không? Chim con trong tổ trên ngọn cây ấy mà. - Nó chỉ ngón tay lên cao ra hiệu: - Tau còn bắt được cả chim mẹ nữa kia.. - Ðằng kia, trên cây rất cao có một tổ chim gì ấy- Ðứng dưới gốc tau nghe rõ tiếng chim con kêu: Chiếp? Chiếp? - Nó chúm đôi môi mỏng dính, đỏ chót, cố bắt chước tiếng chim non kêu. - Mày có bắt được không? - Tau thừa sức. - Cây ấy cao lắm. - Cao bằng ba ngôi lầu này tau cũng trèo lên như chơi. Con bé từ nãy đến giờ vẫn mải mê ngắm con chuồn chuồn bị kẹp chặt giữa 'hai ngón tay mũm mĩm, nó bước đến cầm vai áo Lượm lay lay: - Mày đi bắt ngay đi! Bắt được, cho em một con anh Giắc nhé! Lượm chỉ xuống cỏ chân bị xích: - Nhưng chân tau bị trói, tau không đi được. Thằng anh chỉ tên lính gác đang hỗ mồm ngáy như sấm: - Có phải thằng kia trói mày không? Tao sẽ đến gọi nó dậy mở trói cho mày. Lượm hốt hoảng đưa tay ngăn nó lại, nói gần như thì thầm: - Ðừng! Ðừng? Ðừng đánh thức nó. Nó không mở đâu. - Ồ, nó là thằng lính Mi-sen háu ăn đây mà. Ba tao vẫn tát nó luôn. Nó sợ tao lắm. Chẳng cần đánh thức nó.. Nó sẽ không cho tao trèo cây bắt chim đâu.. nó sợ tao ngã chết- Lượm cố moi óc bịa đặt cách giải thích cho thằng Tây con này tin là không nên đánh thức thằng lính gác. Lượm chỉ chùm chìa khóa nằm lấp lánh trên khóm cỏ vì có một đốm nắng dội vào, sát sau lưng tên lính. Mày chỉ cần lấy chùm chìa khóa kia lại đây cho tao, là tao tự mở trói được thôi. Con em nhanh nhẩu đưa con chuồn chuồn cho thằng anh: - Anh cầm giúp em. Ðể em lấy cho. Lượm nhìn con bé, nói như hụt hơi: - Nhưng phải đi thật khẽ, như lúc bắt bướm ấy. Ðừng để thằng Mi-sen háu ăn thức dậy, nó sẽ đòi lại chùm chìa khóa mất. Ðược! Ðược! Còn bé tinh- nghịch gật gật đầu làm những búp tóc xoăn mềm như tơ, rung rinh quanh cái cổ trắng nõn nà. Con bé cúi nhặt cái vợt bắt bướm, cúi lom khom, đi rón rén đến chỗ tên lính gác nằm ngủ- Vừa tầm tay, nó đưa vợt lên úp chụp chùm chìa khóa- Chùm chìa khóa đã nằm gọn trọng cái vợt, đáy vớt vải tuyệt trắng phủ lên trên- Nó quay lại rụt đầu lè lưỡi, nhìn Lượm và anh nó- hồi hộp đến như vậy mà cái vẻ trẻ con tinh nghịch, dễ thương của con bé làm cho Lượm phải mỉm cười Lượm đưa ngón tay lên môi ra hiệu bảo nó im lặng, gật gật đầu tán thưởng, khuyến khích- Con bé nhắc vợt, đưa hai ngón tay bụ bẫm nhón chùm chìa khóa, rồi rón rén quay trở lại, trao cho Lượm. Lượm phải trấn tĩnh và cố gắng lắm mới không vồ ngay lấy chùm chìa khóa trong tay con bé- Qua một lần vượt ngục thất bại, người chiến sĩ quân báo mười bốn tuổi này đã có ít nhiều kinh nghiệm- Lượm biết rằng đây là những giây phút quyết định sự thành bại. Chỉ một tí tẹo hấp tấp, thiếu suy tính là hỏng việc. Lượm ngửa bàn tay run run đón lấy chùm chìa khóa. Cái chất thép lạnh, nặng trĩu, như truyền qua máu mà thấm đến tận óc. Ôi, cái điều mà mười phút trước đây hầu như là chuyện hão huyền, viển vông, bây giờ đã nằm gọn trong lòng bàn tay nó. Toàn thân Lượm run lên, một cảm giác bồi hồi đến ớn lạnh. Chùm chìa khóa hơn một chục chiếc, dài ngắn các cỡ, nhưng nó nhận ra ngay chiếc chìa khóa xích. Lúc nãy chỉ nhìn thoáng mà không hiểu sao cái chìa in vào trí nhớ nó như in lên sáp mềm. Lượm tra chìa vào khóa xoay một vòng- Tiếng khóa kêu đánh tách, nghe to và vang dội khác thường. Nó hốt hoảng đưa mắt nhìn về phía tên lính gác. Hắn vẫn ngáy vang như sấm. Rất thận trong nó tháo hai vòng xích sắt ra khỏi chân. Nó vịn gốc cây, lảo đảo đứng lên, nói với hai đứa bé, giọng dỗ dành: - Chúng mày cứ đứng yên ở đây. Tao đến cây cao kia trèo lên, bắt được chim tao sẽ mang đến cho chúng mày ngay- Những con chim thật đẹp, mỏ đỏ, cánh xanh biếc. Thằng anh ngắt lời: - Tao muốn xem mày bắt chim. - Không được! Nghe tiếng đông người, chim sợ sẽ bay hết.. những con chim đẹp nó khôn lắm. Nghe vậy hai đứa đành gật đầu đồng ý: - Mày phải bắt nhanh lên nhé! - Ư! Nhanh. Rất nhanh.. Không nhanh thì thất bại hoàn toàn. 24 Lượm bước gần như chạy về phía cuối vườn. Nó ngoảnh lại hai ba lần để kiểm tra hai đứa bé và tên lính gác. Nó gật gật đầu khuyến khích hai đứa bé đứng yên- Không được làm ồn. Nó đã đến gần sát hàng rào ngoảnh lại lần cuối cùng. Hai đứa bé đứng dựa vào nhau nhìn theo nó không chớp mắt. Nó đưa tay chỉ lên một ngọn cây cao. Thằng anh gật đầu. Nó vòng ra đằng sau thân cây làm như để trèo, nhưng lại cúi rạp người gần như bò, chạy nép ven hàng rào khoảng mười thước. Nó sợ nếu trèo qua rào ngay, hai đứa bé sẽ nhìn thấy, kêu lên, thằng lính gác tỉnh dậy, thế là đi đứt! Tầm mắt hai đứa bé đã bị che khuất. Hàng rào sắt khá cao nhưng Lượm vốn là tay trèo leo điệu nghệ. Hai tay bíu cọc sắt, chân đạp vào tấm tôn, dùng toàn lực gân cốt đu lên nóc rào- Trước khi vọt ra ngoài, nó lia mắt kiểm tra con đường- Ðường vắng người. Xa xa tít phía cuối đường có mấy người đàn bà gồng gánh. Không chậm trễ một giây, nó trườn người qua kẽ hở giữa hai gióng sắt nhọn chỉ một loáng nó đã buông thả người từ trên hàng rào sắt xuống hè đường râm mát bóng cây. Nó cắm cổ chạy dọc theo lề đường, chân gần như không kịp bén đất. Gặp một con đường rẽ, nó rẽ luôn. Con đường này có rất nhiều cây me, cây phượng, cây bút bút. -- Chỉ mười phút sau nó đã ngồi chóc ngóc trên một ngọn cây bút bút, giữa cái chạc ba. Nó ôm chặt một cành cây để thở. Hơi thở nó đứt quãng. Nó hoảng sợ:" E mình đứt hơi mà chết nốt ". Đầu óc nó quay cuồng, cả ngọn cây như đang lắc lư, chao đảo ngả nghiêng muốn hất nhào nó xuống đất," tại mình đang chóng mặt "- Nó thoáng nghĩ vậy và càng ôm riết cành cây. Một nỗi mệt nhọc khủng khiếp đổ ụp xuống người nó. Nó xỉu đi, không còn hay biết gì nữa. Nhưng hai tay nó vẫn ôm chết cành cây, không chịu ngả với bản năng kỳ lạ của sinh vật gan góc. Giống hệt loài chim gõ kiến, dù bị bắn chết, cũng đừng hòng chim buông rời cành cây đang bám. ° ° ° Hai anh em thằng Giắc đứng ngong ngóng đợi đến mười lăm phút, không thấy thằng bắt chim trở lại. Chúng nóng ruột, cầm vợt chạy về phía Lượm vừa chạy, xem đã bắt được con chim nào chưa. Sao mà lâu thế! Chúng đi loanh quanh ngẩng nhìn lên các ngọn cây tìm kiếm. Không thấy bóng thằng bắt chim đâu cả! Hai đứa thi nhau gọi, không có tiếng trả lời. Thế là hai đứa bắt đầu sợ. Thằng anh khôn ngoan hơn, nó biết là anh em nó vừa làm một việc dại dột, có thể làm cho người lớn tức giận. Nó liền dặn con em phải giấu biệt chuyện lấy chùm chìa khóa đưa cho thằng bắt chim" Ba mà biết, ba sẽ phạt, không cho chúng mình đến vườn này chơi, bắt bướm nữa đâu! ". Con em gật đầu ưng thuận. Hai đứa len lén đi vào nhà. Ðã gần đến giờ làm việc, thằng" Mi-sen háu ăn "choàng tỉnh đậy, ngáp một tiếng thật to, cầm khẩu súng xách bao đạn và huýt lên như gọi chó. Nó bỗng đứng sững như chôn chân xuống đất, mắt trợn trừng, miệng há hốc: Thằng tù bé con đã biến mất! Hán chạy nhào tới chỗ rễ cây xích Lượm. Sợi dây xích nằm trơ ngoằn ngoèo trên cỏ, cùng với cái khóa. Nó chợt nhớ, chộp tay túi quần. Chùm chìa khóa nặng trĩu cũng không cánh mà bay. Thật giống như chuyện ma quỷ vậy Hắn thoáng nghĩ:" Mình đe nó đừng cắn dây xích mà trốn lại hóa ra chuyện thật "Chỉ mấy phút sau, cả Sở mật thám Phòng nhì Pháp cũng giống như ty An ninh năm hôm trước, nhốn nháo hết lên vì cái tin Lượm trốn. Tên quan ba Sô-lê ra chỗ Lượm vừa ngồi, xem xét sợi dây xích, cái khóa, rễ cây luồn dây xích, chỗ tên lính nằm ngủ.. Nghe thằng lính" Mi-sen háu ăn "lắp bắp run rẩy báo cáo lại đầu đuôi sự việc, SÔ lê run lên vì tức giận. Cái mặt nạ đẹp trai lịch sự của hắn rớt xuống, nhường chỗ cho gương mặt nham hiểm, tàn bạo. Hắn gầm lên: - Mày nói láo! Không thể như thế được! Hắn đạp ngã tên lính xuống cỏ, dùng mũi giày đen bóng đá tới tấp vào mặt, vào đầu phút chốc cả gương mặt với chòm râu dê của thằng" Mi-sen háu ăn "nhoe nhoét máu. Ðúng là tên Sô-lê khó mà tin được thằng bé con Việt Minh ấy có thể vươn cánh tay ra dài đến hơn mười thước, móc chùm chìa khóa trong túi quần tên lính, mở khóa trốn đi. Hắn cho rằng tên lính đã phạm một sơ xuất nào đó, để thằng bé lấy cắp được chùm chìa khóa. Hắn sai bọn văn phòng gọi điện thoại đến tất cả các trạm gác trong thành phố, tả kỹ hình đáng của Lượm. Hắn ra lệnh cho đội hiến binh túc trực cạnh sở mật thám, phóng mô tô dọc theo các đường phố lùng tìm Lượm Hắn quát lên trong máy điện thoại. - Phải bắt giữ tất cả những thằng bé khả nghi. Suốt mấy tiếng đồng hồ cả lực lượng Sở mật thám Phòng nhì đổ xô lùng tìm, kiểm soát không sót một đường ngang ngõ tắt nào trong thành Huế. Nhưng vô hiệu! Chú bé tình báo Việt Minh đã biến mất khỏi thành phố như nhân vật trong cuốn tiểu thuyết- Người vô hình. Quan ba Sô-lê hai tay thọc túi quần đi đi lại lại trong phòng làm việc, lồng lộn như con thú dữ bị mắc bẫy- Hắn đấm bàn rít lên: - Ðể cho một đứa con nít trốn thoát ngay tại" Ðờ rem buya-rô "thì thật là nhục nhã! Chuông điện thoại tới tấp đổ' các cánh quân truy lùng tên" Việt Minh con nít"đều báo cáo về là nó đã lọt ra khỏi thành phố. Nhưng tên mật thám cáo già Sô-lê vẫn tin chắc là Lượm còn ẩn náu đâu đó trong thành phố. Hắn gọi điện thoại đến Sở cảnh sát dã chiến, ra lệnh dắt ngay chó béc-giê trinh sát đến. Và đó là một tình huống mà người chiến si vượt ngục mười bốn tuổi không kịp lường tới.
Chương 13. Phần thứ 5 Bấm để xem Trong những giờ phút nghiêm trọng của lịch sử, nhân dân và Đất nước thường mượn lời nói của con trẻ để nói lên cái tráng khí của mình. (Lời của người nghĩa quân già thời Trương Định) 1 Người ở các địa phương trong tỉnh bị giắc bắt giải về Ty An ninh ngày càng đông. Thôi thì đủ, thanh niên, trung niên, ông già, cả con nít.. Và theo hồ sơ, giấy từ gửi kèm theo thì người nào cũng là loại "Việt minh đầu sỏ", từng làm những việc nghiêng trời lệch đất. Nào là ám sát lý trưởng giữa ban ngày, liệng lựu đạn vào bàn tiệc các quan Tây, nào là treo cờ đỏ sao vàng, căng khẩu hiệu, rải truyền đơn.. Ty An ninh phải xây thêm hai buồng tạm giam rộng gấp đôi buồng cũ, và cũng sát liền ngay đó, vẫn không đủ chỗ giam. Tên Ty trưởng quyết định chuyển bớt khoảng ba chục tù nhân loại cứng đầu, nguy hiểm nhất sang lao Thừa Phú - nhà tù lớn nhất ở Huế, được xây dựng từ hồi Pháp thuộc. Chúng rất sợ những tù nhân sắp chuyển đi phản đối. Vì đã vào lao Thừa Phú là coi như chính thức ở tù, chưa biết ngày nào mới được thả ra. Do đó chúng giữ rất kín việc chuyển tù, không cho biết ngày giờ chuyển và chuyển đi đâu. Một buổi chiều trời mưa tầm tã. Mưa cứ từng đợt từng đợt, ào ào trút xuống, quất ràn rạt trên mái buồng giam. Mưa hắt vào cả bên trong, làm những người gần cửa ra vào ướt lướt thướt. Khoảng quá trưa, trời hơi ngớt mưa, nhưng bầu trời mây đen vẫn ùn ùn đùn lên từ phía biển, báo hiệu những trận mưa sắp tới lớn hơn. Tiếng khóa cửa lách cách. Cửa buồng giam mở toang. Hai tên Bảo Vệ Quân cầm ngang súng trường "mát" cắm lê đứng chắn hai bên cửa. Một thằng An ninh gầy choắt, má hóp, môi thâm sì, đầu tóc chải "Bi dăng tin" ruồi đậu phải trượt chân, tay cầm một tập giấy đánh máy đứng ngay giữa cửa. Nhìn cách đứng và bộ dạng tức cười của chúng giống bức ký họa vẽ nhại cảnh Quan Công đứng giữa đọc sách, Châu Xương, Châu Bình cầm gươm bát xà mâu, đứng hầu hai bên tả hữu. Thằng An ninh đảo cặp mắt trắng dã nhìn khắp buồng giam một lượt, nói giọng hách dịch: - Ai nghe đọc đến tên thì dạ lên một tiếng nghe chưa? - Không dạ mà ừ thì có được không ạ? - Tiêng một người nào đó từ trong góc tối hỏi vọng ra. Hắn lừ mắt liếc xéo vào góc có tiếng hỏi, rồi bắt đầu đọc. Những người có tên gọi hồi hộp, bồn chồn, đưa mắt nhớn nhác nhìn nhau. Trong buồng giam có hơn năm chục người mà chỉ có ba chục người được gọi. Chính điều này làm cho họ bồn chồn, hồi hộp. Chúng gọi mình để làm gì? Chúng thả chăng? Hay đưa đi bắn? Hay chuyển qua một nhà tù khác? Trong đáy mắt những người được gọi tên trước, ánh lên những tia mừng rỡ, hy vọng.. Nhưng đến lúc nghe gọi đến tên Trần Văn Lượm và Nguyễn Văn Cận (anh thợ máy) thì những tia hy vọng trong mắt họ vụt tắt ngấm. Đầu họ rũ xuống, bật lên tiếng thở dài não nuột. Đã đứng chung danh sách với cái anh "Trưởng ban ám sát" và thằng con nít ranh hai lần vượt tù thì chẳng còn hy vọng gì được tha! Khi nghe gọi đến tên mình, Lượm không dạ, không ừ, mà đáp rất to như ngay ở Đội trong giờ điểm danh: "Có mặt!". Giọng nó vừa to vừa dỏng dạc, lại không quấy nghịch, làm thằng An ninh phải quặu mặt, gườm gườm nhìn Lượm một lúc khá lâu, mới cúi xuống đọc tiếp. Lượm không chút sợ sệt, nó còn gân mặt lên vẻ ngạo mạn, thách thức "Mi tức lắm à?". Ánh mắt Lượm như muốn nói: "Tức thì hộc máu mà chết, chứ làm cóc khô chi được ta?". Lúc nào cũng vậy, hễ mỗi lẩn có mặt tụi An ninh, Bảo vệ quân thì dù đang vừa mới bị đòn thừa sống thiếu chết, hoặc đang lo buồn đến muốn khóc òa, nó cũng cố làm ra vẻ mặt tươi tỉnh, cười cợt, có khi còn chụm môi huýt sáo. Lòng kiêu hãnh của người chiến sĩ cộng với tính tự ái của con nít, Lượm muốn tỏ cho chúng biết: "Tau coi khinh các trận đòn xé thịt, coi khinh nhà giam, súng ống, khóa xích.. của bọn bay". Đó cũng là một cách nó trả thù những trận đòn tướp thịt của tụi An ninh. Tụi An ninh, thằng cai ngục, mấy tên lính gác tù vẫn thường bàn tán với nhau về Lượm "Đầu chưa sạch cứt trâu nhưng hắn cứng đầu cứng cổ nhất buồng giam! Quân nớ các ông trên không cho đem bắn quách đi, để lớn thêm vài tuổi nữa, hắn cắt cổ tụi mình có ngày!", "Cần chi đợi lớn thêm vài tuổi? Chừ mà hắn có dao trong tay coi hắn có cắt họng cổ tụi mình ngay không?". Đặc biệt sau cái lần Lượm mở được khóa xích trốn ngay trước mũi súng của thằng lính Tây gác ở Sở Mật thám Phòng nhì, thì cả Ty An ninh đều phải sợ hãi, kiêng dè. Ngay cái buổi chiều quan ba Sô-lê phải gọi đến lực lượng cảnh sát dã chiến dùng chó béc giê mới phát hiện ra được Lượm trốn trên ngọn cây và cho xe Jeep chở trả nó về Ty An ninh, thằng Ty phó An ninh đã cho gọi lên gặp ngay. Hắn có vẻ đắc chí tưởng đâu nhưng Lượm cùng phe với hắn, và đã giúp hắn trả mối thù bị tên chủ mật thám Tây làm nhục. Hắn hỏi Lượm, không có vẻ gì giận dữ. - Răng? Công trình đến như rứa mà phải chịu để bại lại à? Lượm đang cơn uất ức chưa nguôi vì cú thất bại quá cay đắng, nên cũng quên luôn hắn là Ty phó An ninh kiêm Trưởng phòng lấy cung, trả lời rất thành thật: - Tại tui dại, tui quên mất tụi hắn có chó săn. Tui mà nhớ, thì tui phải lập mẹo khác. Trước khi trèo lên cây tui trèo lên một cây khác xa đó, cởi hết áo quần vứt lên để đánh lạc hướng chó.. Tổ cha con chó săn? - Hỗn? - Mặt hắn vụt tím lại, quát to. Tiếng chó săn Lượm nói một cách vô tình nhưng hắn cho là nói cạnh hắn. Hắn dang thẳng cảnh tay tát Lượm mạnh đến nỗi Lượm ngã nhào từ trên ghế xuống đất, nằm chết giấc một lúc. Chuyện đó xảy ra cách đây mới năm hôm. - Lê Văn Tư, bí danh Tư-dát? - Tên An ninh đọc đến tên cuối cùng của bản danh sách, không ai ừ hoặc dạ. Hắn lại xướng to lên một lần nữa. Lượm chợt hiểu ra. Nó huých cùi chỏ vào sườn thằng Thúi lúc này đang vươn cái cổ ngẵng như cổ gà con mà ngó tên An không chớp mắt. - Ông nớ gọi tên mi đến hai lần rồi răng mi không ử, không ừ chi hết cả. Mi vô phép thiệt? - Lượm nói giả vờ giọng trách mắng. - Nhưng tui có phải tên Tư mô? - Thằng Thúi cãi lại miệng há ra, ngơ ngáe. Nó vội vàng lập cập đứng lên, dợm bước tới một bước, vòng tay khúm núm thưa với tên An ninh: - Dạ thưa chú, con không phải tên Tư. Dạ con tên là Thúi, bán kẹo gừng ở chợ Bao Vinh.. Lượm cũng đứng dậy, bước tới nói chen vô như cãi nhau với thằng Thúi: - Rứa răng hôm mi bị bắt, mi khai với các ông nớ mi tên là Tư-dát, Việt Minh đầu sỏ, mang rá kẹo gừng về đánh đồn Hộ Thành, làm đồn sập cái rầm, còn rá kẹo gừng thì chảy nước hết? Mi còn nhận là trưởng ban ám sát Vê-cu-đê nữa tê mà? Thằng Thúi cãi lại, nước mắt rớm rớm: - Tại họ đánh tui đau quá, tui phải khai bậy khai bạ rứa, chứ tui là thằng Thúi bán kẹo gừng thiệt mà.. hu hu.. - Nó òa khóc to. Những người trong buồng giam đang lo buồn nẫu ruột nhưng nghe hai đứa cãi vã nhau đều phải phì cười. Tên An ninh gằn giọng ra lệnh: - Tất cả những người có tên gọi ra ngay sân tập họp. Có đồ lề của nả chi đáng giá thì mang theo. Ba chục người tay xách nách mang, lôi thôi lếch thếch nối nhau bước ra khỏi cửa buồng giam. Họ đứng thành một hàng dài dọc cái sân rải đá dăm lổn nhổn, nước đọng từng vũng lớn nhỏ. Thằng Thúi và Lượm nhỏ nhất, đứng ngay ở hàng đẩu. Nhìn thấy thằng Thúi đeo kè kè trước bụng cái rổ và cái mẹt bán kẹo gừng - đồ lề của nả đáng giá nhất của nó - thằng An ninh ngứa mắt giựt phắt cái rá ra khỏi cổ nó, và cầm liệng bay qua bên kia mái nhà. Bị giựt quá bất ngờ, thằng Thúi không kịp giữ lại. Nó nhợm chân định chạy theo nhặt. Thằng Bảo vệ quân chộp cổ áo nó kéo giằng lại và giáng luôn một tát tai, chửi: - Con mạ mi muốn trốn à - Hắn ngó dọc hàng người, giọng hăm he - Nói trước cho mà biết đứa mô bước ra khỏi hàng là ăn đạn ngay! Chúng áp giải đoàn tù men theo hè những đường phố ướt át. Gió rung cây xào xạc. Nước mừa đọng trên các tán lá rơi lộp bộp xuống đầu xuống cổ đoàn tù. Khi rẽ đến đường phố thứ ba thì tất cả đều đoán được họ đang bị giải đến nhà lao Thừa Phủ. 2 Gần đến cổng lao Thừa Phủ trời bỗng đổ mưa như xối. Đoàn tù hầu hết không nón không mũ, đội mưa xối xả, cắm cúi lầm lũi đi.. Một người nào đó ở quãng giữa hàng, bật tiếng kêu rên: - Cực chi mà cực lắm ri trời! Đến trước cổng lao, hai tên lính áp giải hô đoàn tù đứng lại sắp thành hai hàng dọc. Lượm đưa tay vuốt nước mưa giàn giụa trên tóc, trên mặt ngoảnh đi ngoảnh lại nhìn con đường phố hẹp dẫn đến cổng lao. Nó ngạc nhiên tự hỏi: "Cả cái thành phố Huế ni, có đường phố lớn nhỏ mô mà ngày còn đi học mình không chạy rông? Răng con đường ngang qua cửa lao ni lại không biết hè?" : Nó chợt nhớ có lần mạ kể: "Ngày cha mới bị bắt, tòa án chưa kết án đi đày, tụi Tây giam cha gần một năm ở lao Thừa Phủ. Mỗi tuần mấy lần mạ bới cơm, bới nước tới cho cha. Lần mô gặp mạ, cha cũng năn nỉ: Em đến thăm anh ít thôi kẻo mất công mất việc ở nhà. Em còn phải làm lụng nuôi con.. Cứ theo anh bới sách hoài ri, cực chịu chi thấu.. Mạ không nói câu chi, cứ đứng trân trân ngó cha, nước mắt chảy như tắm.". Lượm bỗng thấy lồng ngực trống rỗng, tim đau nhói, hai mắt cay xè như bị xông khói. Nó chưa bao giờ thấy cảm thương người cha mà nó chưa hề biết mặt như giây phút này. Nó mếu máo nói thẩm: "Rứa là chừ tụi Tây lại bắt con giải đến đây như cha ngày đó.. Mà mạ con thì ở tận ngoài Ưu Điềm, Mỹ Chánh chừa hay biết chi chuyện con ở đây.". Nó cúi xuống đường, miên man nghĩ: "Chưa chừng ngày đó, cũng như buổi chiều mưa gió tầm tã như chiều ni, mạ co ro trong cái áo tơi lá, tay xách cái bị lác đựng cơm canh đứng đợi cha.. đúng cái chỗ mà mình đang đứng đây cũng nên.. Đời mạ khổ chi khổ lắm rứa mạ ơi!". Nước mắt trào ra từng đợt ròng ròng trên hai má, nó cũng chẳng buồn đưa tay lên quệt. Nó cứ để mặc cho nước mắt hòa với nước mưa. Nhà lao Thừa Phủ được xây dựng cùng một kiểu với hầu hết các nhà tù mà bọn thực dân đã xây suốt gần một thế kỷ trên khắp nước ta. Khu vực nhà lao hình vuông, có hai lớp tường. Lớp tường ngoài cao hơn lớp trong, xây bằng đá, cao vòi vọi nóc tường cắm chi chít mảnh chai. Như sợ chưa đủ cao, trên nóc tường còn chạy quanh một hàng cọc sắt cao gần một mét, giăng đầy dây điện. Cổng lao cao vượt ìên như một cái tháp, hai cánh cửa lớn bằng gỗ lim ghép kín mít viền nẹp sắt, tán đình sắt tròn. Trên nóc cổng cắm một cột cờ sơn xanh, treo hai lá cờ xanh trắng đỏ và vàng quẻ ly (1). Hai lá cờ ướt sũng, như hai con gà rù đứng sã cánh dưới mưa. Bên phải cổng, có một chòi canh. Trong chòi một tên Bảo vệ quân cầm súng cắm lưỡi lê đứng gác. Một tên lính áp giải tù đi đến chòi canh trình báo với tên lính gác. Lát sau, một cánh cổng lao nặng nề hé mở chỉ vừa hai người qua lọt. Khi người tù cuối cùng vừa vào khỏi, cánh cổng đóng ập ngay lại. Thành phố đã hoàn toàn khép kín đằng sau lưng họ. Không ai bảo ai mà tất cả đều ngoái lại. Tầm mắt họ bị chặn đứng bởi màu tường đá xám xịt, che khuất cả những ngọn cây cao ngoài đường phố. Hàng mảnh chai tua tủa lóng lánh nước, như đang cắt xé bầu trời sầm tối trút mưa. Cặp mắt Lượm nhòe nhoẹt nước mưa, nước mắt, ngước lên mãi, đăm đăm buồn bã nhìn hàng mảnh chai. Chưa lúc nào như lúc này nó thấy tiếc đến cồn cào cả ruột gan lần vượt tù thất bại vừa rồi. Nó như nghe tiếng chó sủa dử tợn chiều hôm đó, làm nó đang ôm siết cành cây ngủ mê mệt như chết, phải choàng tỉnh dậy. Phải mất đến một phút nó mới nhớ lại được tất cả mọi chuyện. Nhìn xuống gốc cây, nó thấy một bọn đông lố nhố, đội mũ sắt sơn trắng, tay cầm súng lục, tiểu liên. Con chó lông màu vàng nhạt, to bằng con bò con, nhảy chồm chồm, răng nhe nhọn hoắt, sủa váng đầu váng óc, hai chân trước ôm gốc cây cào cào như hóa dại. Nếu nhảy lên được đến nơi chắc con chó như con cọp này sẽ xé xác nó ra từng mảnh. Qua mấy phút đẩu hoảng sợ, một nỗi uất giận chưa từng thấy bốc lên đầu nó, làm nó muốn phát điên. Trời ơi, nó nhớ rất rõ lúc ấy nó thấy thèm ghê gớm có trong tay một trái bom, hoặc một trái mìn ba càng. Nó sẽ ôm trái mìn lao thẳng từ ngọn cây xuống, nhắm trúng vào chính giữa cái tụi người và chó kia. Quả mìn sẽ nổ chuyển rung cả đường phố, nò cùng tan xác với bọn chúng. Hả hê biết mấy? Những giọt nước mắt nóng bỏng trào ra khóe mắt nó - những giọt nước mắt uất giận vì bất lực. Nó đã phải tụt xuống gốc cây, giữa tiếng cười ré của bọn giặc, Tây có ta có.. Bây giờ vụt nhớ lại cả người nó còn run lên vì uất giận. Như bất ngờ bị trói, nó vụt nhắm mắt lại, cay đắng nhủ thầm: "Chừ thì hết rồi. Có tài thánh cũng đừng có hòng mà lọt qua được bức tường đã cắm mảnh chai, giăng dây điện tê!". Từ lớp tường ngoài đến lớp tường trong cách khoảng mười thước. Bức tường trong thấp hơn nhưng dày đến hàng thước. Mấy thằng lính gác mặc áo mưa đi lại trên nóc tường. Bốn góc tường nhô cao bốn cái chòi canh có lỗ châu mai nhìn ra bốn phía. Qua bức tường này có một khuôn cửa hẹp rộng chừng một mét, với một cánh cửa sắt đồ sộ chấn song lớn cỡ bắp tay. Khoảng cách giữa hai bức tường chạy dài về phía bên phải khuôn cửa một dãy nhà bán mái. Đó là chỗ ở của bọn lính ngục, văn phòng nhà lao, bếp ăn nhà tù. Phía trái là ngôi lầu một tầng, tầng dưới thềm khá cao có hiên rộng, tường quét vô trắng bốp, cửa sổ, cửa ra vào sơn xanh, treo rèm thêu rua trắng muốt, kính cửa được lau chùi sáng choang: Đây là ngôi lầu của tên chúa ngục. Ngôi lầu nổi lên lạc lõng, trơ trẽn giữa khung cảnh xám xịt, dơ dáy, ảm đạm của nhà tù. Chẳng khác nào một mụn vải hoa mới vá trên cái quần vá chằng vá đụp. Hai tên lính áp giải, gầm gừ, quát nạt, dùng mũi súng dồn toán tù đứng thành ba hàng dọc gần sát mái hiên đầu hồi nhà tên chúa ngục. Mưa vẫn không ngớt, cái ống máng kẽm đầu nóc nhà nghẹn nước, tuôn ồng ộc. Những tên lính coi ngục khoác áo mưa đi lại. Chúng ngang qua trước mặt toán tù đang đứng co ro ướt sũng, chẳng buồn đưa mắt nhìn. Chúng đã quá quen thuộc cảnh tượng này. Phía sau lớp tường thứ hai, nhô lên những lớp nóc nhà. Từ trong đó vọng ra tiếng ồn ào khác nào chợ Đông Ba đang họp vào lúc đông nhất. Mọi người nghểnh cổ nhìn những mái nhà trắng xóa sau màn mưa, nghĩ bụng: "Chắc tù nhốt trong đó phải đông lắm mới ồn ào đến mức ấy". Thằng Thúi từ nãy tới giờ cứ đứng trố mắt nhìn khuôn cửa sắt trông như cửa nhốt ông Ba mươi ở vườn Bách thú, hai hàm răng nó va nhau lập cập vì mưa thấm lạnh thấu ruột. Nó hỏi Lượm, mắt không rời những chấn song sắt. - Anh nì. Họ nhốt ai trong đó anh hè? - Nhốt tau với mi chứ còn nhốt ai nữa! - Thiệt à anh? - Rứa mi tưởng họ dắt tau với mi tới đây để cho vô ở trong cái nhà ni, - Lượm hất hàm chỉ lầu tên chúa ngục - rồi mời lên nằm giường nệm lò xo chắc? Thằng Thúi rùng mình, mếu máo: - Ui chao! Tui chẳng có tội chi mà họ bắt nhốt vô đó.. Lượm giả làm mặt giận, làu bàu nói: - Mần trưởng ban ám sát Việt Minh kiêm chỉ huy đánh đồn Hộ Thành mà mi cứ kêu hoài không có tội chi! Thằng Thúi định cãi nhưng vừa mới mở miệng đã vội vàng câm bặt. Hai cánh cửa kính đầu hồi nhà bất thẩn mở rộng. Từ bên trong nhà một thằng Tây cao lênh khênh, đầu gần chạm khuôn cửa, bước ra. Hắn mặc bộ đồ "soóc" kaki vàng nên nhìn nó càng cao. Cẳng chân, cẳng tay dài đuỗn không có tý thịt, lông lá tua tủa. Trán hắn hói đến tận đỉnh đầu, tóc loăn xoăn màu bã điếu, sống mũi gồ rất cao, gãy khúc ở giữa. Hàm râu quai nón cùng màu với tóe, bao quanh khuôn mặt dài và nhọn như cái nêm. Cặp mắt hắn sâu một cảch lạ lùng, đáy hố mắt lấp lánh cặp đồng tủ của loài ác thú. Miệng hắn ngậm cái ống điếu lệch về một bên mép, cần điếu cong như cái dấu hỏi, nỏ điếu rất to chạm hình sọ người. Trên đỉnh sọ bốc lên một làn khói xanh lơ. Bên hông đeo xệ khẩu "côn đu", một tay cầm cây roi da đen. Vừa thoạt nhìn thấy hắn, toán tù có nhiều tiếng xì xầm khiếp đảm: - Một Điếu, Một Điếu! Nghe tên Một Điếu, Lượm sực nhớ những ngày bị giam ở Ty An ninh, nhiều lẩn nó được nghe kể: Một Điếu là tên chúa ngục hung thần lao Thừa Phủ. Hắn đóng lon quan một, lúc nào miệng cũng ngậm ống điếu, do đó mà có tên Một Điếu. Một Điếu có máu điên. Một tay hắn đã đánh và bắn chết khá nhiều tù. Một Điếu bước ra gần sát mép thềm, tay chống nạnh bàn tay tì lên báng súng lục, tay cầm cây roi da khẽ nhịp nhịp vào cẳng chân lông lá. Tên quản xếp, phó đề lao, đứng khúm núm sau lưng hắn. Hắn đưa cán roi da chỉ toán tù hỏi tên quản xếp: - Việt Minh? - Dạ bẩm bên Ty An ninh vừa báo là toàn loại Việt Minh hạng nặng cả đấy ạ. Một Điếu dọc theo mép thềm đi từ đầu đến cuối đoàn tù. Cây roi da ngúc ngoắc như một con rắn đen bị hắn nắm chặt đầu. Thằng Thúi mắt mở tròn xoe nhìn theo Một Điếu với tính hiếu kỳ muôn thuở của con nít. Nó quên cả sợ hãi, mà đang thắc mắc tự hỏi "Tại răng lúc mở miệng nói mà cái ống điếu không rớt? Ông Tây ni tài thiệt!". Lúc Một Điếu quay trở lại, nó vân không rời mắt cái ống điếu chạm hình đầu lâu ngậm lệch bên mép, chờ coi ông nói lần nữa cái ống điếu có rớt không.. Lượm hoảng sợ thúc cùi chỏ vào sườn thằng Thúi, thì thào: "Mi muốn chết à mi?". Một Điếu ngoắc ngoắc ra hiệu cho toán tù. - Viên i xi? Lại đây! Lại đây! - (cái ống điếu vẫn không rớt). Hai tên lính áp giải ngang súng, một đứa đầu, một đứa cuối ép toán tù đứng sát vào thềm ngay dưới bức rèm mưa. Chưa ai kịp hiểu chuyện gì thì ngọn roi da như con rắn đen trong bàn tay lông lá của tên chúa ngục đã vung lên, quất vun vút xuống đầu xuống cổ toán tù. Toán tù khiếp đảm giạt ra ngoài cố tránh tầm roi. Nhưng hai tên lính áp giải cùng với hai lính gác ngục vừa kịp chạy tới, dùng báng súng thúc vào mạng sườn toán tù, ép họ sát vào để nhận phần roi. Mưa rơi đã mau mà trận roi càng mau hơn. Một Điếu vừa đi vừa quất, như muốn phân phát thật đều ngọn roi xé thịt "Việt Minh! Việt Minh! Việt Minh!". Hắn vừa quất vừa gẩm gừ rít lên, điểm nhịp cho mỗi nhát roi. Cái ống điếu bên mép vẫn không rớt, lại còn bốc khói xanh lơ, tưởng chừng như đã được hàn chặt vào mép hắn. Việt Minh? Việt Minh? Việt Minh? Hình như càng đánh hắn càng hào hứng, roi quất càng nhanh hơn, tiếng gầm rít điểm nhịp càng dồn dập hơn. Không còn cách gì tránh thoát, toán tù cúi rạp người đưa lưng nhận roi, nhiều mảnh lưng áo nhòe máu. Ở ty An ninh, lúc bị đòn thằng Thúi la to đến thế, mà lúc này nó như bị cấm khẩu, không la được mệt tiếng. Trận đòn roi da làm cho nó sợ đến cứng lưỡi. Nó bị hai ba roi liền quất đúng ngang cổ, rát bỏng như lừa cháy. Nó chúi đầu vào nách Lượm. Lượm cũng bị mấy roi quất chéo ngang vai đau xé thịt, nhưng thương thằng Thúi quá, nó liều mạng chìa lưng ra che roi cho thằng Thúi.. Khi thấy cả đám tù suốt lượt roi quất không còn sót ai, Một Điếu mới chịu dừng tay. Hắn nhún vai, vung cây roi ra lệnh cho mấy tên lính gác ngục: - Dẫn chúng nó vào ca-sô! Hai tên lính ngục dồn đẩy toán tù đi qua khuôn cửa sắt lớp tường thứ hai. Qua một khoảng sân lầy lội bùn ngập đến mắt cá chân, toán tù dừng lại trước một dãy nhà, chiều ngang rất hẹp mà Một Điếu gọi là ca-sô. Ca-sô xây kiểu như nhà xí công cộng. Hai bên hai dãy buồng con, cửa đối diện nhau, cánh cửa niềng sắt, chốt khóa kiên cố, giữa là lối đi hẹp, dài hun hút. Toán tù bước lên mấy bậc tam cấp bùn nhày nhụa đứng thành hàng dọc lối đi. Cửa ca-sô mở rầm rầm. Mỗi ca-sô, mấy thằng lính gác ngục xô vào một hoặc hai người tù, và đóng ập ngay cửa lại, đập mạnh chốt sắt. Lườm và Thúi bị đẩy vào ca-sô thứ ba, dãy bên trái. Ngoài trời đã xẩm tối, bên trong ca-sô không đèn đóm, càng tối như hũ nút. Hai đứa đứng gần sát nhau mà không nhìn thấy mặt nhau. Lượm nghe tiếng thằng Thúi khóc thút thít. Lượm lúc này cũng đang muốn khóc lắm. Bị ướt sũng suốt từ đầu đến chân, tóc tai, mặt mũi, quần áo, nước chảy ròng ròng. Nước mưa thấm vào người lạnh thấu gan ruột. Áo quẩn dính hết vào các vết đòn tra tấn cũ chưa lành, và những làn roi rướm máu của Một Điếu làm da thịt rát như phải bỏng. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc và tiếng muỗi kêu như sáo bay loạn xạ quanh người. Mười bốn tuổi đầu, trong hoàn cảnh đó, gan mấy mà không khóc? Nhưng nghe tiếng thằng Thúi khóc ti tỉ bên cạnh tự nhiên nó không khóc được nữa, mà đâm nổi cáu. Nó đưa tay sờ soạng: - Mi mô rồi Thúi? - Tui đây!.. Hu hu hu!.. - Ai đánh đập chi mi mà mi cứ khóc hoài? Mi có nín đi cho tau nhờ không? - giọng nó gần như nạt nộ. - Tui sợ lắm anh nờ.. - Sợ! Sợ răng còn làm trưởng ban ám sát? Mi cởi ngay quần áo ra mà vắt khô như tau ri không? Mặc áo quần ướt lạnh thấu vô tới tim phổi là chết không kịp ngáp đó. Chết ở nhà còn có cha mạ thương chớ chết ở đây chẳng ai thương mô? - Tui làm chi có cha mạ.. anh! - Thì có mụ chủ lò kẹo gừng thương mi! Mà mụ nớ không thương nữa thì có thằng Một Điếu thương. Thằng Thúi đang khóc mà phải phì cười: - Hắn thương đã gớm chưa anh? Hắn cứ thương cho vài trận như khi hồi thì da thịt gọi là nát bét.. Nghe lời Lượm nó cởi quẩn áo vắt nước. Nước rơi tong tỏng xuống nền. Hai đưa vừa vắt khô áo quần vừa trò chuyện. Thằng Thúi nói: - Anh gan cóc tía thiệt.. lúc mô anh cũng nói nghịch được. Anh không sợ à? - Sợ ai? - Sợ nhà tù ni.. sợ thằng Một Điếu.. - Tây không sợ Vệ Quốc Đoàn thì thôi, có đời mô Vệ Quốc Đoàn lại sợ Tây? Mi nói chi dại dại ngộ ngộ rứa? - Nhưng vô đây rồi thì biết đời mô ra được anh? - Rứa mi tưởng tụi Tây chiếm mãi được Huế mình à? Mai mốt tổng phản công, Vệ Quốc Đoàn ta trên núi xuống đuổi cho tụi Tây chạy re cứt. Rứa là tau với mi đàng hoàng mở cửa tù mà ra. Mi thì về đeo rổ đi bán kẹo gừng. Tau thì về lại đội trinh sát của tau. Êm ro. - Thiệt à anh? - Không thiệt thì giả à? Được, để mai khỏe tau phải dạy cho mi bài chính trị ba giai đoạn kháng chiến. Học rồi là mi biết. Tau nói chơi hay thiệt. Chừ để tau thám thính qua cái xà lim ni coi ra răng cái đã. Lượm vắt bộ áo quần ướt qua vai, đi quanh xà lim sờ soạng. Xà lim hình chữ nhật, một bề chừng hai thước, một bề thước rưỡi. Nền láng xi măng, trống trơn bị thủng vỡ lồi lõm như đường ổ gà. Nước vắt áo quần của hai đứa làm nền ướt lõng bõng. Lượm kêu: - Không có giường phản cứt chi hết mi ơi! Rứa là tụi nó bắt tau với mi lại tiếp tục ngủ đất đây! Biết ri đừng vắt nước xuống đất cho xong? Ngu thiệt? Thằng Thúi cũng bò bốn cẳng sờ soạng nền xà lim. - Có mùi chi thúi quá anh ơi. - Nó hít hít mũi kêu thành tiếng. - Mùi cứt với nước đái chứ còn mùi chi nữa. Rứa mi tưởng Tây hắn rảy nước hoa cô-ti trong xà lim cho Vệ Quốc Đoàn với "Trưởng ban ám sát Việt Minh" nằm ngủ chắc? - Nhưng vừa thúi vừa ướt như ri thì làm răng nằm ngủ được? - Không nằm được thì ngồi. Không ngồi được thì đứng mà ngủ. Đời Vệ Quốc Đoàn ngủ đứng, ngủ ngồi là chuyện thường. - Lượm khẽ ngâm nga: "Sống thời nằm trên cành cây. Chết thời áo súng bó thây chiến trường!". Đời chiến sĩ là như rứa đó mi ạ. Thơ thằng Tư-dát nó đặt đó. Mi đã được Ty An ninh phong cho chức Tư-dát, tình báo viên xuất sắc của thành Huế. Mi muốn làm được chức đó thì từ giờ trở đi tụi Tây, Việt gian có hành hạ cực khổ đau đớn mấy cũng không được kêu rên. Tau ghét nhất là những đứa hay kêu rên? Trước mặt tụi Tây, tụi Việt gian, trong bụng có cực mấy cũng không được mếu, mà phải vênh mặt lên, cười thật ngạo vô cho tau. Mi đã nhớ chưa? Lần đầu tiên thằng Thúi được nghe những lời lạ như vậy. Nó chưa hiểu hết, nhưng cảm thấy hay hay. Nó càng thêm yêu phục Lượm. Cái anh Việt Minh ni chỉ lớn hơn nó hai tuổi mà đã làm cho mấy ông An ninh, Tây mật thám, lo toát mồ hôi hột. Vừa rồi không éo anh ấy đưa lưng ra che roi [bad word] bò của thằng Một Điếu thì lưng cổ mình phải nứt ra như củ sắn mỳ luộc quá chín. Hai đứa bò bốn cẳng sờ soạng một lúc rồi cũng tìm ra được một góc xà lim hơi ráo nước. Hai đứa cùng trần như nhộng, ngồi nép sát vào nhau, lưng dựa tường. Áo quần ướt cuộn lại một túm, để bên cạnh. Lượm quàng tay qua đôi vai gày nhom lục cục những xương của thằng Thúi: - Ngồi sát vô chút nữa cho ấm mi. - Lượm nói và kéo nó sát vào mình hơn. - Mi nói là mi sợ cái nhà tù ni à? - Tau thì tau ưng bụng lắm. Đã gọi là ở tù thì cũng phải cho ra ở tù. Tù như bên Ty An ninh tao chán lắm. Nó là cái nhà bếp chớ có phải nhà tù mô mi! Cửa chẳng ra cửa, vách chẳng ra vách. Còn cái nhà tù Thừa Phủ ni à hai lớp tường đá tảng, có cắm mảnh chai nghe, cửa toàn cửa sắt nghe? Chấn song cửa như chấn song nhốt cọp nghe? Khóa cửa to như cái ấm tích nghe? Xà lim không phản, không giường thối hoang mùi cứt nghe! Ở tù như ri mới đáng mặt ở tù! Không trông rõ mặt nhưng nghe giọng nói tưng tửng bỡn cợt của Lượm, thằng Thúi thấy bụng khuây khuây. Không còn thấy sợ hãi rầu rĩ như mới bước vô đây. - Anh Lượm ni.. - Cái chi? - Anh còn cha mạ không? - Còn mạ thôi. Cha tau chết rồi.. Cha tau làm cộng sản bị Tây bắn chết lúc tau mới chưa đầy hai tuổi. Mạ tau đi dệt thuê cho người ta ở ngoài Mỹ Chánh ba bốn tháng về thăm tau một lần. - Rứa trước khi vô Vệ Quốc Đoàn, anh ở với ai? - Ở với ông nội, với các chú ruột. Các chú nuôi cho đi học. - Anh học có được nhiều chữ không? - Nhiều cóc chi! Mới lớp nhất "cua súp-pê-ri-ơ" chớ mấy. - Rứa mà còn không nhiều? Chẳng bù cho tui; chẳng biết được chữ chi, ngó vô tờ sách như ngó vô cái đít nồi - Nó thở dài, giọng trở nên buồn thiu. - Tui cũng thèm đi học lắm.. Trong xóm tui, ngày Huế chưa đánh nhau, có lớp bình dân học vụ người đi học đông lắm. Mấy ông tral, bà tra cũng đi. Mỗi ngày tui đi bán kẹo, ăn bớt được của mụ chủ hai ba xu, dồn lại được gẩn một đồng. Tui mua một cuốn vở, một cây bút chỉ, định xin đi học. Ai ngờ thằng Sửu, con mụ, cũng bằng tuổi tui, hắn biết được chuyện tui rắp rem đi học, hắn mách với mạ hắn. Rứa là mụ lục tìm xé tan xé nát cuốn vở vứt vô bếp. Còn cây bút chì mụ lấy dao chặt nhỏ từng khúc, rồi còn đập cho tui một trận bò lê bò càng, mụ chửi: - Cái thứ người như mi mà cũng đòi đi học à? Nó nhại giọng the thé nanh nọc của mụ chủ. - Cóc nhái cũng định đòi ngoi lên làm người! Lượm căm tức nói: - Con mụ ấy phải cho ăn đạn? Được rồi, - Lượm vỗ nhè nhẹ vô lưng Thúi, giọng dỗ dành, - mi chịu khó ở tù với tau, tau sẽ dạy cho mi học, chỉ một tháng là mi đọc được sách báo: - Thiệt anh nghe? - thằng Thúi ghé sát mặt Lượm, hỏi lại, giọng hồi hộp. Lượm làm giọng giận: - Từ giờ trở đi mi không được hỏi tau câu đó nữa nghe? Cái chi cũng thiệt à anh? Tau nói là tau làm. Bể đẩu bể trán tau cũng làm. - Nhưng ở tù không có giấy bút chi hết, làm răng mà học được? - Thì lấy que viết xuống đất, lấy gạch non viết xuống nền xi măng mà học, chứ lo chi mi? Giọng thằng Thúi ngơ ngác: - Lấy que viết xuống đất mà cũng học biết chữ được à anh? - Mi chưa biết, ông Hai Chính ủy Trung đoàn của tau, trước Cách mạng ông làm nghề kéo xe tay, chữ a cũng không biết. Sau đó ông đi làm cộng sản bị Tây bắt vô tù, các đồng chí của ông lấy que viết xuống đất, dạy ông học. Đến khi ra khỏi tù ông đã học giỏi bằng người đỗ ri-me. Vô Vệ Quốc Đoàn, ông được phong làm Chính ủy Trung đoàn. - Ui chao, ông ấy tài anh hè? - Tài vừa vừa thôi, mi mà cứ chịu khó học thì chưa chừng lớn lên làm cấp chỉ huy cũng nên. - Anh cứ nói chọc tui. Tui là thằng bán kẹo gừng, làm răng vô Vệ Quốc Đoàn mà làm cấp chỉ huy được? - Mi là thằng bán kẹo gừng còn tau là thằng giữ trâu, thua chi mi? Rứa mà tau vô Vệ Quốc Đoàn được thì mi cũng vô được chớ? Mi cứ chịu khó học biết chữ, không sợ Tây, mật thám, an ninh, ra tù tau sẽ giới thiệu mi vô Vệ Quốc Đoàn. Vô ngay đội thiếu niên Trinh sát của tau là hay nhứt. Ở trong đội tau khối đứa còn cực hơn mi, làm đủ nghề, bán báo, đánh giày, bán đậu phụng rang, làm xiếc, mà thằng mô đánh Tây cũng gớm cả. - Anh nói thiệt à anh? - Giọng thằng Thúi như reo lên, - Ui ui tui lỡ miệng, anh đừng giận tui mà tội. Ra tù anh cho tui theo anh vô Vệ Quốc Đoàn với? Đi ở bán kẹo gừng mãi cũng cực lắm anh nờ. - Được nhất định tau sẽ giới thiệu mi vô Vệ Quốc Đoàn. Chừ thì ngủ cái đã, tau buồn ngủ ríu cả mắt.. Chỉ phút sau, hai đứa đã ôm nhau, dựa lưng vào tường ngủ ngồi, ú ớ nói mê.. Chú thích: (1) Cờ của chính quyền nguỵ ngày đó. 3 - Dậy! Dậy! Con mạ bay! Chừ mà còn ôm nhau ngủ à? Tiếp câu chửi là mũi giày đế thúc vào lưng hai đứa. Lượm và Thúi đang ngủ say như chết, bật lên kêu "Ui! Úi!" chồm ngay dậy, ngơ ngác, sợ hãi. Trước mắt chúng, đứng chắn trước cửa xà lim mở rộng ìà tên lính ngục, một tay xách súng, tay kia thì bịt mũi. Hai đứa chỉ nhìn thấy mặt hắn lờ mờ, vì bên ngoài tuy trời đã sáng nhưng trong này vẫn còn nhập nhoạng tối. Phía sau thằng lính có một người tay xách cái rổ. Người này nhặt hai vắt cơm trong rổ ném vào trước mặt hai đứa, rồi lấy chân đá qua chân tên lính hai cái thùng sắt tây hoen rỉ. Tên lính nạt nộ - "Hình như tụi này đã cất tiếng nói là phải nạt nộ, như người ta đi ỉa là phải rặn" - một ý so sánh kỳ quặc vụt lướt qua trong óc Lượm làm nó suýt phì cười. - Con mạ bay, cơm đó, ăn đi. Đái ỉa thì đái vô cái thùng ni. - Hắn đá mũi giày vào một cái thùng lớn, - thùng ni thì đựng nước uống, - hắn đá vào cái thùng nhỏ hơn. Hai đứa chưa kịp nói gì thì cửa xà lim đã đóng ập, cài chốt lách cách. Lúc này hai đứa mới tỉnh ngủ hẳn, hông vẫn còn đau tức. Chúng vụt nhớ lại tất cả, và hiện đang ở đâu. Lượm cúi nhặt hai vắt cơm nằm lăn lóc cạnh cái thùng đi ỉa, dính đầy đất và dâm dấm ướt. Nó nhăn mặt, ghê tởm, nói: - Cơm nước ni thì làm răng nuốt nổi! Mất công chi mà hắn không cầm đưa cho mình được lại đem vứt xuống đất như vứt cho chó. Lúc này hai đứa mới để ý phía sân tù sát cửa ra vào có tiếng ồn ào, huyên náo như vỡ chợ. Tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng roi quất, quát tháo, chửi mắng, tiếng ô tô rú máy, tiếng chân chạy rầm rập. Chắc ngoài đó phải có đến hàng nghìn người đang kêu la, đi lại, chen chúc mới ồn ào đến như vậy. Chừng nửa giờ sau, tiếng ồn ào, huyên náo dịu bớt rồi tắt hẳn. Nhà lao trở nên im ắng lạ thường, như chợ đã tan. Thằng Thúi cẩm một vắt cơm đưa lên mũi ngửi. Nó khạc nhổ, nói: - Có mùi chi thúi thúi, chắc dính phải cứt hay nước đái anh ạ. Từ chiều qua chưa có hột cơm nào trong bụng, thêm bị đòn, bị mưa xối ướt lạnh thấu ruột, mà hai đứa không tài chi nuốt nổi vắt cơm. Cứ đưa lên miệng là muốn mửa. Nhưng đến quá trưa, hai đứa đói quá, đành lấy móng tay bóc lớp cơm dính bẩn bên ngoài rồi bẻ từng miếng nhỏ bỏ vô miệng, nhai trệu trạo vài cái nuốt chửng. Thằng Thúi vừa nuốt cơm vừa thút thít khóc. Trong xà lim, giữa ban ngày, vẫn tối mờ mờ như trước giờ chạng vạng. Cái cửa tò vò ở trên cao, lại nhỏ quá, ánh sáng lọt qua không đủ soi sáng cái khoảng rộng chưa đầy ba mét vuông. Lượm nhìn thằng Thúi trần truồng còm nhom như con nhái bén, ngồi thu lu ở góc xà lim, tay cầm vắt cơm ăn dở, vừa trệu trạo nhai, vừa nước mắt giọt ngắn giọt dài, tự nhiên thấy ngực đau nhói, thương nó quá chừng. - Khổ thân hắn! - Lượm nghĩ bụng. - Chẳng thà đi Vệ Quốc Đoàn như mình, bị Tây bắt, bị nhốt xà lim cũng đáng. Còn hắn chẳng có tội tình chi, từ nhỏ đến lớn, ngày mô cũng phải rạc cẳng, khô hơi, lo bán cho hết rá kẹo gừng. Tối về nhà thì lo nằm sấp xuống đất mà ăn roi mụ chủ lò kẹo.. Rứa mà tự dưng cũng bị bắt, cũng tra tấn, nhốt xà lim. Tội nghiệp cho hắn thiệt! - Nỗi thương xót lại trào lên trong lòng Lượm, tự nhiên nó cũng rơm rớm nước mắt. Nó nói: - Thôi mi đừng khóc nữa. Mi chịu khó ở tù thêm ít lâu. Mai mốt tụi An ninh có gọi tau lên lấy khẩu cung, tau sẽ cố xin tụi hắn thả mi ra. Tau nói: Các ông bắt oan hắn. Các ông điều tra kỹ, nếu hắn đúng là Tư-dát thì các ông cứ việc chặt đầu tui. Đang khóc, thằng Thúi vội lấy cánh tay quẹt nước mắt: - Đừng, đừng? Tui lạy anh! - Hắn nói giọng gần