Truyện Kể Về Cao Biền - Người Trấn Yểm Long Mạch Việt Nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Admin, 19 Tháng hai 2017.

  1. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Theo một vài cuốn sách sưu tầm văn học dân gian Phú Yên xuất bản những năm gần đây, ở Phú Yên có 3 truyện kể về Cao Biền.

    Truyện thứ nhất: Mả Cao Biền ở Phú Yên

    Sau khi dẹp yên quân Nam Chiếu, Cao Biền được vua phong làm Tiết độ sứ nước ta. Biền thông hiểu thiên văn, địa lí, nhận ra vùng biển dọc dải Hoành Sơn có "long mạch phát đế vương". Vì cho rằng, nếu tán hài cốt của cha vào "hàm rồng" của "long mạch" ấy thì mình sẽ làm nên nghiệp đế ở phương Nam, nên Biền bèn sai một học trò thân tín về nước bốc hài cốt của cha mình đưa sang nước Nam. Không ngờ, gã học trò của Biền biết được mưu đồ của thầy. Về nước, hắn không chỉ bốc hài cốt của cha thầy mà còn bốc hài cốt của cha mình, gói thành hai gói đưa sang.

    Khi được sai mang gói hài cốt của cha Cao Biền lặn xuống biển đặt vào "hàm rồng", gã học trò cũng mang theo gói hài cốt của cha mình và hắn đã đặt gói hài cốt của cha hắn vào chỗ cần đặt, ném gói hài cốt của cha Cao Biền vào biển sâu. Cao Biền không những không biết việc đánh tráo như vậy của gã học trò mà còn giao cho hắn công việc là mỗi ngày thắp một nén hương. Nếu hương được thắp đủ 100 nén trong 100 ngày thì từ dưới lòng đất sẽ hiện lên một đội quân hùng hậu. Cao Biền sẽ điều khiển đội quân ấy để xây dựng nghiệp đế, hùng cứ phương Nam. Tuy nhiên, mục đích của việc thắp hương như thế, Cao Biền không tiết lộ cho gã học trò biết.

    Sau ba tháng, gã học trò thắp được 90 nén hương thì vợ của hắn sinh ra hai đứa con trai có hình thù kì dị. Vì cho rằng, Cao Biền đã biết được hành vi phản trắc của mình, "hóa phép" ngầm hại mình nên gã học trò bèn giết hai đứa con và cùng một lúc thắp 10 nén hương còn lại. 10 nén hương vừa tàn thì bỗng xảy ra một sự việc lạ lùng: Từ dưới đất hiện lên một đội quân đông đảo, nhưng vì thiếu ngày nên thân xác của những tên lính hãy còn non yếu, run lẩy bẩy rồi lăn ra chết sạch. Từ việc này, dân gian có câu tục ngữ:

    Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non

    Mưu lớn không thành, Cao Biền thất vọng cưỡi diều giấy đi khắp nơi và tìm các huyệt đất tốt ở nước ta để trấn yểm. Ngày kia, đến làng nọ, Biền phát hiện "long mạch đại kiết" và "con mắt rồng" của "long mạch" đó ở trong một cái giếng, y phóng cây bút thần vào lòng giếng. "Con rồng" bị mù mắt, đau đớn, vùng quẫy, gây ra nạn cháy làng làm nhiều người chết. Dân chúng bắn rách nát cánh diều. Diều không bay được nữa, Biền rơi xuống đất.

    Sau khi yểm huyệt đất ở thành Đại La bị thần sông Tô Lịch triệt phá, Cao Biền sợ hãi linh khí phương Nam, trở về đất Bắc. Biền đi bộ và bị lạc đường về phía nam đến tận Phú Yên. Phát hiện một làng nhỏ ven biển có "long mạch" tốt, y quyết định không về Bắc nữa và sinh sống tại làng đó. Thời gian sinh sống ở đây, Biền có giúp dân làng những việc như xem đất xây nhà, để mả.. Về già, Biền nhờ dân làng, nếu ông chết thì hãy chôn xác vào chỗ đất mà ông đã chọn. Vì vậy nên ở thôn Năm, xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên có mả Cao Biền. Sự kiện này, từ bao đời nay, đã được phản ánh trong ca dao Phú Yên:

    Nhìn ra thấy mả Cao Biền

    Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài.

    Lược ghi theo Truyện dân gian và truyện cổ Phú Yên (1)

    Truyện thứ hai: Dấu chân và mả Cao Biền

    Thuở các nước phương Nam bị giặc xâm lược phương Bắc đô hộ có một trận đánh ác liệt giữa quân Cao Biền và quân Lâm ấp diễn ra.

    Trận đánh ấy, quân Cao Biền bị quân Lâm ấp đánh cho đại bại. Cao Biền cùng một nhóm tàn quân tháo chạy đến gành Cây Sung (thuộc huyện Sông Cầu, tỉnh Phú Yên ngày nay). Quân Lâm ấp truy kích, bao vây gành Cây Sung. Vòng vây ngày càng thu hẹp. Biết khó lòng thoát chết, Cao Biền đứng trên một tảng đá, ngửa mặt lên trời gào thét: "Trời hỡi! Trời đã hại ta" và giậm mạnh chân xuống tảng đá.

    Kêu trời, giậm chân xong, Cao Biền lên ngựa. Nhưng lạ lùng thay! Con ngựa của y không chịu cất vó cho dù Biền có giật mạnh dây cương, ra roi, la hét. Tức giận, y rút kiếm chém đứt bốn chân con chiến mã. Máu của bốn chân con chiến mã vọt ra thành vòi vạch ngang vào vách đá của gành Cây Sung rồi nó ngã gục.

    Ngựa đã chết, Cao Biền bỏ đám tàn quân liều chết phá vòng vây, chạy bộ về phía biển và y đã kiệt sức, tắt thở trên một bãi cát thuộc xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.

    Dân gian cho rằng, trên một tảng đá ở gành Cây Sung ngày nay có dấu vết giống như một bàn chân khổng lồ. Đó là dấu chân Cao Biền giậm vào đá lúc kêu trời thuở trước. Vách đá của gành Cây Sung có một tầng đá đỏ. Đó là vết máu từ bốn chân ngựa của Cao Biền. Cao Biền chết không được chôn cất. Nơi xác y nằm, qua bao năm tháng, gió, mưa vun thành một mô đất cao và được gọi là mả Cao Biền (theo Văn học dân gian Sông Cầu) (2).

    Truyện thứ 3: Sự tích mả Cao Biền

    Ở một vài địa phương của tỉnh Phú Yên lưu truyền câu chuyện: Cao Biền là một vị tướng của quân xâm lược phương Bắc. Lúc sang Việt Nam, Cao Biền rất "thương yêu" dân ta. Biền làm bất kì việc gì có thể làm được nhằm "mang lại lợi ích" cho người Việt Nam. Do làm trái lệnh triều đình phương Bắc, nên Cao Biền sợ rằng, một ngày kia, sau khi mình qua đời, rất có thể mả của mình sẽ bị người Hán quật lên. Vì thế, khi đã già yếu, trước lúc chết, Cao Biền dặn dò những người dân Việt thân thiết với ông rằng:

    - Khi ta chết phải chôn sấp ta để phòng khi người Hán có quật mồ, lật ngược lại tư thế ta nằm lúc chết thì xác ta sẽ nằm ngửa. Có như vậy, người Việt mới còn xuất hiện nhiều người tài giỏi ().

    Dù Cao Biền đã căn dặn như vậy, nhưng vì thiện cảm dành cho Cao Biền và còn vì phải làm theo tập tục chôn cất của người Việt nên khi Cao Biền chết, những người chôn cất ông vẫn cứ chôn ngửa. Sau đó, đúng như sự tiên đoán của Cao Biền, người Hán đã tìm mả ông, quật lên, lật ngược quan tài lại. Từ đó, một tai họa gieo xuống đất nước ta là nhân tài hết sức hiếm hoi ().

    Mả Cao Biền là một mô đất cao trên một ngọn đồi ở thôn Năm, thuộc xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên hiện nay. Dân gian còn có cách giải thích rằng, mả Cao Biền là do trời vun đắp một cách tự nhiên mà thành. Không hiểu sao đây là nơi tập trung nhiều mèo. Vì thế, dân gian còn cho rằng, hằng năm vào thời điểm chỗ mả Cao Biền có nhiều mèo là lúc "nhà họ mèo" tổ chức cúng giỗ Cao Biền. (Theo Văn học dân gian Sông Cầu) (3)

    Ba truyện dân gian vừa kể đều đề cập đến sự tích mả Cao Biền, nhưng nội dung cụ thể và hình thức thể hiện lại có một số điểm khác xa nhau. Chẳng hạn, cùng nói về cái chết và sự chôn cất Cao Biền: Trong truyện thứ nhất và truyện thứ ba, Cao Biền già, đau bệnh chết; ngược lại, ở truyện thứ hai, Cao Biền chết trong chiến trận. Trong truyện thứ nhất, Cao Biền chết được người dân Việt chôn cất. Ở truyện thứ hai, xác Cao Biền không được chôn cất mà theo năm tháng, gió, mưa vun đắp thành mồ. Truyện thứ ba, vừa cho rằng, người dân Việt chôn cất Cao Biền, vừa cho biết: Mồ Cao Biền là do gió, mưa theo năm tháng tạo nên..

    Sự khác nhau giữa các truyện nêu trên còn biểu hiện ở một số khía cạnh khác nữa và đó là những minh chứng về sự vận động đa dạng, phức tạp nhưng cũng độc đáo và thú vị của sáng tác folklore. Đặc biệt, từ sự khác nhau ấy, ta nhận ra tác giả dân gian đã có nhầm lẫn khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền. Tác giả bài viết này xin nêu một vài suy nghĩ về hiện tượng vừa nói.

    Trong các truyện kể về Cao Biền đã dẫn, ta thấy tác giả dân gian đã có hai thái độ và cách đánh giá trái ngược nhau đối với Cao Biền. Lúc thì khinh bỉ, lên án khi thì gần gũi, tôn trọng thậm chí Cao Biền còn được tô vẽ trở thành kẻ có liên quan mật thiết với nguyên khí của núi sông. Biền rất "thương yêu" dân ta. Biền làm bất kì việc gì có thể làm được nhằm "mang lại lợi ích" cho người Việt Nam. Biền làm trái lệnh triều đình phương Bắc đến mức sau khi y chết, có khả năng triều đình cho người quật mồ của y. Có nghĩa rằng, Biền đã hoàn toàn đứng về phía dân Nam để chống lại sự đô hộ của phương Bắc. Vì vậy mà việc chôn sấp hay chôn ngửa thi thể của y có ảnh hưởng đến sự xuất hiện hiền tài của đất nước (). Vô tình, dân gian đã ca ngợi tên xâm lược: Cao Biền. Và đây là sự nhầm lẫn chứ hoàn toàn không phải là sự mâu thuẫn trong nhận thức, cũng không phải là sự sáng tạo nghệ thuật của tác giả dân gian khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền.

    Vấn đề cần bàn là vì sao chỉ có thể nói là tác giả dân gian nhầm lẫn? Và vì sao đã có sự nhầm lẫn ấy?

    2. Xưa nay, ở ta đã có sách cho biết: Cao Biền là danh tướng đời Đường (4). Năm Hàm Thông thứ 6, vua Đường ý Tông sai Cao Biền làm đô hộ tướng quân, đem binh sang đánh quân Nam Chiếu. Lúc Biền trở về, nhà vua đặt Tĩnh hải quân ở thành Lĩnh Nam, cho Biền làm tiết độ sứ (5). Cao Biền là dòng dõi con nhà võ lại thêm xuất thân nho học, nên y thông lí số, hiểu biết thiên văn địa lí và có nhiều mưu mẹo thâm hiểm. Phàm khi đi đến đâu xem hình thế đất đai, thấy nơi nào "linh thiêng" y liền dùng thuật pháp yểm bùa huyệt để triệt "nhân kiệt". Thuật pháp chủ yếu của Biền là lừa bắt một người con gái chưa chồng đem mổ bụng moi ruột rồi nhồi cỏ bấc vào. Đoạn y mặc quần áo cho tử thi theo trang phục quan tước rồi đặt lên ngai. Y đem các thứ đến huyệt định yểm rồi giết thịt trâu bò tế cúng và đọc thần chú. Hễ khi nào tử thi cử động, tức là thần linh ở đất ấy đã nhập vào, y lập tức dùng kiếm chém đầu. Như thế có nghĩa là y đã trừ yểm xong.. Tuy vậy, với mọi người, bao giờ Biền cũng nói là dùng pháp thuật để tiễu trừ tà ma (6). Biền cai trị Giao Châu trong 8 năm (866 – 874) rồi sau đó được triệu hồi về nước (7) và bị giết (8).

    Những thông tin về Cao Biền trong sách vở xưa nay đã giúp chúng ta hình dung ra được một số nét cơ bản về con người Cao Biền trong lịch sử. Biền là danh tướng nhà Đường, từng làm quan cai trị nước ta vào giai đoạn cuối thời kì Bắc thuộc; y có "pháp thuật" và là tên quan cai trị tàn bạo, thâm độc. Quá trình sáng tạo ra nhân vật Cao Biền trong tác phẩm folklore, tác giả dân gian phải giữ lại một cách trung thực những nét cơ bản ấy của con người Cao Biền trong lịch sử. Và chỉ khi nào làm được điều đó thì tác giả dân gian mới sáng tạo ra được tác phẩm folklore có giá trị đích thực. Bởi vì, chắc chắn rằng, trong tác phẩm folklore được sáng tạo theo cách như vậy, thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với con người Cao Biền trong lịch sử mới được thể hiện một cách rõ ràng và chính xác nhất. Những truyện kể về Cao Biền được lưu truyền trong dân gian và được ghi lại trong sách vở của ta xưa nay đã thể hiện được thái độ và cách đánh giá đó của nhân dân.

