Bài viết: 218 

Chương 10. Ngày giỗ nội
Ngày mai là giỗ ông nội nhưng cũng là ngày đầu tiên của kì thi học kì. Vì thế, sau khi bàn bạc kĩ lưỡng, ba mẹ và cô Ba quyết định kì giỗ này, tôi tạm thời vắng mặt. Ở thành phố, tôi sẽ thắp nhang trên bàn thờ để tưởng nhớ đến nội là được. Từ khi ông mất, đây là lần đầu tiên tôi không cùng gia đình giỗ nội, người mà tôi rất mực gắn bó và yêu thương. Mắt tôi bỗng rưng rưng khi kí ức tuổi thơ ùa về.
Cả tuổi thơ của tôi quấn quít bên nội. Mỗi buổi sáng, nội thường dẫn tôi đi ăn sáng cùng và kể tôi nghe bao nhiêu chuyện về quê hương. Những câu chuyện nửa hư nửa thật, như nguồn gốc cái tên rạch Voi chẳng hạn. Nội kể đó là vì ngày xưa, voi đi hàng đàn để ra sông cái uống nước. Sức nặng của đàn voi khiến con đường đi lún xuống thành con rạch. Mỗi buổi chiều, nội lại lấy cái ghế nhỏ gắn vào xe máy, chở tôi đi dạo.
Khi mùa nước nổi, hai ông cháu rong ruổi trên chiếc xuồng ba lá, đi xuyên qua các cánh đồng. Tôi đưa bàn tay nhỏ hứng lấy từng hạt lúa và thích thú nhìn chúng lăn tròn trên tay. Tôi sảng khoái hít thở làn gió trong lành của cánh đồng quê, với những cành bông điên điển vàng rực mà nội gọi là "hoa của đồng nội". Nội thường âu yếm nhìn tôi và bảo: "Cháu nội còn bé mà đã biết yêu thiên nhiên quê mình rồi."
Kí ức đưa tôi trở về với bao kỉ niệm đẹp đẽ những tháng ngày sống trong tình yêu thương của nội. Tôi nhớ những buổi thức dậy trễ, không kịp ăn sáng đã chạy nhanh đến trường cho kịp giờ. Thế mà khi thấy cô chưa lên lớp, nội đã đứng ở cửa lớp với món ăn sáng mà tôi thích. Nhớ những đồng tiền mà nội dành dụm để thưởng cho tôi mỗi khi đạt danh hiệu học sinh giỏi.. Khi nội mất bởi cơn bạo bệnh, tôi đã khóc rất nhiều. Bao nhiêu năm qua, hình ảnh về nội vẫn hằn in trong trái tim tôi.
Biết tôi buồn vì không thể về dự đám giỗ của nội nên cô Ba vào phòng tôi an ủi:
- Đừng buồn nữa, Trân à. Ở trên trời cao, nội sẽ thấu hiểu tấm lòng hiếu thảo của con và vui mừng vì con học hành giỏi giang.
Rồi cô kể bao kỉ niệm về ông bà nội, về ngôi nhà phủ thờ có mái ngói lợp kiểu âm dương cổ kính và những lễ giỗ trong dòng họ.
Trong mỗi gia đình Việt Nam, lễ giỗ luôn là ngày thiêng liêng, là sợi dây nối kết bền chặt giữa các thế hệ. Những chi, nhánh trong dòng họ được ba tôi ghi chép kĩ lưỡng và ngày đám giỗ là ngày người thân tụ họp.
Từ trước một tháng, những người mẹ, cô, dì đã chuẩn bị sẵn nếp, đậu để gói bánh tét, bánh ít. Họ nuôi sẵn bầy gà, vịt để làm các món cúng kiếng. Gần ngày đám giỗ, đàn ông trong nhà sẽ đi mời bà con chòm xóm và mượn bàn ghế về lau chùi sạch sẽ. Phụ nữ thì cắt lá chuối, rửa, lau cho sạch rồi phơi để chuẩn bị gói bánh. Những bắp chuối, quài chuối trong vườn hoặc các loại trái cây khác được "ngắm" để dành cho đám giỗ.