như thì thầm. - Chẳng thà tui cứ ở tù với anh ri còn hơn. May ra, sau ni anh đưa tui đi Vệ Quốc Đoàn.. Chừ mà tui có được thả ra, mụ chủ thấy rá rổ bán kẹo mất hết, lại thâm vô tiền vốn, thì mụ tước xác tui ra anh nờ. Nhắc đến tiền, nó bỗng hớt hải vứt nắm cơm xuống đất, chộp lấy cái áo sơ mi ngắn tay ướt mèm, tay run run sờ cổ áo. Nó mừng rỡ, nói như reo: - May quá! Tiền vẫn còn nguyên? Lượm ngạc nhiên, cũng sờ vào cổ áo nó. Cổ áo cồm cộm, té ra số tiền bán kẹo được, nó gấp nhỏ lại đút giấu vào bên trong cổ áo từ bao giờ. Lượm gật đẩu khen: - Mi khôn thiệt - Mi mà được đi làm trinh sát liên lạc chắc mau giỏi lắm. Nhưng.. Áo ướt mèm ri thì tiền bên trong nát hết. - Không sợ, tiền giấy dai lắm. Có lỡ quên đem áo giặt cũng không việc chi. Áo khô thì tiền cũng khô thôi. - Nó mặc luôn cái áo ướt vào người. - Mặc vô ri có hơi người áo mau khô hơn. Hai đứa lại ngồi lưng dựa tường xà lim, lắng nghe động tĩnh bên ngoài. Nhà lao rất im ắng. Hình như bao nhiêu tù người ta đưa đi đâu hết. Suốt ngày, thỉnh thoảng mới nghe có tiếng quát tháo cái gì đó, mà người quát tháo đứng rất cao, đâu như trên nóc nhà. Tiếng quy-lát súng xáo lách cách, cũng từ trên rất cao. Hai đứa đoán là bọn lính ngục đang đi lại tuần tiễu trên nóc lớp tường thứ hai. Lạ nhất là phía bên trong sân lao có nhiều tiếng con nít. Chúng chửi nhau, la ré, khóc thét, lại cả tiếng cười reo. Lượm nói: - Té ra trong ni cung loạn tù con nít như mi với tau. Rứa là tau với mi không lo vô đây không có bạn. Khoảng năm giờ chiều, bên ngoài, tiếng ồn ào huyên náo lại bùng lên như buổi sáng. Nghe tiếng chân đi lại rậm rịch, hai đứa đoán là sân lao phải chật ních những người. Hai đứa đoán tù được đưa đi đâu đó, bây giờ đưa về, vì nghe rất nhiều tiếng ô tô gẩm rú bên ngoài cửa lao. Đêm xuống, nhà lao im ắng như bị vùi chôn rất sâu trong bóng tối. Thỉnh thoảng có tiếng súng nổ xé tai, tiếng đạn rít qua mái nhà. Hai đứa bị giam trong xà lim năm ngày, năm đêm. Chân hai đứa là chân chạy, bị tù túng trong vòng ba mét vuông, chúng khổ sở đến muốn phát điên. Để khuây khỏa bớt cảnh cực khổ ghê sợ này, trong năm ngày đó, Lượm đã kể cho thằng Thúi nghe biết bao nhiêu chuyện buồn, vui mà cuộc đời chiến sĩ mới mười bốn tuổi đầu của nó đã trải qua. Nó kể về những ngày thơ ấu ở làng quê. Những trò nghịch ngợm làm cho nó bị đòn nhừ xương và một năm bị đuổi học tới ba lần; những ngày đi chăn trâu và do tình cờ mà nó được tham gia Việt Minh từ thời còn bí mật. Những ngày Tổng khởi nghĩa ở làng nó, sôi sục, tưng bừng mà vui hơn Tết. Chuyện nó trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Cuộc chiến đấu năm mươi lăm ngày đêm, từ mặt trận Huế đến mặt trận Truồi, Nong. Nó kể về đội Thiếu niên trinh sát, các bạn trong đội, những trận đánh Tây hồi hộp, mê hồn. Rồi cuộc rút lui lên chiến khu, và trở lại Huế hoạt động.. Nó kể, rồi chính nó cũng tự lấy làm ngạc nhiên. Cách mạng Tháng Tám với Vệ Quốc Đoàn sinh ra cho đời mình lắm chuyện thiệt. Nó tự nghĩ vậy. Không biết giờ trở đi còn thêm chuyện chi nữa không? Còn thằng Thúi cứ há hốc mồm mà nghe. Lúc nó run lên vì lo sợ hồi hộp, lúc nó bật cười khúc khích. Chốc chốc nó lại xuýt xoa: "Đời anh sướng thiệt!". Có lần, đang giữa câu chuyện, nó bật một câu nhận xết làm Lượm nở cả ruột gan: - Ui chao! Chuyện của anh còn hay hơn cả chuyện đời xưa? 4 Buổi sáng ngày thứ năm, khoảng mười giờ, tụi lính ngục mở cửa xà lim thả hai đứa ra ngoài cùng với hai chục người khác, đưa từ Ty An ninh sang. Ra xà lim họ sẽ được sang ở chung với những người tù khác trong hai ngôi nhà dài ở bên kia sân lao, được gọi là ba-ti-măng một, và ba-ti-măng hai. Bọn gỉặc cần lấy xà lim để giam một toán tù mới, do xe ô tô bịt bùng của Sở Phòng nhì Pháp vừa chở đến. Những người tù mới này tay đều bị còng và chân bị xích. Nghe nói họ đều là loại Việt Minh nguy hiểm nhất. Một số đã lãnh án tử hình, án khổ sai chung thân, chúng đưa họ đến lao Thừa Phủ tạm giam để chờ ngày đưa đi bắn, hoặc đầy ra Côn Đảo, Phú Quốc. Ra khỏi xà lim, Lượm dắt tay thằng Thúi chạy đến nhập bọn với toán tù đang đứng chực lố nhố gần cánh cổng sát lớp tường thứ hai, đón nhìn toán tù mới. Khi nhìn toán tù khoảng ba chục người - tay bị còng chắp trước bụng, chân bị xích, lê từng bước ngắn giữa hai hàng lính Tây Lê Dương mũ đỏ, súng cắm lưỡi lê sáng quắc, tất cả đều sởn gai ốc, rùng mình. Không một người nào mặt mũi còn nguyên lành. Tưởng đâu như trước khi đưa đến đây, người nào cũng bị bọn Tây, kê mặt họ lên đòn kê rồi dùng sống dao, sống rựa mà dần cho dập nát. Lượm chú ý đến một người tù đi gần cuối hàng, cao vượt hơn người đi trước một cái đầu. Người này chắc đã bị tra tấn ghê gớm lắm. Mặt tím bầm như quả bồ quân, hai môi sưng vều khóe môi đọng hai vệt máu đen thẫm, một mắt bị đánh gần như lồi ra ngoài. Nhìn người tù đi đến gần, mắt nó mở to kinh hoàng. Nó dụi mắt lia lịa, gần như không còn tin vào mắt mình nữa: "Có lẽ nào!". Nó vội đưa tay ìên bịt miệng để khỏi bật tiếng kêu đau đớn, sợ hãi: "Trời ơi, ông Phùng Đông, Chỉ huy trưởng mặt trận khu C. Hay là mình ngó lầm? Không, lầm răng được! Tuy mặt ông bị biến dạng như vậy, nhưng dáng người cao gầy, cái cằm vuông có cạnh như đẽo, bước đi đĩnh đạc quen thuộc, và nhất là con mắt sâu hoắm của ông, thì không thể nào lầm được!". Khi ông bước ngang trước mặt nó, nó không còn kìm nén được buột miệng khẽ kêu: - Chỉ huy trưởng! Anh!.. Người tù ngoảnh sang, nhìn nó rất nhanh. Tia mắt ông chạm phải tia nhìn của Lượm, làm nó bất giác muốn ngất xỉu vì buốt xé tận ruột gan. - Đúng là Chỉ huy trưởng thật rồi? Ông đã nhìn mình. – Nó thoáng nghĩ - "Chắc ông chẳng nhận được ra mình là ai, nhưng cũng đoán được mình là chiến sĩ của ông". Đầu ông khẽ gật với nó, và cặp môi dập nát như hơi mỉm cười. Thằng lính áp giải sừng sộ bước lại. Cái lưỡi lê sáng quắc trong tay hắn như muốn xóc vào bụng Lượm. Thằng Thúi sợ hãi, cầm tay Lượm kéo lùi về phía sau những người tù lớn tuổi. Đoàn tù bị dồn vào dãy hành lang tranh tối tranh sáng giữa xà lim. Nhiều tiếng cảnh cửa rít mở và sập đóng rầm rầm. Quên hết sợ hãi, Lượm giật phắt khỏi tay thằng Thúi, chen lách qua những người lớn tuổi, chạy bổ nhào theo đoàn tù. Nó muốn dò xem Chỉ huy trưởng bị giam ở xà lim số mấy. Nhưng trước cửa lối vào hành lang, hai tên lính cầm súng cắm lưỡi lê đứng chắn không cho ai mon men lại gần. Thằng Thúi chạy lại, cầm chặt cổ tay Lượm kéo ra xa: - Anh cứ đứng ngó vô trong đó hoài, lỡ tụi hắn sinh nghi, xọc cho phát lưỡi lê thì răng? Hai chân Lượm bủn rủn. Lượm ngồi phệch xuống gốc cây cơm nguội xơ xác góc sân lao. Miệng nó bỗng mếu xệch, nước mắt ứa ra. Thằng Thúi sẽ sàng ngồi xuống bên cạnh, lay lay nhẹ vai Lượm hỏi: - Người anh vừa kêu là ai rứa? Bà con với anh à? - Ui chao! - Lượm nghẹn ngào. - Người nớ là Chỉ huy trưởng mặt trận khu C đó mi nờ. Ông ấy đánh Tây lừng tiếng cả mặt trận Huế.. Làm răng mà ông ấy lại để cho tụi hắn bắt được rứa không biết? - Nói đến đó miệng nó càng mếu xệu. Lượm có thể hình dung đủ mọi điều khủng khiếp, nhưng riêng cái việc chỉ huy trưởng mà cũng bị bắt, bị tra tấn, bị tụi đẩu trâu mặt ngựa chửi mắng như đã chửi nó, thì nó không thể nào tưởng tượng nổi. Tuổi nhỏ thường có khuynh hướng thần thánh hóa những nhân vật chúng yêu kính, tôn sùng. Trong đầu Lượm những người Chỉ huy trưởng thì bọn giặc không thể đụng tới cái lông chân. Chứ đừng nói là bị giặc bắt, tra tấn, chửi mắng. Đối với các em, những con người đó đứng vào hàng bất tử. Ngồi một lúc khá lâu, nó vẫn còn thấy bàng hoàng, choáng váng như bất ngờ bước hụt chân, ngã nhào đầu xuống hố sâu. Những giây phút này, ngoài nỗi đau đớn thương xót đồng đội, cấp chỉ huy, trong lòng người chiến sĩ mười bốn tuổi này có một cái gì nghiêm trọng hơn, to lớn hơn đang bị tổn thương nặng nề. Đó là niềm tin vào thắng lợi chắc chắn của cuộc kháng chiến mà nó rất kiêu hãnh và vui sướng vì được dự phần. Chính sự kiêu hãnh đó đã nâng đỡ Lượm đơn độc mà vẫn đứng vững trong những tình huống gian truân, hiểm nghèo vừa trải qua. Nhưng niềm tin của các chiến sĩ. Nhỏ tuổi bao giờ cũng được gắn liền với những nhân vật cụ thể. Các em coi họ là đại diện cho sức mạnh của kháng chiến. Đó là Trung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn, Chỉ huy trưởng mặt trận.. Hồi còn mặt trận Huế, khi nghe tin khẩu đại bác bảy lăm ly - mà cả trung đoàn gọi "ông già bảy lăm" - đặt ở cột cờ, bị giặc phản pháo, vỡ mất đầu nòng, tất cả các chú bé liên lạc của trung đoàn đều khóc. "Tụi hắn khóc như cha chết rứa" như lời các anh lớn tuổi nói với nhau. Các em khóc vì lo sợ thay cho kháng chiến. Với các em, "ông già bảy lăm" cũng là một trong những nhân vật đại diện cho sức mạnh kháng chiến của quê hương. Nước mắt chảy giọt ngắn giọt dài trên hai gò má Lượm cũng chẳng buồn đưa tay chùi quệt. Nó nói, mắt đăm đăm nhìn về phía hai cánh cửa gỗ niềng sắt lối vào hành lang xà lim, lúc này đã đóng chặt. - Không biết ông đi mô một mình mà để cho tụi hắn bắt rứa không biết? Ông mà đi với cả đơn vị thì tài chi tụi hắn bắt được! Lúc này Lượm vụt nhớ một chi tiết mà từ nãy tới giờ nó quên phứt: Chỉ huy trưởng không mặc quân phục. Ông mặc một bộ bà ba vải nâu, dầm dập. Nếu không biết mặt thì ai cũng tưởng ông là người miệt quê đi mua trâu, bò. "Ông đã cải trang như rứa mà vẫn bị bắt thì chắc phải có đứa biết mặt ông, chỉ điểm cho Tây. Đứa mô? Nhất định mình phải tìm cách hỏi ông cho ra". Như người mất hồn, nó đứng bật dậy, cầm tay thằng Thúi kéo đi vòng quanh dãy xà lim mấy vòng liền. Mắt nó ghếch nhìn lên những khuôn cửa vuông nhỏ xíu có chấn song sắt. Nó hy vọng có thể bất chợt thấy gương mặt dập nát của Chỉ huy trưởng hiện ra sau khuôn cửa. 5 Mải ghếch nhìn cửa tò vò xà lim, Lượm không chú ý trong đó một toán tù con nít khá đông chăm chú nhìn theo hai đứa. Bọn này cũng trạc tuổi Lượm và Thúi, hai ba đứa lớn nhích hơn một chút. Chúng ngồi túm tụm trên cái thành bể xi măng dài hư nát. Trước kia là chỗ lấy nước cho tù nhân uống, rửa mặt, còn sót lại một hai cái vòi hoen rỉ. Cả bọn, chỉ mấy đứa áo quần còn lành lặn, số còn lại rách như tổ đỉa. Có đứa trên người không phải áo quần mà những tấm giẻ rách treo lủng lẳng, lấm lem, hôi hám. Tay chân, mặt mũi đứa nào cũng đầy ghét, bùn khô bám từng mảng, như đàn trâu vừa đầm dưới bùn lên. Nhiều đứa hai chân loang lổ hắc lào, sần sùi những mụn ghẻ hờm. Có lẽ chúng đã mấy tháng trời không được tắm rửa. Ngoài toán này, còn khoảng vài chục đứa khác rải rác đi quanh lao. Đứa ngồi dựa tường cởi áo bắt rận, đứa nằm dài trên đất ngủ dưới bóng cây cơm nguội, một tay co gối đầu, đứa lội trong đám cỏ xác xơ cuối sân lao tìm kiếm cái gì đó. Có vài đứa đang túm tụm chơi đáo bằng những mảnh ngói mái tròn hình đồng xu. Đứa nào cũng bẩn thỉu, gày gò, nước da xanh rớt Đứa lớn nhất tù con nít ngồi trên thành bể là một thằng trạc mười sáu tuổi, đầu tóc bù rối như tổ quạ phủ kín gáy, miện rộng ngoác, cặp môi dày mà loe, mũi hếch, cặp mắt ốc nhồi trâng tráo, hỗn xược. Thái dương hắn có cái sẹo to bằng hòn cái đánh đáo nhẵn bóng. Hắn mặc áo pạc-ti-dăng rộng thùng thình đen như nhúng bùn, mở phanh ngực, và cái quần đùi hai ống vo tròn đến bẹn. Chính giữa ngực xăm một quả tim có con dao thọc xuyên qua. Sức vóc nó khá lực lưỡng so với cái tuổi mười sáu của nó. Hắn ngậm lệch về bên mép điếu thuốc lá quấn bằng giấy báo. Hút mấy hơi hắn lại rít nhổ nước bọt qua kẽ răng và nhổ khá xa. Nó ngồi tréo may chính giữa, mấy đứa kia xúm xung quanh, như vị chúa tể giữa đám quân hầu. Đứa nào đối với nó cũng có vẻ khúm núm, sợ sệt, nịnh nọt. Tất cả đều gọi nó là anh xưng em ngọt sớt, có đứa còn gọi nó là "đại ca", "Đại ca Lép-sẹo". Nghe đàn em nói vậy hắn ngoác miệng cười. Thằng Thúi từ nãy tới giờ đi theo Lượm nhưng mắt vẫn lấm lét nhìn về phía bọn này. Với linh cảm của đứa trẻ yếu ớt hay bị những đứa trẻ khoẻ hơn ăn hiếp, đánh đập, tự nhiên nó thấy sợ. Mấy lần nó khẽ giật tay Lượm ra hiệu "anh nì.." nhưng Lượm còn mải ghếch mắt nhìn các khuôn cửa xà lim nên không để ý. Lép-sẹo hất hàm về phía Lượm và Thúi hỏi bọn đàn em: - Hai thằng tê vô đây khi ni mà tau không biết hè? - Tụi hắn bị giải vô đây từ chiều cái hôm trời mưa to ấy. Hôm ấy đại ca đang ngồi đánh bài cạc-tê trong ba-ti-măng - Một thằng đôi mắt có cục thịt thừa đáp - Tụi hắn bị giam trong xà lim đến bữa ni mới được thả ra? - Bị bắt vì tội chi? - Chắc cũng là "cánh chạy" anh em ta - Một thằng cởi trần trùng trục đen như con chấy đáp Một thằng mặt mỏng thổi bay lắc lắc đầu nói: - Tụi chạy ở các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu.. tui quen mặt hết. Chắc hai thằng ni là dân "chạy nhép" ở các chợ xép - Một thằng áo quần lành lặn nói - Nhưng mặt mũi hai thằng ni ngó bộ không phải dân ba de móc túi mô.. Lép-sẹo vụt khạc nhổ cái tàn thuốc ra xa, quay sang thằng này trợn mắt hỏi: - Dân ba de móc túi thì mặt mũi như răng? Xấu lắm à? Mi muỗn xỏ xiên ông nội mi hả? Hắn đưa tay đánh một tát tai để nhấn mạnh thêm câu hỏi vặn. Thằng bé bị tát này ngã nhào từ trên thành bể xuống đất. Nó lóp ngóp đứng dậy. Năm ngón tay của Lép-sẹo còn in hằn đỏ trên má. Nó phủi đất trên mặt, không dám khóc, ấp úng nói: - Không.. không.. tại tôi thấy mặt mũi của hai thằng dại dại, đần đần.. Thằng đuôi mắt có ve nói: - Chắc hai thằng là liên lạc Việt Minh như mấy thằng đang đánh đáo đằng tê.. - Là liên lạc Việt Minh hay là ông trời tau cũng bắt hai thằng ni phải lạy từ dưới dái tau lạy lên! Lép-sẹo ngồi xổm thành bể chĩa miệng về phía Lượm, Thúi gọi to: - Ê! Ê! Hai thằng tê, đến đây mệ nhờ chút việc! Lượm đứng sững lại nhìn nó, nó lại ngoắc tay, miệng chặc! Chặc! Chặc kiểu như gọi chó. Bọn đàn em thích thú cười rân. Lượm cau mặt. Nó ngần ngừ một chút, bỏ tay thằng Thúi ra, bước thẳng đến. Thằng Thúi vội vàng bước theo, nép sát bên Lượm, mặt tái đi vì sợ. Khi Lượm còn cách chừng năm bước, Lép-sẹo chỉ cái tàn thuốc vừa vứt đi, bắt chước giọng "các mệ" nói: - Mi lượm các tàn thuốc giúp mệ rồi cho mệ một xu mà ăn cà-rem! - Nó khuỳnh tay mở rộng hai vạt áo ra như muốn khoe quả tim có con dao găm xuyên qua, xăm trên bộ ngực cáu đen những ghét. Lượm nhìn Lép-sẹo rồi nhìn cả bọn đang cười ngả nghiêng. Ngặt nghẽo. Nó lấy làm lạ tự hỏi: "Cùng bạn tù với nhau mà mình cũng chưa hề quen biết, răng tụi hắn lại gây chuyện với mình?" Thấy chúng đông nên tuy trong bụng đã sôi lắm, vẫn cố nén, nói giọng khá bình tĩnh: - Đằng nớ không què cũng không cụt! Thích hút thì tự đi lấy mà hút! Còn tiền ăn cà-rem thì đây không thiếu mô - Nhưng tính mệ khác, mệ thích sai mi lượm cho mệ hút tê!.. Giọng Lép-sẹo dài ra, Lượm thầm công nhận thằng ni bắt chước giọng "các mệ" không chê được. Thằng Thúi run rẩy, níu chặt khuỷu tay Lượm. Nó vội vàng kéo mạnh tay Lượm đi về phía khác, nói: - Tôi với anh đi vô trong nớ tìm chỗ tối ni mà ngủ.. - Nó chỉ tay vào dãy nhà dài bên trái có hai cánh cửa sắt, nửa khép nửa đóng. Lượm cũng nghĩ vậy, cố hết sức nuốt cục giận đi theo thằng Thúi. Thế là cả bọn ê ê theo ầm ĩ. Lép-sẹo đứng thẳng lên thành bể, ngực ưỡn, một mặt chống nạnh, một chân nhịp nhịp điệu bộ như ông tướng phường tuồng, oang oang nói: - Tụi bay đã thấy chưa? Hắn mới chỉ ngó thấy mặt mệ đã sợ thọt dái lên cổ rồi. Lượm bước chân lại, cặp mắt vụt đỏ kè. Cánh tay nó rung lên, hai bàn tay nắm chặt. Nó chỉ muốn nhào trở lại, xông vào giữa cả bọn mà đấm, mà đá rồi đến đâu thì đến. Thằng Thúi lo sợ nhìn nét mặt Lượm, nó như hiểu hết những ý nghĩ trong đầu Lượm. Nó càng nắm chắc khuỷu tay Lượm hơn, cố giữ rịt và kéo Lượm bước nhanh về phía ba-ti-măng một. Nó nói nhỏ, gần như thì thầm: - Kệ tụi hắn anh nờ.. Gây lộn với tụi hắn làm chi cho nhớp tay, nhớp miệng. Cả tụi ni tui biết hết. Toàn tụi ba de móc túi ngoài chợ Đông Ba. Hồi tui đi bán kẹo gừng, ngày mô mà chẳng gặp tụi hắn.. - Vừa nói thằng Thúi vừa lấm lét nhìn lại phía sau Nét mặt Lượm càng cau có hơn: - Cái thằng sai anh lượm tàn thuốc lá là thằng Lép-sẹo dân móc túi tài danh ở chợ Đông Ba đó. Tui gặp hắn luôn-Thúi nói-Tôi nghe mấy đứa bạn bán kẹo gừng, kẹo đậu phụng kể là hắn có tài móc túi từ ngày mới biết đi. Dây chuyền vàng người ta đeo ở cổ mà hắn lột khi mô không biết. Còn mấy cụ ở nhà quê lên lơ ngơ vô chợ thì hắn lột cả khăn đống, cả dù.. hắn là trùm hết tụi con nít móc túi ở mấy chợ Đông Ba, An Cựu, Gia Hội. Đứa mô móc được cái chi ít nhiều đều phải đưa cho hắn, không chia hắn đập cho lộn mề lộn gan. Tui nghe nói hắn có võ, trong lưng lúc mô cũng có dao.. Hắn đã đâm chết hai thằng to xác hơn, rồi cột đá vứt xuống sông.. Dễ sợ lắm anh nờ, không biết tại răng hắn vô tù. Lượm nói, giọng sa sầm: - Rồi trước sau chi tau cũng phải choảng nhau với hắn thôi. Hắn còn đeo theo tau mà gây lộn chứ chưa chịu thôi mô.. Thúi nói gần như van vỉ: - Nhịn hắn đi là hơn, anh ạ. Tụi hắn đông, anh em mình nhịn nhau răng lại? Anh cứ nghe tui, cho tụi hắn chửi, mình cứ giả đò điếc, coi như không nghe thấy chi hết là xong.. Lượm bỗng đứng phắt dậy, giật mạnh tay ra khỏi bàn tay gầy guộc của Thúi. Nó nhìn Thúi với ánh mắt dữ tợn, nổi khùng, làm Thúi phải sợ hãi bước lùi lại một bước, Thúi tưởng Lượm sắp đánh nó: - Chết thì thôi chứ tau lại giả đò điếc để cho mấy thằng ba de móc túi chửi à? - Lượm nói như quát - Mi quên tau là Vệ Quốc Đoàn à? * * * 6 Bước lên năm bậc thềm bằng bê-tông trét đầy bùn đất, Lượm và Thúi đi vào hành lang ngăn đôi ngôi nhà xây bằng đá, có hai cánh cửa sắt nửa đóng nửa mở. Mỗi bên lại có một cánh cửa sắt, mở vào một gian nhà dài hun hút, được gọi là ba-ti-măng một và hai - Lượm và Thúi tiện chân đi vào ba-ti-măng một - mùi thối đến nôn mửa xộc vào mũi làm hai đứa phải đứng chững lại ở ngưỡng cửa, đưa tay bịt mũi. Hai đứa trố mắt nhìn quang cảnh bày ra trước mắt và bất giác rùng mình. Cuộc sống năm ngày xà lim chưa đủ làm hai đứa quên đi cảnh tượng dơ bẩn đến nôn oẹ trong ba-ti-măng. Ba-ti-măng giống hệt một cái chuồng nhốt thú dữ. Tường xây bằng đá, chiều cao rộng chừng năm mét, chiều dài đến hai chục mét, nền xi măng lở loét, trống trơn, in chin chít những dấu chân lấm bùn. Hai bờ tường gần sát nền, mồ hôi người dính đen kịt như bồ hóng. Cuối ba-ti-măng là một dãy hố xí, liền ngay với nền nhà, vốn là những hố xí tự hoại nhưng đã bị tắc từ lâu. Có bốn cái, hai cái bên trái hỏng hoàn toàn, đã bị xây bít lại bằng gạch. Hai cái còn lại không có cửa. Hai cái hố xí cho gần năm trăm con người! Sau mỗi buổi sáng, phân, nước đái đầy ngập, tràn xuống nền nhà, lan rộng đến bốn năm thước. Bọn lính ngục bắt tù con nít phải múc phân vào thùng đem đổ ra ngoài. Sáng đó, tuy phân đã múc cạn nhưng cứt đái vẫn dính bê bết trên bậc lên xuống và nền ba-ti-măng. Hàng triệu con dòi ngo ngoe, lúc nhúc từ hai miệng hố xí bó ngược lên tường, lên thấu trần nhà, kết lại thành một tấm thảm dòi. Chúng ngo ngoe bò du ngoạn ra thấu giữa ba-ti-măng. Chính cái thảm dòi hàng trăm ngàn con này làm cho Lượm và Thúi phải sởn hết gai ốc. Trong ba-ti-măng lúc này có khoảng chục người, ngồi nằm rải rác hai bên bờ tường. Hầu hết là các cụ già và những người tù bệnh không đi làm cỏ vê được - Người nào cũng gày giơ xương, mắt sâu trũng, da đầu dính bết vào xương sọ. Có vài người nằm co quắp, im lìm như những xác chết. Có mấy ông già ngồi ăn cơm để trong ống bơ, mấy cụ khác cởi áo bắt rận. Đàn dòi ngoe nguẩy bò đến chân các cụ, mon men bò lên ống bơ cơm, các cụ phải dùng quạt nan, quạt phẩy, phẩy dòi bọ ra xa. Phía cuối ba-ti-măng, cách bậc thềm hố xí mấy bước chân, có một thằng bé trạc tuổi Thúi đang nằm co quắp giữa đám dòi. Người nó rung bần bật, thỉnh thoảng lại giật lên những cái như bị kim chích. Lượm và Thúi bước lại gần nó, chân cố tránh dẫm vào đám dòi đang ngo ngoe, ngọ nguậy quanh mình thằng bé. Trời, trông nó mới nhỏ bé, tội nghiệp làm sao! Hai mắt nó nhắm nghiền, hai má bừng bừng lửa sốt, cặp môi nhợt nhạt, khô rang nứt nẻ, cứ mấp máy như muốn gọi, muốn kêu nhưng không gọi nổi. Mấy con dòi xám ngoét, lông lá từ trên trần nhà rơi bộp xuống mặt nó, bò ngang bò dọc. Nó yếu ớt khẽ lắc đầu như muốn hất xuống nhưng không hất nổi. Cảnh tượng đó làm Lượm rung bắn. Em nhào tới, quên hết bẩn thỉu, lấy tay phủi mấy con dòi xuống đất, dùng chân đá ra xa. Lượm hỏi một ông cụ ngồi bắt rận gần đó: - Ông ơi, chớ hắn đã đau lâu chưa ông? - E có đến tuần ni rồi, cơm cháo không ăn được, rồi cũng chết mất thôi.. Lượm để ý thấy phía trên đầu thằng bé để cái ống bơ hoen rỉ, đựng một vắt cơm tù còn nguyên - Lũ dòi bò ngang bò dọc trên vắt cơm. Ông cụ nhìn nó lắc đầu buồn bã nói: - Cơ khổ.. không biết con cái nhà ai, ở làng xóm mô, nhỏ một thí rứa, không biết tội tình chi mà cũng bị bắt vô đây Lượm cúi ép bàn tay trên trán nó sợ hãi kêu lên: - Ui chao! Nóng rực như bếp than! Hắn đau nặng ri mà họ không cho đi nhà thương hả ông? - Nhà thương nhà thiếc chi cái nhân mạng thằng tù! Ai đau thì họ mong cho mau chết, quăng xác lên xe bò chở đi. Càng đỡ tốn cơm. Lượm sực nhớ hồi còn làm liên lạc ở trung đoàn bộ đóng trong Mang Cá, có lần nó cũng bị sốt trán nóng hầm hập như thằng ni. Chị y tá nhúng chiếc khăn mặt đắp lên trán, nó thấy dễ chịu hẳn. Nó nói với Thúi: - Mi đứng đây coi chừng hắn để tau chạy ra ngoài ra ngoài hồ nước kiếm chút nước đắp lên trán cho hắn, may ra hắn đỡ đau. Lượm mượn ông cụ cái ống bơ chạy vụt ra ngoài. Lao Thừa Phủ lúc này chưa có nước máy. Bọn giặc bắt tù đào cái hố rộng chừng hai thước, sâu chừng một thước. Hàng ngày chúng bắt mấy người tù kéo xe bò chở cái thùng phuy ra sông Hương lấy nước đổ vào hố. Đó là toàn bộ nước ăn, uống, tắm của hơn ngàn con người. Mỗi lần nước xe về, tù chen chúc đến đặc quanh miệng hố, xách ống bơ, lon, xô đẩy nhau đến lấy nước, kêu la như vỡ chợ. Mấy thằng lính ngục dùng vụt gậy vụt loạn xạ giữ trật tự. Ai chen khoẻ múc được nước trong, ai chậm chân nước yếu chỉ còn gạn được ít nước bùn. Lúc này dưới đáy hố chỉ còn lại một vũng sền sệt bùn, nhỏ bằng cái nón. Lượm tụt xuống hố, khéo léo lắm mới gạn được nửa ống bơ nước bùn. Nó xách ống bơ chạy vô ba-ti-măng. Nó khẽ khàng luồn cánh tay xuống gáy đỡ đầu thằng bé lên: Kéo cái áo rách đang gối đầu, gấp một vạt áo lại đặt lên trán nó. Nó nghiêng miện ống bơ, rưới nước lên vạt áo, cẩn thận không cho chảy phí ra ngoài giọt nào. Vải áo thấm nước tràn xuống cằm, xuống má nó - thằng bé bỗng thè lưỡi liếm những giọt nước tràn xuống hai bên mép. Thúi nói: - Hắn khát nước anh ạ - Nhưng nước như bùn ri uống răng được? Thằng bé mở bừng mắt ngơ ngác nhìn hai đứa, ánh mắt non dại, đau đớn, hầm hập lửa sốt. Nó lắp bắp nói: - Cho tui xin hớp nước Nhìn chút nước còn sót lại trong ống bơ tanh lợm mùi bùn, Lượm bối rối, khổ sở. Nó không đủ can đảm kề miệng ống bơ vào miệng thằng bé. Nó chợt nhìn thấy ông cụ ngồi gần cánh cửa sắt, vừa ăn cơm xong cầm cái lon đựng nước, miệng lon bịt tờ giấy. Ông mở tờ giấy, đưa ống bơ lên miệng nhấp từng ngụm nhỏ như uống nước sâm. Miệng ông chiếp chiếp ngon lành. Lưỡng lự một lúc, Lượm bước lại giọng nằn nì: - Ông ơi, ông còn nước cho cháu xin một hớp. Hắn đang khát, tội lắm ông nờ.. Nó chỉ tay về phía thằng bé. Ông cụ nhìn Lượm ngần ngừ: - Nói thiệt với chú, nước ở đây còn quý hơn cả sâm Cao Ly! Lon nước ni là của mấy người tù đi làm cỏ vê mang về cho từ chiều hôm qua. Ông phải để dành dụm mãi, khi mô thiệt khát mới nhấp vài ngụm.. Giọng ông cụ nghe thảm đến nỗi Lượm không dám nằn nì thêm nữa. Nhưng nó vừa quay đi, ông cụ gọi lại, đưa lon nước và nói: - Còn lưng lon đó, cháu cho nó uống, dành lại cho ông mấy hớp. Lượm đỡ lon nước, dạ một tiếng mừng rỡ. Nó cùng với Thúi đỡ thằng bé ngồi dậy, ghé lon nước vào đôi môi khô nẻ của nó: - Uống tạm vài hớp Sợ thằng bé uống hết lon nước của ông cụ, Lượm cho nó có cữ. Ba cái nghiêng nhẹ miệng ống bơ, nó dừng tay lại, nhìn cái ống bơ rồi mang trả cho ông cụ. Thằng bé liếm môi thèm thuồng nhưng không dám đòi thêm. Nó có vẻ tỉnh táo, nhìn Lượm, Thúi hỏi: - Hai anh chắc mới vô tù, tôi ngó mặt thấy lạ.. - Ừ, được tuần ni rồi, nhưng bị nhốt trong xà lim. Sáng ni mới ra khỏi xà lim. Thúi nè, tau với mi đỡ hắn nằm lui ra một chút, nằm sát bên cứt với nước đái ri chịu chi cho thấu! Thằng bé vội lắc đầu xua tay: - Đừng! Đừng! Để tôi nằm đây cũng được. Nằm vô chỗ họ, họ đập chết! - Được rồi - Lượm nói - Mi cứ để tau. Người có chỗ có hỏi, để tau xin cho. Hai đứa đỡ nó đứng lên, dìu đến quá giữa ba-ti-măng, chỗ này nền xi măng đỡ lấm láp hơn, dòi thỉnh thoảng mới có một vài con bò tới. Hai đứa đặt nó nằm xuống. Nó bỗng chống tay ngồi nhổm dậy, nói giọng hốt hoảng: - Không nằm chỗ ni mô! - Tại răng? - Chỗ ni là của Lép-sẹo, nằm vô là hắn đập chết ngay! Lượm quạu mặt nói: - Mi cứ nằm xuống đây, hắn có vô đập tau chịu cho. Hắn cũng là thằng tù làm nghề ba de móc túi chứ làm quỷ chi mà mi sợ hắn dữ rứa? - Hắn mạnh lắm anh nờ, mà hắn lại có võ - Thằng bé lơ láo nhìn ra phía cửa, lo sợ thoảng thốt - Hắn cầm đầu một băng tù con nít, toàn tụi trời đánh, ăn cắp, ăn trộm ở các chợ trong thành phố. Bọn tui không ở trong băng hắn, tụi hắn tha hồ bợp tai, đá đít, ăn hiếp, cắt răng cũng phải chịu. Đứa mô ngo ngoe cãi lại, tụi hắn cho mũi ăn trầu ngay! Trước tê chỗ nằm ni là của tui, Lép-sẹo hắn đuổi tui đi chỗ khác, rồi họ dồn tui gần sát cầu tiêu.. Nghe nó kể, máu trong người Lượm sôi lên, nó bật chửi: - Tổ cha hắn chứ, rứa mi làm chi mà bị bắt? - Tui làm liên lạc cho du kích làng tui, làng Liễu Cốc anh biết không? Tây càn vô làng, thằng lý trưởng, hội tề khai là tui biết chỗ du kích chôn súng. Tây hắn bắt tui, đập gần chết, bắt tui khai chỗ chôn súng. Nhưng ai dại chi mà khai! - Mi vô tù đã lâu chưa? - Hơn hai tháng rồi. - Cậu tên là chi rứa? - Thúi ngồi xuống cạnh nó hỏi - Mình tên là Ngạnh - cha mình làm nghề cắt lưỡi câu mà. Cha mình nói, làm người mà không khí khái giống như lưỡi câu không có ngạnh, là đồ bỏ đi. Nghe Ngạnh nói, Lượm và Thúi cùng bật cười - Ngạnh cũng nhoẻn miệng cười theo rồi hỏi Thúi: - Rứa cậu làm du kích liên lạc cho làng mô rứa? - Thúi ngượng nghịu, lúng túng. Từ ngày nó bị bắt oan cùng với Lượm, bị tụi an ninh gắn cho cái tên Tư Đất, tình báo viên lợi hại của Vệ Quốc Đoàn, rồi sau năm ngày nằm đêm ở chung xà lim với Lượm, nghe đủ thứ chuyện hào hùng, hấp dẫn của đội thiếu niên trinh sát, tự nhiên nó đâm mê cái tên Tư Đất - tình báo viên lợi hại và cảm thấy chán ngán cái nghề bán kẹo gừng tầm thường. "Thằng Ngạnh cũng nhỏ bé, ốm yếu như mình chứ hơn chi" - nó nhìn Ngạnh nghĩ bụng - "Rứa mà nó cũng biết làm liên lạc cho du kích. Tây đập gần chết không khai chỗ chôn súng. Chừ mà nói thiệt với nó mình chỉ là thằng đi bán kẹo gừng thì ê chề quá". Nếu không có Lượm chắc nó đã gật đại: "Mình làm liên lạc cho du kích phố Bao Vinh". Bởi vậy mà nó ngượng nghịu, lúng túng. Lượm như đoán biết nó nghĩ gì, nói luôn: - Hắn với tau là trinh sát của trung đoàn Trần Cao Vân. Tụi tao đánh đồn Hộ Thành rồi bị bắt. Ở trong ni mi có nghe nói trận Hộ Đồn không? - Có chớ! Cặp mắt Ngạnh vụt sáng lên - Ui chao, bom nổ rầm trời. Đang nửa đêm cả nhà lao vùng dậy hết, ai cũng cầu trời cho bộ đội đánh vô thấu đây, mở cửa lao cho tù thoát - Nó thở dài tiếc nuối như phải bừng tỉnh một giấc mơ đẹp. Thúi đưa mắt nhìn Lượm biết ơn. Nhưng Lượm không chú ý, nó còn mải nghĩ đến chuyện Ngạnh vừa kể. Nó hỏi: - Tụi Lép-sẹo ăn hiếp tụi bây rứa mà người lớn họ không bênh à? - Người lớn họ thèm chú ý chi đến chuyện con nít anh? Thấy đứa mô bị tụi hắn đập bể đầu chảy máu họ cũng mặc kệ. Họ sợ dây vô tụi hắn, tụi hắn thù! Thằng Thúi ngó quanh quẩn hỏi: - Không biết tối ni mình có chỗ ngủ không anh hè? Ngạnh nói: - Cả ba-ti-măng tối đến là chật kín người, chen chân không lọt. Cả giữa lối đi họ cũng nằm ngang dọc hết, chất lên nhau như mắm. Chỉ còn chỗ tê - nó đưa tay chỉ khoảng nền xi măng gần sát bậc lên xuống cầu tiêu - là chưa có người nằm thôi. Thúi rùng mình kêu lên: - Nằm chung với dòi với cứt rứa thì nằm răng được? Chằng thà tui đứng cả đêm còn hơn! - Đứng cũng không được mô! - Ngạnh nói - Đứng phía đầu người ta nằm thì ai cho đứng, mà đứng phía nào, chân thì vướng họ, họ đạp cho bổ sấp bổ ngửa. Người ni đạp qua, người tê đạp về chỉ một lúc mà lòi ruột mà chết. Dòi trên trần nhà vẫn rơi lộp độp trên nền xi măng. Nhiều con có lông có lá, ngo ngoe bò đến chân ba đứa. Lượm ngồi hai tay bó gối, nghe Ngạnh kể, mắt chăm chăm nhìn mấy con dòi lông lá ngo ngoe bò tới, nhìn hai cầu tiêu ngập ngụa cứt đái, lềnh bềnh giấy, giẻ rách, nhìn khoảng nền xi măng lúc nhúc dòi mà đêm nay nó phải nằm lên đấy mà ngủ.. Một nỗi buồn khổ chán ghê gớm, chưa từng thấy từ đáy lòng dâng lên, làm nó nghẹt thở, chân tay rã rời. Cũng chưa bao giờ cái cảm giác bơ vơ, đơn độc, xâm chiếm và làm tan nát trái tim non nớt của nó như lúc này. Nó muốn òa khóc, muốn chết.. Nó gục mặt xuống đầu gối, một ước muốn điên khùng bỗng bừng lên trong óc nó, có một trái bom thật to, to bằng chục trái bom giật sập cầu Trường Tiền dạo nọ, bất thình lình rơi thẳng xuống đây! Bom nổ rung trời, chuyển đất, phá sập tan tành cả nhà lao gớm ghiếc này. Nó cũng sẽ tan tác theo luôn trong tiếng nổ dữ dội ấy. Thà chết quách như rứa còn hơn! 7 Trong lúc đó, ngoài sân lao Lép-sẹo cùng đàn em của hắn đang bàn tán sôi nổi về hai thằng tù "ma mới". Tuy mới tạm thời hạ nhục hai thằng đó nhưng Lép-sẹo vẫn chưa ưng bụng. Nó muốn hai thằng đó phải thầm phục khiếp đảm nó, như bọn tù con nít khác trong lao, như tụi đàn em của nó: "Chứ có mô dám ngang nhiên đối đáp với mình như kẻ ngang hàng" - Láo - Lép-sẹo tức tối la lên. Lép-sẹo năm đó vừa tròn mười sáu tuổi, nhưng đã khá nổi danh ở khắp tất cả các chợ ở Huế là một tay móc túi tài ba, liều lĩnh và gan góc - Nó được các bậc đàn anh trong làng đao búa quen tên, biết mặt - Và cũng thường được các bậc đàn anh rủ tham gia các vụ mần ăn như dỡ ngói, khoét ngạch, trộm các nhà hàng buôn bán lớn, đâm thuê, chém mướn - Điều này làm cho Lép-sẹo rất đỗi hãnh diện. Thật ra quân trộm cắp, du đãng cũng có niềm vinh quang, kiêu hãnh của riêng chúng. Đó là niềm kiêu hãnh về tài trộm cắp, về sự táo tợn, gan liều của chúng trong lúc hành nghề.. Trong dân chúng đã từng có không ít những lời đồn đại, những giai thoại về tài nghệ gan liều của một số nhân vật trộm cắp khét tiếng. Những lời đồn đại, những giai thoại đó đã tạo nên vinh quang và niềm kiêu hãnh cho chúng, và chính niềm kiêu hãnh và vinh quang bệnh tật này đã bóp chết trong chúng sự tự hổ thẹn và nỗi dằn vặt vốn có trong bản chất của mỗi con người khi làm những điều xấu xa, tàn bạo. Và cũng đã làm cho chúng càng ngày càng say mê lấn sâu vào con đường tội lỗi cho đến khi hết phương cứu chữa. Tuổi trẻ đều có ước mơ, Lép-sẹo, tên kẻ cắp du đãng mười sáu tuổi cũng có ước mơ của nó: Sẽ trở thành một tay sừng sỏ trong làng đao búa. Từ những năm thơ dại, đầu óc nó đã chồng chất không biết bao nhiêu chuyện chọc trời, khuấy nước của các tay du côn, anh chị tứ xứ. Một trong những niềm ham thích lớn của kẻ du đãng, trộm cắp là tạo được uy quyền trong bất cứ hoàn cảnh nào - tạo nên bằng sức mạnh của quả đấm và nỗi khiếp sợ của kẻ yếu thế. Điều này Lép-sẹo cũng hấp thụ được từ ngày mới vào nghề, qua các bậc đàn anh và in hằn sâu đậm trong ký ức nó, Sau khi bị vào tù vì tội rút nhầm ví của một tên đại uý cảnh sát mặc thường phục, Lép-sẹo lập tức tìm cách tạo uy quyền cho nó. Nó lần lượt gây sự và đánh đập rất tàn bạo những đứa sàn sàn tuổi nó. "Đập cho tụi hắn phải sợ đến ba đời" như nó vẫn thường nói. Vừa sáp mặt là gây sự đập lộn luôn, đập phủ đầu, làm cho đối phương không kịp trở tay, không kịp tĩnh trí để đối phó, chỉ còn biết cúi đầu van lạy xin tha (điều này Lép-sẹo cũng lĩnh giáo được ở các bậc đàn anh). Quả nhiên, vào tù mới mươi hôm Lép-sẹo đã làm cho tụi tù con nít thất kinh, khiếp đảm, không còn đứa nào dám ho he, chống cự. Dần dần, nó tập hợp được bọn đàn em hơn chục đứa - đều là bọn trẻ vào tù vì tội ăn cắp, móc túi. Hắn lập thành một băng. Băng của Lép-sẹo được cả lao biết đến và ngay cả tù người lớn cũng phải sợ hãi, kiêng dè. Để băng của hắn đỡ quấy phá, trộm cắp đồ đạc của mình, nhiều anh tù còn lo lót, chiều chuộng nó, cho nó ít nhiều thức ăn, tiền của gia đình tiếp tế hoặc các thứ kiếm được của Tây trong khi đi làm cỏ vê. Điều này đặc biệt làm cho Lép-sẹo vênh vang, khoái chí - Nhất là với đám tù con nít không ở trong băng của nó, nó tha hồ hành hạ, đánh đập. Nhiều đứa là liên lạc của bộ đội du kích bị bắt, căm bọn băng Lép-sẹo lắm, nhưng thân cô thế cô, chúng phải chịu đựng, nhịn nhục. Và càng ngày Lép-sẹo càng lên mặt làm già. Nhưng hành hạ ra oai mãi với bọn quen mặt Lép-sẹo đã chán, nó mong có những đối thủ mới. Và sáng hôm đó, nó may mắn với được Lượm và Thúi, hai thằng ma mới. Lúc nó sai Lượm nhặt tàn thuốc lá là cốt để kiếm cớ gây sự. Nó chỉ đợi hai đứa cãi lại một vài câu là hắn sẽ nhào tới, đập vô mặt. Nhưng thái độ đoàng hoàng, chững chạc của Lượm làm Lép-sẹo bị hẫng. Nó chưa kịp phản ứng, gây lộn tiếp thì Thúi đã khôn ngoan cầm tay Lượm kéo tránh đi chỗ khác. Lúc Lượm và Thúi đi khỏi, Lép-sẹo nghĩ lại càng thấy tức - Bọn đàn em tiếc mất xem một pha đập lộn hấp dẫn, đua nhau khích bác đại ca Lép-sẹo. - Thằng đó coi chừng cứng cổ ta! Chưa chừng hắn có võ cũng nên. - Đụng vô hắn e không khỏi sứt đầu mẻ trán với hắn. Lép-sẹo giận sôi, chít nhổ nước bọt qua kẽ răng - nó nhổ xa đến nỗi bọn đàn em nhìn theo phục lăn - Nó nói, mặt hằm hằm: - Võ chi? Võ môn hay võ khoai? Rồi tụi bay coi thằng ni - hắn vỗ bộp vài trái tim cắm dao găm xăm giữa ngực - sẽ bắt cả hai thằng đó phải lạy từ dái ta lạy lên. Lép-sẹo sai một thằng trong băng có miếng thịt thừa ở đuôi mắt trái, chạy vô ba-ti-măng coi hai đứa tù mới làm chi trong đó. Thằng này dạ một tiếng thật to rồi chạy đi theo lệnh của đại ca. Lát sau, thằng này chạy ra, kể vanh vách chuyện Lượm và Thúi săn sóc thằng Ngạnh và việc hai đứa dám rời chỗ nằm của thằng Ngạnh đến chỗ của đại ca. Lép-sẹo hừ một tiếng dữ tợn, đứng phắt dậy nói: - Rứa là tụi hắn muốn qua mặt ông nội tụi hắn đây! Tau phải vô đập dập mặt tụi hắn mới được! Hắn kéo cả băng đi vào ba-ti-măng một. Bọn đàn em mặt rạng rỡ thích thú vì sắp được dự một trận đấm đá ra trò mà phần thắng chắc chắn thuộc về chúng. 8 Trong ba-ti-măng, Lượm hai tay vẫn bó gối, ngồi gục mặt lặng im, không nhúc nhích. Hai vai Lượm bỗng run nhè nhẹ. Mặc dầu cố hết sức kiềm chế nhưng nó không sao ngăn nổi những giọt nước mắt uất giận, bất lực, buồn khổ trào ra.. Thúi và Ngạnh cũng đoán biết là Lượm đang khóc. Tự nhiên chúng cũng mủi lòng khóc theo. Hai đứa ngồi sát vào nhau, mắt đau đáu nhìn hai vai Lượm. Thúi ghé sát Ngạnh thì thầm: - Anh nớ là gan cóc tía đó. Hai lần vượt tù làm cả Ty An ninh, Sở mật thám, Tây xớn rớn.. Chừ mà anh như rứa chắc là anh bị đau.. Vừa lúc đó phía ngoài cửa có tiếng lao xao, tiếng bước chân rậm rịch - Lượm nghe tiếng nhưng chẳng buồn nhìn lên. - Thôi chết, tụi Lép-sẹo - Ngạnh nói giọng run rẩy - Nó định lết về chỗ cũ nhưng không đủ sức. Nó nằm vật xúông nền xi măng, người cong lại như con tôm kho, sẵn sàng chịu đấm đá của tụi Lép-sẹo. Thúi cuống quýt lay vai Lượm: - Anh Lượm! Anh Lượm! Tụi khi hồi kéo vô đông lắm Lượm ngẩng mặt lên, băng Lép-sẹo đã bước qua cánh cửa sắt. Lép-sẹo đi đầu, tụi đàn em nhăn nhở kéo theo sau, Lép-sẹo bước đi hay tay khuỳnh khuỳnh, vạt áo mở phanh, làm điệu bộ ngang tàng, anh chị. Nó đi thằng đến bên Ngạnh, đứng chạng hai chân, chửi: - Cố tổ mi! Ai cho mi được nằm chỗ ni? Mi không biết đây là chỗ cố tổ mi nằm à? Ngạnh ngước nhìn lên lắp bắp: - Tui lỡ.. Anh nớ nói tui tới đây nằm, chớ tui có dám mô!.. - Rứa hắn xui mi ăn cứt mi cũng ăn à? Bốp! Lép-sẹo co chân đá thốc một cú giữa bụng thằng Ngạnh. Ngạnh ôm bụng kêu "ối" Lép-sẹo co chân định đá tiếp cú thứ hai thì Lượm đứng phắt dậy. Không nói không rằng và nhanh không tưởng được, Lượm nhào tới, vung tay hết cỡ, đấm tạt ngang vào chính giữa quai hàm Lép-sẹo. Cú đấm mạnh đến nỗi quai hàm Lép-sẹo nghe thấy một tiếng rắc! Lép-sẹo chuếnh choáng, loạng choạng hẳn người về phía sau. Không để Lép-sẹo kịp phản ứng, Lượm chồm theo, đấm liên tiếp hai cú vào hai bên thái dương đồng thời một chân dộng thẳng vào giữa bụng nó kêu hự! Lép-sẹo tối tăm mặt mũi, ngã nhào xuống nền xi măng. Đầu nó kêu cốp như tiếng gáo dừa xáng mạnh. Không để cho Lép-sẹo kịp cựa quậy, Lượm nhảy lên người hắn. Hia mắt Lượm đỏ kè, răng nghiến mạnh, tay túm tóc Lép-sẹo, kéo giật đầu nó lên, dộng liên tiếp xuống nền xi măng. Cốp! Cốp! Cốp! Một tay dộng, một tay nó đấm tới tấp vào giữa mặt Lép-sẹo.. Mặt Lép-sẹo tràn máu, bàn tay Lượm cũng đỏ lòm những máu vì đấm phải răng. Lượm đánh Lép-sẹo không phải chỉ bằng sức mạnh man dại của nỗi tức giận mà cả với nỗi uất ức, buồn khổ bị dồn nén. Lép-sẹo to con và khoẻ hơn Lượm nhiều, lại có cái gan liều của quân trộm cướp nhưng lúc này nó phải khiếp đảm thật sự. Lép-sẹo đã trăm lần đánh lộn, tay không có, dao có, vỡ đầu toạc mặt là chuyện thường nhưng chưa bao giờ nó gặp phải địch thủ dũng mãnh đến như Lượm. "E hắn giết mình luôn có!". Ý nghĩ đó xuyên qua đầu hắn như một ánh chớp. Hắn kêu rú thất thanh: - Cứu.. cứu.. tau.. vơ ới.. Bọn đàn em Lép-sẹo, hơn chục đứa từ nãy tới giờ đứng rạt ra một bên. Nhìn thấy Lượm đập đại ca hung dữ đến nỗi làm chúng sợ đến tròng con mắt. Chúng đứng nhìn trân trân, đầu óc mụ đi vì sợ. Chúng quên cả việc xông vô cứu đại ca. Tiếng kêu cứu của Lép-sẹo đã kịp thời lay tỉnh chúng. Chúng "a" lên một tiếng nhảy xô hết vào Lượm. Đứa túm tóc, đứa túm cổ, đứa túm tay, chân, kéo vật ngã Lượm xuống nền xi măng. Lượm vùng vẫy cố thoát ra nhưng không sao thoát nổi. Lép-sẹo chồm ngay dậy, ngồi đè lên Lượm, đấm trả với tất cả nỗi nhục nhã, hận thù. Và bọn đàn em cũng gầm ghè la hét, hè vào đấm đá, cào cấu Lượm. Lép-sẹo vừa đấm vào mặt Lượm vừa gào to như đã hóa dại với cái miệng ròng ròng máu: - Giết chết cha hắn đi cho tau! Giết chết cha hắn đi cho tau! Không còn phân biệt đứa nào với đứa nào, chúng xoắn chặt lấy nhau thành một nùi như nùi giẻ rách. Mấy ông già, mấy người tù bệnh, nhìn đám trẻ đánh nhau sợ đến cứng lưỡi. Họ cuống cuồng vơ áo quần, lon cơm, ống bơ nước chạy nép vào một góc cuối ba-ti-măng - sợ đám đánh nhau lỡ cũng cháy lan như lửa. Nếu không có thằng Thúi thì chắc hôm đó tụi băng Lép-sẹo đã đánh chết Lượm. Trong tù, chuyện đánh lộn nhau đến thành án mạng không phải là chuyện hiếm. Khi thấy bọn Lép-sẹo nhảy chồm vô Lượm, Thúi chạy lọt ra ngoài. Vừa chạy nó vừa la to chuyển cả khu nhà lao: - Các bác cai tù ơi! Tụi hắn giết người! Tụi hắn giết người trong tê! Thế mới biết, quả đấm có sức mạnh của quả đấm, cái miệng có sức mạnh của cái miệng. "Tiếng kêu la ba làng cũng nghe" của Thúi làm hai tên gác ngục đang đứng ở lớp sân ngoài phải hoảng hồn. Chúng đoán là có một vụ đánh nhau, giết nhau rất ghê rợn đang xảy ra trong ba-ti-măng mới có tiếng kêu váng trời đến như vậy. Mà trong tù, để xảy ra án mạng chúng phải chịu vạ lây. Một Điếu sẽ phạt giam chúng hoặc ít ra chúng cũng bị cúp lương. Chúng xách súng, cầm roi [bad word] bò nháo nhào chạy vô lao. Chúng xông vào ba-ti-măng một, thấy toán tù con nít đang la hét như điên dại và xoắn lại thành một cục mà đấm đá. Chúng gầm lên: - Bọn bay định giết nhau để đổ họa cho choa à? Chúng vung roi quật tới tấp lên đầu, lên cổ bọn con nít đang nằm đè lên nhau. Bị đánh quá bất ngờ, bọn trẻ ré lên, vùng bỏ chạy toán loạn - Đứa nào cổ, đầu, lưng cũng phật phồng ngang dọc những lằn roi - Chỉ còn lại một mình Lép-sẹo đang cưỡi đè lên bụng Lượm. Thấy mặt Lượm đầy máu, chúng cho rằng Lép-sẹo đang định giết Lượm. Một thằng lính ngục nổi điên, đạp Lép-sẹo ngã lăn ra đất rồi cả hai tên hè nhau quất Lép-sẹo túi bụi. Lép-sẹo lăn lộn dưới đất kêu la: - Hắn định giết tui! - Mi muốn ra gan hả? Mi lại còn chối à? - Mi là thằng đầu trộm đuôi cướp, quân ba de móc túi, giết người không gớm tay. Tổ cha mi chớ! Hai tên lính ngục vừa chửi vừa hè nhau quất Lép-sẹo tới tấp hơn. Lép-sẹo rên rỉ: - Con lạy hai bác! Oan con! Oan con! - Oan này! Oan này! - trái tim có con dao xăm trên ngực Lép-sẹo hứng roi nhiều nhất, toé máu như quả tim thật. Lép-sẹo gần như chết giấc. Hai tên lính mỗi tên cầm một tay nó lôi xềnh xệch ra khỏi ba-ti-măng, lẳng nó xuống sân. Một tên lính chỉ cây roi vào giữa khuôn mặt sưng vù của nó dọa: - Ông truyền đời cho mi, lần sau còn dở thói du côn giết người, ông tống vào xà lim, cùm chân lại cho chết rục trong xà lim..