    Truyện Truyện sông Tô Lịch trong sách Lĩnh Nam chích quái đã cho ta thấy hình ảnh Cao Biền ngoan cố nhưng hèn nhát: Hồi đó giữa tháng sáu, nước mưa lên cao: Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào sông con, đi khoảng một dặm bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kì, tắm ở giữa dòng sông, cười nói hớn hở. Biền hỏi tên. Đáp: Ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: Nhà ở đâu? Đáp: Nhà ở trong sông này. Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch.

    Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô Giang, phía đông thành Đại La, thấy một trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một quãng trời, chập chờn lên xuống trong khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây vẫn còn chưa tan, Biền rất kinh dị muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần tới nói rằng: "Chớ yểm ta, ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh, ông xây thành ở đây, ta chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi, ta có sợ gì bùa phép?". Biền kinh hãi.

    Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm chú, lấy kim đồng hồ thiết phù để yểm. Đêm hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dầm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng hồ thiết phù bật ra khỏi mặt đất, biến thành tro, bay tan trên không. Biền kinh hãi, than rằng: "Xứ này có thần linh dị, ở lâu ắt chuốc lấy tai vạ (9)".

    Từ bao đời nay, nhân dân ta lưu truyền câu truyện nhằm giải thích nguyên nhân hình thành câu tục ngữ Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non với cốt truyện như sách Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ ghi lại đã phác họa chân dung Cao Biền với bản chất: Tàn bạo, thâm độc, nhiều cuồng vọng và kết cục thất bại thảm hại: Cao Biền là danh tướng đời Đường (865), được phong Tiết độ sứ và cử sang cai trị nước ta. Tương truyền, Cao Biền có tài bắn một phát trúng hai con chim điêu nên thời đó có tiếng là "xạ lạc song điêu". Đặc biệt, danh tướng này còn giỏi nghề địa lí, phù thuỷ. Ở nước ta Cao Biền đã đi khắp mọi chốn đó đây để yểm hết huyệt rồng vàng, những mong muốn khí thiêng đất nước ta lụi tàn để dễ bề cai trị. Lại nữa, Cao Biền còn kì tài trong việc luyện âm binh. Với phép thuật cao nghệ, những âm binh bằng giấy của y có thể trở thành binh lính thật. Việc luyện âm binh cũng có thời hạn, có quá trình cụ thể. Nếu luyện âm binh đủ ngày, đủ tháng thì quân lính ra đời mới khoẻ mạnh, cứng cáp. Ngược lại, không trọn ngày, đủ tháng là dậy non, kết quả cho ra một "mẻ" quân lính yếu ớt, run lẩy bẩy. Từ câu chuyện này, trong tiếng Việt xuất hiện thành ngữ lẩy bẩy như Cao Biền dậy non để chỉ những trạng thái run rẩy, yếu ớt, đứng không vững.

    Con nhạn chắp cánh bay chuyền

    Chồng em lẩy bẩy như như Cao Biền dậy non (9).

    Trong những hiện tượng folklore vừa đề cập, tác giả dân gian cho dù có nói tới tài xạ lạc song điêu, luyện âm binh, giỏi nghề địa lí, phong thuỷ của Cao Biền; cho dù có nói tới việc Cao Biền đặt tên con sông Tô Lịch và cho dù có nói tới sự kiện trọng đại: Cao Biền xây thành Đại La thì cũng hoàn toàn không phải với thái độ tôn trọng, ca ngợi Cao Biền mà luôn luôn với thái độ vạch trần bản chất tàn bạo, thâm độc, nhiều cuồng vọng, nhưng cuối cùng phải chuốc lấy thất bại thảm hại của y. Rõ ràng, từ thời đại cách thời đại chúng ta đang sống khá xa, nhân dân ta đã nhận thức được một cách đầy đủ bản chất xâm lược của Cao Biền. Nhận thức ấy biểu hiện ở thái độ và cách đánh giá của nhân dân cũng chính là của tác giả dân gian đối với y và đã được phản ánh trong tác phẩm văn hóa dân gian mà trước hết và chủ yếu là trong các truyện kể dân gian như chúng ta đã nói.

    Mặt khác, về thể loại, truyện Truyện sông Tô Lịch các truyện kể về Cao Biền sưu tầm ở Phú Yên và kể cả truyện Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non vừa có tính chất truyện cổ tích, vừa có tính chất truyền thuyết nhưng tính chất truyền thuyết đậm nét hơn. Vì vậy, nếu có thể phân loại cho các truyện kể dân gian về nhân vật Cao Biền, cụ thể là những truyện đang khảo sát, thì chúng ta nên xếp chúng vào thể loại truyền thuyết. Từ đó, vấn đề chúng ta đang bàn có nhiều liên quan đến chức năng thể loại truyền thuyết. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, Chức năng của truyền thuyết là đánh giá các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử (11). Nhân vật truyền thuyết, xét chung, là do lịch sử tạo ra. Đó không phải là nhân vật hư cấu. Nhưng cũng không phải là bản sao của nhân vật lịch sử. Công việc của các tác giả dân gian khi sáng tác truyền thuyết, nhất là những truyền thuyết sau thời cổ không phải là hư cấu ra những nhân vật như là khi sáng tác truyện cổ tích mà lựa chọn những sự kiện, những nhân vật có thật trong lịch sử, dựng lại diện mạo và tầm vóc của những sự kiện và những nhân vật ấy, đồng thời lí tưởng hóa những người, những việc cần được ngợi ca, khôi phục lại những sự thật lịch sử bị che lấp, bị bỏ qua hoặc bị xuyên tạc.. Tìm hiểu nhân vật truyền thuyết nhất thiết phải tường giải được "thái độ và cách đánh giá riêng" của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện mà nhân vật này làm trung tâm (12).

    Với tất cả những điều vừa phân tích, việc ta tìm thấy một vài truyền thuyết sưu tầm ở Phú Yên thái độ tôn trọng, ca ngợi nhân vật Cao Biền, chỉ có thể nói, đó là sự nhầm lẫn, chứ hoàn toàn không phải là sự mâu thuẫn trong nhận thức, cũng không phải là kết quả của sự sáng tạo nghệ thuật của tác giả dân gian khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền. Vấn đề quan trọng đối với chúng ta là phải tường giải cho được "thái độ và cách đánh giá" nhầm lẫn ấy để góp phần khôi phục lại những sự thật lịch sử bị che lấp (Trần Đình Sử) trong những tác phẩm truyền thuyết đã đề cập.

    3. Trong phần 2 bài viết này, chúng tôi đã đưa ra một vài khía cạnh chủ yếu của cách lí giải vì sao chỉ có thể nói là tác giả dân gian đã nhầm lẫn khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền. Phần này, chúng tôi xin nêu một vài suy nghĩ ban đầu về nguyên nhân sinh ra hiện tượng nhầm lẫn ấy.

    Xét cho cùng, sự nhầm lẫn của tác giả dân gian khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền là biểu hiện hay nói đúng hơn là kết quả của quá trình vận động, biến đổi "trong không gian và qua thời gian" của hiện tượng folklore này.

    Ở nước ta, từ rất sớm, các nhà Nho đã có người đề cập đến Cao Biền trong sách vở của họ. Nếu nửa đầu thế kỉ XIV, ở sách Việt điện u linh (13), Lý Tế Xuyên có thoáng nhắc đến sự kiện Cao Biền xây thành Đại La thì đến cuối thế kỉ XV, trong Truyện sông Tô Lịch của sách Lĩnh Nam chích quái, Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã tạo ra được đôi nét phác thảo mang tính chất văn chương về nhân vật Cao Biền (14). Và chắc chắn, cũng từ rất sớm, truyện "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" đã được lưu truyền trong đời sống nhân dân.

    Căn cứ vào điều nói trên, căn cứ vào đặc điểm thi pháp thể loại truyền thuyết biểu hiện trong các truyện kể dân gian về Cao Biền đã dẫn và đặc biệt căn cứ vào lịch sử khai phá vùng đất Phú Yên của người Việt, chúng tôi cho rằng, các truyền thuyết về Cao Biền sưu tầm ở Phú Yên ra đời muộn hơn rất nhiều so với những truyện có đề cập đến Cao Biền trong các sách của nhà Nho thời phong kiến và cũng muộn hơn truyện "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" từng được nhân dân lưu truyền từ bao đời nay.

    Nếu các truyền thuyết về Cao Biền được sưu tầm ở Phú Yên ra đời một cách muộn màng như vậy thì nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn của tác giả dân gian khi lưu truyền các truyện kể về Cao Biền như đã đề cập có thể có nhiều và chắc rằng, hầu hết nguyên nhân ấy đều liên quan đến buổi đầu lịch sử khai phá vùng đất Phú Yên của người Việt.

    Cho dù chính sử thời trước thường bỏ quên Phú Yên (15), chúng ta vẫn có thể dựa vào một số ít tư liệu đã có để dựng lại đôi nét về đặc điểm lịch sử khai phá vùng đất Phú Yên của người Việt như sau:

    Sách Đại Nam nhất thống chí, quyển X viết: Xưa là đất Việt Thường thị; đời Tần thuộc Tượng Quận; đời Hán là đất Lâm ấp, đời Tuỳ là quận Lâm ấp; đời Đường đổi làm Châu Lâm, sau bị Chiêm Thành chiếm cứ, tức là đất Bà Đài và Đà Lãng (16). "Nước ta đời Lê, năm Hồng Đức thứ nhất (1970) đánh được Chiên Thành, mở đất đến núi Thạch Bi, chia đất này làm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Li và Tuy Viễn, đặt phủ Hoài Nhân, lệ vào Quảng Nam thừa tuyên, nhưng từ núi Cù Mông về nam vẫn là người Man người Lạo ở, chưa có thì giờ kinh lí đến. Bản triều Thái Tổ Gia dụ hoàng đế năm Mậu Dần thứ 21 (Lê Quang Hưng năm thứ 1 - 1578) ông Lương Văn Chính làm tri huyện Tuy Viễn, để dẹp yên biên trấn và chiêu tập dân xiêu tán đến ở Cù Mông và Bà Đài (nay là Xuân Đài), lại khai khẩn ruộng hoang ở sông Đà Diễn (17).

    Gần đây, tại Hội thảo khoa học xác định mốc thời gian hình thành tỉnh Phú Yên, Trần Viết Ngạc cho biết: Năm 1597, chúa Nguyễn Hoàng có sắc lệnh:

    Thị Phù Nghĩa Hầu Lương Văn Chánh năng tòng quân nhật hữu công, quyền Tuy Viễn huyện, An Biên trấn, văn:

    Liệu xuất Bà Thê xã trục hạng nhân số tính khách hộ các thôn phường tòng ứng vụ, nhưng suất thủ khách hộ nhân tựu Cù Mông, Bà Đài, Bà Điểu, Đà Niễu đẳng xứ, thượng chí nguồn Di, hạ chí hải khẩu, kết lập gia cư, địa phận, khai canh hoang nhàn điền thổ để thu nạp thuế như lệ.

    Nhược chủ sự nhiễu dân, khám đắc xử tội tư thị.

    Quang Hưng, nhị thập niên nhị nguyệt sơ lục nhật

    Dịch:

    Dạy Phù Nghĩa Hầu Lương Văn Chánh đã giữ việc quân lâu ngày, có công trạng, quyền coi huyện Tuy Viễn, trấn An Biên rằng:

    Hãy liệu đem số người trục vào dân xã Bà Thê và các khách hộ thôn phường tòng hành ứng vụ, rồi lấy riêng số nhân dân khách hộ đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Đà Diễn, Đà Niễu, trên từ nguồn Di, dưới tới cửa biển, thành lập địa phận gia cư; khai khẩn ruộng đất hoang nhàn tới khi thành thục, nạp thuế như lệ thường.

    Nếu vì lo việc mà nhiễu dân, nay xét ra sẽ bị xử tội.

    Nay dạy

    Quang Hưng, năm thứ hai mươi (1597), ngày mồng sáu, tháng hai (18).

    Dựa vào những tài liệu trên, ta có thể nói rằng, cho dù năm 1578, người Việt đã xuất hiện trên vùng đất từ Cù Mông đến núi Thạch Bi thì cũng đến 20 năm sau (1597) mới thực sự định cư và thiết lập làng xã ở đó.

    Vấn đề cần tìm hiểu trước hết ở đây là tầng lớp nào của dân Việt, đầu tiên, vào khai phá đất Phú Yên? Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: Đó là dân xiêu tán, sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng ghi rõ: Dân khách hộ (không phải chính hộ) ở các tỉnh phía bắc, chủ yếu là vùng Thuận Hóa.. Ngày nay, trong tài liệu tham khảo tương đối phong phú, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong dân chúng khai phá vùng đất này từ rất sớm có những can phạm bị án lưu hình bị cưỡng bách di cư vào Nam để khẩn hoang; có những người bất mãn với chính sách cai trị của địa phương mình cư ngụ hoặc vì nghèo khổ phải tự tìm kế mưu sinh miền đất mới; có những tù binh quân chúa Trịnh mà quân chúa Nguyễn bắt được trong những trận giao tranh và có cả những người Hán ở Trung Nguyên không chịu sống dưới chế độ cai trị của người Mãn, đã bỏ nước di cư sang cư trú ở nhiều nơi trên dải đất xứ Đàng Trong.. (19).

