Bạn được Tư Đồ Vũ mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.

Admin

Nothing to lose.. your love to win..
23,288 ❤︎ Bài viết: 4201 Tìm chủ đề
1150 2
Kiếm tiền
Admin đã kiếm được 11500 đ
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,

Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,

Cuộc đời cách mạng thật là sang.

Tháng 2 năm 1941.

Hồ Chí Minh

Nguồn: Thơ Hồ Chí Minh, NXB Nghệ An, 2005

kFliCsW.jpg


Hoàn cảnh ra đời bài thơ​


Tức cảnh Pác Bó là bài thơ được Bác Hồ sáng tác vào đầu năm 1941, gắn liền với một giai đoạn cực kỳ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Đây không chỉ là một bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, mà còn là dấu mốc đánh dấu sự trở về của Bác sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.

Nguồn gốc của bài thơ bắt đầu từ khi Bác trở lại Cao Bằng ngày 28/1/1941. Người chọn hang Pác Bó huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng làm nơi sống và làm việc bí mật để gây dựng phong trào cách mạng. Cuộc sống lúc đó vô cùng thiếu thốn: Hang đá lạnh, chỉ có suối Lê Nin và núi Các Mác, ngày ngày ăn cháo bẹ, rau măng. Nhưng Bác luôn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời, lấy niềm vui cách mạng làm động lực.

54927427325_ef805a1b4c_o.jpg


Hang Pác Bó nơi Bác Hồ nghỉ và làm việc..

Trong bối cảnh giản dị và khắc nghiệt ấy, bài thơ Tức cảnh Pác Bó ra đời. Bác sáng tác như một lời tự nhắc và cũng như một nụ cười hóm hỉnh về cuộc sống của mình, thể hiện phong thái ung dung, tinh thần thép và niềm vui bất tận khi được trực tiếp lãnh đạo cách mạng từ núi rừng quê hương.

Nguồn gốc bài thơ vì vậy gói trọn một thời kỳ gian lao nhưng rực sáng, cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ và tinh thần lạc quan hiếm có của Hồ Chí Minh trong buổi đầu lãnh đạo cách mạng từ Pác Bó.
 
Last edited by a moderator:
1,512 ❤︎ Bài viết: 1012 Tìm chủ đề

Thời gian Bác Hồ ở Pác Bó​


Từ ngày 08/02/1941, Người bắt đầu sống và làm việc tại hang Cốc Bó, thôn Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Người sống ở đây hơn mười ngày, trong điều kiện khắc nghiệt, đêm nồm, đá chảy mồ hôi, nước nhỏ giọt thấm qua chăn. Người bị mất ngủ nhưng không hề lộ chút nào mệt mỏi. Giặc lùng sục, Người lại di chuyển lên Lũng Lạn, chỗ ngủ không ván, không chiếu, chỉ có lá cây rừng trải xuống đất để nằm. Đồng chí Lê Quảng Ba kể lại trong hồi ký: "Sau những đêm vật lộn với mưa gió và sương lạnh, bọn thanh niên chúng tôi đã đau xương, mỏi lưng, ê ẩm khắp người. Người vẫn không phàn nàn nửa lời nhưng chắc Người đã phải chịu đựng vất vả hơn chúng tôi nhiều". "Cơ quan ở cái hang sâu và kín đáo ở sườn núi mé trên, lên phải leo dốc đá vài chục thước. Cửa hang này nhỏ, luôn luôn ẩm ướt, phải bíu tay vào thành đá mới có thể chui được vào bên trong. Ngoài các cửa ra vào, nhỏ và tối, hang còn có một cửa lớn ở phía trên cao bị cây cối um tùm che khuất. Trong hang có những phiến đá to chỉ cần xếp ít cành rồi trải lá lên là có thể ngả lưng được. Chỉ ban đêm mới vào đây ngủ, còn ban ngày vẫn ra bờ suối, chỗ bãi cỏ nhỏ trong thung lũng để làm việc và thường cũng chỉ tiếp khách ở nơi này. Ở trong hang không khí ẩm thấp, nhất là ngày mưa, nước thường nhỏ giọt theo nhũ đá xuống nền lách tách không bao giờ ngớt". Có đồng chí đề nghị làm mái để tránh mưa nhưng Người không đồng ý vì khi có động phải rời hang, giặc đến sẽ biết dấu vết để truy bắt. Mưa lớn, nước rỏ lênh láng vào cả chỗ nằm, Người chỉ lấy một cây que dài ghếch lên làm "máng" lựa đón giọt nước chảy ra chỗ khác.

Ở Lũng Lạn được sáu ngày, cuối tháng 3/1941, do địch lùng sục, Người rời sang Khuổi Nậm, địa thế thuận tiện cho việc di chuyển mỗi khi bị lộ. Đây là nơi ở tương đối lâu dài và "sang" nhất của Người trong thời kỳ ở Pác Bó. Lán dựng ngay ở trên lòng con suối đang mùa khô, cây cối rất rậm rạp, ở ngoài nhìn vào khó nhận ra. Lán dựa vào một cây "mạ" làm cột cái, mái lán lợp bằng gianh; vách lán, chiếu nằm đều đan bằng lá đào rừng. Tháng 5/1942, Người rời Khuổi Nậm, về các huyện Hòa An, Nguyên Bình. Mấy tháng sau, Người lại quay về Pác Bó, tiếp tục ở Khuổi Nậm và di chuyển nhiều nơi khác.