Bữa cúng tiên, con cháu tụ họp về nhà vừa gói bánh vừa chuyện trò rôm rả. Không khí trong nhà rộn ràng với tiếng nói, tiếng cười xen lẫn tiếng dao thớt bằm tỏi, xắt hành, ớt. Tối đó, cả nhà quây quần bên nồi bánh tét, câu chuyện là hồi ức về những người đã khuất. Một sợi dây tình cảm thiêng liêng gắn kết giữa quá khứ và hiện tại hiện rõ. Rồi mờ sáng hôm sau, mọi người thức dậy từ rất sớm, mỗi người bắt tay vào một việc. Ai giỏi nấu nướng thì đảm nhận vai trò bếp chính. Ai vụng về hơn thì lo cắt, tỉa, lặt rau, rửa hành.. Qua mỗi kì đám giỗ, những người con gái lại học được từ các bà, các mẹ, các chị vô số kiến thức về nữ công gia chánh từ cách nấu nướng cho đến cách cắt, tỉa bông hoa, cách sắp xếp, trang trí các món ăn cho đẹp mắt.
Sau đám giỗ, khách ra về với gương mặt ửng đỏ vì men rượu, tay xách bịch bánh ít, bánh tét, trái cây được gia chủ gởi tặng thay cho lời cám ơn. Thế mới cảm nhận đúng nghĩa hai từ "giỗ quải" trong tập tục của người Việt.
Sau này, khi đã lớn, tôi để ý cách chuẩn bị cho lễ giỗ đã có nhiều thay đổi. Những người phụ nữ gói bánh dường như đã lùi vào dĩ vãng. Nhiều gia đình lựa chọn cách đi mua bánh làm sẵn. Chẳng còn tiếng dao thớt, tiếng chuyện trò vang lên trong nhà. Cuộc sống tất bật theo nếp công nghiệp khiến họ không còn thời gian chuẩn bị lễ giỗ. Trên bàn thờ vẫn đầy đủ bông hoa, trái cây, các món ăn nhưng thiếu đi không khí ấm cúng, rộn ràng của con cháu.
Cả tuổi thơ của tôi quấn quít bên nội. Mỗi buổi sáng, nội thường dẫn tôi đi ăn sáng cùng và kể tôi nghe bao nhiêu chuyện về quê hương. Những câu chuyện nửa hư nửa thật, như nguồn gốc cái tên rạch Voi chẳng hạn. Nội kể đó là vì ngày xưa, voi đi hàng đàn để ra sông cái uống nước. Sức nặng của đàn voi khiến con đường đi lún xuống thành con rạch. Mỗi buổi chiều, nội lại lấy cái ghế nhỏ gắn vào xe máy, chở tôi đi dạo.
Khi mùa nước nổi, hai ông cháu rong ruổi trên chiếc xuồng ba lá, đi xuyên qua các cánh đồng. Tôi đưa bàn tay nhỏ hứng lấy từng hạt lúa và thích thú nhìn chúng lăn tròn trên tay. Tôi sảng khoái hít thở làn gió trong lành của cánh đồng quê, với những cành bông điên điển vàng rực mà nội gọi là "hoa của đồng nội". Nội thường âu yếm nhìn tôi và bảo: "Cháu nội còn bé mà đã biết yêu thiên nhiên quê mình rồi."
Kí ức đưa tôi trở về với bao kỉ niệm đẹp đẽ những tháng ngày sống trong tình yêu thương của nội. Tôi nhớ những buổi thức dậy trễ, không kịp ăn sáng đã chạy nhanh đến trường cho kịp giờ. Thế mà khi thấy cô chưa lên lớp, nội đã đứng ở cửa lớp với món ăn sáng mà tôi thích. Nhớ những đồng tiền mà nội dành dụm để thưởng cho tôi mỗi khi đạt danh hiệu học sinh giỏi.. Khi nội mất bởi cơn bạo bệnh, tôi đã khóc rất nhiều. Bao nhiêu năm qua, hình ảnh về nội vẫn hằn in trong trái tim tôi.