    Mặt khác, dải đất từ Cù Mông đến núi Thạch Bi, núi rừng tươi tốt, đất đai màu mỡ, sông biển có nhiều sản vật. Chúa Nguyễn Hoàng lúc sắp lâm chung dặn dò Nguyễn Phước Nguyên rằng: Đất Thuận Quảng này phía bắc có Hoành Sơn và Linh Giang hiểm trở, phía Nam có Hải Vân sơn và Thạch Bi sơn bền vững. Núi sẵn vàng sắt, biển nhiều cá muối.. thật là nơi trời để cho người anh hùng dụng võ (20). Nhận xét của chúa Nguyễn Hoàng về sự giàu có của đất Thuận Quảng, trong đó có Phú Yên. Tuy nhiên, đối với người Việt buổi đầu khai phá, gần như tất cả mọi sự ưu đãi của tự nhiên còn ở trong tiềm năng. Hầu hết đất đai cần cho canh tác bị chìm ngập, bị bao vây trong sông hồ, đầm lầy và rừng núi. Sông hồ Phú Yên có thể cá sấu không nhiều bằng sông hồ Nam Bộ, nhưng núi rừng Phú Yên có thể cọp nhiều không thua kém bất cứ nơi nào. Phải lao động trong điều kiện tự nhiên như vậy và chắc rằng, người đi khẩn hoang công cụ thô sơ, lại ít ỏi; kĩ thuật sản xuất lạc hậu; chưa thể nắm bắt một cách chắc chắn quy luật tự nhiên của vùng đất mới. Sự chi viện, tiếp sức của cộng đồng người Việt phía bắc lại xa xôi, cách trở bởi núi đèo. Trong khi đó, người Chiêm Thành ở phía nam đâu để người Việt yên ổn khẩn hoang, sinh sống, lập ấp dựng làng.. (21). Họa quấy phá của quân đội Chiêm Thành chỉ chấm dứt khi đất Khánh Hòa thuộc về Đại Việt năm 1653; đất Bình Thuận thuộc về Đại Việt năm 1693 (22).

    Về lịch sử, năm 1597, người Việt mới thực sự bước vào giai đoạn khai phá vùng đất Phú Yên, nhưng đến năm 1611 xảy ra biến cố; người Chiêm nổi dậy, chúa Nguyễn Hoàng sai Chủ sự Văn Phong đánh dẹp (23). Năm 1629 một biến cố khác xảy ra. Sử chép là Chủ sự Văn Phong liên kết với người Chiêm Thành làm phản, Chúa Sãi sai phó tướng Nguyễn Phước Vinh vào ổn định (24). Trong thời kì Trịnh Nguyễn phân tranh, Phú Yên xa cách địa bàn chiến trận giữa hai thế lực cát cứ Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhưng cũng là nơi đóng góp máu xương, của cải cho cuộc tương tàn dai dẳng đó (25). Từ nửa cuối thế kỉ XVIII trở đi, cùng với nhân dân cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, nhân dân Phú Yên sống trong bao dữ dội của lịch sử. Năm 1771, chống lại chính sách thuế khóa, bóc lột hà khắc của chúa Nguyễn, phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra. Từ năm 1773 Phú Yên nằm trong vùng do nhà Nguyễn Tây Sơn kiểm soát. Năm 1793 Nguyễn Vương ánh đánh lấy Phú Yên. Nhưng thực sự từ năm 1773 đến năm 1993 và mãi đến năm 1801 sau khi Nguyễn Vương ánh đã chiếm được Phú Yên, Phú Xuân là nơi tranh chấp dai dẳng giữa hai họ Nguyễn vì nằm nơi vị trí nghiệt ngã: Phía bắc, Bình Định là đất thang mộc của Tây Sơn tam kiệt; phía nam, Diên Khánh là căn cứ vững chắc của Nguyễn Vương. Phần lớn danh tướng của hai bên đều lấy Phú Yên làm địa bàn thử lửa xây dựng binh nghiệp, trong cuộc chiến đẫm máu nhân dân Phú Yên phải tiêu hao bao nhiêu sinh mạng và tài sản (26).

    Trên đây là những nét cơ bản về đặc điểm lịch sử của người Việt khai phá vùng đất Phú Yên. Nhìn chung, lịch sử người Việt khai phá vùng đất này, vừa có đặc điểm giống với lịch sử khai phá của xứ Đàng Trong, vừa có nét đặc thù. Chính những nét đặc thù của người Việt khai phá đất Phú Yên là bối cảnh lịch sử, xã hội đã tác động và làm cho văn hóa dân gian người Việt nơi đây vừa giàu bản sắc truyền thống, vừa thấm đượm sắc thái địa phương. Vì vậy nên cũng có thể nói: Những nét đặc thù của lịch sử người Việt khai phá đất Phú Yên là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những biến đổi khác thường cho một số tác phẩm dân gian trên vùng đất này mà truyền thuyết về Cao Biền là minh chứng tiêu biểu nhất.

    Để phù hợp với bối cảnh lịch sử, xã hội ở vùng đất mới, người Việt vừa duy trì những giá trị văn hóa truyền thống, vừa trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống đó mà sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới. Riêng lĩnh vực văn hóa dân gian, ngoài những tác phẩm được sáng tác ngay trên vùng đất mới còn không ít những tác phẩm cư dân khẩn hoang mang đi từ đất cội nguồn - phía bắc. Nhưng khi lưu truyền các tác phẩm đó, vì không còn nhớ một cách chính xác và đầy đủ nên dân chúng đã tái tạo – sáng tác ra những tác phẩm có sắc thái mới, thậm chí xa lạ với chính nó ban đầu. Nếu đó là truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, ca dao – dân ca thì có nhiều khả năng trở thành các dị bản, và được coi là sáng tạo nghệ thuật có giá trị, nhưng nếu điều đó xảy ra đối với tác phẩm truyền thuyết thì rất dễ rơi vào tình trạng làm sai lệch bản chất lịch sử của nhân vật và sự kiện lịch sử được đề cập.

    Ở Phú Yên, hiện nay vẫn có người kể chuyện Cao Biền gánh núi, Cao Biền đào sông. Người ta hiểu Cao Biền như một vị thần. Thêm nữa, đất này từng có nơi lưu truyền câu chuyện: Trạng Quỳnh bị chúa Trịnh đầu độc. Trước khi chết. Trạng căn dặn người nhà hãy chôn sấp thi thể của mình phòng khi chúa Trịnh có cho người đào mồ, lật ngược tử thi, Trạng nằm ngửa thì nước ta vẫn còn nhân tài xuất hiện, giúp ích cho đời. Từ đó, chúng ta không thể thừa nhận một thực tế rằng, trong dân chúng đã có hiện tượng lẫn lộn, đồng nhất nhân vật truyền thuyết Cao Biền với những vị thần núi, thần rừng, thần sông, thần biển.. mà chính mình đã tạo ra trên mảnh đất này; cũng có hiện tượng lẫn lộn, đồng nhất nhân vật truyền thuyết Cao Biền với nhân vật truyện cười Trạng Quỳnh. Vì vậy mới có sự ngộ nhận và ghép nối hồn nhiên (chúng tôi nhấn mạnh – NĐ) (bởi vì khi lưu truyền, dân chúng không biết, mà thực ra cũng không có nhiều điều kiện để biết, thậm chí dân chúng không vướng bận những câu hỏi đại loại: Cao Biền là ai? Cao Biền là con người thế nào? Hành trạng ra sao) : Truyền thuyết về Cao Biền đã ghép vào nó những chi tiết hoặc những nguồn gốc từ một mẫu truyện Trạng Quỳnh, hoặc có nguồn gốc từ các mẫu truyện có màu sắc thần thoại như đã nói để cho ra đời một vài truyện kể có nội dung tôn trọng, ca ngợi và kể cả thánh hóa nhân vật Cao Biền mà chúng ta đã tìm thấy trên quê hương Phú Yên.

    4. Tóm lại, nội dung tôn trọng, ngợi ca nhân vật Cao Biền trong một vài truyền thuyết sưu tầm ở Phú Yên là do tác giả dân gian nhầm lẫn. Nguyên nhân sinh ra sự nhầm lẫn này có thể xuất phát từ nhiều phía, nhưng sâu xa và quan trọng nhất là nguyên nhân gắn liền với lịch sử người Việt khai phá vùng đất Phú Yên. Vấn đề quan trọng đối với giới folklore học khi sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Phú Yên là phải tường giải cho được sự nhầm lẫn ấy để góp phần khôi phục lại sự kiện lịch sử bị che lấp (Trần Đình Sử) trong những tác phẩm truyền thuyết đã nêu.

    Nguyễn Định (*)

    Chú thích

    (*) ThS. Trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên.

    (1) Ngô Sao Kim, 2001, Truyện dân gian và truyện cổ Phú Yên, Hội Văn nghệ dân gian và Văn hóa các dân tộc Phú Yên xb, tr. 15 – 22.

    (2) Nguyễn Định (Chủ biên), 2002, Văn học dân gian Sông Cầu, Uỷ ban Nhân dân huyện Sông Cầu, tr. 57 – 58.

    (3) Nguyễn Định (Chủ biên), 2002, Văn học dân gian Sông Cầu, sđd, tr. 55 – 56.

    (4) Hoàng Văn Hành (Chủ biên), 1997, Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 202.

    (5) Vũ Quỳnh, Kiều Phú, 2001, Lĩnh Nam chích quái, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 89.

    (6) Lã Duy Lan, 1997, Truyền thuyết Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, tr. 399 – 400.

    (7) Lã Duy Lan, 1997, Truyền thuyết Việt Nam, sđd, tr. 399.

    (8) Vũ Quỳnh, Kiều Phú, 2001, Lĩnh Nam chích quái, sđd, tr. 90.

    (9) Vũ Quỳnh, Kiều Phú, 2001, Lĩnh Nam chích quái, sđd, tr. 89 – 90.

    (10) Hoàng Văn Hành (Chủ biên), 1997, Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, sđd, tr. 202.

    (11) Nguyễn Xuân Đức, 2003, Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 19.

    (12) Đỗ Bình Trị, 1999, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 61 – 62.

    (13) Lý Tế Xuyên, 2001, Việt điện u linh, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 70.

    (14) Xem: Đinh Gia Khánh (Chủ biên), 1997, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 52.

    (15) Trần Sĩ Huệ, 2001," Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Phú Yên "// Một thế kỉ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 480 – 505.

    (16) Quốc sử quán triều Nguyễn, 1997, Đại Nam nhất thống chí, quyển X, tập 3, Nxb Thuận Hóa, tr. 63 – 64.

    (17) Quốc sử quán triều Nguyễn, 1997, Đại Nam nhất thống chí, sđd, tr. 6 – 7.

    (18) Trần Viết Ngạc," Niên đại hình thành đất Phú Yên, tỉnh Phú Yên ngày nay", bài tham gia Hội thảo khoa học xác định mốc thời gian hình thành tỉnh Phú Yên, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên tổ chức tháng 4 năm 2003.

    (19) Xem Nguyễn Minh Hào, 1996, Phú Yên theo dòng lịch sử // Ca dao dân ca trên vùng đất Phú Yên, Hội Văn nghệ dân gian và Văn hóa các dân tộc Phú Yên, tr. 25 – 56.

    (20) Trần Huyền Ân, 2004, Phú Yên miền đất ước vọng, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh, tr. 7.

    (21) Xem Nguyễn Định, 1997, Giới thiệu một tập quán xưa ở Phú Yên // Thông tin văn hóa văn nghệ dân gian, phụ san Tạp chí Nguồn sáng, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, tr. 82 – 87.

    (22) Xem Nguyễn Minh Hào, 1996, Phú Yên theo dòng lịch sử, bđd, tr. 34 – 35.

    (23) Xem Nguyễn Minh Hào, 1996, Phú Yên theo dòng lịch sử, bđd, tr. 34.

    (24) Trần Huyền Ân, 2004, Phú Yên miền đất ước vọng, sđd, tr. 12.

    (25) Xem Nguyễn Minh Hào, 1996, Phú Yên theo dòng lịch sử, bđd, tr. 35.

    (26) Trần Huyền Ân, 2004, Phú Yên miền đất ước vọng, sđd, tr. 14.
     
    Thùy MinhAlissa thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 14 Tháng chín 2018
  2. Đăng ký Binance
  3. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Ly kỳ chuyện Cao Biền trấn yểm ở Việt Nam

    Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả.

    Phép phong thủy phân biệt hình thế của đất làm năm loại: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

    Tùy theo thế đất và hình dáng của cuộc đất (giống con vật gì) để theo đó đặt tên, tiên đoán lành dữ cho những ai sử dụng cuộc đất ấy, như: Lục long tranh châu, phượng hoàng ẩm thủy, hổ trục quần dương, hoặc quần tiên hội ẩm (được xem là những cuộc đất quý).

    Thực hư Cao Biền trấn yểm thành Đại La

    Theo tư liệu lịch sử và phong thủy, Cao Biền khi sang xâm lấn nước ta đã tiến chiếm thành Đại La và cho đắp lớn thành này cao đến 2 trượng 6 thước, chu vi hơn 1982 trượng, trên thành xây 55 vọng gác, với nhiều điểm phòng vệ quân sự.

    Để làm rào chắn cho thành Đại La, Cao Biền đã tập trung các hộ ở vây quanh với bốn vạn căn nhà.

    Là người giỏi về thuật phong thủy, xem địa lý, đoán cát hung, nên Cao Biền đã dò xét rất kỹ vị trí để xây thành Đại La (mà sau này vua Lý Thái Tổ khi dời đô về Thăng Long đã cho xây mới lại) và dò tìm đầu mối long mạch nước ta.

    Nhắc đến vua Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn), nhắc đến thành Đại La và kinh đô Thăng Long, vì đều liên quan đến việc Cao Biền sử dụng những thuật lạ của phong thủy để trấn yểm và tiêu hủy khí tượng đế vương ở nước ta thời ấy theo lệnh của vua Đường Ý tông (860 – 873).

    Tài liệu ghi, khi Đường Ý tông quyết định cử Cao Biền sang nước ta, đã ngầm bảo: "Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem".

    [​IMG]

    Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả.

    Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.

    Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam.

    Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay "cắt đứt long mạch" bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.

    La Quý nối chỗ đứt long mạch

    Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.

    Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ.

    Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

    Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn:

    "Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn.

    Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo.

    Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật".

    Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam..

    Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa.

    Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay.

    Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.

    Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách "Tả Ao địa lý toàn thư" do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch:

    Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.

    Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong;

    Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý.