Chương 14 Bấm để xem 9 Trong ba-ti-măng, Thúi, Ngạnh và mấy người già yếu xúm lại chăm sóc Lượm - Trận đập lộn không cân sức làm Lượm gãy mất hai răng cửa - Trong đó có cái răng sứt, mũi bị dập - máu mũi, máu miệng chảy đỏ lòm ướt cả vạt áo trước ngực. Đuôi mắt trái bị rách, cặp môi sưng vều và khắp mình mẩy không chỗ nào không bầm tím. Hai bàn tay Lượm vẫn còn chảy máu vì đấm phải răng Lép-sẹo. May mà Lượm không bị hai thằng lính ngục quẩt roi vào. Thúi cởi phăng cái áo đang mặc, ngồi xuống, lựa chỗ sạch lau máu trên mặt Lượm. Vừa lau nó vừa mếu máo khóc. Thằng Ngạnh bị cú đá vào giữa ngực của Lép-sẹo đau đến muốn tắt thở. Sau cú đá nó thoáng nghĩ: "E mình chắc chết". Nó nhắm nghiền mắt, người uốn cong lại như con cuốn chiếu, đợi đón nhận cú đá thứ hai, thứ ba của Lép-sẹo - nhưng thật không ngờ, chính Lép-sẹo lại bị ngã nhào xuống nền xi măng, sát ngay cạnh nó. Nó nằm gần như chết lặng vì kinh ngạc, hai mắt mở tròn xoe nhìn Lượm nhào tới cưỡi đè lên bụng Lép-sẹo, túm lấy tóc hắn mà dộng đầu xuống nền xi măng côm cốp! Vẻ mặt giận dữ đến điên cuồng của Lượm trong khoảnh khắc đó, hằn sâu và chói sáng trong ký ức Ngạnh mãi đến tuổi lớn khôn. Chính cái vẻ giận dữ điên cuồng của Lượm lúc trừng trị Lép-sẹo đã kéo nó ra khỏi tình trạng khiếp nhược bấy lâu nay, và làm sống lại trong trái tim thơ dại của Ngạnh niềm kiêu hãnh của người chiến sĩ du kích. Khi thấy cả băng Lép-sẹo như đàn chó ngao, la ré chồm vào cắn xé Lượm, nó liền vùng ngay dậy, loạng choạng đến chỗ góc tường sát hai cái hố xí hỏng. Ở đó có một cái hốc nhỏ nhưng khá sâu mà chỉ một mình nó biết. Nó móc trong hốc ra một cái đanh hai mươi phân. Cách đây hai tháng, sau khi bị mấy cú đá, cái tát đầu tiên của Lép-sẹo, nó đã đổi hai vắt cơm tù cho một thằng bé khác lấy cái đanh này. Nó cặm cụi, bí mật mài mũi đanh lên nền xi măng cho đến khi nó nhọn hoắt như mũi dùi. Nó định bụng sẽ dùng mũi đanh đâm chết Lép-sẹo để rửa nhục nhưng rồi nó không dám. Nó sợ không đủ sức giết chết Lép-sẹo mà có thể chính nó bị Lép-sẹo đâm chết trước bằng dao găm. Nó đã trông thấy con dao găm đó, Lép-sẹo thường dắt ở cạp quần, phía sau lưng. Cuối cùng, nó tìm cái hốc này và dấu cái đanh vào đó. Mỗi lần bị Lép-sẹo hành hạ, đánh đập nó lại nghĩ đến cái đanh và ấm ức khóc một cách cay đắng vì sự hèn nhát của mình. Lần này, nó quyết dùng cái đanh để đâm Lép-sẹo, cứu Lượm, người đã liều chết bênh vực nó.. Nhưng vừa định chạy về chỗ đánh nhau, nó bất thần ngã quỵ, không sao gượng đứng lên được. Nó kiệt sức. Nó ốm gần tuần nay và hai hôm vừa rồi không có hột cơm, hột cháo nào vào bụng. Đám đánh nhau tan. Nó bò bốn chân đến với Lượm, trong bàn tay vẫn thủ chặt cái đinh - Thúi đang chậm máu trên môi và đuôi mắt sưng vều của Lượm. Nó cố hết sức nâng đầu Lượm lên rồi chuồi cái áo rách của nó xuống dưới, làm gối cho Lượm. Ông cụ uống nước lã như uống sâm, mang cái lon nước còn lại mấy ngụm, đưa cho Thúi nói: - Cháu cho chú ấy uống vài ngụm cho tỉnh. Ông cụ bắt rận móc túi áo ra một gói giấy vàng ố. Ông cẩn thận mở gói ra. Bên trong đựng chừng ba muỗng đường cát đã chảy nước, hào phóng trút bớt một nửa vào lon nước rồi thò luôn tay trỏ vào lon nước ngoáy ngoáy cho tan đường. Thúi đưa lon nước cho Ngạnh cầm, cố hết sức đỡ Lượm dậy, mếu máo dỗ dành: - Anh cố uống tí nước đường cho tỉnh anh.. Nước đường của các ông cho đó. Ngạnh kề miệng ống bơ vào cặp môi sưng vều của Lượm mà mười lăm phút trước Lượm kề vào môi nó Ông cụ cho nước nhìn Lượm khó nhọc, đau đớn nuổt từng ngụm nước, nói với mấy ông bạn già giọng cảm kích: - Tui gần bảy chục tủôi đầu, mắt tôi ngó thấy hàng trăm trận đập lộn, người lương thiện đập lộn nhau cũng có, quân trộm cắp đập lộn nhau cũng có nhưng chưa từng thấy ai đập lộn nhau dữ tợn như cái chú ni - mà cũng chỉ để bênh vực người bị ức hiếp, "Lộ kiếm bất bình, loạt kiếm tương trợ - giữa đường gặp chuyện bất bình, rút ngay gươm giúp đỡ!". Thì ra bậc hảo hán không cứ chi phải vai năm tấc rộng, lưng mười thước cao như Từ Hải. 10 Để sửa sang lại thật nhanh thành phố Huế vừa chiếm được, bọn Pháp cần rất nhiều nhân lực. Nhà lao Thừa Phủ đã cung cấp một nguồn nhân lực khá lớn cho hàng trăm công sở mọc lên ngày một nhiều trong khắp thành phố. Chỉ riêng việc phục hồi xây dựng lại nhà máy điện bị ta đánh sập hoàn toàn trong thời kỳ mặt trận Huế, mỗi ngày bọn giặc đã lấy gần hai trăm tù đến làm việc - gọi chung là làm cỏ-vê nhiều công sở khác cũng lấy tù làm cỏ-vê. Nhiều không kém: Kho đạn, kho quân nhu, nhà máy xe lửa, nhà máy Hải quân v. V.. Để đáp ứng được đòi hỏi nhân lực ngày càng tăng, quân giặc ra sức càn quét bắt bớ dân chúng khắp các làng mạc chúng chiếm đóng, không chỉ riêng Thừa Thiên mà cả Quảng Trị, Quảng Bình. Tất cả, chúng đều gọi là Việt Minh, bất kể ông già, con nít. Những tháng đầu năm 1947, số tù bị bắt đưa về lao Thừa Phủ đã lên tới gần hai ngàn. Bởi vậy nhà lao đã biến thành một trại tập trung khổng lồ, ô hợp hỗn độn hết chỗ nói. Sáng sớm từ sáu giờ, ô tô các công sở có lính mang súng đi áp tải, từ khắp các ngả đường trong thành phố rùng rùng chạy đến, đỗ thành dãy dài trước cổng lao, nhận tù đi làm. Bốn đến năm giờ chiều, ô tô lại chở tù về trả nhà lao. Làm cỏ-vê phần lớn hết sức nặng nhọc, anh em tù nhân phải lao động dưới những trận mưa roi và báng súng của bọn lính gác. Phần lớn bọn này là lính Âu Phi. Tất cả vốn liếng tiếng Việt của chúng chỉ gồm có mất tiếng "Việt Min - mao lên". Những tiếng không biết chúng thay bằng roi [bad word] bò và báng súng. Tuy vậy tất cả tù đều thích đi làm cỏ-vê. Tuy phải lao động nặng nhọc, bị đánh đập, nhưng suốt ngày họ được ở nơi thoáng đãng, khỏi phải ngửi mùi cứt đái, được tắm táp, và may mắn hơn, có thể có dịp trốn tù. Một số công sở, thỉnh thoảng bọn giặc cho tù bánh mì, cơm, thức ăn thừa, đồ hộp hỏng.. Những người tù nào may mắn rơi vào các công sở này được coi như vớ bở. Khổ nhất vẫn là người tù già yếu, tù con nít, những người bị giam xà lim, ca-sô. Họ không bao giờ được đi ra ngoài. Ngày ngày, họ phải làm công việc dọn vệ sinh cứt đái trong các ba-ti-măng. Bọn lính ngục, nhất là tên chúa lao. Một Điếu đánh đập họ suốt lượt - Bởi vậy, họ nhìn những người tù sáng sáng bước ra khỏi cánh cửa sắt, lên xe đi làm cỏ-vê, bằng ánh mắ thèm thuồng ghen tị. Đến chiều, họ chen chúc trước cửa sắt, đón các toán tù đi làm về, xin nước, xin thức ăn thừa. Cũng có một số ít người cho, nhưng phẩn đông họ đều ngoảnh mặt làm ngơ, thu giấu những lon nước, lon đồ ăn thừa dưới vạt áo.. Thằng Thúi, với sự tháo vát của con nhà kẻ khó thích nghi rất nhanh với hoàn cảnh. Nó kiếm được hai ống bơ, đục lỗ, buộc quai, luồn lách qua chân những người lớn, nhoi ra đứng phía trước. Toán tù nào đi qua nó cũng chìa hai ống bơ ra, hỏi xin với giọng vật nài, thật tội nghiệp: - Cho con xin hớp nước lạnh chú! Tội con lắm chú nờ. Giọng kêu xin và dáng còm nhom của Thúi làm cho cả những người sắt đá cũng phải động lòng. Bởi vậy mà chiều nào nó cũng xin được đầy hai ống bơ nước, có khi đồ ăn, đem vào ba-ti-măng cho Lượm và thằng Ngạnh. Một mình nó bây giờ phải nuôi hai người ốm, không khôn ngoan, tháo vát sao được! Có lần nó xin được cả một miếng thịt bò hộp bằng nắm tay. Nó xách lon đựng thịt bò chạy như bay vào ba-ti-măng đặt xuống cạnh Lượm và Ngạnh, mắt sáng long lanh vì vui thích và đắc chí trước kỳ công vừa lập được. - Thấy chưa, thịt bò hộp chính hiệu đó nghe! - Nó moi miếng thịt bò trong lon, đưa ra trước mặt hai bạn, giọng khoe khoang, hứng chí. Nó bẻ cục thịt làm hai, đút cho Lượm một miếng và Ngạnh một miếng. Còn nó thì mút mười đầu ngón tay. Mút khá cẩn thận. Thúi kết thân thêm được một đứa bạn mới trong cái buổi chiều đầu tiên ra xếp hàng lĩnh vắt cơm. Bốn giờ rưỡi chiều. Tù đi làm cỏ-vê các công sở về gần đông đủ. Từ trên chòi canh một hồi kẻng dóng dả vang lên. Khắp sân lao, hàng ngàng cái miệng tù nhại lại tiếng kẻng: - Cơm! Cơm! Cơm! Vừa reo nhại, vừa túa ra sân lao đằng trước, tự động xếp thành hàng năm, dọc theo bờ tường suốt từ đầu sân đến cuối sân. Tất cả ngồi trệt xuống đất, mắt hau háu nhìn ra cổng lao. Hai tên lính ngục cầm hai cây gậy tre dài như hai cây sào, trèo lên ngồi lắt lẻo trên cành cây cơm nguội, như hai con vượn. Hai tên này có nhiệm vụ kiểm soát tù lĩnh cơm, đề phòng những tù nhân lợi dụng lúc lộn xộn lĩnh hai vắt, hoặc chạy vòng ra phía cuối xếp hàng lĩnh thêm vắt nữa. Bọn cai thầu bếp nhà lao khiêng từ bên ngoài vào bốn chiếc băng ca chất đầy cơm vắt. Mỗi vắt cơm khoảng hai bát cơm lưng úp lại. Một cái chảo lớn han rỉ, đựng muối mỏ mà thoạt nhìn Thúi tưởng phèn chua. Nó lo lắng nghĩ bụng: "Ăn cơm với phèn chua thì ăn rằng được hè?" Phần đông những người tù già yếu và bọn tù con nít xếp gần cuối hàng. Trong số này có mất đứa trong bắng Lép-sẹo. Thúi nhận ra chúng vì lưng, mặt, cổ đứa nào cũng vắt ngang vắt dọc những làn roi. Chúng vừa nhìn thấy Thúi từ xa, đã chỉ trỏ, xì xào. - Hắn đó. Chính thằng nớ! - Không có hắn la tiếp cứu chuyển lao thì thằng tê bữa ni coi như rồi đời! - Tổ cha hắn! Răng mà miệng hắn nhỏ như cái khu gà mà la to đến rứa không biết! - Một thằng chửi, tay sờ lên vành tai rớm máu vì bị roi quất - Hắn làm tau chút nữa sứt mất tai. Tau sẽ xẻo tai hắn cho bay coi! - Lãnh cơm xong tụi ta xúm lại dần nhừ xương hắn ra nghe. - Nhưng tau khiếp cái miệng hắn lắm bay nờ.. Những câu bàn tán ấy lọt tai Thúi. Chân nó tự nhiên khựng lại. Nó muốn quay lại, co giò chạy vô ba-ti-măng với Lượm. "Tụi hắn đập mình chết mất! Chẳng thà nhịn đói còn hơn!". Nó nghĩ vậy. Chưa kịp bỏ chạy, Thúi bỗng nghe có tiếng gọi: - Ê! Thằng to miệng. Xếp vô đây mi! Đây còn chỗ, - Một đứa trạc tuổi nó, mặt mũi liến láu, mắt tròn xoe, gọi Thúi, chỉ một chỗ trống bên cạnh. Thúi nhìn nó, ngần ngừ một lúc, rồi bước tới ngồi xuống. Hàng của hai đứa cách hàng tụi băng Lép-sẹo hai hàng. - Anh nớ mô rồi? - Đang nằm trong tê. - Anh nớ ghê thật! Đập Lép-sẹo dập cả sống mũi, đầu sưng như trái bưởi, lại gãy cái răng cấm. - Giọng thằng bé trầm trồ thán phục. - Đồ Lép-sẹo đã thấm béo chi! - Thúi nói to cốt cho tụi ngồi sau nghe tiếng. - Hồi đánh nhau ở Huế, anh ấy còn lấy đá ghè vỡ tan đầu một thằng Tây đen to như cột đình. - Chắc anh nớ có võ? - Không có võ mà đập chết được lính Tây đen? - Rứa mi? - Cũng biết ít miếng nhưng giỏi răng bằng được anh nớ, - Rứa mi với anh nớ làm chi mà bị bắt? - Giật bom đồn Hộ Thành. Mi chưa nghe nói à? Rứa mi làm chi? - Tau là Lanh, liên lạc của du kích huyện Phong Điền. Tau chưa được giật bom, nhưng súng mút-cơ-tông được bắn hơn chục phát nghe! - Đồ súng mút-cơ-tông ăn thua chi! Giật bom mới khiếp! Ở với Lượm mới ít lâu mà giọng thằng Thúi bán kẹo gừng đã ra vẻ là một Vệ Quốc Đoàn kỳ cựu, xông pha trận mạc đã nhiều. Từng hàng năm người một đi lĩnh cơm. Vắt cơm tù vừa nhỏ, vừa sống, vừa khê. Cũng khối anh tù định giở trò xập xí xập ngầu cuỗm thêm vắt nữa. Nhưng Bốp! Bốp! Bốp! Những cú gậy sấm sét từ trên cây cơm nguội phang tới tấp xuống đầu xuống cổ, làm họ phải thả vội vắt cơm định cuỗm xuống đống cơm. Tuy chúng kiểm soát gắt gao như vậy nhưng vẫn khối anh vớ được hai vắt. Đặc biệt tài tình là tụi băng Lép-sẹo. Chúng nhanh, liều mạng và dạn đòn không thể tưởng tượng được! Chúng làm cho hai thằng lính ngục trên cây cơm nguội phải hoa cả mắt. Chúng múa gậy quất tứ tung, la hét: - Tụi bay định ăn cướp hả? Định ăn cướp hả? Thằng Thúi nhìn cảnh tượng đó, rụt cổ, lè lưỡi nói: - Tham chi thêm vắt cơm, bị bể đầu như chơi! - May nhờ, rủi chịu, sợ cóc chi! - Thằng Lanh nói giọng cười cợt, - Không may, bể đầu chảy máu. May được thêm vắt cơm nữa thì no. Đến lượt tau, tau cũng liều cú chơi.. - Bốp! Bốp! Bỏ xuống! Bỏ vắt cơm xuống ngay. Cố tổ bay! - Tiếng gậy phang, tiếng hai tên lính ngục thét lác oang oang. - Muốn no răng không chịu ở nhà làm ăn, lại đi làm cộng sản! Thúi co rúm người như chính nó đang bị đánh: - Ui chao! Họ đập hơn đập chó! Tề, tề!.. Mi coi anh nớ bị đập sứt tai, máu chảy đỏ cả mặt! - Thúi giật giật tay thằng Lanh chỉ một anh tù đang lau máu trên mặt. Nhưng thằng Lanh còn mải nhìn chỗ khác. Nó hoác miệng cười, reo lên: - Ơ hơ! Anh tù điên! Anh tù điên! Nhìn theo tay Lanh chỉ, Thúi thấy trong hàng người bước đến lĩnh cơm, có một người bộ dạng và ăn mặc rất kỳ cục, tức cười. Đầu anh ta đội cái mũ chằm bằng bìa cứng, cuộn thành hình phễu, giống như cái mo dài úp trên vại tương. Mũ có quai cẩn thận, bằng dây thép, vòng qua cằm. Cái áo vét-tông đũi xé bỏ cổ và hai ống tay áo, cái quần "soóc" còn mới nhưng rách trước rách sau như tự ý xé ra. Anh ta trạc bốn mươi tuổi, râu ria lởm chởm, mặt mũi lem luốc như bôi nhọ nồi. Ngực anh ưỡn ra đằng trước, giơ cao hai chân, vừa bước vừa hô ắc ê; bước đến lĩnh cơm như lính đi diễu binh. Nhiều người vỗ tay: - Hoan hô điên! Hoan hô điên! Anh tù điên hô to: - Gác-đơ-bu! Pờ-rê-dăng-tê! Ừ! - Anh đứng nghiêm trước mặt tên đầu bếp phát cơm, gõ hai gót chân đánh bộp, đưa tay lên vành mũ các-tông, chào theo lối nhà binh: - Bông-dua mông li-ơ-tơ-năng! Moa đói cái bụng! Don-nê moa hai vắt! - Vắt vắt cái con c! - Thằng phát cơm chửi và đưa cho anh ta một vắt cơm - A lê cút! Anh điên vẫn đứng nghiêm, một tay cầm vắt cơm, tay kia vỗ bụng bồm bộp: - Moa đói bụng! Don-nê thêm một vắt tí ti! Bộ điệu anh làm thằng phát cơm phải phì cười. Hắn đưa cho anh thêm một vắt bị mẻ mất một miếng, rồi co chân đá bốp vào đít anh: - Phút-lăng-căng mẹ mày đi! Anh điên cầm vắt cơm đưa lên miệng, tưởng sắp cắn ăn. Nhưng không. Anh giơ cao chân bước đi theo nhịp ắc-ê và dùng vắt cơm làm cái kèn thổi: Tìn tìn tin tin tèn tèn tọn Tèn tèn tin tin tọn tọn tèn Thằng Thúi há hốc mồm nhìn anh tù điên không chớp mắt, ngạc nhiên thích thú giống như lúc nó nhìn các ống điếu trên miệng Một Điếu nói mà không rớt. Nó bật cười lên: - Hơ, hơ!.. Thằng Lanh phải giật tay nó, kêu: - Lĩnh cơm đi mi! Hai đứa cùng hối hả chạy lên, đuổi theo những người cùng hàng. Lanh chạy vội quá, vấp vào cái cáng băng-ca, ngã chúi mặt xuống đống cơm. Thằng phát cơm quát: - Tổ cha mi! Chạy đi mô mà như chạy đi ăn cướp rứa hả? Lanh gượng đứng dậy, rụt đầu, rụt cổ, một tay luồn vào vạt áo rộng thùng thình, ôm bụng, miệng la bai bải: - Tui lỡ! Tui lỡ! Các bác đừng đập tui mà tội! - Lanh chìa bàn tay không ôm bụng ra nhận vắt cơm, mặt nhăn nhó, mếu máo. Nhìn điệu bộ nó, ai cũng tưởng nó đang bị cái que nhọn thọc vào giữa ruột. Thúi đứng cạnh Lanh, chìa tay ra nhận vắt cơm, nhưng mắt vẫn ngớp ngó theo anh tù điên - Lanh phải huých cùi tay vào sườn nó ra hiệu. Hai đứa cầm hai vắt cơm chạy ra một góc sân lao, cố ý tránh xa bọn trong băng Lép-sẹo đang ngồi túm tụm dưới chân tường đá dãy câ-sô. Thúi lo lắng hỏi bạn: - Cậu bổ rứa có đau không? - Cậu tưởng tớ bổ thiệt à? - Lanh hỏi lại, cặp mắt lé hấp háy ánh lên vẻ tinh nghịch. Nó rút bàn tay đang ôm bụng ra khỏi vạt áo. - Coi đây này! Té ra trong bàn tay nó là một vắt cơm nữa. Nó nhìn Thúi, cười hề hề: - Tớ giả đò bổ đó chứ! Vừa chúi xuống đống cơm là tớ đớp luôn một vắt đút vào trong áo, rồi giả đò như đang ôm bụng, đứng lên, làm cho tụi hắn mờ mắt không đập. Nó chắp chắp miệng, giọng tiếng rẻ, nói thêm: "Cơ chi bàn tay tớ to bằng bàn tay người lớn thì tớ đã cầm thêm được một vắt nữa". Thúi trầm trồ: - Cậu tài thiệt! Còn tài hơn cả mấy ông làm xiếc bán dầu cù-là ở chợ Đông Ba! Nì, ta chạy ra chỗ tê coi anh điên đi! - Điên thì có chi lạ mà coi! Anh điên nớ bị bắt vô tù mấy tháng ni, chiều mô phát cơm anh cũng làm kiểu đó. Rứa cậu chưa khi mô thấy người điên à? - Có chớ! Nhưng anh điên ni nhó tức cười ghê lắm! 11 Sân nhà lao lố nhố đen đặc những người là là người. Tất cả một màu xám xịt, đen lam láp như một đàn cua vừa được móc dưới bùn lên. Người đi lại, người đứng, người ngồi xổm, hoặc ngồi bệt xuống đất hai cẳng chân dang rộng.. Họ bày những vắt cơm vừa lĩnh lên nón, lên mũ, lật ngửa, lên giấy báo, lên những ngọn lá bàng rụng.. Họ cắm cúi, mải miết ăn một cách đói khát, them thuồng. Trên chóp tường bao quanh sân lao, bọn lính ngục vác súng đi đi, lại lại. Trong số này có một tên lưng gù gù, mặt ngắn mà to bè bè, đầy trứng cá và mụn cóc, chân đi vòng kiềng như kiểu hề Sáclô. Hắn tên là Lai, dân hoàng phái, anh em tù gọi hắn là Mệ-Lai-tàn-tật. Mệ-Lai-tàn-tật đánh tù rất tàn bạo. Cả nhà lao ai cũng sợ hắn, chỉ có anh điên là không sợ, lại còn bày trò trêu chọc. Trong lúc mọi người ăn cơm, anh tù điên không ăn, hai tay cứ cầm lăm lăm hai vắt cơm, đi song hàng với Mệ-Lai-tàn-tật phía dưới chân tường. Trên chóp tường, Mệ-Lai-tàn-tật đi tới, anh đi tới, đi lui anh ta theo lui. Lưng anh ta cũng làm bộ gù gù, chân cũng đi vòng kiềng, kiểu hề Sáclô, bộ dạng giống Mệ-Lai-tàn-tật, không chê được. Trên cao, Mệ-Lai sờ mặt, anh ta cũng sờ mặt, sờ mũi, anh ta sờ mũi, quạu mặt, trợn mắt, anh ta cũng quạu mặt, trợn mắt.. Tù ăn cơm xong, xúm lại coi anh ta làm trò mỗi lúc một đông. Bóng Mệ-Lai nắng chiều đổ dài xuống sân lao, anh tù điên cứ nhè đầu cái bong mà dẫn chân lên, miệng hô ác ê, ác ê. Mọi người ôm bụng cười. Vỗ tay rần rần. "Bờ-ra-vô-điên! Bờ-ra-vô-điên". Mệ-Lai-tàn-tật tức lộn ruột đứng lại, chửi xuống: - Tổ cha thằng điên! Anh tù điên nhìn ngược lên, chửi trả: - Tổ cha.. cha.. thằng điên! Mệ-Lai càng cáu, cúi xuống định nhặt cái gì để ném, nhưng không tìm thấy, liền chỉa sung xuống, lên quy-lát lắc cắc dọa bắn. Anh tù điên nằm lăn đùng ra đất, chổng hai chân lên trời đạp đạp gió về phía mặt Mệ-Lai, miệng la như người bị cắt cổ: - Xô-vêmoa! Xô-vêmoa! 1 Ông Một Điếu ơi! Mệ-Lai-tàn-tật phơ2 moa on cú! Moa chết nhăn răng củ kiệu. Thúi xem anh điên làm trò, thích thú. Nó xán lại gần anh ta, cười ngặt nghẽo. Anh điên bất thần đứng bặt ngay dậy, trợn mắt, méo mồm nhìn Thúi. Điệu bộ anh ta nhìn dữ tợn như sắp chồm tới đập nó. Thúi hoảng sợ định bỏ chạy nhưng vướng phải những người đứng chen chúc phía sau. Anh điên dộng hai vắt cơm vô túi vét-tông, nhảy tới chụp lấy cánh tay Thúi, lôi tới sát trước mặt anh. Thúi sợ đến kêu không thành tiếng. Anh điên bỗng ngoác rộng miệng cười. Vẻ dữ dằn trên gương mặt lọ lem của anh vụt biến mất. Anh giả giọng Tây lơ lớ hỏi to như quát: - Toa, bé con Viết Min? Bùm, Bùm! Đồn Hộ Thành! Thúi chẳng hiểu mô tê, cứ gật đại. Anh điên móc túi áo, lấy vắt cơm nguyên, rồi lật ngửa bàn tay Thúi ra, đặt vắt cơm đánh bộp vào giữa lòng bàn tay. Anh trợn mắt quát: - Moa, don-nê! Don-nê! Cho! Cho! A-lê phút, lăng-căng! Anh cúi xuống phát vào đít nó, rồi lại nhe răng cười không thành tiếng. Đang sợ hết hồn mà vẻ ngộ nghĩnh bất ngờ của anh điên làm Thúi phải bật cười theo. Nó lách vội ra ngoài tìm Lanh. Nó chìa vắt cơm anh điên cho ra trước mặt Lanh, cười tít mắt. - Cậu thấy chưa? Tớ nói không sai mô! Anh điên ni lạ mà tức cười ghê lắm! Biết cả tớ Bùm bùm đồn Hộ thành nghe! Lanh cũng cười theo: - Ở tù lắm lúc cũng vui gớm! Chừ ta đem cơm vô ăn chung với anh Lượm và thằng Ngạnh hỉ. Rứa là bốn đứa được bốn vắt, cũng tàm tạm. Cơm hết rồi, chắc tụi hắn làm lơ cướp cơm mấy người đau nằm lại trong ba-ti-măng. Thúi trố mắt nhìn Lanh hỏi: - Cậu liều mạng xoáy cho được vắt cơm đem lại cho? - Vệ Quốc Đoàn với du kích mà không cho nhau được vắt cơm răng cậu? - Giọng Lanh đầy vẻ trách móc. 12 Sân lao Thừa Phủ nhập nhoạng tối. Từ trên chòi canh một hồi kẻng chói ngắt vang lên. Kẻng báo giờ tù phải chui vào các nhà ngục. Tụi lính ngục đi vòng quanh các chop tường, la hét, quát nạt. - Vô hết! Vô hết! Năm phút nữa thằng mô còn xớ rớ ngoài sân, ăn đạn chớ trách! Một toán lính ngục khác cầm gậy, roi [bad word] bò, dùi cui từ bên ngoài chạy rầm rập vào xua tù vào các ba-ti-măng. Khi tù đã vô hết, chúng đóng sập các cánh cửa niềng sắt, khóa lại. Cả hai ba-ti-măng nghẹt cứng tù nhân, tối thui như trong hang. Tiếng la hét, cãi lộn, chửi bới tranh giành nhau chỗ nằm rào rào nổi lên tứ phía. Ồn ào, hỗn độn hết chỗ nói. Khoảng nửa giờ sau, tiếng huyên náo ồn ào dần dần lắng xuống. Mọi người đã nằm yên tại chỗ của mình. Lác đác có tiếng ngáy, tiếng nói mê. Tù nhân nằm trần trên nền xi măng, ép sát vào nhau như cá trong hộp. Họ nằm kín cả đường đi ở giữa, không còn hở một chỗ để len chân. Không khí mỗi lúc một thêm oi bức, ngột ngạt. Mấy cái hố tiêu ngập ngụa cứt đái lúc này bốc hơi càng dữ. Mùi hôi thối không chỗ thoát, đặc quánh lại, tưởng có thể lấy tay mà vốc được. - Thúi chi mà thúi lắm ri trời! - Cần chi phải bắn, phải chém! Đêm mô họ cũng cho ngửi cứt ri cũng đủ thối phổi mà chết. - Tụi hắn ác đến nước ni mà trời Phật mô không hiện ra vật chết cho bà con nhờ! - Trời Phật mô vật được tụi hắn! Tụi hắn thì phải có Vê-cu-đê mang bom vô vật như ở đồn Hộ Thành mới xong! Tiếng kêu la, nguyền rủa, ca than phẫn uất, chốc chốc lại nổi lên, xé toạc mùi hôi đặc quánh và bóng tối. Khốn khổ nhất ba-ti-măng trong đêm là mấy người già yếu và tụi tù con nít. Sức yếu, họ bị những người khoẻ lấn ép, dồn đẩy mỗi lúc một gần sát bậc thềm cầu tiêu. Gần như họ phải nằm lên cứt, nước đái, giẻ rách và giấy lau đít. Lượm nằm cách thềm hố xí chỉ mấy bước chân. Mùi hôi thối xộc thẳng vào mũi, làm nó muốn ngạt thở. Nhưng nó chẳng buồn nhúc nhích, cựa quậy. Khắp người nó chỗ nào cũng đau như có ai lấy sống dao mà dần. Những cú đấm, đá, đạp của Lép-sẹo và tụi "băng" của hắn đến lúc này mới ngấm đến tận xương. Trước đây, cái răng cửa của Lượm bị sứt mất một nửa nên cả đội mới đặt cho biệt hiệu: Lượm-sứt. Bây giờ cái răng sứt và cái răng lành bên cạnh cũng gãy nốt, trở thành cái lỗ hổng "trổ cửa cho voi vô ỉa", in hệt mấy đứa bạn sún răng mà ngày còn đi học Lượm hay trêu chọc làm chúng phải nổi cáu. Hai môi Lượm bị dập, giờ càng sưng vều. Lúc chiều, Thúi và Lanh đưa cơm vào, nó chỉ ăn được mấy miếng. Nhai cơm, hai hàm răng và cặp môi nó đau buốt như nhai mảng chai. Nó bật rên đau đớn và nằm vật xuống nền xi măng. Sau đó nó thiếp đi không còn hay biết gì nữa. Khoảng nửa đêm, nó chợt bừng tỉnh dậy. Nó muốn cựa trở mình, nhưng không sao cựa nổi.. Chợt có tiếng hỏi thì thào, sát bên tai Lượm: - Hôi thúi lắm hả anh? - Ngạnh đó à? Răng mi không ngủ, thức làm chi? - Đầu tui nhức quá, không ngủ được.. Hay anh lấy cái áo tui đắp lên mũi cho đỡ thúi! - Cũng chẳng hơn chi! Kệ, cứ để cho hắn thúi! Đã nếm mùi tù thằng Tây thì cứ nếm cho hết. Tụi hắng còn cái món chi gớm hơn cái món cứt, nước đái ni thì cứ đem hết ra đây! Tau mô có ngán!.. Hai mắt Lượm mở thao láo, trừng trừng nhìn bóng tối ngột ngạt. Một nỗi hối tiếc ghê gớm từ góc xó nào đó trong trí nhớ, lại chồm ra dày vò Lượm. "Cái bữa đó mình không ngu, biết đánh lừa tụi chó béc-giê, thì chừ đang nằm với cả đội ở chiến khu rồi, chứ mô phải chịu gãy răng, dập mặt, nằm ngửi cứt ở đây. Làm lính trinh sát mà ngu độn như mình thì phải chịu như ri cũng đáng đời lắm. Nó thở dài cay đắng, uất ức." Chỉ thương chỉ huy trưởng thôi - Nó miên man suy nghĩ - Chắc lúc ni ông cũng đang phải nằm trần trụi trên nền ca-sô hôi hám như mình ở đây. Khát hớp nước cháy cổ cũng chẳng biết nhờ ai lấy cho. Mình ở đây còn sướng hơn ông, cần chi đã có thằng Thúi, con Ngạnh, chừ lại thêm cả thằng Lanh nữa, xúm lại giúp đỡ "- Lượm đưa tay quờ quạng sờ ba đứa bạn đang nằm ép sát hai bên mình, tự nhiên nó thấy ấm lòng lại. Cực khổ đến đâu mà có bạn thì cũng không đến nỗi, vẫn còn chịu được, còn đứng vững được.." Anh ơi, sáng mai mà em bớt đau, nhúc nhích được, răng em cũng tìm được cách liên lạc với anh, tiếp tế nước cho anh. Làm răng anh lại để cho tụi hắn bắt được? Vệ-to-đầu, mi là đứa khôn ngoan tài giỏi nhất đội, mi đi làm liên lạc, bảo vệ chỉ huy trưởng, mà mi lại chịu để cho ông bị bắt? Hay là lúc đó ông đi một mình, không có mi? Ông đã ăn mặc, cải trang như rứa, mà vẫn bị bắt, chắc phải có đứa biết mặt ông, chỉ điểm cho Tây.. Đứa mô chỉ điểm? Hay chính lại thằng Thành, thằng Nguyễn Trì? Việc ni nhất định mình phải dó tìm cho ra, rồi tìm cách nhắn lên chiến khu. Nhưng chưa chừng mình chưa kịp làm chi thì đã chết vì tay thằng Lép-sẹo và tụi đàn em của hắn.. "- Lượm nghĩ vậy, vì sực nhớ lúc chiều ngồi ăn cơm, thằng Lanh kể với thằng Thúi và con Ngạnh: Trưa nay vừa ngồi dậy được là thằng Lép-sẹo lôi ngay con dao găm dắt trong lưng quần, đem ra mài vào thành bể ở giữa sân. Vừa mài dao, hắn vừa nghiến răng kèn kẹt, nói với tụi đàn em bâu quanh:" Tau phải thọc lút con dao ni vô giữa ngực hắn! Tức là thọc vô ngực mình đó! - Còn hắn thì không còn tau, còn tau thì không còn hắn! " Theo thằng Lanh thì Lép-sẹo không giống như những đứa khác, nói phách lác, nói dọa. Hắn đã nói là hắn làm. Chết hắn cũng làm. Cách đây chưa đầy một tháng, hắn và tụi đàn em, vào lúc nửa đêm, đã trùm bao bố lên một anh tù to lớn như Tây Lê Dương, rồi hè nhau lấy gạch đá đập vỡ đầu anh, chỉ vì anh này đã bợp hắn một tát tai. Tụi lính ngục phải bỏ anh này lên băng-ca, khiêng vô nhà thương. Nghe đâu anh ta nằm thương được ba ngày thì chết.. Nghĩ tới đó, Lượm thấy ruột gan bồn chồn, xao xuyến và ớn lạnh dọc xương sống. Từ hôm bị bặt đến nay, Lượm đã trải qua nhiều phút căng thẳng, hiểm nguy, nhưng chưa lúc nào nó cảm thấy lo lắng, sợ hãi như lúc này. Nó hình dung trong cảnh tối thui như lúc này, mình đang ngủ say, một cái bao bố bỗng trùm lên mặt. Mình chưa kịp cựa quậy thì một lưỡi dao đã thọc vô giữa ruột.. Mình chết mà không kịp kêu lấy một tiếng.. Tự nhiên Lượm ứa nước mắt.. Một con dòi từ trên trần rơi đúng giữa mặt nó. Trước viễn cảnh ghê rợn của cái chết, con dòi không còn làm nó thấy ghê tởm nữa." Mình chết chôn xuống đất thì bọn dòi bọ còn lúc nhúc đầy mình! "Nó chua xót nghĩ vậy, và đưa tay bắt con dòi, ném đi. Nó bỗng chạm tay vào một đứa ngồi ngay gần sát đầu mình. Tim nó muốn ngừng đập, run rẩy hỏi: - Ai đó? - Tui đây. Ngạnh đây! - Răng mi không ngủ mà ngồi đó làm chi? - Tui ngồi canh tụi hắn cho anh. - Ngạnh thì thầm trả lời - Tụi hắng mà mò qua đậy chụp bao tải lên anh là tui lay thằng Thúi dậy để hắn la tiếp cứu, thức hết cả lao dậy, tụi hắn phải sợ, không dám đâm. Anh coi đây này. - Ngạnh mò tìm bàn tay Lượm, gại, gại vào lòng bàn tay Lượm một cái đầu đanh hai mươi phân nhọn hoắt. - Hắn mà đụng vô người anh là tui đâm liền. Mình chừ có bốn anh em, sợ chi tụi hắn! - Ừ hè. - Lượm lúc này mới sực nghĩ ra - Đúng là chừ mình đã có bốn người, bằng quân số một tổ chiến đấu của Đội ngày còn ở mặt trận Huế.. Chính ý nghĩ này làm Lượm bình tâm trở lại - nỗi sợ hãi tiêu tan dần. Nó đưa bàn tay tìm nắm lấy bàn tay Ngạnh. Trời, bàn tay nó giống hệt bàn tay Vịnh-sưa, bàn tay con nít mà đã có chai, có cạnh. Lượm nói, giọng cảm kích. - Cậu khôn thiệt, đúng là chính hiệu liên lạc của du kích, chết thì thôi, chứ không chịu khai chôn súng! Cậu đã nghĩ ra cái điều mà tớ ngu quá, chẳng nghĩ ra: Chừ mình có bốn anh em mà toàn du kích với Vệ Quốc Đoàn. Lẽ mô ta lại sợ mấy thằng ăn trộm, ăn cắp? 13 Lanh là một trong những người tù đầu tiên bọn Pháp đưa về giam ở lao Thừa Phủ, sau ngày thành phố bị giặc chiếm. Do đó, nó thông thạo đủ mọi chuyện ở trong lao. Nhờ nó mà Lượm được biết, trong hai dãy ca-sô đối diện với ba-ti-măng hai, bọn giặc giam những người tù đặc biệt. Đêm đêm, chúng thường đưa xe đến chở một số người bị giam ở đây, mang đi và không bao giờ thấy mang về trả. Chắc là chúng đưa đi thủ tiêu. Do đó mà tù họ gọi dãy ca-sô này là" ca-sô âm phủ ". Có lần, chiều hôm trước ca-sô nào cũng có người. Sáng hôm sau tất cả đều trống không. Rất nhiều lần, chúng vào gọi tên một số người ở hai ba-ti-măng, bắt ra tập hợp trước sân. Những người này hí hửng tưởng sắp được thả ra. Không ngờ, chúng xích tay rồi tống luôn vào" ca-sô âm phủ ". Hiện nay, trong dãy ca-sô âm phủ, chúng có giam một người mà cả nhà lao ai cũng biết tên, đó là cụ Võ Nguyên Than, thân sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nghe đâu chúng bắt được cụ ở Quảng Bình, đem về giam ở ba-ti-măng một. Một hôm, tên Chánh Sở mật thám Phòng Nhì nói với cụ" Ông già không tốt. Ông già có người con cứng đầu dám chống lại quân đội Pháp hùng mạnh. Ông già sinh con mà không biết dạy con ". Cụ Than cười ngạo, vuốt râu trả lời." Tôi đẻ con ra, chưa kịp dạy thì con đã bỏ nhà đi làm cách mệnh. Chừ tôi muốn dạy thì còn mô ở đây mà dạy? Vậy tôi nhờ quân đội Pháp hùng mạnh đi bắt giúp con tôi về đây, để tôi dạy thử, coi con tôi có chịu nghe không ". Thằng chánh mật thám tức quá, tát cụ gãy hai cái răng, rồi ra lệnh tống cụ vào" ca-sô âm phủ ". Hơn ba chục tù con nít trong lao. Lanh đều biết tên, quen mặt, và còn biết rõ từng đứa tại sao bị bắt và bị bắt trong trường hợp nào. Riêng" băng "của Lép-sẹo, trước kia có mười bốn đứa. Tháng trước chết mất hai, chừ còn lại mười hai. Cả hai đứa đều chết vì bị bệnh ỉa chảy. Không biết tụi hắn ăn phải cái chi, đi ỉa suốt hai ngày hai đêm rồi chết. Tụi băng Lép-sẹo toàn đứa không cha, không mạ, chuyên nghề ăn cắp, móc túi ở khắp các chợ trong thành phố. Có đứa đi ăn cắp, móc túi thì khi mới sáu, bảy tuổi. Riêng thằng Lép-sẹo người ta đồn mới đẻ ra hắn đã biết ăn cắp. Họ kể, mạ hắn vừa đẻ hắn khóc oe oe, bà mụ bồng tắm cho hắn. Tắm xong bà mụ thấy cái nhẫn vàng đeo ở ngón tay biến mất. Bà ta tưởng cái nhẫn tuột ra, rơi chìm trong chậu tắm. Nhưng khi đổ hết nước vẫn không thấy cái nhẫn. Bà ta tiếc điên người. Lúc đó bà ta mới chú ý một bàn tay của thằng con nít bà vừa tắm, nắm chặt khư khư. Bà vặt bàn tay hắn ra thì thấy cái nhẫn vàng nằm giữa lòng bàn tay. Trong băng Lép-sẹo có mấy thằng, người nhỏ quắt queo nhưng hung dữ, gan liều gớm ghiếc lắm, đến cả Lép-sẹo cũng phải gờm. Hồi mới vô lao, trong một trận đập lộn, một thằng đã cắn đứt tai một thằng khác. Trong số ba chục tù con nít, có khoảng chục đứa là Liên lạc Uỷ ban kháng chiến xã, huyện, của du kích, bộ đội địa phương. Có mấy đứa bị bắt chỉ vì dại. Chúng đi chơi thấy có giấy chi ai vứt giữa đường, lượm đem về định phất diều, té ra giấy đó là truyền đơn Việt Minh. Bất ngờ gặp tụi" Rê-vê-cu "đi roỏn, rứa là tụi hắn tóm cổ luôn, tống vô lao. " Chỉ tại mù chữ cả thôi! "- Thằng Lanh buồn rầu kết luận - Tui mà gặp giấy đó chắc tui cũng lượm. Hồi cách mạng mới lên, tui có đi học bình dân, đã hơi hơi biết đọc. Nhưng rồi Huế đánh nhau, tui mắc việc chạy liên lạc cho du kích, bỏ mất mấy buổi học, rứa là quên trợt. Mạ tui nói tại tui ham ăn nhiều cơm cháy nên thành tối bụng tối dạ, học mô quên nấy, chứ lúc còn nhỏ thì cũng sáng láng lắm. Lượm an ủi nó: - Chuyện chi trong tù mi cũng biết, kể lại đầu đuôi vanh vách la mi thong minh lắm, tối bụng răng được! Mấy bữa nữa tau bớt đau, tau sẽ dạy cho mi, thằng Thúi học.. Ngạnh liền nói chen vào: - Anh dạy giúp cho cả tui nữa hí? - Ừa, còn đứa mô chưa biết chữ tụi bay rủ hết cả lại, tau dạy cho một thể. Tau chỉ dạy cho tụi bay một tháng là truyền đơn Việt Minh đọc làu làu. Thằng Lanh còn kể: - Tụi băng Lép-sẹo cậy đông, cậy" đại ca Lép-sẹo "võ nghệ cao cường, tha hồ ăn hiếp những đứa khác. Đứa mô mới vô tù cũng bị tụi hắn xúm lại đập một trận ra oai. Tui cũng bị tụi hắn đập, đập rất tàn bạo, còn hơn cả trận đòn Một Điếu, không chết là may! Đập cho thất kinh rồi tụi hắn bắt phải làm đầy tớ cho tụi hắn. Đêm ngủ, mình phải ngồi đấm lưng, gãi ghẻ cho tụi hắn ngủ. Lĩnh được vắt cơm cũng phải bẻ bớt đưa cho tụi hắn một phần vắt. Đứa mô không đưa, hoặc đưa ít, tụi hắn xúm lại cho mũi ăn trầu ngay! Tụi lính ngục bắt tụi tù con nít phải dọn cứt đái cầu tiêu cả hai ba-ti-măng. Vài ngày một lần, phải lấy lon múc cứt đái đổ vô cái thùng to, xách ra cái hố sân lao tê mà đổ. Không có lon thì phải lấy tay mà bụm cứt. Tụi Lép-sẹo không đứa mô chịu dọn, bắt tụi tui phải dọn thay. Đã không dọn, tụi hắn còn đứng ngoài bịt mũi, trêu chọc, bợp tai, đá đít, giả bộ làm lính Tây chửi tù đi làm cỏ-vê:" Viết Min! Mao lên! Viết Min! Mao lên! ". Áo quần, chân tay tụi tui đứa mô cũng thúi hoăng mùi cứt.. 14 " Mình không lanh tay đối phó trước, để tụi hắn kịp xông vô, mình mất mạng như chơi ". Những chuyện thằng Lanh kể về băng Lép-sẹo làm Lượm bật lên ý nghĩ đó. Ý nghĩ nung nấu đầu óc nó, giúp nó lấn lướt được cơn đau như bị sống dao dần khắp người. Sang hôm sau, nó gắng hết sức để đứng lên, mặc dầu đầu óc nó còn choáng váng, tay chân còn run rẩy và vừa đứng lên chưa được một phút, nó đã muốn nằm dài ngay xuống nền xi măng. Toàn thân nó đau nhức không sao chịu nổi. Nó cố sức, chống chọi với sự yếu đuối, đớn hèn của bản thân. Nó cắn răng để khỏi bật lên tiếng rên, giận dữ tự mắng nhiếc mình:" Mi là đồ tồi! Rứa mà cũng mang danh Vệ Quốc Đoàn! Thằng kẻ cắp bị đòn còn nặng hơn mi, rứa mà hắn đã vùng ngay dậy mài dao quyết trả thù, còn mi là Vệ Quốc Đoàn thì nằm dài ra đó mà than vãn, kêu đau, rồi chịu xuôi hai tay chờ tụi hắn tới chọc dao vô giữa ruột! " Thấy Lượm đứng, dựa lưng vào tường, mặt quạu cọ, miệng cứ lẩm bà lẩm bẩm. Thúi phát hoảng. Nó tưởng Lượm đau quá đã hóa rồ. Nó níu tay Lượm, năn nỉ: - Anh nằm xuống mà nghỉ, đứng là chi rứa cho đau thêm? Anh có khát không? Tui đi kiếm nước cho anh uống hí? Vẻ hốt hoảng, lo lắng của Thúi làm Lượm cảm động. Nó nhìn Thúi, nước mắt rưng rưng:" Một thằng lạ hoắc, tự nhiên mắc kẹt vô đời mình rồi bỗng trở nên thân thiết với mình hơn cả an hem ruột thịt. Rồi chỉ với vũ khí là cái miệng la thật to, mà cứu mình thoát khỏi nguy hiểm!.. Nếu không đi Vệ Quốc Đoàn, không tham gia kháng chiến, làm chi gặp được những chuyện lạ đời như rứa! ". Ý nghĩ đó làm Lượm đang muốn khóc mà tự nhiên bật cười. Lượm vịn vai thằng Thúi nhúc nhích đi lại trong ba-ti-măng. Nó nói nhỏ với Thúi: - Tụi băng thằng Lép-sẹo đang hầm hầm mài dao mưu giết hai anh em mình. Mình ngu chi nằm dài ra đó để chờ tụi hắn xông vô giết? Anh em mình bị giết chết ở đây, tụi Tây hắn càng mừng, rứa là bớt đi được hai thằng Việt Minh! Thúi hoảng sợ, thì thầm hỏi lại: - Rứa chứ an hem mình mần răng? - Mi không lo, tao đã có cách. Giết được anh em mình có mô dễ! Trưa hôm đó, Lượm tập đi lại một lúc. Sau khi đã đi được không phải vịn vai Thúi nữa, nó nhờ Ngạnh và Lanh dẫn di gặp những đứa mà nó biết chắc là bị bắt vì tội làm liên lạc cho Uỷ ban, du kích. Tất cả có bảy đứa, trạc tuổi Lượm và Thúi. Đứa nào áo quần cũng rách rưởi như tổ đỉa, nước da xanh bủng xanh beo, ghẻ lở đầy người, chấy rận như sung. Khi nhắc tới tụi băng Lép-sẹo, đáy mắt đứa nào cũng loé ánh thù hận. Sau cái hôm Lép-sẹo bị cái" anh đánh đồn Hộ Thành "- chúng gọi Lượm như vậy - đập cho một trận ngắc ngư, đứa nào trong bụng cũng thấy như mình được trả thù. Chúng liếc nhìn bản mặt du côn tím bầm, méo mó của Lép-sẹo với ánh mắt hả hê. Ánh mắt của chúng như muốn nói: Mi tưởng mi ăn hiếp được tui tau mãi à? Chừ đã có Vệ Quốc Đoàn binh tụi tao nghe! Chúng cầu ước Lượm đập Lép-sẹo thêm vài trận nữa, đập chết thì càng tốt. Để từ đây chúng đỡ khổ vì hắn. Bởi vậy khi nghe Lượm rủ chúng đi vào ba-ti-măng bàn chuyện hệ trọng, chúng hớn hở đi theo ngay. Lượm ngồi dựa lưng vô tường, các bạn ngồi vây tròn chung quanh. Một vài đứa trong băng Lép-sẹo thập thò ngoài cửa, tò mò, xét nét nhìn vào. Lượm trừng mắt, bặm môi nhìn lại chúng. Chúng chột dạ, tháo lui ra sân. Lượm hỏi tên, tuổi, về trường hợp bị bắt của mỗi bạn. Nghe xong, Lượm nói giọng chê trách. - Các cậu đều là liên lạc của Uỷ ban, của du kích bộ đội địa phương, rứa mà chịu để cho tụi ba de móc túi đánh đập, bợp tai, đá đít, sai khiến chi cũng phải chịu. Tớ thấy lạ quá! Có đời thuở mô một thằng liên lạc của du kích lại đi ngồi đấm bóp, gãi ghẻ cho một thằng ăn cắp ở chợ Đông Ba! - Nhưng tụi hắn đông - Một đứa cãi lại - Cả các anh tù lớn cũng phải sợ tụi hắn. - Tụi hắn gan mà liều mạng gớm lắm! Một đứa khác nói chen vào. - Tụi hắn đông, các cậu thì ít à? - Lượm hỏi lại giọng gay gắt. - Chỉ ngồi ở đây thôi cũng đã có mười một đứa. Còn tụi hắn, mười hai đứa, thua kém chi nhau? Tụi hắn gan, các cậu không gan à? Mà tụi hắn chỉ có gan móc túi, gan ăn cắp. Còn anh em mình toàn gan đánh Tây. Hỏi ai gan hơn? - Nhưng tụi hắn kết bè với nhau.. - Tụi hắn kết bè, tại răng anh em mình lại không biết kết bè? Anh em mình chịu ngu thua tụi hắn à? Mà theo ý tớ, ta không thèm kết bè theo kiểu tụi du côn, ăn cắp. Tụi ta sẽ thành lập một đội, y như đội du kích rứa. Các cậu có đồng ý không? - Đồng ý! Anh nói đúng đó! Ta thành lập một đội rồi choảng nhau với băng của hắn, chết thì thôi! - Một đứa là liên lạc của Uỷ ban hành chánh kháng chiến xã Phong Lai đứng phắt ngay dậy hùng hổ nói. Tất cả đều háo hức hưởng ứng. - Đúng đó! Lập ngay đi! Lập xong ta kéo ra đập tụi hắn luôn. - Gớm, làm chi mà hăng máu vịt. - Lượm bật cười nói - Theo ý tớ, mục đích của đội ta không phải chỉ để đập lộn. Nếu tụi hắn gây sự thì ta đập, nhưng nếu tụi hắn biết sợ, rút lui trước thì thôi. Đã đập nhau, tụi hắn sứt đầu chảy máu thì anh em mình cũng hộc máu mũi máu mồm. - Không đập lộn nhau với tụi hắn thì ta lập đội ra để làm chi? - Thiếu chi việc. - Lượm nói. - Theo ý tớ thì như ri: Từ giờ trở đi, mười một anh em mình sẽ ở chung lại một chỗ như một tiểu đội du kích tập trung, ăn cùng ăn chung, làm chi cần làm chung, cần đập lộn ta cùng đập. Sẽ không một cậu mô chịu làm đầy tớ cho tụi hắn, và cho bất cứ ai. Lĩnh cơm không phải bẻ ra cúng cho tụi hắn. Việc dọn cứt cầu tiêu, phần của tụi hắn, tụi hắn phải tự làm lấy, phần của mình tụi mình làm. Nếu tụi hắn giở trò, đập một anh em mô trong đội, cả đội sẽ a vô đập lại. Ngoài ra, anh em mình tìm cách giúp đỡ các anh bị giam trong dãy ca-sô âm phủ. Các anh trong nớ toàn Việt Minh hạng nặng cả. Họ là cấp chỉ huy của anh em mình cả đó nghe. Lính không giúp đỡ cấp chỉ huy còn giúp ai? Ông Phùng Đông, chỉ huy trưởng mặt trận khu C hiện cũng đang ở trong đó. Ông đang nằm khát cháy cổ, không biết nhờ ai lấy cho hớp nước.. cả cụ Võ Nguyên Than, người đã sinh ra đại tướng Võ Nguyên Giáp, cũng bị tụi hắn hành hạ bỏ đói, bỏ khát. Các cậu nghĩ coi có đứt ruột không? Nghe Lượm nói đến đó, nhiều đứa tự nhiên rơm rớm nước mắt. Ngạnh gục vào vai Lượm khóc lặng lẽ. Lượm cũng khóc, nó đưa tay quệt nước mắt, nói tiếp: - Việc trước nhất của anh em mình là hằng ngày ta chịu khó kiếm nước trong, chuyền vô ca-sô, tiếp tế cho các anh, các cụ. - Làm được như rứa thì tốt quá, anh Lượm hè! - Thúi bật lên nói. - Nhất định anh em mình làm được! Các cậu có đồng ý như rứa không? - Đồng ý! Đồng ý! - Tất cả nhao lên tán đồng. Lanh nói giọng hối hận, buồn rầu: - Việc như rứa mà anh em tui mấy lâu chẳng nghĩ ra. Tệ thiệt! - Rồi nó nhấp nhổm chỉ chực đứng lên xách ống bơ đi kiếm nước trong để tiếp tế cho các anh trong" ca-sô âm phủ ". 15 - Khi mô thì đội mình ngủ tập trung? - Một đứa là liên lạc của Bộ đội địa phương huyện Hương Trà hỏi Lượm. - Ngay tối nay! - Nhưng lấy chỗ mô mà ngủ cho đủ cả đội? - Một thực tế nan giải và gay gắt đặt ra cho Lượm, làm nó ngồi lặng đi một lúc, sững sờ, bối rối. Các bạn đang ngồi ở đây, từ trước đến nay ngủ tản mác, mỗi đứa một nơi, ở cả hai ba-ti-măng. Đêm qua, lần đầu tiên Lượm, Ngạnh, Thúi, Lanh ngủ cùng với nhau một chỗ. Chỗ ngủ quá chật, bị người lớn chen lấn phải dồn sát đến gần cầu tiêu. Nếu nằm sát hơn nữa thì phải nằm lên cứt và nước đái từ trên cầu tiêu tràn xuống. Bây giờ thêm bảy đứa nữa thì lấy đâu ra chỗ. Nhưng nếu cứ ngủ tản mác mỗi đứa một nơi như cũ thì cái đội mới lập ra này sẽ vã ra như một vắt cơm ngâm nước. Một hạt cơm tự nhiên rời khỏi vắt cơm. Lanh nói cho Lượm biết tụi băng Lép-sẹo cũng ngủ chung thành một dãy dài ở bên ba-ti-măng hai. Chỗ mà Ngạnh sợ hãi không dám nằm ở đằng kia là Lép-sẹo chiếm thêm để thỉnh thoảng hắn sang nằm chơi với một người tù lớn tuổi vốn trước đây là một tên du côn kết thân với hắn. Cuộc đời chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn tuy còn rất ngắn ngủi nhưng cũng đã dạy cho Lượm một điều quan trọng. Điều kiện trước tiên để làm nên sức mạnh của một đơn vị chiến đấu, là phải cùng ăn, cùng ngủ, cùng sinh hoạt." Thằng đầu trộm đuôi cướp cũng khôn ngoan biết như vậy - Lượm cay đắng nghĩ bụng. - Không phải vô cớ mà Lép-sẹo cho cả băng hắn ngủ tập trung thành một dãy ". Lượm chán nản đưa mắt nhìn khoảng còn lại trong ba-ti-măng, lầy nhầy cứt đái và dòi từ trên trần nhà rơi xuống lộp bộp như gạo rác - những con dòi long lá, ngo ngoe đang bò thành đàn, thành lũ. Muốn ngủ được phải quét dọn sạch sẽ nền xi măng. Nhưng vô ích. Chỉ sau một đêm là nước phân ngập ngụa trên cầu tiêu sẽ tràn xuống tận chỗ nằm. Lượm đi lại chỗ mấy ông cụ nằm ở góc cạnh cửa ra vào, hỏi chuyện. Các cụ cho biết, ngày các cụ mới vào tù, cả hai hố cầu tiêu đều không tắc. Nhưng tù càng ngày càng đông, càng hỗn tạp. Nhười ta nhét giấy, dẻ lau, cả đất đá nữa xuống lỗ, tích tụ lâu ngày hóa tắc. - Có cách chi thông cho hết tắc không cụ? - Thấy nhớp nhúa, hôi hám quá nên cũng có nhiều người tìm cách thông. Họ lấy gậy thọc, uốn dây thép móc nhưng không ăn thua. Càng thông, càng móc lại càng tắc hơn. Ông cụ bị bắt vì có con trai là Vệ Quốc Đoàn, nhìn về phía hai cầu tiêu nói: - Chừ có người mô dám cả gan thọc tay xuống lỗ moi hết những thứ mắc kẹt ra thì may có thể thông được. Bọn trẻ xúm lại quanh ông cụ, trợn tròn mắt nhao nhao hỏi: - Thọc tay vô giữa cái vũng cứt đái lều bều đó a cụ? - Phải đó các cháu ạ. Nhưng gớm ghiếc như rứa ai dám? - Nếu thông được thì tụi cháu cũng không ngán cụ ạ. Chỉ lo không thông được thôi.. Tây, mật thám an ninh tụi cháu không ngán, ngán chi đồ cứt đái! Trong cơn cáu giận Lượm bật lên nói vậy. Nhưng nói xong nó bất giác rùng mình. Sự dơ bẩn gớm ghiếc kia gây cho Lượm cái cảm giác kinh khiếp còn hơn cả những trận đòn tra tấn của tụi an ninh. Nghe nói vậy các bạn đều trố mắt nhìn Lượm." Chắc là anh nói trạng chơi rứa chứ đời mô anh dám móc ". Những cặp mắt của các bạn như nói với Lượm vậy. Chính cái vẻ lườm đó đã làm Lượm nổi xung, muốn liều mạng. Em vụt cởi phăng áo, nói với Ngạnh và Thúi giọng như quát: - Hai đứa bay chạy ra cái chỗ hố phân xách cái thùng hốt cứt vô đây cho tao! - Để tui ra lấy cho! Tui biết chỗ. - Lanh miệng nói, chân chạy ra khỏi ba-ti-măng. Thúi nhìn Lượm run rẩy hỏi: - Anh móc thiệt à? Nghe Thúi hỏi, Lượm càng nổi xung: - Tau đã nói từ giờ trở đi, mi đừng hỏi tau câu đó! Thiệt à? Thiệt à? Tau đã nói láo với mi khi mô? Và ngay lúc đó, Lượm vụt hiểu rằng bây giờ mình không còn thụt lùi được nữa. Nó đã qua song và chặt cầu sau lưng. Nếu nó thụt lùi, cái đội mới lập này sẽ lập tức tan rã, vì các bạn không ai tin mình nữa. Và tụi băng Lép-sẹo sẽ xông vô ăn thịt mình.. Thằng Lanh chạy vào, tay xách cái thùng sắt chuyên dung để hốt phân. Nó lót miếng giấy ở chỗ tay xách, mặt ngoảnh sang một phía khác như lúc người ta xách con chó chết hay con mèo chết đã có dòi. Lượm lẳng lặng cầm lấy cái quai thùng, ném miếng giấy lót quai vào thùng, rồi bước thẳng tới dãy cầu tiêu. Với vẻ bất cần của người quyết liều mạng, nó lội luôn vào vũng phân lõng bong, nổi lều bều những giấy, những giẻ rách và từng đám dòi ngo ngoe, ngọ nguậy trèo lên những vật nổi lều bều đó thành từng núi như núi rác. Chúng lập tức bám vào hai ống chân Lượm và ngo ngoe, ngọ nguậy, trèo ngược lên phía đùi. Vẻ mặt của Lượm lúc này là vẻ mặt của người sắp nôn oẹ. Đứng từ xa nhìn lại các bạn đều nghĩ rằng Lượm sẽ nhào trở ra. Lượm đặt cái thùng xuống bên cạnh, rồi cúi xuống thọc tay vào vũng phân. Bọn trẻ rùng mình tưởng chừng như Lượm đang thọc tay vào bếp than đỏ. Nhiều đứa bật kêu lên" úi ". Lượm móc lên một nùi giẻ và giấy lầy nhầy phân, ném vào thùng. Nó móc tiếp, móc tiếp, lôi lên từng nùi lớn nhỏ nào giấy, nào giẻ, nào lá, nào cỏ và cả gạch vụn, đá vụn. Cánh tay Lượm mỗi lúc một thọc sâu xuống hơn. Đến khuỷu tay, đến bắp tay, rồi đến tận nách. Mỗi lúc Lượm càng phải cúi gập người, mặt gần sát vào vũng phân. Lúc này, Lượm phải rướn cao cổ hết mức để phân và dòi khỏi chạm vào cằm. Nó đã móc gần hết nửa thùng những thứ mắc kẹt dưới lỗ cầu tiêu. Mùi thối xông lên nồng nặc cả ba-ti-măng, đứng từ xa mà các cụ và bọn trẻ đều phải đưa tay bịt mũi. Cái tin" Chú Vệ Quốc Đoàn đánh đồn Hộ Thành "đang dung tay móc thông hố cầu tiêu, chỉ một loáng đã lan khắp sân tù, sang ba-ti-măng hai, và các dãy xà lim, ca-sô. Những người tù đau ốm, các cụ già, tụi tù con nít, tò mò, hiếu kỳ kéo vào đứng chen chúc trước cửa, ngoài hành lang nhìn vào. Họ thấy Lượm cởi trần, tấm lưng gầy giơ xương, đang dọc ngang những vết sẹo làn roi, đang cúi gập người trên vũng phân, dòi. Một cánh tay chống, phân ngập đến khuỷu tay, cánh tay kia thọc sâu xuống lỗ cầu tiêu, phân lút đến nách, mặt và cằm gần chạm vào những mảng phân lều lều. Dòi lúc nhúc, ngo ngoe bò lên lưng, lên cổ, lên đầu. Đứng từ xa mà nhìn cảnh tượng đó, nhiều người cũng phải sởn gai ốc và cảm thấy buồn nôn. Trong số này có một ông giáo trước kia dạy văn và triết ở trường Quốc Học. Ông bị bắt vì bọn mật thám lục soát tủ sách của ông có những tác phẩm của Các Mác và Ăng-ghen. Hình ảnh người chiến sĩ thiếu niên lưng trần, ngập người trong vũng phân và dòi bọ để thông cầu tiêu bị tắc, làm ông liên tưởng tới một trong mười hai chiến công của người dũng sĩ thần thoại Héc-quyn: Héc-quyn đã dọn sạch phân rác trong cái chuồng ngựa ba nghìn con của ông vua Eaghe tích tụ trong suốt ba năm! Và trong khoảnh khắc ông đã lĩnh hội một cách sâu xa hơn bao giờ hết ý nghĩa của biểu tượng hùng vỹ này. Ông lẩm bẩm:" Dọn sạch những nhơ nhớp đầu độc cuộc sống đồng loại là một trong những chiến công lớn lao nhất của con người ". Mỗi lần Lượm rút cánh tay lên, lôi theo một núi rác trộn lẫn với phân và dòi, ném bộp vào cái thùng sắt rỉ, nét mặt nó hằm hằm dữ tợn, giống hệt vẻ mặt lúc nó cỡi lên bụng Lép-sẹo, túm tóc dộng đầu hắn côm cốp xuống nền xi măng! - Ọo.. ọt ọt! - Từ trong lòng hố xí bất ngờ thoát ra một tiếng kêu như tiếng kêu la nấc vui mừng của người bị hóc xương lâu ngày, bất ngờ nuốt được cái xương khỏi cổ họng! Như có phép lạ, cái vũng phân dòi lõng bõng trôi tuồn tuột xuống miệng hố, chỉ một chốc đã trơ nền xi măng. Tất cả những người chứng kiến không nén được vui mừng, nhảy hết cả lên, reo to: - Thông rồi! Thông rồi! Nếu trên người Lượm không bê bết phân dòi, chắc họ đã ùa tới công kênh nó lên vai. Không nói không rằng, Lượm lại sục sang cái cầu tiêu thứ hai, móc thông tiếp. Những thứ nó móc lên đã chất một thùng đầy có ngọn. Thông xong cái cầu tiêu thứ hai, Lượm chụp lấy quai thùng, xách bằng hai tay, với nét mặt hầm hầm, chạy thẳng một mạch ra khỏi cửa ba-ti-măng. Những người đứng chen chúc trước cửa vội vàng dạt hết ra hai bên. Lượm lao xuống mấy bậc tam cấp, lặc lè chạy ra cái hố lớn ở góc cuối sân lao, đổ ụp cái thùng xuống đó. Các bạn trong đội ùa chạy theo sau Lượm. Rời khỏi cái hố mới chục bước chân, Lượm ngồi phịch xuống đất, kiệt sức. Thúi bặm môi, bặm miệng nhổ từng túm cỏ lớn, vầy lại làm giẻ lau, lau phân và dòi bê bết trên hai cánh tay, trên lưng, trên cổ Lượm. Nó vừa phủi những con dòi lông lá bò trên tóc Lượm vừa khóc, Lanh, Ngạnh và các bạn đứa ống bơ, đứa vỏ đồ hộp, chạy ra hố nước múc nước, chạy vào dội té tát lên người Lượm. - Tụi bay múc nước vô cọ sách nền xi măng sửa soạn chỗ ngủ cho cả đội tối nay.. - Lượm kịp nói đến đó đã cúi gập người nôn thốc nôn tháo. Mặt nó tái mét, nôn đến mật xanh mật vàng. Nó vừa khạc nhổ, vừa nói với giọng giận dữ: - Từ giờ trở đi, bất kể ai, cả con nít, cả người lớn đi ỉa mà còn tọng giấy, giẻ xuống lỗ, tụi bay phải xúm lại rị đầu xuống, bắt phải moi lên ngay! Không moi thì cứ đập cho bể óc. 16 Sáng hôm sau. Đó là ngày mà bọn lính ngục bắt tụi tù con nít phải dọn cầu tiêu của hai dãy ba-ti-măng một và hai. Cầu tiêu ở ba-ti-măng hai cũng bị tắc như bên ba-ti-măng một. Hầu hết tù người lớn đều đã đi làm cỏ-vê. Trên sân lúc này chỉ còn lại bọn tù con nít và mấy người già yếu. Lượm và các bạn trong đội đang ngồi trên thành bể xi măng giữa sân lao. Lượm kể chuyện cái đêm cùng với anh Tư dắt đi rải truyền đơn, phối hợp với các anh lớn đánh đồn Hộ Thành. Nghe Lượm kể chuyện nhưng mắt đứa nào cũng ngơm ngớp nhìn về phía cửa ba-ti-măng hai, nơi tụi băng Lép-sẹo đang tụ tập. Chúng biết thế nào bọn Lép-sẹo cũng kéo đến gây sự, bắt chúng phải dọn cầu tiêu thay cho chúng, như mọi bận." Không biết anh Lượm có dám đứng ra đối địch với tụi hắn không? ". Nhiều đứa nghĩ vậy. Tuy chúng đều công nhận Lượm gan liều, cứng cổ, nhưng chúng vẫn cảm thấy tụi băng Lép-sẹo đông hơn, mạnh hơn, liều mạng hơn, đặc biệt trong người đứa nào cũng có dắt dao. Cảm giác lo sợ, phấp phỏng trong lòng chúng mội lúc một tăng. Hôm qua đứa nào nói cũng hăng. Nhưng lúc này sắp sửa vào trận, nhiều đứa run sợ, muốn tháo lui:" Không khéo tụi hắn đâm chết mình mất ". Có đứa nghĩ vậy, và tự nhiên tái mặt. Lượm cũng biết vậy, nên nó cố tìm cách làm cho cả đội vững tâm bằng cách kể chuyện và làm bộ như không coi tụi Lép-sẹo ra mùi mẽ gì. Nó nghiến răng tự nhủ:" Dù có bị tụi hắn xúm lại đâm gục, cũng phải đương đầu, chống cự đến cùng. Mình mà tỏ ra hoảng sợ, đội sẽ tàn ngay. Và nếu muốn sống, mình cũng phải đến nước đi đấm bóp, gãi ghẻ cho tụi ba de móc túi đó ngủ ". - Tề, tề. Tụi hắn kéo đến tề! - Nhiều tiếng thì thào hoảng sợ, cắt ngang câu chuyện của Lượm. Lượm ngoảnh lại, nhìn mấy đứa vừa thì thào, thấy mặt chúng đều tái nhợt. Cặp mắt nó lóe ánh giận dữ, nói rít qua kẽ răng: - Tụi hắn là cọp hay beo mà ngó bộ các cậu muốn đái ra quần rứa? Từ cửa ba-ti-măng hai, cả băng Lép-sẹo, mười hai đứa, đang rùng rùng kéo đến. Léo-sẹo đi trước, tụi đàn em bám sát gót hắn. Cả bọn, vẻ mặt thằng nào cũng hùng hùng hổ hổ, rõ rang cái băng trộm cắp này kéo đến với ý định đánh nhau. Trước lúc kéo đến, Lép-sẹo nói với bọn đàn em: - Bữa ni mà anh em mình không đập chết tụi hắn, thì anh em mình sẽ đến nước phải đi làm đầy tớ cho tụi hắn! Trước nhất, tất cả phải nhào vô làm thịt thằng" móc cứt ". Hắn là tên tử thù của anh em mình đó! " Chao, mặt mũi đứa mô coi cũng gớm ghiếc chẳng khác chi mấy cái nùi rác mình móc lên dưới hố cầu tiêu! "- Lượm nheo mắt nhìn chúng nghĩ vậy, và quay lại nói với các bạn: - Khi nào nghe tao hô một tiếng là xông hết vô nghe! Lép-sẹo cũng giống như hôm Lượm đập lộn với hắn: Áo pặc-ti-dăng lem luốc, rộng thùng thình, phanh ngực, khoe cái đầu lâu và hài xương chéo xăm trên ngực, quần đúi xắn đến bẹn, thì ra trên cạp quần, chéo ngang rốn, cái cán dao găm. Cái miệng hắn rộng ngoác, cặp môi dày ngậm lắt lẻo điếu thuốc quấn bằng giấy báo. Khuôn mặt hắn vẫn chưa tan hết dấu vết trận đòn hôm trước, hai má và môi trên bị dập, thâm tím, hai ba cục u đỏ bầm trên trán, nên trông càng thêm vẻ du côn anh chị. Bọn đàn em, đứa nào một tay cũng đút vào bên trong bụng áo. Lanh đứng đằng sau Lượm, nói giọng run run: - Anh chú ý! Tay đứa mô cũng nắm cán dao giấu trong áo. Nghe vậy, cố hết sức mà Lượm vẫn thấy lạnh dọc xương sống: - Tao chấp! - Lượm gằn giọng trả lời Lanh, không quay mặt lại và tự nhiên nó thấy tức tối với chính nỗi sợ hãi của mình. Thúi níu nhẹ vạt áo của Lượm, nói gần như thì thầm: - Hay anh để tui la tiếp cứu cho bọn lính ngục chạy vô? - Không cần! - Lượm lắc đầu. - Tụi hắn tưởng anh em mình sợ, lại càng làm già. Một cơn gió lốc thổi xoáy làm tung bụi cát trên sân lao mù mịt. Tụi băng Lép-sẹo dừng lại, nhiều đứa đưa tay lên dụi mắt. Một ý nghĩ loé sáng trong óc Lượm. Nó nói: - Mỗi đứa vốc hai tay hai nắm cát! Hễ tụi hắn rút dao là ném cát vô mặt luôn. Xông vô, giật lấy dao rồi đập cho tụi hắn không kịp trở tay! Ngạnh nhét cái đinh hai mươi phân đã được mài nhọn hoắt vào bàn tay Lượm, nói: - Anh cầm cái đinh ni để tui rảnh tay nắm cát.. - Không cần! Tay không tao chấp tụi hắn! - Vẻ mặt và giọng nói cứng cỏi của Lượm tự nhiên làm các bạn trở lại vững tâm. Những ngày chiến đấu ở mặt trận Huế đã dạy cho nó một điều quan trọng: Trong giây phút hiểm nguy của trận đánh, một tiếng cười ngạo của người chỉ huy nhiều lúc làm cho đơn vị đủ sức chuyển bại thành thắng. Khi chỉ còn cách bọn Lượm chừng mười bước. Lép-sẹo bỗng đứng lại. Lượm rẽ các bạn bước lên trước hất hàm hỏi cả bọn: - Tụi bay muốn chi? Lép-sẹo tránh không nhìn Lượm, nói với bọn trẻ đứng sau lưng Lượm, giọng hách dịch, ra lệnh: - Tụi bay đi vô ba-ti-măng hai dọn cứt ngay! Sáng ni phải dọn cứt, tụi bay không nhớ à! Đứa mô bỏ việc thì chớ có trách đại ca Léo-sẹo! Mệ đập hơi nặng tay – Hắn giả giọng các mệ, rồi giả giọng Tây sai khiến tù làm cỏ-vê: - A lê ê! Mao lên! Viết min mao lên! Bọn đàn em hắn cười hi hi, khiêu khích. Lượm nghiêm mặt, nói: - Tụi bay vô mà dọn lấy! Sai ai? Phần của tụi tao bên ba-ti-măng một, tụi tau dọn rồi. Bên nớ là phần của tụi bây! Lép-sẹo chít miệng, nhổ cái tàn thuốc, hai mắt vụt đỏ kè, gầm mặt hỏi: - Mi là cha tụi hắn à? - Là anh em cùng một đội! - Đội chi? - Đội thiếu niên chiến đấu lao Thừa Phủ. - Lượm trả lời liền một cái tên vụt thoáng qua óc nó. Và tự nhiên chính nó cũng cảm thấy vững tâm hơn cái tên Đội đặt ra một cách bất ngờ đó. Lượm nói tiếp, giọng đàng hoàng, rành rọt: - Từ giờ trở đi, bọn bay cần gì cứ nói thẳng với tau! Tụi bay muốn chơi dao, chúng tao chơi dao! Chơi tay không, chúng tao chơi tay không! Muốn hòa thuận, chúng tao hòa thuận. Vệ Quốc Đoàn với du kích chúng tau, tụi Tây, mật thám, Bảo Vệ Quân, anh ninh, sung đạn đầy mình tụi tao còn không ngán, ngán chi ba con dao rét của tụi bây! - Đại ca còn chờ chi nữa! Đập chết cha hắn đi! - Tụi đàn em Lép-sẹo hung hổ thét lác. Lượm trừng mắt: - Tao thách đó! Thằng mô muốn chết thì cứ vô đây! Tụi bay đã thấy tao đập lộn như răng rồi đó! Cả băng Lép-sẹo gầm ghè rút dao, các bạn của Lượm cũng sẵn sàng ném cát. Mấy năm sau, khi Trần Lượm đã thành một tiểu đội trưởng trinh sát nổi danh gan dạ của trung đoàn, mỗi lần vui chuyện, anh kể với các bạn trong tiểu đội, chuyện những ngày ở trong lao Thừa Phủ, đến đoạn này, giọng anh vẫn còn nghẹn lại vì hồi hộp. Anh nói: -" Nếu hôm đó xảy ra đánh nhau giữa hai toán, thì đổ máu là cái chắc. Và mình có thể bị đâm chết với mấy con dao rét của tụi ăn cắp, móc túi. Con nít đầu chưa sạch cứt trâu mà tụi nó dữ tợn như beo! " Nhưng đúng lúc đó, tiếng anh tù điên bỗng la to ở phía cuối dãy ca-sô âm phủ: " Ông Một Điếu! Ông Một Đíếu! Thằng mô yếu, chạy cho mau! Thằng mô đau, cứ đứng lại.. ại.. ại! " Cả hai toán con nít đều rùng mình, quay hết nhìn ra phía cổng lao. Lép-sẹo nhanh tay khép vội hai tà áo lại giấu cái đầu lâu xương chéo xăm trên ngực và con dao dắt trước bụng. Thường lệ, cứ vài ba buổi sáng. Một Điếu lại đi vào lao, rào một vòng quanh các ba-ti-măng, các dãy ca-sô, xà lim xem xét, kiểm tra. Một Điếu đã hiện ra ở đầu sân lao. Hắn diện bộ" soóc "kaki vàng quen thuộc, cầu vai áo lấp lánh cái vạch lon quan một, đầu đội mũ ca-lô, miệng ngậm cái ống điếu tổ bố bốc khói, tay ngúc ngoắc roi [bad word] bò như con rắn đen, bên hông đeo xệ khẩu sung lục. Cẳng tay, cẳng chân hắn dài như tay chân vượn, tua tủa lông lá. Chỉ nhìn thấy bóng dáng tên chúa ngục có máu điên này, tù lao Thừa Phủ, kể cả người gan lì nhất cũng phải nổi da gà. Điều đáng sợ và nguy hiểm nhất của hắn là hắn đánh tù, bắn tù, một cách hết sức bất ngờ; vẻ mặt hắn cứ lạnh băng như mặt nạ nên không sao biết được mà đề phòng. Một Điếu đi vào ba-ti-măng hai. Mấy phút sau hắn đi ra đứng trên bực thềm, một tay chống lên bao súng lục, tay cầm roi da ngoắc ngoắc hai toán tù con nít đang gầm ghè sửa soạn đánh nhau. - Viên i xì! Lại đây! Lại đây! Một Điếu không biết tiếng Việt, hắn chỉ trọ trẹ được vài ba tiếng nhưng hắn không cần thông ngôn. Đối với tù, những tiếng hắn không biết, hắn thay bằng roi [bad word] bò và đôi khi bằng đạn khẩu súng lục đeo xệ bên hông. Nhìn cây roi Một Điếu ngúc ngoắc như con rắn đen từ xa, tất cả bọn trẻ đều run rẩy, cứ đứng như chôn chân xuống đất. Mặt chúng cắt không còn giọt máu. - Bé con! Viên i xì! Lại đây! - Giọng Một Điếu gằn lại, gắt hơn. Nhìn bản mặt cô hồn của tên chúa ngục, nhớ đến trận roi [bad word] bò hôm đầu tiên dưới hiên mưa, Lượm trong bụng cũng run không khác gì các bạn. Nó lại đang ở trong tình thế mắc kẹt giữa hai đối thủ đều ráng sợ. Một Điếu và tụi băng Lép-sẹo. Nếu chần chừ, nó phải nhận đòn cả hai. Kinh nghiệm chiến sĩ và bản chất cứng cổ đã dẫn dắt nó hành động, đối phó: Phải liều mạng, xông thẳng tới, đối mặt với hiểm nguy rồi tuỳ cơ tìm cách tự cứu mình. Bây giờ mà bỏ chạy là chết! Lượm nói to với các bạn, cốt để cho cả tụi băng Lép-sẹo nghe: - Hắn đã gọi thì phải đến. Không đến hoặc bỏ chạy, hắn nổi điên thì rồi đời đó nghe! Các cậu cứ theo tớ, có việc chi tớ chịu trước! Lượm chạy trước, các bạn líu ríu chạy theo sát sau lưng. Bọn Lép-sẹo thấy vậy, hoang mang, cũng hấp tấp chạy theo, cách bọn Lượm một quãng. Lượm đứng lại trước mặt Một Điếu, ước tính khoảng cách khỏi tầm roi. Nó nói với tên chúa ngục bằng tiếng Pháp, cố để giọng khỏi run: - Thưa ông quan hai (nó tăng thêm cho hắn một lon để lấy lòng), chúng tôi có mặt! Ánh mắt vàng như mắt rắn của Một Điếu thoáng vẻ ngạc nhiên: - Mày biết tiếng Pháp? - Thưa ông quan hai, tôi nói chưa được đúng mẹo lắm. - Mày là Viết min? - Tôi là học sinh trường lít-xê.. - Còn bọn kia? - Một Điếu khoát cây roi chỉ các bạn đứng sát sau lưng Lượm - Thưa ông quan hai, toàn trẻ con, con nhà nghèo. Chúng không được đi học. Chúng phải đi chăn trâu, bán báo, đánh giày để tự nuôi sống.. - Tại sao chúng bị bắt? - Tại chúng đi qua các trạm kiểm soát mà không có giấy thông hành - Lượm trả lời bừa. Bọn băng Lép-sẹo đứng cách đó chừng mười bước. Chúng kinh ngạc, khiếp đảm nhìn Lượm đối đáp với Một Điếu bằng tiếng Tây làu làu." Chết cha rồi ". Chúng sợ muốn đến tắt thở, nghĩ bụng:" Thằng móc cứt nớ biết tiếng Tây, chắc hắn đang xui Một Điếu đập chết tụi mình ". Một Điếu đưa cây roi qua vai, chỉ vào ba-ti-măng: - Tại sao chúng mày không dọn sạch các cầu tiêu? - Hắn vừa hỏi vừa bước xuống các bậc tam cấp. - Lũ lười biếng! - Hắn bất thần quát to và vung cây roi lên. Biết hắn sắp đánh, nhưng Lượm cố hết sức không rụt cổ, né người tránh đòn. Nó liều lĩnh nhìn thẳng vào mắt tên chúa ngục nói rành rọt thứ tiếng Pháp khá đúng mẹo: - Thưa ông quan hai, chúng tôi không phải là những đứa trẻ lười biếng. Chúng tôi biết rõ bổn phận của chúng tôi, - Lượm đưa tay chỉ các bạn, - có nhiệm vụ dọn vệ sinh ở ba-ti-măng một. Chúng tôi đã làm xong, mời ông sang kiểm tra. Dọn vệ sinh ở ba-ti-măng hai là nhiệm vụ của bọn kia. - Lượm chỉ vào cả băng Lép-sẹo. Thái độ chững chạc và câu trả lời bằng tiếng Pháp đúng mẹo của Lượm làm cho Một Điếu tự nhiên hạ cây roi xuống. Hắn chỉ roi vào mặt tụi Lép-sẹo, hỏi: - Những tên nhơ bẩn kia tại sao chúng bị bắt? Bọn chúng là Viết min? - Thưa ông quan hai, không phải! Chúng bị bắt vì tội trộm cắp. - Bọn trộm cắp! - Một Điếu chiếu cặp mắt sâu hoắm vàng như mắt rắn vào tụi Lép-sẹo, ngoặc ngoặc đầu roi, gọi. - Lại đây! Lại đây! - Và một tay hắn mở bao súng lục. Bọn Lép-sẹo rú lên khiếp đảm. Nhiều đứa òa khóc chắp hai tay vái lấy vái để Một Điếu: - Con lạy ông! Con lạy ông! Một số đứa nhấp nhổm định bỏ chạy. Lép-sẹo cũng định bỏ chạy. Nhìn vẻ sợ hãi đến cùng cực của bọn trẻ rách rưới, khốn khổ, nỗi giận dữ trong lòng Lượm bỗn tiêu tan. Nó cảm thấy thương hại chúng. Nó nói với cả bọn giọng như ra lệnh: - Đừng chạy! Chạy hắn bắn chết cha bay ngay! Bước lại gần đây rồi tao xin hắn cho! Nó quay sang nói với Một Điếu: - Thưa ông quan hai, xin ông tha tội cho chúng lần này. Tôi sẽ bảo với chúng dọn sạch cầu tiêu trong vòng nửa giờ. - Nửa giờ sau nếu bọn bẩn thỉu ấy không dọn sạch, mày hãy báo cho tao biết! - Một Điếu nói với Lượm và đút súng vào bao. Hắn ngúc ngoắc cây roi đi sang kiểm tra ba-ti-măng một. Lượm bước đến đứng trước mặt Lép-sẹo, nói giọng nghiêm khắc: - Tau đã xin hắn cho tụi bay rồi đó! Kéo nhau vô mà dọn ngay cầu tiêu đi! Trong nửa giờ phải dọn sạch. Vứt hết dao đi! Đồ ngu! Tao mà nói với hắn trong người tụi bay đứa nào cũng dắt dao để rình giết hắn, thì tất cả tụi bay đã ăn đạn suốt lượt!.. Bị Lượm mắng nhiếc nhưng cả bọn không đứa nào dám hó hé. Chúng cúi mặt xuống đất. Riêng Lép-sẹo trân trân nhìn Lượm với ánh mắt căm hờn. Từ ngày vào tù đến nay, chưa một ai, kể cả, người lớn dám mắng nhiếc hắn như Lượm; mà mắng nhiếc ngay trước mặt bọn đàn em của hắn!" Chừ thì tụi đàn em còn coi "Đại ca Lép-sẹo" này ra cái cứt chi nữa! ". Hắn nghĩ vậy, vừa cay đắng, vừa nhục nhã. Nhưng bây giờ thì hắn lại không dám làm gì Lượm. Hắn nghĩ:" Thằng móc cứt nớ biết tiếng Tây. Hắn chỉ cẩn xì lô xì lồ với Một Điếu vài tiếng là mình đã phải ăn đạn rồi! Tổ cha hắn! "- Lép-sẹo gầm lên trong bụng. Một ý định liều lĩnh thoáng vụt qua trong óc hắn:" Mình phải đâm cho hắn một dao vô giữa ngực, rồi tự đâm chết mình luôn! Sống mà phải chịu nhục như ri thì sống làm chi! ". - Một Điếu ra! Một Điếu ra! - Tiếng một đứa trong bọn hắn run rẩy kêu lên. Lép-sẹo ngoảnh lại thấy tên chúa ngục từ trong cửa ba-ti-măng một bước ra, và đang nhìn về phía tụi hắn. Lượm nói: - Kéo nhau vô mà dọn cứt ngay không chết cả tụi bây giờ! - Để tui ra lấy cái thúng đựng cứt hí! - Một thằng cuống quýt nói: - Để tụi tui dọn cho. Đại ca không cần phải dọn. - Một thằng giọng xun xoe. Bóng dáng lông lá của tên hung thần chúa ngục với khẩu súng bên hông, cây roi [bad word] bò ngúc ngoắc trong tay, lập tức làm cho ý định liều lĩnh của Lép-sẹo tiêu tan. - Tổ cha bay! - Lép-sẹo bất thần trút cơn giận dữ lên đầu bọn đàn em. Hắn nghiến răng quạu mặt chửi - Đi vô dọn cứt hết. Thằng mô cũng phải dọn! Và chính hắn chạy vô ba-ti-măng trước. Tụi đàn em líu ríu chạy theo. Lép-sẹo đứng sững lại trước dãy cầu tiêu ngập ngụa phân dòi mà từ trước đến nay hắn chỉ đứng từ xa để sai khiến tụi ngoài kia hốt dọn, như một viên cai tù sai khiến tù" và bây giờ tự nhiên xuất hiện một thằng "chó chết" ở đâu, nhỏ con, ốm yếu thua xa hắn, dám đập lại hắn, dám mắng nhiếc hắn "đồ ngu", lại bắt buộc hắn tự tay phải hốt cứt!".. Hắn nghĩ vậy, và cái miệng rộng ngoác đầy quyền uy, quen sai khiến của hắn, tự nhiên méo xệch như mếu. Một giọt nước mắt đặc quánh, như dầu lăn trên gò má lem luốc của hắn. Có thể gọi tên giọt nước mắt trên má tên anh chị vị thành niên này: Thù hận, nhục nhã.