Biết tôi buồn vì không thể về dự đám giỗ của nội nên cô Ba vào phòng tôi an ủi:
- Đừng buồn nữa, Trân à. Ở trên trời cao, nội sẽ thấu hiểu tấm lòng hiếu thảo của con và vui mừng vì con học hành giỏi giang.
Rồi cô kể bao kỉ niệm về ông bà nội, về ngôi nhà phủ thờ có mái ngói lợp kiểu âm dương cổ kính và những lễ giỗ trong dòng họ.
Trong mỗi gia đình Việt Nam, lễ giỗ luôn là ngày thiêng liêng, là sợi dây nối kết bền chặt giữa các thế hệ. Những chi, nhánh trong dòng họ được ba tôi ghi chép kĩ lưỡng và ngày đám giỗ là ngày người thân tụ họp.
Từ trước một tháng, những người mẹ, cô, dì đã chuẩn bị sẵn nếp, đậu để gói bánh tét, bánh ít. Họ nuôi sẵn bầy gà, vịt để làm các món cúng kiếng. Gần ngày đám giỗ, đàn ông trong nhà sẽ đi mời bà con chòm xóm và mượn bàn ghế về lau chùi sạch sẽ. Phụ nữ thì cắt lá chuối, rửa, lau cho sạch rồi phơi để chuẩn bị gói bánh. Những bắp chuối, quài chuối trong vườn hoặc các loại trái cây khác được "ngắm" để dành cho đám giỗ.
Bữa cúng tiên, con cháu tụ họp về nhà vừa gói bánh vừa chuyện trò rôm rả. Không khí trong nhà rộn ràng với tiếng nói, tiếng cười xen lẫn tiếng dao thớt bằm tỏi, xắt hành, ớt. Tối đó, cả nhà quây quần bên nồi bánh tét, câu chuyện là hồi ức về những người đã khuất. Một sợi dây tình cảm thiêng liêng gắn kết giữa quá khứ và hiện tại hiện rõ. Rồi mờ sáng hôm sau, mọi người thức dậy từ rất sớm, mỗi người bắt tay vào một việc. Ai giỏi nấu nướng thì đảm nhận vai trò bếp chính. Ai vụng về hơn thì lo cắt, tỉa, lặt rau, rửa hành.. Qua mỗi kì đám giỗ, những người con gái lại học được từ các bà, các mẹ, các chị vô số kiến thức về nữ công gia chánh từ cách nấu nướng cho đến cách cắt, tỉa bông hoa, cách sắp xếp, trang trí các món ăn cho đẹp mắt.
Sau đám giỗ, khách ra về với gương mặt ửng đỏ vì men rượu, tay xách bịch bánh ít, bánh tét, trái cây được gia chủ gởi tặng thay cho lời cám ơn. Thế mới cảm nhận đúng nghĩa hai từ "giỗ quải" trong tập tục của người Việt.
Sau này, khi đã lớn, tôi để ý cách chuẩn bị cho lễ giỗ đã có nhiều thay đổi. Những người phụ nữ gói bánh dường như đã lùi vào dĩ vãng. Nhiều gia đình lựa chọn cách đi mua bánh làm sẵn. Chẳng còn tiếng dao thớt, tiếng chuyện trò vang lên trong nhà. Cuộc sống tất bật theo nếp công nghiệp khiến họ không còn thời gian chuẩn bị lễ giỗ. Trên bàn thờ vẫn đầy đủ bông hoa, trái cây, các món ăn nhưng thiếu đi không khí ấm cúng, rộn ràng của con cháu.