    Đất kết có hai loại: Một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.

    Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta:

    Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô.

    Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn".
     
    Thùy Minh thích bài này.
  4. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Cao Biền và Đại Việt

    ".. Vậy điều gì đã xảy ra trong quá khứ? Cao Biền thật sự là ai? Cao Biền có thực sự yểm bùa thành Đại La hay đó chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng? Dân gian là nguồn phát tán mạnh mẽ sâu và xa các câu chuyện truyền thuyết. Điều gì càng bí hiểm, càng mơ hồ, càng ma thuật thì càng hấp dẫn. Có thể thấy câu chuyện về Cao Biền đi vào các làng quê, trong tiếng nhai trầu bỏm bẻm của người già kể lại cho lớp con cháu sau này phong phú đến chừng nào.."

    Năm 2007 có một sự kiện hy hữu xảy ra trong báo chí Việt Nam: Một hiện tượng đã xảy ra cách đó 6 năm nhưng nó lại biết tới bởi 6 năm sau nhiều hơn là thời gian nó tồn tại. Hơn nữa, hiện tượng đó lại chỉ được đăng tải trên những "tờ báo loại 2", nghĩa là không mang tính chính thống. Đó chính là hiện tượng của loạt bài báo mang tên "Thánh vật sông Tô Lịch" được "nhai lại" bởi tờ "Người bảo vệ pháp luật". Sau sự kiện trên, tờ báo kia có lẽ phải đăng một dấu đỏ chót vào trong lịch sử Guinness Việt Nam vì khả năng thổi phồng một hiện tượng nhằm thu hút độc giả lớn nhất trong thời gian ngắn nhất.

    Sự thực, câu chuyện về "Báu vật sông Tô Lịch" hấp dẫn người bởi những phép thuật được cường điệu quá đà, dựa trên những câu chuyện dân gian cách đây hàng nghìn năm về nhân vật phù thủy Cao Biền nổi tiếng Trung Hoa muốn trấn yểm long mạch Việt Nam: Viên tướng, thầy phù thủy, thầy phong thủy, thầy tướng dưới thời vua Đường. Nhưng câu chuyện trong quá khứ lại càng thu hút hơn bởi tính thời sự của nó, khi nó gắn với những câu chuyện đương thời.

    Ngày 27/9/2001, Đội thi công số 12 (Công ty xây dựng VIC) trong khi nạo vét sông Tô Lịch đã phát hiện những di vật cổ rất lạ và huyền bí: 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ, đồ gốm, xương voi, ngựa, dao, tiền đồng.. Rồi chuyện máy xúc Komatsu tự nhiên lao xuống sông, nào là những người đang làm việc tự dưng ngã lăn ra đất, đưa la bàn ra thử thì la bàn quay tít.

    Một năm sau đó, những câu chuyện buồn của các thành viên trong Đội nạo vét sông được gán với những câu chuyện mơ hồ liên quan tới thuật bùa chú. Các nhà khoa học được mời đến với nhiều giả thuyết, tranh cãi khác nhau và cũng chẳng đưa đến một kết luận nào. Câu chuyện ầm ĩ trên báo chí rồi đi vào quên lãng, cho đến khi nó được khơi mào trở lại một cách ầm ĩ hơn gấp nhiều lần trong năm vừa qua.

    Vậy điều gì đã xảy ra trong quá khứ? Cao Biền thật sự là ai? Cao Biền có thực sự yểm bùa thành Đại La hay đó chỉ là câu chuyện của trí tưởng tượng? Dân gian là nguồn phát tán mạnh mẽ sâu và xa các câu chuyện truyền thuyết. Điều gì càng bí hiểm, càng mơ hồ, càng ma thuật thì càng hấp dẫn. Có thể thấy câu chuyện về Cao Biền đi vào các làng quê, trong tiếng nhai trầu bỏm bẻm của người già kể lại cho lớp con cháu sau này phong phú đến chừng nào.

    Trước khi tìm hiểu Cao Biền thật sự là ai và nguyên nhân Cao Biền trấn yểm long mạch, chúng ta hãy xem sức mạnh của Cao Biền thông qua cuộc chiến đấu với các vị thánh nước Nam.

    Cao Biền hoảng sợ thần Long Đỗ, lập đền Bạch Mã:

    Được xây dựng trước khi có thành Thăng Long, đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm, Hà Nội) nằm ở hướng chính đông, là một trong tứ trấn của kinh đô thuở ấy. Đền xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Trúc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nay là số 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

    Cao Biền đắp La Thành, mấy lần cứ bắt đầu lại bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Chuyện này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:

    Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm? Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng, bùa và đúc một tượng sát hình nhân dị dạng nhằm yểm ngục, không cho nước Nam phát trỉển nhân tài. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi hét lên: "Thần ma của nước Nam rất thiêng, không có cách nào trị nổi được", bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.

    Đền Bạch Mã trên phố Hàng Buồm, một trong tứ trấn của Hà thành. Tại đây Cao Biền bị thần Long Đỗ làm cho kinh sợ.

    Theo một cuốn sách về văn bia ở Hà Nội thì Bạch Mã là ngôi đền rất thiêng. Đây là vị thần chúa tể của một khu vực ngàn dặm được tất cả các đời vua cúng tế. Sau này Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần. Làng Cổ Pháp của dãy núi Tiêu Sơn, "đất hai vua", nơi Cao Biền không trấn yểm được.

    Cao Biền và Làng Cổ Pháp

    Làng Cổ Pháp chỉ là một trong hàng ngàn ngôi làng của miền Bắc Việt Nam (nay là làng cổ Đường Lâm) nhưng đây lại là nơi ngưng và kết huyệt long mạch của dãy núi Tiêu Sơn.

    Dân gian kể lại, đến đời La Quý An, thế đất Cổ Pháp vượng quá. Bao nhiêu vì sao tinh tú trên trời đều chầu về. Quan nhà Đường xem thiên văn, nhìn rõ, tâu lên vua nhà Đường là Đường Ý Tông (860-873).. Năm Giáp Thân (864) vua Đường Ý Tông, nhân việc quan thiên văn báo cho biết thế đất Cổ Pháp và An Nam (Bắc Việt và một phần Trung Việt) có loạn, sai Cao Biền sang Giao Châu.

    Khi đi, vua Đường dặn riêng với Cao Biền đại khái là Trưng thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đông Hán (25 - 220). Rồi đến Triệu Ẩu (cách người Trung Hoa gọi Bà Triệu, nhằm ý miệt thị), Lý Bôn.. làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau này có biến. Khanh đến đó, trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam đi và vẽ địa đồ về cho trẫm Nhân dịp đi qua đất Cổ Pháp, Cao Biền có cho đào 19 cái lỗ chôn bùa ngải để yểm đất. Ngài La Quý An biết vậy nên cho người lẻn đào 19 cái lỗ đó lên và trồng 19 cây lê vào.

    Về sau, đất này là nơi sản sinh ra rất nhiều người tài giỏi. Nhiều vị anh hùng hào kiệt đã được nuôi dưỡng bởi linh khí nơi này, trong đó có hai vị vua là Ngô Quyền và Lý Công Uẩn (vị vua lập ra nhà Hậu Lý 1010-1225).

    Nhà Lý là một trong những triều địa hiển hách nhất nước ta. Nhà Lý có chiến công ba lần đánh Chiêm Thành, 5 lần đem quân vượt biên đánh nhà Tống và một lần chống quân Tống xâm lăng.

    Cao Biền không "phỉnh" nổi thánh Tản Viên

    Thánh Tản Sơn chính là vị thần Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, và là một trong tứ vị thần bất tử của Việt Nam.

    Để có thể diệt được thần bản địa, Cao Biền đã dùng một mưu mẹo rất "con người" là giả lập đàn cúng tế, lừa thần lên rồi dùng kiếm báu chém đầu. Chém xong, Cao Biền đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc dùng cách cũ để thần bản địa đến. Cao Biền có lần đến núi Tản (còn gọi là núi Ba Vì), định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền nhổ một bãi nước bọt vào Cao Biền và bỏ đi (có truyền thuyết nói là mắng Cao Biền và bỏ đi). Phá linh khí chùa Thiên Mụ, nhưng chúa Nguyễn hàng trăm năm sau vẫn lấy lại được

    Chuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường Ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây.." Về sau, Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời).

    Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này.

    Núi Hàm Rồng – cuộc chiến giữa Cao Biền và Tả Ao

    Truyền thuyết kể, Biền thấy đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó lòng cai trị, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và tìm cách trấn yểm các long mạch để phá vượng khí của người Nam. Một lần bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa "xương long vô túc" (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi. Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát.

    Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý thì lại càng ham thích, rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa. Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam. Có người lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép. Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm. Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên làng.

    Như vậy, khi mới chỉ điểm qua những truyền thuyết tiêu biểu về Cao Biền, đã cho thấy sức mạnh của các vị Thánh nước Nam. Chúng ta có thể đưa ra giả thuyết rằng, những câu chuyện trên được dân gian dựng lên nhằm tôn vinh linh khí của chính làng mình. Phép thuật của Cao Biền có lẽ, phần đa là do những người kể chuyện xưa vẽ lên. Thời điểm Cao Biền sang nước Nam cũng chính là thời điểm mà Đạo giáo từ Trung Hoa truyền bá vào Việt Nam, cụ thể là các thuật xem tử vi, phong thủy, bùa chú, luyện linh đan.. Những câu chuyện về Cao Biền là minh chứng cụ thể nhất cho tín ngưỡng Đạo giáo đang nở rộ ở nước ta thời bấy giờ.

    Cao Biền, bùa chú và sự thật

    ".. Chỉ non một ngàn ngày nữa là Thăng Long – Hà Nội tròn nghìn năm tuổi. Câu chuyện" yểm bùa "của Cao Biền theo một nhận định khác cũng là tôn vinh vùng đất Địa linh nhân kiệt Thăng Long. Vùng mà vua Lý Thái Tổ tinh tường đã chọn làm kinh đô mới, đổi tên thành Đại La là Thăng Long, chọn thần Long Đỗ (vị thần khiến Cao Biền khiếp sợ) thành Thành Hoàng của Thăng Long. Và, tất cả truyền thuyết về sức mạnh của Cao Biền có lẽ cũng chỉ gói gọn trong thành ngữ của ông cha ta" Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non "dành cho những người nào sức yếu, tay chẩn run rẩy.."

    Truyền thuyết kể lại:

    Cao Biền là phủ thủy cao tay của Trung Quốc. Mỗi lần trời nổi giông gió, sấm chớp là Cao Biền lại cưỡi kỳ lân bay sang nước ta và các vùng đất bên ngoài nước Trung Hoa. Theo các đạo sĩ, khi có gió bão lớn "rồng đất" sẽ thức dậy lộ ra. Linh khí của đất hiện lên để ứng hợp với sức mạnh của trời. Cao Biền bay lượn trên cao nhìn xuống phát hiện ra vùng đất nào có "long mạch" để yểm bùa xuống.

    Trong chính sử của người Việt viết về Cao Biền (Đại Việt Sử ký toàn thư, Tập 1, NXBKHXH năm 1993) : Cao Biền tự là Thiên Lý, cháu của Nam Bình Quận vương Cao Sùng Văn dưới thời vua Đường. Thuở nhỏ, Cao Biền học giỏi, chăm chú luyện kiếm bắn cung. Cao Biền có tài bắn cung xuyên đôi ngỗng đang bay trên trời, được người đời coi là bậc kỳ tài.

    Cao Biền được cử làm Tiết Độ sứ Giao Châu (tên gọi của nước ta lúc bấy giờ) thay cho Trương Nhân bị mất chức vì không dẹp được trộm cướp ở khu vực này. Sau khi đã bình định xong Giao Châu, Cao Biền cho xây thành Đại La để tập trung quyền lực về một mối.

    Theo Việt sử lược: Thành Đại La được xây dựng vào Thể kỷ thứ 7 có tên là Tống Bình. Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ dân ở thành có ý đồ phản nghịch liền sai thầy bói gieo một quẻ. Thầy bói nói rằng: Sức ông không đủ bồi đắp thành lớn. 50 năm sau sẽ có một người họ Cao đóng đô tại đây và xây dựng Vương phủ.

    Quả đúng thế, tới vua Đường Y Tôn (841-873), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết độ sứ. Cao Biền vốn là một người rất giỏi, đa hiệu: Vừa là Tướng, vừa là Đạo sĩ, vừa là Phủ thủy, lại vừa là nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn vào những năm 866, 867, 868.

    Một số tài liệu khác lại cho hay, Cao Biền là người nghiêm khắc, lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Năm 879, quân đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Hải Quân tiết độ sứ (ở Trấn Giang, Giang Tô ngày nay). Quân Hoàng Sào ngày càng hung hãn khiến Cao Biền khiếp sợ. Khi Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của vua Đường, dù đang có binh lực trên 100.000 mà lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà Đường bãi miễn Cao Biền.

    Về già, Cao Biền tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ hòng làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài – Nam là Tất Sư Đạc rất lo sợ. Năm Trung Hòa thứ năm (885), Cao Biền tạo phản. Năm Quang Khải thứ ba (887), Cao Biền bị bắt làm tù nhân và bị giết.

    Nếu như Cao Biền thật sự có sức mạnh và tầm ảnh hưởng lớn đối với vùng đất Giao Châu, thì có lẽ nhà sử học Lê Văn Hưu (sử gia biên soạn Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế (207-136 tr, CN) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225) trong phần ngoại kỷ của Bộ sử Đại Việt Sử ký toàn thư sẽ dành cho Cao Biền nhiều trang viết hơn thế. Cao Biền trong sử sách ghi lại một cách chính thống chỉ là một viên tướng có tài thao lược, và có công trong xây dựng La Thành (Thành Đại La hiện nay). Ngoài ra, không một dòng nào nói về ma thuật của Cao Biền.