Chương 15. Phần 6 Bấm để xem 1 Rảnh tay được một chút với tụi băng Lép-sẹo, Lượm nghĩ ngay đến việc tìm xem Chỉ huy trưởng mặt trận khu C hiện đang bị giam ở xà lim số mấy, để có thể giúp đỡ ông. Mất hai ngày mày mò điều tra, Lượm và các bạn trong đội mới phát hiện ra ông đã bị bọn chúng chuyển lúc ban đêm, sang dãy ca-sô âm phủ, giam ở ca-sô số sáu. Mỗi ca-sô, gần sát mắt có một khuôn cửa rộng chừng sáu tấc vuông, cắm chấn song sắt to bằng chét tay. Những người tù bị giam trong ca-sô cứ chiều chiều lại trèo lên, thả qua khuôn cửa sổ đó ra bên ngoài cái ống bơ có buộc dây như kiểu thả gầu xuống giếng. Họ thả xuống như vậy để chờ những người tù bên ngoài đi làm cỏ-vê về thương tình rót cho họ một ít nước trong, hoặc cho một mẩu bánh, một chút thức ăn. Nhưng mười ống bơ thòng xuống cũng chỉ vài ba ống bơ kéo lên có nước, có bánh hoặc thức ăn. Tất cả tù đều trong tình trạng đói khát ghê gớm, nên bớt ra được chút nước, chút bánh để cho là chuyện hãn hữu. Vì khuôn cửa chiều ngang quá hẹp nên người bên trong không thấy được người ở bên ngoài cho gì vào ống bơ. Thấy ống bơ nặng nặng là họ kéo lên. Lâu nay, bọn con nít trong băng Lép-sẹo vẫn bày trò tinh nghịch: Chúng bỏ gạch vỡ, đất, cát vào ống bơ để đánh lừa những người trong ca-sô. Tệ hơn, chúng còn đánh xoáy nước, bánh trong các ống bơ trước khi họ kịp kéo lên. Nghe thằng Lanh kể chuyện, Lượm nổi điên. Đứng giữa sân lao, Lượm nói to với các bạn, cho cả mấy đứa trong băng Lép-sẹo đang đứng gần đó nghe tiếng: - Đồ chó! Từ giờ trở đi, hễ các cậu thấy bất kể thằng mô làm như rứa là xông vô đập chết luôn. Đập chết! Nghe chưa? Tụi băng Lép-sẹo bảo nhau: "Mấy người bị giam trong nớ toàn Việt Minh hạng nặng. Việt Minh, Vê-cu-đê với du kích là họ bênh nhau gớm lắm. Tụi mình xớ rớ chọc vô, tụi hắn sẽ xúm lại đập chết thiệt, chớ không phải tụi hắn nói dọa mô". Một thằng bướng bỉnh, gân cổ nói: "Tau cứ chơi! Coi tụi hắn có làm chi được c.. tau không?". Và chiều đó thằng này đã lén bỏ một vốc cát vào ống bơ, nhưng các bạn của Lượm không nhìn thấy. Thằng này đắc chí vênh váo kể lại với "đại ca" Lép-sẹo để khoe gan. Hắn tưởng "đại ca" sẽ cười tán thưởng và khuyến khích hắn: "Cứ làm tới nữa đi". Không ngờ Lép-sẹo quay mặt, dộng luôn cho hắn một đạp ngã sấp và chửi: - Đồ ngu! Trước thái độ giận dữ bất ngờ của Lép-sẹo, bọn đàn em đều sửng sốt. Chúng nhận rằng đại ca chưa lần nào tham dự vào cái trò tinh nghịch của chúng, nhưng đại ca nổi khùng nhiếc chúng là đồ ngu như lần này là lần đầu. Một ý nghĩ ngờ vực thoáng qua óc chúng: "Hay đại ca cũng bắt đầu sợ thằng móc cứt đó?" Bốn dãy ca-sô chỉ có ba bốn khuôn cửa sổ là không có ống bơ thòng xuống. Trong số này có khuôn cửa ca-sô số sáu, nơi giam Chỉ huy trưởng. Lượm biết rằng Chỉ huy trưởng mới vào tù, ông kiếm đâu ra được ống bơ với dây. Và điều quan trọng hơn là nó không bao giờ tưởng tượng nổi một người như Chỉ huy trưởng lại thả ống bơ xin nước, xin bánh, như những người bình thường khác. Ông là phải mang súng săn voi của Bảo Đại, đi lừng lững trong chiến hào với đôi ủng lấm bùn và giương súng bắn xe bọc thép của giặc. Đó là hình ảnh độc nhất về Chỉ huy trưởng mãi mãi gắn chặt vào trí tưởng tượng của nó. Nếu biết ông cũng hành động như những người bình thường khác, chắc nó sẽ vô cùng đau khổ. Đó là nỗi đau khổ lớn lao của những tâm hồn ngây thơ, cuồng nhiệt khi thấy thần tượng bị sụp đổ. Nhưng với kinh nghiệm tù đầy mới học được, Lượm biết lúc này ông đang phải nằm trần trụi trên nền xi măng lở láy, hôi hám, đang đói run người và khát cháy cổ. "Ôi chao, Chỉ huy trưởng làm răng mà nuốt nổi vắt cơm tù vừa sống vừa nhão với mấy cục muối mỏ mặn chát!" Nó nghĩ vậy mà ứa nước mắt. Nó đào óc nghĩ cách tìm ra nước trong, bánh mì để chuyển vào cho ông. Nước trong thì có thể kiếm được, nhưng bánh đào đâu ra? Thằng Lanh thông thạo đủ mọi chuyện trong tù, nói với Lượm: - Các anh tù đi làm ở Sở Anh-tăng-dăng, họ thường ăn cắp được những ổ bánh mì rất to. Họ cắt ra bán cho những người có tiền. Nhưng anh em mình làm chi có tiền. Thúi reo lên: - Tui có tiền đây! Tiền bán kẹo dạo nọ vẫn còn y nguyên mà, anh Lượm. Nó lộn cổ áo, lôi ra mấy tờ bạc cuộn tròn đưa cho Lượm. - Một lát bánh kha khá mà ngon ước độ mấy đồng? - Hai đồng chứ mấy. Lượm đếm tiền đưa cho Lanh hai đồng, nói: "Mi nói các anh bán rẻ vô nghe". Rồi đưa trả số tiền còn lại cho Thúi: - Mi cất đi, lỡ khi có việc cần. Lượm và các bạn chia nhau đi kiếm dây, ống bơ, xin nước trong ở các toán tù đi làm cỏ-vê về. Việc chuyển nước và bánh vào ca-sô qua khuôn cửa tò vò không khó lắm. Bốn đứa đứng chụm lại, tay bá vai nhau kết thành bệ, công kênh Lượm đứng lên vai. Lượm với hai tay níu chấn song sắt, đu người lên. Răng nó cắn đầu sợi dây điện thoại, một đầu dây có buộc ống bơ đầy nước và miếng bánh Lanh vừa mua được. Nó áp mặt và giữa hai chấn song nhìn vào bên trong. Bên trong ca-sô tối mò, xông lên mùi hôi ngột ngạt. Lượm nói: - Chỉ huy trưởng! Chỉ huy trưởng! - Ai gọi gì đấy? - Từ bên dưới vọng lên tiếng hỏi, giọng khàn khàn, yếu ớt, nhưng nó vẫn nhận ra đúng giọng Chỉ huy trưởng. Ôi, làm sao nó có thể không nhận ra cái giọng nghiêm trầm, đã nói với Đội những lời thống thiết về nghĩa vụ lớn lao của người chiến sĩ, về chiến đấu cho sự sống còn của Tổ Quốc, trên sân chùa Từ Đàm mới ngày nào.. Lượm gần như chét đầu vào giữa hai chấn song sắt nhưng không sao có thể nhìn thấy Chỉ huy trưởng đang nằm hoặc ngồi, ở bên dưới. - Dạ, em là Lượm ở Đội Thiếu niên trinh sát. Em chiến đấu ở mặt trận khu C. Em bị bắt sau trận Hộ Thành. Ở đây có nhiều bạn cùng tuổi em là liên lạc của du kích, bộ đội địa phương. Chúng em họp lại thành đội để bênh vực, giúp đỡ nhau. - Các em làm như thế là rất tốt! - Tiếng Chỉ huy trưởng vọng lên. - Chúng em kiếm được ít nước trong và bánh gửi vô anh.. - Giọng Lượm nghẹn lại. Nó khẽ khàng thận trọng kéo ống bơ và lát bánh mà Thúi ở bên dưới bưng hai tay đưa cao quá đầu, lên đến sát khuôn cửa. Nó đút hai thứ qua chấn song rồi thòng xuống cho đến lúc nghe tiếng đáy lon nước chạm khẽ nền xi măng. Trong lúc đó, Lép-sẹo và bọn đàn em hắn đứng ở góc sân đằng kia, chăm chăm nhìn lại. Lép-sẹo áo phanh ngực, điếu thuốc ngậm lệch bên mép, mắt nheo nheo nhìn Lượm đu người như con vượn vào chấn song. Hắn gầm gừ: - Tụi ni liều mạng thật! Tụi hắn coi Một Điếu với các cha lính canh bằng nửa con mắt! Thằng đàn em có ve mắt thì thầm với Lép-sẹo: - Để tui chạy ra mách mấy ông lính gác, các ông vô nện tụi hắn một trận báng súng cho bõ ghét nghe? Tụi hắn đang dồn dồn nhau rứa, chạy không kịp mô! Thằng này co giò định chạy ra cổng, Lép-sẹo bất thần túm chặt cổ áo thằng này lôi giật lại. Hắn nhổ phắt cái tàn thuốc đang ngậm, vung tay tát thằng này một tát tai ngã dúi xuống đất, rồi chửi: - Đồ ngu! Lượm nghe tiếng huýt gió của Ngạnh làm nhiệm vụ cảnh giới, báo tin tụi lính gác sắp sửa đi vào. Nó hổn hển hỏi gấp: - Chỉ huy trưởng có biết bạn Vệ liên lạc hiện nay ở đâu không? - Em Vệ cùng bị bắt với tôi. Có lẽ chúng đưa em về giam ở lao Tòa Khâm. Lượm muốn hỏi thêm có phải ông bị bắt vì có đứa phản bội chỉ điểm không? Nhưng xa xa tiếng huýt gió của Ngạnh càng vang to, thúc bách hơn. Nó vội vàng nhảy đứng xuống vai các bạn, tụt nhanh xuống đất. Khi Mệ-Lai-tàn-tật cùng với hai tên lính tay dùi cui, tay súng đi vào đến sân lao thì Lượm và các bạn đang chơi trò nhảy cừu. Trưa hôm sau, Lượm và các bạn trong đội lại sửa soạn nước trong và bánh mì để tiếp tế cho Chỉ huy trưởng. Nhưng khi nó trèo bám lên khuôn cửa, gọi to nhiều lần, nó mới biết xà lim trống không. Lượm và các bạn không ngờ lon nước và lát bánh hôm qua là bữa ăn cuối cùng của Chỉ huy trưởng mặt trận khu C Phùng Đông. Mười hai giờ đêm hôm qua, bọn mật thám Pháp đã bí mật đến xích tay ông cùng với năm người tù khác bỏ lên xe bịt bùng, chở thẳng vào Đà Nẵng. Không dụ hàng khuất phục nổi, chúng đã hèn hạ bắn ông và năm người tù đó trên bãi biển bán đảo Sơn Trà, rồi ném xác xuống biển. 2 Việc Chỉ huy trưởng bị đưa đi mất tích trong đêm và tin Vệ-to-đầu bị bắt cùng với Chỉ huy trưởng, có thể hiện nay đang bị giam ở lao Tòa Khâm, làm Lượm bàng hoàng, choáng váng. Hai đêm liền nó nằm mơ thấy ông.. Nó thấy mình cùng với cả Đội đang tập hợp trước sân chùa Từ Đàm. Chỉ huy trưởng xuống ngựa bước nhanh lên các bậc Tam quan, với đôi ủng lấm bùn đất chiến hào. Khẩu súng săn voi đeo bên vai. Cái mũ cối Tiếp Phòng Quân màu cỏ úa, quai mũ ôm vòng hai bên má và cái cằm râu mới cạo xanh biếc. Cặp mắt sâu và rất sáng, nghiêm nghị lướt nhìn cả Đội, như ông đang cân nhắc, ước lượng sức vóc và lòng can đảm của mỗi đội viên để giao nhiệm vụ.. Lượm choàng tỉnh thấy hai má mình ướt đầm nước mắt. ".. Rất có thể không phải một tháng, hai tháng mà phải mất nhiều tháng nhiều năm nữa, chúng ta mới đánh đuổi được hết bọn cướp nước b*n n**c giải phóng được Tổ Quốc, giải phóng thành phố thân yêu của chúng ta.. Nếu thế hệ chúng tôi chưa làm xong được sứ mệnh lớn lao này, thì thế hệ các em phải nối tiếp xốc tới, hoàn thành cho bằng được..". Lời khuyên dặn hôm nào của ông trước giờ ra trận lúc này lại vang vọng trong trí nhớ Lượm, với một ý nghĩa mới mẻ khác thường; giúp nó bình tâm trở lại nâng đỡ nó trong cuộc chiến đấu không đồng đội, không người hướng dẫn, chỉ huy. Nó giục giã thôi thúc Lượm gắng gỏi làm tốt những việc mà chính nó tự đề ra. Việc quan trọng nhất là hàng ngày nó cùng với các bạn trong đội, kiếm nước trong đổ vào các ống bơ của các anh bị giam trong hai dãy "ca-sô âm phủ" thòng xuống. Xe nước vừa về là bọn trẻ đã có mặt quanh hố nước để giành múc nước trong nhưng vì tranh giành quá hỗn loạn nên dù nước múc được trước cũng đục ngầu, khăng khẳng mùi bùn, mùi rác. Dù chính hàng ngày đều phải uống thứ nước đó, có khi còn đục bẩn hơn, nhưng phải rót cho các anh, Lượm và các bạn đều thấy khổ tâm. Muốn kiếm được nước trong, nhất thiết phải đi làm cỏ-vê. Lượm bàn với các bạn, chọn ra bốn đứa cùng với Lượm nữa là năm, sức vóc hơn cả, tìm cách chen bừa vào các toán tù đang sắp hàng trên sân lao, đợi xe các công sở đến chở đi. Nhưng lần nào Lượm và các bạn cũng bị gạt lại. Các công sở không chịu nhận tù con nít đi làm cỏ-vê. Một buổi sáng tù đi làm cỏ-vê đã vãn hết, trong sân lao chỉ còn lại tù con nít, mấy người già yếu, vài anh tù mới vào hôm qua, chưa có công sở nào lấy đi làm. Không có việc gì, tù con nít, người già yếu kéo ra đứng chen chúc sau khuôn cửa sắt đóng chặt của lớp tường trong, nhìn ra cổng chính. Trên nóc cổng chính có cây cột cờ ngắn, ngã chếch ra đường. Buổi sáng, một tiểu đội lính ngục do Viên đội hoặc tên cai điều khiển, súng vác vai, hô ắc ê đi qua hai cánh cổng chính mở rộng tập họp thành hàng ngang trên đường, làm lễ kéo cờ. Những người tù không được đi làm cỏ-vê, thường đứng chực ở đây chờ bọn lính mở cổng ra kéo cờ, sẽ nhìn khúc đường phố lác đác có người qua lại, dù chỉ mươi phút. Bọn tù con nít bị giam giữ lâu ngày giữa hai lớp tường cao vòi vọi nhìn ra đường phố với ánh mắt háo hức, thèm khát trông thật tội nghiệp! Sáng nào có Một Điếu đứng trong sân nhìn ra Viên đội, tên cai điều khiến lính làm lễ kéo cờ rất hùng dũng, oai vệ. Tiếng hô "Gác-đờ-bu pờ-rê-dăng-tê! Ứ!" nghe rất dõng dạc, đứng tận sân lao bên trong cũng nghe tiếng. Nhưng sáng nào vắng mặt Một Điếu, bọn lính ngục đều làm quấy quá cho xong chuyện. Chúng kéo ra chỉ bốn năm đứa như đi dạo mát, súng vác ngả nghiêng. Chúng kéo phăng cờ lên, không hô hiếc gì hết, rồi đi sang bên kia lề đường hút thuốc, ăn quà. Sáng hôm đó, Mệ-Lai-tàn-tật điều khiển việc kéo cờ. Mệ-Lai-tàn-tật giao cho một tên kéo cờ, còn hắn và những tên kia xúm lại quanh mấy gánh hàng quà, bánh canh, xôi bắp, bún bò.. nói cười toe toét. Lá cờ tam tài vừa kéo lên lưng chừng cột, anh tù điên đứng sát bên Lượm, hai tay nắm chấn song sắt cửa lay lay, rồi bất ngờ kêu toáng lên: - Ông Một Điếu ơi là ông Một Điếu ơi! Ông ra mà coi quân lính của ông kéo cờ Đại Pháp mà như kéo tù vô xà lim! Không pờ-rê-dăng-tê, không ứ, không ó cứt chi hết a! Tụi lính ngục hoảng hồn, đang nhai xôi phải nhổ xôi, dụi thuốc, vứt tô bún đang ăn dở, chạy vội sang đường tập họp, và kéo cờ thật nhanh lên ngọn. Mệ-Lai-tàn-tật vừa sợ vừa cáu. - Tổ cha thằng điên! - Hắn chửi và cúi nhặt nửa viên gạch, thẳng tay nhắm đầu anh tù điên mà ném. Viên gạch va vào chấn song kêu "coong!" và dội bật trở ra. Vừa lúc đó Một Điếu từ trong nhà đi ra, hỏi: - Cái gì? Cái gì? Anh tù điên ôm đầu mếu máo, lu loa nói với Một Điếu bằng thứ tiếng Tây bồi hổ lốn quen thuộc của anh: - Mông dạch nằng! Luỷ - Anh chỉ vào Mệ-Lai - kéo lơ đờ-ra-pô phăng-xe - anh làm điệu bộ kéo cờ - con luỷ kéo pờ-ri-son-ni-ê vô xà lim. Nông gác-đờ-bu, nông pờ-rê-dăng-tê, nông ứ! - Anh chụp tay Lượm làm điệu bộ kéo tù - Moa ráp-po mông dạch nằng - Luỷ lăng-xê moa viên gạch - anh chỉ viên gạch - moa cát-xê la-tết - Anh ôm đầu nhăn nhó khóc hu hu như bị viên gạch ném trúng đầu. Một Điếu nhận ra Lượm, liền hỏi: - Bé con, đúng như vậy không? - Thưa ông quan hai, đúng như vậy! Một Điếu quay lại nhìn Mệ-Lai đang đứng chết điếng, mặt cắt không còn giọt máu. - Đồ con lợn! - Một Điếu gầm lên. Hắn bước lại giật phắt cái lon cai trên ống tay áo Mệ-Lai-tàn-tật, vung roi quất tới tấp lên vai, lên lưng. Vừa quất vừa chửi: - Đồ súc vật nhơ bẩn! Đồ súc vật nhơ bẩn! Mệ-Lai-tàn-tật cứ phải đứng gác-đờ-bu mà chịu đòn, miệng lắp bắp van lạy: - Mông dạch nằng! Pạc-đon-nê moa!.. Nếu lúc đó không có một chiếc xe Jeep phanh rít đỗ xịch trước cổng lao, thì chắc viên cai ngục này sẽ bị đánh cho đến kỳ ngã gục. Chiếc xe do một tên lính da đen lái. Hai tên Pháp xuống xe, bước qua cổng lao, tên lính đeo tiểu liên "mát" và viên đội đeo súng lục. Chúng chào Một Điếu và đưa giấy tờ gì đó, Lượm tò mò lắng nghe viên đội Tây báo cáo với Một Điếu. Nó được biết chúng ở một công sở có tên là Poste Militaire (bưu điện quân sự), cần xin ba người làm cỏ-vê. Viên quản người Việt, phó đề lao, mở cánh cửa sắt bước vào, chọn ba người tù lớn tuổi, dẫn ra ngoài cho viên đội Tây. Viên đội hỏi: - Trong ba người, có người nào biết tiếng Pháp không? Viên quản hỏi lại, cả ba lắc đầu. Lượm liên thò cánh tay qua cổng sắt, nói to: - Thưa ông đội, tôi biết tiếng Pháp! - Mày nói tiếng Pháp khá không? - Viên đội bước đến gần Lượm hỏi. - Tôi nói không được đúng mẹo lắm. Viên đội nhún vai: - Thế là mày hơn tao. Tao không biết một tiếng Việt nào. Cánh cửa sắt mở ra. Viên đội gạt lại một trong ba người và kéo Lượm thay vào đó. Y quay lại hỏi viên quản phó đề lao: - Ông đồng ý chứ? - Đồng ý - Viên quản cười, bắt tay viên đội. - Chúng ta đi thôi! - Viên đội hất đầu rất điệu với Lượm và chỉ ra xe. Sự may mắn quá bất ngờ làm cho Lượm vui mừng đến nghẹn thở. Nó chỉ kịp quay lại ngoắc ngoắc tay với các bạn đứng chen chúc đằng sau cánh cửa sắt và đi gần như chạy ra chỗ chiếc xe Jeep đang đỗ. Nó thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Nó lo sợ viên đội tây, thằng Một Điếu và cả tụi lính ngục nữa sẽ đổi ý, giữ nó lại vì chúng chợt nhớ ra: Thằng tù con nít này đã từng hai lần liều lĩnh vượt tù.. 3 Sở Poste Militaire (gọi tắt là sở Pốt) đóng ở dãy nhà một tầng còn sót lại trong khu vực Trung bộ phủ cũ. Hầu hết những ngôi nhà kiên cố trong khu vực đã bị quân ta đánh sập thành những đống gạch vụn, trước khi rút khỏi Huế. Đằng sau sở Pốt, cách một khu vườn rộng mọc lút cỏ dại, là ngôi nhà hai tầng rộng thênh thang của một công sở khác cũng của bọn nhà binh Pháp, có tên là Coopérative Militaire (cửa hàng nhu yếu phẩm quân đội). Sở này cũng có một toán tù lao Thừa Phủ hàng ngày đến làm cỏ-vê. Toán tù gọi tắt công sở này là sở "Cốp". Ở sở Pốt chỉ có thư từ, giấy má, những gói bưu phẩm lớn nhỏ xếp thành dãy trên các giá gỗ kê dọc sát tường. Trong khi đó bên sở Cốp, các gian buồng chất cao đến trần nhà những hòm đồ hộp, bánh kẹo, rượu, thuốc lá và nhiều hàng hóa vật dụng khác trông đến ngốt cả mắt. Xe ô tô lớn nhỏ ra vào rầm rập suốt ngày, mua hàng, chở hàng đến nhập kho.. Công việc chính của toán tù làm cỏ-vê ở sở Cốp là xếp hàng hóa lên xe, chuyển hàng hóa trên xe xếp vào các kho. Làm cỏ-vê sở Cốp hết sức nặng nhọc và thường xảy ra tai nạn. Vì các hòm hàng hóa nặng hàng tạ, hàng nửa tạ, chỉ cần sơ ý một chút là hòm rơi, lăn đè nát tay, nát chân. Nhưng đó chưa phải là điều khổ sở nhất của anh em tù. Hôm đầu tiên bước vào sở làm cả toán tù hoa mắt vì của ngon vật lạ xếp như núi quanh mình. Anh nào cũng hí hửng, chuyến này chắc vớ bở. Họ hy vọng sẽ lấy cắp được đồ hộp, bánh kẹo. Nhưng chỉ sau một ngày họ đã biết mình lầm. Bọn Tây làm ở sở "Cốp" đều là tụi ác ôn, cô hồn, đánh đập tù tàn bạo không thua gì những tụi chuyên nghề tra tấn ở các Sở mật thám An ninh. Hung dữ nhất là một tên đội Tây, anh em tù gọi là Đội-lùn. Đội-lùn người thấp nhưng rất to ngang nên ngó gần như vuông. Mặt hắn tròn to như cái đĩa tây, bóng loáng, râu ria cạo nhẵn thín, cặp mắt của loài thú dữ ăn thịt người. Hắn có sức khoẻ khủng khiếp của tên đô vật hoặc cử tạ hạng nặng. Một lần hắn bắt gặp một người tù ăn mấy miếng bánh bích quy rơi ra từ cái hòm vỡ. Hắn lẳng lặng túm hai cổ chân anh ta, nhấc bổng lên như nhấc con gà, dộng đầu anh vào cái hòm gỗ, máu mồm, máu mũi anh ộc ra như xối, mấy miếng bánh vừa nuốt trào ra miệng cùng với máu. Mỗi buổi chiều, trước khi lên ô tô về lao, hắn bắt tù xếp hàng ngang, cởi hết quần áo để kiểm soát. Chỉ cần tìm thấy một miếng bánh, một cái kẹo, hắn cũng đánh cho máu chảy tràn mặt. Đi làm cả tháng trời mà chưa người tù nào ăn cắp nổi cái kẹo. Chân giẫm xéo lên đồ hộp, bánh, kẹo, trong lúc thắt ruột thắt gan vì đói, quả là một cực hình. Đội-lùn có con chó béc-giê to bằng con bê nhỡ, lông xám như lông chó sói và cũng thấp lùn như hắn. Hắn gọi con chó là Rếch. Con Rếch không rời hắn một bước và là một tên tay sai vô cùng đắc lực trong việc hành hạ, đôn đốc, kiểm soát tù nhân. Đứng từ xa, Đội-lùn nhìn thấy một anh tù nào đó trốn việc, làm việc uể oải, hoặc lấy cắp một thứ gì đó, hắn chỉ cần chỉ tay huýt lên một tiếng là con Rếch lao vút, xô ngã anh ta xuống đất và cắn xé tả tơi. Có anh tù khiếp đảm con chó đến phát điên. Sở Pốt cũng như sở Cốp, quan và lính làm việc đều là bọn Pháp, không có tên lính nguỵ nào. Nhưng bọn sở Pốt, tuy là lính tráng nhưng đều có dáng công chức bộ diện tử tế, lịch sự. Chúng không chửi mắng, đánh đập tù ngay cả tên lính gác cũng vậy, mặc dù tên này có bản mặt của tên găng-tơ giải nghệ. Hắn nói với Lượm: - Tao không thích đối xử với mày như bọn kia - Hắn hất hàm trỏ sang bọn sở Cốp - Làm xong công việc tụi mày có thể được nghỉ ngơi. Chỉ yêu cầu tụi mày không được tìm cách chạy trốn. Nếu chúng mày chạy trốn, tao buộc cái này phải lên tiếng - Hắn vỗ vỗ bàn tay lông lá vào báng khẩu tiểu liên "mát" nhún vai nói thêm - Đừng làm cho nó phải nổi giận! Lượm phiên dịch lại cho hai người lớn tuổi cùng đi làm với nó. Tên đội đến lấy tù đi làm tên là Buy-va, phụ trách văn thư của sở. Hắn giao việc hàng ngày cho ba người tù. Hai người lớn gánh nước ngoài bến sông Hương đổ đầy hai cái bể xi măng phía sau khu nhà bếp. Lượm quét tước làm vệ sinh khu nhà ở, nhà làm việc và thông ngôn. Giám đốc sở tên là I-tai, đóng lon quan hai. Quan hai I-tai đã đứng tuổi, người cao, gầy, lưng gù gù, đầu hói, đeo kính cận. I-tai có dáng dấp ông giáo trường làng hơn là sĩ quan quân đội viễn chinh. Y có vợ người Việt, một mụ me Tây béo phục phịch. Hai vợ chồng ở một gian phòng lớn cuối dãy nhà làm việc. Hôm đầu tiên đến sở, quan hai I-tai hỏi Lượm: - Tại sao em bị bắt? - Người ta tình nghi tôi là liên lạc của Việt Minh.. Nhưng không phải. I-tai nhún vai: - Nếu đúng là liên lạc của Việt Minh cũng không sao. Ở Pháp, trong trận đại chiến vừa qua, cũng có nhiều thiếu niên lứa tuổi em là liên lạc của quân du kích. Buổi trưa, y cho ba người tù một ổ mì lớn. Và cũng trong ngày hôm đó, ba người tìm được trong đống rác sau khu nhà bếp, ba cái thùng vỏ đồ hộp, đựng nước sông Hương mang về nhà lao. 4 Hai người tù cùng đi làm cỏ-vê với Lượm, một người tên Tụng, một người tên Bện. Tụng trạc ngoài năm mươi tuổi, Bện mới xấp xỉ ba mươi. Anh Bện là ngư dân, sinh ra và lớn lên trên mặt nước đầm Chuồn - một đầm nước mặn lớn nối liền với phá Tam Giang. Người ta gọi anh là dân thuỷ điện. Anh có gương mặt thật thà chất phác, hiền lành. Nửa người trên của anh Bện vạm vỡ không chút cân xứng với nửa người dưới, nhìn giống như hai mảnh thân thể của hai người chắp vào nhau. Riêng hai bàn tay anh to lớn một cách kỳ dị, đen đúa, nứt nẻ, sần sùi những lớp chai dày cộp, các đầu ngón tay mòn vẹt như bị mài. Anh cho biết, mới bảy tám tuổi, ngày nào anh cũng phải ngâm mình dưới nước dùng mười ngón tay moi cát, rong thành rãnh dài, để bắt tôm rằn, tôm sú. Thoạt nhìn cũng đoán biết anh cả đời chỉ quen sống trên thuyền, trên mặt nước. Anh đi trên mặt đất vụng về, lạch bạch như con vịt. Cả con người anh lúc nào cũng bốc lên mùi tanh tanh, mùi tôm cá, mùi lưới ướt, mùi lòng thuyền.. - Anh có phải du kích không? - Lượm hỏi. - Không. Tui chỉ chở thuyền cho các eng bộ đội địa phương huyện qua phá Tam Giang. Trong vùng có đứa chỉ điểm, báo cho Tây. Rứa là lính Tây đi ca-nô lùng vây bắt tui đang làm nghề giữa phá. Tụi hắn quăng lựu đạn vô đò tui, rứa là cả đò, cả lưới, cả đồ nghề làm ăn chìm hết!.. Chừ họ có thả tui về thì cũng chết đói thôi chú ạ. Còn đồ nghề mô nữa mà làm ăn.. - Anh nói, mặt buồn thiu nước mắt rơm rớm.. Nhìn anh, Lượm thấy thương cũng muốn khóc theo. Nó nói: - Cần cóc chi anh! Tụi hắn mà thả anh về, anh trốn luôn lên núi đi Vệ Quốc Đoàn, đánh chết cha tụi hắn đi! Chưa chừng anh em mình lại gặp nhau trên đó cũng nên. - E rồi cũng phải đến nước đó thôi chú em ạ - Anh nói mà mặt vẫn rầu rầu. Lượm nảy ra ý muốn được giúp đỡ, bênh vực, che chở anh, như với tụi thằng Thúi, Ngạnh, Lanh.. Nó thấy anh ta tuy lớn tuổi, to xác, mà còn khờ khạo hơn cả mấy đứa đò, thân tù đi làm cỏ-vê mà anh siêng năng như làm việc nhà. Đặt đòn gánh lên vai là anh chúi mặt, chúi mũi, gánh hết chuyến nước này tiếp chuyến nước khác. Gánh nào hai thùng nước cũng đầy mặp. Gánh suốt buổi sáng, anh không nghỉ lấy một lần. Trong lúc đó lão Tụng chỉ gánh hai thùng lưng lẻo; và anh gánh được ba chuyến, lão Tụng mới gánh được một chuyến. Nhưng anh không hề chút so bì. Thấy vậy, Lượm nổi cáu: - Răng anh dại rứa? Việc chi mà anh phải nai lưng ra làm lấy một mình? Để tui nói với thằng đội Tây, chia đều công việc, mỗi người gánh một bể. - Thôi chú ạ, người ta yếu, mình mạnh đỡ đần nhau. - Yếu! - Lượm dằn giọng, bĩu môi. Với lão Tụng, không hiểu sao, ngay hôm đầu tiên Lượm đã thấy ghét cay ghét đắng. Tuy ngoài năm mươi tuổi lão Tụng còn khá lực lưỡng, nhưng lão cứ giả vờ giả vịt như ốm yếu lắm. Khuôn mặt lão choắt, hai tai như tai chuột, vành tai mỏng lét gần sát vào da đầu, cặp mắt hùm hụp hay lấm lét nhìn trộm. Toàn bộ con người lão từ vẻ mặt giọng nói, điệu bộ, dáng đi, toát ra một vẻ gì vừa ti tiện, vừa xảo quyệt. Sau một ngày cùng đi làm với lão, Lượm thấy ghét lão hơn. Hễ cứ nhìn mặt lão là Lượm thấy nổi khùng, muốn gây lộn, đập lộn. Nhưng nó biết nếu đập lộn, nó sẽ bị cho nhừ đòn. Vì đằng sau cái vẻ lụ khụ của lão là một sức khoẻ đáng sợ. Có hôm, nó bắt gặp chỉ với hai tay và đầu gối, lão đã uốn một thanh sắt to bằng ngón chân cái. Mỗi lần tụi Tây gọi lão đến để sai lão việc gì, lão dạ một tiếng thật to, ba chân bốn cẳng chạy lại trước tiên, chắp tay, cúi đầu, hai đầu gối hơi khuỵ xuống, miệng chúm chím cười ruồi.. "Chỉ cần chắp thêm vô chỗ xương cụt của lão ta một cái đuôi, ngúc ngoắc, ngúc ngoắc, là thành con chó chầu trước mặt chủ!". Lượm vừa thông ngôn, vừa tức tối nhìn dáng bộ lão và nghĩ vậy. Hễ tụi Tây vứt một mẩu bánh, một cái tàn thuốc lá, lão nhào tới vồ chụp vội như sợ Lượm và anh Bện tranh mất. Chộp được, lão thổi thổi qua, đưa lên miệng. Lượm nổi điên, quát: - Ông làm cái chi rứa? Có đói chết cũng phải giữ thể diện không Tây họ khinh cho chứ? Lão vênh mặt lên, mắt gườm gườm nhìn Lượm: - Người mô lanh tay thì người nớ được! Đ.. mạ nó chớ! - Lão vừa tóp tép nhai vừa chửi đổng - Đã mang cái thân thằng tù còn nói phét nói lác! Thể với chẳng diện! Lượm giận run người. Nó chỉ muốn quật cái giẻ lau nhà đang cầm trong tay vào mặt lão. Phải cố hết sức nó mới ghìm lại được. Nó nhổ một bãi nước miếng xuống đất, lấy chân chà đi chà lại, rồi quay mặt đi. Trưa hôm đó Lượm hỏi anh Bện: - Anh có biết thằng cha đó làm chi mà bị bắt không? - Nghe mô làm Việt Minh xã.. - Đời mô Việt Minh lại có thứ người như hắn! - Lượm kêu lên, giận dữ như có ai ném rác vào mặt - Nhất định tui phải hỏi cho ra thằng cha nớ làm chi? Buổi trưa tụi Tây trong sở xuống ăn trưa ở gian nhà lớn nằm trong dãy nhà ngang. Tụi hắn ăn xong Lượm phải quét nhà, dọn bát đĩa đem xuống nhà bếp, lau sạch bàn ghế. Dù đói mềm người, cả mấy tháng liền không ngửi thấy mùi thịt, nhưng lúc dọn bàn Lượm đã trút tất cả thức ăn thừa, thịt, cá và những mẩu bánh vụn vào cái xô rồi xách đổ hắt xuống cống ngay trước mặt tụi Tây. Chúng nhìn Lượm và không khỏi ngạc nhiên. Hôm đó, chúng ăn xong, Lượm còn mải bận lau sàn nhà tòa nhà chính, lão Tụng liền chạy vào, trút tất cả thức ăn thừa vào cái thùng vỏ đồ hộp của lão. Lão còn dùng ngón tay vét các đĩa thức ăn, rồi đưa ngón tay lên mút. Lão hí hửng xách lon thức ăn thừa đi ra gốc cây giữa sân, sửa soạn ngồi đánh chén. Bọn Tây ngồi uống cà phê, hút thuốc trước hiên nhà, chỉ trỏ lão Tụng cười hô hố. Lượm đứng trên bậc tam cấp dãy nhà chính, nhìn ra, giận tím mặt. Nó lẳng lặng xách cái xô nước rác lau nhà, đi ra gốc cây lão Tụng đang ngồi. Bất ngờ nó trút cả xô nước đen ngòm vào cái lon thức ăn thừa, làm lão Tụng không kịp trở tay. - Ui chao! - Lão Tụng kêu thét lên, cặp mắt trợn ngược như bất thình lình bị bóp cổ. Lão trừng trừng nhìn cái lon lớn thức ăn thừa, đen ngòm nước rác, khuôn mặt choắt rúm ró, nghiến răng kèn kẹt. Lão nhảy chồm vào Lượm, định đè ngửa mà bóp cổ. Lượm phản ứng rất nhanh, quật luôn cái bao tải lau nhà vào trúng giữa mặt lão. Cái khố tải ướt sũng nước, vấn tròn quanh mặt lão. Lượm nhảy lùi ra xa, nhặt một hòn gạch vỡ, đứng thủ thế. Lão Tụng giật cái khố tải ướt ra khỏi mặt. Nước bẩn chảy ròng ròng trên tóc, trên hai má, trên miệng, trên cằm lão. Lão vừa dụi mắt, vừa khạc nhổ, miệng sùi bọt mép gầm gừ điên dại. - Tổ cha mi! Tau mà không giết mi, tau không kể làm người! Không cần nể nang gì nữa, Lượm chửi lại: - Mi là đồ chó chết! Mi có muốn vỡ tan óc chó mi ra thì cứ đến đây! Tau còn nhỏ nhưng loại người như mi tau đã đập bể óc khối thằng! Lão Tụng cúi chụp một thanh sắt rỉ nằm lăn lóc gần đó. Nếu thằng lính gác không kịp thời chạy đến thì chắc đã xảy ra đổ máu. - Chuyện gì thế? - Thằng lính gác hỏi, trán cau lại, hết nhìn Lượm lại nhìn lão Tụng. Lượm chỉ vào lão Tụng, trả lời: - Lợi dụng lúc tôi vắng mặt, hắn đã lẻn vào phòng ăn, làm bẩn đồ đạc với những ngón tay dơ bẩn của hắn. Hắn còn định giết tôi với thanh sắt cầm trong tay kia. Lão Tụng quỳ sụp xuống, vái lấy vái để thằng Tây. Lão chỉ vào Lượm, gào lên: - Bẩm quan lớn, thằng nớ là Việt Minh đầu sỏ. Hắn chỉ rình để giết các quan lớn. Xin quan lớn giết chết hắn đi mà trừ hậu họa.. Nhìn dáng điệu của lão lúc này, Lượm tin chắc rằng nếu thằng lính gác chĩa khẩu tiểu liên vào ngực mình mà những cả băng đạn, lão sẽ nhảy dựng lên vì vui thích hả hê. Nhưng lão quên phứt là thằng Tây không biết tiếng Việt. Hắn chỉ vào lão đang quỳ mọp, hỏi Lượm: - Hắn nói cái gì? - Hắn tố cáo với anh tôi là Việt Minh. Tôi không phải Việt Minh, ông quan hai giám đốc nói rằng, nếu là Việt Minh cũng không sao, vì trong đại chiến vừa qua có rất nhiều thiếu niên Pháp đã làm liên lạc cho quân đội kháng chiến. Còn hắn, hắn tự nhận hắn chỉ là một thằng điên bẩn thỉu. Thằng lính Tây quay sang hỏi lão Tụng: - Tu es un sale fou? - Mày là một thằng điên nhơ bẩn? Lão Tụng nghe tiếng phu, tưởng là phu phen, liền gật lấy gật để: - Dạ bẩm quan lớn tôi là phu, tôi là phu, còn thằng nớ mới đúng là Việt Minh! Thằng lính gác vung cây roi [bad word] bò quất lên lưng lão một roi rớm máu, nhún vai nói: - Với bọn điên thì phải trả lời bằng roi! 5 Chỉ sau hai tuần lễ đi làm cỏ-vê, Lượm đã gây được tín nhiệm với hầu hết bọn Tây ở sở Pốt, từ tên giám đốc sở cho đến tên lính gác. Nó quét và lau nhà thật sạch, cửa kính cửa chớp được lau chùi sáng choang. Có hai khuôn kính ở phòng làm việc bị vỡ, nó đề nghị với viên đội văn phòng, lấy hai tấm kính ở một cánh cửa hỏng dựng trong kho, thay vào, viên đội nói: - Phải chờ thuê thợ lắp kính. - Tôi có thể làm được. Lượm khéo léo dùng mũi dao cạy lớp ma-tít, lấy ra hai tấm kính nguyên. Nó đem lắp vào hai khuôn kính vỡ, dùng những chiếc đinh nhỏ đóng giữ tấm kính và trát ma-tít. Viên đội trưởng nhìn Lượm thay kính, gật đầu khen: - Tốt! Rất tốt! Trưa hôm đó, hắn cho Lượm một ổ mì lớn. Nó không ăn mà gói ổ mì lại, cất vào bị cói. - Sao mày không ăn? - Tôi mang về cho các bạn tôi trong tù. Ở trong đó, chúng nó đói lắm. Viên đội bước đến, nâng cằm Lượm lên, nhìn sâu vào mắt nó, nhún vai, rồi im lặng bỏ đi. Thái độ khó hiểu của viên đội làm nó bồn chồn, lo lắng. Hắn tin mình hơn hay hắn bắt đầu chú ý nghi ngờ? Nhưng rồi nó quyết định: Mặc dù thế nào cũng không để tụi hắn khinh mình. Chắc tụi hắn biết thừa mình là Vệ Quốc Đoàn. Một trong những công việc hàng ngày của viên đội là đóng dấu bưu điện vào các phong thư. Lượm bắt gặp nhiều lần hắn nhìn những đống thư để đầy trên bàn, nhún vai chán nản. Lượm lân la, chỉ đống thư nói: - Ông hướng dẫn tôi cách làm, tôi có thể giúp đỡ ông. Viên đội bằng lòng. Vài buổi đầu nó đóng dấu còn lóng ngóng và chậm. Nhưng đến hôm thứ ba, nó đã đóng thành thạo và nhanh không thua gì tên đội. Trên các ngăn giá gỗ chạy dọc theo tường, xếp đầy hàng nghìn gói bưu phẩm lớn nhỏ, bao bì bằng vải thô các-tông. Mỗi buổi sáng vào quét dọn, Lượm tẩn mẩn đọc địa chỉ ghi trên bưu phẩm: Paris, Nixơ, Boóc-đô, Mác-xây, Tunisie, Marốc, Ôrăng.. gần như đủ mặt các địa danh quen thuộc mà trước đây Lượm đã học về địa lý nước Pháp và các nước thuộc địa Pháp. Nhiều gói bưu phẩm để quá lâu không có người nhận (những tên lính viễn chinh này chắc đã chết trận). Vỏ bọc bị rách, đồ vật bên trong rơi ra. Có nhiều thứ rất hấp dẫn: Cá hộp, thịt hộp, sữa hộp, bích quy, socola, kẹo, thuốc viên, thuốc tiêm v. V.. Lượm chỉ thoáng nhìn, nước bọt đã ứa đầy miệng, nhức nhối các chân răng. Kiềm giữ được không lấy cắp là cả một thử thách lớn. Và lấy cắp cũng không phải là chuyện khó lắm. Lượm đã nhiều lần nghĩ đến. Chỉ cần bọn Tây ngó lơ đi một chút, nó sẽ chuồi một vài thứ vào cái khố tải lau nhà, rồi đàng hoàng xách ra ngoài, đi qua ngay trước mặt bọn chúng. Nhưng nghĩ lại thật kỹ, cái khả năng bị chúng phát hiện không phải không có. Và như vậy thật nhục nhã ê chề. Điều quan trọng hơn nữa mọi dự tính về kế hoạch sắp tới sẽ hỏng bét.. Mỗi ngày đi ra sông giặt khố tải lau nhà, xách nước (với thằng lính gác xách súng kèm theo sau lưng) Lượm nhìn sang bên kia bờ là chợ Đông Ba, nhìn xuống phía dưới là Đập Đá, nhìn lại phía sau là con đường Chợ Cống, Đất Mới, ăn thông ra cánh đồng Đường Ngang, An Cựu.. Kế hoạch ấy cứ lớn dần mãi lên trong đầu nó. Nhớ đến hai lần vượt tù thất bại trước đây, không lúc nào nó không tự nhủ: "Lần này phải chuẩn bị thật chắc chắn, không thể liều mạng như hai lần trước. Lần này mà thất bại, vào nằm" ca-sô âm phủ "là cái chắc!" Từ ngày được đi làm cỏ-vê ở sở Pốt, Lượm rất ít ngủ. Nằm trên nền xi-măng lạnh, ôm lưng các bạn, nhiều đêm nó trằn trọc, thao thức đến tận khuya, rất khuya.. Nó nghiền ngẫm từng bước kế hoạch mà nó phác đi, phác lại nhiều lần trong đầu. Bước thứ nhất nó cho là bước khó nhất là gây được lòng tin với bọn Pháp ở sở, để chúng lơi lỏng dần việc kiểm soát, canh gác. Những công việc chúng giao hàng ngày, Lượm làm rất chu đáo, vượt cả mức yêu cầu của chúng. Đồ đạc rơi ra từ các gói bưu phẩm, lúc quét dọn, dù có mặt chúng hay không có nó đều nhặt để lên giá, với thái độ hết sức dửng dưng. Có lần nó nhặt được tờ giấy bạc một trăm dưới gầm bàn. Nó đưa cho viên đội: - Tôi đoán tiền của ông đánh rơi. Nếu không có mặt tên lính gác, Lượm không bao giờ bước chân ra gần cổng. Cần ra bến sông gánh nước, giặt khố tải lau nhà, nó đều nói với tên lính gác: - Anh đưa tôi ra bờ sông. - Mày cứ đi đi. - Tôi là tù. Tôi không muốn đi đâu một mình không có người canh gác. Họ có thể nghi ngờ tôi, và chính anh cũng sẽ bị ông giám đốc quở phạt. - Tao tưởng mày thích đi một mình hơn. Như vậy mày có thể dễ dàng chạy trốn - Tên lính gác trả lời giọng lấp lửng. - Chạy trốn? Tôi có là điên! Chỉ nay mai, tôi sẽ được thả ra, trở về nhà tôi lại đi học. Hơn nữa, tôi biết anh là một thiện xạ, tôi không muốn ăn đạn của anh. Thằng lính gác gật gù: - Mày là một thằng bé hết sức khôn ngoan. - Đúng hơn, tôi là một đứa trẻ nhút nhát. Tất cả những việc làm của Lượm đều không lọt qua mắt viên đội Buy-va. Hắn báo cáo thường xuyên với viên quan hai giám đốc sở. Lượm biết vậy vì thái độ của viên quan hai I-tai đối với toán tù tự nhiên đổi khác. Buồng làm việc của hắn gần cuối dãy nhà, trong hai tuần đầu hắn ra lệnh cho toán tù không được bén mảng đến gần. Việc quét dọn buồng này do một tên lính da đen ở một trại lính gần đó, vài ngày một lần đến quét dọn rồi về. Một buổi sáng, hắn gọi Lượm vào phòng, và bảo: - Bắt đầu từ hôm nay, em có nhiệm vụ quét dọn làm vệ sinh phòng làm việc của tôi. Hết giờ làm việc, em vào đóng các cửa sổ, cửa chính. Tất cả những đồ đạc trong phòng tuyệt đối em không được đụng đến. Em hãy gắng làm cho tốt, bao giờ ra tù, tôi sẽ tuyển dụng em vào làm lon-ton cho sở. - Cám ơn ông trung uý, tôi hứa sẽ hết sức cố gắng để ông vui lòng - Lượm lễ phép trả lời. Lượm đưa mắt nhìn bao quát gian phòng để ước tính công việc hằng ngày phải làm. Gian phòng có bốn cửa sổ, hai đằng trước, hai đằng sau. Một cửa chính và một cửa ngách đóng chặt. Lượm đoán cửa này ăn thông sang buồng của vợ chồng hắn. Hai cửa sổ mở ra vườn sau, luôn luôn đóng chặt. Gian phòng khá rộng nhưng đồ đạc không nhiều. Một bàn giấy lớn, mấy cái ghế tựa, hai giá gỗ xếp đầy tài liệu. Cách bàn mấy bước là một tủ gỗ lim lớn, kê gần sát tường, chùm chìa khóa treo lủng lẳng ở ổ khóa. Mắt Lượm bỗng chạm phải một vật treo vào cái móc sắt đóng trên tường, giữa bàn làm việc và cái tủ. Cổ nó tự nhiên nghẹn lại một cách thật khó hiểu. Đó là một cái thắt lưng Mỹ có những hàng lỗ bọc đồng, đeo trĩu xuống một khẩu súng lục và bốn băng đạn đựng trong bao da. Thoáng nhìn Lượm đã biết đó là khẩu "côn mười hai", bắn cùng cỡ đạn tiểu liên tôm-xông. Tất cả, từ cái thắt lưng, bao da, những băng đạn, khẩu súng, đều mới tinh. Chuôi báng súng và khúc nòng súng thò ra ngoài bao, nước thép xanh biếc. Chỗ tay cầm bằng nhựa cứng màu nâu khía hình quả trám cũng sáng lên lấp lánh như mời mọc nó: "Hãy cầm lấy!" Như nhìn phải một vật làm mình chói mắt, Lượm lướt vội mắt sang chỗ khác. Nó nói nhanh cốt để che giấu nỗi hồi hộp của mình: - Thưa ông quan hai. Mỗi ngày chỉ cần một giờ là tôi có thể làm xong hết công việc ông giao. - Rất tốt! - Viên quan hai I-tai gật đầu. Cặp mắt màu đồng thau của hắn nhìn Lượm với vẻ khá hiền từ. Không hiểu sao lúc này Lượm càng tin chắc hắn là một ông giáo trường làng ở một vùng miền núi nước Pháp, chuyên dạy môn địa lý hoặc lịch sử gì đó, vào thẳng quân đội và đóng luôn lon quan hai. Việc súng đạn chắc hắn chưa tinh tường. Có thể hắn chưa bắn phát súng nào cũng nên. "Không hiểu khẩu súng lục này từ trước đến giờ vẫn treo nguyên ở đó, hay chỉ treo trong giờ làm việc? Hết giờ làm việc hắn đeo vào người hay bỏ vào tủ khóa lại?" Nỗi thắc mắc này cứ cộm lên như hòn sỏi trong đầu Lượm, suốt cả ngày hôm đó. Lạy trời hắn vẫn cứ treo nguyên ở đó từ trước đến nay! Nó lẩm bẩm khấn thầm. Sáng hôm sau, Lượm vào quét dọn phòng làm việc của viên quan hai. Ngay lúc hắn vừa mở cửa phòng, Lượm liếc nhanh lên tường. Khẩu súng vẫn treo nguyên ở đó. Một nỗi vui mừng vô cớ ập đến, tràn ngập cả lòng nó. Không nén nổi, nó vừa lau sàn nhà vừa khe khẽ hát: "Đoàn Vệ Quốc quân một lần ra đi.." Nó không hát thành lời mà chỉ ngân nga âm điệu. Viên quan hai bước vào phòng, hỏi: - Bé con! Có điều gì vui thích mà em hát hỏng thế? Lượm giật mình lúng túng đáp: - Chiều qua, tôi được tin là trong một hai tuần nữa tôi sẽ được ra tù. Tôi sẽ được gặp mẹ tôi. Và có thể được ông tuyển dụng vào làm việc ở sở như ông đã hứa. Lau xong cửa kính và cửa chớp đằng trước, Lượm làm như vô tình mở hai cửa sổ trông ra vườn để lau chùi. Đóng chặt lâu ngày, các quả bàng cửa và chốt sắt đều han rỉ, nó phải nghiến răng, ráng hết sức để vặn. Viên quan hai đang ngồi cắm cúi viết trước bàn ngẩng lên nói: - Thôi! Thôi! Hai cửa sổ ấy không cần mở. - Nhưng thưa ông, bụi bám đầy cả cửa chớp lẫn cửa kính. Nếu không mở ra, không thể lau sạch được. - Thế thì lau xong em phải đóng ngay lại, và vặn chốt thật cẩn thận - Hắn đưa tay ra hiệu vặn chốt cửa. - Vâng, thưa ông trung uý. Lau dọn xong trong phòng, Lượm xách xô nước và giẻ lau ra lau hành lang. Nó liếc nhìn vào, thấy viên quan hai đến kiểm tra lại các chốt cửa và thử vặn cho thật chặt hơn. Lượm biết hai cửa sổ này mở ra khu vườn sau um tùm cây cối và hoang vắng. Chúng lo sợ Việt Minh đột nhập vào phòng qua cửa sổ. Năm buổi sáng liền, sau khi Lượm làm vệ sinh xong, đi ra khỏi phòng, viên quan hai giám đốc sở đều đi đến kiểm tra lại các chốt cửa. Việc này làm Lượm rất đỗi lo ngại. Nó vụt hiểu ra, đằng sau cái vẻ hiền lành "ông giáo làng" của hắn là bản lĩnh một tên giặc cáo già, luôn luôn cảnh giác, đa nghi, không thể dễ dàng bị đánh lừa. Nó tự nhủ: "Đối với hắn, mình phải hết sức thận trọng, khôn khéo mới được". Mỗi buổi sáng vào quét dọn, làm vệ sinh, dù có mặt hắn hay không, Lượm đều giả bộ hoàn toàn tập trung vào công việc, không nhìn ngó vào bất cứ một đồ vật gì bày biện trong phòng. Riêng khẩu súng "côn mười hai" treo trên tường là vật hấp dẫn nhất đối với nó, nhưng nó vẫn hết sức tránh không nhìn qua lấy một lần, coi như không có nó! Tuy vậy, chỉ cần bước chân đến cửa phòng là Lượm có ngay cảm giác nó vẫn còn treo nguyên đó. Một sợi tơ nhện kéo từ cái thắt lưng, chỗ gần bao da, lên đến nóc tủ. Một con nhện nhỏ đi đi lại lại trên sợi tơ. Nó là vật đánh dấu, báo cho Lượm biết khẩu súng không hề di chuyển. Nó nhìn con nhện với ánh mắt thật trìu mến. Nó thầm gọi đùa con nhện là "Chú lính gác kho vũ khí đạn của ta". 