Bữa ăn của Người rất kham khổ, ngày chỉ có hai bữa, món ăn chính là cháo bẹ, rau măng, rau rừng, cơm độn bắp; nước lá ổi thay chè. Thỉnh thoảng Người câu được con cá hay anh em mua được cân thịt lại đem kho thật mặn làm "món ăn chiến lược" để ăn dần - 1kg thịt, 1kg muối, 1 nửa kg ớt xào lên cho vào ống, đi đến đâu dùng cũng tiện. Người thường căn dặn anh em chú ý tiết kiệm, ăn uống tuyệt đối không được để thừa hoặc đổ đi. Đồng chí nào mang quà về hoặc có quà của quần chúng gửi cho, nếu có nhiều thì phải tính giảm bớt gạo. Mỗi bữa cơm, Người chỉ ăn hai bát đầy bằng miệng vì cơ quan ở bí mật, gặp nhiều khó khăn. Để ăn mừng Người dịch xong cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô, bữa cơm cũng chỉ có thêm ít rau rừng và ít thịt.

Cuộc sống thiếu thốn, kham khổ lại di chuyển nhiều nơi nhưng Người luôn có ý thức rèn luyện sức khỏe. Dù trời ấm áp hay mưa lạnh đến đâu, Người đều dậy sớm leo núi, đi quyền rồi xuống suối tắm. Người chọn những quả núi cao nhất quanh vùng để leo lên với bàn chân không. Việc leo núi của Người không chỉ nhằm mục đích tập luyện mà còn để tìm hiểu địa hình để ứng phó linh hoạt nhất khi quân thù bất ngờ ập đến. Nhiều đồng chí đề nghị Người đi giày cho khỏi đau chân. Người trả lời: Tôi tập leo núi chân không cho quen vì con đường cách mạng chông gai lắm. Sau giờ tập, Người thường tắm nước lạnh để luyện chịu đựng giá rét. Để luyện bàn tay, Người bóp tay vào hai hòn đá tròn và nhẵn như quả trứng gà. Sống cạnh Người, ai tinh ý lắm mới biết được mỗi khi mỏi mệt là Người đứng dậy đi đi lại lại hoặc làm một việc gì đó, trừ trường hợp không đi lại được nữa, Người mới chịu nằm nghỉ. Có lần bị sốt rét, người gầy đi nhiều, nhưng Người cũng không chịu nghỉ, vẫn kiên trì leo núi cho mồ hôi vã ra.

Người làm việc có kế hoạch và cần mẫn với một nghị lực phi thường. Hôm đầu tiên về nước, Người đã bắt tay ngay vào công việc. Thấy Người làm việc có nề nếp, quy củ, anh em cứ ngỡ như Người đã từng ở đây từ rất lâu. Về Pác Bó được ít ngày, Người đã hoàn thành một công việc có ý nghĩa lịch sử trọng đại là chuẩn bị các điều kiện cho Hội nghị Trung ương. Thỉnh thoảng mua được một tờ báo, Người tranh thủ xem rất kỹ, những chỗ quan trọng bao giờ Người cũng gạch dưới và đánh dấu cẩn thận. Người viết nhiều bài cho báo Việt Nam độc lập bằng văn vần dễ thuộc, dễ nhớ, để tuyên truyền đường lối cách mạng trong quần chúng. Tuy công việc bề bộn, ngổn ngang, nhưng giờ nào việc ấy, rất có trật tự. Những thứ giá trị như máy chữ, đá in và tài liệu sách báo bí mật đều được sắp đặt gọn gàng, ngăn nắp. Sau mỗi buổi làm việc, Người xếp máy chữ vào một túi riêng, tài liệu thì bỏ thùng sắt đậy lại cẩn thận.

Thời gian ở Pác Pó, Người thường mặc bộ quần áo Nùng màu chàm, đi giầy vải chẳng khác gì một ông cụ người địa phương. Người ở Pác Bó hơn một năm, nhưng bà con trong thôn xóm chỉ biết đó là cán bộ cách mạng tên Sáu Sán. Người thường hỏi han công việc của mỗi người trong ngày. Ai chưa có việc, Người cắt đặt cho. Người thường nhắc nhở mọi người: Nhàn cư vi bất thiện, muốn ai cũng có việc làm dù là những việc lớn như xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào hay chỉ là việc nhỏ như vá quần áo. Ở bên Người, mỗi cán bộ cách mạng lại thấy mình trưởng thành hơn. Tư tưởng, tình cảm bao la của Người tỏa chiếu thấm đượm, chan hòa, làm ấm lòng đồng chí, đồng bào, tiếp thêm sức mạnh lớn lao để vượt qua những khó khăn, thử thách trong những bước đường hoạt động cách mạng, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Theo hochiminh.vn
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back