    Đến đây chúng ta có thể khẳng định: Cao Biền là nhân vật có thật, được ghi chép trong lịch sử như một vị tướng có tài, nhưng không có dòng nào chép về khả năng pháp thuật của Cao Biền.

    Vậy thì tại sao một nhân vật không mấy tên tuổi trong lịch sử Trung Hoa như Cao Biền, lại có thể "ghi danh" ở Giao Châu như một viên phù thủy có khả năng "trấn yểm" long mạch của cả vùng đất này? Phải chăng những truyền thuyết về Cao Biền trong dân gian chỉ đơn thuần là tấm gương phản ánh một cách mơ hồ những câu chuyện về Đạo giáo bắt đầu xuất hiện ở nước ta thời bấy giờ? Mà có lẽ, nguyên do của những câu chuyện đó lại là khẳng định sự linh nghiệm của vùng đất địa linh nhân kiệt hơn là khẳng định khả năng phù thủy của ông ta.

    Cho dù thời kỳ Giao Châu cách chúng ta hàng nghìn năm mông muội với phép thuật, khả năng bùa chú, thì tinh thần quật cường và lòng tự hào về dân tộc của một đất nước bị chiếm đóng vẫn được thể hiện qua các truyền thuyết. Cao Biền là thầy phù thủy giỏi, nhưng vẫn không thể trấn yểm được linh khí nước Nam. Cao Biền xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ IX, nghĩa là chỉ mấy chục năm sau là thời điểm Ngô Quyền xuất hiện, giành lại nước Nam.

    Khi ấy, dù người Việt đã bị đồng hóa đến tận máu tủy trong nhiều đời với người phương Bắc, nhưng linh khí nước Nam chảy dưới mạch đất, nước vẫn ngày đêm tích tụ chờ ngày phát lộ.

    Núi Tản (núi Ba Vì ngày nay) trong mây, nơi Cao Biền bị Thánh Tản (Sơn Tinh) "nhổ bãi nước bọt".

    Đó chính là điều mà Cao Biền hoảng sợ. Biền dồn mọi công sức trấn yểm nước Nam nhằm phá vỡ những long mạch trên.

    Trong bảo tàng tỉnh Hà Tây còn lưu lại một tấm bản đồ cổ được cho rằng đó là tấm bản đồ đánh dấu những vùng đất trên tỉnh Hà Tây bị Cao Biền yểm mạch. Nhưng đây là tấm bản đồ không có nguồn gốc rõ ràng và sự xuất hiện của nó chỉ là cái cớ cho các nho sĩ vùng Sơn Tây "tôn vinh" khí thiêng của mảnh đất nơi mình sinh ra..

    Những truyền thuyết về Cao Biền yểm bùa vào long mạch, khiến cho xứ Giao Châu không còn có thể sinh ra những kiệt nhân dựng cờ làm vua chống lại triều đình nhà Đường là một câu chuyện phức tạp hơn ý nghĩa "ma quái" của nó. Có hai lý do cơ bản khiến Cao Biền tổ chức những cuộc tế lễ mà người dân Giao Châu coi đó là "lễ yểm bùa long mạch".

    Lý do thứ nhất khá đơn giản. Người Á Đông nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng rất coi trọng phong thủy khi xây nhà. Thuật phong thủy có thể giải thích được bằng khoa học vì đó là cách tìm hiểu sự xuất hiện của hướng gió, mạch nước ngầm, hay mỏ kim loại ở mảnh đất định xây cất.. Khi xây một tòa thành lớn ảnh hưởng sự sống còn của cả một đô thị, những cuộc tế lễ để xây thành là điều tất yếu xảy ra.

    Hơn nữa, Giao Châu đối với Cao Biền là một vùng đất xa lạ, có nhiều địa khí linh thiêng chưa thể trấn áp được. Cao Biền và các quân sĩ phải làm tế lễ những vị thần bảo hộ mình, đồng thời tỏ ý "giương oai nhiễu võ" với các vị thần phương Nam để có thể sống yên ổn. Chúng ta chưa thể có những chứng cứ xác thực nhằm chứng minh đồ tế lễ phát hiện dưới lòng sông Tô Lịch là của Cao Biền, nhưng đây là giả thuyết gần nhất với những kết quả có được.

    Nên nhớ, vào thời điểm ngàn năm phương Bắc đô hộ, dân ta chẳng khác gì một bộ tộc "man di". Trình độ xã hội thấp, điều kiện sống khổ sở cùng với sự ám ảnh kinh hoàng trước những thuật sĩ từ Trung Hoa sang khiến cho sự thật và sự dối trá bị che phủ bởi một màn sương dầy đặc. Trong bối cảnh đó, Cao Biền đã nhanh chóng nắm lấy tâm lý lệ thuộc này.

    Cao Biền vừa phao tin vừa tổ chức làm những cuộc tế lễ lớn để "yểm bùa" vào long mạch? Có thể lắm chứ! Tất cả những buổi tế lễ đó cũng có thể đánh vào đòn tâm lý của nhân dân ta, rằng nếu có một anh hùng sinh ra trên mảnh đất Giao Châu thì người anh hùng đó sẽ mất hết ý chí đối địch với Trung Hoa. Thậm chí, ngay cả khi vị anh hùng đó vẫn giữ được ý chí của mình thì sẽ khó lòng thu được nhân tâm về một mối, bởi mối hoang mang của họ về sức mạnh ma thuật phương Bắc quá lớn. Đó là lý do thứ hai.

    Còn một nguyên do nữa, sâu xa hơn mà cũng mơ hồ hơn, đó là Cao Biền trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế vương của đất Việt. Nhưng có thể do Cao Biền có sự sai lầm về tọa độ, hay khả năng phép thuật có hạn nên đã không thể trấn yểm được Giao Châu. Bằng chứng là chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt đã giành lại được độc lập. Một dải Long mạch bị Cao Biền trấn yểm nhưng vẫn phát sinh những vùng đất Địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên Tử, đền Kiếp Bạc..

    Chưa hết, con sông Tô Lịch vẫn tồn tại, dù ngày nay nó chỉ còn bóng dáng của một mương nhỏ ở Hà Nội. Trải qua hàng nghìn năm, con sông ngày càng nhỏ lại. Và hiện nay sông Tô Lịch chỉ chảy từ khu vực phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Một nguyên nhân nữa đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là việc san lấp của người Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người Pháp đã cho lấp mất sông Tô Lịch khi xây dựng thành phố Hà Nội, nơi đổ ra sông Hồng. Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ.. Trước kia nó chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn từ khúc Thụy Khuê. Và hiện nay sông Tô Lịch chỉ chảy từ khu vực phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

    Cũng ngay sau những cuộc yểm long mạch đó, từ xứ Đường Lâm, Sơn Tây – nơi được coi bị Cao Biển yểm bùa nhiều nhất đã xuất hiện một vị vua oai dũng hơn người. Đó chính là Ngô Quyền. Sau đó từ thời Đinh, Lý, Trần, Lê.. cho đến ngày nay, tinh anh nước Việt luôn tỏa ngời.

    Rõ ràng, chúng ta là một dân tộc được ưu đãi về Địa linh về Sinh khí. Trải qua hàng nghìn năm phong kiến Trung Hoa, trăm năm giặc Ngoại xâm, Địa linh nước Việt vẫn không suy chuyển. Lớp người tài sau nối lớp người tài trước, tạo thành một sợi Sinh khí xuyên suốt và thống nhất hàng nghìn đời. Lẽ ra, vào thời điểm này, tức là lùi xa thời điểm Cao Biền xây dựng La Thành hơn nghìn năm, những cư dân của thế kỷ hiện đại, của công nghệ số và thế giới ảo phải tự hào nhiều hơn về chính bản thân mình, nơi trong mỗi dòng huyết quản chảy đều có tinh túy của Sinh khí anh hùng.

    Chỉ non một ngàn ngày nữa là Thăng Long – Hà Nội tròn nghìn năm tuổi. Câu chuyện "yểm bùa" của Cao Biền theo một nhận định khác cũng là tôn vinh vùng đất Địa linh nhân kiệt Thăng Long. Vùng mà vua Lý Thái Tổ tinh tường đã chọn làm kinh đô mới, đổi tên thành Đại La là Thăng Long, chọn thần Long Đỗ (vị thần khiến Cao Biền khiếp sợ) thành Thành Hoàng của Thăng Long.

    Sưu tầm.
     
    Thùy MinhGill thích bài này.
  5. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Kể chuyện Cao Biền - người trấn yểm long mạch Việt Nam

    Cao Biền (tiếng Trung: 高駢; tự Thiên Lý; 821–887) là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ tiết độ sứ. Sau lại làm phản nhà Đường và bị giết năm 887. Tổ tiên là người Bột Hải (Mãn Châu), sau di cư đến U Châu.

    Ông nội là Nam Bình quận vương Cao Sùng Văn, thời Đường Hiến Tông Lý Thuần (806-820) là một danh tướng, chỉ huy cấm quân. Từ khi còn nhỏ, Cao Biền đã là người rất chịu khó trau dồi về văn học. Giao du với các nho sĩ, ông thường bàn luận đường lối chính trị một cách rắn rỏi. Cao Biền theo Chu Thúc Minh, làm tư mã. [1] Cao Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, sau vì có công, lại được thăng làm phòng ngự sứ Tần Châu. Những năm đầu thời Đường Ý Tông (859–873), Cao Biền chỉ huy quân tại biên cương phòng chống người Đảng Hạng và Thổ Phồn, kiêm Tần Châu thứ sử.

    Năm Hàm Thông thứ bảy (866), Cao Biền sang trấn thủ Giao Châu, làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. Năm Càn Phù thứ hai (875) đời Đường Hi Tông (873–888), nhà Đường chuyển ông đến cai quản Tây Xuyên. Cao Biền là người nghiêm khắc nhưng lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Tuy vậy, trong thời gian cai quản Tây Xuyên ông đã có công lui quân Nam Chiếu.

    Năm Càn Phù thứ sáu (879) quân đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Hải Quân tiết độ sứ (ngày nay là Trấn Giang, Giang Tô). Quân của Hoàng Sào chuyển hướng tiến về hướng nam tới Chiết Giang. Tháng 5 năm Quảng Minh thứ nhất (880) tại Tín Châu (ngày nay là Thượng Nhiêu, Giang Tây) quân Hoàng Sào giết chết Hoài Nam tiết độ sứ (ngày nay là bắc Dương Châu, Giang Tô). Tháng bảy, quân Hoàng Sào vượt qua Trường Giang. Cùng năm, quân Hoàng Sào từ Quảng Châu (ngày nay thuộc Quảng Đông) tiến lên phía bắc tới khu vực Giang-Hoài, Cao Biền khiếp sợ uy thế Hoàng Sào, chỉ cố thủ Dương Châu, dù binh lực có trên 100.000 để bảo tồn lực lượng. Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của nhà Đường mà lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà Đường bãi miễn Cao Biền.

    Về già, Cao Biền trở nên tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài-Nam là Tất Sư Đạc rất lo sợ, năm Trung Hòa thứ năm (885) Cao Biền tạo phản, nhà Đường cử Tuyên Châu quan sát sứ là Tần Ngạn trợ chiến với Tất Sư Đạc. Năm Quang Khải thứ ba (887), Tất Sư Đạc xuất quân từ Cao Bưu, hợp cùng các tướng khác tấn công Dương Châu. Cao Biền phái người đi cầu cứu Dương Hành Mật, nhưng người của Cao Biền chưa tới nơi thì thành Dương Châu đã bị phá, Cao Biền bị bắt làm tù nhân, một thời gian sau bị Tần Ngạn, Tất Sư Đạc giết chết.

    [sửa] Tại Giao Châu

    Năm Ất Dậu (865) Cao Biền được nhà Đường cử là đại tướng họp cùng giám quận là Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để giải quyết vấn đề Nam Chiếu. Cao Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm dẫn 5000 quân làm tiền đạo và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn Cao Biền thành công, và biết rằng Cao Biền giàu mưu lược, có tài quân sự ắt sẽ thắng trận. Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần thực lực mà thất bại. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng binh nguyên vẹn tại chỗ.

    Giám quận nhà Đường là Trần Sắc lại phái thêm 7.000 quân do tướng Vi Trọng Tể điều khiển sang tăng cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận đã thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, và tháng 6 năm 866 cho báo về Trung Quốc. Tháng 9 năm thứ 6 niên hiệu Hàm Thông (865), Cao Biền đánh úp quân Nam Chiếu đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) và cướp thóc lúa đem về nuôi quân.

    Biết tình thế khó khăn, vua Nam Chiếu phái Đoàn Tú Thiên làm tiết độ sứ đất Thiên Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở tây bắc Giao Châu), phái Dương Tư Tấn đến giúp Đoàn Tú Thiên giữ Giao Châu, và cho Phạm Nê Ta làm đô thống phủ đô hộ.

    Tin báo thắng trận của Cao Biền đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chặn lại. Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của Cao Biền liền cho hỏi Lý, Lý nói dối rằng Cao Biền vẫn không chịu xuất quân và án binh bất động ở Phong Châu. Thực ra lúc đó Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu, hàng được hơn 1 vạn quân, và đang vây hãm quân Nam Chiếu ở La Thành quá 10 ngày. Trong lúc đó Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới thay họ Cao, và trước khi về kinh, Cao Biền đã phái Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin tức thắng trận và mọi sự hãm hại của họ Lý. Sau khi giao binh quyền, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường. Khi vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền được thăng chức kiểm hiệu công bộ thượng thư và được quay gót về Giao Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này Vương Án Quyền và Lý Duy Chu mới đánh thành. Vương Án Quyền thì nhút nhát còn Lý Duy Chu lại tham lam tàn ác nên tướng tá không phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được vòng vây 2 lần trốn thoát quá nửa.