6 Buổi chiều, đúng bốn giờ rưỡi, viên đội văn phòng, tên lính gác và tên lính lái xe da đen lại chở ba người tù trở về lao Thừa Phủ. Ba người tù và tên lính ngồi ở băng sau. Mỗi người tù đều ôm trong lòng một cái vỏ đồ hộp lớn đựng đầy nước sông Hương, trong leo lẻo. Người nào cũng cố hết sức giữ cho nước sóng rất ít ra ngoài. Mỗi lần xe xóc, nước sóng chảy tong tỏng xuống sàn xe, Lượm xuýt xoa như bị đứt tay chảy máu. Lượm chỉ có thùng nước, nhưng anh Bện và lão Tụng có thêm vài cái vỏ đồ hộp đựng thức ăn thừa, bánh mì vụn. Chính Lượm đã trút thức ăn này cho hai người. Riêng nó không bao giờ đụng đến mặc dầu nó cũng thèm rệu nước miếng. Do anh Bện mà Lượm thay đổi ý kiến, không đổ thức ăn xuống cống như trước, mà gom lại trút cho hai người. Mỗi lần Lượm xách xô thức ăn thừa đi đổ, anh Bện nhìn theo, im lặng, không nói gì, nhưng ánh mắt anh lộ vẻ thèm khát ghê gớm. Lượm thấy thương anh quá. Từ hôm đó, Lượm thôi không dồn rác bẩn đổ lẫn vào xô. Nó đem trút thức ăn thừa vào mấy cái lon vỏ đồ hộp của anh, nói: - Anh chia cho lão Tụng một ít. Anh Bện và lão Tụng mừng rỡ, ăn dè, để dành phần cho bữa cơm chiều. Sau cái hôm đụng độ, Lượm và lão Tụng hầu như không nhìn mặt nhau, không nói với nhau một tiếng. Khi cần thông ngôn lại, Lượm chỉ nói trống không: - Họ bảo hôm nay chặt hạ cái cây ở đầu nhà. Họ dặn cẩn thận không được làm hỏng mái ngói. - Họ dặn dọn sạch cỏ trước sân và lối đi vào nhà chính, v. V.. Tuy không nhìn mặt, nhưng Lượm biết cặp mắt hùm hụp xảo quyệt của lão Tụng vẫn không thôi gầm ghè nhìn trộm Lượm. Không một việc làm, cử chỉ nào của Lượm lọt khỏi mắt lão. Nó tin rằng, lão chỉ chờ cơ hội để tố giác mình với tụi Tây. Lượm lo lắng và uất ức nghĩ bụng: "Không khéo mình không chết vì tụi Tây mà chết vì tay cái thằng mạt kiếp này!" Tự mình và nhờ các bạn trong đội điều tra, Lượm được biết trước kia lão Tụng làm cán bộ kinh tài trong Uỷ ban hành chính kháng chiến xã. Tây càn đến xã, lão ra đầu thú. Lão lập công với Tây bằng cách chỉ hầm bí mật chôn giấu vũ khí, tiền bạc, tài liệu của du kích và Uỷ ban xã. Nhưng tất cả những thứ này đã được chuyển đi trước đó một hôm mà lão không biết. Thế là bọn Tây bắt luôn lão, tống lao Thừa Phủ. Biết được lai lịch lão Tụng, Lượm càng lo ngại hơn. Nó nghĩ cách thay một người tù khác. Nhưng viên đội văn phòng không đồng ý. Hắn không muốn thay người mà hắn không biết rõ. Và hình như hắn khoái cái việc đụng độ giữa hai tên tù già, tù con nít. "Chúng đánh nhau, thù hằn nhau, tự chúng sẽ dò xét tố giác lẫn nhau" - tên thực dân cáo già này nghĩ như vậy. Riêng lão Tụng, với giác quan trời phú của giống chó săn, lão đánh hơi thấy Lượm rất rõ. Lão biết, tuy là con nít, nhưng thằng nớ - chỉ Lượm - là loại Việt Minh có sạn có sỏi không đầu! Có thể nó đang mưu mô làm một việc chi nguy hiểm, như trốn tù, ném lựu đạn, ăn cắp súng đạn, tài liệu của Tây, chẳng hạn. "Nếu mình gắng công theo dõi" - lão nghĩ bụng - "phát hiện được, báo kịp thời cho Tây, thì có thể lấy lại được lòng tin của cơ Sở mật thám Pháp. Họ sẽ thả mình ra và chưa chừng được trọng dụng cũng nên". Ý nghĩ đó đã thôi thúc lão không phút nào lơi mắt rình rập Lượm. 7 Mỗi buổi chiều đi làm về, bước qua cổng lao, Lượm đã nhìn thấy các bạn đứng chen chúc nhau sau cánh cửa sát lớp tường trong, hong hóng nhìn ra. Tất cả đều reo lên: - Anh Lượm về! Lượm cười với các bạn và thấy mũi mình cay cay. "Tụi hắn mong mình hơn cả mong mạ về chợ", nó nghĩ vậy. Nhìn những khuôn mặt xanh xao, cáu ghét, lấm lem, những cẳng tay, cẳng chân khẳng khiu lở láy, những bộ quần áo rách như tổ đỉa xông mùi thối khắm của các bạn, Lượm cảm thấy bứt rứt, xấu hổ. Vì trong lúc đó mình được tắm táp thỏa thê, áo quần được giặt sạch (giặt xong mặc luôn vô người), trở về lao, tóc tai áo quần còn ướt rượt, thoáng mùi nước sông.. Nó cứ có cảm giác mình ăn tranh hết phần của các bạn, trong lúc các bạn đói khát mềm người!.. Thằng Thúi, thằng Ngạnh cậy mình thân thiết hơn đứng chen sát bên Lượm. Chúng sờ tóc, sờ áo quần Lượm, xuýt xoa: - Anh được tắm sướng chưa nì! Tóc với áo quần anh còn ướt ri, mát rười rượi nì!.. Nghe chúng nói, Lượm rơm rớm nước mắt, nghĩ bụng: "Nếu bắt mình phải chịu một trận roi da như trận của Một Điếu bữa mới vô lao, mà tụi hắn được ra sông tắm một trận thỏa thê, thì nhất định mình sẽ nghiến răng, đưa lưng ra mà chịu..". Lượm ngồi quây quần với các bạn dưới gốc cây cơm nguội xác xơ giữa sân lao. Nó kể cho các bạn nghe quang cảnh phố xá, những công việc hàng ngày ở sở Pốt.. Và nghe các bạn kể chuyện xảy ra trong ngày ở lao. - Ở "ca-sô âm phủ" đêm qua tụi hắn mang đi mất năm người. - Băng Lép-sẹo sắp tan đến nơi rồi, tụi hắn đập lộn nhau.. Thằng Thúi rụt rè hỏi: - Anh Lượm nì.. Ở sở anh làm có cái chi ăn được không? - Toàn thơ từ giấy má.. gọi là sở "Bưu điện quân sự" mà lại. - Rứa răng chiều mô cũng thấy anh Bện với ông Tụng xách về hai ba lon đồ ăn? - Đồ ăn dư của tụi Tây tau trút cho đó. Tau chuyên môn dọn bàn, rửa bát đĩa.. Họ ăn thì được, nhưng mình là Vệ Quốc Đoàn ăn rứa, Tây hắn khinh cho. - Phải đó anh ạ - Ngạnh nói chen vào - Đói chết thì thôi chớ ăn đồ dư của Tây nhục nhã ê chề lắm. - Ở sở tau làm thì không có chi, nhưng sát ngay đằng sau là sở "Cốp", cửa hàng cung cấp đồ ăn cho tụi sĩ quan Tây. Đồ hộp, kẹo, bánh, rượu các loại, chất từng kho, cao như núi.. Các anh làm bên đó đạp lên đồ ăn mà đành chịu, không lấy cắp nổi cái kẹo. - Tại răng rứa? - Thằng Tây Lùn coi kho dữ hơn cọp. Hắn mà bắt được ăn cắp, chỉ cái kẹo thôi, cũng chết với hắn ngay. Hắn tóm hai cổ chân xách ngược lên như xách con gà, rồi dỗ đầu xuống đất cho đến lúc trào máu với đồ ăn lấy cắp ra miệng mới thôi. Các anh bên đó nhiều lần bàn với tau, các anh lấy cắp giấu ra vườn, còn tau mang về lao. Đồ lấy được chia hai. Nhưng tau cứ nghĩ làm như rứa mình hóa ra thằng ăn cắp, nên tau từ chối. Thằng Lanh nói: - Ăn cắp của Tây để nuôi Việt Minh thì có chi là xấu? Các anh lớn chẳng dạy tụi mình lấy súng giặc giết giặc là chi? - Ừ, mi nói có lý. Rứa tau sẽ tìm cách lấy một bữa bánh bích quy về cho tụi bay ăn đã đời. Sáng ni tau nhìn qua bên đó thấy hai thằng Tây bưng ra cả một thùng bánh bích quy vụn, để dưới thềm cửa ra vào cho con chó béc-giê của tụi hắn ăn. Nhưng con chó chỉ ngửi qua rồi bỏ đi. Anh em tù đi qua đi về ngó thùng bánh mà nuốt nước miếng ừng ực. Nhưng đụng vô là chết với tụi hắn ngay. Trưa mai, chờ tụi hắn đóng cửa vô nhà ngủ hết, tau sẽ mò qua xúc trộm một xô về đãi tụi bay. Thúi nhìn Lượm, ánh mắt hiện vẻ lo sợ. Nó hỏi: - Liệu có nguy hiểm lắm không anh? Hay thôi, đừng nữa anh ạ. Lỡ tụi hắn bắt được, dỗ đầu anh xuống đất thì làm răng? - Thằng Tây lùn dữ nhưng tau không ngại lắm. Trưa mô hắn cũng say rượu, ngủ như chết. Tau chỉ gờm nhất là con chó, nhưng để tau liệu coi.. Hai hôm trở lại đây, tụi Tây sở Pốt lấy gian nhà kho mọi hôm vẫn nhốt Lượm, anh Bện và lão Tụng vào buổi trưa, để chứa mấy xe bưu phẩm vừa từ Pháp gửi sang. Ba người tù chúng cho ra nghỉ trưa trong khu vườn rộng mệnh mông trước sở. Mỗi người tù chiếm bóng một gốc cây. Tên lính gác đã có vẻ tin họ không bỏ trốn, nên việc canh gác có phần lơi lỏng dần. Khi Lượm, anh Bện, lão Tụng đã nằm yên vị dưới bóng mát gốc cây, nhắm mắt ngủ, tên lính gác mò sang bên kia đường tán tỉnh mấy o bán rượu, thuốc lá, cà phê. Những cái quán này cũng mới được mở cách đây tuần lễ. Mấy o bán quán son phấn loè loẹt, ăn mặc hở hang. Họ vừa bán quán vừa làm điếm. Buổi trưa. Thằng lính gác bỏ đi chừng mươi phút, Lượm đã mở mắt, ngồi nhổm dậy. Nó nhìn sang hai gốc cây gầnđó, lão Tụng và anh Bện đang há miệng ngáy như sấm. Nó đứng lên, xách cái xô tôn vẫn đựng nước lau nhà đã được chùi sạch rón ren đi về phía khu vườn ăn thông sang sở "Cốp". Sở "Cốp" giờ này các cửa đều đóng kín mít. Khi còn cách ngôi lầu chừng dăm chục thước, nó dừng lại, nép mình sau gốc mù u, quan sát khu nhà. Toán tù làm cỏ-vê ở sở "Cốp" giờ này bị nhốt vào dãy nhà kho tít cuối vườn. Xung quanh hoàn toàn yên tĩnh, không một bóng người. Con chó béc-giê cũng không thấy bóng. Tiếng ve kêu ran ran trên các tán cây. Thùng đựng bánh bích quy vụn bằng các-tông vẫn nằm nguyên dưới bậc thềm trước cửa ra vào. Nén hồi hộp, Lượm xách cái xô chạy băng qua khoảng trống. Nó vục miệng xô vào thùng bánh vỡ vụn còn khá đầy, một tay lùa dồn bánh vào xô. Dựng cái xô đứng lên, thấy còn lưng, nó dùng hai tay vốc lấy vốc để, bỏ thêm vào xô. Gần đầy miệng xô, nó xách chạy vút qua khu vườn nhanh như tên bắn. Về đến gốc cây, nó quỳ xuống cỏ, thở dốc như vừa chạy đến chục cây số. Nó bỗng thấy hai mắt mờ đi, cay xè. Đưa tay lên dụi mắt, nó mới nhận ra cả gương mặt mình như tắm mồ hôi. Vén vạt áo lên lau mồ hôi, nó bực bội nghĩ: "Chỉ mới lấy cắp ít bánh vụn để tênh hếch trước thềm nhà, mình còn hoảng sợ đến nước ni! Không biết đến lúc phải trèo qua cửa sổ lọt vô phòng thằng quan hai I-Tai, mình có đủ gan không?". Bánh bích quy tuy bị vỡ vụn nhưng vẫn còn thơm phức. Nhưng Lượm gần như không ngửi thấy mùi thơm. Nó trút cả xô bánh vào cái bao vải bạt đựng thư bị chuột cắn thủng mà nó xin được của viên đội văn phòng. Nó đem giấu cái bao xuống dưới đống lá rụng cạnh gốc cây bàng giữa khu vườn. Nó nhìn sang thấy anh Bện và lão Tụng vẫn há miệng ngáy vang. Thằng lính gác vẫn còn mải nhậu nhẹt bên dãy quán. Nó lập tức quyết định phải chạy sang xúc thêm một xô nữa. Nó muốn thử thách mình xem có đủ gan để làm cái việc thật sự mạo hiểm sắp đến. Nhưng mới bước được mấy bước, nó đứng chững lại, đắn đo, do dự. Bản tính liều lĩnh nhưng nó không khỏi chột dạ khi nghĩ đến con chó béc-giê hung dữ lông xám như lông chó sói. Con quỷ này, Lượm vẫn ngờ nó đang quanh quẩn đâu đó, nhảy chồm ra lúc nào không biết. Nó bặm môi giận dữ với chính sự do dự, nhát gan của mình. "Bây giờ mà mình tháo lui, đến hôm đó mình cũng sẽ tháo lui là cái chắc!". Nó nghĩ vậy rồi chạy đến chụp cái bao tải ướt lau nhà trải phơi trên cỏ. Nó vụt nhớ trong trận miễu Đại Càng, các anh ở đội quyết tử mỗi người mang theo cái bao bố tẩm dầu xăng để chống đàn chó béc-giê đông đến hàng chục con ở vị trí này. Tay xách cái xô, tay cầm cái bao tải ướt, Lượm cắm đầu chạy vụt qua khu vườn, thẳng đến chỗ để thùng bánh vụn, với quyết tâm của người lính lao lên vị trí xung phong. Lượm vừa vục miệng xô vào thùng bánh, một tiếng sủa choát tai! Con béc-giê lông sói chân lùn, to như con bê, từ phía sau bồn hoa, lao vút tới. Nó xách cái xô vọt chạy. Con béc-giê chồm tới sủa rống đuổi theo sát gót chân Lượm. Lượm chưa kịp ngoái đầu lại thì đã nghe: "Bặp!" Nó đứng khựng như bị lôi giật lại. Bắp chân trái rát bỏng như lửa cháy. Cái miệng rộng rớt dãi con sói xám ngoạm ngang bắp chân, gầm gừ lôi Lượm trở lại. Nó muốn vùng vẫy thoát ra nhưng không thoát nổi. Những cái răng nhọn hoắt cắm sâu vào thịt, nó muốn vùng thoát ra, phải xé tước đôi bắp thịt. Trong cơn hoảng sợ đến tuyệt vọng, nó bỗng sực nhớ đến cái bao tải ướt đang cầm trong tay. Nó trùm cái tải lên đầu con chó, rồi giáng cao cái xô quật "Chát! Chát!" với tất cả nỗi giận dữ điên khùng. Giống chó dữ rất sợ bị trùm che mắt. Lúc này Lượm mới vụt hiểu tại sao các anh Quyết tử quân đánh miễu Đại Càng mang báo bố tẩm xăng để chống chó béc-giê. Con chó hoảng sợ nhả bắp chân nó ra, lắc đầu, xoay tròn như đèn cù để hất bao tải ra khỏi mặt. Thoát được hàm răng chó, Lượm vọt chạy về đến chỗ nằm dưới gốc cây thì ngã khuỵu xuống cỏ. Nó nhìn xuống bắp chân, máu chảy như tắm. Bắp chân lúc này càng nhức nhối rát bỏng. Nó cởi quần, dùng cỏ lau sạch máu. Nó nhai đại một nắm ngọn cỏ, đắp trám sâu cái lỗ răng chó sâu hoắm trên bắp chân để cầm máu. Xé một mảnh giẻ, nó buộc thật chặt vết thương. Nó nằm vật xuống cỏ, nước mắt bật tròa ra ướt hai gò má. Nó nghiến răng, rên rỉ: "Tau phải giết chết mi! Không giết chết mi tau không kể làm người!" Nhớ lại cái vẻ hung dữ của con chó lúc ngoạm vào bắp chân, định lôi kéo mình trở lại chỗ thùng bánh cho chủ hắn ra đập chết, Lượm giận run người, quên phắt cả đau. Nó vùng ngồi ngay dậy, đưa ống tay áo lau khô nước mắt. Nó vịn gốc cây đứng lên, đi cà nhắc về phía cuối vườn. Ở đây, nó biết có một cây bòng sai trĩu quả. Quả bòng lớn bằng trái banh tê-nít, nước quả có vị chua gắt rúng rắng. Người ta không ăn bòng mà chỉ dùng để gội đầu, hoặc giặt tẩy quần áo. Nó nhìn lên ngọn cây, quả dày như sao. Biết mình lúc này không đủ sức trèo lên hái, Lượm nhặt mấy hòn gạch vỡ ném ngược lên ngọn cây: "Bộp! Bộp!" bốn năm quả bòng da xanh bóng rụng xuống cỏ. Nó nhặt lấy ba quả. Nó nhặt một đoạn dây thép, xâu ba quả bòng thành một xâu, gác ngang lên hai hòn đá. Nó vun lá khô rụng, giấy vụn, nhen lửa nướng ba quả bòng. Ruột ba quả bòng kêu xèo xèo. Thứ nước chua gắt, rúng rắng trong ruột bòng đang sôi. Da ba quả bòng cháy sém màu than. Nó chạm ngón tay vào, phải rụt ngay lại. Nóng bỏng! Nó trút cả ba quả bòng vào cái xô, và bọc mỗi quả bằng 1 cái lá bàng rụng để lúc cầm bớt nóng. Xách cái xô đó chạy băng qua khu vườn mặc cho bắp chân đau nhói. Con béc-giê lông sói đang nằm cạnh thùng bánh vụn, thè lưỡi ra thở. Cách khoảng bốn chục thước, Lượm chụp một quả bòng nướng còn nóng dẫy trong xô, tận sức ném về phía con chó. Quả bòng rơi bịch trên nền xi-măng, trước mặt con chó. Con chó chồm phắt dậy. Nhìn thấy Lượm, nó sủa lên một tiếng rung cửa kính, nhe răng, cắm đầu lao đến. Lượm ném liên tiếp hai quả bòng còn lại, một quả trúng bốp vào giữa đầu con chó. Bị ném trúng đầu, con chó nổi điên, cắn luôn vào quả bòng vừa rớt xuống trước mặt. Nó rú lên một tiếng nghe muốn dựng tóc gáy. Quả bòng dắt chặt vào giữa hai hàm răng nhọn hoắt, như cái nút đen ngòm, nút mồm nó lại. Lượm đã chạy về đến gốc cây nghỉ trưa, quẳng cái xô xuống gốc cây. Nó nhót đến chỗ anh Bện đang ngáy như sấm, nhẹ nhàng nằm xuống sát bên anh, úp mặt vào lưng anh nhắm mắt cất tiếng ngáy khò khò như muốn hòa nhịp với tiếng ngáy của anh. Chỉ mấy phút sau, phía bên sở "Cốp" dậy lên tiếng ồn ào huyên náo tưởng như có người chết, nhà sập. Tiếng chân chạy, tiếng bọn Tây la hét, tiếng chó lồng lộn, gầm rít, rên xiết. Bọn Tây ở sở Pốt đang ngủ trưa trong các gian phòng, cũng phải tỉnh dậy xô cửa chạy ra sân nhớn nhác hỏi nhau: - Cái gì thế? Cái gì thế? Tên lính gác đang nhậu ngoài quán rượu, xách súng hộc tốc chạy vào. Nó mừng rỡ khi thấy ba người tù của nó vẫn nằm ngủ dưới gốc cây. Thoạt nghe tiếng ồn ào rầm rĩ trong khu vườn, nó tái mặt tưởng tụi tù bỏ trốn. Lát sau, thằng Đội-lùn xách khẩu súng các-bin đi sang sở Pốt. Nét mặt hắn hằm hằm dữ tợn. Đội-lùn hằm hè nói với viên đội văn phòng sở Pốt: - Con chó quý của tôi vừa bị một kẻ nào đó ám hại. Tôi chắc là bọn tù của ông! Tên lính gác liền đứng nghiêm, nói: - Có lẽ ông đội nhầm. Ba người tù của tôi nằm kia. Và chưa một phút nào tôi rời mắt canh gác chúng. Viên đội văn phòng hỏi vặn lại: - Tại sao lại không phải bọn tù của ông? - Bọn chúng đều bị nhốt chặt trong nhà kho có khóa. - Thế thì có trời biết được - Tên lính gác nhún vai nói. Anh Bện, lão Tụng, Lượm lúc này đã ngồi hết cả dậy. Anh Bện thấy thằng Đội-lùn chỉ trỏ về phía mình nói xì xồ với viên quan hai I-tai, mặt phừng phừng tức tối; anh sợ quá, run cầm cập: - Chú nghe coi hắn đang nói chi anh em mình mà coi bộ dữ dằn rứa? - Bên sở Cốp có chuyện mất mát chi đó. Hắn nghi là mấy người mình có dính dáng vô. Hắn có tới hỏi chi ta cứ lắc đầu thôi nghe! Thằng Đội-lùn cùng với viên đội văn phòng, tên lính gác, đi thẳng đến chỗ ba người. Cả ba liền líu ríu đứng lên. Viên đội văn phòng hỏi Lượm: - Ông đội bên sở "Coopérative-militaire" ngờ các anh làm hại con béc-giê quý của ông ấy. Trong ba người trưa nay có ai sang bên đó không? Lượm dụi dụi mắt làm như vẫn còn ngái ngủ trả lời: - Chúng tôi làm sao sang bên đó được? Anh lính gác đâu có cho chúng tôi rời khỏi gốc cây này một bước. Tên lính gác nháy mắt với Lượm. Nó hấp háy mắt nhìn lại, giống như hôm nào hai người nói với nhau: "Mày là một đứa bé hết sức khôn ngoan! - Tôi là một đứa trẻ nhút nhát thì đúng hơn". Tên Đội-lùn trợn cặp mắt xanh màu rắn lục nhìn ba người tù như muốn nhai sống, nuốt tươi họ. Hắn gầm ghè nói: - Chúng mày liệu hồn! Giống Anamít bẩn thỉu. Tao mà tìm ra đứa nào, tao sẽ bắn ngay! Lượm biết tụi Tây sở Pốt không ưa tụi sở Cốp. Bên đó, tụi ấy ăn uống phè phỡn, làm tụi bên này ghen tức. Bọn sở Pốt có vẻ khoái chí khi biết con chó dữ như hùm của Đội-lùn bị ám hại. Đội-lùn xách súng hậm hực trở về. Sau đó mấy hôm, Lượm được nghe mấy anh tù ở sở Cốp kể lại: Tiếng kêu rú của con chó làm náo động cả sở. Lúc họ ra khỏi phòng nhốt thì thấy con chó, miệng ngoạm một cục gì đen đen, rú rít, chạy quáng quàng quanh khu nàh như đã hóa dại. Đội-lùn và bọn Tây sở Cốp phải toát mồ hôi mới bắt giữ được con chó. Miệng con chó vẫn bị trái bòng nướng khóa chặt. Đội-lùn ôm chặt đầu con chó, định bóp nát quả bòng để lôi ra khỏi hàm răng chó, nhưng hắn bỗng kêu thét rẩy rẩy tay như cầm phải than đỏ. Bòng nướng giữ sức nóng rất lâu. Hắn phải dùng kìm mổ kẹp quả bòng mới lôi ra được. Con chó đau đớn đến phát điên, giẫy giụa, vùng vẫy ghê đến nỗi Đội-lùn phải ngã xiêu ngã sấp. Lợi con chó bị thứ nước chua gắt nóng bỏng của quả bòng nung chín. Ba hôm sau, nó rụng hết hai hàm răng cửa và cả bốn cái răng nanh. Con chó dữ bị nhổ mất răng, mỗi lần há miệng gầm gừ, trông chỉ thấy toàn lợi, nhìn rất tức cười. "Thằng nào chơi cú thiệt độc!" Họ bình phẩm như vậy. Lượm vẫn giấu kín không cho các anh tù sở Cốp và cả anh Bện, lão Tụng biết mình đã chơi cú "độc" đó. Không còn sợ hàm răng chó nữa, anh em tù làm cỏ-vê sở Cốp, hễ vắng mặt Đội-lùn là họ lấy cắp bánh kẹo, đồ hộp, ăn thoải mái. Con chó trông thấy, gầm gừ nhảy chồm đến cắn, họ lập tức đấm, đạp, xô đầu nó ra như xô cái củ chuối dính vào chân. 8 Lượm đi làm cỏ-vê sở Pốt đã được hơn 1 tháng. Trong thời gian đó nó âm thầm nhưng ráo riết chuẩn bị cho cuộc vượt tù lần thứ ba. Hai tháng trước đó, cái buổi chiều Huế mưa tầm tã, khi hai cánh cổng gỗ lim niềng sắt lao Thừa Phủ đóng sập lại sau lưng, mọi hy vọng vượt tù hoàn toàn tắt ngấm trong lòng người Vệ Quốc Quân vừa bước sang tuổi mười lăm này. Nhưng chợt đến cái buổi sáng hết sức tình cờ mà Lượm bỗng được ngồi lên xe Jeep phóng vùn vụt trên đường phố, thấy lại nhà cửa, bóng cây, núi xanh trùng điệp xa xa, mặt nước sông Hương bồi hổi sóng.. thì hy vọng vượt tù lại bừng lên trong lòng Lượm, mãnh liệt đến nỗi, nó thấy cổ mình nghẹn lại, tim đập thình thình. Nó tưởng chừng có thể nhảy vọt ra khỏi xe, lao về phía bờ sông, nhảy ào xuống nước.. Cái cảm giác liều lĩnh, mạo hiểm đó cứ lặp đi lặp lại trong nó rất nhiều buổi sáng về sau. Dần dần Lượm mới trấn tĩnh lại được. Hai lầ vượt tù mạo hiểm trước đây và những ngày sống ở xà lim lao Thừa Phủ đã nhắc Lượm: "Lần này mà thất bại thì mình sẽ vào nằm" ca-sô âm phủ ". Và một đêm nào đó, bọn giặc sẽ quăng mình lên xe bịt bùng, chở đến bãi xử bắn, giống như Chỉ huy trưởng mặt trận khu C, như anh thợ máy đã săn sóc mình ở Ty An ninh..". Mới tháng trước cso một anh tù đi làm cỏ-vê liều mạng vọt ra khỏi xe chạy trốn. Kết cuộc anh bị bắn gục ở khúc quẹo dốc Nam Giao. Trong hơn tháng đó, bao nhiêu việc vừa khó khăn, vừa nguy hiểm, liên tiếp chồng chất lên đôi vai gầy gò niên thiếu của Lượm. Ban ngày đi làm cỏ-vê Lượm phải chuẩn bị từng li, từng tí cho việc vượt tù, phải thường xuyên đối phó với những bất trắc xảy ra liên tiếp. Như buổi chiều xúc trộm bánh bích quy vụn và vặn răng con béc-giê, chỉ một tí tẹo là Lượm sa vào bẫy không cách gì thoát nỏi. Chiều hôm đó, lúc ba người sắp leo lên xe về lao, tên Đội-lùn cùng đi với viên quản sếp Tây lai đen, phó sở Cốp, sang gặp quan hai I-Tai. Chúng yêu cầu được soát đồ đạc của ba người tù sở Pốt, vì chúng cho biết bị mất một số lượng khá lớn bánh bích quy vụn chúng để phía ngoài cửa hàng. Và chúng khẳng định tên ăn trộm bánh chính là tên đã làm hại con chó. Viên quan hai I-Tai buộc phải để cho chúng khám. Hắn ra lệnh cho viên đội văn phòng cho tù về chậm mười lăm phút, đứng xếp hàng trước sân và để đồ đạc ra trước mặt. Đội-lùn hằm hằm nói: - Chỉ cần tìm thấy một mẩu bánh trong người tên tù nào, là tôi sẽ bắn ngay! Tôi sẽ giết hắn như giết một con vật nhơ bẩn! Nghe nói mà Lượm ớn lạnh khắp người. Cách đó nửa giờ nó đã xúc một ít bánh gói lại đút vào đáy cái bị cói mà nó thường để những đồ vật linh tinh nhặt nhạnh được, mang về lao cho các bạn: Vỏ chai, vỏ đồ hộp, những mảnh vải rách, những đoạn dây thép.. Nhưng với bản tính thận trọng của người lính trinh sát, trước khi làm một việc gì cần phải tính đến trường hợp xấu nhất có thể xảy ra! Đó là bài học, Lượm học được ngày còn ở Đội. Và nó đã bỏ lại gói bánh, vùi xuống đống lá rụng. Đội-lùn soát rất kỹ đồ đạc của ba người. Soát không thấy gì, Đội-lùn càng nổi điên hơn. Hắn cứ lắc đầu nhắc đi, nhắc lại: - Vô lý! Hết sức vô lý! Rồi cả bọn đành cúi gằm mặt băng qua khu vườn trở về sở Cốp trước những nụ cười chế giễu của bọn tây sở Pốt. Ngồi trên xe về đến cổng nhà lao, nghĩ đến sự việc vừa xảy ra, người Lượm vẫn còn ớn lạnh. "Nếu mình hấp tấp mang túi bánh về thì bữa ni khó lòng tránh khỏi ăn đạn!". Nhớ đến vẻ mặt hằm hằm gớm ghiếc của thằng Đội-lùn, Lượm tin là nó sẽ bắn thật, nếu hắn lục thấy gói bánh vụn. Đợi đến ba hôm sau Lượm mới mang tất cả số bánh về chia cho các bạn. Mỗi chiều đi làm về, vừa bước chân qua khỏi cánh cửa sắp lớp tường thứ hai là Lượm phải đối mặt với tụi băng Lép-sẹo. Cái băng trẻ trộm cắp này vẫn tỏ vẻ kình địch với Lượm ra mặt. Lượm phải củng cố, điều khiển các bạn trong đội "Thiếu niên chiến đấu lao Thừa Phủ" chống chọi với bọn chúng. Và đồng thời tổ chức cho đội giúp đỡ các anh bị giam ở các dãy xà lim, ca-sô. Những ngày chủ nhật không đi làm, nó mở lớp dạy chữ cho những đứa chưa biết chữ, như đã hứa. Không có giấy bút, Lượm phải dạy đọc, dạy viết bằng que, bằng gạch vụn, viết lên đất sân lao, nền ba-ti-măng. Các bạn học rất chăm. Thấm thoắt đã có đứa chập chững biết đọc, biết viết. Sức vóc nhỏ yếu lại phải sống lâu ngày trong đói khát, dơ dáy, nhiều đứa trong đội ngã bệnh. Đứa sốt nóng, đứa ỉa chảy, đứa mụn nhọt lở loét khắp người. Đứa nào cũng chấy rận như sung, áo quần bốc mùi tanh lộn mửa. Nhìn cảnh tượng này Lượm khóc dở mếu dở. Nó muốn ngã quỵ luôn. Nhiều đêm nó nằm giữa các bạn úp mặt vào cánh tay lặng lẽ khóc thầm. Nó cảm thấy mình trở nên yếu đuối, bất lực đến phát sợ! Nó chỉ muốn mau mau trốn thoát ra khỏi nơi đây.. Nhưng sáng ra, nhìn những gương mặt xanh xao, võ vàng tội nghiệp, những ánh mặt trông chờ, tin cậy của các bạn đặt hết vào mình, nó lại thấy can đảm trở lại. Nó lập tức nhận ra mình không còn cách nào khác là phải đứng thẳng lên để đương đầu. Đi làm, Lượm cố gắng mang về nhiều nước sạch hơn. Kiếm được chút thức ăn gì, nó không đụng đến, mang về cho những đứa bệnh nặng không ăn cơm tù được. Nó lần lượt bắt các bạn cởi hết áo quần bỏ vào bị, mang đến sở làm. Nó bỏ áo quần chúng vào cái thùng sắt tây, đổ đầy nước, đun luộc rận. Rận bị luộc chính, nổi lên đọng thành một lớp váng trắng đục trên mặt thùng. Nhìn lớp váng rận nó rùng mình. Nó đem đống áo quần ra sông giặt giũ, phơi ra chỗ nắng. Chiều áo quần khô, nó lại bỏ bị mang về cho chúng. Vẫn là những bộ áo quần cũ nhưng được giết hết rận và giặt sạch, chúng mặc vào súng sính, mừng rỡ như được diện áo quần mới. Chúng cười rạng rỡ, nhìn Lượm với đôi mắt ngầm ngập biết ơn. Sau một thời gian đi làm, Lượm phát hiện ra trong nhiều gói bưu phẩm có các thứ thuốc uống, thuốc tiêm chữa các bệnh thông thường. Cũng có một số gói bưu phẩm, gia đình của bọn lính viễn chinh gửi cho chúng các loại thuốc quý. Lượm phải tính đến chuyện lấy cắp thuốc mang về chữa bệnh cho các bạn. Đó là việc hết sức nguy hiểm, bọn Tây có thể phát hiện, lão Tụng có thể tố giác. Nhưng nếu không có thuốc, nhiều đứa bệnh nặng có thể chết. Lượm đành phải liều mạng. Mối lo sợ nhất của nó không phải là bị chúng đánh đập, mà chúng sẽ đuổi không cho đi làm. Và như vậy kế hoạch vượt tù sẽ tiêu ma. Lượm chỉ còn biết trông cậy vào sự thận trọng khôn khéo của mình và sự may rủi của số phận. Việc lấy cắp không đến nỗi khó lắm, nhưng mang thuốc về lao mới thật đang sợ. Tụi Tây có thể bất thần soát đồ đạc. Lượm tính đến chuyện làm những cái vỏ đồ hộp đựng nước, đựng thức ăn, có hai đáy, như cách của những chiến sĩ liên lạc, tình báo hoạt động ở nội thành dùng để chuyển tài liệu, súng đạn. Nó làm thử nhưng không thành công. Muốn làm được những cái thùng như vậy mà che được mắt giặc, mắt lão Tụng, thì phải là thợ gò hàn chính hiệu. Nó đào óc nghĩ cách, cuối cùng nó quyết định giấu vào bên trong mũ rồi đội lên đầu. Thời gian ngắn ngủi hoạt động tình báo ở Huế vừa qua, Lượm cũng đã có chút ít kinh nghiệm. Nhiều lúc cách cất giấu tưởng như lộ liễu, sơ hở, lại bảo đảm an toàn. Nó nhặt được cái mũ phớt cũ nát trong đống rác, đem giặt sach, dùng một mảnh vải bạt khâu thành cái bo mũ, cốt để riết chặt vành mũ cho thật vừa sát với đầu. Những lúc xe bất thần xóc mạnh, tim nó giật thót vì lo cái mũ có thể văng khỏi đầu. Bằng cách đó nó đã lấy cắp mang về lao đủ các loại thuốc: Cảm sốt, ỉa chảy, thuốc mở bôi mụn nhọt, viên xuyn-pha-mít, 2 lọ treptômixin, hai tuýp thuốc ngủ gác-đi-nan và mấy tuýp keo dán gỗ mà lúc lấy vội nó cứ tưởng là thuốc mỡ. Nhờ có số thuốc lấy cắp này Lượm đã chữa cho mấy đứa trong đội lành bệnh; trong số này có hai đứa mắc bệnh cảm sốt rất nặng, và một đứa vết lở ở chân đã nhiễm trùng có dòi.. Số thuốc chưa dùng đến, Lượm giao cho thằng Thúi cất giữ.
Chương 16 Bấm để xem 9 Một buổi chiều, Lượm đi làm về vừa bước qua khỏi cổng lao thì Thúi, Ngạnh, Lanh và các bạn đã xúm lại hồi hộp, mừng rỡ báo tin: - Thằng Lép-sẹo sắp chết! Lượm ngạc nhiên: - Sắp chết à? Có chuyện chi rứa? - Hắn bị đau kiết ỉa chảy mới hai hôm ni thôi. - Hắn đi ỉa ra cả mũi, cả máu! - Ngạnh kể lại giọng hả hê - Đáng đời hắn! Hắn đang nằm bẹp trong ba-ti-măng hai. Trưa nay tụi lính ngục định lôi hắn vứt lên xe bò chở đến nhà thương nhưng không có tù người lớn đẩy xe nên còn để lại đó. Chắc sáng mai họ mang đi thôi. Lượm trao lon nước cho thằng Lanh, nói: - Mi chia cho anh em. Để tau vô coi hắn đau như răng. Lanh, Thúi, Ngạnh và các bạn đều nghĩ chắc anh Lượm sẽ vô đập chết Lép-sẹo để trả thù hai cái răng gẫy dạo nọ. Hắn đang đau, nằm bẹp như hòn bùn, đập chết dễ ợt. Cả đội đều mong Lượm đập chết Lép-sẹo mới hả vì chẳng sót đứa nào trước đây không bị hắn đánh đập, hành hạ. Mà đập chết ngay lúc này là hay nhất, vì tù người lớn đi làm cỏ-vê các sở chưa về. Chúng chưa chia nhau nước vội mà xách luôn lon nước đi theo Lượm vào ba-ti-măng hai. Chúng trù tính hễ anh Lượm xong tới đập chết Lép-sẹo là chúng nhào vô đập theo tụi đàn em của hắn sướng tay thì thôi! Lép-sẹo chết, tụi đàn em hắn khác chi rắn mất đầu. Sức mấy chúng dám đập lại. Trước thềm ba-ti-măng hai, mấy đứa trong băng Lép-sẹo đang ngồi cởi áo bắt rận. Thấy cả đội Lượm rùng rùng kéo đến, chúng ôm áo bỏ chạy tán loạn, vừa chạy vừa la: - Uơ bay! Uơ bay! Tụi hắn vô đập chết tụi mình đó uơ bay! Bọn đang ở trong ba-ti-măng nghe tụi ở ngoài la gọi như cháy lao, hoảng sợ, cuống quýt, nhào ra phía cửa. Ra đến cửa, chúng vấp phải bọn Lượm đang kéo vào. Chúng nhào trở lại, đứng nép sát vào tường, run rẩy. Trong ba-ti-măng còn có mấy người tù bệnh và mấy ông già. Họ cũng quơ vội áo quần, lon nước, lon cơm.. chạy cách xa chỗ Lép-sẹo đang nằm. Họ đoán cái băng thằng "răng sứt" lợi dụng tình thế thằng đầu đảng "léo đầu" đau sắp chết, kéo vô để thanh toán hắn. Chắc cả hai băng sẽ đánh nhau to, tránh xa tụi con ranh con lộn ni là hơn cả. Lượm đi thẳng vô ba-ti-măng, chẳng thèm đưa mắt ngó mấy đứa trong băng Lép-sẹo đang run rẩy đứng nép xó tường. Một hai thằng gan góc trong bọn nắm chặt cán dao thủ thế. Đúng là Lép-sẹo đang nằm bẹp dí trên nền xi-măng, cũng chiếc quần đùi hai ống vẫn thường vo tròn đến bẹn một cách ngang tàng, lúc này lầy nhầy một đống phân mũi lẫn với máu, bốc mùi tanh tưởi đến lộn mửa. Hắn không còn đủ sức đứng dậy mà nằm ỉa luôn ra quần. Mới đau có hai ngày mà thân hình của hắn sọp hẳn đi, hai má hóp lại, cặp môi tái nhợt, các đầu ngón tay, ngón chân thịt móp, răn rúm như ngâm nước quá lâu. Lượm đứng sững cách Lép-sẹo vài bước, cau trán nhìn hắn. Lép-sẹo cũng vừa mở bừng mắt, nhìn ngược lên Lượm. Mặc dầu đã quá yếu, nhưng một tay hắn vẫn cử động khá nhanh, chụp cán con dao găm giấu dưới lưng. Mặt hắn liền gân lên, môi nhếch ra định cười gằn, nhưng vì kiệt sức nên không thành tiếng. Cả con người tên anh chịu vị thành niên này, từ nét mặt, ánh nhìn, cái miệng méo xệch cố nhếch ra một tiếng cười gằn không thành tiếng, bàn tay run run nắm chặt cán dao găm, đến cả quả tim xuyên ngang con dao găm xăm trên lồng ngực phanh trần.. đều toát lên vẻ liều lĩnh, gan góc, bất cần đời, sẵn sàng đánh trả dù tuyệt vọng. Lượm và Lép-sẹo cứ nhìn nhau như thế có đến một phút. Cặp mắt gà chọi của Lép-sẹo như muốn nói với địch thủ: "Mi cứ việc giết tau đi! Tau không sợ mô. Đằng nào tau cũng chết!" Thằng Thúi đứng nép sau lưng Lượm, cũng chăm chăm nhìn Lép-sẹo. Không hiểu sao người nó run lên. Nó nắm khuỷu tay Lượm, lay lay, nói thì thào như bị hụt hơi: - Anh, anh! Hắn đau nặng lắm. Anh đừng đập hắn nữa.. Nhớp tay.. Tự nhiên Lượm nổi cáu, quay lại gắt: - Mi nói chi mà ngu rứa? Cái ve thuốc bột có nắp nhôm tau giao mi cất bữa tê, mô rồi? - Đây, tui cất đây - Thúi đưa tay sờ lên ngực áo. Thúi mặc cái áo nhìn rất tức cười. Cái áo trước đây của nó rách tan, chỉ còn lại mấy miếng giẻ treo lủng lẳng quanh cái cổ áo. Nó lấy dây buộc túm mảnh nọ với mảnh kia, nhưng chỉ được vài bữa lại bung ra. Kể ra nó có thể vứt quách và cởi trần như mấy đứa khác. Hiềm một nỗi nó còn ít tiền bán kẹo, và những thứ thuốc Lượm lấy cắp về giao cho nó giữ, không có áo biết cất giấu vào đâu. Lượm thấy vậy liền mang về cho nó cái bao đựng thư bằng vải bạt bị chuột cắn thủng, nhưng còn mới. "Mi mượn kim chỉ của mấy cụ, may tạm cái áo mà mặc". Thằng Thúi sướng rơn. Và nó biến cái bao tải thành cái áo thật đơn giản mà lại lợi đủ đường. Đáy bao, nó khoét một cái lỗ tròn chính giữa để chui đầu, hai bên nó khoét một cái lỗ nhỏ hơn để xỏ tay. Cái bao khá dài, nếu để nguyên thì phải trùm đến kheo chân. Nó cắt ngắn, chỉ phủ quá mông đít. Mảnh bao thừa, nó cắt ra, mượn kim chỉ may thành một dãy túi phía bên trong, tha hồ đựng các thứ cần cất giấu. Cái áo bao tải của nó công dụng không thua mấy cái tủ đựng đồ. - Đưa chai thuốc đó cho tau - Lượm sai Ngạnh lấy cái ống bơ rửa sạch và múc một lưng bơ nước trong. Nhìn thấy những đầu ngón tay ngón chân Lép-sẹo bị móp như ngâm nước quá lâu, và đống phân lầy nhầy mũi máu dưới đũng quần hắn, Lượm nhớ ngay đến một anh ở đại đội liên pháo xạ thủ súng mười hai ly bảy, hồi còn ở mặt trận Huế. Anh này cũng bị bệnh đi ỉa chảy ra cả mũi máu như hắn. Anh y sĩ ở trạm quân y mặt trận khu C xuống khám và gọi tên bệnh là "lỵ trực trùng cấp tính". Bệnh này nếu không có thuốc chữa và chữa không kịp thời, chỉ vài ba hôm là chết. Anh y sĩ viết tên thuốc vào một mảnh giấy, sai Lượm lấy ngựa phi lên trạm quân y trung đoàn lĩnh thuốc về. Lượm đọc tên thuốc "Tờréptômixin". Nó lĩnh hai chai thuốc có nắp nhôm, bên trong đựng chừng một phần ba lọ bột trắng. Anh y sĩ cạy lớp nắp nhôm, rồi mở nút cao su dốc bột thuốc cả hai ve vào ca nước, hòa tan, cạy răng đổ cho người bệnh uống. Anh xạ thủ súng mười hai ly bảy đến chiều cầm đi ỉa và ba hôm sau thì khỏi bệnh. Cách đây mấy hôm, trong lúc quét dọn ở sở Pốt, Lượm thấy một gói bưu phẩm bị chuột cắn thủng nhiều lỗ. Nhìn qua lỗ thủng, nó thấy mấy chai thuốc có nắp nhôm giống hệt hai chai thuốc đã lĩnh ở trạm quân y trung đoàn dạo trước. Nó nhìn trước nhìn sau, rồi thò hai ngón tay qua lỗ thủng, cắp luôn một lọ. Nhìn nhãn hiệu, đúng là lọ Treptômyxin. Nó giấu chai thuốc vào mũ mang về đưa cho thằng Thúi và dặn: "Thuốc ni quý lắm, mi giữ cẩn thận kẻo bể". Thúi sợ ve thuốc vỡ, lấy giẻ bọc lại, buộc chặt và cất vào cái túi trước ngực. Suốt mấy ngày vừa rồi, cứ thỉnh thoảng nó lại sờ lên ngực coi ve thuốc còn nằm nguyên đó không. Thúi móc túi lấy ve thuốc, mở dây buộc, tháo giẻ cuộn, đưa cho Lượm. Lượm lùa tay vào lưng quần thằng Ngạnh, rút cái đinh hai mươi phân, mũi được mài sáng giới. Ngạnh bạc mặt, lắp bắp hỏi: - Anh đâm à? Lượm bật cười: - Đâm ai? Đâm mi à? Lượm dùng cái đầu đinh nhọn cạy nắp nhôm ve thuốc, rồi trả cái đinh cho Ngạnh nói giỡn: - Mi mài nhọn đã gớm! Đúng là mũi đinh chiến đấu phục thù của du kích. Lượm mở nút cao su, rót nước trong lon cho đầy ve, đậy nút cao su lại xóc xóc. Bột thuốc hòa tan thành màu trắng sữa. Lép-sẹo nằm im, mắt không chớp theo dõi từng cử động của địch thủ, nét mặt căng thẳng, hồi hộp. Nó biết rằng mình hoàn toàn thất thế. Và nó chắc sắp phải lao vào một trận đấu, mà phần chết đã cầm sẵn trong tay. Cái vẻ hung dữ, điên khùng của Lượm lúc túm tóc nó dộng đầu côm cốp xuống nền xi măng vẫn còn nhức nhối trong trí nhớ hắn như một vết bỏng không sao lành được. Đến khi thấy Lượm cầm ve thuốc đổ đầy nước xóc xóc, cặp môi tái nhợt như môi người chết của Lép-sẹo bỗng run run như sắp òa khóc. Nó vụt hiểu: Thằng Vệ Quốc Đoàn nhỏ ni không định giết mình mà muốn cứu mình. Không biết đó là thuốc gì, nhưng Lép-sẹo đoán là loại thuốc rất quý có thể chữa cho mình lành bệnh chết. Lép-sẹo vẫn biết Lượm đi làm cỏ-vê ở một sở Tây có rất nhiều thứ thuốc. Và vẫn thường lấy cắp mang về chữa bệnh cho tụi ở đội nó. Cái ve thuỷ tinh trong suốt đựng thứ bột trắng muốt, có nhãn hiệu rất đẹp dán ở ngoài, rồi hai lớp nắp nhôm, nút cao su đậy kín đã gây một ấn tượng thật mạnh trong óc Lép-sẹo về giá trị quý báu của loại thuốc. Lượm bước đến gần Lép-sẹo, cúi xuống đưa ve thuốc ra trước mặt nó, nói với giọng cộc cằn: - Bỏ tay dao ra! Vệ Quốc Đoàn chúng tau đối với cả tụi Tây, tụi Vê-giê, lúc thất thế, chúng tau cũng không thèm giết nữa là tụi bay. Bệnh mi là bệnh chết đó. Mi uống hết ve thuốc ni, may ra lành bệnh. Lép-sẹo bỏ tay nắm cán dao, cầm lấy ve thuốc. Nó há to miệng, dốc cạn ve thuốc, nuốt ực. Lượm đổ thêm nước vào ve tráng thêm lần nữa, đưa cho Lép-sẹo uống tiếp. Lượm nói, không nhìn mặt Lép-sẹo: - Mi giữ cái ve thuốc không nớ mà làm kỷ niệm. Lượm quay lại nói với tụi đàn em Lép-sẹo lúc này đang đứng túm tụm gần cánh cửa sắt, thập thò, lấm lét nhìn vô: - Tụi bay là đồ không ra chi! Để cho "đại ca" tụi bay nằm trên đống cứt với máu rứa mà chẳng thèm ngó ngàng đến! Còn đứng trương mắt ếch ra nhìn cái chi? Đi vô dọn cứt với thay quần áo cho "đại ca" tụi bay đi chứ? 10 Trưa hôm sau, hai tên lính ngục xách súng dẫn ba người tù đi vào ba-ti-măng hai khiêng Lép-sẹo ra xe ba gác. Nếu Lép-sẹo chết thì xe đi chôn, nếu chưa chết, xe thẳng đến nhà thương, khu dành riêng cho tù nhân. Chúng rất ngạc nhiên thấy Lép-sẹo miệng ngậm lệch điếu thuốc lá quấn bằng giấy báo, đang nhúc nhắc đi lại trong ba-ti-măng. Mặt hắn tuy còn hốc hác, xanh xao, chân bước còn run rẩy, nhưng rõ ràng hắn đã lành bệnh. Một tên lính trợn mắt hỏi? - Cố nội thằng ăn cướp! Mi chưa chết à? - Dạ, chỉ thèm thuốc thôi. Bác mô có thuốc Cẩm Lệ ngon cho cháu xin điếu hút chơi. - Lép-sẹo trả lời giọng lễ phép nhưng xấc xược - Cố nội mi! Nói năng cho tử tế chứ không thì ăn báng súng đó? Hai tên lính dẫn ba người tù đi ra. Mặt chúng hằm hằm. Chúng có vẻ tức tối vì thằng du côn không chết. Phải công nhận rằng Lép-sẹo mau chóng hồi phục sức khỏe. Chỉ ba hôm sau hắn đã gần như lành hẳn bệnh. Có một điều bọn đàn em Lép-sẹo đều nhận thấy là sau trận ốm dậy, tâm tính của "đại ca" chúng bỗng nhiên thay đổi, rất khó hiểu. Tưởng chừng như những tính nết quen thuộc của "đại ca" trước đây trong mất ngày vừa qua, đã theo thứ nước phân màu nhờ nhờ như nước rửa thịt, trút hết ra ngoài. Chúng đều nhận thấy "đại ca" Lép-sẹo đối xử với chúng ngày một lạt lẽo, có phần như muốn tránh xa chúng. Điều làm chúng buồn nhất là "đại ca" không còn bày đặt và chỉ huy chúng những trò gây gổ, quấy đảo nhà lao như trước. Cái dáng bộ ngang tàng, ngạo ngược, mà chúng rất hãnh diện về người thủ lĩnh của chúng bỗng biến mất. Cái miệng rộng ngoác của "đại ca" không còn thấy cười cợt, nói bông lơn với chúng mà thường mím chặt lại, nhìn thật dữ. Mặt thì quạu cọ mà lơ đãng, ngồi với bọn chúng mà mải nghĩ đâu đâu. Riêng cung cách của "đại ca" đối với tụi băng thằng Lượm-sứt, cũng thay đổi. Trước đây "đại ca" luôn luôn tìm cách xáp mặt tụi hắn để chòng ghẹo gây sự và sẵn sàng đập lộn. Nhưng bây giờ như có ý né tránh chúng. "Tại răng rứa hè?". Bọn đàn em Lép-sẹo bắt đầu xì xầm bàn tán, hỏi nhau. Chúng thường nhìn trộm "đại ca" dò hỏi, xét đoán, nhưng không sao hiểu nổi. Còn Lép-sẹo lại như cố tình làm ngơ trước tiếng xì xào nghi hoặc của bọn đàn em. Có đứa tức mình, dám hỏi thẳng Lép-sẹo: "Răng đại ca lại đâm ra như rứa?" Lép-sẹo không trả lời. Nó móc trong túi áo pac-ti-dăng, lấy ra cái ve không thuốc tờ réptômixin, để miệng ve kề môi, và thổi lên một tiếng còi chói tai. Nói chung những kẻ sống cuộc sống mạo hiểm, phi pháp, bấp bênh, rất sợ phải đơn độc. Được cố kết lại thành băng, thành nhóm, dưới quyền điều hành của một thủ lĩnh mà họ thần phục, đó là tất cả chỗ dựa tinh thần của họ. Lép-sẹo là linh hồn, là sức mạnh chủ yếu, đã tập hợp gắn bó cái đám trẻ con cù bơ cù bất sống bằng nghề trộm cắp, móc túi, bị vô tù này lại thằng băng. Sự thay đổi bất ngờ trong tính cách đã làm nên sức mạnh của Lép-sẹo, làm cho băng có nguy cơ tan rã. Bởi vậy, bọn đàn em hắn rất hoang mang, lo sợ. Chúng tìm đủ mọi cách để lấy lòng chiều chuộng "đại ca", hy vọng "đại ca" tính nết trở lại như xưa.. Cái thằng có cục thịt thừa ở đuôi mắt trái là đứa ranh mãnh, táo tợn, liều lĩnh nhất trong băng. Nó có biệt hiệu là Chồn-hôi. Chồn-hôi là tay bắt trộm gà khét tiếng cả vùng Đông Ba, Gia Hội. Những hôm trời mưa, Chồn-hôi đội nón, mang cái tơi lá rộng, dài chấm gót, bên mình đeo cái bị, đi roỏn các ngả đường. Gà trống gà mái, gà mẹ gà con, gặp phải chồn, cáo còn hòng thoát chứ gặp phải Chồn-hôi là coi như đã vô nằm trong bị. Dụng cụ bắt gà của Chồn-hôi là một hòn chì bằng ngón chân cái, vốn là hòn dây dọi, buộc vào đầu một sợi dây gai xe dài chừng ba mét. Đầu dây kia buộc vào cổ tay nó. Sợi dây được quấn quanh hòn chì, và nó nằm gọn trong lòng bàn tay. Gặp gà, nó chỉ hơi cúi người xuống nhắm chân gà, vung tay tung hòn chì ra. Sợi dây chạm chân gà, sức nặng của hòn chì xoáy tròn thít chặt chân gà lại. Những con gà to, bới ăn ở gần nhà, Chồn-hôi nhắm vào giữa cổ, tung hòn chì thít cổ không cho kêu. Mười con nó bắt không trật một. Tài nghệ bắt gà của Chồn-hôi rất giống tài nghệ tung giây thòng lọng bắt bò, ngựa của những tay đạo tặc Nam Mỹ. Một bữa, Chồn-hôi cười nịnh hỏi Lép-sẹo: - Đại ca có ưng thời3 thịt gà béo không? - Mi làm như đang ở ngoài Đông Ba, Gia Hội không bằng! - Đông Ba, Gia Hội thì nói làm chi! Ở ngay giữa lao Thừa Phủ ni mà thời thịt gà mạ mỡ lút mề mới khoái tỉ chớ đại ca! - Cố nội mi! Đừng chọc thèm tao nữa! - Thì đại ca cứ nói "Mệ ưng thời" cho thằng em Chồn-hôi coi mồ! - Chồn-hôi vuốt cục thịt thừa ở đuôi mắt cười khẹc khẹc vì thấy mặt đại ca Lép-sẹo đã tươi lên. - Ừ, thì mệ ưng đó! Nhưng khi mô thì mệ được thời rứa? - Lép-sẹo giả giọng các mệ trả lời, và như vậy chứng tỏ trong bụng "đại ca" đã vui lên. - Ngay tắp lự đại ca ơi! Đại ca có muốn ngó qua cái mặt con gà mạ trước khi thằng em hạ sát dâng lên đại ca thời không? - Mệ ưng cái bụng đó! Chồn-hôi dắt Lép-sẹo ra vạt cỏ rậm gần sát lớp tường trong, phía sau dãy ca-sô âm phủ. Nó ngó ngược ngó xuôi xem có tụi lính ngục đi roỏn trên nóc tường không. Nó kéo tay Lép-sẹo ngồi thụp xuống, rồi nhẹ nhàng nâng một tảng cỏ úa kéo lên. Một cái hố khá sâu hiện ra. Dưới đáy nố một con gà mái hoa mơ nặng ước đến hai kilô, bị trói chặt cả chân, cả cánh, cả mỏ. Con gà run rẩy giương cặp mắt tròn đen nhìn hai đứa. Chồn-hôi đậy nhanh miệng hố lại với tảng cỏ úa héo, ngó Lép-sẹo, cười khẹc khẹc đắc chí. Nó cũng bắt chước giọng các mệ hỏi: - Mệ đã ưng cái bụng chưa? - Chớ mi bớp được của ai rứa? - Lép-sẹo nuốt nước miếng hỏi. Nó nghĩ bụng chắc Chồn-hôi lấy cắp được của một anh tù nào đó được người nhà tiếp tế. - Khẹc khẹc khẹc!.. Sáng ni thằng em ra đứng xớ rớ gần chỗ cửa sắt, thì ngó thấy mụ gà mạ hoa mơ nớ từ phía sân ngoài đi qua cửa sắt đi vô. Mụ định vô mổ mất hột cơm đổ hố nước. Mụ vô phước quá lại gặp phải đúng đại bợm Chồn-hôi! Rứa là thằng em rút ngay đồ nghề ra. - Chồn-hôi lôi hòn chì có quấn dây gai xe trong cạp quần chìa ra trước mặt Lép-sẹo. - Đồ nghè bất ly thân mà đại ca! Khẹc khẹc khẹc!.. Thằng em đứng cách mụ mái mơ ba bước, vung nhẹ tay nghề, rứa là hai chân mụ ta đã bị trói chặt khừ! - Cố tổ mi! Con gà nớ là của con vợ thằng Một Điếu đó. Hồi mi chưa vô đây, có một tay tù ham ăn, dám chộp đại một con gà trống choai bằng nắm cổ tay lọt vô lao, đã bị Một Điếu bắn nát xương bánh chè, rồi hắn cho lính vứt lên xe bò chở đến nhà thương. Khôn hồn thì mi thả ra ngay! Một Điếu có mụ vợ me Tây to béo như con trâu chương. Mụ ta nuôi một đàn gà có đến vài chục con. Sau cái vụ anh tù bắt trộm gà bị mụ xui Một Điếu bắn nát xương bánh chè, cả nhà lao đều khiếp đảm, xớn rỡn. Sau đó mỗi lần ngó thấy gà của mụ lọt vào lao là họ vội vàng xua ra. "Không phải gà mô, quỷ sứ hiện hình đó!" Họ bảo nhau như vậy. Bởi vậy, Lép-sẹo thấy Chồn-hôi bắt trộm con gà mái nặng trên hai ký, hỏi không sợ làm sao được! Nhưng Chồn-hôi vẫn cười khẹc khẹc, nói: - Chắc thằng cha đó là loại trộm gà hạng bét, bắt gà mà để cho gà kêu mới phải ăn đạn. Chứ loại bắt gà tài danh như thằng em Chồn-hôi ni thì sợ chi, đại ca! - Nhưng đến lúc cái mụ me Tây nớ thấy thiếu gà mới chết cố tổ mi! - Làm răng mụ ta biết ai bắt trộm? Vô lẽ mụ xui Một Điếu bắt nát xương bánh chè tất cả tù trong nhà ni à? Miễn là anh em ta giữ mồm thật kín là được đại ca à. Trước lý lẽ cứng cỏi của Chồn-hôi, Lép-sẹo xem chừng cũng xuôi xuôi. Hắn ngẫm nghĩ một chút rồi nói: - Thôi được. Tao không ăn mô, nhưng tao cần con gà nớ có việc. Mi cứ mầm thịt cho tao. - Đại ca ưng nướng hay ưng luộc? - Tùy mi. Nhưng làm răng khi chín rồi, gà vẫn còn nguyên cả con. Mi có ăn thì ăn bộ lòng thôi nghe. - Xin tuân lệnh đại ca.