    Đến khi Cao Biền trở lại, tháng 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì hạ được thành, đánh bại được Dương Tư Tấn, chém được Đoàn Tú Thiên, Phạm Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là thổ mán đã làm hướng đạo cho Nam Chiếu cùng sát hại hơn một nửa quân Nam Chiếu. Cao Biền lại đánh phá 2 động thổ mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Tháng 11 cùng năm, nhà Đường đặt Tĩnh Hải quân, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ kiêm hành doanh chiêu thảo sứ các đạo. Bắt đầu từ đấy, Giao Châu đổi tên thành Tĩnh Hải quân tiết trấn.

    Xét ra Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng tai hại. Từ đó Cao Biền ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Sau khi Nam Chiếu bại trận được vài năm, Trung Quốc bị loạn. Nam Chiếu lại lợi dụng cơ dấy quân. Vua Đường muốn phương nam được ổn định nên điều đình gả công chúa cho vua Nam Chiếu. Nam Chiếu liền cử một phái bộ đặc biệt sang đón công chúa trong đó có mấy thượng tướng. Cao Biền gửi mật thư cho vua Đường bảo trong phái bộ có 3 nhân vật cao cấp nhất là linh hồn của Nam Chiếu nên đầu độc họ để trừ hậu họa, sau này Nam Chiếu có phục hồi được ắt cũng còn lâu. Vua Đường y lời cho đánh thuốc độc vào rượu, các sứ giả Nam Chiếu bỏ mạng nhờ vậy nhà Đường giữ Giao Châu thêm một giai đoạn [cần chú thích] .

    Cao Biền khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh để đề phòng giặc giã. Một kỳ công của ông là việc dựng lên thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bốn mặt dài hơn 1.982 trượng, cao 2 trượng 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 20 vạn nóc nhà. Sự sống của nhân dân rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại.

    Về mặt cai trị, ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành. Ông đã gây được thiện cảm giữa ông và dân chúng cho nên được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng.

    Năm Ất Tỵ (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ tại Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên) và ưng thuận lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế ở phương nam.

    [sửa] Thành Đại La

    Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại, năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982, 5 trượng (≈6, 6 km) ; thành cao 2, 6 trượng (≈8, 67 m), chân thành rộng 2, 5 trượng (≈8, 33 m), nữ tường[2] bốn mặt cao 5, 5 thước (≈1, 83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn[3], 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125, 8 trượng (≈7, 09 km), đê cao 1, 5 trượng (≈5, 00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6, 66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà.

    [sửa] Người vợ

    Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga, theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay là thị xã Hà Đông. Bà đã truyền nghề dệt lụa cho dân ở đây và trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Sau khi Cao Biền về bắc, bà ở lại Tĩnh Hải quân. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Dân lập đền thờ bà ở bờ sông.

    Các truyền thuyết

    Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian Việt Nam vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như cho rằng Cao Biền thấy ở đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu.

    Mỗi khi thấy người nào sức yếu, tay chân cử động run rẩy, người ta hay sử dụng câu gần như đã là thành ngữ: Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non. Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh", nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững.

    Một thuyết khác giải thích về Cao Biền dậy non là khi Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt hạ long mạch thì ông có nuôi 100 âm binh để phục vụ mục đích này. Để nuôi đủ 100 âm binh Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh. Khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy được đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp cả một lượt 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Kết quả là âm binh của Cao Biền đã dậy đủ 100. Nhưng vì không đủ ngày, dậy non nên không có tác dụng.

    Truyền thuyết dân gian kể rằng khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản, định dùng chước này, nhưng Tản Viên sơn thánh biết được, liền mắng Cao Biền rồi đi.

    Xét ra, theo sử Trung Quốc, chính Cao Biền khi về bắc bị cấp dưới là Lã Dụng Chi cuốn vào những trò ma thuật phong thủy và trở thành nạn nhân của những trò pháp thuật đó. Nếu là thày phong thủy cao tay, ông phải là người đi mê hoặc người khác, không thể bị mê hoặc và bị chết bởi thuật này.

    Sự tích đền Bạch Mã

    Chuyện kể rằng Cao Biền đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội. Chuyện này còn có dị bản khác nói rằng Cao Biền đã cho đắp thành Đại La. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng: Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?

    Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Chẳng dè, ngay đêm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.

    Sau này Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi gọi Đại La là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần. Sau đây là một loạt truyền thuyết về Cao Biền và việc trấn yểm trên khắp cõi nước Nam.

    Những thanh kiếm huyền thoại

    Kiếm được coi là một trong những loại vũ khí lâu đời nhất thế giới. Trong 18 ban võ nghệ, kiếm đứng ở hàng quan trọng nhất. Những thanh bảo kiếm đã trở thành một phần lịch sử võ học Trung Hoa và được gắn với những thanh kiếm huyền thoại..

    Một trong những thanh kiếm đầu tiên chính là Thái A bảo kiếm. Tương truyền thanh kiếm này được một thợ rèn ở Giang Tô đúc thành. Nước kiếm sắc ngọt, chém sắt như bùn. Thái A bảo kiếm sau đó được dâng cho Tần Thuỷ Hoàng và sau khi Tần vương nhất thống thiên hạ đã cho cắm thanh kiếm báu này trên núi Trâu Tịch để tế cáo trời đất và được coi như một bảo vật trấn quốc.

    Tuy nhiên thanh kiếm nổi danh thời đó lại là Long Tuyền kiếm do Âu Dã Tử, một thợ rèn kiếm nổi tiếng Trung Hoa thời cổ làm ra. Trong lần ngao du, ông đã thấy mạch nước Long Tuyền trên núi Tần Khê (Chiết Giang) có ánh sắc kim khí. Biết nơi đây có quặng sắt quý, ông cho xẻ núi và lấy được một mảnh "thiết anh" (sắt tốt). Được Sở Vương giúp đỡ, ông đã dồn hết tinh lực luyện nên Long Tuyền kiếm dài ba thước sắc như nước dâng cho Sở Vương. Long Tuyền kiếm nổi tiếng đến mức sau này qua lăng kính văn học mọi thanh kiếm đều được gọi là Long Tuyền và cụm từ "tay vung ba thước Long Tuyền kiếm" đã trở thành một khẩu ngữ quen thuộc.

    Nước Ngô và Việt thời Xuân Thu cũng là những nước có nhiều truyền thuyết về những thanh kiếm báu nhất. Vua Hạp Lư đã từng cho người rèn những thanh bảo kiếm như Ngư Trường, Chúc Lâu và Trạm Lư. Ba thanh kiếm này tương truyền cũng là do Âu Dã Tử rèn thành. Hiện nay ở Phúc Kiến vẫn còn chiếc ao tên là Âu Dã, đó là nơi Âu Dã Tử đã rèn nên bộ ba bảo kiếm trên.

    Thanh Ngư Trường, Hạp Lư giao cho Chuyên Chư đâm chết Ngô Vương Liêu và trở thành vua nước Ngô. Sau đó Hạp Lư cho rằng thanh Ngư Trường luôn mang đến điềm gở nên cho người giấu đi.

    Thanh Chúc Lâu sau này được con Hạp Lư là Ngô Phù Sai dùng trong một việc vô cùng ngu dại. Khi Tướng quốc nước Ngô là Ngũ Tử Tư cảnh báo Phù Sai về mối họa nước Việt, thì Phù Sai lúc đó đã bị sắc đẹp khuynh thành của Tây Thi và những mưu mẹo của hai mưu thần nước Việt là Phạm Lãi và Văn Chủng làm cho mê muội nên đã bắt Ngũ Tử Tư dùng thanh kiếm này mà tự vẫn. Sau này đúng như dự đoán của Ngũ Tử Tư, quân đội Việt đã tràn sang quét sạch nước Ngô. Việt Vương Câu Tiễn giết chết Phù Sai và chiếm được thanh bảo kiếm Trạm Lư và Chúc Lâu. Sau khi báo thù, Phạm Lãi sớm biết được bản chất của Câu Tiễn nên bỏ đi Ngũ Hồ, ông viết thư để lại cho Văn Chủng: "Vua Việt dáng môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ". Quả nhiên sau đó Việt Vương Câu Tiễn vì ghen ghét tài năng xuất chúng của Văn Chủng, sợ bị cướp ngôi nên đã trao cho Văn Chủng thanh Chúc Lâu, Văn Chủng tự hiểu ý, cay đắng cầm bảo kiếm tự sát. Còn thanh Trạm Lư? Tương truyền khi chết, vì quá yêu thanh bảo kiếm này nên Câu Tiễn đã sai chôn theo mình.

    Tuy nhiên bộ đôi kiếm thư hùng nổi tiếng nhất Trung Hoa và cũng có nguồn gốc ly kỳ nhất lại là song kiếm Can Tương-Mạc Gia. Theo "Ngô Việt Xuân Thu" thì Can Tương là một người luyện kiếm tài danh người nước Ngô thời Xuân Thu. Sau ba mươi ngày trèo non lội suối, Can Tương đã tìm ra được một quặng sắt vô cùng quý giá và cho dựng lò luyện kiếm. Luyện trăm ngày mà quặng sắt chẳng chịu chảy ra, vợ ông là Mạc Gia thấy thế hỏi, Can Tương trả lời: "Kim loại này phải có nhân khí mới tan được". Nghe vậy Mạc Gia tắm gội sạch sẽ, rồi nhảy vào lò luyện kiếm, kim loại tan ra và Can Tương rèn được hai thanh bảo kiếm. Vua Hạp Lư đòi ông phải dâng kiếm báu, ông đưa cho nhà vua thanh Can Tương, nhưng sau đó Hạp Lư đòi nốt thanh Mạc Gia. Sau khi nước Ngô bị tiêu diệt, thanh Mạc Gia cũng biến mất.

    600 năm sau, tể tướng nước Tân là Trương Hoa bỗng thấy ở huyện Phong Thành có ánh kiếm quang rực rỡ, ông sai nhà địa lý giỏi nhất là Lôi Hoàn đến tìm hiểu. Lần theo mạch đất, Lôi Hoàn tìm được một hộp đá, bên trong là hai thanh bảo kiếm ghi chữ Can Tương và Mạc Gia. Lôi Hoàn giấu đi thanh Can Tương, chỉ dâng lên Trương Hoa thanh Mạc Gia. Một hôm khi hai người đi thuyền trên sông, bỗng hai thanh kiếm đeo trên người rơi tuột xuống sông. Trương Hoa vội cho thợ lặn xuống tìm kiếm báu. Lặn qua tầng nước, thợ lặn hết hồn vì thấy dưới lòng sông có đôi rồng đang vểnh râu nhìn. Từ đó hai thanh Can Tương và Mạc Gia coi như mất tích.

    Ngoài những thanh bảo kiếm đã biến mất, cũng có những thanh kiếm lưu lạc khắp nơi và tạo thành những truyền thuyết khác. Tương truyền Long Tuyền kiếm sau này đã lọt vào tay của Cao Biền. Khi đi cai trị Việt Nam, Cao Biền đã cho chôn Long Tuyền kiếm vào Long mạch nước Nam ở.. làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho bây giờ. Sau này vào ngày 28/3 năm Canh Ngọ (1930), đức Hộ Pháp của đạo Hòa Hảo là Phạm Công Tắc đã mang bùa xuống nơi chôn Long Tuyền kiếm để ẩn trị thanh kiếm này, khai thông long mạch cho Việt Nam (hiện nay Hộ Pháp Phạm Công Tắc vẫn còn tượng thờ ở Tòa Thánh Tây Ninh).

    Năm 1965, tại Lã Vọng Sơn tỉnh Hồ Bắc, người ta tìm thấy mộ của Việt Vương Câu Tiễn và tìm thấy thanh Trạm Lư. Các nhà khoa học thấy thanh kiếm này đã được mạ crom (hợp chất chống gỉ) và theo kiểm tra phóng xạ thì thanh Trạm Lư có 9 nguyên tố hóa học khác nhau. Sau hơn 2.000 năm, thanh Trạm Lư vẫn sáng bóng và sắc như nước. Một thanh kiếm khác cũng được tìm thấy ở khu khảo cổ này là thanh Tê Lợi (tương truyền là do Mạc Gia đúc). Soi phóng xạ người ta thấy trong thanh kiếm này còn có chất wolfram, một chất hiếm mà mãi sau này người châu Âu mới tìm ra. Chùa Thiên Mụ và Cao BiềnChuông Thiên Mụ nổi tiếng cả nước với tiếng ngân vang xa rộng của nó. Quả chuông này do chúa Hiến Tông (Nguyễn Phúc Chu) cấp tiền đúc vào năm Canh dần (1750). Tiếng chuông chùa Thiên Mụ biểu trưng cho sự hiện diện của Phật giáo hằng ngày, sớm và chiều tại cố đô Huế, trong lòng mỗi người dân tại cố đô Huế. Thiên Mụ là bà lão nhà Trời. Theo truyền thuyết, Cao Biền khi làm An Nam đô hộ phủ ở nước ta, dưới đời nhà Đường, theo lệnh vua Đường là Đường ý Tôn (860-873), đã đi khắp nơi ở nước ta, tìm những nơi đất tốt có vượng khí, đều lập phép trấn yểm. Cao Biền đã đến Thuận Hóa, xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa đồng bằng đột khởi một cái đồi hình đầu rồng, biết là nơi linh địa, bèn cho đào hào cắt ngang dưới chân đồi. Đêm đến, Biền mộng thấy một bà lão tóc bạc phơ, ngồi dưới chân đồi than vãn và nói to: "Đời sau, nếu có bậc minh chủ, muốn bồi đắp mạch núi lại, đem lại linh khí cho đồi núi này, thì hãy lập chùa thờ Phật ở đây.."

    Nguyễn Hoàng khi vào Thuận Hóa, tìm cách gây dựng thế lực, để biệt lập và chống đối với họ Trịnh, đã đến nơi này, nghe các bô lão kể lại câu chuyện bà lão Trời và Cao Biền, thì rất mừng, lập tức cho xây chùa trên núi, và tự tay viết biển chùa là "Thiên Mụ tự" (chùa Thiên Mụ - chùa bà lão nhà Trời).