Chương 17. Phần 7 Bấm để xem 1 Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng bào Thừa Thiên truyền tụng từ làng này qua làng khác, chuyện một người đàn bà dở tỉnh dở điên đi lang thang khắp tỉnh để tìm con. Chị ta tên chi, quê quán ở đâu, ít ai biết thật rõ. Chỉ biết chị ta làm nghề bán bún rong, khi bún thịt, khi bún cá, khi bún cua.. tùy theo sản vật hiện có ở vùng chị đến bán. Ngoài gánh bún bên vai chị còn đeo toòng teng cái bị đệm đựng áo quần và vài đồ vật linh tinh khác - chắc là toàn bộ gia sản của chị. Chị bán ở làng này ít lâu, lại lân la qua làng khác. Chị cứ dọc theo cái dải đồng bằng dài mà hẹp, với những thôn xóm giặc thường xuyên càn quét, bắn giết, đốt phá.. ; với những trảng cát miên man ngút tẩm mắt; những đầm, những phá, những hói, những sông.. Mới đầu du kích các làng ngờ chị là Việt gian, gián điệp. Họ cho là "con mụ ni giả điên giả dại, lấy cớ đi tìm con nhưng cốt để dò la kháng chiến, chỉ điểm cho Tây". Nhiều lẩn họ bắt chị, định lôi chị ra rú, ra trảng cát chặt đầu. Mỗi lần du kích bắt, tưởng chị phải sợ lắm, nhưng chị lại mừng rỡ như người bắt được của. Chị xoắn xít, đon đả mời chào: "Mời các anh ăn bún! Bún tui là ngon có tiếng đó các anh nờ.. Cả chợ Bao Vinh ai còn lạ chi bún bò giò heo mụ Niệm?". Chị cười đó rồi khóc đó. Chị kéo vạt áo nối đà chấm nước mắt, sụt sùi kể lể: "Các anh là Việt Minh, chắc các anh biết chừ thằng con tui ở mô.. Các anh chỉ giùm cho tui với. Cháu tên là Mừng. Cháu mới có mười ba tuổi, nước da đen ngăm ngăm giống in như tui ri. Người cháu rom rom là lanh lẹ lắm. Tui chỉ có một mạ một con.. Ngày Huế mình mới nổ súng, bữa đó tui đi chợ về thì không thấy cháu nó ở nhà. Tui nghĩ là cháu chạy chơi mô đó. Tui chờ đến tối, đến nửa đêm, đến sáng hôm sau, cũng không thấy cháu về.. tui e cháu ra sông tắm nghịch, ma rà (1) nhận nước mất rồi. Cả tháng trời, tui bỏ buôn bỏ bán, đi dọc hai bợt sông tìm xác cháu, cầm cơm cầm trứng hú hồn hú vía cháu, mà chẳng thấy tăm dạng cháu mô.. Tui để dành để dụm may cho cháu được bộ áo quần, cái quần soọc với cái áo thơ-mit. Chị lục cái bị lác, lôi ra một bộ áo quần con nít gấp vuông vắn buộc lại bằng sợi lạt. Chỉ giở từng cái một đưa ra trước mặt các anh du kích. Cháu hắn cứ nằn nỉ đòi mặc, tui không cho. Tui nói để đến Tết mặc, mình con nhà nghèo ăn, mặc phải tùng tiệm.. Rứa mà chừ áo quần còn đây, mà con thì đi mô mất? Mạ có ngờ mô chuyện ni con ơi? Con mà không còn thì áo quần con mạ biết để mần chi.. Rồi một bữa, nửa đêm nửa hôm, có một chú Vệ Quốc Đoàn nhỏ nhỏ cũng trạc lứa tuổi con tui, đi vô nhà nói:" Bạn Mừng con thím đang ở Vệ Quốc Đoàn, đánh Tây trên mặt trận Huế. Chừ bạn ấy đang mắc công việc mặt trận, bạn ấy nhờ cháu về nhắn với thím, khi mô việc mặt trận thư thư, sẽ xin phép cấp chỉ huy về thăm mạ.. ". Tui nghe mà bán tín bán nghi.. Hay họ lầm Mừng con cái nhà ai? Chớ thằng Mừng con tui đôi khi còn ở lỗ chạy rong khắp xóm, còn nhai chéo áo, thì đã biết cái chi mà dám vô Vệ Quốc Đoàn! Rứa rồi mấy bữa sau, lại có một anh Vệ Quốc Đoàn tui quen, trước tê anh làm cu-li khiêng vác ở bến Bao Vinh, thường ăn chịu bún bò của tui, về tìm gặp tui, đưa cho tui bó là tầm gửi ni - chị lôi ra trong bị bó lá tầm gửi bọc bằng vải bạt áo súng, buộc bằng dây điện - nói là thằng Mừng con chị gửi về cho chị để chị sắc uống cho lành bệnh suyễn kinh niên.. Hắn đang mắc việc đánh giặc nên mới phải nhờ tui gửi giúp cho chị. Lá tầm gửi ni hắn phải trèo lên cây chót vót mặt trận, rồi phải phơi ba sương năm nắng, uống vô chắc chị lành bệnh cái rụp! Ui chao, lúc đó tui mới tin là cháu nó vô Vệ Quốc Đoàn thiệt, các anh ơi! Đúng là tui mắc bệnh suyễn kinh niên, cực khổ không nói được các anh nờ.. Các anh là Việt Minh, chắc các anh biết thằng con tui chừ đang ở mô, chỉ giùm cho tôi với.. Chị kể, nước mắt giọt ngắn giọt dài. Người chị run rẩy như tàu lá chuối trước gió. Giọng chị kể, những hàng nước mắt, đến bộ áo quần con nít, bó lá tầm gửi.. chân thật, thống thiết đến nỗi làmcác anh du kích đang định lôi chị ra trảng cát chặt đầu, quay lại tìm lời an ủi chị:" Chắc thằng con chị chừ đang ở trên Xê-ca "- đồng bào Thừa Thiên ngày đó gọi chiến khu là Xê-ca. Cặp mắt đẫm lệ của chị vụt sáng lên mừng rỡ: - Chớ Xê-ca mô rứa các anh? Ở Phú Lộc, họ nói với chị: - Xê-ca Truồi, Bạch Mã. Ở Phú Vang, Hương Thuỷ, họ nói với chị: - Xê ca Độn Bồ, Xê-ca Khe Tre, Nam Đông, Xê-ca Dương Hòa, Lương Miêu. Ở Phong Điền, Quảng Điền, họ nói với chị: - Xê-ca Trò, Trái, Xê-ca Cầu Nhi, Xê-ca Hòa Mỹ.. - Nhưng làm răng tôi biết đường sá mà lên thấu đó các anh ơi! Chị mếu máo kêu lên nghe thương đứt ruột:" Các anh có việc chi lên trên mấy Xê-ca đó cho tui lên theo với. Các anh cần sai biểu chi tôi cũng xin làm hết, miễn răng lên được trên đó may ra tìm thấy thằng con một của tui! - Được rồi, khi mô đi tiếp tế Xê-ca tụi tui sẽ kêu chị đi - Các anh du kích làng nào, huyện nào cũng hứa với chị như vậy. Rồi đồng bào các làng chị đi qua, không còn ai nhớ tên chị, chỉ nhớ câu chuyện chị kể với nước mắt giọt ngắn giọt dài. Rồi người ta gọi gánh bún của chị là Gánh-bún-chị-tìm-con. Chú thích: (1) Một loại ma, lẩn quất trong các vùng sông nước (theo mê tín dị đoan của nhân dân). 2 Người ta thường ví tỉnh Thừa Thiên như cái đòn gánh, cái đòn gánh, dài gần trăm cây số. Một bên là biển, một bên là núi, giữa là dải đồng bằng hẹp. Nhiều quãng hẹp đến nỗi tưởng chừng người đứng trên núi gọi thật to, người đứng dưới bờ biển cũng nghe tiếng. Hàng mấy chục con sông lớn nhỏ từ trên núi đổ xuống như những lưỡi dao xanh, xắt khúc dải đồng bằng hẹp ra những khúc ngắn dài, xiên xẹo, như người nội trợ vụng xắt khúc con cá hố. Sau ngày Huế vỡ mặt tlận, lực lượng kháng chiến của mỗi huyện đổ ngang lên vùng rừng núi thuộc huyện mình, thành lập chiến khu. Cả tỉnh Thừa Thiên cũ éo sáu huyện mà có đến bảy tám chiến khu. Do đó Chị-tìm-con đến làng nào cũng than thở với khách ăn bún: "Chiến khu bất loạn (1), không biết đi tìm cho hết phải mất mấy tháng, mấy năm". Trong bảy tám chiến khu đó, chiến khu Hòa Mỹ là chiến khu lớn nhất và cũng là chiến khu đầu tiên. Xê-ca Hòa Mỹ là đầu não kháng chiến của tỉnh. Các cơ quan tỉnh đều đóng ở đây Bọn giặc biết rõ như vậy. Chúng dốc sức, tìm đủ trăm phương nghìn kế để tiêu diệt chiến khu Hòa Mỹ. Việc trước tiên là chúng đổ quân lên làng Đất Đỏ, một làng chỉ cách Hòa Mỹ bốn cây số, xây vị trí và chất ở đó một trung đội âu Phi. Trung đội giặc này lừng danh thiện chiến, rất giỏi đánh vùng rừng núi, mới đưa từ Pháp sang, được gọi là Đội tuần tiễu núi An-pơ (Chasseur Alpin). Phía nam Hòa Mỹ, chúng đóng vị trí Sơn Quả. Vị trí Đất Đỏ khác nào mũi lê dí vào trán chiến khu và vị trí Sơn Quả như lưỡi dao găm kề mạn sườn chiến khu. Mặt khác, chúng tung gián điệp, biệt kích lên chiến khu do thám, chỉ điểm, chuẩn bị cho kế hoạch tấn công tiêu diệt chiến khu.. Xê ca Hòa Mỹ được chia thành bảy Xê-ca nhỏ, theo từng lớp chiều sâu của núi: Từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy. Bộ đội Thừa Thiên ngày đó ưa nói tiếng Tây cho vui, họ không gọi Xê-ca Một, Xê-ca Hai.. gọi là Xê-ca "Oon", Xê-ca "Đơ" Xê ca "Tờ-roa", Xê-ca "Cát", Xê-ca "Xanh", Xê-ca "Xít", Xê ca "Xết". Riêng làng Hòa Mỹ được gọi là "Tiền chiến khu". Chỉ sau mấy tháng, chiến khu Hòa Mỹ đã có những thay đổi thật lớn lao. Xê-ca bây giờ đã có gần đầy đủ các bộ phận của "guồng máy kháng chiến tỉnh". Nhà cừa, lán trại của bộ đội cơ quan, mọc lên ngày một nhiều, từ Tiền chiến khu đến Xê-ca "Xết", có khu nhà Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh, Trung đoàn bộ, Tỉnh đội, bệnh viện, xưởng quân giới xưởng bào chế dược liệu, kho quân khí, quân lương, quân nhu.. Vùng Tiền chiến khu, hàng quán của đồng bào mọc lên ngày một đông. Tiền chiến khu cũng là nơi đóng quân của một số đơn vị như trinh sát, biệt động, đại đội liên pháo.. Giữa trung tâm Hòa Mỹ có cả nhà văn hóa đại chúng - nhà bằng tranh tre nứa, nhưng cao rộng thênh thang, dựng theo kiểu hội trường. Hàng tuần, ngày chủ nhật, nhà văn hóa đại chúng thường tổ chức sinh hoạt văn hóa, biểu diễn văn nghệ; các tiết mục văn nghệ đều do các đơn vị, các cơ quan tự biên tự diễn. Chỉ riêng sự thiếu thốn, gian khổ thì Xê-ca Hòa Mỹ ngày đó còn gay gắt, quyết liệt hơn cả những ngày đầu tiên. Có thể nói cuộc sống gian khổ thiếu thốn ngày đó đã trở thành những huyền thoại: Huyền thoại đói, huyền thoại rét, huyền thoại rách rưới, huyền thoại ghẻ, huyền thoại rận, huyền thoại bệnh tật và cao đẹp hơn hết là những huyền thoại "bền gan chịu đựng" của những người kháng chiến cứu nước. Chú thích: (1) Quá nhiều - tiếng địa phương Huế. 3 Đội thiếu niên trinh sát là một trong những đơn vị đóng quân ở Tiền chiến khu. Lán của đội nằm chếch về phía nam Xê-ca, trên bờ sông Ô Lâu. Trước mặt lán là một vuông sân đất. Qua sân vuông là lau lách mọc rậm như rừng đổ dốc xuống sát tận mép sông. Đứng ở sân không nhìn thấy sông vì lau lách che khuất, nhưng nghe rõ mồn một tiếng nước rì rào và tiếng những coọng nước quay kẽo kẹt suốt ngay đêm.. Ngôi lán dài khoảng chục mét, cột kèo bằng thân cây nguyên vỏ, phên liếp tre lồ ô, mái tranh phủ đầy lá tre rụng. Trong lán hai bên hai dãy sạp nứa dài, lối đi chính giữa, nền đất cháy đen vì đốt lửa suốt vụ rét, và những ngày mưa gió. Cả đội nằm trần trên sạp, nên mặt sạp loang lổ những mảnh xám xịt vì mồ hôi và ghét bẩn. Phía đầu nằm, sát phên liếp, xếp một hàng những cái bao tải đựng gạo, gấp làm tư, làm tám. Cái bao tải nào cũng đen xì, mép rách tuơ, lông dựng lờm xờm như lông chó ghẻ. Trên mặt bao, những chú rận gày xác, đen như chấy, lủi nhanh như bọ chét, bò dạo thung thăng. Tư-dát một hôm đứng chống nạnh ngắm chúng, có lời bình luận: "Rận của lính trinh sát khác xa rận của bên dân sự! Rận dân sự trắng trẻo, béo núc ních, bụng no kềnh, bò chậm chạp lờ đờ như cha cố tập quân sự; ghè móng tay giết kêu bốp! Rận tụi mình giết kêu tét, nghe tức như pháo xịt!". Những cái bao tải này được ban Quân nhu trung đoàn cấp phát theo tiêu chuẩn quân trang đông xuân. Mà cũng chỉ những đơn vị đặc biệt như trinh sát, biệt động, các tổ canh gác các trạm gác tiền tiêu.. mới được ưu tiên cấp phát. Các đội viên thiếu niên trinh sát rất lấy làm hãnh diện về việc được cấp phát bao tải. "Như rứa là đội mình được trung đoàn xếp vô hàng những đơn vị đặc biệt". Bao tải được bọn trẻ sử dụng tùy theo sở thích, và sáng kiến của mỗi đứa. Có đứa tháo ra thành một tấm dài để đắp như chăn; có đứa cứ để nguyên xi, lúc đi ngủ chui vào bao, co đầu rụt chân lại cho vừa người - vì tuy bé nhưng đứa nào người cũng dài hơn bao tải. "Đem tháo ra thiệt dại! Cứ để nguyên làm thành trên chăn dưới đệm, ngủ vừa ấm vừa êm". Những đứa sử dụng nguyên bao khích bác những đứa tháo thành tấm dài. "Nhưng người ta được nằm thẳng chân thẳng cẳng sướng như ông hoàng! Ấm lưng hơn một chút mà phải nằm co ro cút rút, sung sướng cái nỗi chi?". Cuộc tranh cãi tranh khôn ấy ngày nào cũng diễn ra giữa bọn trẻ và bất phân thắng bại. Tư-dát là đứa thuộc nhiều "chuyện kiếm hiệp ba xu" (1) cười hề hề nói: - Các cậu dại tuốt, thằng tháo cũng dại, thằng để nguyên cũng dại! - Nó giũ tung cái bao tải của mình ra làm bụi mù - Cái mền ni của tớ là mền vóc đại hồng kiêm áo hồ cừu. Lúc làm mền, lúc làm áo, biến hóa khôn lường? - Nó biểu diễn luôn cách biến hóa khôn lường: Lấy sợ dây mây xâu ngang qua cái bao tải gấp đôi, khoác lên người và buộc dây trước cổ. Nó nói, mặt vênh vênh tự đắc: - Đã thấy tuyệt chưa? Giêng hai rét mướt mà khoác cái áo cừu thiên kim (áo cừu nghìn vàng) ni về đồng bằng bám vị trí giặc thì còn chi ấm hơn! Cả đội đều chịu sáng kiến của Tư-dát. Từ đó, những đứa được phân công về đồng bằng bám địch đều xúng xính "áo cừu thiên kim bao bố". Nhưng chỉ khoảng tháng sau, chúng phát hiện ra nhược điểm đáng sợ của loại "mền vóc đại hồng", và "áo cừu thiên kim bao bố" này là rận - Tư-dát gọi đó là "Xê-ca của rận". Vì rận ở quần áo còn dễ lùng bắt nhưng rận chui rúc trong bao bố thì vô phương tiêu diệt - cũng là ý kiến của Tư-dát. Bọn trẻ giận dữ trải bao tải lên mặt tảng đá, cầm một hòn đá mà ghè. Chúng không chết! Dìm bao tải xuống sông Ô Lâu, lấy đá dằn lên, tiêu diệt bằng kế "thuỷ công" cũng không ăn thua! Người ta thường hình dung nỗi gian khổ của những người kháng chiến ở chiến khu là đói và rét. Nhưng rận, ghẻ, sốt rét, mới thật là kinh khiếp. Lán của đội Thiếu niên trinh sát thường ngày rất vắng vẻ. Những đứa tương đối khỏe đều được cử về đồng bằng bám vị trí giặc, bám đường quốc lộ, theo dõi quy luật hành quân, càn quét của giặc.. làm tai mắt cho chiến khu. Ở lại lán chỉ còn những đứa ghẻ lở kềnh càng hoặc lên cơn sốt rét nặng, vào lán trong những ngày này, những ai rắn lòng nhất cũng không khỏi xúc động, mủi lòng. Lán như bỏ hoang đã lâu ngày. Sạp nứa chỉ cần vắng hơi người dăm hôm đã nổi mốc xanh mốc trắng. Bụi mọt nứa, tre, tranh từ trên mái rụng xuống lả tả rắc một lớp bụi vàng mốc lên mặt sạp. Ở góc lán, một vài đứa đang lên cơn sốt rét rên hừ hừ, rung rung cả sạp. Chúng đắp lên người cả một đống bao tải rách tả tơi, rận bò lúc nhúc. Bên cạnh đầu nằm, để một bát cháo gạo lễnh loãng chưa kịp ăn. Cháo nấu bằng thứ gạo chôn giấu dưới đất, từ đồng bằng tiếp tế lên, rời ra từng hạt, và có mùi thum thủm. Những đứa bị ghẻ trông mới càng tội. Ghẻ ăn kín người, từ gối đến cổ, da bì lên từng đám tím đen như cơm cháy. Đến con chim nhỏ xíu cũng bị ghẻ đào rãnh, đào hang, đỏ hỏn, sưng phồng. Lúc lên cơn ngứa, bọn trẻ cởi trần truồng gãi lấy gãi để. Gãi đã cơn ngứa lại đến cơn xót, nước mắt ứa ra, xuýt xoa, mếu máo. Hai bàn tay, ngón nào móng tay cũng bờ lên một lớp ghét máu mủ ghẻ. Bộ quần áo rách rưới máu mủ loang lổ như bản đồ, đứng xa chục bước cũng ngửi thấy mùi tanh. Hòa-đen không biết được anh nào cho cái áo may ô bằng vải màn tuyn. Nó mặc ít lâu các lỗ thủng bị trám kín hóa thành vải bạt. Ghẻ ruồi đã khổ, ghẻ cái lại càng khổ hơn. Lòng bàn tay dày kín những mụn ghẻ to như hạt bắp, cương mủ xanh lè, bàn tay không sao nắm lại được cứ khum khum như định hứng một vật gì. Mỗi buổi sáng, chúng phải lấy gai nhọn chích các mụn ghẻ. Chỉ cần chích nhẹ là mủ phều ra, đặc lền, trắng đục. Chích hết mủ, bàn tay mới nắm lại được. Con ghẻ đào hào đào rãnh theo các đường chỉ tay. Chúng lấy mũi gai khều bắt con ghẻ. Con ghẻ nhỏ như hạt bụi màu trắng mủ, bò khá nhanh. Chúng để con ghẻ lên móng ngón tay cái, xem nó bò, rồi đưa móng tay kia ghè nát, miệng méo xệch vì căm tức. Mấy đứa dứt cơn sốt, chui ra khỏi đống bao tải, lò dò ra sân ngồi sưởi nắng. Chúng cởi áo, trải lên đầu gối ngồi bắt rận. Bên cạnh để hòn đá, bắt được rận, để lên hòn đá dùng móng tay ghè nát. Giết nhiều quá, ghê tay, chúng ném rận xuống đất dùng gót chân mà dí. Thế nhưng mỗi tháng vài ba lần, cả chiến khu Hòa Mỹ không ở đâu lại nhiều tiếng cười, tiếng reo, lại ồn ào náo động như ở ngôi lán này. Đó là lúc cả đội họp mặt đông đủ. Các em bám địch ở đồng bằng được đội trưởng triệu tập về chiến khu, báo cáo tình hình, nhận nhiệm vụ mới, hoặc học tập nghiệp vụ, chính trị.. Mảnh sân trước lán đã biến thành sân trường tiểu học trong giờ ra chơi. Chú thích: (1) Loại truyện võ hiệp rất phổ biến trước cách mạng, xuất bản thành từng tập 18 trang với giá ba xu ngày đó. 4 Hai hôm sau ngày anh Đồng-râu bị bọn giặc bắn chết ở Vĩ Dạ và Lượm bị bắt ở Bao Vinh. Tư-dát đã lần mò về được đến Sịa. Chính thằng Tặng dẫn đường cho Tư-dát về Sịa. Hôm đó, Tư-dát vừa đến cây cầu ván đã nhìn thấy Tặng ngồi câu ở đó rồi. Tặng nhấc cần câu, đứng lên cười cười đón bạn: - Đi tay không à? Răng mà mặt mũi coi bộ hớt hải như người bị ma đuổi rứa? Tư-dát bước đến sát Tặng, thì thào: - Cậu Lượm bị bắt rồi. Anh Đồng-râu bị bắn chết.. Tặng tái mặt, quẳng cần câu xuống ván cầu. - Bị bắt à? - Tặng hỏi như bật thành tiếng rên. - Chớ bị khi mô? - Ngay cái bữa chiều hôm đó. Và đến Bao Vinh thì bị.. Với cả sáu đòn bánh tét! - Thôi chết cha rồi? - Cả người Tặng bỗng run lên. - Tụi hắn bắn chết anh Đồng-râu, kéo xác ra phơi ở chân Đập Đá, rồi kéo thẳng về Bao Vinh, rình chộp hai đứa tớ. Cả thằng Kim-điệu chắc cũng bị cùng với anh Đồng-râu. Tặng bỗng nổi giận phừng phừng, nạt Tư-dát: - Mi đi xích hầu cho hắn mà lại để cho hắn bị chộp? Rứa mắt mũi mi để đi mô? Chắc còn mãi ngớp lên ngọn cây tìm chim chớ chi? Trông điệu bộ Tặng, Tư-dát tưởng như nó sắp nhào vô đập mình, Tư-dát sợ hãi bước lùi lại, ấp úng chối: - Tau có tìm chim mô.. Tau cũng có ngó đường.. Nhưng tụi hắn núp kín quá nên không ngó thấy.. - Mi đừng có chối? - Tặng bước xấn tới. - Tau còn lạ chi cái mặt mi. Ngó điệu bộ mi vừa la vừa giật con cá rô bữa trước, tau biết ngay mi là đứa ham chơi quên việc? Tư-dát vừa xấu hổ vừa hối hận. Nó muốn chuồn nhanh qua khỏi cầu để khuất cặp mắt xoi mói, giận dữ của Tặng. - Thôi, chừ để cho tau đi không thì trễ mất.. Tặng liền đứng chắn ngay trước mặt Tư-dát, giọng vẫn không thôi nạt nộ: - Chớ mi định đi mô? - Về dưới Sịa báo cho mấy đứa ở tổ liên lạc.. - Chưa đi được? - Tặng nói như ra lệnh. - Đi về nhà tau đã, tau nấu cơm cho ăn. Ngó cái mặt, tau biết thừa là mi đang đói xếu mếu. Ăn xong tau sẽ đưa đường cho mi về thấu Sịa. Mi định đi một mình, không có ai dò đường, để cho tụi hắn theo mi về thấu đó, thộp luôn cả mấy thằng tê à? Tặng lượm cái cẩn câu vác lên vai, mặt vẫn hằm hằm: - Đi theo tau? Tặng đi trước, Tư-dát cun cút đi theo như bị dắt mũi. Nhà Tặng cách cây cầu chừng năm trăm thước. Cả nhà nó đi vắng hết. Nó vào buồng lấy nồi, gạo bưng xuống bếp. Nó chỉ cái chõng tre kê cạnh cái bàn gỗ ọp ẹp, trên bàn có để lọ mực, cây bút sắt và cuốn vở học trò nhem nhuốc, bốn mép quăn queo, nói với Tư-dát: - Mi ngồi đó. Trong lúc đợi cơm chín, mi viết cho tau cái thơ Đời cách mạng. Tặng nhen lửa, đặt nồi lên bếp. Nó nói qua khe liếp bếp: - Mi mà viết ngoáy, tau không đọc được, tau bẻ giò đó nghe! Tư-dát nắn nót chép xong bài thơ "Đời cách mạng..". Tặng cũng vừa nấu cơm chín. Nó bưng đặt lên chõng một nồi cơm dầy kênh vung, cái mâm gỗ với chén đũa, hai quả trứng vịt luộc dầm nước mắm ớt, một đĩa cá diếc kho xơ mít cũng đỏ lòm những ớt. - Mi ăn đi, - Tặng xới cơm, giục bạn - Tau ăn rồi. Mi phải ăn hết nồi cơm, hai cái trứng nớ. Không ăn hết tau bẻ giò đừng có kêu! Trong lúc Tư-dát ăn cơm, Tặng cầm cuốn vở chép thơ, ra ngồi ở bậu cửa, vừa đánh vần vừa đọc oang oang: Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu Dấn thân vô làphải chịu tù đày.. Là gươm kề tận cổ, súng kề tai.. Tặng bỗng lặng phắc như nghĩ ngợi điều gì, quay lại nhìn Tư-dát đang và cơm, chỉ vào những câu thơ vừa đọc, nói giọng rưng rưng: - Cái thơ ni in như nói chuyện thằng Lượm với anh Đồng- râu mi hè? Giọng Tặng bỗng như nghẹt. Nó ngoảnh vội ra sân, mắt chớp chớp đỏ loe. Tư-dát vừa và cơm vừa ngẫm nghĩ: Hắn vừa đánh vần vừa đọc mà hiểu Hết thơ.. Lạ thật! Tư-dát ăn cơm xong. Tặng rút cọng tranh trước mái hiên, bẻ một đoạn dài cỡ gang tay, đưa cho bạn làm tăm xỉa răng. Nó nhảy ra đứng im giữa sân, coi bóng nắng, nói: - Gần hai giờ rồi. Ta đi không trễ mất. Nó rút cây dao rựa, chạy ra vườn, chặt ba cây mía, bó thành một bó. Vác bó mía lên vai, Tặng nói: - Tau đi trước, mi đi sau. Thấy tau đổi vai vác mía, là mi phải tìm đường lủi cho mau: Trước mặt có địch! Mi không chú ý, lủi không kịp để tụi hắn bắt được thì mặc kệ mi, tau không biết. Tụi hắn hỏi, tau nói: "Mạ tui sai tui về Sịa thăm Mệ ngoại". Tặng vác bó mía, mải miết đi, chăm chú dò đường, đưa Tư-dát về thấu Sịa. Đến chỗ ngã ba rẽ vào xóm, nó đứng lại, đưa vác mía cho Tư-dát, nhếch miệng cười không thành tiếng: - Rứa là coi như tau hoàn thành nhiệm vụ nghe? Mấy cây mía cho mấy đứa ở tổ mi. Chừ tau phải về không tối mất, mạ tau lại tưởng tau bỏ nhà đi chởi, chửi cho một trận tứ tung lung tàng. Tư-dát đưa tay ôm choàng qua vai Tặng, khóc thật sự. Tư-dát vốn tính suốt ngày liến láu, tìm đủ mọi cách chọc cho mọi người cười, bây giờ cái mặt khóc nhìn rất tức cười. Nó sụt sịt nói: - Không biết đến khi mô tau mới được gặp lại mi? - Mi muốn gặp tau thì khó, - Tặng nói. - Tau muốn gặp mi, dễ ợt.. Tau lấy cái Đời cách mạng ra tau đọc.. Ngay đêm hôm đó, Tư-dát cùng với tổ liên lạc rút về chiến khu. Tư-dát báo với đội trưởng toàn bộ sự việc đã xảy ra. Báo cáo đến đoạn nó đi xích hầu cho Lượm từ Sịa về Bao Vinh, giọng bỗng ngắc ngứ. Nó phải vơ cái ca nhôm của đội trưởng để trên bàn, vục vào nồi nước uống nấu bằng lá ngái rừng, uống liền hai ca, làm như đang khát nước. Nước lá ngái rừng đắng nghét. Nó muốn giấu quách cái chuyện vì mải ngớp mặt lên ngọn cây, bắn con cu xanh, quên chuyện quan sát đường, để đến nỗi hai thằng An ninh đứng ngay trước mặt mà không biết. Nhưng nó vụt nhớ vẻ mặt phừng phừng giận dữ của Tặng như sắp nhào vô đập mình, nó đã nuốt được ý định gian dồl cùng với những ngụm nước đắng nghét xuống cổ. Giọng nó liền trở nên dứt khoát, sáng sủa, báo cáo đầy đủ những sơ xuất chết người của mình. "Lượm bị bắt là lỗi tại em". Tư-dát cúi gầm mặt xuống bàn, nói - Chừ anh có thi hành kỷ luật chi em cũng xin chịu ". Bồng-da-rắn vốn rất nghiêm khắc, rất ghét những trò con nít đem chen vào trong lúc làm nhiệm vụ đánh giặc. Nó thường bực tức nói:" Muốn nghịch, muốn chơi thì ở nhà mà nghịch mà chơi! Đã vô Vệ Quốc Đoàn thì dù con nít lên ba cũng phải làm việc đứng đắn, cho ra người Vệ Quốc Đoàn! ". Không hiểu sao hôm đó Bồng lại lên tiếng đầu tiên xin đội trưởng tha lỗi cho Tư-dát," Bạn ấy mới lỡ dại lần đầu, mong anh tha lỗi.. ". Sau đó, Bồng còn nói riêng với đội trưởng, giọng của người từng trải, bao dung - mặc dầu nó cũng chỉ bằng tuổi Tư-dát." Thằng nớ ba láp rứa nhưng bụng dạ tốt, mà dễ thương anh ạ. Hắn lại có tài.. ". Cùng sống với nhau lâu, các bạn trong đội càng phát hiện ra Tư-dát có lắm tài. Tài liến láu chọc cả đội cười đứt ruột, tài nhớ thơ, đọc thơ, kể chuyện, tài sáng tác các vở kịch cương trong những buổi sinh hoạt văn nghệ của đội.. Mới đây Tư-dát lại sáng tác một bài thơ khá dài, dán bích báo mà cả đội đều thuộc. Mấy câu mở đầu bài thơ thường được các bạn ngâm nga: " Xê-ca vui lắm bạn ơi Niềm vui độc lập, cuộc đời đấu tranh Ở đây cùng với các anh Đánh cho giặc Pháp tan tành thịt xương.. ". Dạo này Tư-dát lại có thêm một cái tài mới, được các bạn hoan nghênh đặc biệt: Tài cắt tóc. Cả chiến khu Hòa Mỹ ngày đó chỉ có một quán cắt tóc. Chủ quán là anh Đỡm, vốn là thợ chuyên cắt tóc cho Tây ở khách sạn Mô-ranh. Cách mạng lên, anh Đỡm bỏ nghề cắt tóc xung phong vào đội Tự vệ quyết tử. Huế nổ súng kháng chiến, anh cùng với đội Tự vệ quyết tử mang rơm ớt, chai xăng, xông đốt các khách hàng cũ của anh đóng trong khách sạn. Tình cờ anh lạc vào cái gian hàng" Coiffeur de luxe "mà trước đây anh làm việc. Đồ lề cắt tóc, cạo râu sáng giới, vẫn còn nguyên trên các bàn cắt tóc. Anh vơ đại một mớ đồ lề cởi áo bọc lại, đem về giấu kín một nơi. Mặt trận Huế vỡ. Anh theo bộ đội rút lên chiến khu, mang theo cái bị đồ lề cắt tóc. Lúc đó anh đã gần năm mươi tuổi. Anh nói với anh em bộ đội:" Tui sức yếu không xông pha trận mạc được như anh em thì làm cái việc sửa sang tóc tai, râu ria cho anh em mình đi xông pha trận mạc. Theo thiển ý của tui, đã là chiến sĩ cứu nước, sống hay chết đều phải chỉnh tề, phải đẹp ". Lên đến chiến khu hôm trước, hôm sau anh đã đôn đáo đi bứt tranh, xin tre lồ ồ, dựng một cái quán nhỏ cạnh lối đi chính xuyên qua làng Hòa Mỹ. Anh hý húi đóng cái bàn bằng tre và cái ghế tựa bằng cành cây. Anh bày lên bàn tất cả những dụng cụ cắt tóc mang theo. Trong số này có nhiều thứ bày cho oai chứ chẳng mấy khi anh dùng đến, như cái bơm nước hoa, cái bàn ủi da mặt chạy điện, cái tông đơ điện.. Trước quán, anh chưng cái biển bằng cót, viết chữ phấn:" Hiệu cắt tóc cựu chiến sĩ tự vệ quyết tử Lê Bá Đỡm - Coiffeur de luxe Xê-ca Hòa Mỹ ". Hiệu cắt tóc của anh vừa khai trương, khách hàng kéo đến chen chúc. Ba tháng sau, anh ngã bệnh, mắc chứng ghẻ lở rất nặng. Hai cẳng chân lông lá của anh mụn nhọt, ghẻ lở loét suất từ bẹn đến gót. Anh không đứng được vì hai chân tụ máu càng đau nhức, và ruồi, con bu mắt, xúm vào tấn công các mụn nhọt. Cuối cùng anh phải ngồi, hai chân thọc vào cái bao tảì để chống ruồi, bu mắt. Từ đó trong cái hiệu" Coiffeur de luxe "của anh đã xảy ra chuyện ngược đời: Khách cắt tóc phải đứng mà thợ cắt tóc lại ngồi. Và khách phải xoay tròn theo sự điều khiển của anh. Tư-dát thường khoái những chuyện vui trớ trêu, ngược đời. Nó rất mê cái kiểu cắt tóc của anh Đớm. Theo ý nó đây là hiệu cắt tóc độc đáo nhất thế giới! Hễ có dịp lên chiến khu là Tư-dát chạy ngay ra thăm viếng hiệu cắt tóc anh Đỡm. Nó nói với các bạn:" Tau ngó anh Trân đại đội trưởng biệt động đánh Tây khét tiếng mà phải đứng nghiêm xoay tròn như chong chóng để cho ông Đỡm ngồi đàng hoàng trên ghế xa lông cành cây, xẻo tóc, tau cười muốn đứt lòng bóng mà chết thôi bay ơi! ". Trước mặt hiệu cắt tóc anh Đỡm là quán mụ Tào. Quê mụ ở Phò Trạch, bị Tây càn đốt hết nhà cửa. Mụ chạy lên chiến khu dựng quán bán quà bánh. Để khoe với anh em bộ đội, mụ là người có lập trường kháng chiến và có chữ nghĩa, mụ làm đôi câu đối dán trước cửa quán: " Bán cháo bán chè không b*n n**c Buôn ngày buôn tháng chẳng buôn dân " Anh em bộ đội thích thú tán thưởng câu đối của mụ làm anh Đỡm tức anh ách:" Đàn bà đái không qua ngọn cỏ "- Anh Đỡm thường nói về mụ với giọng khinh khi:" Mụ ta thì chữ nghĩa được mấy hột mà dám qua mặt cái thằng Đỡm ni, nói tiếng Tây làu làu như cháo chảy? ". Anh muốn làm một đôi câu đối dán trước hiệu của mình để thi tài với câu đối của mụ Tào, nhưng nghĩ mãi không ra. Tư-dát do đi lại thăm viếng nhiều nên đã thân thân với anh. Nó lân la tán anh, xin một vài thứ dụng cụ mà anh không cần dùng, định đem về cắt tóc cho các bạn trong đội. Anh nói: - Nghe chú em thơ từ chữ nghĩa khá lắm. Chú em cứ làm cho anh một đôi câu đối thiệt hay - Anh hất hàm trỏ sang quán mụ Tào - Cho mụ nớ phải trắng mắt ra, thì xin chi anh cũng cho. Tư-dát về nghĩ một đêm, rồi ra viết luôn đôi câu đối lên hai cái cột tre trước hiệu cắt tóc: " Cắt tóc cắt râu, không cắt cỏ Cạo mày, cạo mắt, chẳng cạo lòng ". Anh Đỡm thú quá, vỗ đùi đen đét. Anh tặng Tư-dát cái kéo bị gãy mất mũi và con dao cạo mẻ. Tư-dát chưa chịu, nằn nèo anh cho thêm cái" bơm nước hoa ":" Câu đối em đối nhau chan chát rứa mà anh cho có con dao, cái kéo loại hai ri, thiệt cho em quá! ". Những hôm đội về tập trung đông đủ, Tư-dát dem đồ nghề ra mở hiệu cắt tóc cho đội. Nó chọn tảng đá ở góc sân làm bàn cắt tóc, và vần một khúc cây làm ghế ngồi. Nó bày đồ nghề lên mặt tảng đá, vai khoác cái bao tải làm áo choàng. Nó hỏi:" Cậu mô muốn cắt tóc, tớ cắt cho. Mà thích cắt kiểu chi cũng được? ". Các bạn nghi ngờ nhìn Tư-dát:" Cậu cắt tóc được thiệt à? "- " Các cậu không tin thì chạy ra hỏi ông Đỡm? Ông đã khen tớ là tài cắt tóc của chú mi vô loại nhất nhì Đông Dươngt. Các bạn vẫn bán tín bán nghi nhưng thèm cắt tóc quá nên cũng cứ liề. U mạng một lần xem sao. Tư-dát bắt khách hàng ngồi thật ngay ngắn lên khúc gỗ, hai tay đưa ra trước ịnặt để nó khoác áo choàng, nghĩa là quấn cái bao tải đầy bụi và rận vào quanh người. Nó trịnh trọng hỏi: "Quý khách thích cắt kiểu chi? Ca-rê cua? Đơ-mi cua? Móng lừa? Hay Phi-lô-dốp?" (1) "Cậu thấy kiểu chi đẹp mà hợp thì cắt giúp?". Tư-dát nâng cằm khách hàng, ngắm nghía cái đầu, tay nhịp nhịp khéo điệu bộ tài ba hơn cả thợ cắt tóc chính hiệu. Và bất cứ khách hàng nào nó cũng dõng dạc tuyên bố. "Đầu của cậu cắt kiểu Phi-lô-dốp là hợp nhất!". Kết quả là Tư-dát - thợ cắt tóc loại nhất nhì Đông Dương - đã úp lên đầu cả đội mỗi đứa một cái trách đất. Và đứa ít nhất cũng bị sứt vài miếng da đầu, da gáy. Cắt tóc xong, Tư-dát còn xịt nước hoa nghĩa là nước sông Ô Lâu. Xịt vô tóc thì ít mà xịt vô mắt thì nhiều. Các bạn kêu ca phàn nàn, Tư-dát cười hề hề nói: "Các cậu coi, cắt tóc hiệu ông Đỡm vừa phải đứng nghiêm, lại vừa phải mất tiền mà làm chi được xịt nước hoa hảo hạng như hiệu của tớ?". Chú thích: (1) Kiểu tóc để dài của các nhà triết học. 5 Mừng và Quỳnh-sơn-ca là hai đội viên ốm yếu nhất đội. Hai em chưa một lần nào được đội trưởng cho về đồng bằng công tác. Mặc cho hai em nhiều lần mếu máo khóc lóc, nhưng đội trưởng vẫn cương quyết: "Em nào cũng đòi về đồng bằng thì lấy ai công tác ở chiến khu?". Anh giao cho hai em nhiệm vụ chạy liên lạc trong chiến khu, từ Tiền chiến khu đến Xê-ca "Xết". Tuy gọi là giao cho cả hai nhưng việc chạy liên lạc gần như chỉ một mình Mừng đảm đương. Chân Quỳnh vẫn còn đau, em đi lại rất khó khăn. Quỳnh rút khỏi Huế cùng với Trạm Quân y Mặt trận khu C. Em không đi được, các anh chị phải thay nhau cáng em bằng võng. Vì phải cáng em, cuộc rút lui của trạm quân y trở nên vô cùng vất vả và nguy hiểm. Tiếng súng giặc đuổi rát sau lưng. Các anh chị y tá, hộ lý định để em lại, cử người đưa em trở về với gia đình. Nhưng em khóc nức nở, nói. "Em không về mô. Các anh chị không cho em đi theo thì em cắn lưỡi em chết!". Các anh, chị trạm quân y đã biết cái gan của Quỳnh lúc nằm trên bàn mổ, nên họ tin rằng không phải em nói dọa. "Thằng con nít ni dám cắn lưỡi mà chết lắm à?". Họ trao đổi với nhau như vậy và xúm lại dỗ dành em: "Chừ mà em về nhà sống với cha mạ thì còn sướng hơn tiên. Chứ lên chiến khu lúc ni cực khổ lắm, sức em chịu chi thấu. Mà chân em lại đang đau, lên trên đó không có thuốc men, vết thương nhiễm trùng trở lại thì nguy hiểm lắm..". Quỳnh lắc đầu, bịt tai: "Các anh, các chị đừng nói chuyện sướng khổ nữa, em không nghe mô". Em nằm lặng trên cán, nghẹn ngào giận dỗi. Nước mắt ứa ra, giàn giụa trên hai má trắng xanh như cẩm thạch. Môi em mấp máy như muốn nói một điều gì nhưng không tìm ra lời để nói. Em bỗng ngồi nhỏm dậy. Và hết sức bất ngờ, em cất giọng hát. Giọng em trong vắt, cao vút, rung lên một âm hưởng bi thiế. T đến nỗi các anh chị trạm quân y đứng bật dậy, gai lạnh người nhìn em, tưởng như em hiện ra từ một cuộc đời không có thực. "Bao chiến sĩ anh hùng. Lạnh lùng vung gươm ra sa trường. Quân xung phong, nước non đang chờ, mong tay người hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời. Ngựa phi nơi xa kia nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng. Là trang nam nhi, quyết chiến nơi sa trường, sông thác coi thường. Mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai..". Hát đến đó, em bỗng dừng lại đột ngột như lúc hát. Và em òa khóc nức nở. Em nói qua nước mắt: "Hay các anh các chị để cho em đi cũng được.. Đừng khiêng em nữa mà nặng. Không đi được thì em lết. Có chết em cũng lên thấu chiến khu em mới chết. Không có da ngựa bọc xác em mà chôn thì các anh các chị lấy mấy cái lá chi to như cái quạt tê - em chỉ mấy ngọn lá nón xòe như cái quạt mọc rợp hai bên dốc núi - bọc xác em mà chôn cũng được..". Mọi người đều rớm nước mắt. Và không một ai còn có ý nghĩ dỗ dành em ở lại Từ Trò lên Hòa Mỹ phải vượt qua nhiều núi cao, suối sâu, đường rất cheo leo khó đi. Họ phải bỏ cáng thay nhau cõng em. Vì phải cõng em đi theo mà trạm Quân y Mặt trận khu e rút lên chiến khu chậm mất một tuần, và hai lần suýt bị giặc vây tóm gọn. Quỳnh phải nằm bệnh viện chiến khu mất nửa tháng. Mặc dầu chân còn đau, đi phải cà nhắc mà chỉ đi được gần thôi, nhưng nhất định em xin về đội. Một anh y tá chặt cành cây, đẽo gọt, đóng cho em cái nạng chống. Với cái nạng cành cây đó, ngày nào em cũng chống đi thăm thú vùng Tiền chiến khu. Gặp chú bé chiến sĩ có gương mặt đẹp và dễ thương như trong tranh minh họa các chuyện cổ tích, chống nạng đi cà nhắc, không ai không mỉm cười với em và đứng lại ngắm hút theo bóng em. Em mặc bộ áo quần bộ đội màu tím than, ống quần cắt ngắn cho vừa chân nhưng đũng quần thụng xuống quá đầu gối, cái áo trấn thủ dài phủ mông đít, đội cái mũ ca lô dạ màu cứt ngựa - chính cái mũ calô của anh Vệ Quốc Đoàn bị đạn thủng bụng được nghe em dạo đàn dương cầm trước khi tắt thở ở Trạm quân y Mặt trận khu C. Trong bộ trang phục luộm thuộm này em càng bé bỏng, dễ thương đến phát khóc lên được. Những buổi chiều đẹp trời, Quỳnh-sơn-ca thường chống nạng đi tha thủi một mình dọc bờ sông Ô Lâu, lút mình trong những nương sắn và những bãi lau sậy, xạc xào.. Mỏi chân, em lại dừng nạng, ngồi bệt xuống bờ đất dốc ẩm ướt, hai bàn tay đan ngón vào nhau, bó gối ngắm dòng sông lượn uốn nao nao trong ánh chiều tà. Cả người em như một pho tượng nhỏ người ta thường đặt bên bờ nước trong công viên, bất động đắm mình trong tiếng rì rào bất tuyệt của dòng sông, tiếng kẽo két những coọng nước quay, tiếng nước từ trên cao bắn tung tóe rơi lách chách xuống mặt sông, tiếng lau lách đung đưa thì thầm.. Trong một lùm cây bỗng lảnh lót ngân lên tiến hót một con chim gì đó mà em không nhìn thấy, với những giai điệu mê hồn. Cặp mắt trẻ thơ của em tự nhiên nhòe ướt: ".. Trời ơi, hay quá đi?". Em thì thào như trong giấc mơ. Chụm cặp môi đỏ tươi lại em cố bắt chước giọng chim. Em lắc lắc đầu vừa cười vừa khóc: "Không! Không phải như thế!". Em thì thầm nói một mình: "Trời ạ, giọng nó cao hơn giọng mình đến một ốc-ta!". Những ngón tay em bỗng trở nên nhanh nhẹn khác thường - những ngón tay của một nghệ sĩ biểu diễn dương cầm bẩm sinh, dài, trắng xanh như những quả chuối non còn nằm úp trong bẹ buồng chuối - mở nút túi áo, rút ra một mẩu bút chì và một tờ giấy gấp làm tư. Em đặt tờ giấy lên đùi, thấm thấm đầu bút chì vào cặp môi chúm lại, kẻ những dòng nhạc. Em hí hoáy ghi các nốt nhạc. Em khe khẽ xướng âm. Những ngón tay dài mảnh, trắng xanh, gõ gõ lên cái nạng cành cây đánh nhịp. Mừng dạo này đang ra sức học chữ. Đội trưởng dạy cho em tập đánh vần trên tờ báo Giết giặc. Một hôm, Mừng nhìn thấy Quỳnh nằm chùm hum trên sạp nứa, sửa lại những câu nhạc viết ngoài bờ sông. Mừng tò mò, đứng lom khom, chăm chú nhìn những cái chấm đen, trắng, có râu, ban viết đặc sít trên tờ giấy, nhăn nhăn trán, hỏi: - Cậu viết chữ kiểu chi mà lạ rứa? Mình đánh vần mãi không ra? - Chữ nhạc ấy mà, - Quỳnh đáp không ngẩng đầu lên. - Chữ nhạc thì đánh vần cách răng? Cũng đánh vần là a chờ ách, ê chờ ếch à? Quỳnh ngước mắt nhìn bạn, cười tủm tỉm: - Không phải. Chữ nhạc đọc lên không thành tiếng như ở báo Giết giặc, mà thành tiếng chim hót, tiếng nước sông Ô Lâu chảy, tiếng coọng nước quay, tiếng gió thổi trong lau lách, trên ngọn tre lồ ô.. tiếng chiến khu mình bền gan đánh giặc.. - Rứa thì cậu giỏi thiệt.. - Mừng trầm trồ thán phục. - Biết khi mô mình cũng đọc được chữ nhạc như cậu hè? - Cậu gắng học chữ cho thạo rồi mình sẽ dạy cho cậu chữ nhạc, khó chi mà.. Sau chừng chục buổi chiều tha thẩn trên bờ sông Ô Lâu, Quỳnh-sơn -ca đã sáng tác được bài hát "Sông Ô Lâu bền gan đánh giặc". Thính giả đầu tiên của Quỳnh là Mừng. Quỳnh dắt bạn ra bờ sông, cùng ngồi trên tảng đá khuất sau một đám lau sậy sát bên bờ nước hát cho bạn nghe. Nghe xong bạn hát hai lần, Mừng trợn tròn mắt nhìn bạn, kinh ngạc hỏi: - Cậu làm ra bài hát nớ thiệt à? Quỳnh phì cười: - Tớ không làm thì còn ai làm nữa? - Răng mà cậu tài dữ rứa? Cậu làm mà nghe hay như bài "Vệ Quốc Quân một lần ra đi..". - Cậu chỉ khen huyên thuyên!.. Làm răng mà hay được như bài hát đó! - Tớ nói thiệt mà? Nghe bài hát của cậu tớ chỉ muốn ở chiến khu mãi.. cho đến lúc thành người lớn như Chính uỷ.. Như tất cả những nghệ sĩ thực thụ, sáng tác chỉ vì một lý do độc nhất là sự thúc bách của tình cảm "không viết ra không chịu nổi". Quỳnh say mê miệt mài sáng tác, bị cuốn hút trong cơn lốc cảm hứng. Nhưng khi sáng tác xong, cơn lốc cảm hứng lắng dịu, em nhìn lại bài hát của mình với cặp mắt bình tĩnh và nghiêm khắc. Em cảm thấy thất vọng. Em tự đánh giá bài hát của mình không đạt được một phần nhỏ những gì em cảm xúc mơ ước. Con sông Ô Lâu kháng chiến chảy trong bài hát của em sao mà tầm thường, khác xa dòng sông hùng vĩ chảy trong mộng tưởng của em. Em buồn rầu, thất vọng, và quyết định phải làm lại bài khác. Trong cơn chán nản, em vò bài hát định ném luôn vào bếp lửa mà Mừng đang cúi lom khom thối, nấu cháo cho Hòa-đen, hớt hải chụp tay Quỳnh, kêu lên sửng sốt: - Cậu điên điên chi rứa? Làm mất bao nhiêu công trình cậu lại đem vứt vô lửa? Quỳnh rầu rĩ đáp: - Nhưng nó dở òm.. Mình sẽ làm lại bài khác. - Cậu chê thì cho tớ. - Nhưng cậu lấy làm chi? - Để khi mô tớ được cậu dạy cho chữ nhạc, tớ tập đánh vần. Mừng cẩn thận vuốt tờ giấy có chữ nhạc thật phẳng phiu, rồi kẹp vào giữa tờ báo Giết giặc - cuốn sách học vỡ lòng của nó. Mừng còn cẩn thận chồng ba cái bao tải lên để tờ giấy thẳng hết các nếp nhăn. Một hôm, Mừng chạy liên lạc vào cơ quan Tỉnh đội dân quân đóng ở Xê-ca Bốn. Nó nhìn thấy anh Hinh tỉnh đội phó dân quân ngồi trước bàn, nhăn nhó như người đau răng, viết viết, xóa xóa những chữ nhạc giống hệt Quỳnh. Nó tò mò đứng xem, và khoe: - Ở đội em có bạn Quỳnh cũng biết viết chữ nhạc như anh rứa. Mà viết đặc sệt cả một trang giấy to như ri nì. Rồi bạn nớ ngó vô đó hát lên một bài hát hay ghê lắm. Hay không thua chi bài Vệ Quốc Quân một lần ra đi.. Anh Nguyễn Hinh, trước Cách mạng tháng Tám là giáo viên dạy nhạc ở trường Quốc học. Anh là một trong mấy người chủ trương và lãnh đạo nhà văn hóa đại chúng của chiến khu. Trong hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn kinh người mà anh vẫn lập được một đội đồng ca làm nòng cốt cho nhà Văn hóa đại chúng. Anh vừa là người tập hợp, tuyển chọn, huấn luyện và chỉ huy đội đồng ca. Đã từ lâu anh ôm ấp ý đồ sáng tác một bài hát về chiến khu Hòa Mỹ. Tranh thủ những phút rảnh rỗi hiếm hoi trong công tác lãnh đạo dân quân du kích tỉnh, anh viết bài hát. Nguyễn Hinh tự biết mình không có năng khiếu về sáng tác, nhưng anh quyết định lấy phương châm "cần cù bù tài năng", trong quá trình thực hiện niềm mong ước của mình. Anh viết đi viết lại nhiều lần, càng viết anh càng thất vọng. Anh tự dằn vặt, ray rứt, đau khổ âm thầm. Bởi vậy, Mừng bắt gặp anh đang sáng tác bài hát mà mặt mũi nhăn nhó như người bị đau răng.. Trong tâm trạng đó nên khi nghe chú nhóc liên lạc đọc chưa thông, viết chưa thạo này khoe là bạn mình cũng viết bài hát, anh Hinh không buồn ngẩng lên. Anh chỉ hỏi lại một cách nhạt nhẽo: "Thế à"; và anh lại tiếp tục cắm cúi viết viết xóa xóa, coi như không biết Mừng đang đứng ở đó. Giọng hỏi thờ ơ và thái độ coi thường của anh Tỉnh đội phó với lời khoe bạn của mình, làm Mừng nổi tự ái "Chắc trong bụng anh nớ coi cái bài hát của cậu Quỳnh là không ra chi, là cái trò nghịch ngợm của con nít.. Người lớn là họ hay khinh con nít lắm!" - Mừng ấm ức nghĩ vậy. Nó lẳng lặng đi ra khỏi lán, chạy thẳng một mạch từ Xê-ca Bốn về đội, mà con đường đâu phải gần! Phải vượt qua ba dốc núi và lội qua năm con suối Mừng lấy tờ nhạc của Quỳnh, cuộn tròn lại, cẩn thận bỏ vào trong bụng áo, cắm đầu chạy một mạch từ Tiền chiến khu trở lại Xê-ca Bốn. Anh Tỉnh đội phó vẫn còn ngồi viết chữ nhạc trước cái bàn mặt nứa. Mừng rút tờ nhạc trong bụng áo ra, cầm hai tay, đặt xuống trước mặt anh, và nói: - Tờ chữ nhạc của bạn em đây anh nì.. Anh Hinh hơi cau mặt như hầu hết người lớn đang mải bận việc bị con nít quấy rầy. Nếu Mừng không phải là chiến sĩ mà chỉ thuần là một chú bé, chắc anh đã nói: "Em đi chơi chỗ khác để anh làm việc". Vì nể tấm tình của chú bé chiến sĩ đối với bạn, anh cầm bản nhạc lên, định bụng chỉ liếc mắt qua. Mắt anh bỗng hấp háy như bất ngờ chạm phải một tia nắng. Anh đọc tiếp câu thứ hai, rồi câu thứ ba.. Và đến câu cuối cùng, anh bật kêu lên sửng sốt: - Ái chà, lạ quá hè? - Nhìn anh lúc này giống hệt một người nhặt lên một vật đinh ninh là một đồng xèng, bất ngờ lóe lên trong tay mình ánh kim loại quý. Anh đọc to bản nhạc lần thứ hai. Và lần thứ ba anh hát. Giọng nam trầm rất vang, rất khỏe và nỗi xúc động đột ngột của anh làm cho diện mạo bài hát khác lạ hẳn đi, hùng tráng hơn, bi thiết hơn. Bản nhạc có tám câu: Âm hình chủ đạo là tiếng rì rào bất tuyệt bền bỉ của dòng sông Ô Lâu chảy qua cuộc kháng chiến trường kỳ. Mừng đứng há miệng, ngạc nhiên nhìn anh Tỉnh đội phó dân quân miệng hát, tay vung lên vung xuống, hai mắt và chót mũi đỏ lên như bị khói xông. "Tại răng rứa hè?". Em tự hỏi. Nhưng chính mắt và mũi em cũng đang đỏ lên như anh. Anh Hinh gấp tờ nhạc bỏ vào túi áo, đeo túi dết, đội mũ lá, xỏ vội đôi dép cao su, phăm phăm đi một mạch thẳng đến Xê-ca Một. Mừng không hiểu chuyện gì đã xảy ra, vừa xốc quần vừa lúp xúp chạy theo anh. Nó chạy theo cốt là để lựa lúc đòi lại cái tờ chữ nhạc mà mình có công cứu ra khỏi bếp lửa: "E anh lấy mất của mình có". Nó lo lắng, hồi hộp nghĩ vậy. Anh Hinh bước vào lán làm việc của Trung đoàn trưởng. Trung đoàn trưởng đang vừa ăn một khúc sắn nướng, vừa chăm chú xem xét cái gì đó trên tấm bản đồ chiến khu tỷ lệ 1/25.000. Anh Hinh đặt luôn bản nhạc lên tấm bản đồ, nói như reo: - Một chú nhóc liên lạc của anh vừa sáng tác được bài hát về chiến khu tuyệt quá anh ơi! Rồi không kịp để cho Trung đoàn trưởng hỏi lại anh Hinh nhịp nhịp tay xuống tấm bản đồ, cất giọng hát rung cả mái lán.. Anh hát đi hát lại bốn lần. Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu.. Lần nào hát đến câu này mặt anh cũng tái hẳn đi và cặp mắt anh như sắp cháy bùng thành lửa ngọn. Các anh bên lán ban Tham mưu cạnh đó nghe anh Hinh hát cũng bỏ hết công việc chạy sang nghe. Bài hát dứt mà người nghe vẫn còn đứng lặng rất lâu, như người ta lúc bất ngờ chứng kiến vẻ đẹp mà không thể nói lên lời. Trung đoàn trưởng hỏi: - Chú bé nhạc sĩ này tên là chi? - Dạ tên Quỳnh.. - Mừng từ phía sau lưng anh Hinh bước ra, đứng nghiêm trước mặt Trung đoàn trưởng đáp, - đội chúng em gọi bạn ấy là Quỳnh-sơn-ca. Hồi ở Huế, bạn ấy thường bắt nhịp cho cả đội hát.. - Em có biết Quỳnh làm bài hát này từ khi mô không? - Dạ biết chớ.. Bạn ấy đi lui đi tới hoài trên bờ sông, nghe tiếng nước chảy rồi bạn ấy làm.. Làm xong, bạn ấy kéo em ra ngồi khuất sau bụi cây, hát cho em nghe. Em khen nghe hay như cái bài đoàn "Vệ Quốc Quân một lần ra đi", nhưng bạn ấy kêu là dở òm. Rồi bạn ấy vo viên lại định quăng vô bếp. Em lanh tay giữ lại không thì cháy rồi.. - Giọng không giấu được vẻ hãnh diện về cái công của mình đã cứu được bài hát khỏi lửa. Trung đoàn trường nhìn Mừng và bất chợt nhớ đến cái đêm mưa tầm tã ở Mặt trận Huế. Ông chỉ em, nói với anh Hinh bằng tiếng Pháp: - Đây cũng là một Ga-vơ-rốt của kháng chiến đấy! Rồi ông kể cho anh và các anh trong ban Tham mưu chuyện Mừng về thăm mẹ và gặp ông trên đường tuần tra mặt trận.. Anh Hinh đáp lại Trung đoàn trưởng cũng bằng tiếng Pháp: - Những Ga-vơ-rốt chết trên các chiến luỹ cách mạng thì tôi có thể hiểu được. Nhưng một em bé mười ba tuổi mà lại viết nổi những câu hát như thế này, - anh gõ gõ ngón tay vào bản nhạc, - thì tôi cứ thấy lạ. Trung đoàn trưởng nhịp nhịp ngón tay lên tấm bản đồ, trẩm ngâm nói: - Tôi nhớ hồi ở chiến trường vùng cực Nam Trung bộ, tôi được gặp một nghĩa quân già từ thời Trương Định. Cũng trong một buổi chuyện trò như thế này ông cụ nói: "Trong những giờ phút thử thách nghiêm trọng của lịch sử, Nhân Dân và Đất Nước thường mượn lời của con trẻ để nói lên cái tráng chí của mình". Việc em Quỳnh sáng tác nên bài hát này có lẽ đúng như lời ông cụ nói. Ông quay sang nói với Mừng: - Em chạy ra gọi Quỳnh vào đây cho anh gặp. - Dạ chân bạn ấy còn đau, đi phải chống nạng em sợ bạn ấy không trèo qua được dốc.. - Thế thì thôi, để các anh ra gặp chú ta cũng được. Trung đoàn trưởng và anh Hinh cùng đi ra Tiền chiến khu. Mừng hý hửng đi theo sau. Hai người bước vào sân lán thấy chú bé nhạc sĩ và Hòa-đen đang ngồi trước eửa lán cởi áo, bắt rận. Hai em bắt rất chăm chú nên không thấy hai người vào. Hai người đứng lặng hồi lâu, ngắm hai tấm lưng trần con nít mỏng mảnh, gày gò, dày đặc những nốt ghẻ ruồi ưm đỏ. Một nỗi thương xót đứt ruột trào lên nghẹn cổ. Nếu họ đứng nhìn thêm nữa, chắc họ sẽ khóc. Trung đoàn trưởng và Tỉnh đội phó dân quân cùng ngồi xổm trước mặt hai em. Họ hỏi chuyện Quỳnh về gia đình, chuyện em được học nhạc từ bao giờ, hoàn cảnh em gia nhập Vệ Quốc Đoàn.. Qua lời kể của em, hai người được biết thêm một điều lý thú: Có người trở thành chiến sĩ cứu nước chủ yếu vì những bài hát cách mạng. Trung đoàn trưởng và Tỉnh đội phó dân quân hỏi Quỳnh về những suy nghĩ của em khi viết bài hát "Sông Ô Lâu bền gan kháng chiến", và những mơ ước của em hiện nay về sáng tác. Gương mặt dễ thương của em hiện vẻ bối rối ngượng nghịu của người nghệ sĩ khi được khen ngợi quá với điều mình mong đợi. Em nói, mặt hơi đỏ lên: Em bỏ âm nhạc lâu quá rồi mà lúc viết lại không có đàn, nên câu nhạc cứ chệch choạc ra răng ấy.. Em định bỏ đi, viết lại bài khác.. Em thèm viết một vở nhạc kịch đề tài "Bạn Mừng đi tìm thuốc cho mẹ". - Quỳnh ve vẩy bàn tay đánh nhịp và ngân nga khe khẽ mấy nét nhạc âm hình chủ đạo cho vở nhạc kịch tương lai.. Anh Hinh chăm chú lắng nghe, bật lên nói bằng tiếng Pháp: - Tuyệt diệu! Trung đoàn trưởng cũng là người sành và mê nhạc. Hai người vui mừng đến ứa nước mắt. Cả hai đều nghĩ rằng chú bé chiến sĩ mình đầy ghẻ ruồi và mặc cái áo trấn thủ đầy rận đang ngồi bệt trên đất kia, là một thần đồng âm nhạc. Sẽ đến một ngày nào đó, chính chú ta chứ không ai khác, làm rạng danh trung đoàn, rạng danh chiến khu. Ông hỏi em: - Để sáng tác được vở nhạc kịch ấy, em cần đàn gì? - Được pi a-nô thì nhất! Nhưng làm chi có được anh.. Chừ em chỉ ước có cái đàn măng-đô-lin. - Anh sẽ gửi tổ quân báo ở Huế mua tặng em cái đàn măng-đô-lin. Và trung đoàn trường đã gửi thư cho anh Đồng-râu dặn mua cái đàn măng-đô-lin mà Châu-sém nhớ ra là đờn măng tre, măng lồ ô.. Hai tuần sau, bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến" được đội đồng ca của chiến khu do anh Hinh chỉ huy trình diễn tại nhà Văn hóa đại chúng. Bài hát được khán giả vỗ tay vang dội, yêu cầu hát lại nhiều lần. Rất tiếc Quỳnh không có mặt hôm đó. Hai hôm trước, các bạn trong đội phải thay nhau khiêng em vào bệnh viện. Em lên cơn sốt trên bốn mươi độ, và bàn chân đau, vết thương tái phát sưng tấy lên. Cả Xê-ca Hòa Mỹ ngày đó không ai không thuộc bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến". Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai, từ trước đến nay, cán bộ và chiến sĩ ở trung đoàn bộ chưa thấy ông hát hò bao giờ, ngoài bài "Quốc tế ca" ông hát trong buổi lễ khai mạc cuộc họp Đảng bộ toàn trung đoàn. Dạo này anh em rất ngạc nhiên thấy ông thỉnh thoảng lúc đang ngồi làm việc cũng khe khẽ ngân nga vài câu trong bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến". Và cũng từ dó, Quỳnh trở thành một nhân vật nổi tiếng của chiến khu Hòa Mỹ. 6 Lên chiến khu được ít lâu, Mừng được các bạn đặt cho cái biệt hiệu mới: Bộ-xương-cách-trí. Các bạn gọi em như vậy vì em gầy giơ hết xương sống, xương sườn, gần giống như bộ xương người vẽ trong sách "Cách trí giáo khoa thư". Đói ăn, ghẻ, rận, sốt rét, làm cho các em trong đội Thiếu niên trinh sát đều gầy sút. Riêng Mừng gầy sút hơn tất cả. Tưởng như trong người em có sinh sống một con vật gì đó, ngày ngày cứ rứt rỉa thịt em mà ăn. Khắp người em ghẻ lở ăn không sót chỗ nào. Cả con chim nhỏ xíu như quả ớt chỉ thiên, ghẻ cũng đào hang đào rãnh. Đứng cách xa em vài bước đã ngửi thấy mùi tanh mủ máu ghẻ cái, ghẻ ruồi, dính bết vào bộ áo quần độc nhất lúc nhúc những rận. Tư-dát bịa đủ thứ chuyện về ghẻ và rận của Mừng. "Một bữa, thằng Mừng chạy liên lạc vô Rú Quao đưa công văn cho tổ trạm gác tiền tiêu phía Nam chiến khu. Ở khúc rú này có con cọp thọt ăn thịt người đã thành tinh. Cọp thọt ngồi rình trong bụi bên đường đã ba ngày mà chưa chộp được anh Vê-cu-đê mô lớ ngớ đỉ qua. Hắn ta đói mờ cả mắt, ngồi ngủ gà ngủ gật. Vừa đúng cái lúc đó Mừng ta đi liên lạc ngang qua ngay trước mũi cọp. Cọp thọt chưa kịp vọt ra vồ thì đã hắt xì hơi liên tiếp chục cú liền: Tanh quá! Tanh quá! Cọp ta nhảy lùi lại phía sau rồi cong đuôi bỏ chạy, vừa chạy vừa hắt xì hơi rầm rầm, chuyển rú. " Một hôm, Mừng ta xuống sông Ô Lâu giặt quần áo. Hai tay ghẻ lở kềnh càng nên nó phải đến chỗ nước chảy xiết cầm áo quần nhúng xuống nước để nhờ nước giặt giúp. Bất ngờ nó tuột tay, bộ áo quần bị nước cuốn, trôi phăng phăng xuống cái vực bên dưới. Nó đứng ngó theo bộ áo quần mà khóc hu hu, chuyến ni chắc phải ở lỗ ở truồng mà chạy liên lạc. Bất ngờ bộ áo quần nổi lên mặt nước, rồi trôi ngược trở lại phía nó. Té ra tụi rận sợ chết chìm nên hè nhau tha bộ áo quần bơi ngược nước như đò ngược sông. Bữa đó mà không có tụi rận thì Mừng ta mất trắng tay ". Mừng bị sốt rét nhiểu nhất nên nước da em ngả dần sang màu ký ninh. Ngày mới lên chiến khu, Mừng chưa biết sốt rét là gì. Em còn nhỏ quá nên trong các thứ bệnh chỉ mới biết bệnh đau đầu và đau bụng. Lần đầu tiên em thấy Hòa-đen lên cơn sốt rét thì lấy làm lạ lắm. Em đứng sững, há hốc miệng nhìn, bụng thắc mắc:" Trời nắng nẻ đầu, mình phải cởi trần mà hắn run chi run dữ hè? Hay hắn giả đò run rứa để dọa mình? Nhưng ai ta thèm sợ cái run? ". Đến lúc em đã đắp cho Hòa-đen mười cái bao tải, nó vẫn cứ run; lại còn lắp bắp gọi nhờ em nằm đè lên người cho đỡ run, thì em không còn hiểu ra sao nữa. Sợ bạn đau, Mừng chỉ đè rón rén nhưng Hòa-đen vừa run vừa van vỉ: - Đè è è mạnh vôôô cho tau với ới ới.. Chờ cho Hòa-đen dứt cơn sốt, chui ra khỏi đóng bao tải, Mừng đến gần ngồi cạnh, tò mò nhìn bạn và hỏi: - Răng khi hồi cậu run dữ rứa? Hòa-đen nhăn nhó trả lời: - Sốt rét chớ còn răng nữa mi? - Nhưng mình đã đắp cho cậu mười cái bao tải rồi tê mà? - Mười cái mà thấm chi? Rét trong bụng rét ra chứ có phải rềt ngoài da rét vô mô! - Lạ quá hè? Mừng chặc lưỡi nói. - Ước chi tớ cũng được sốt rét như cậu để coi rét trọng bụng rét ra là răng cho biết.. Hòa-đen nghe vậy, gắt um: - Ước chi không ước lại đi ước sốt rét. Mi ngu chi mà ngu dữ rứa? Cầu được ước thấy. Chỉ một tuần sau, không phải cầu ước. Mừng đã được biết rét trong bụng rét ra là như thế nào. Sốt rét dứt cơn, Mừng chui ra khỏi đống bao tải, người mệt lả, miệng đắng nghét, đầu nhức như búa bổ. Em nhàn nhó, rên rỉ nói với Hòa-đen: - Ui chao! Cái bệnh rét trong ruột rét ra ni còn cực hơn cả bệnh đau đầu nhiều cậu ạ.. - Rứa chừ mi có còn ước được rét trong bụng rét ra nữa không? - Tớ sợ rồi.. Chừ ai cho cục vàng tớ cũng lạy cả tơi cả nón. Nhưng bây giờ thì có lạy cũng không xong. Bệnh sốt rét đã trở thành cơm bữa của Mừng. Chừng vài ba ngày em lại lên cơn sốt rét một lần, sốt nóng có, sốt rét có. Có hôm em lên cơn sốt nóng, phát cuồng, trèo lên cả mái nhà mà chạy, làm đội trưởng sợ hết hồn. Anh phải bắc thang bế em xuống. Kể lại thật khó tin: Bệnh tật, ốm đau liên miên như vậy, nhưng Mừng lại là chú đội viên chạy liên lạc trèo núi, leo dốc, lội suối cả đội không đứa nào bằng. Ngay cả các anh lớn cũng phải tấm tắc khen phục. Có lần Mừng dẫn đường cho các anh du kích ở huyện đội Phong Điền vô Xê-ca Bốn lĩnh mìn và lựu đạn. Đường vô Xê-ca Bốn toàn dốc cao dựng đứng. Em đi trước, các anh theo sau. Anh nào cũng phải mướt mồ hôi trán mới theo kịp em. Các anh phải ngạc nhiên kêu lê:" Chao cái thằng! Hai cẳng chân hắn nhỏ như hai que tăm rứa mà hắn trèo núi giỏi cách chi? ". Mà có phải em chỉ trèo núi thôi đâu. Vừa trèo dốc em vừa nhặt đá ném tụi sóc chuyền cành, vừa ngó ngửa tìm quả ươi bay, vừa xóc quần, vừa quệt mũi vừa gãi ghẻ. Có lẽ những năm tháng phải chạy rông khắp thành phố Huế, trèo tuốt lên những ngọn cây cao để tìm thuốc cho mẹ đã chuẩn bị gân sức cho em bây giờ trèo núi leo dốc, chạy liên lạc ở chiến khu. Rất nhiều các anh lớn, trong những năm ở chiến khu Hòa Mỹ, chưa một lần đi khắp cả bảy Xê-ca. Vì không có việc gì cần phải đi hết, và đi cho hết cũng tốn sức lắm. Từ Xê-ca này qua Xê-ca khác, ít nhất cũng phải băng qua bảy dốc núi, lội qua dăm bảy con suối cạn, suối sâu. Riêng Mừng, do công tác liên lạc nên không có Xê-ca nào em không phải đến. Không những đến, em còn thường tạt ngang, tạt dọc. Nếu phải chạy liên lạc vào Xê-ca Năm thế nào em cũng tạt vào Xê-ca Sáu, nơi có xưởng bào chế dược liệu đóng. Em tạt vào đây cốt lân la xin các chị bào chế một vài thìa thuốc ho, uống tại chỗ. Trong các thứ thuốc uống, em mê nhất là thuốc ho, vì thuốc ho ngọt. Ở chiến khu thèm đường ghê gớm. Có khi mấy tháng liền em không được biết vị đường. Nhiều đêm, em nằm mơ thấy miệng ngậm cục đường đen. Không có đường Mừng nghĩ cách bù vào bằng thuốc ho. Được húp một thìa thuốc ho mà phải lặn lội trèo qua bốn cái dốc cao vòi vọi, và lội qua hai con suối chảy xiết kể cũng công trình biết mấy? Nếu có việc phải vô Xê-ca Bốn, thể nào Mừng cũng tạt qua Xê-ca Bảy - nơi bệnh viện chiến khu đóng - thăm Quỳnh-sơn-ca. Quà thăm bạn ốm là mấy quả ươi bay, lượm được lúc trèo qua dốc núi. Quả ươi bay gần giống quả trám khô. Muốn ăn, đem ngâm nước một lúc, quả sẽ nở bung, ăn có vị mát mát như thạch. Nếu có đường vào một hai muỗng, trộn lên thì không còn phải nói! Nếu phải chạy liên lạc vô Xê-ca Ba, Mừng thường tạt vô Xê-ca Một chơi với Phan Nghi chốc lát. Sau cái đêm ngồi chung với nhau trên lưng con ngựa của vua Bảo Đại, phi về làng Phò thăm mẹ, Nghi và Mừng trở thành đôi bạn chí thân. Nghi ở cơ quan Trung đoàn bộ, cùng ăn cơm với trung đoàn trưởng, chính uỷ, tham mưu trưởng trung đoàn, nên thỉnh thoảng cũng được biết mùi vị đường, mỡ, cá mắm khô. Mỗi lần xuống thăm thú nhà bếp, thấy xuất hiện các thứ của ngon vật lạ đó, đến bữa ăn Nghi thường nghĩ mẹo đi đâu đấy để chị cấp dưỡng phải để phần cho em. Và em sẻ bớt một ít gửi ra Tiền chiến khu cho Mừng. Một lần Nghi được để phần một bát cơm chiên với tóp mỡ. Em lấy chiếc phong bì, sẻ vô đó nửa bát, chọn gắp tất cả tóp mỡ bỏ hết vào phong bì. Em dán phong bì thật kín, rồi lấy bút nắn nót đề:" Công văn thượng khẩn. Tối mật (gạch đít) Phan Nghi, ban tham mưu Trung đoàn 101 - Kính gửi: Bộ-xương-cách-trí, đội Thiếu niên trinh sát - Tiền chiến khu Hòa Mỹ ". Nghi gửi bức công văn" thượng khẩn "," tối mật "này cho đội trưởng Thắng vào làm việc với trung đoàn trưởng, nhờ chuyển giúp cho Mừng. Do công tác liên lạc mà Mừng thuộc làu làu tất cả đường đi lối lại trong chiến khu Hòa Mỹ. Không những thuộc những đường chính mà em còn tìm ra những lối tắt, đi có vất vả hơn, nhiều dốc, nhiều núi, nhiều sên vắt, nhưng gần hơn, có khi gần hơn đến nửa đường. Đội trưởng Thắng rất hãnh diện về cái tài thuộc đường của chú đội viên nhỏ của mình. Anh gọi Mừng là" tấm bản đồ sống của chiến khu ". Rồi đến trung đoàn trưởng cũng phải ngạc nhiên trước sức nhớ và thuộc địa hình rừng núi của Mừng. Hôm đó, Mừng tạt vô Xê-ca Một chơi với Nghi. Em gặp đội trưởng đang ngồi với trung đoàn trưởng. Trước mặt hai người trải rộng tấm bản đồ chiến khu. Cả hai đang chăm chú nhìn vào bản đồ và thảo luận cái gì đó. Nghi ngoắc Mừng xuống bếp và dúi cho bạn một cục đường đen to bằng ngón chân cái đã chảy nước. Mừng vừa mút đường vừa lân la đến gần đội trưởng nhìn tấm bản đồ qua vai anh: Mừng có một thích thú đặc biệt là xem bản đồ. Em có thể đứng ngắm một tấm bản đồ hàng giờ liền mà không chán mắt, và mặt ngẩn ra đầy kinh ngạc, thán phục. Em không thể nào hiểu nổi làm cách nào mà người ta có thể vẽ vào một tờ giấy, tất cả núi non, sông suối, đường đi lối lại cả một vùng rừng núi mà muốn đi cho hết phải mất bao nhiêu ngày? Em tấm tắc:" Tài thiệt? Tài thiệt? Như là phép tiên rứa? ". Mỗi lần chạy liên lạc vào ban tham mưu, thế nào Mừng cũng ghé vô lán của tổ Họa đồ coi anh Tùng, anh Danh, anh Du ngồi họa đồ. Ngồi ngắm bản đồ nhiều em trở nên thành thạo. Khi thấy các anh vẽ những đường vòng méo mó, vòng trong nhỏ hơn vòng ngoài, cho đến lúc chỉ còn nhỏ bằng cái mũi đinh và đề lên đó một con số, em biết đó là những ngọn núi; núi ít vòng là núi thấp, núi nhiều vòng là núi cao và con số chỉ chiều cao của ngọn núi. Sông suối thì các anh vẽ bằng mực xanh đậm, đường đi vẽ bằng màu nâu, làng mạc là những mảnh vụn màu lá mạ.. Em lẩm nhẩm đánh vần những chữ đề trên các ngọn núi, dọc các con sông, con suối, em nhận ra có những ngọn núi, những con suối em đã từng trèo qua, lội qua hàng chục, hàng trăm lần. Rồi em quen đến độ không cần đọc tên đề, chỉ nhìn qua hình dạng, em cũng đoán được đó là ngọn núi nào, con suối nào, trong dãy núi trùng điệp của chiến khu. Và bây giờ mỗi lần nhìn vào bản đồ, em thấy hiện ra trước mắt những núi, những suối nhỏ, suối to, với tất cả kích thước thật của nó, với tất cả xanh tươi, sống động, rậm rịt, chảy xiết.. Em thấy những cây cao ba bốn người ôm không xuể, những mây song, tre giang, bò ngang bò dọc trên mặt đất như đàn trăn, đàn rắn, sóc chuyền cành, tiếng vượn hú tiếng chim phi-họ-phi-làng, cá lội tung tăng, đá cuội tròn nhẵn lấp loáng dưới đáy nước chảy xiết, những tảng đá lớn nhỏ phủ rêu trơn tuột vô ý giẫm lên là vồ ếch như chơi.. Em thấy những lán trại, kho tàng, công binh xưởng, cơ quan, bệnh viện, xưởng bào chế.. nép mình dưới những lán cây um tùm lưng dốc núi hay sát bên bờ suối. Em thấy khói lan bò trên các mái lán, trong ánh chiều tà. Em nghe tiếng cười nói, tiếng rên lên cơn sốt rét, tiếng búa, tiếng cối xay lúa ù ù, tiếng chày giã gạo.. Tất cả những nơi này em đều có thể ghé vào uống một ngụm nước lá rừng, ăn một củ sắn nướng hay xin một thìa thuốc ho.. Tấm bản đồ đang trải rộng trước mặt trung đoàn trưởng và đội trưởng, có những khuyên tròn, những vòng cung vẽ bằng bút chì đỏ. Vừa thoáng nhìn, Mừng đã biết ngay đó là tấm bản đồ" Bố phòng chiến khu "- một tấm bản đồ tối mật. Đội trưởng Thắng cũng có một tấm bản đồ như thế nhưng nhỏ hơn, gấp làm tám, bỏ trong cái xà cột da, mà đi đâu anh cũng mang theo. Trung đoàn trưởng đang cầm cây bút chì xanh đỏ chỉ vào một điểm trên bản đồ, nói với đội trưởng: - Cần phải bố trí thêm đài quan sát ở đây. Không biết trên đỉnh dốc núi này có cây cao nào không, để đặt đài quan sát, và địa hình có bị che khuất? Ngày hôm nay đồng chí phải đến nghiên cứu thực địa và về báo cáo cho tôi biết để quyết định. Thoáng nhìn Mừng biết ngay chỗ dốc núi mà trung đoàn trưởng chỉ trên bản đồ là dốc núi gần Xê-ca Bảy. Em liền buột miệng nói: - Thưa anh chỗ dốc núi đó không có cây chi to hết, toàn cây mây với cây giang thôi, mà rậm rịt ghê lắm. Trung đoàn trưởng ngẩng nhìn Mừng. Em sợ hãi nuốt ực cục đường đang mút dở, và đứng nghiêm lại. - Chú mày có biết dốc núi này ở đâu không mà dám nói như vậy? - Dạ em biết.. Ở Xê-ca Bảy, gần dốc bệnh viện.. - Mừng bước đến cạnh bàn nhìn tấm bản đồ rồi đưa ngón tay trỏ đen thui, chỉ vào một điểm cạnh điểm trung đoàn trưởng vừa khuyên bằng chỉ đỏ, hồi hộp thưa. - Dạ thưa anh, ở chỗ ni dốc núi thoáng hơn mà có cây cao to lắm. Trèo đứng lên chạc ba cây đó thấy hết cả Tiền chiến khu, ngó được thấu qua đồi Đồng Nhên bên kia sông Ô Lâu.. - Em ấp úng một tí rồi nói thêm. - Trên ngọn cây đó có tổ ong vò vẽ to như cái nồi bảy. Mừng rụt ngón tay lại. Trên màu xanh nhạt tấm bản đồ in một vết đen xì - vết máu ghẻ khô và nước đường dính ở đầu ngón tay em. Mừng sợ hãi định trở mu bàn tay chùi vết đen mình làm nhớp bản đồ. Trung đoàn trưởng đưa tay ngăn lại: - Chú làm đen hết cả tấm bản đồ của anh bây giờ? Đội trưởng của chú sẽ đi kiểm tra thực địa. Nếu đúng như chú mi nói, anh sẽ thưởng. Nhưng nếu chú mi nói tam toạng anh sẽ đập chú mi chục roi về cái tội xem trộm bản đồ mật. Trưa hôm đó, trung đoàn trưởng cùng đi với đội trưởng Thắng đến dốc núi Xê-ca Bảy, điều tra vị trí đặt đài quan sát. Ông phải sửng sốt khi nhìn vào bản đồ đúng cái chỗ đen sì vết móng tay của chú liên lạc, có một cây quao đại thụ, cao vòi vọi, dựng thẳng tắp giữa lưng chừng núi. Ông hỏi đội trưởng: - Chú bé liên lạc này có được học hành gì không? - Dạ em vô bộ đội còn chưa biết chữ. Hiện tôi đang dạy cho em học. Không có vở, bút, tôi phải lấy tờ báo Giết giặc làm sách vỡ lòng, dạy em tập đánh vần. Bây giờ em cũng đã đánh vần đọc được kha khá rồi. - Thế thì lạ thật! Chú ta đọc bản đồ sành sỏi không thua gì một sĩ quan tham mưu. - Trung đoàn trưởng móc trong túi áo quân phục mấy tờ giấy, cây bút chì còn mới và tờ bạc mười đồng, đưa cho đội trưởng trinh sát, nói tiếp: - Anh đưa cho chú ta, nói là trung đoàn trưởng thưởng cho chú như đã hứa. Và trung đoàn trưởng quyếtđịnh đặt đài quan sát mới của chiến khu tại cây quao đại thụ này. 7 Bồng-da-rắn, Châu-sém và Hiền sau ngày ở Sịa rút lên chiến khu, được đội trưởng phân công thành một tổ trinh sát chuyên việc bám vị trí địch, theo dõi điều tra tình hình địch. Ba em được giao nhiệm vụ bám vị trí Đất Đỏ. Các em trà trộn trong dân các xóm quanh đồn, nằm sát bên nách đồn, bám riết giặc suốt ngày đêm. Nhiều lần Bồng và Châu còn lọt hẳn vào bên trong đồn bằng cách đi theo những toán người bị bọn giặc lùa từ các làng, đưa về làm phu đào hào, đắp luỹ, xây công sự.. Điều tra được gì, hai em về kể lại với Hiền. Hiền ghi ra giấy, vẽ thành bản đồ, đưa lên chiến khu nộp cho đội trưởng. Nửa tháng trời lăn lóc bến nách giặc, giữa lòng giặc, ba em đã trả lời khá đầy đủ những yêu cầu về trinh sát vị trí Đất Đỏ mà Ban tham mưu trung đoàn đề ra. Hoàn thành nhiệm vụ, đội trưởng ra lệnh cho tổ trinh sát rút về chiến khu. Một đêm tháng tư năm 1947, trận đánh vị trí Đất Đỏ của trung đoàn 101 đã diễn ra vô cùng gay go và ác liệt. Mãi đến ba giờ sáng vị trí mới bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Lửa đốt đồn sáng rựng cả một vùng đồi núi Hòa Mỹ và khúc sông Ô Lâu lượn qua gẩn đó. Đội quân giặc thiện chiến" Tuần tiễu núi An-pơ "đã bị xóa sổ vĩnh viễn tại một làng bán sơn địa gần kề chân núi Trường Sơn. Đó là trận chiến thắng đầu tiên và vang dội nhất của trung đoàn 101 (trước kia là trung đoàn Trần Cao Vân) kể từ ngày mặt trận Huế vỡ. Trận thắng đã mở đầu cho phong trào quật khởi của chiến trường Bình Tri Thiên, được Bộ Tổng tư lệnh ghi vào Sổ Vàng kháng chiến toàn quốc. Tổ Thiếu niên trinh sát Bồng-da-rắn, Châu-sém và Hiền cũng được trung đoàn cho tham gia trận đánh, làm nhiệm vụ dẫn đường và liên lạc. Chiến lợi phẩm mà Bồng-da-rắn đặc biệt quan tâm trong trận tiêu diệt vị trí Đất Đỏ là lá cờ tam tài mới tinh, rộng gần bằng chiếc chiếu, mà cứ sáng sáng bọn giặc lại kéo lên đỉnh cột cờ trước sân đồn, trong tiếng kèn tọ tí te. Mỗi lần có dịp lẻn vào vị trí, Bồng đều nhìn lên cột cờ, ước lượng chiều dài và chiều rộng của mỗi khổ vải xanh, trắng, đỏ, may thành lá cờ. Em lân la tìm đến ông thợ may trong xóm, hỏi ông: Hai mảnh vải trắng và xanh với chừng ấy chiều dài, chừng ấy chiều ngang, có may đủ một áo sơ mi và một quần soóc không? Ông thợ may nhẩm tính toán một hồi và trả lời có thể may đủ nếu biết cắt khéo như ông. Từ hôm đó, lúc thức cũng như lúc ngủ, Bồng-da-rắn không ngớt mơ đến bộ quần áo mới may bằng vải cờ của giặc. Trong đội, Bồng là một trong mấy đứa áo quần rách rưới tả tơi nhất. Nhất là cái quần đùi, rách hở trước, hở sau.. Những lần phải về đồng bằng công tác, phải đi qua những xóm làng có dân ở, trời nắng cũng như trời mưa, Bồng đều phải mang cái áo tơi lá xù xù như thằng bắt trộm gà để che cái quần rách. Có lần Bồng đi về xã Phong Diêu gặp đúng lúc đội Thiếu nữ Tiền phong xã tổ chức liên hoan văn nghệ. Biết Bồng là chiến sĩ ở chiến khu về, các bạn gái nhất định mời bạn trai Vệ Quốc Đoàn lên kể chuyện chiến khu. Kể chuyện thì Bồng không sợ. Bồng có tài kể chuyện mà ngay cả Tư-dát cũng phải phục. Tư-dát mỗi lần nghe Bồng kể chuyện những chuyến đi trinh sát, đều phải tắc lưỡi nói:" Mi mà viết được ra giấy những chuyện mi vừa kể, thì có thể gửi về Huế in bán chạy không thua chi chuyện kiếm hiệp của ông Lý Ngọc Hưng "(1). Hiềm một nỗi cái quần đùi rách quá mà Bồng không thi thố được tài kể chuyện với các bạn gái. Không lẽ mang tơi lá xù xù đứng trên sân khấu mà kể chuyện? Giận cái quần đùi rách. Bồng giận lây sang các bạn gái, đội Thiếu nữ Tiền phong. Bồng sa sầm nét mặt, nói với mấy bạn gái trong ban chấp hành Đội Thiếu nữ đến mời Bồng mang tơi trong lúc nói với giọng khá cục cằn: - Tui không biết kể chuyện? Tui còn mắc việc chiến khu! Rồi Bồng vùng bỏ chạy trước những cặp mắt ngơ ngác của các bạn gái. Em chạy thục mạng ra giữa cánh đồng, chui vào một ngôi miếu cổ đổ nát. Em vứt cái tơi lá xuống nền miếu, ngồi dựa lưng vào tường miếu đổ nát, nhìn lại cái quần đùi rách hở trước hở sau, khóc tấm tức dưới bầu trời chiều giăng giăng mưa bụi. Trong giây phút đắng cay khốn khổ đó, Bồng sẵn sàng đổi một cánh tay để lấy một cái quần lành lặn. Bởi vậy, trong suốt thời gian bám vị trí Đất Đỏ, Bồng không phút nào rời mắt lá cờ tam tài trên cột cờ trước đồn giặc, với nỗi đợi chờ khắc khoải một bộ áo quần lành lặn, để có thể thi thố tài kể chuyện trước mặt các bạn gái. Hai giờ sáng hôm đó, lúc cùng với các anh lớn xung phong vào đồn giặc, giữa cảnh súng đạn nổ rầm trời, Bồng đã trèo phắt lên đỉnh cột cờ đoạt lấy lá cờ xanh trắng đỏ. Em gấp lá cờ lại, quấn tròn quanh bụng, lấy dây điện thoại buộc chặt và phủ cái áo rách ra ngoài. Thế là bộ áo quần bao lâu mơ ước đã cầm chắc trong tay? Bồng vui sướng hả hê. Tuy nhỏ nhưng Bồng là một chiến sĩ từng trải, khôn ngoan. Em biết việc này nếu để lộ ra, lá cờ sẽ bị Trung đoàn thu hồi vì đó là chiến lợi phẩm - kỷ luật chiến lợi phẩm ngày đó vô cùng nghiêm ngặt. Diệt xong đồn, thu xong chỉến lợl phẩm, thì đã gần bốn giờ sáng. Bộ đội đánh đồn được lệnh cấp tốc rút về chiến khu, đề phòng giặc phản kích. Bồng và Châu-sém lúp xúp chạy sau cùng hàng quân. Quá mải sướng vì lá cờ tam tài vừa đoạt được nên rút về gần đến chiến khu, Bồng mới sực nhớ ra điều quan trọng, hỏi Châu-sém: - Lấy được mấy khẩu Moóc-chê sáu mươi? - Ba Đang chạy, Bồng đứng sững ngay tại giữa đưởng như hai chân bị con đường mút chặt. Em trợn tròn mắt, hỏi Châu-sém gần như quát: - Răng lại có ba khẩu? Mi có chắc không? - Tau được phân công trong đội thu chiến lợi phẩm, răng lại không chắc? Bốn khẩu chứ răng lại ba? Lần cuối cùng vô trinh sát đồn, tau cũng đã đếm lại, còn đủ nguyên cả bốn khẩu. Thôi chết cha rồi? - Bồng thảng thốt la to - Đúng là mấy cha thu chiến lợi phẩm tìm không kỹ, để sót mất một khẩu! Làm ăn chi lạ! Bồng-da-rắn nổi tiếng trong đội là đứa nóng tính. Khi đã nổi nóng em không còn biết kiêng sợ ai. Cả các anh lớn em cũng quát nạt sừng sộ, đôi khi còn văng tục bạt mạng. - Chừ tau với mi phải quay lại tìm cho ra khẩu moóc-chê sót Đi mi! Tau chắc là hắn bị gạch, đất lấp kín nên các anh không ngó thấy.. Lúc này các anh rút lui đã bỏ lại hai đứa khá xa. Châu-sém ngập ngừng: - Biết có tìm thấy không mà lỡ tụi hắn kéo quân tiếp viện lên thì chạy răng cho kịp? Thôi bỏ quách cho rồi. - Bỏ! Bỏ? Bồng tức tối càng la to hơn. - Khẩu moóc-chê của người ta mà mi làm như thanh mã tấu không bằng? Mi coi cả trung đoàn mình được mấy khẩu? - Bồng chụp lấy tay Châu-sém lôi kéo. – Đi! Đi! Mi mà không chạy lui tìm khẩu moóc-chê với tau thì từ giờ trở đi không có bạn bè chi hết! Hai đứa chạy lộn trở lại. Đồn giặc vẫn đang nghi ngút cháy. Chốc chốc một tràng đạn lấp trong đất đá bén lửa nổ bùng bùng làm than lửa tung lên mờ mịt. Hai đứa giẫm lên đá, lên gạch vụn lên lửa, lên than, lên những vũng máu lép nhép, bới chỗ này, móc chỗ kia. Trời vừa tờ mờ sáng, hai đứa moi lên được khẩu moóc-chê sáu mươi ly nằm lấp dưới đống gạch vụn và mấy thanh xà gỗ nghi ngút khói. Khẩu moóc-chê còn nguyên cả nòng, cả đế, cả máy ngắm. Bồng sướng quá vừa nhảy, vừa la, vừa cười ha hả: - Tau nói có sai mô! Bốn khẩu là đúng bốn khẩu! - Bồng ôm cái nòng thép vào lòng, lấy áo lau lau lớp bụi, rồi rung rung như kiểu bồng ru em, vừa cười tít mắt vừa nói nựng. - Khổ thân con chưa tề! Khổ thân con chưa tề! Chút nữa thì cha bỏ con lại cho Tây, để Tây hắn mang con ra bắn lại cha bùm bùm tề ề ề.. Điệu bộ mừng rỡ nhu điên của Bồng không làm Châu-sém cười theo mà tự nhiên em ứa nước mắt. Châu-sém vác cái đế, Bồng vác cái nòng, chạy một mạch về chiến khu, vô thẳng Xê-ca Một nộp cho Ban Tham mưu Trung đoàn. Trung đoàn trưởng sai o Chanh cấp dưỡng, nấu một nồi chè đậu đen đầy mập để tưởng thưởng cho chiến công xuất sắc và bất ngờ của hai chú liên lạc. Ông ngồi nhìn hai em sì soạp húp chè, nhìn khẩu moóc-chê chiến lợi phẩm dựng ở góc lán, nòng và đế súng máy ngắm còn lấm láp bụi đất như củ sắn mới nhổ lên.. Lòng ông rưng rưng cảm động. Và ý nghĩ hôm nào lại trở lại day dứt trong trí nhớ của ông:" Trên chiến luỹ kháng chiến của chúng ta xuất hiện bao nhiêu Ga-vơ-rốt! Những Ga-vơ-rốt Việt Nam chịu thương chịu khó, tần tảo, bòn mót vũ khí giết giặc như con nít nhà nghèo mót lúa bòn khoai ". Húp hết hai tô con chè nóng phỏng lưỡi Bồng-da-rắn và Châu-sém người toát mồ hôi đầm đìa. Ghẻ và rận đua nhau tấn công hai em. Hai em thấy khắp người ngứa điên. Quên cả lễ phép, hai em cởi phăng luôn áo để sang bên cạnh, và tiếp tục tấn công nồi chè với tốc độ chớp nhoáng hơn, vì chè đã bắt đầu hơi nguội. Trung đoàn trưởng chỉ cuộn vải xanh, trắng, đỏ Bồng cuốn quanh bụng và buộc chặt bằng sợi dây điện thoại, hỏi: - Chú mày cuộn tấm vải gì quanh bụng mà ràng rịt cẩn thận thế? Bồng ngừng húp chè, mắt ngớ ra. Chè đậu đen hấp dẫn quá làm em quên mất lá cờ chiến lợi phẩm định thu giấu. Em đành bối rối, xấu hổ thú nhận: - Dạ.. lá cờ tam tài của tụi hắn em lấy được trên cột cờ giữa sân đồn.. Em định giấu các anh, lấy vải may bộ áo quần. Áo quần em rách hết.. - Chú mi đừng có làm tầm bậy? - Trung đoàn trưởng nói giọng quở trách, mở rộng lá cờ ra ngắm nghía. - Đây là một chiến lợi phẩm hết sức quan trọng của trận đánh, còn quan trọng hơn cả khẩu moóc-chê kia nữa? Trung đoàn sẽ gửi lá cờ này ra Bộ Tổng tư lệnh cùng với bản báo cáo trận đánh. - Dạ, em cứ nghĩ hắn chẳng có gì giá trị chi em mới dám liều giấu các anh. - Bồng ấp úng thanh minh. Trung đoàn trưởng gấp lá cờ lại để trên bàn làm việc. Ông đến đầu hồi ngôi lán, lấy ba lô của mình treo trên con sỏ tre, mở nắp lôi ra một bộ áo quần ka ki ga-bạc-đin màu xanh lá cây còn khá mới. Ông đưa bộ áo quần của mình cho Bồng và nói: - Đây anh cho chú mày. Chỉ cần nhờ các chị sửa ngắn lại một chút là chú mày mặc vừa. Bồng đang bưng tô chè húp, liền đặt vội xuống bàn. Em đứng phắt dậy, đưa bàn tay lên, trở sống bàn tay đen chũi nhanh nước chè dính quanh miệng. Em nói với vẻ mặt và giọng hết sức nghiêm trang: - Thưa anh, không phải em chê, nhưng anh cho phép không nhận. Anh là trung đoàn trưởng, phải ăn mặc tử tế. Còn tụi em ăn mặc rách rưới loàng xoàng răng xong thì thôi. Hết ạ? Bồng lại ngồi xuống tiếp tục húp chè. Trung đoàn trưởng đăm đăm nhìn em. Trong khoảnh khắc đó ông vụt nhận ra rằng trước mặt ông không phải chỉ là một chú bé mà là một chiến sĩ; một đồng đội, với tư cách hết sức đoàng hoàng, buộc những người tiếp xúc, đối thoại phải kính trọng. Ông lặng lẽ cất bộ quần áo vào ba lô. Bồng-da-rắn và Châu-sém đua nhau tấn công nồi chè đậu đen không một chút khách khí cho đến lúc no căng cả bụng, không tài nào nuốt thêm được nữa mới chịu bỏ bát đứng lên. Châu-sém nhanh nhảu thu dọn chén đem ra con suối ngay trước mặt lán rửa, còn Bồng bê nồi chè trả xuống bếp. Hình như còn có chuyện gì muốn nói với trung đoàn trưởng nên đáng lẽ ra về, Bồng đứng ngần ngừ mãi bên cái bàn nứa. Cuối cùng em ngước mắt nhìn trung đoàn trưởng, nói: - Thưa anh, em có chuyện ni nói với anh đã lâu, mà cứ sợ anh la. - Có chuyện gì chú cứ nói đi? - Dạ.. cái dạo anh giao em nhiệm vụ về Huế quăng lựu đạn để phá cuộc mít tinh của tụi Việt gian ở sân vận động chợ Xép (2). Lúc rút lên chiến khu em không đi theo đường cũ. Em đi con đường ngang qua trước ngõ nhà anh. Em nhìn thấy chị. Hồi trước em đi bán bánh mỳ, mỗi lần qua nhà anh, chị thường ra mua bánh của em nên em biết mặt, mà chị cũng nhớ mặt em. Em giả đò cắt cỏ, ngó vô trong nhà. Một lúc em thấy chị đi ra, tay xách cái giỏ mây, chắc là chị đi chợ. Nhìn thấy em, chị dừng lại hỏi:" Dạo ni em không đi bán bánh mỳ nữa à? ". Em nói:" Dạ em đổi nghề đi cắt cỏ bán cho mẩy ông chủ xe ngựa ". Chị hỏi:" Bán cỏ rứa có đủ ăn không? ". Em nói:" Dạ, cũng tạm tạm thôi chị ạ, bữa no bữa đói ". Chị móc túi lấy ra hai đồng đưa cho em, nói:" Em cầm mà mua thêm đồ ăn ". Hai đồng đó em vẫn còn giữ đây. - Bồng moi trong túi ngực áo ra cái gói giấy nhỏ, bên trong có tờ giấy bạc hai đồng Đông Dương còn mới, gấp làm tám. Đưa gói giấy đó cho trung đoàn trưởng xem, Bồng kể tiếp. - Em nhìn kỹ chị, nước da chị trắng xanh mà cặp mắt chị buồn quá. Em thấy thương chị ứa nước mắt. Lúc đó em chỉ muốn nói với chị:" Em không phải đi cắt cỏ ngựa mô. Em là lính trinh sát của anh Lâu đây chị ơi? Mới hôm tê ở chiến khu, anh Lâu còn giao cho em trái lựu đạn rỗng với tiền và dặn dò em công việc phải làm. Chị có muốn đi lên chiến khu với anh không, em dắt chị lên.. ". Nhưng em không dám nói, em sợ lộ bí mật. Em đành đứng ngó miết theo chị cho đến lúc chị đi khuất sau cái ngã tư. Dọc đường, em càng nghĩ càng thương chị, rồi em đâm giận lây sang cả anh." Tại răng anh Lâu không cho người về đưa chị lên Xê-ca? Tụi Tây hắn biết là vợ anh, trước sau chi rồi hắn cũng bắt chị, tra tấn, đánh đập để trả thù anh đã chỉ huy bộ đội đánh tụi hắn, chị chịu làm răng cho thấu? ". Em nghĩ như rứa đó mới đâm giận anh.. Lúc này trung đoàn trưởng thật sự bối rối, không biết trả lời Bồng ra sao".. Chao, chú đội viên nhỏ của anh lại còn biết lo lắng đến cả cuộc sống riêng tư của anh, hạnh phúc của gia đình anh, chẳng khác chi một đồng chí lớn tuổi! ". Anh thầm kêu lên trong lòng như vậy. Trong lúc đó, chính uỷ trung đoàn đi vào lán. Ông đứng ở cửa lán nghe hết đầu đuôi câu chuyện của Bồng với trung đoàn trưởng. Ông hỏi em: - Nếu anh giao cho em nhiệm vụ về Huế, đưa chị Lâu lên Xê-ca em có bảo đảm được không? Bồng đứng nghiêm lại, rắn rỏi đáp: - Báo cáo chính uỷ, nhất định em làm được. - Em thử trình bày kế hoạch của em, anh nghe xem có trúng không nào? Dạ, anh Lâu viết cho chị một lá thư. Trong thư anh dặn chị giả làm người đi về quê thăm mộ, xách một cái giỏ, bên trong đựng xôi, cuối, vàng mã, hương đèn sáp.. Em sẽ mang thư về đưa cho chị. Hai chị em sẽ hẹn nhau ngày giờ, địa điểm gặp nhau. Em sẽ giả làm đứa giữ trâu, cầm roi đi tìm trâu lạc, đi trước dẫn đường. Chị đi sau em, cách chừng dăm chục bước. - Gặp tụi hắn có hỏi thì chị cứ nói là đi về quê thăm mộ. Em đưa được chị vượt qua khỏi đường quốc lộ là coi như êm.. Chính uỷ gật gù: - Được, kế hoạch của em được đấy! - Rồi ông nói với trung đoàn trưởng: - Anh Lâu viết tư cho chị đi. Việc này, tôi và các đồng chí trong trung đoàn uỷ đã nghĩ tới từ lâu, không ngờ hôm nay em Bồng lại gợi ý. Ông nói với Bồng: - Bây giờ em về báo cáo lại với anh Thắng, nói với anh là đúng bảy giờ sáng mai, chính uỷ trung đoàn mời cả hai anh em vô trung đoàn bộ, nhận nhiệm vụ. Bước ra khỏi cửa lán, Bồng chợt nhớ điều gì, quay vào nói với trung đoàn trưởng: - Dạ trong thư, anh nhớ dặn chị đừng đi guốc, mà phải đi dép có quai sau. Vì đường từ Sịa trở lên núi khó đi lắm anh ạ.. Một tuần sau, Bồng đã đưa được vợ của trung đoàn trưởng từ Huế lên chiến khu Hòa Mỹ an toàn. Là một nữ sinh Huế, xuất thân nhà đại gia, chị Lâu đã sống qua gần khắp các chiến khu Bình Trị Thiên trong những năm chiến tranh chống Pháp và trở thành một cán bộ kháng chiến. Chú thích: (1) Một tác giả chuyên viết chuyện kiếp hiệp thời đó. (2) Một lần chúng tổ chức một cuộc mít tinh ở sân vận động chợ Xép bắt nhân dân đến nghe" Thượng cấp hiểu dụ về mối hiểm họa Việt Minh trong thành phố Huế ". Ta quyết phá cuộc mít tinh đó. Sáng hôm đó, một chiến sĩ biệt động - em Bồng - mới mười lăm tuổi áo quần rách rưới, gánh đôi giỏ đến cắt cỏ quanh sân vận động. Lúc nhân dân bị bắt đến đã đông, Bồng liền cầm liềm đi vào giả vờ nghe. Một quả lựu đạn tung ngay vào trước mặt bọn cảnh sát nguỵ đứng gác. Bà con nhìn thấy la lên ầm ầm như vỡ chợ:" Việt Minh! Việt Minh! "Rồi xô nhau chạy. Quả lựu đạn không nổ vì ta không bỏ thuốc súng, đã giúp em Bồng hoàn thành nhiệm vụ phá vỡ cuộc mít tinh tuyên truyên, lừa bịp của địch (Trích những ngày khói lửa - Hồi ký của Trung tướng Trần Quý Hai - Nhà xuất bản Thuận Hóa - 1984). 8 Tổ trinh sát Châu-sém, Hiền và Bồng-da-rắn lại được trung đoàn giao nhiệm vụ bám vị trí Cầu Nhi - một đồn giặc nằm kề quốc lộ số Một, cách thành phố ba chục cây số về phía Tây Bắc. Trong ba em, Bồng-da-rắn ít được học hành nhất, trình độ chữ nghĩa cũng chỉ ngang ngang với Mừng - nghĩa là đọc chưa thông, viết chưa thạo. Nhưng Bồng có một năng khiếu đặc biệt là đánh hơi được rất nhanh và khá chính xác những ý đồ quân sự của cấp trên qua những yêu cầu về trinh sát mà cấp trên đề ra cho tổ. Nghe đội trưởng phổ biến xong nhiệm vụ trinh sát mà ban Tham mưu trung đoàn đề ra cho tổ mình lần này. Bồng nói với hai bạn: - Trung đoàn mình lại định nuốt lôốn" anh "đồn Cầu Nhi đây! Mà lần ni các ông sẽ nuốt lôốn tụi hắn bằng mẹo.. - Mẹo như răng? - Châu-sém hỏi lại, giọng nghi ngờ. - Nếu tau biết mẹo như răng thì tau đã làm quách trung đoàn trưởng cho rồi, việc chi phải làm thằng liên lạc trinh sát, chạy như cờ lông công mà hứng đạn? Có cái chắc là lần ni tau phải đớp luôn một bộ áo quần, không dại chơi anh cờ tam tài như cái trận Đất Đỏ. Năng khiếu này của Bồng cũng gần giống năng khiếu âm nhạc của Quỳnh-sơn-ca. Em Quỳnh nghe thấy âm nhạc trong tiếng xào xạc của lau sậy, tiếng rì rào của dòng sông, tiếng kẽo kẹt của những coọng nước quay đều đều.. Bồng thì ngửi thấy những ý đồ quân sự của cấp chỉ huy qua các yêu cầu về trinh sát địch. - Nhưng làm răng cậu biết được là lần ni các ông định nuất lôốn tụi Cầu Nhi bằng mẹo? - Hiền nhăn trán cố đoán mà không ra, đành phải hỏi Bồng. - Hai đứa bay không thấy trong yêu cầu trinh sát lần ni các ông cứ nhắc đi nhắc lại phải điều tra nắm chắc các đội quân tuần tiễu của địch đi lại ban ngày dọc đường quốc lộ, quân số bao nhiêu à? Lại cần phải nắm chắc tụi tuần tiễu là Tây hay Bảo vệ quân? Thường đi vô những giờ mô, sáng hay chiều; sáng thì giờ mô, chiều thì giờ mô? Mẹo của các ông chắc là nằm ở chỗ nớ. Hiền phải ngạc nhiên và phục trước đầu óc phán đoán của Bồng. Em nói riêng với Tư-dát: - Tớ nghe nói người thông minh trán phải cao, trán càng cao, càng thông minh. Rứa mà cậu Bồng trán chỉ thấp một khúc là tại răng cậu hè? Tư-dát cười, trả lời bừa: - Hắn là lính trinh sát từ trong bụng mạ. Mạ hắn phải đẻ hắn trán thấp rứa để nguỵ trang cho tụi giặc khỏi nhận ra. Một tháng sau, ban Tham mưu trung đoàn đã nhận được đầy đủ những câu trả lời của tổ trinh sát. Vào một buổi trưa trời nắng chang chang. Bồng và Châu-sém nằm ôm nhau ngủ trong cái chòi giữ rẫy che khuất giữa những vồng sắn cao lút đầu, cạnh đường quốc lộ. Hiền ngồi trong bụi cậy rậm cách đường chừng trăm mét, làm nhiệm vụ quan sát và ghi chép những đoàn xe giặc chạy ra chạy vào, và canh gác cho hai bạn ngủ. Đêm qua hai đứa phải đi gần suốt đêm để đem báo cáo về chiến khu. Từ chỗ Hiền ngồi, nhìn về phía nam em có thể thấy rõ đồn Cầu Nhi đóng trên một ngọn đồi thoai thoải. Mái tôn những ngôi nhà giữa đồn và chòi canh lấp lóa dưới nắng trưa. Hiền bỗng thấy xuất hiện ở khúc đường quanh một toán lính giặc tuần tiễu đang đi về phía đồn. Khoảng ba chục tên, vừa Tây vừa Bảo vệ quân. Khi toán giặc đến gần hơn, em nhìn rõ, đi đầu toán tuần tiễu là ba thằng Tây đội mũ sắt, cầu vai áo đen lon vàng chóe. Hiền vội rời khỏi chỗ núp, cúi rạp người, len lách giữa những vồng sắn, chạy về phía chòi, đánh thức hai bạn dậy. - Tụi hắn ít khi đi tuần tiễu trên đường vào giờ ni - Hiền nói vẻ băn khoăn. - Hay là tụi hắn bữa ni có chuyện chi gấp - Đi đi! Ta ra coi coi. - Bồng vừa dụi mắt vừa giục hai bạn. Ba em lủi nhanh về phía bụi cây Hiền vừa núp. Ba em khẽ khàng chui vào bụi nằm ép sát đất, vạch lá nhìn xuống đường. Bọn giặc đã đi đến điểm gần nhất mà các em có thể quan sát, Bồng hấp háy cặp mắt híp nhưng tinh như mắt mèo rừng, khẽ kêu giọng hồi hộp: - Thằng Tây đi giữa giống hệt anh Pun-xắc bay ơi! Mà thôi, đúng rồi! Thằng đi đầu đeo lon quan hai là anh Kê-men, thằng đi thứ ba là anh Kốc. Thằng Bảo vệ đi sau anh Kốc là anh Bùi Ngọc Hoàng. Chết cha tụi Cầu Nhi rồi! Chuẩn bị mà xung phong đi thôi bay ơi! Cặp mắt híp của Bồng đã nhìn rất chính xác. Pun-sắc, Kê- men, Kốc là ba hàng binh gốc người Đức, trong đội quân Lê Dương của Pháp, vác súng chạy sang hàng ngũ quân ta từ đầu năm 1947. Và anh Bùi Ngọc Hoàng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn mười sáu - tiểu đoàn chủ công của trung đoàn. Sau khi đã nắm chắc tình hình địch ở vị trí Cầu Nhi và quy luật hành quân tuần tiễu của giặc trên đường quốc lộ Một, Ban chỉ huy trung đoàn 101 đã tổ chức một trận kỳ tập tài tình, đầy mưu lược, tiêu diệt gọn vị trí Cầu Nhi trong vòng nừa tiếng dồng hồ. Trận kỳ tập đồn Cầu Nhi, sau này đã được Trung tướng Trần Quý Hai kể lại trong thiên hồi ký của mình (lúc đó ông là chính uỷ trung đoàn) : ".. Một buổi chiều, vào khoảng hai giờ, có một toán quân tuần tiễu đi đến đồn Cầu Nhi. Đi đầu là tên sĩ quan Pháp mang lon quan hai. Tất cả đều mang súng đạn đầy mình, trung liên, tôm xông, súng trường cắm lưỡi lê, lựu đạn. Chúng đi có vẻ mệt mỏi. Đứa phì phèo thuốc lá, đứa nhồm nhoàm nhai bánh kẹo, đứa xách mấy con gà kêu oang oác đứa vác trên vai buồng chuối chín, nhựa còn chảy ròng ròng. Rõ ràng chúng vừa đi cướp bóc một xóm nào đó rồi mới tới đây Tới trước cổng đồn, tên quan hai hô lính đứng lại và nói với tên lính gác cổng với thứ tiêng Việt lơ lớ. "Tôi muốn gặp đồn trưởng. Đi tuần qua.. mệt quá, muốn vào đâu nghỉ ăn trưa". Chẳng để tên lính gác trả lời, hắn đẩy cổng vô luôn. Cả toán lính vô theo. Và nhanh như chớp toán lính chia thành nhiều mũi, lao vào các nhà, các phòng làm việc, nổ súng bắn vào bọn lính đồn. Những tên sống sót quỳ xuống lạy như tế sao. Toán quân tuần tiễu đó là ai? Đó là những chiến sĩ thuộc tiểu đoàn mười sáu do tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng chỉ huy. Viên quan hai Pháp là ai? Là Kê-mên, một hàng binh người Đức ". Toán lính giặc đi khuất được một lúc, Hiền, Bồng và Châu-sém bỗng nghe tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ rầm rầm. Tiếng súng nổ mỗi lúc một rát. Lá cờ tam tài phất phơ trên đỉnh cột bỗng đổ nhào như con chim lớn màu sặc sỡ bị bắn hạ. Bỗng nhảy vọt ra khỏi bụi rậm, nhìn về phía đồn Cầu Nhi, hét to: - Đánh rồi? Chết cha thằng Cầu Nhi rồi! Vừa lúc đó, ba đứa nhìn thấy các cánh quân phối hợp lá nguỵ trang đẩy mình, từ các ngọn đồi trọc xung quanh chạy như bay về phía đồn. Bồng la lên: - Xung phong thôi bay ơi! Các anh vô đồn hết rồi! - Rồi em chạy như bay ra phía đường nhựa, Hiền và Châu-sém cắm cổ chạy theo. Ba em cứ thẳng đường nhựa chạy về phía đồn như ngựa tế. Bồng chạy trước, vừa chạy vừa la hét inh đường: - Chạy mau lên bay ơi? Chạy mau lên không áo quần tốt các anh vớ hết! Chuyến ni tau phải kiếm được một bộ thật đẹp? Khi ba em vọt qua xác thằng lính gác nằm ngang trước cổng đồn là lúc các anh đang tíu tít thu chiến lợi phẩm. Tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng vẫn mặc nguyên bộ áo quần Bảo vệ quân với cái lon cai trên ống tay áo, đứng trên nóc hầm ngầm la hét chỉ huy các đơn vị. Nhìn ba chú liên lạc của trung đoàn xuất hiện bất ngờ giữa sân đồn, anh liền ngoắc gọi lại, ra lệnh: - Hai chú này. - Anh chỉ Hiền và Châu-sém. - Chạy ngay ra bờ sông nói với đơn vị ngoài đó chuẩn bị gấp bè để vượt sông rút lui. Còn chú. - Anh chỉ Bồng, - chú vào các lô cốt hầm ngầm coi lại súng đạn chiến lợi phẩm còn sót khẩu mô không! Anh Hoàng vẫn nhớ đến khẩu moóc-chê sáu mươi li Bồng bới được trong trận Đất Đỏ. Hiền và Châu-sém xịu mặt, tưởng chuyến ni kiếm chác được chút chiến lợi phẩm, không ngờ bị phân công chạy ra bờ sông. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, hai em không chút chần chừ cùng hô to: - Báo cáo, rõ! Trước khi chạy ra khỏi đồn hai em nói nhỏ vào tai Bồng: - Kiếm được chút chi nhớ phần cho anh em với nghe! - Yên chí, chia ba. Chia ba cân phân! Bồng vừa la to trả lời hai bạn vừa xông vào ngôi nhà chính giữa đồn. Em nhìn thấy cái ba lô cóc to bự nằm lăn lóc cạnh vũng máu và xác thằng lính Lê Dương. Em nhào tói, bóp bóp cái ba lô và biết ngay bên trỏng đựng quần áo, đồ hộp. Em chộp lấy và đeo luôn lên lựng bụng mừng khấp khởi:" Ăn tiền rồi! ". Em xục vào gian nhà bên cạnh thấy một khẩu súng trường Anh dựng ở một góc tối. Bồng chộp khẩu súng, đeo vào vai, càu nhàu:" Làm ăn như cứt! Khẩu súng sờ sờ trước mắt ri mà cũng để sót! ". Em chui vào tầng dưới lô cốt bên trái đồn. Bên trong tối thui, nhưng em nhìn ra ngay xác một thằng Tây đen to như con trâu trương mặt bị lựu đạn thủng nát nằm đè lên một khẩu súng ga-răng. Ga-răng là loại súng các-bin cỡ lớn, bắn liền tám phát - ba khẩu ga-răng chụm lại bắn lợi hại không thua gì một khẩu trung liên. Bồng tức tối la lên: - Trời ơi! Các cha mắt mũi bỏ đi mô mà khẩu ga-răng cũng bỏ sót? Đúng là làm ăn như cứt? Bồng cúi xuống, hai chân dạng chân chèo, cố lôi khẩu súng nhưng không lôi nổi. Em thở hồng hộc, cố vần xác thằng Tây qua một bên để lấy khẩu súng. Nhưng cái xác nặng quá đá tảng, em đỏ mặt tía tai không sao vần nổi. Thêm cái mặt thủng be bét với hàm răng trắng nhởn, nhe ra như mõm chó sắp sủa trong cảnh tối mờ mờ làm em rùng mình, ớn lạnh dọc xương sống. Mùi máu ôi xông lên nồng nặc làm em muốn mửa. Suýt nữa thì em vùng bỏ chạy. Nhưng khẩu súng ga-răng đã giữ chân em lại. Vừa lúc đó bên trên đồn tiếng thanh la báo hiệu rút lui gióng giả vang lên từng hồi cấp bách. Em gọi to xem có anh nào trên đó xuống giúp em một tay, nhưng tất cả đang vội vã rút lui nên không ai nghe tiếng em gọi. Đồn Cầu Nhi không phải như đồn Đất Đỏ, nó nằm sát bên đường số Một, các đội ứng chiến tiếp viện của địch có thể đổ đến trong chớp nhoáng bằng phương tiện cơ giới. Cái ba lô cóc to tướng trên vai làm cho Bồng vướng víu. Em nổi xung lẳng luôn cái ba lô xuống đất, rồi dùng khẩu súng trường Anh làm đòn bẩy lật xác tên giặc sang một bên. Cuối cùng em lôi được khẩu ga-răng ra và khoác lên vai. Khẩu ga- răng nặng gấp đôi khẩu súng trường Anh, sức nặng của hai khẩu súng làm em muốn sụn vai. Lúc chui qua cừa ra ngoài, Bồng vấp phải cái thắt lưng Mỹ đeo tám băng đạn ga-răng. Em mừng rỡ nhặt lên nịt luôn vào ngang bụng. Ngoái nhìn cái ba lô vừa quăng xuống đất, biết sức không tài nào tha nổi, liền xử lý bằng cách nhổ lên đó một bãi nước miếng. Ban chỉ huy trận đánh được liên lạc báo tin một đoàn xe thuộc binh đoàn cơ động ứng chiến từ phía đồn Mỹ Chánh chạy về phía đồn Cầu Nhi. Tin này làm quân ta nháo nhào vọt ra khỏi đồn cũng nhanh như lúc vọt vào đồn. Trên vai anh nào cũng lặc lè súng đạn và những hòm lớn nhỏ chiến lợi phẩm. Tất cả hối hả rút về phía sông Cầu Nhi. Bồng rút chạy sau cùng. Nhưng vì mang đeo nặng quá, nó rơi lại mỗi lúc một xa. Khi em đến bờ sông thì các anh đã sang hết bên kia sông và đang chạy lúp xúp trên những ngọn đồi trọc xa xa. Bồng tụt xuơng bờ sông lở dốc đứng và nhào xuống nước. Sông Cầu Nhi hẹp nhưng khá sâu, nước trong xanh, chảy xiết Bồng là tay bơi lặn cự phách của đội. Bình thường em vượt qua con sông này dễ như bỡn. Nhưng lúc này phải tha theo hai khẩu súng và thắt lưng đạn nịt quanh người, nên em đuối sức sức nặng của súng và đạn cứ muốn dìm em xuống nước và đẩy xa về phía dưới. Mặc dầu vậy em vẫn không chịu buông hai khẩu súng, và có nguy cơ chết đuối. Em liền đổi chiến thuật, vừa bơi vừa lặn. Em vật lộn quyết liệt với dòng nước, bụng uống no căng nước. Đến phút em hoàn toàn kiệt sức tay không còn giữ nổi hai khẩu súng, thì chân em bất ngờ chạm nền cát và đá sỏi đáy sông, em vuốt nước trên mặt, reo to:" Thoát rồi? "Em lội ào vào bờ, trườn lên bờ dốc vác hai khẩu súng trên vai, chạy thục mạng. Chạy được mấy chục bước em vấp phải Pun-xắc người hàng binh Đức. Pun-xắc áo quần tóc tai ướt sũng nước, ngồi nép sau một mô đất ngó ra phía sông mà khóc như con nít. Anh hàng binh người Đức này mới hai mươi bốn tuổi, cao một thước chín mươi bảy phân, mái tóc vàng óng như tơ tằm và cặp mắt to xanh biếc. Anh ta đẹp trai đến nỗi các o bào chế, y tá, mỗi lần gặp anh đi ngang qua đều phải quay lại ngẩng lên nhìn vào cặp mắt xanh biếc của anh mà cười duyên. Bồng ngạc nhiên hỏi: - Răng anh lại ngồi đây mà khóc rứa? Pun-xắc nhận ra chú bé liên lạc vẫn thường gặp ở chiến khu. Anh đưa sống bàn tay quyệt nước mắt, nói tiếng Việt giọng Huế trọ trẹ: - Tôi làm mất khẩu tôm-xông rồi! - Làm mất à? Mất ở mô? - Bồng tái mặt hỏi. - Tôi bơi qua sông.. Khẩu súng tuột khỏi vai.. chìm xuống nước. - Ui trời? - Bồng giậm chân kêu, vừa giận dữ vừa sợ hãi. Em không thể nào tưởng tượng được một sự mất mát ghê gớm đến như thế. Bồng đã từng chiến đấu trong một trung đội Quyết tử quân chỉ có mác lào và mã tấu, nên em thấm thía cái giá của vũ khí không thua gì các anh Vệ Quốc Quân lớn tuổi. Em vẫn còn nhớ trong trận Võ Xá, anh trung đội trưởng giữ khẩu tôm-xông này, lúc rút lui làm rơi mất một băng đạn trong bốn băng của khẩu súng. Lúc đó đã quá nửa đêm, Chính uỷ trung đoàn bắt anh phải lộn trở lại con đường cũ tìm cho ra băng đạn. Đến tảng sáng hôm sau anh mới tìm ra được băng đạn đem về báo cáo với Chính uỷ. Bây giờ không phải mất băng đạn mà mất cả khẩu súng! Bồng giận run người. Em nhìn mặt Pun-xắc nói như quát: - Người ta nhỏ ri, người ta bơi qua sông còn tha được hai khẩu súng với tám băng đạn? Mình to cao như cái cột đình, mang có khẩu súng cũng để rớt! Bị một chú bé đứng chỉ cao đến thắt lưng mình la lối, quát mắng, Pun-xắc vẫn chịu ngồi im thin thít. Chính anh cũng hiểu một khẩu súng tiểu liên tôm-xông đối với bộ đội Việt Minh lúc này có ý nghĩa như thế nào. Cả đại đội biệt động - đại đội được trang bị tốt nhất tiểu đoàn - chỉ có ba khẩu tôm- xông. Và sáng nay lúc xuất phát, chính tay cô-lô-nen Lâu (1) - anh gọi trung đoàn trưởng như vậy - đã trao khẩu súng cho anh, căn dặn:" Nhớ giữ khẩu súng cẩn thận và bắn tiết kiệm đạn ". Thế mà anh đã để mất khẩu súng. Anh lo sợ có thể bị cô- lô nen Lâu đưa ra tòa án binh vì tội làm mất súng. Anh đã từng chiến đấu trong quân đội của Hítle. Anh hình dung kỷ luật của quân đội Việt Minh cũng nghiêm khắc ghê gớm như quân đội Hítle, nén nỗi lo sợ làm cho tấm thân cao lớn của anh gần như tê liệt, và đầu óc trở nên mụ mẫm. Anh chỉ còn biết ngồi nép mình sau mô đất nhìn ra quãng sông mình vừa đánh mất khẩu súng mà khóc như một đứa con nít. Bồng càng tiếc khẩu súng càng giận Pun-xác. Em chỉ muốn xông tới đạp cho anh ta mấy đạp. Em làu bàu:" To xác mà dở thúi! ". Bồng chợt nhìn xuống bụng áo Pun-xắc. Bụng áo căng phồng như bụng đàn bà chửa. Em cúi xuống nắn nắn bụng áo, lổn nhổn toàn đồ hộp! Lúc bộ đội thu chiến lợi phẩm, Pun-xắc lọt vào khu nhà bếp. Anh quơ đại đồ hộp để trong tủ, tọng hết vào bụng áo. Bồng vỗ vào bụng áo Pun-xắc giận điên người, quát thật sự: - Cầm hèn chi? Vô đồn không chịu lấy súng lấy đạn, lại ních đầy một bụng đồ hộp ri, làm chi bơi qua sông mà không chìm, không làm rớt mất súng. Chừ lại còn ngồi đó mà chảy nước đái? Bồng ném hai khẩu súng vác trên vai xuống đất, cởi nịt đạn ném lên hai khẩu súng, mặt hằm hằm hỏi: - Làm rớt chỗ mô, ra chỉ cho người ta mò lên! Pun-xắc chạy theo Bồng ra bờ sông. Anh nhặt hòn đá ném ra quãng giữa sông, chỗ anh ta vừa đánh rơi khẩu súng. Bồng mắt ngó theo chỗ hòn đá vừa rớt xuống, hai tay tụt nhanh bộ áo quần rách nhơ xơ mướp, ném xuống đất. Em nhảy thẳng từ trên bờ dốc đứng xuống nước. Em sải tay bơi ra chỗ hòn đá vừa rơi, chúi đầu lặn. Cái mông trần tím ngắt những bọng ghẻ ruồi và hai cẳng chân em chống ngược lên khỏi mặt nước trong chớp mắt, rồi biến hút trong làn nước xanh ngắt. Pun-xắc nừa ngồi nửa quỳ trên bờ sông, hai tay chống đất, cặp mắt xanh hau háu nhìn xuống chỗ Bồng vừa lặn. Tiếng động cơ cả một đoàn xe của giặc từ phía đường quốc lộ vọng lại rõ dần. Dưới sông, Bồng nổi đầu lên. Em đưa hai tay lên cao. Hai tay không. Em há to miệng hớp hớp không khí, nhìn lên bờ, đầu lắc lắc báo hiệu chưa tìm thấy khẩu súng. Pun-xắc hớt hải, đưa hai bàn tay lên miệng làm loa, gọi to: - Bồng! Bồng! Xe bọn giặc đến gần! Nhưng dưới sông Bồng đã chúc đầu, chổng mông lặn biến xuống nước. Từng đợt vòng sóng, nở to mãi, lan vào đến tận bờ. Lần thứ hai Bồng nổi đầu lên, vẫn hai tay không. Tiếng đoàn ô tô giặc gầm rú ngay phía ngoài đường quốc lộ. Chắc chúng đã chạy đến trước cổng cái đồn vừa bị đánh tanh bành và nghi ngút lửa cháy. Tiếng phanh rít của đoàn xe vọng vào đến tận đây. Dưới sông, Bồng xua tay lia lịa về phía Pun-xắc: - Chạy đi! Chạy đi! Tụi hắn vô đây chừ đó! Pun-xắc vọt đứng lên. Anh chạy đến chỗ Bồng để hai khẩu ga-răng và chiếc nịt đạn. Anh nhặt khẩu ga-răng, giật mạnh cơ bẩm." Rắc! ". Một viên đạn vọt ra khỏi nòng súng. Băng đạn vẫn còn nguyên. Anh lượm cái nịt đạn, thắt vào ngang người và nhào trở lại phía bờ sông. Anh quỳ xuống sau một mô đất sát mép bờ sông, chĩa khẩu súng sang bên kia bờ. Từ cổng đồn vào đến đây chỉ khoảng năm trăm mét đường chim bay. Bọn giặc tiếp viện bắt đầu bắn xối xả ra bốn phía. Nhiều tràng đạn bay rít ngang qua mặt sông. Cặp mắt to xanh biếc của Pun-xắc mở trừng trừng nhìn sang phía bên kia sông, miệng anh mím chặt, toàn bộ dáng vẻ khổng lồ của anh hiện rõ quyết tâm trụ lại ở đây, líều chết để yểm trợ cho Bồng. Và dưới sông Bồng cũng quyết tâm lặn mò cho bằng được khẩu súng. Đạn mỗi lúc nổ một rát; một gần hơn. Chúng bắn đại liên và cả đại bác hai mươi li về phía bờ sông. Chúng đã đoán được con đường rút lui của quân ta. Bồng lại chúi đầu, chống mông lặn xuống nước lần thứ ba. Lần này em lặn còn lâu hơn cả hai lần trước, Pun-xắc nhìn xuống sông, lòng như lửa đốt. Một giây trôi qua anh có cảm tưởng như dài bằng cả một ngày. Và trong khoảng khắc anh đã cảm nhận vô cùng sâu sắc tinh thần cao thượng và lòng dũng cảm phi thường của đội quân mà anh đã quyết định lựa chọn để chiến đấu. Được cùng chiến đấu, cùng sống và cùng chết với những chiến hữu như chú bé đang giúp anh lặn mò khẩu súng dưới đáy sông kia, thật là một điều may mắn cho đời anh, và cũng là một niềm hạnh phúc to lớn! Anh nghĩ vậy và tự nhiên nước mắt trào ra, những giọt nước mắt vui sướng, thuần khiết, trong sạch đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp của anh. Bồng trồi đầu lên khỏi mặt nước và hét váng mặt sông: - Mò thấy rồi! Em đưa cao khẩu súng ròng ròng nước quá đầu cho Pun-xắc nhìn thấy, rồi vừa lặn, vừa hụp, vừa bơi về phía bờ sông. Hai chiếc ô tô G. M. C chở đầy lính Âu-Phi, trước mỗi xe đặt hai khẩu đại liên, từ phía đường quốc lộ vừa bắn vừa lao băng băng qua những dốc đồi trọc, vút thẳng đến bờ sông. Hai chiếc đã ló mũi súng trên ngọn đồi thấp cách bờ sông bên kia khoảng chừng trăm mét. Dưới sông còn hơn chục mét nữa Bồng mới tới bờ, Pun-xắc giận dữ nhằm chiếc xe đi đầu bắn liên tiếp cả kẹp đạn, và anh lắp một kẹp đạn mới, bắn tiếp. Tiếng đạn ga-răng nổ rất đanh và đường đạn khá chính xác. Hai chiếc xe hoảng hốt phanh rít. Bọn giặc trên xe vọt xuống đất nằm oẹp chĩa súng sang phía Pun-xắc bắn trả như đổ đạn. Nòng hai khẩu đại liên đặt trên xe chúc thẳng xuống mặt sông, nổ rầm rầm chát chúa. Chúng đã nhìn thấy Bồng. Em hụp sâu xuống nước, lặn một hơi tới thấu bờ. Em nhào lên bờ đất. Đạn đại liên chíu chíu quanh mình em, cắm phầm phập vào đất, và mặt sông quanh em sôi lên như tăm cá. Pun-xắc nhoài người ra sát mép sông, túm lấy tay Bồng gần như xách bổng em lên bờ đất dốc ngược. Hai người cúi rạp mình chạy ngoằn ngoèo sau những mô đất, những bụi sim mua, để tránh đạn. Ngang qua bụi cây lúc nãy, Pun-xắc lượm khẩu súng trường Anh, và giật luôn cả khẩu tôm-xông Bồng đang cầm, vác tất cả lên vai mà chạy. Đạn bay như ong vỡ tổ, rít quanh hai người. Hai anh em chạy cách bờ sông được khoảng chừng ba trăm mét, bọn giặc đã nhào đến mép bờ sông bên kia. Chúng tiếp tục xả súng bắn theo hai người nhưng họ đã đứng ngoài tầm nguy hiểm. Chạy lên đến đỉnh đồi, Bồng nhìn trật xuống thấy mình trần truồng như nhộng. Bộ áo quần rách mướp vì vội quá đã quên lại trên bờ sông. Lần ni tưởng vớ được bộ áo quần đẹp không ngờ lại mất luôn cả bộ áo quần rách. Em rên lên vừa tiếc vừa tức:" Lỗ to!"Trong lúc đó súng giặc vẫn nổ rền. Nổi xung, em cầm lấy chim, ưỡn người trễ về phía bọn giặc, rung rung chửi toáng: - Có [bad word] cau đây cho bắn! Có [bad word] tau đây cho bắn! Bắn cái mả cha bây đây nì! Pun-xắc đứng sững nhìn Bồng. Chưa hiểu rõ nghĩa câu chửi, nhưng anh hiểu chú bé này đang làm gì. Anh bật cười vang. Bồng ngoảnh sang nhìn Pun-xắc đang đứng cười ngặt nghẽo, liền giục: - Anh trẽ [bad word] đi! Anh trẽ [bad word] đi! - Vừa giục em vừa trỏ vào hàng khuy quần của Pun-xắc, ra hiệu. Pun-xắc lập tức giật tung hàng cúc quần, lôi cái của mình ra, bắt chước Bồng cũng cầm rung lia lịa trẽ về phía bọn giặc, hét váng cả dãy đồi: - Voa-la mông cui! Voa-la mông cui! Bồng trợn tròn mắt nhìn, phục lác mắt và kinh ngạc trước vóc dáng đồ sộ cái của Pun-xắc. Em kêu lên thích thú: - Ui chao! Hắn to chi mà to đã gớm! Như cái chày giã gạo? - Anh trẽ nữa đi! Trẽ nữa đi! To mà dài như rứa có đứng xa hàng cây số tụi hắn cũng phải ngó thấy! Pun-xắc nghe theo Bồng, càng ra sức rung mạnh, ra sức hét to! Và con người hàng binh quốc tịch Đức có vóc dáng khổng lồ này phút chốc đã hóa thành một đứa con nít nghịch ngợm. Hai anh em lại tiếp tục chạy. Khi tiếng súng giặc đã khuất hẳn sau dãy đồi vừa chạy qua, và tin chắc không còn gì nguy hiểm nữa, Bồng liền nằm dài ra đất mà thở. Mặt em tái mét vì quá mệt. Miệng em há hốc, thở như sắp hụt hơi, muốn nói gì đó mà không ra tiếng, Pun-xắc cũng ngồi xuống cạnh Bồng. Anh đặt ba khẩu súng trên vai xuống, cởi cái thắt lưng đạn đặt lên ba khẩu súng. Anh mở phanh cúc áo, xổ ra đất cả một đống đồ hộp, có đến vài chục vừa hộp vừa lon: Thịt, cá, sữa đặc, sữa bột, chanh bột, cà phê, ca cao, sô cô la.. Anh nhún vai nhìn đống đồ hộp quay sang nói với Bồng, giọng hối lỗi: - Chỉ vì mấy cái thứ đồ hộp khốn nạn này mà anh suýt làm mất khẩu súng quý, suýt làm cho em chết chìm dưới sông. Pun-xắc đứng phắt dậy, nhặt một hộp thịt bò lớn bên ngoài có vẽ cái đầu bò và những lát thịt màu đỏ tươi, dang mạnh tay định ném xuống cái vực dưới chân đồi. Đang nằm tay chân duỗi thẳng đờ, Bồng vụt chồm ngay dậy, hớt hải nhảy lên đánh đu vào cánh tay cầm hộp thịt của Pun-xắc, la bai bải: - Đừng vứt! Đừng vứt! Bồng giật phắt hộp thịt trong bàn tay to lớn của Pun-xắc, kêu: - Khi hồi trong đồn không vứt, chừ đã tha được về thấu đây lại đem vứt! Dại chi mà dại dữ rứa! Bồng ngồi phệch xuơng đất, níu áo kéo Pun-xắc xuống theo, vừa thở vừa nói: - Anh đục hộp thịt ra ăn đi? Em đang đói gần chết đây.. Lại một chuyện bất ngờ nữa đối với người hàng binh khổng lồ này. Anh ôm đầu Bồng rị vào ngực mình, xoa xoa mái tóc bù rối của em, cảm động nói: - Làm sao trong cái đầu bé nhỏ thế này mà em lại chứa đựng được nhiều trí khôn đến như vậy! - Đục đi anh! Đục đii Em đang thèm rệu cả nước miếng đây. Pun-xắc rút con dao găm cạnh sườn, đục hộp thịt với bàn tay thành thạo. Hai anh em vừa bốc thịt ăn vừa nhìn nhau mà cười. Vừa lúc đó một tổ bộ đội từ dưới chân đồi chạy lên. Nhìn thấy hai anh em đang nhồm nhoàm nhai thịt, họ mừng rỡ kêu to: - Đây rồi! Đây rồi! Té ra khi rút về đến địa điểm tập kết, tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng mới phát hiện ra thiếu Pun-xắc và Bồng. Anh liền cử một tiểu đội quay lại tìm hai người. (Chú thích: (1) Trung đoàn trưởng Lâu)