    Người Việt Nam bình thường tin ở thuật phong thủy, nhưng đồng thời cũng tin ở Phật, Bồ-tát, và đạo Phật. Cao Biền có tài trấn yểm, nhưng dân Việt Nam có xây chùa thờ Phật là mọi phép yểm của Cao Biền đều bị phá hết. Ảnh hưởng của chùa Phật là ảnh hưởng của Tam Bảo, của đức Phật thường trú, của Chánh pháp mà bánh xe luôn luôn chuyển động, của Tăng là những người có trách nhiệm duy trì và hoằng dương Chánh pháp tại thế gian này. Hàm Rồng mất tíchSự biến mất của kỳ quan này – theo cách lý giải của Hoàng Tuấn Phổ - là do sự chuyển dòng của sông Mã.

    Theo nhận định của Đào Duy Anh trong cuốn Nước Việt Nam Qua Các Triều Đại (Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin - 2005) dòng chính của sông Mã trước đây vốn chảy thẳng ra lửa Lạch Trường, theo lối sông Lèn ngày nay.

    Khi ấy ngã ba sông Mã, sông Ngu (sông Lèn) có tên là Tuần Ngu – nay là ngã ba Bông – nơi thu thuế đường thủy của nhà Lê.

    Một cơn lũ lớn vào đầu triều Nguyễn đánh chìm một bè gỗ lim lớn, dần dần phù sa bồi đắp làm hẹp cửa vào dòng sông Ngu Lại, khiến sông Mã phải trổ một nhánh phụ ra lối qua cầu Hàm Rồng và đổ ra cửa biển Hội Trào như hiện nay.

    Sự chuyển dòng một cách bất đắc dĩ của sông Mã khiến lạch sông nhỏ ngay qua Hàm Rồng trở thành một con sông lớn, nhấn Hàm Rồng vào sâu trong dòng nước.

    Một Hàm Rồng phong thủy

    Tôi trở lại Hàm Rồng, ngắm nhìn phong cảnh. Vẫn núi Rồng, núi Ngọc, sông Mã, động Tiên Sơn, động Long Quang. Vẫn người Bắc kẻ Nam tập nập lại qua trên hai chiếc cầu bắc ngang dòng sông Mã. Vẫn non xanh nước biếc hùng vĩ. Vẫn mây trắng ngàn năm bay.

    Những ai từng đi ngang qua xứ Thanh, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, nơi dòng sông Mã cắt ngang đường Quốc lộ 1A, hẳn đều biết đến địa danh Hàm Rồng (phường Hàm Rồng, TP Thanh Hóa).

    Từ ngàn năm trước, nơi đây vẫn được ngợi ca là một danh sơn thắng địa, nguồn thi hứng bất tận cho các tao nhân mặc khách danh tiếng như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Thì Sĩ Phan Huy Ích, Nguyễn Siêu, Cao Bá Quát, Tản Đà, v. V.. Núi non vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.

    Gọi điện trách, anh bạn tôi không có vẻ giận, chỉ hỏi: "Đang đứng ở đâu?". "Trên núi Đầu Rồng, trong động Long Quang".

    "Đó là hai mắt của Rồng. Anh đi theo cửa hang nào cũng được, bám vách đá hướng về phía núi Ngọc, thấy phiến đá cao, là đến mỏm đá mũi rồng.

    Phía dưới mũi Rồng có một hang động hình cáo hàm còn rồng gọi là Hàm Rồng. Nhưng tôi cũng khuyên anh đừng cố tìm. Hàm Rồng đã mất tích lâu rồi" – Dứt câu anh cúp máy.

    Ngọn núi đá vôi mà tôi đang đứng khá nổi danh trong sử sách. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, núi Hàm Rồng ngày nay vốn là núi Long Hạm, tên cũ là Đông Sơn, mạch núi từ Ngũ Hoa (xã Dương Xá, huyện Thiệu Hóa ngày nay) theo bên sông dẫn đến, uyển chuyển liên tiếp như hình con rồng chín khúc, cuối dãy nổi lên ngọn núi cao, đá chất chồng.

    Trên núi có động Long Quang. Dưới núi có tảng đá lởm chởm trông như hàm rồng đang hút nước sông Mã.

    Trong cuốn Lý Thường Kiệt (Nhà Xuất bản Sông Nhị, Hà Nội - 1949), học giả Hoàng Xuân Hãn cũng có cùng nhận định: "Núi Long Hàm hay Hàm Rồng là nhỏn cuối của một dãy núi, chạy dài trên hữu ngạn sông Mã từ làng Dương Xá đến cầu Hàm Rồng, dài trên khoảng năm cây số. Núi là núi đất lẫn đá nhưng nhỏn Hàm Rồng thì toàn đá.

    Trên cao có động tên là Long Quang. Động có hai cửa hai bên, hình như hai mắt rồng, thường gọi là Long Nhãn. Núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá dô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long Tị. Gần mặt nước có hai lớp đá chồng nhau như hàm rồng. Đó là Long Hàm.

    Toàn hình – trông từ phương phương Bắc – giống như đầu rồng đang uống nước. Bên kia sông có nhỏn đá tròn, người ta gọi là núi Hỏa Châu. Cảnh chung gọi là Long Hí Châu (Rồng vờn hạt ngọc)".

    Một nhà nghiên cứu người xứ Thanh là Hoàng Tuấn Phổ gần đây có đưa ra một cứ liệu khi viết về cuốn Núi Rồng –Sông Mã (Nhà Xuất bản Văn hóa - 1993).

    Tác giả dựa vào lời dẫn bài Long Hạm Nham Tức Hứng của Phan Huy Ích viết năm 1782: "Sau khi đến nơi nhậm trị, tôi qua thăm lại cảnh cũ núi Da Sơn (tên cũ là núi Rồng) ở bên cạnh bến sông.

    Chỗ vách đá trống có một phiến đá cao hơn năm thước ta (hơn hai mét), bề rộng có thể trải được chiếu. Hình thù đá như cổ cái môi, trơn tru giống như đầu rồng mở miệng vậy. Vì thế mới gọi là động Hàm Rồng.

    Trước động có một hòn đá rất lớn nhòm xuống dòng sông đột khởi lên như hình hàm rồng ngậm ngọc, cho nên đặt tên là hòn Đá Ngọc. Trong khoảng giữa chân núi và hòn Đá Ngọc của Hàm Rồng đã được san lấp thành nền đất bằng phẳng, rộng hai trải chiếu, trên đó dựng một am nhỏ, đặt tên Song Lạc Quán.

    Khoảng trống vách bên phải tạm chứa được bốn, năm người ngồi, tôi thường bao con hát vào đó đàn hát gọi là Nhạc Phòng.

    Vách đá trái - tùy theo hình thể của đá – sắp đặt bàn trà, chỗ bếp rượu, tôi lại khắc chữ vào ria núi đá và xây dựng công đường, nhà cao cửa rộng, có hành lang, trồng cây, trồng hoa thành hàng lối, phong cảnh rất đẹp..".

    Nếu những cứ liệu trên đủ sức thuyết phục, có thể khẳng định, sở dĩ ngọn núi này nổi tiếng vì nó có một điểm sất đặc biệt. Núi có dáng hình một con rồng đang há miệng.

    Nhưng tôi xuống sát mép nước, đi ra xa theo phía bờ bắc, rồi đứng cao trên đỉnh núi Ngọc đối diện, thấy rất rõ dáng núi như đầu rồng nhưng hàm rồng thì thú thực không thấy đâu.

    Có lẽ nào hình tượng Hàm Rồng đẹp như cảnh tiên ấy – như cách anh bạn mọt sách của tôi nói – từng hiện diện nhưng nay mất tích.

    Khi tôi đem sự băn khoăn đến hỏi một người từng nghiên cứu khá kỹ về Hàm Rồng, lại nhận thêm một ý kiến khác.

    Phải chăng hàm rồng chỉ là một thuật ngữ của khoa học phong thủy. Đó là ý kiến của ông T – một trong số ít người của xứ Thanh còn xác định được 28 huyệt mà Thánh địa lý Tả Ao phát hiện ở Thanh Hóa.

    Ông T cho rằng, các nhà phong thủy có câu: "Tiên tích đức, hậu tầm long" (tức là chứa tức trước, tìm đất sau).

    Trong phép tầm long của các nhà phong thủy, trước hết phải tìm tổ núi, rồi dò theo long mạch mà tìm đến huyệt.

    Huyệt là thế đất có án che phía trước, chẩm làm chỗ dựa phía sau, bên trái là tay long, bên phải là tay hổ.

    Long mạch có thể lớn hoặc nhỏ, có nhiều điểm kết mà điểm kết tốt nhất gọi là hàm rồng. Người ta thường nói những gia tộc được đại phú đại quý là nhờ có "mả táng hàm rồng" là vì vậy.

    Hàm Rồng nay ở đâu

    Trước anh bạn tôi có nhiều người quan tâm đến một vách đá hình miệng rộng đang há ngay mép nước, bên trong có chứa long mạch hàm rồng. Người coi lời dẫn tựa của bài Long Hạm Nham Tức Hứng như lời chú của vị quan châu đi tìm bí mật hang Thần trong truyện Vàng Và Máu của Thế Lữ.

    Người đi tìm long mạch, người đến chỉ vì tò mò nhưng nhìn chung, ai cũng cố vén bức màn huyền bí để mục sở thị cái hình tượng khởi khát cho cái tên Hàm Rồng hiện nay.

    Trong cuốn sách đã dẫn, tác giả Hoàng Tuấn Phổ còn dựa vào bài thơ Long Đại Nham của Nguyễn Trãi để khẳng định có một hang đá tự nhiên mang hình tượng con rồng há miệng.

    Có vẻ hơi khiên cưỡng khi cho rằng Long Đại Nham là động lớn núi Rồng (Đại nham: Động lớn) và câu: "Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn/Thanh đài bán thực bích gian thi".

    (Lê, Phạm văn phong dần vắng thấy/Rêu tường xóa lấp nửa vần thi – Lê Cao Phan dịch) chứng tỏ bản khắc thơ trong động của hai danh sĩ đời Trần là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh bị rêu phong vì hang động thấp, gần nước sông.

    Năm 1949, nhà sử học Hoàng Nguyên Hãn chứng minh cuốn An Nam Chí Lược (Lê Tắc soạn - 1335), bộ sách được coi là Hàm Rồng ngày nay còn họi là Long Đại Nham, Bảo Đài Sơn hay Hang Dơi là sai.

    Một số sách đời sau như An Nam Chí (Cao Hùng Trưng) hay Việt Kiều Thư, Minh Chí đều chịu ảnh hưởng của sách này, nên có chung lỗi đó.

    Theo ông, đó là ngọn núi Linh Trường, Lê Thánh Tông viết: "Núi xanh cao vót, dáng dị kỳ, đứng sững ở cửa biển. Chân núi có động, sâu thẳm khôn cùng, tương truyền đấy là miệng rồng. Ngoài cửa động có viên đá hình cái mũi, tương truyền đấy là mũi rồng.

    Dưới mũi lại mọc ra một viên đá tròn nhẵn nhụi đáng yêu, tương truyền đấy là hạt ngọc. Đá lớn đá nhỏ lô nhô rất nhiều hình thái, chỗ thưa chỗ dày, không thể đếm được, tương truyền là râu rồng..".

    Núi đó từng có thơ của Lê, Phạm đề, nên nếu tìm theo hướng đó, chúng ta sẽ phải xa nơi cần tìm hàng chục km.

    Vị trí Hàm Rồng lâu nay vẫn được phỏng đoán là nơi cuối cùng của núi Đầu Rồng, dưới đôi mắt và mũi rồng, hướng về phía núi Ngọc (Hỏa Châu Phong).

    Nhưng nó là những phần đất còn lại, hay chìm sâu giữa dòng sông Mã như bây giờ thì chưa ai khẳng định được. Nếu là phần trên bờ, chỉ cần khai quật đi lớp cát bồi chừng dăm ba mét, hy vọng sẽ thấy.

    Nhưng nếu chân núi Rồng vốn vươn xa ra giữa sông, hy vọng tìm thấy là rất mong manh, vì nước nơi này cực xiết. Trước đây người ta không dễ hạ được một móng cầu thì ai có thể xuống đó mà thám hiểm.

    Hơn nữa, trải qua mấy trăm năm dưới dòng sông Mã với lượng nước trung bình năm 52, 6 m3/s, modul dòng chảy năm 221/s. Km2, tổng lượng cát bùn khoảng 3, 027.106 tấn, liệu Hàm Rồng có còn dấu tích.

    Chúng tôi đem những băn khoăn ấy định trao đổi với ông Ngô Hoàng Chung, Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa. Ông Chùng từ chối vì Hàm Rồng không thuộc quản lý của Sở và chỉ sang Phòng Văn hóa Thành phố.

    Theo ông Hà Huy Tâm, Trưởng phòng Văn hóa Thành phố, thắng cảnh Hàm Rồng là quần thể di tích với 16 hạng mục cấp tỉnh. Về hang động thì có hai hạng mục chính là động Tiên Sơn và động Long Quang.

    Từ trước tới nay, địa phương chưa từng tổ chức một đợt khảo sát nào để tìm lại thắng tích. Xét thấy việc tìm lại thắng tích Hàm Rồng, ngoài yếu tố tâm linh còn là sự giáo dục truyền thống.

    Ông Tâm khẳng định, nếu hội tụ đủ một số điều kiện cần, sẽ có tờ trình UBND TP Thanh Hóa để làm.

    Liên quan đến núi Hàm Rồng và huyệt hàm rồng trong phong thủy, có một truyền thuyết kể rằng vào khoảng năm 866 – 875, tiết độ sứ đất Giao Châu (tên nước ta thời thuộc Đường) là Cao Biền, rất giỏi về phong thủy, am hiểu việc làm bùa chú, lại biết nuôi âm binh, có thể ném hạt đậu hóa thành binh lính.