Chương 18 Bấm để xem 11 Lượm cùng với các bạn trong đội ngồi quây quần xung quanh một tờ báo đặt lên thềm xi măng sát dãy bể nước hỏng. Trên tờ báo có chục vắt cơm tù, một cái lon đựng muối mỏ. Và cái vỏ đồ hộp vuông đựng lưng miệng bánh bích quy vụn. Cái thùng nước sạch Lượm mang về để sát thành bể, miệng thùng đậy mấy ngọn lá bàng loáng nước. Lon bích quy vụn là sáng kiến của Thúi. Túi bánh vụn Lượm mang về được chia làm hai phần, một phần tiếp tế cho các anh ở xà lim và ca-sô âm phủ. Phần còn lại, cả đội đòi ăn hết một bữa đã nư, nhưng Thúi gàn: - Tụi mình con nhà nghèo ăn uống phải tùng tiệm. Mỗi bữa ăn một ít thôi. Để dành lỡ có đứa mô đau, cơm cháo không nuốt được, còn có miếng bánh cầm hơi.. Lượm giao túi bánh cho Thúi giữ, cười nói với nó: - Mi mà vô Vệ Quốc Đoàn răng cũng được cấp chỉ huy lựa làm quản lý. Mi mà làm quản lý, tụi tau hoàn toàn tin tưởng, chứ vô tay đứa khác, hắn chỉ tắc lẻm một lúc là hết bọc bánh. Thúi quản lý túi bánh rất chặt. Lúc nào nó cũng đeo kè kè bên lưng. Đi qua nó, đứa nào cũng phải đứng lại hít hít, vì mùi bánh bích quy bơ thơm điếc mũi. Đứa nào cũng nằn nì: - Cho tau một miếng nhỏ bằng ngón tay út thôi! Thúi hứ một tiếng: - Mỗi đứa cứ xở bớt một miếng bằng ngón tay, mười đứa gộp lại cũng hết lưng túi bánh còn chi! Thèm đành nuốt nước miếng nhưng không đứa nào dám chê bai Thúi. Vì chưa một lần chúng bắt gặp Thúi miệng tóp tép nhai bánh. Nó nói: - Ăn chùng ăn vụng bánh lúc ni cũng bằng ăn cứt của anh em! Cả đội đều chịu phục nó sát đất: "Đói thắt ruột mà suốt ngày lại cứ phải ngửi mùi bánh thơm nhức mũi, mà hắn nhịn được, không tắc lẻm thì tài thiệt". Đến bữa ăn, Thúi ngồi dang chân, để túi bánh vô giữa, mở ra, xúc một lon rồi buộc ngay lại. Đứa nào lân la đến gần, nó hát mắt ngay! Nó không ăn trước một miếng dù nhỏ bằng cái móng tay. Có chăng là nó chỉ mút ngón ray dính chút bột bính, mút đi mút lại mấy lần. Lon bánh được đặt chính giữa tờ báo chờ ăn cơm xong, chia nhau tráng miệng. - Ta ăn cơm thôi anh em hè! - Lượm nói. - Ngớ tề, có hai đứa trong băng Lép-sẹo đang xách cái bị chi nặng đi về phía ta. - Ngạnh nói, chỉ tay về phía thềm ba-ti-măng hai. Chồn-hôi và một thằng nữa đi đến chỗ anh em Lượm đang ngồi. Chồn-hôi đặt cái bị xuống, nói: - Anh Lép-sẹo sai hai đứa tui đến.. Nó mở cái bị, lôi ra một con gà luộc to tướng da vàng hươm, đủ cả đầu, cả chân, đặt chồng lên những vắt cơm. Nó nói với vẻ trịnh trọng khác thường: - Anh Lép-sẹo tụi tui nói đem kỉnh anh Lượm con gà, đền ơn anh cho thuốc cứu mạng. Có thể nói nếu một kỳ quan thế giới xuất hiện giữa sân lao Thừa Phủ cũng không làm bọn trẻ sửng sốt bằng khi nhìn thấy con gà luộc nằm đè lên những vắt cơm tù vừa sống, vừa nhão, vừa khê. Tất cả gần như nín thở, mắt mở tròn xoe, dán chặt vào con gà luộc. Chúng có cảm giác cả đời chúng chưa bao giờ được nhìn thấy một con gà luộc to đến như thế, béo đến như thế, vàng hươm đến như thế! Nước mỡ trên cái lưng tròn căng, bóng loáng rịn ra chảy thành dòng, lăn xuống mấy vắt cơm bên dưới, và thấm luôn vào vắt cơm. Vắt cơm tù lập tức ánh lên màu vàng béo ngậy. Tất cả bọn trẻ đều nuốt nước miếng ừng ực. Không còn đủ sức nhịn nổi, cả chục ngón tay đen đúa, cáu ghét, cùng một lúc đưa ra sờ vào cái lưng tròn mum múp rịn nước mở của con gà mái luộc. Lượm-sứt cau mặt. Những ngón tay thèm khát vội rụt ngay lại và để lại trên làn da gà vàng hươm những vết đen như vết lăn tay, điểm chỉ. Con gà luộc của một tay anh chị đưa đi kỉnh biếu cũng có khác. Hai cái chân gà ngòn khum khum buộn chéo vào cổ gà bằng một mẩu dây thép, sát ngay bên dưới cái đầu, đúng điệu đầu lâu xương chéo trên lá cờ của quân cướp biển. Thằng Lanh cúi sát xuống cặp giò gà, xem xét cái gì đó rất kỹ. Nó ngẩng lên nói với Lượm: - Con gà ni là con gà mái mơ của mụ vợ Một Điếu. - Răng mi biết? - Ngó cặp chân là tui biết ngay! Các món chân gà đều bị mụ chặt cụt chắc là để nó khỏi bươi phá bồn hoa trước mặt nhà Một Điếu. Con gà ni rất hay chui qua cửa sắt vô lao kiếm ăn. Cách đây lâu lâu tui đã chộp được nó, cũng định vặt lông nướng đãi anh chơ bữa chơi. Nhưng tui nhớ tới cái chân bị Một Điếu bắn nát xương bánh chè của anh tù ăn trộm gà, tui phải thả ra ngay. Nhờ rứa tui mới biết các móng chân bị cụt đó chớ! Trong vài ngày gần đây, Lượm đang phải có chuyện lo nghĩ ghê gớm. Chính nhờ sự phải mải lo nghĩ đó mà đầu óc Lượm trở nên sáng suốt, nhạy bén. Nếu không chắc nó cũng gật đầu nhận với tất cả vẻ hãnh diện của người được đích thân địch thủ gửi đồ kính biếu. Hơn nữa, con gà cũng làm nó rệu nước miếng vì thèm giống như các bạn. Cộng thêm câu nói khôn ngoan của thằng Lanh: "Nhưng nhớ đến cái chân anh tù ăn trộm gà bị Một Điếu bắn nát xương bánh chè, tui phải thả ra ngay.." làm Lượm nhận ra tai họa khôn lường đang rình rập núp sau lưng con gà luộc. Lượm bưng con gà đặt trả vô bị của hai đứa được phái đi kính biếu, và nói với chúng: - Hai đứa bay về nói với Lép-sẹo là Lượm-sứt xin nhận tấm lòng của Lép-sẹo, nhưng con gà thì xin trả lại nghe.. Nghe nói vậy nhiều đứa trong đội xịu mặt vì thất vọng. Chúng nhìn con gà với bộ mặt đưa ma. Lượm nói tiếp giọng khá gay gắt: - Hai đứa bay nhớ nói với Lép-sẹo: Lượm-sứt không ngờ một tay anh chị khôn ngoan như hắn mà lại làm một việc ngu dại đến như rứa! Hay là hắn muốn bóp dái Một Điếu hỏi ai bắt trộm gà, thì phải nhận lấy chứ đừng đổ bậy đổ bạ cho tụi tao nghe! Tụi tao là Vệ Quốc Đoàn, là du kích, không thích mang tiếng với Tây là quân ăn trộm gà! Thôi xách đi! Lượm nhét cái quai bị vô tay Chồn-hôi, khoát khoát tay ra hiệu hắn xách ngay đi cho khuất mắt 12 Cách đây hai hôm, buổi sáng Lượm đang lúi húi lau sàn nhà phòng làm việc của quân hai I-tai thì thấy viên đội văn phòng đi vào. Sau khi chào hỏi, hai thằng nói chuyện với nhau. Lượm vừa lau nhà, vừa cố hết sức lắng nghe câu chuyện giữa hai thằng Tây, vì bất thần lọt vào tai nó tiếng: Prisonnier (tù) Viên đội văn phòng báo cáo với tên Giám đốc sở là vừa nhận được công văn của cấp trên, báo cho biết mấy hôm nữa sẽ có hai người lính da đen xuống sở để làm công việc lao công, thay cho toán tù. Vì đây là một công sở quan trọng của quân đội, không nên để bọn tù Việt Minh đến làm cỏ vê.. Câu chuyện bất ngờ nghe lỏm được làm Lượm choáng váng. Nó xách xô nước bẩn và cái giẻ lau đi ra khỏi phòng. Nó mừng thầm là đã may mắn nghe lỏm được cái tin đáng sợ này. Nếu không, công phu chuẩn bị gần hai tháng trời thành công cốc. Chưa kịp trốn tù thì một buổi sáng không thấy xe sở Pốt đến đón tù đi làm nữa. Hy vọng tiêu tan. Hai lớp tường cao vòi vọi của nhà ngục Thừa Phủ lại vĩnh viênc khép kín, vây chặt. Phải trốn gấp, nếu không sẽ không biết còn phải ở tù đến bao giờ! Và cũng có thể chết gục trong tù vì đói khát, bệnh tật. Ý nghĩ đó nóng rát trong đầu Lượm như than đỏ. Suýt nữa làm nó mất bình tĩnh, định liều lĩnh chạy trốn ngay trưa hôm dó. Nhưng kinh nghiệm đau đớn của hai lần trốn tù thất bại trước đó đã làm nó tĩnh trí lại. Lượm quyết định phải dò xem ngày nào chúng gửi lính da đen đến thay thế tù làm cỏ-vê. Lượm rửa tay sạch sẽ, lau khô, bước vào phòng làm việc của viên đội văn phòng với vẻ mặt thật tươi tỉnh. Lúc đó khoảng mười giờ sáng. Ngoài trời gió thổi lộng, lá rụng tới tấp. Lượm liếc nhìn thấy viên đội ngồi trước bàn kê sát tường, hý hoáy đọc và ghi vào sổ công văn. Trên mặt cái bàn vuông cạnh đó để chồng chất những đống thư. Đó là những thư chờ đóng dấu bưu điện của sở. Lượm lễ phép nói: - Thưa ông đội, tôi đã làm xong công việc dọn vệ sinh. Ông có thể cho tôi tập đóng dấu bưu điện? Viên đội ngẩng lên nhìn Lượm với cặp mắt xanh lưo như có ý dò hỏi: Sao thằng nhỏ này lại không thích nghỉ ngôi, mà cứ thích luôn tay làm việc? Lượm bước đến cạnh bàn, nói tiếp làm như vô tình: - Ông quan hai có hứa sau khi ra tù, ông có thể nhận tôi vào làm tùy phái ở sở. Tôi muốn được tập làm một số công việc cho quen tay. - Mày đóng dấu đi! - Viên đội chỉ đống thư rồi cúi xuống đọc và viết tiếp. Lượm xếp thư thành từng chồng, cầm con dấu có cán như cái búa, một nhát vào hộp mực dấu, một nhát vào góc phong bì, nhịp nhàng đều đặn. Póc pịch! Póc pịch! Viên đội quay lại nhìn, gật đầu khen: - Tốt lắm! - Cám ơn ông đội! - Lượm lễ phép đáp không ngẩng đầu lên, tay không ngừng póc, pịch! Nó nghĩ bụng: "Mi cứ cho tau biết ngày mô mi thôi cho tau đi làm, tau còn cám ơn mi hơn!". Lượm liếc nhìn những tờ giấy đánh máy có dấu đỏ, viên đội đọc vào sổ xong, để thành một tập dày bên cạnh. Có thể cái công văn nói rõ ngày tháng thay tù nằm trong tập đó, nhưng biết làm cách nào xem được bây giờ? Ngoài vườn gió thổi ào ào. Nhìn qua cửa kính, Lượm biết gió đang thổi thốc vào phía phòng. Phải làm liều thôi! Nó lập tức quyết định. Với tay qua bàn, nó vặn chốt cửa sổ, đẩy hai cánh cửa mở rộng. Gió thổi thốc vào phòng mang theo cả những chiếc lá khô vàng. Chồng giấy đánh máy bay tung khắp phòng. Viên đội giật mình kêu lên: Ô lá la! Méc đờ! Lượm giả bộ sợ hãi, cuống quýt đóng ập ngay cửa sổ lại! - Xin lỗi ông đội. Tôi thấy phòng hơi tối, muốn mở cửa cho ông nhìn đọc và viết được dễ hơn. Tôi sẽ lượm xếp lại như cũ.. Lượm hối hả chạy đi thu nhặt giấy bị bay. Tờ nào cầm lên nó cũng rũ rũ như có bụi dính bẩn. Và lúc rũ tờ giấy, nó liếc rất nhanh. Không phải! Không phải! Không phải! Trời ơi không phải!.. Đây rồi! Tờ giấy nắm vận mạng của nó bay tíy tận góc phòng. Lượm mừng đến muốn trào nước mắt. Ngày hai mươi tháng sau, hai người tù da đen sẽ đến sở nhận việc. Lượm đặt tập giấy đã xếp ngay ngắn lên bàn, bối rối nói: - Mong ông đội tha lỗi cho sự vô ý của tôi! - Không sao!.. Hắn lại cúi xuống cắm cúi viết. Lượm đến bàn, đóng dấu tiếp các chồng thư. Con dấu bưu điện in rõ ngày hôm nay mười bốn tháng sáu. Póc pịch! Póc pịch! Póc pịch! Mười bốn tháng sáu. Mười bốn tháng sáu. Mười bốn tháng sáu! Con dấu bưu điện in mổ vào hộp mực in, mổ xuống góc phong bì, lúc này vang lên bên tai Lượm điệp khúc đó. 13 Hai mươi tháng sáu là ngày thứ hai. Lượm quyết định vượt tù vào trưa ngày mười tám, thứ bảy! Trước mắt Lượm chỉ còn hai ngày nữa để chuẩn bị những khâu quan trọng cuối cùng. Điều làm Lượm phải nát óc lo nghĩ là trong cuộc vượt tù lần này phải đưa được thằng Thúi cùng trốn. Đã từ lâu, Lượm coi Thúi như đứa em ruột, như chính Tư-dát vậy. Chưa một lúc nào Lượm có ý nghĩ vượt tù lấy một mình, để Thúi lại chơ vơ trong nhà lao. "Cũng một phần do mình mà tự nhiên nó bị vào tù. Và nếu không có nó la tiếp cứu, săn sóc mình lúc đau, thì chắc mình đã ngoẻo lâu rồi". Lượm luôn nghĩ như vậy. Lượm đã nói riêng với Thúi từ lâu dự định vượt tù và dặn nó phải hết sức giữ kín. Kế hoạch trốn tù của hai đứa, Lượm phác qua cho nó nghe: Đến ngày đó, Lượm sẽ tìm cách đưa nó đi làm cỏ-vê. Nó sẽ đóng vai thằng bán kẹo gừng "đúng nghề nghiệp chuyên môn của mi", đi trước dò đường, Lượm sẽ đi sau nó chừng trăm bước, đóng vai thằng ở đi chợ về. Tay Lượm sẽ xách cái bị, trên bị để mấy mớ rau, hành dưới bị là "khẩu côn mười hai" của thằng quan hai I-tai (khẩu súng này không một phút nào nằm ngoài tính toán của Lượm). Dọc đường tẩu thoát hễ thấy động động như gặp trạm kiểm soát, tụi An ninh, Bảo Vệ Quân đi tuần tiễu là Thúi phải rao kẹo gừng nóng mới ra lò thật to, để phía sau Lượm liệu đường đối phó.. Lượm nói với Thúi: - Công việc đi trước dò đường rất khó, trong bộ đội gọi là đi xích hầu. Đi xích hầu phải khôn ngoan, chăm chú, lanh trí, nếu không, người đi sau dễ dàng ăn đạn. Thằng Tư-dát đi xích hầu cho tau, chỉ lơ là một chút mà tau bị tóm, rồi mi cũng bị tù lây luôn. Liệu mi có làm được không? - Làm được. - Mi không sợ à? - Chắc lúc đó tui cũng run.. Nhưng tui biết sau lưng tui có anh thì răng tui cũng làm được.. - Thúi ngẫm nghĩ một chút, rồi nói thêm, mặt nó trở nên già câng. - mà có chuyện chi thì hai anh em mình cùng chết. Anh đi mô tui xin đi theo nấy. Tui mà không có anh thì e tui cũng nhảy xuống sông, xuống hói mà chết cho rồi đời! Lượm lấy số tiền Thúi cất giữ bấy lâu, đem đi sắm cái mủng, cái mẹt bán kẹo gừng, và một túi nhỏ kẹo gừng, để hôm đó bày lên mẹt. Thằng Thúi cứ xuýt xoa tiếc mãi cái thúng, cái mẹt cũ của nó. - Tau mua cho mi bộ đồ nghề mới cũng tốt lắm. - Đồ nghề mới quá, họ dễ nghi? Mủng mẹt cũ, sợi dây đeo đen láng mồ hôi mới ra thằng bán kẹo gừng thành thạo.. Rứa đồ nghề anh mua sắm, chừ giấu ở mô? - Trên cái máng xối sau dãy nhà kho. Tau đã buộc sẵn cả dây đeo vô rổ mủng. Việc đưa Thúi đi làm cỏ-vê không đến nỗi khó lắm. Lượm đã ướm thử với anh Bện: "Thằng em tui từ ngày bị bắt đến chừ chưa được tắm, ghẻ lở đầy người. Bữa mô anh giả đò đau, nghỉ một bữa, cho em tui thế chân anh đi làm cỏ-vê để hắn được tắm sông. Có được không anh?". Anh Bện đồng ý ngay: "Khi mô cậu em thích đi, chú cứ nói với tui. Đi thay một bữa chứ hai ba bữa cũng được". Nhưng còn lão Tụng, biết làm cách nào để lão ở lại nhà lao đúng cái hôm vượt tù? Lão ta vẫn không ngớt để mắt dò la Lượm. Cặp mắt hùm hụp giảo quyệt của lão vẫn thường liếc nhìn trộm Lượm, và đáy mắt loé ánh thù hận. Bắt gặp tia nhìn của lão, Lượm vừa tức giận, vừa lo sợ. Nó có cảm giác cặp mắt trơn nhớt, ghê ghê như mắt rắn độc của lão bám chặt khắp người mình, cả lúc đứng, lúc đi, lúc ăn, lúc ngủ.. Lượm biết, chỉ cần lộ ra một chút gì đó, lão sẽ báo ngay với tụi Tây. Lão đã làm cho Lượm phải lo nghĩ bồn chồn, thấp thỏm, mất ăn mất ngủ. Làm cách nào đây để loại lão Tụng ra trong cái ngày sống chết quyết liệt đó? Lượm nghĩ đến nát óc. Buổi chiều thứ sáu - trưa thứ bảy là ngày cuối cùng để vượt tù - ngồi trên xe sát bên cạnh lão, trở về nhà lao, Lượm nảy ra quyết định: "Phải nhờ tay Lép-sẹo!". Về đến lao, Lượm nói ngay với thằng Thúi: - Mi chạy đi tìm Lép-sẹo, nói riêng với hắn ra chỗ gốc cây cơm nguội cạnh dãy "ca-sô âm phủ", cho Lượm-sứt gặp, có chuyện muốn nói. Nó với hắn đi một mình thôi nghe! Thúi hộc tốc chạy đi. Lượm đứng ở gốc cây cơm nguội chờ Lép-sẹo trong nỗi thấp thỏm khôn cùng. Chừng mười phút sau, Lượm thấy Lép-sẹo từ ba-ti-măng hai đi ra cùng với Thúi. Có mấy thằng đàn em đi theo, nhưng Lép-sẹo quay lại, khoát tay đuổi lui. Khi đến cách Lượm còn mấy bước, Lép-sẹo đưa tay cài lại khuy áo pạc-ti-dăng mở phanh ngực, như có ý xấu hổ với cái hình xăm trên ngực. Lượm hồi hộp lắm với quyết định liều lĩnh của mình. Nó cố lấy dáng bộ thật tự nhiên, niềm nở bước đến bên Lép-sẹo. - Răng, đã lành hẳn chưa? Đừng giận mình chuyện con gà kính biếu hôm nọ hí. Mình nói đó là tình thiệt. Lượm đưa tay ra. Lép-sẹo cũng vội đưa tay ra với vẻ ngượng nghịu. Nó nói, mặt hơi cúi xuống: - Tui cũng thấy làm rứa là ngu.. Hai bàn tay nắm chặt nhau. Hai cặp mắt vốn thù địch cùng nhìn nhau, im lặng đến một phút. Lượm bóp bóp bàn tay Lép-sẹo nói, giọng thán phục. - Cứng như sắt nguội! Đúng là bàn tay của làng dao búa! - Gặp tui có việc chi rứa? - Mình có việc vô cùng hệ trọng, việc chết người! Nếu bạn hứa hết sức giữ kín thì mình mới nói. - Không giữ kín tui sẽ hộc máu chết tươi! - Mình hoàn toàn tin lời hứa danh dự của bạn. Mình với bạn biết nhau rõ lắm nên chẳng cần nói quanh co thêm mệt. Mình hỏi thật ri: "Bạn có muốn trốn tù không?". - Trốn tù? - Lép-sẹo hỏi lại như chưa tin vào tai mình lắm. - Ừ. Vượt khỏi cái nhà lao chó chết ni. - Nếu đốt được cả lao cho cháy rụi hết cả Tây, cả ta, thì mình đốt liền chẳng gớm tay! - Giọng Lép-sẹo cộc cằn, thù hận. - Rứa là bạn cũng muốn trốn khỏi đây. - Nhưng trốn răng được! - Lép-sẹo lắc đầu. - Tường ni không vượt nổi mô. Có điên mới vượt tường! Mình sẽ đưa bạn đi làm cỏ-vê ở sở Pốt. Và cả ba đứa mình cùng trốn. Mình và thằng em mình đây, - Lượm đặt tay lên vai Thúi, - trốn lên núi, trở lại Vê-cu-đê. Còn bạn thì muốn đi mô tuỳ bạn.. Giọng Lép-sẹo đột ngột run lên, hỏi lại gần như thì thầm: - Khi mô trốn? - Trưa mai. Lép-sẹo lại đưa tay ra nắm chặt tay Lượm, nói nước mắt rơm rớm: - Bạn cứu mình sống chừ lại giúp mình vượt tù.. ơn nghĩa to rứa biết lấy chi đền? - Ơn nghĩa chi mà.. Cũng phải dựa nhau cả thôi. Có việc ni nếu bạn làm được thì mình mới giúp nổi bạn lọt ra khỏi lao. Bạn có biết lão Tụng không? - Cái thằng cha mặt choắt như mặt khỉ vẫn đi làm cùng sở với bạn à? Hắn ngủ cùng ba-ti-măng với mình.. - Đúng đó. Thằng cha đó là đồ liếm đít Tây. Trước tê hắn cũng là Việt Minh như mình. Tây đến, hắn phản Việt Minh, đưa Tây đi giết Việt Minh.. - Cố nội hắn! - Lép-sẹo nhổ nước bọt, chửi. - Hắn căm mình lắm, chỉ rình rập coi mình có làm chi để báo với tụi Tây. Sáng mai, thằng em mình đây sẽ thay chân anh Bện, anh đồng ý rồi. Còn bạn phải tìm cách thay chân lão đó. Lép-sẹo bặm môi suy nghĩ. - Làm cách răng được hè? - Lượm nói, - Theo mình, bạn phải trùm chăn đập cho lão một trận, làm cho lão ngắc ngư, không lết được. Mình sẽ nói với tụi Tây đến nhận tù để bạn thay chân lão. - Không thèm trùm chăm đập làm chi cho mệt! Mình cắt gân chân lão. - Cắt gân? - Lượm hỏi lại và thấy lạnh gáy. - Chớ chi nữa! Trong làng dao búa ai phản bội đều bị xử tội cắt gân chân. Hắn phản Việt Minh cắt gân là đáng lắm. Cắt gân chân thì sống cũng bằng thừa. Không đi được, chỉ có lết thôi. Kẻng báo giờ tù phải vào ba-ti-măng. Lượm nói: - Làm cách chi tuỳ bạn. Nhưng phải làm nội trong đêm nay. Nếu không làm được là coi như hỏng hết mọi việc. - Bạn cứ tin ở mình. Thằng Lép-sẹo ni coi lời nói là đọi máu. Nửa đêm hôm đó cả khu vực nhà lao đang chìm trong yên tĩnh, bỗng ở ba-ti-măng hai nổi lên một tiếng rú ghê rợn. Tiếp đó là tiếng ồn ào như vỡ chợ. Tiếng kẻng đánh báo động. Tiếng bọn lính ngục quát tháo ầm ĩ. Tiếng súng nổi rầm rầm. Phải hàng tiếng đồng hồ sau, tiếng ồn ào mới lắng xuống. Sáng hôm sau, cửa ba-ti-măng vừa mở, tin đồn đã lan ra khắp lao. Có một anh tù già tên là Tụng, đạp vào một anh tù nào đó mò đi ỉa. Anh tù này nổi điên, túm lấy chân người đạp, cắt một lát đứt lìa gân khoeo chân. Ông Tụng đang đắp chiếu nằm trong đó chờ đưa lên xe bò chở đến nhà thương. Lượm và Lép-sẹo gặp nhau giữa sân lao, Lượm đi lại gần, thì thào hỏi: - Có ai biết không? - Trời biết! Tối như đêm ba mươi! Lép-sẹo trả lời mặt lạnh băng. - Con dao? - Cắt xong là liệng luôn vô cầu tiêu, chìm nghỉm trong cứt.
Chương 19 Bấm để xem 14 Xe của sở Pốt bao giờ cũng đến chở tù đi làm muộn nhất. Tù đi làm các sở đã vãn hết. Trên sân trước ìao chỉ còn lại Lượm, Thúi, Lép-sẹo và bọn tù con nít. Lượm ngong ngóng nhìn ra cổng lao, lòng bồn chồn khôn tả. Lép-sẹo và Thúi cũng vậy hai đứa chốc chốc lại đưa mắt nhìn Lượm như muốn hỏi: "Liệu có trót lọt được không?". Lượm lẳng lặng gật đầu. Từ chiều qua, thằng Thúi nghe theo Lượm đã đổi cái áo ba lỗ bao tải cho Chồn-hôi lấy cái áo cộc tay rách. Chồn-hôi rất khoái việc đổi chác lợi lộc này. Số thuốc uống, thuốc bôi, đựng trong các túi Thúi giao lại cho Ngạnh. - Mi cất giúp, sợ đi làm cỏ-vê rớt mất. Lượm chỉ giữ lại một tuýp thuốc đựng hai chục viên thuốc nhỏ - thuốc ngủ gác-đi-nan dắt vào cạp quần mang theo. Còn Lép-sẹo, Lượm bắt phải lấy nước dấp lên tóc chải ép xuống với mẩu lược gẫy, và mặt mũi phải rửa ráy tử tế. Lượm nói: - Cậu phải làm bộ hiền khô, để tụi Tây tin tưởng mà nhận cậu đi làm. Tụi đàn em ngắm đại ca Lép-sẹo, cười rúc rích. - Bửa ni ngó "đại ca" đẹp như chú rể đi hỏi vợ. Sáng nào Lượm đi làm, các bạn trong đội cũng kéo ra tận cửa sắt ngó theo cho đến khi trèo lên xe jeep chạy khuất. Và lần nào, bước ra khỏi cổng lao, Lượm cũng quay lại ngoắc ngoắc tay nói với chúng: "Ở nhà vui nghe? Chiều tau về". Nhưng sáng nay Lượm không đủ gan nhìn các bạn. Mắt nó cứ tránh nhìn đi chỗ khác. Sợ bắt gặp cái nhìn trông đợi, thương mến của các bạn, nó sẽ khóc mất. Nó biết chắc, công việc hôm nay dù trót lọt hay không, mình cũng sẽ không bao giờ còn gặp lại các bạn nữa. Một là thoát, hai là chết. Lượm muốn nói với các bạn một lời dặn dò, an ủi, nhưng cứ mở miệng là cổ tắc lại, mũi cay xè. Các bạn cũng nhận thấy cái vẻ khác lạ, không bình thường của Lượm. Chúng nhìn Lượm ngơ ngác, dò hỏi. Nhìn bóng nắng trên sân lao. Lượm biết sắp đến giờ xe của sở Pốt đến chở tù đi làm. Vừa đúng lúc đó, xảy ra một sự việc hết sức bất ngờ, làm Lượm muốn đứng tim. Cửa sắt mở rộng, Một Điếu từ sân ngoài bước vào. Miệng hắn không ngậm tẩu. Chính điều bất thường này tên chúa ngục đập vào mắt Lượm đầu tiên, và như dự báo tai họa ghê gớm sắp giáng xuống chính đầu nó. Quả nhiên, Một Điếu vừa nhìn thấy bọn tù con nít, bộ mặt cô hồn của hắn quạu ngay lại, dữ dằn hơn cả mọi ngày. Hắn vung cây roi ra như con rắn đen, vẫy bọn trẻ. - Lại đây? Tất cả lại đây! - Một tay hắn đặt lên bao súng. Có mấy đứa khiếp đảm định co giò bỏ chạy. Lượm quát to: - Không được chạy! Tụi bay muốn chết à? Không còn cách nào khác Lượm liều mạng bước đến gần, cố nói giọng không run: - Thưa ông quan hai. Chúng tôi có mặt. Ông cần gì tôi xin thông ngôn với chúng. - Lượm đưa tay chỉ các bạn đang đứng nép hết phía sau. - Trong bọn chúng mày, đứa nào đã giết trộm con gà mái đẹp của vợ tao? Việc mà Lượm lo sợ trước đã xảy ra. Sáng sớm nay lúc cho đàn gà ăn, mụ vợ Một Điếu phát hiện con gà mái hoa mơ đang nhảy ổ bị mất. Mụ tru tréo: "Thằng mô, con mô ăn trộm con gà của tao?". Mệ-Lai-tàn-tật chạy đến, đưa ra một nắm lông gà, xun xoe nói: "Bẩm bà lớn, tụi tù đã giết trộm con gà của bà. Chiều qua lúc đi roỏn quanh lao, tôi thấy một đám lông gà nằm lấp trong cỏ phía sân sau. Tôi biết ngay gà của bà". Thế là mụ nổi cơn tam bành, chạy vào buồng lôi cổ Một Điếu dậy, dí túm lông gà vào sát mặt lão, bù lu bù loa, bắt lão phải vào ngay tra khảo cho ra đứa mô giết trộm gà. Một Điếu còn ngái ngủ, đi vào lao không kịp ngậm ống điếu. - Thưa ông quan hai, tôi không biết. - Lượm trả lời mặt xanh tái. - Không biết? - Một Điếu gằn giọng hỏi lại và vung roi quất như xé thịt xuống vai Lượm. Lượm không dám né tránh, gồng mình chịu đòn. Vì nó thừa biết tránh đòn hắn càng nổi điên, quất tiếp và có thể ăn đạn, vì tay hắn đã mở bao súng. Lượm trào nước mặt giàn giụa trên hai má. - Thưa ông quan hai, tôi phải đi làm cỏ-vê ở sở Poste Militaire suốt ngày, tôi không thể giết trộm con gà của ông. - Mày phải hỏi chúng nó xem đứa nào giết trộm gà? Nếu không đứa nào nhận, tất cả sẽ bị bắn chết! - Một Điếu rút súng ra khỏi bao, Lượm quay lại thông ngôn câu hỏi của hắn với bọn trẻ. Nó bắt gặp tia nhìn hoảng sợ của Lép-sẹo. Thằng Chồn-hôi đứng sau lưng Lép-sẹo, run rẩy, mặt cắt không ra giọt máu. Nó đưa mắt nhìn Lượm như cầu khẩn "Xin anh tha cho em.". Nó lại nhìn khẩu súng lục trong bàn tay lông lá của Một Điếu. Nỗi sợ hãi của nó đã lên tới cùng cực. Cặp mắt nó sao mà giổng hệt cặp mắt con chó sắp bị người ta dìm chết giết thịt. Các bạn trong đội của Lượm mặt cũng đều tái xanh tái tử. Mắt chúng đều đổ về phía Lép-sẹo và Chồn-hôi, có vẻ như sắp chỉ mặt hai đứa. Lượm hiểu ý liền trừng mắt ra hiệu. Thằng Lanh hiểu ý Lượm trước tiên. Nó nói: - Nhờ anh nói lại với ông nớ là anh em tui không ai dám săn trộm gà của ông.. Tất cả cùng bắt chước Lanh nói theo. Lượm thông ngôn lại với Một Điếu. Một Điếu khoát cây roi, chỉ vào mặt tất cả, gằn giọng hỏi: - Tất cả không ăn cắp? Tất cả không biết? - Vâng ạ? Vâng ạ? Một Điếu gọi ba tên lính ngục vào, hạ lệnh: - Xích tay tất cả chúng nó lại, tống vào ca-sô! Bao giờ có đứa nhận mới được thả ra. Bọn lính ngục rập dạ to và chạy ra nhà kho còng tay. Lượm không ngờ cơ sự đến nông nỗi này? Lượm phải cố hết sức mới khỏi bật khóc thành tiếng. Chỉ vì một con gà mái chó đẻ, mà nó phải chịu thất bại ở phút cuối cùng. Nếu sáng hôm nay không đi làm cỏ-vê, phải còng tay chui vào ca-sô, thì chưa biết đến ngày nào mới thoát ra khỏi cảnh tù đày. Và có thể bỏ xác lại ở đây vì đói khát, bệnh tật hành hạ. Lép-sẹo khẽ gọi: - Lượm? Lượm gạt nước mắt, ngẩng lên. Hai cặp mắt chạm nhau. Lép-sẹo đưa mắt nhìn sang phía Chồn-hôi, lắp bắp nói: - Hay là.. Lượm quắc mắt, một tiếng kêu nghẹt giữa hai hàm răng. - Không được! Nó bỗng giận run, giận mờ cả mắt. Nó chỉ muốn nhào tới bóp cổ Lép-sẹo mà gầm thét: "Mi là đồ chó! Mi gây ra mọi chuyện. Rồi chừ mi định đổ tội lên đầu đàn em mi để thoát thân!". Nhưng nó kịp ghìm lại được. Ba tên lính ngục xách mỗi đứa một xâu còng tay đi vào, hô: - Hai tay chắp lại đưa ra trước mặt? Tổ cha tụi con ranh con lộn? Chuyến ni thì bay mục xương trong đó? Một Điếu đút súng vào bao, đứng chống nạnh mặt lầm lầm chờ kiểm tra bọn lính ngụe Còng tay tụi tù giết trộm gà. - Ắc ê! Ăc ê! Ắc ê! Anh tù điên bỗng từ phía sau, vừa hô vừa giậm chân đi đều, cười nhăn nhở bước thẳng đến trước mặt Một Điếu. Anh giơ tay xòe cả năm ngón đưa lên vành mũ các-tông hình nón, chào và nói thứ tiếng Tây hổ lốn quen thuộc của anh: - Bông-dua mông dạch-nằng - chào ông quan hai - Xe-moa vô lê la-pun - Chính tôi ăn trộm con gà mái. Moa đói cái bụng - Moa vồ la-pun - Anh làm động tác vồ gà - Moa rô-ti moa đớp - Pác-đông me-xừ. Xin lỗi ông! - Chính mày ăn trộm con gà? - Còn ai vô đó nữa? Uỳ me-xừ! Một Điếu vung roi quật tới tấp lên người anh điên. Anh nhảy như con choi choi, miệng la bai bải: - Pác-đông me-xừ! Pác-đông me-xừ? Anh bất thần ngã lăn ra đất, rồi lăn tròn như con quay, la hét chuyển cả nhà lao: - Ôi làng nước ơi cứu tôi với! Cứu tôi với! Cứu tôi với! Một Điếu tuy-ê moa? Một Điếu giết tôi! Hết la hét anh lại cười sằng sặc, điên không chịu được! Tình huống quá bất ngờ làm Lượm chỉ còn biết đứng há hốc mồm mà nhìn. Ngoài cổng lao có tiếng xe phanh rít. Tiéng viên quản phó đề lao gọi chõ vào rất to. - Pốt Mi-li-te mô? Ra! Lượm đáp như trong mơ: - Có ạ? Nó chụp vội lấy tay Lép-sẹo và Thúi chạy ra cổng lao. Lượm mừng đến suýt đái ra quần khi thấy trên xe jeep không có viên đội văn phòng. Nếu có viên đội, việc thay hai tù mới chưa chắc hắn đã bằng lòng ngay. Nó biết hắn rất cẩn thận và khó tính, không thích ai làm trái ý hắn. Còn đối với thằng lính gác thì sẽ dễ dàng hơn. Với hắn tù nào chẳng là tù. Tên lính hỏi Lượm: - Hai tên tù kia đâu? - Ốm nặng phải đi nhà thương. - Hai thằng này có tốt không? - Hắn chỉ Lép-sẹo và Thúi. - Tốt, rất tốt? - Mày bảo đảm chứ? - Tôi xin lấy đầu tôi để bảo đảm! Hắn nhún vai: - Tao cóc cần. A-lê, lên xe! Khi chiếc xe quặt sang phải, chạy dọc theo đại lộ xanh rợn bóng cây, gió ẩm ướt từ mặt sông thổi tạt vào mặt, Lượm mới dần dần tĩnh trí lại. Nhưng đầu óc nó vẫn còn choáng váng, bàng hoàng như. Vừa bừng tỉnh một cơn ác mộng. Lép-sẹo ngồi sát vào Lượm, một tay nó đặt lên đùi Lượm nói giọng run run: - Bữa ni không có anh tù điên thì không biết sẽ ra răng hè? - Chết cả bọn chứ còn răng nữa? Thúi cũng thì thào nhắc lại điều vẫn ám ảnh đầu óc nó từ lâu: - Anh tù điên ni lạ lắm. Tui nghi là anh nớ không điên. 15 Điều Lượm lo lắng không phải không có căn cứ. Ba đứa vừa bước xuống xe, đi vào đến sân, viên đội văn phòng đã bước ra, cau mặt lại hỏi: - Hai thằng tù kia đâu? - Thưa ông đội, họ bị ốm nặng, mắc phải bệnh truyền nhiễm. - Sao không thay bằng hai tên tù lớn? - Hắn hỏi tên lính gác, giọng gần như gắt. Tên lính gác luống cuống nhìn Lượm. Lượm nói ngay: - Thưa ông đội, ở nhà lao, không còn một người tù lớn tuổi nào. Hôm nay có nhiều sở mới đến lấy tù đi làm cỏ-vê. Họ phải lấy cả tù con nít. Hai đứa này tuy nhỏ, nhưng làm việc siêng năng và hiền lành. Tôi biết rõ chúng. Viên đội nhún vai, đi vào phòng làm việc. Lượm lập tức lên giọng khá hách dịch sai bảo Lép-sẹo và Thúi: - Ê, thằng này vào lấy đôi thùng ra sông gánh nước, đổ đầy vào hai bể. Còn thằng này, - Lượm chỉ Thúi, - lấy chổi quét sân. Phải làm việc cho chăm chỉ vào. Các quan lớn ở đây là rất ghét bọn lười biếng! Lép-sẹo răm rắp sợ sệt nghe theo Lượm điều khiển. Thúi chăm chú quét sân, nhặt từng chiếc lá rụng; Lép-sẹo đặt đòn gánh lên vai là chạy huỳnh huỵch. Viên đội văn phòng đứng trước hành lang, quan sát chúng làm việc. Lượm liếc mắt, thấy hắn có vẻ hài lòng. Nó mừng thầm: Ổn rồi Lượm quét dọn, lau sàn nhà còn kỹ hơn cả mọi ngày. Xong ở phòng làm việc của viên đội, nó xách 1 xô nước sạch, giẻ lau, sang phòng của quai hai giám đốc sở, gõ cửa xin phép được vào làm vệ sinh. Quan hai I-tai ngồi trước bàn, ngẩng bộ mặt ông giáo làng lên nhìn Lượm, gật đầu, rồi cúi xuống viết tiếp cái gì đó. Con nhện vàng "canh kho vũ khí" vẫn có mặt ở vị trí, bò đi bò lại tuần tiễu một cách chuyên cần trên sợi tơ ánh bạc găng từ chuôi khẩu súng lục đến nóc tủ. Tim Lượm đập rộn lên, nhưng nó phải cố hết sức để không nhìn con nhện lâu hơn nữa. Nó thầm nói: "Tao cảm ơn mi lắm đó nhện ơi!". Và hết sức bất ngờ Lượm bật nhớ một câu học thuộc lòng trong sách Quốc-văn giáo khoa thư lớp ba: "Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?". Vừa cắm cúi lau sàn nhà, nó vừa thì thào: "Nhện chờ mối tui". Nó rùng mình khi tưởng tượng đến lúc cái nòng thép lạnh cứng kia áp sát vào da bụng mình. Lau xong sàn nhà, nó mở rộng các cánh cửa kính, cửa chớp, nó trèo đứng lên bậu cửa lau chùi hai khuôn cửa mở ra vườn. Vừa lau, nó vừa đưa mắt ước lượng chiều cao từ bậu cửa đến đất vườn. Lúc đóng lại những cánh cửa của khuôn cửa sổ gần bàn làm việc của viên quan hai, nó vặn quả bàng sắt khá mạnh để đóng chốt sắt kêu phập vào lỗ chốt cửa, cốt cho I-tai đang ngồi làm việc cũng nghe tiếng. Hai cánh cửa chớp ở khuôn cửa cuối gian phòng, lúc đóng, nó cũng vặn quả bàng sắt khá mạnh nhưng không cho chốt sắt chui vào lỗ chốt. Đứng ngoài vườn, có thể ẩy nhẹ cũng mở ra được. Đóng đến hai cánh cửa kính nó cũng định làm như vậy, nhưng kinh nghiệm chiến sĩ trinh sát mách bảo: "Không nên!". Và Lượm đã vặn cho hai gióng sắt chui vào lỗ chốt. Nó phải đề phòng sau khi nó ra khỏi phòng, tên quan hai cáo già với tính thận trọng cố hữu, có thể đến kiểm tra lại. Nhưng có điều khác với những buổi làm vệ sinh trước, nó cố ý để quên lại tấm giẻ lau sàn nhà dưới chân bậu cửa sổ. Lượm nắm chắc quy luật: Cứ khoảng mười giờ sáng, tên I-tai có thói quen trở về buồng ở, uống một tách cà phê sữa mà mụ vợ hắn pha sẵn. Gian phòng thường để trống khoảng mười lắm phút. Khoảng chín giờ rưỡi, tên lính gác cho ba đứa nghỉ giải lao. Chúng ngồi tụm đầu dưới bóng mát cây vông đồng cổ thụ trước sân. Tên lính gác ngồi dưới gốc cây phượng cách ba đứa chừng chục bước chân. Khẩu tiểu liên "mát" gác ngang trên đùi, hắn châm điếu thuốc Gô-loa, rít khói, mắt mơ màng nhìn ra cổng, nhìn dãy quán rượu bên kia đường. Thúi lào thào hỏi: - Anh sửa soạn xong cả chưa? - Cũng tàm tạm.. - Lượm gạt mồ hôi trán trả lời. Lép-sẹo trống ngực đập thình thịch hỏi: - Mấy giờ thì bắt đầu? - Mười một giờ rưỡi! Sở tan giờ làm việc. Bọn chúng đều ngủ trưa. Một giờ rưỡi chúng mở cửa. - Thằng nớ thì làm răng? - Lép-sẹo hất đầu về phía tên gác. - Có trưa hắn dựa gốc cây ngủ gà ngủ gật; Có trưa hắn mò qua dãy quán bên tê đường nhậu nhẹt. - Lọt qua hắn có dễ không? - Cũng không dễ.. Tốt nhất là phải làm cho hắn ngủ thật say. - Làm cách răng? - Phải cho hắn một liều thuốc ngủ. Thuốc ngủ có sẵn đây rồi. - Lượm vỗ lưng quần. - Nhưng phải hòa vào nước hoặc rượu để mời hắn. Có rượu thì tốt nhất. Sợ nước hắn không uống. Hắn là con sâu rượu mà.. Này, Lép-sẹo, cậu có thể đánh xoáy một chai rượu bày trên bàn mấy cái quán ngoài kia không? Nghe cậu là bậc tài danh trong nghề này.. - Dễ ợt! - Lép-sẹo hăm hở đáp. Nó nheo mắt nhìn ra dãy quán, trong óc phát nhanh kế hoạch đánh cắp chai rượu. Nó nói: - Nếu có một hai đồng bạc thì chắc ăn trăm phần trăm. Lúc gánh nước qua đó mình sẽ xin thằng gác cho ghé vô quán mua điếu thuốc hút. PHải có cớ để đến gần bàn để rượu. - Thúi, mi đưa cho Lép-sẹo hai đồng bạc còn lại. Thúi móc túi đưa cho Lép-sẹo tờ giấy bạc hai đồng, và nhìn tờ bạc với cặp mắt tiếc rẻ. Lép sẹo khẽ bợp tai Thúi, cười: - Ngó con mắt mi mà tau rầu thúi ruột. Có ngày sẽ đền lại cho mi hai lượng vàng.. Lép-sẹo vo tròn tờ giấy bạc nhét vào lỗ tai. - Anh để rứa lỡ rớt mất thì làm răng? Thúi nhìn Lép-sẹo, lo lắng hỏi. - Mi cạy cũng không ra mô! Có lần tao nhét vô đó đôi bông tai vàng đánh cắp được của một mụ ở chợ Đông Ba, nhảy xuống sông đào tẩu. Bơi qua sông, mà đôi bông tai vẫn còn nguyên. - Rứa thì anh tài bằng Một Điếu! Thằng cha đó chửi, nói, tha hồ mà cái ống điếu vẫn không rớt khỏi miệng. Tài thiệt! - Thúi tấm tắc khen. Hết giờ giải lao. Thằng lính gác xách súng dẫn Lép-sẹo và Thúi ra bến sông gánh nước. Lượm chuẩn bị vào bày bàn ăn cho tụi Tây ăn trưa. Viên quan hai I-tai đi ra khỏi phòng làm việc khép cửa lại đằng sau lưng. Hắn về buồng ở uống cốc cà phê sữa thường lệ. Lượm xách xô nước đi ngay đến buồng hắn. Nó đặt cái xô trước cửa, mở nhẹ cánh cửa đi vào phòng. Thật nhẹ nhàng, nó xoay quả bàng sắt, mở chốt cửa kính cuối gian phòng, rồi nhặt cái giẻ lau đi ra khỏi phòng. Nó đã tính kỹ, nếu bất ngờ chạm trán viên quan hai, hoặc một tên Tây khác, hỏi: "Mày vào phòng làm gì?", nó sẽ đưa cái giẻ lau nhà ra nói: "Tui vào lấy cái giẻ lau nhà lỡ bỏ quên". Lép-sẹo và Thúi đã gánh được gánh nước thứ hai. Lượm xách cái xô ra bể vờ múc một xô nước giặt giẻ lau, để đón Lép- sẹo. - Được chưa? - Lượm bồn chồn hỏi, mắt chằm chằm nhìn vào bụng áo Lép-sẹo, vì đoán rằng nó dắt chai rượu lấy cắp vào cạp quần trước bụng. Nhưng hai vạt áo Lép-sẹo vẫn sát vào bụng, không thấy có dấu hiệu gì. Lượm hơi tái mặt, hỏi nhỏ: - Lấy được chưa? Không thấy giấu trong bụng áo? - Dễ ợt? Giấu vô bụng áo? Đồ ngu? - Lép-sẹo bắt chước dùng giọng Lượm từng mắng nó. Nó đặt hai thùng nước xuống khỏi vai, nói như ra lệnh: - Để cái xô sát thùng nước tê. - Nó chỉ thùng nước trước mặt. Trên mặt thùng, có thả mấy ngọn lá bàng cho nước khỏi chao. Nó cúi thọc tay xuống đáy thùng lôi lên một chai rượu màu xanh có nút vàng chóe bỏ nhanh vào cái xô của Lượm. Lượm ném luôn cái giẻ lau, phủ lên chai rượu. Lép-sẹo làm bộ vớt mấy ngọn lá bàng vứt đi, rồi bưng thùng nước đổ vào bể. Lượm đứng lặng một giây nhìn Lép-sẹo, và lúc ấy nó thấy gương mặt vốn xấc xược, ngang tàng, anh chị của Lép-sẹo, sao trở nên dễ thương vô cùng. Và bụng nó tràn đầy khâm phục. "Chao? Hắn nghĩ ra cái cách giấu chai rượu vào đáy thùng nước, trên mặt để mấy ngọn lá bàng nguỵ trang thì thiệt thông minh vô cùng? Đúng là trí lực của một tay trộm cắp tài danh?". Lượm bật cười: - Chịu tài "đại ca"? - Mệ mà gánh nước chừng một tháng thì mụ đó sập tiệm cái rầm. Lượm và Thúi phải chịu là Lép-sẹo giả giọng các mệ không chê được? 16 Buổi trưa tháng sáu năm đó, thành phố Huế, con sông Hương, ngập chìm trong ánh nắng chói gắt, màu hoa phượng đỏ và tiếng ve sầu. Lượm, Thúi, Lép-sẹo bày bữa ăn trưa của chúng dưới gốc cây vông đồng cổ thụ. Một bữa ăn khá thịnh soạn đối với ba tên tù: Theo lệnh của tên quan hai giám đốc sở bọn nhà bếp cho ba đựa hai ổ bánh mì, nửa lon thịt bò hộp, một hộp cá xạc-đin. Tất cả được bày lên mảnh vải bạt đặt trên cỏ. Nhìn bữa ăn, Lượm rùng mình. Nó nói với hai bạn: - Tụi hắn cho ba thằng mình ăn bữa ăn cuối cùng đây. - Các bậc đại ca dao búa của tớ thường kể: Mấy người tù tử hình, trước khi đưa đi bắn, Tây thường cho ăn một bữa thiệt ngon. E cũng như ri đây. - Nhưng trường hợp ba thằng tù mình bữa ni thì chưa biết ai bắn ai? - Lượm bẻ một miếng bánh mì nhai để nén hồi hộp. - Trước mặt ba anh em mình, còn một tiếng đồng hồ ni đây? Trước đó hai mươi phút, Lượm gặp thằng lính gác. - Anh Rôbe ạ. Trưa nay, ba chúng tôi có mòn quà biếu anh. Lượm lôi trong xô có phủ cái tải ướt, cái chai rượu Lép-sẹo vừa đánh xoáy đưa cho hắn. - Ồ vang trắng? - Thằng lính gác nhìn nhãn hiệu reo lên. - Làm sao chúng mày lại có? - Những người tù làm bên sở Coopérative Militaire cho chúng tôi. Chúng tôi tưởng nước ngọt mở ra định uống. - Lượm giải thích việc cái nút chai đã mở để hòa vào hai mươi viên thuốc ngủ được tán nhỏ. - Nhưng té ra rượu. Thứ nước này chắc anh thích. Chúng em thì xin hàng. - Nó đưa cao hai tay làm bộ điệu đầu hàng và nháy mắt cười. Tên lính gác cầm chai rượu ngắm nghía, cười khắc khắc. Hắn xoa đầu cả ba đứa. - Bé con tốt lắm! Bé con ngốc lắm! Rượu vang hảo hạng mà không biết uống!.. Khắc khắc khắc! Hắn mỏ nút chai, ngửa cổ tu một hơi gần hết nửa chai. Hắn khà một tiếng khoái trá, trở sống tay chùi miệng, đầu lắc lư, lắc lư. Hắn đút chai rượu vào túi quần bắt gà, lại xoa đầu ba đứa cười nói: - Cám ơn! Rất cám ơn? Và lúc này hắn đang ngồi dựa lưng vào gốc cây, khẩu súng gác ngang đùi, tu nốt hơn nửa chai rượu còn lại. Ba đứa miệng tuy nhai bánh, nhưng mắt đều nhìn hết về phía tên lính gác, chờ đợi phép màu sắp xảy ra. Lượm vụt nhớ đến một cảnh trong truyện Thủy Hừ mà nó đọc ngày còn đi học: Một du khách vào một hắc điếm bên đường, gọi rượu thịt. Chủ hắc điếm là một mụ đàn bà có nhan sắc toe toét cười, rót rượu ra bát lớn mời khách. Sau đó mụ lui vào sau rèm, nhìn ra theo dõi khách ăn, uống. Khách nốc cạn đến bát rượu thứ ba mụ ta liền vỗ tay hô: Ngã này! Ngã này! Quả nhiên khách ăn ngã lăn ra đất, vì rượu có hòa thuốc mê. Lượm lúc này cũng muốn vỗ tay kêu: Ngã này! Ngã này! Nhưng thằng lính gác không ngã mà chỉ dựa lưng vào gốc cây, miệng há ra, mắt lơ mơ nửa nhắm nửa mở và bắt đầu ngáy. Thúi và Lép-sẹo đứng bật dậy, nhưng Lượm níu tay chúng ngồi xuống. - Chờ thêm mười phút nữa cho thật ăn chắc, - Lượm nói giọng trở nên bình tĩnh khác thường - Lép-sẹo ạ lúc đó tùy cậu, muốn đi đâu thì đi. Còn Thúi, mi đứng chờ tau ở đây. Rổ và mủng kẹo gừng tau đã đem ra giấu ở dưới đống lá rụng cạnh gốc cây me tê. Hễ ngó thấy tau ló ra ở góc sau nhà tê, thì mi đến lấy rổ mủng đeo vô, và đàng hoàng đi ra phía cõng trước. Đến chỗ góc đường cuối dãy quán, mi đứng lại giả đi đái, chờ tau. Nhớ đi theo đường chợ Cống, qua xít-tát, rẽ ra đường Đàng Ngang, đứng chỗ nhà Nông khố Ngân hàng cũ. Mi nhớ chưa? Thúi gật đầu, nhìn Lượm chăm chăm. - Thôi đi được rồi! - Lượm đứng dậy và Lép-sẹo cũng đứng bật dậy theo. Lép-sẹo tái mặt hỏi: - Cậu còn đi mô nữa? - Tớ còn phải trèo vô buồng thằng quan hai lấy khẩu súng và bốn băng đạn. - Có gay lắm không? - Gay! - Thôi bỏ đi anh? - Thúi nói gần như khóc. - Tớ có thể giúp được cậu không? - Lép-sẹo hỏi. Lượm lắc đầu: - Hai đứa càng dễ lộ. Cảm ơn cậu! Cậu đi đi! Lép-sẹo vẫn đứng tần ngần: - Hay thôi, cậu bỏ quách cho rồi.. Chết cũng không bỏ được. Cậu chưa hiểu hết giá của một khẩu súng đối với Vệ Quốc Đoàn mô. Lượm nắm tay Lép-sẹo, nói giọng rưng rưng: - Cậu đi may mắn nghe? Biết mô có lúc mình lại gặp cậu. Rồi có lúc, cậu nhớ lại tất cả những chuyện ni, và cậu sẽ hiểu mình.. Lép-sẹo nói, miệng gần như mếu: - Đập nhau bể đầu bể óc mới hiểu nhau. Tức cười đã gớm! Cả khu công sở Post Militaire lúc này chìm sâu trong yên ắng. Cừa lớn, cửa sổ các gian phòng đều đóng kín như lịm trong màu nắng trưa chói gắt. Tiếng ve kêu inh ỏi cả khu vườn hoang mọc lút cỏ dại. Tiếng ngáy của tên lính gác vẳng lại mỗi lúc một to như muốn thi giọng cùng tiếng ve. Lượm hai tay ôm quần đi như chạy băng qua khu vườn, vòng ra phía sau nhà, có lối rẽ đến dãy nhà xí. Nó đã suy tính hết, nếu bất ngờ chạm trán với thằng Tây nào đó, hắn hỏi, nó sẽ chỉ dãy nhà xí trả lời: "Cabinê!". Lép-sẹo đứng sững nhìn theo Lượm cho đến lúc bóng nó mất hút sau gờ tường đầu hồi dãy nhà. Tự nhiên nó muốn chạy theo, muốn được liều mạng để giúp đỡ, để chia sẻ hiểm nguy, và nếu cần được cùng chết với cái thằng mới cách chưa lâu đã đập lộn nhau với mình bể đầu bể óc. Một niềm cảm phục lớn lao bỗng từ đâu không biết, dâng lên làm choáng ngợp trái tim và đầu óc thô thiển của tay anh chị vị thành niên; mà niềm mơ ước độc nhất là trở nên lẫy lừng trong làng dao búa. Đôi môi xấc xược, kiêu bạc của Lép-sẹo bỗng run run, bật lên tiếng kêu: - Ui chao! Vệ Quốc Đoàn là rứa đó! 17 Cái gì đã thúc đẩy Lượm - người Vệ Quốc Đoàn mười lăm tuổi - lao vào một việc làm táo bạo, liều ưnh đến như vậy? Một việc làm có thể mất mạng sống như chơi và hoàn toàn thôi được ở phút chót? Nhưng Lượm vẫn cứ bươn tới, lao thẳng đến đích, bất chấp. Nói chung, vũ khí có một sức mê hoặc đặc biệt đối với lứa tuổi thiếu niên. Mấy ai trong tuổi thơ của mình, lại đã không từng ước mơ cầm trong tay một khẩu súng, không phải đồ chơi, mà bắn được. Riêng thế hệ tuổi thơ của Lượm là một thế hệ tuổi thơ dữ dội. Mới lớn lên kịp có chút ít trí khôn, mới bắt đầu hiểu được chút ít điều này điều nọ, thế hệ tuổi thơ của Lượm đã được nghe lời kêu gọi kỳ vĩ nhất trong lịch sử đấu tranh của Tổ Quốc: "Thà chết không quay lại thời nô lệ!'," Hãy quyết tử để Tổ quốc quyết sinh! ". Và cả thế hệ tuổi thơ đó, trong hoàn cảnh quyết liệt của Tổ quốc đã phải dấn mình vào cuộc đụng độ của vũ khí. Và bằng kinh nghiệm máu của mình và của đồng đội, Lượm đã thấu hiểu cái giá lớn lao của vũ khí trong cuộc đụng độ với kẻ thù. Có biết bao nhiêu đồng đội cùng thế hệ với mình và thế hệ cha anh, thừa tài sức, gan dạ, nhưng phải chịu gục ngã cay đắng trước kẻ thù, chỉ vì trong tay không có vũ khí. " Cơi chi lúc đó trong tay tui có một khẩu súng, một trái lựu đạn thì mô đến nỗi! ". Hồi ở mặt trận Huế, Lượm đã được nghe không ít các anh lớn đồng đội đau đớn kêu lên như vậy lúc hy sinh. Có lẽ tất cả những cái dồn tụ lại trong trí nhớ Lượm và biến thành tiềm thức chiến sĩ. Và hôm nay đã cuốn hút Lượm lao vào mạo hiểm với một sức mạnh không tài nào cưỡng nổi. " Như có ai túm tóc mình mà lôi tới đó ". Về sau này Lượm đã kể lại cảm giác của mình lúc đó như vậy. Đã bao nhiêu lần đứng trên bậu cửa sổ lau chùi cánh cửa, Lượm nhìn xuống đất để ước lượng chiều cao từ vườn lên đến bậu cửa sổ. Nhưng lúc này, đứng lút chân trong cỏ vườn, Lượm với tay lên mới thấy nó cao hơn mình tưởng. Phải đứng lên gờ tường mới có thể mở được cửa mà trèo vào. Nhưng gờ tường đẩy rêu, lại không có chỗ bíu, nên nó trèo lên lại tụt xuống. Nếu với tay quá đà để mở, hai cánh ctta bật ra có thể gây thành tiếng động. Và hai cánh cửa này lại gần sát buồng ở của hai vợ chồng tên quan hai. Lượm vuốt mồ hôi mặt nhìn quanh. Đây rồi? Một tảng đá cách đó chừng ba mét. Lượm vọt ngay tới, lay tảng đá rời khỏi đất. Chao ôi là nặng? Lúc thường sức nó có lẽ chịu hàng. Nhưng nó đã cúi xuống vẩn tảng đá với sức mạnh của kẻ bất thình lình bị rơi xuống biển, nếu không bơi thì chết. Và nó đã vần nó đến được áp sát tường, để làm bậc đứng lên, mở cửa sổ. Đứng lên tảng đá, hai tay rất vừa tầm. Nó móc bốn ngón tay vào chớp cửa, kéo nhẹ. Cánh cửa từ từ mở ra. Nó thò tay qua bệ cửa đẩy hai cánh cửa kính, miệng lẩm bẩm như trong mơ:" Lạy trời, hắn không chốt lại? ". Hai cánh cửa kính mở rộng, giống hệt như trong câu chuyện cổ tích:" Vừng ơi! Mở cửa ra! ". Lượm đu người nằm vắt ngang lên bậu cửa, rồi cố hết sức khẽ khàng, chuồi người vào bên trong. Hai bàn chân nứt nẻ, đầy bụi của nó đã đặt lên nền đá hoa sạch bóng mà sáng nay chính tay nó vừa lau chùi. Cái mát ìạnh của đá hoa chuyền qua hai gan bàn chân làm rợn cả người nó. Lượm bỗng thấy hai mắt mình mờ đi, đồ đạc trong gian phòng tranh tối tranh sáng, trở nên nhòe nhoẹt. Lượm đâm hoảng:" Răng ri hè? ", và đưa bàn tay quệt hai mắt. Té ra cả gương mặt Lượm lút mồ hôi, chảy xuống phủ mờ cả hai mắt. Lượm kéo vạt áo lau mồ hôi, khép hai cánh cửa chớp lại. Gian phòng sáng mờ. Nó bước thẳng đến phía khoảng tường, giữa cái tủ và bàn giấy của tên quan hai, có treo khẩu súng lục. Lượm mở nắp bao súng. Cái cầu tơ nhện ánh bạc bắc từ chuôi súng lên nóc tủ, đứt. Con nhện vàng -" Chú lính gác kho vũ khí "- Rơi xuống trước mặt. Nhưng nó không chịu rớt xuống nền nhà, mà bíu vào sợi tơ leo ngược lên nóc tủ, nhanh không thể tưởng tượng được. Lượm đưa tay định rút khẩu súng ra khỏi bao, nhưng tay nó bỗng khựng lại. Nó nghe có tiếng mở cửa phía buồng ở của viên quan hai. Và tiếp đó tiếng dép kéo lệt xệt đi ra hành lang. Đúng là tiếng dép của hắn? Thính giác của nó trong những giây phút quyết liệt này trở nên nhạy bén lạ lùng. Và ngay lúc đó không hiểu sao nó vụt có cảm giác là hắn đang đi đến phòng này. Đó là một tình huống khủng khiếp mà Lượm không hề lường tới trong kế hoạch đoạt súng. Nó gẩn như chết lặng một giây. Tiếng dép mỗi lúc nghe một gần hơn. Sự thất bại coi như hiển nhiên, không còn cách gì tránh khỏi - vì thoát ra khỏi phòng không còn kịp nữa rồi. Nhưng rồi nó vụt tỉnh trí lại. Một chớp lóe rọi sáng đầu óc: Cái khe hở giữa bức tường và thành sau cái tủ. Nó đóng bao súng lại. Nhón gót chân, chạy đến đóng hai cánh cửa kính lại, vặn chốt. Tiếng chân viên quan hai đã dừng lại trước cửa phòng. Nó cố thót bụng, ép ngực, chét mình vào giữa cái khe hở tủ và tường. Cái khe hở quá hẹp. Lúc bình thường có lẽ nó khó lòng mà chét mình vào đó Nhưng lúc này như có một sức mạnh vô hình từ bên ngoài đẩy nó chét vào giữa khe hở như đóng một cái nêm. Tiếng chìa khóa tra vào ổ khóa vặn lách cách. Hai cánh cửa mở rộng. Gian phòng vụt bừng sáng. Đứng giữa khe hở, Lượm có cảm giác cả gian phòng bị đem phơi trần ra giữa nắng. Viên quan hai đi đến bàn giấy, chỉ cách Lượm có mấy bước chân. Hắn mở ngăn kéo, lục tìm cái gì trong đó chừng năm phút. Trong năm phút đó Lượm thấy như mình đang đứng trên giàn lửa. Nền đá hoa cháy rát dưới hai bàn chân. Tiếng ngăn kéo đóng lại. Tiếng dép kéo lệt xệt đi ra phía cửa. Tiếng hai cánh cửa đóng lại. Gian phòng vụt trở lại mờ tối. Chờ đến lúc tiếng dép xa hẳn, Lượm trườn ra khỏi khe hở. Toàn thân nó ướt sũng mồ hôi. Không kịp gạt mồ hôi lút mặt, nó rút khẩu súng ra khỏi bao. Khẩu súng rung rung trong tay. Nó bật chốt an toàn, kéo quy lát. Một viên đạn vàng chóe nhảy ra khỏi nòng, rơi xuống nền đá hoa, nghe vang như một tiếng nổ. Nó khóa chốt an toàn, giắt khẩu súng vào lưng quần, trước bụng. Dải rút quần là sợi dây gai xe rất chắc và khá to, buộc chặt nút (chi tiết này cũng được Lượm chuẩn bị từ trước, để dây lưng quần không tuột, không đứt, không trĩu xuống vì sức nặng của khẩu súng). Lượm rút tiếp bốn băng đạn trong bốn cái bao da dài như những phong bánh khảo, giắt ra phía sau lưng quần. Lượm cúi nhặt viên đạn lăn lóc trên đá hoa, bỏ vào túi. Nó nhẹ nhàng mở cửa kính, cửa chớp, rồi từ trên bậu cửa, nó vọt thẳng xuống vườn. Trèo lên hòn đá, nó khép hai cánh cửa chớp lại đề phòng lỡ tên giặc nào bất chợt đi ngang qua phát hiện: Tại sao giữa trưa cửa sổ phòng làm việc của giám đốc trông ra vườn lại mở? Và sự lùng bắt kịp thời lập tức sẽ tiếp theo.. Lượm chạy nép theo bờ tường, thò đầu ra đẩu hồi nhà. Nó thấy Thúi vẫn đứng dưới gốc cây, chăm chăm nhìn phía mình. Nó khoát tay ra hiệu. Thúi vụt chạy đến đống lá rụng cạnh gốc cây me, lôi ra bộ đồ nghề bán kẹo gừng. Nó đeo quai mủng vào cổ, xổ túi kẹo lên mẹt, mắt lấm lét nhìn về phía tên lính gác đang dựa gốc cây, ngáy như sấm. Nó đi ra cổng chính hai chân run run, cất giọng rao thử. Nhưng giọng nó cứ nghẹn lại ở cổ. Lượm băng qua khoảng vườn trống, vòng ra phía sau dãy nhà ngang. Cuối dãy nhà ngang có một hố rác lớn, nó vẫn thường mang rác ra đây đổ. Nó moi một góc đống rác lôi lên một cái gói bọc vải sơn. Nó mở gói, bên trong là một cái áo sơ mi cũ nhưng còn lành lặn, cái quần soóc xanh đã bạc màu, vá đít, và cái mũ phớt phở nhem nhuốc. Bộ áo quần và cái mũ này nó nhờ mấy chị bán hàng trước cổng sở đổi giúp bằng hai ' cái bao bố đựng thư lấy cắp được, và cất giấu ở đây đã mười hôm nay. Không kịp thay, Lượm mặc bộ áo quần trùm ra ngoài bộ áo quẩn tù rách rưới, rồi chụp cái mũ phở lên đầu. Lượm nhặt lại bó rau muống, mấy mớ hành, mấy củ cà rốt mà sáng nó lấy cắp của tụi nhà bếp, bỏ vào cái xô đem ra giấu dưới một đống lá rụng cách hố rác chừng mười bước.'Nó xếp tất cả vào cái bị cói cũng giấu cùng với rau hành.. Nó định lôi khẩu súng lục và bốn sác-giơ đạn giắt lệch quanh người giấu xuống đáy bị phủ rau, hành lên trên như dự tính từ trước. Nhưng một thoáng nghĩ ngợi, nó thay đổi quyết định. Nó lượm hòn gạch vỡ để xuống đáy bị để xách đi đường có vẻ nặng. Nó vụt nhớ thằng Tặng dạy mình cách xách sáu đòn bánh tét" truyền đơn "," báo Giết giặc ": . - Giấu súng và đạn vào đáy bị có cái lợi. - Lượm nghĩ, lỡ bất ngờ đụng phải trạm soát dọc đường có thể nhanh chóng vứt hoặc giấu bị vào đâu đó, làm mất tang vật. Nhưng nếu gặp hoàn cảnh bất trắc, cần bắn nhau, thì sẽ không kịp rút súng. Lượm băng qua một khoảnh vườn đầy rác rưởi, mảnh chai, vỏ đồ hộp han rỉ, những vòng thép gai chìm lấp trong cỏ dại.. Nó trèo qua bức tường đổ vọt ra đường sửa sang lại trang phục, Lượm xách bị đi đến chỗ đường rẽ về chợ Cống. Nó thấy thằng Thúi đeo mủng kẹo, đầu đội cái nón rách chắc là mới nhặt được - Lượm mỉm cười:" Hắn cũng là tay bợm xoay xở "- đứng chờ sau một gốc cây, quay lưng lại phía mình. - Ê! Thằng kẹo gừng! - Lượm gọi. Thúi giật mình quay lại. Gương mặt nhỏ thó đầm đìa mồ hôi của nó vụt tươi rạng lên dưới bóng râm chiếc nón rách. Lượm gật đầu cười khoát tay ra hiệu. Thúi xăng xái đi lên trước. Cất giọng rao, nhưng nghe còn ngượng và lạt thếch. Giống như một ca sĩ vọng cổ vốn nổi tiếng có giọng ca rất mùi nhưng vì bỏ ca đã lâu ngày, bất ngờ phải bước lên sân khấu. Nhưng chỉ đi chừng vài trăm bước, nó đã tìm lại được" giọng ca mùi"sở trường bỏ quên. - Ai.. i ai.. kẹo gừng ừng ừng.. ngọt như đường cát, mát như đường phèn.. eèn.. ?