    Biền thấy đấy Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó lòng cai trị, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và tìm cách trấn yểm các long mạch để phá vượng khí của người Nam.

    Bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa "xương long vô túc" (rồng không chân) nhưng cũng là hình con rồng què chân, không phải đất cực quý, nên bỏ đi.

    Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát.

    Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý. Thì lại càng ham thích. Rắp tâm làm đến cùng, Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vô cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tan.

    Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết. Và sau này, đất Thanh là nơi phát khởi của nhiều vua chúa.

    Nhiều người cho rằng, những chim nhỏ phá phép trấn yểm của Cao Biền là thần linh của sông núi nước Nam. Có người lại cho rằng đó là do Thánh Tả Ao hóa phép.

    Theo truyền thuyết, cụ Tả Ao là vua phong thủy của nước ta, chuyên phá những long mạch bị Cao Biền trấn yểm.

    Không ai rõ tên và năm sinh, năm mất của Tả Ao nên chỉ gọi theo tên làng. Nhiều tài liệu phỏng đoán cụ tên thật là Vũ Đức Huyền hay Hoàng Chiêm hoặc Hoàng Chỉ, Nguyễn Đức Huyên, v. V, sống ở làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh vào thời Lê.

    Cũng có người nói ông sống trước thời Tùy Đường. Nhờ chữa cho một thầy phong thủy người Tàu khỏi mù mắt, cụ được thầy này truyền nghề lại. Tả Ao học một biết mười, chẳng bao lâu biết hết các tuyệt kỹ của thuật phong thủy, bèn xin về nước.

    Thầy Tàu sau khi thử tài cụ, than rằng: "Tất cả tinh hoa môn phong thủy đã truyền về phương Nam rồi!". Sợ Tả Ao biết hết các huyệt đế vương ở nước Nam mà khởi phát, thầy dặn khi đi trên đường về quê, qua nơi nào có sông núi phải nhắm mắt lại kẻo bị mù mắt.

    Nhưng khi đi qua Hàm Rồng, do tính tò mò, Tả Ao hé một mắt nhìn, một mắt nhắm và phát hiện đây có một huyệt là hàm rồng sắp mở miệng. Cụ bèn đem hài cốt cha đến đợi.

    Nhưng người nhà thấy Ao đào hài cốt cha đem đi thì hoảng hốt, chạy theo khóc lóc không cho làm thế.

    Giằng co mãi đến lúc hàm rồng khép miệng lại mà không táng được. Lại có khảo dị rằng, Tả Ao muốn cho con cháu phát khởi nên, trước khi chết, dặn con cháu đem chôn mình vào đấy lúc rồng há miệng.

    Các con người nghe, người cản nên đành hỏng việc. Vì vậy có người nói, tài giỏi như Tả Ao nhưng không đủ phúc phận cũng đành chịu.

    Đền Bạch Mã - Hà Nội

    Ðược xây dựng trước khi có kinh thành Thăng Long, đền Bạch Mã (ở Hàng Buồm, Hà Nội) nằm ở hướng chính đông, đã trở thành một trong tứ trấn của kinh đô thuở ấy. Đền xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là số 3 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

    Đền Bạch Mã được Cao Biền xây từ năm 866 và được hoàn thiện vào năm 1010 dưới thời vua Lý Thái Tổ. Đây là một ngôi đền lớn có kiến trúc cổ, quy mô bề thế còn lưu giữ được những nét kiến trúc đặc sắc thời Lý, Trần.

    Truyền thuyết kể: Khi xưa, Cao Biền - một viên tướng của phương Bắc sang ta đắp thành Đại La. Một buổi đi dạo chơi ở ngoài cửa Đông, Cao Biền bỗng thấy mây trời vẫn vũ rồi có năm sắc màu rực rỡ bốc lên và tụ lại ở trên không. Tại đó xuất hiện một ông cụ râu tóc bạc phơ, đầu đội mũ hoa, mình mặc áo tía, xiêm thêu, giày đỏ cưỡi rồng bay lượn, hồi lâu mới biến vào trời xanh. Đêm về Cao Biền lại nằm mơ thấy ông Cụ buổi sáng hiện về tự xưng là Long Đỗ Vương. Hoảng sợ, y cho xây đền thờ thần Long Đỗ và đúc một tượng sát hình nhân dị dạng nhằm yểm ngục, không cho nước Nam phát triển nhân tài. Nhưng, đúng lúc đang chuẩn bị làm lễ yểm thì trời bỗng nổi sấm sét, xới tung tất cả đỗ trần yểm. Cao Biền hoảng sợ thét lên: "Thần ma của nước Nam rất thiêng, không có cách nào trị nổi nó được"

    Theo một cuốn sách về văn bia ở Hà Nội thì "Bạch Mã là một ngôi đền rất thiêng". Trong các vị thần thiêng ở Long Thành, Bạch Mã Đại vương linh thiêng nhất.. Đây là vị thần chúa tể một khu vực ngàn dặm được tất cả các đời vua cúng tế ".

    Đền Bạch Mã còn được gọi là" Đông trấn chính từ "vì đền thờ Long Đỗ chính khí tức là Quốc Đô Thành Hoàng Thăng Long trấn ở phía Đông thành. Tượng thần Long Ðỗ làm bằng đồng, vốn là vị thần của hương Long Ðỗ - làng Rốn Rồng. Ðấy là nơi tụ cư đầu tiên trên đất kinh kỳ, sau này. Cả nghìn năm trước khi Lý Thái Tổ định đô và dựng kinh thành Thăng Long, cư dân hương Long Ðỗ, đã chọn ngọn Núi Nùng - Nùng Sơn chính khí - và dòng sông Tô - Tô Lịch giang thần - làm chỗ dựa phong thủy ở chính giữa đất trời. Người đứng đầu làng sau đấy trở thành phúc thần, che đỡ cho cả vùng đất Rồng thiêng, ngày càng mở rộng ra, quanh chỗ Rốn Rồng.. Ðền thờ thần Long Ðỗ (Thần Long Đỗ tức thần núi Long Đỗ, cũng gọi là núi Nùng, nơi tiếp nhận khí thiêng của sông núi kinh thành Thăng Long) và ngựa trắng, từng được sử sách ghi lại nhiều sự tích hư thực.

    Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long và bắt đầu công cuộc xây dựng thành. Lúc đầu, thành cứ xây xong lại đổ. Lý Công Uẩn bèn đến ngôi đền thờ Long Đỗ vương để cầu thần. Đêm về, nhà vua nằm mộng thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra. Ngựa đi đến đâu, để lại dấu chân đến đó, đi hết các ngả đường rồi lại quay về đền và biến mất. Vua sai quân lính đắp thành theo vết chân ngựa trắng, quả nhiên thành đứng vững. Từ đó, đền được mang tên" Bạch Mã tối linh từ "và ngày càng được tu bổ, trân trọng.

    Vào nửa cuối thế kỷ thứ 9, viên quan cai trị cáo già đã có lần đụng độ với chính vị phúc thần Long Ðỗ này. Trong âm mưu diệt trừ các vị thần linh trong tâm thức người Việt cổ, y đã dùng độc thủ: Đem đồng sắt chôn yểm ở ngay chính ngôi đền thờ thần Long Ðỗ để hại thần. Nhưng, chỉ trong một đêm mưa gió, thần Long Ðỗ đã huy động sấm sét đánh tan thành cát bụi những hung khí độc hại kia. Thần được tôn làm" Ðô phủ Thành Hoàng Thần Quân ". Vậy là vị phúc thần của hương Long Ðỗ trở thành phúc thần của cả thành Ðại La. Hơn trăm năm sau, khi cậy nhờ thần linh ở đền Bạch Mã phù trợ đắp dựng kinh thành Thăng Long, Vua Lý Thái Tổ đã cầu viện đến thần Long Ðỗ, được thờ ở đền này. Vì thế, khi đã nên công, thần Long Ðỗ được Lý Thái Tổ phong làm" Quốc đô định bang Thành Hoàng Ðại Vương ", trở thành phúc thần của cả tòa kinh thành đứng đầu đất nước.

    Những sự tích huyền kỳ, hư hư thực thực giữa lịch sử và huyền thoại quanh một ngôi đền Bạch Mã có chủ đề tín ngưỡng, được ghi trên bài vị là:" Long Ðỗ Thần Quân Quảng Lợi Bạch Mã Ðại Vương "như thế này, qua góc nhìn văn hóa học, sẽ thấy ở đây, có những mẫu đề chung với những sự tích tại nhiều di tích lịch sử, văn hóa khác. Ðó là những di tích mà số lượng được kiểm kê - riêng ở TP Hà Nội - đã lên tới con số gần hai nghìn, và việc công nhận di tích quốc gia thì đã được tới hơn năm trăm. Trên phạm vi cả nước, những con số tương ứng, có thể lên tới hàng vạn và hàng nghìn.

    Trải qua thời gian và chiến tranh, ngôi đền vẫn đứng đó như một minh chứng cho sức sống bất diệt của con người và nền văn hóa Việt Nam. Ở đây hiện lưu lại bài thơ của Thái sư Trần Quang Khải ca ngợi ngôi đến linh thiêng vẫn vẹn nguyên sau ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, B52 rải thảm ở miến Bắc, mọi thứ xung quanh đến đều bị tàn phá, riêng ngôi đền vẫn còn đó, thách thức cả đạn bom. Đây quả là một hiện tượng kỳ lạ.

    Một số ông từ trước đây trông coi đền vẫn thường nằm mộng thấy thần Long Đỗ hiện về nhưng 10 năm trở lại đây thì không thấy. Theo lời một vị sư đã hơn 90 tuổi thì thần Long Đỗ chính là thánh nhân được thiên đình cử xuống phù hộ cho nhân dân, nhưng nay đất nước đã thanh bình, nhân dân đã no ấm nên thần bay về trời.

    Qua từng thời và có những thời, đối với từng di tích hoặc nhóm di tích và sự tích, trong tổng thể nghìn vạn đơn vị như thế, đã xuất hiện và tồn tại những cách thức và mức độ nhận hiểu, đánh giá, ứng xử đúng sai, cao thấp, nông sâu khác nhau. Vì thế, từ việc thẩm định đến sự hành động, có thể và nên xuất phát từ một cái nhìn tổng thể để trước hết hãy định vị và phân loại chúng. Bởi, cho dù thế nào, chúng cũng vẫn cứ là một thành phần đáng kể trong toàn bộ di sản văn hóa của dân tộc, do các thế hệ trước để lại. Di sản này thường được hình dung thành hai bộ phận: Văn hóa vật thể là những di tích, và văn hóa phi vật thể gồm những sự tích. Một tư liệu có niên đại thế kỷ 13, thời Trần cho biết: Kinh thành Thăng Long lúc này thường xảy ra cháy lớn, khu vực dân cư đông đúc phồn thịnh phía đông - tức" khu phố cổ "Hà Nội bây giờ - mấy phen bị lửa thiêu rụi, nhưng lần nào hỏa tai cũng ngừng lại khi lửa chỉ mới bén đến gần đền! Nơi thờ thần Long Ðỗ, Bạch Mã, điểm thiêng trấn giữ và làm mốc giới cho mạn và hướng mặt trời mọc của kinh đô Ðại Việt, vì thế mà đến nay vẫn nguyên hình là một vật thể đẹp đẽ, hiếm lạ và quý báu nằm ở số nhà 76, giữa phố cổ Hàng Buồm. Ðây còn là nơi lưu giữ được cả một tài sản phi vật thể và vô giá, trong đó có cả lời thơ ca vịnh của chính Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải:

    " Lửa bốc ba lần không cháy đến

    Gió lừng một trận chẳng hề nghiêng! "

    Khí phách linh diệu của tinh thần dân tộc mấy nghìn năm được thể hiện qua những lần thần Long Ðỗ - Bạch Mã che đỡ cho oai phong đất Rồng chống lại các thế lực hắc ám, mưu toan nô dịch hoặc cản phá sự dựng xây kinh đô Ðại Việt, còn tài tình hiển hiện trong ba lần hỏa tai - mà đều phải khựng lại.

    Một tinh thần dân tộc - hiện thực hoặc linh thiêng - như thế, thường chính là tiêu điểm trong hệ giá trị của những di tích và sự tích ở trong tổng thể di sản văn hóa quá khứ của chúng ta, cho dù có khi chúng hiển hiện ở dạng hình khối, đường nét, sắc mầu của kiến trúc, điêu khắc vật thể, có khi lại huyền hoặc, mơ hồ -" trâu ma rắn thần "- như các sử thần ngày xưa từng nói về chúng, hay là" phải đào sâu suy nghĩ ", như bây giờ ta đang ngẫm nghiệm về các hình thức phi vật thể của chúng.

    Theo Giáo sư Lê Văn Lan, trong hai bộ phận của di sản là di tích và sự tích lịch sử đền tiềm ẩn một khí phách và tinh thần dân tộc vừa hiện thực vừa linh thiêng. Di tích lịch sử văn hóa hơn nghìn năm tuổi này - cổ kính, âu đời nhất trong số các ngôi đền xưa của kinh thành Thăng Long còn sót lại được tới nay vì đã xuất hiện trước cả khi Lý Thái Tổ định đô nơi đây.

    Trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc, bộ phận di tích và sự tích lịch sử, cổ xưa hay cận đại, cũng đều tiềm ẩn hoặc bột phát khí phách và tinh thần dân tộc, nhiều khi đặc sắc đến lạ lùng như thế. Ðấy là một giá trị hàng đầu, trong hệ giá trị phong phú và lớn lao của kho tàng di sản văn hóa dân tộc, đóng góp và làm nên những phương diện quan trọng của bảng giá trị Việt Nam. Chính là điều này, nghìn năm qua và cho đến bây giờ, đã và đang là định hướng và làm động lực cho sự phát triển của dân tộc ta, vừa định vị và bảo toàn cho sự phát triển bền vững và lâu dài ấy.

    Đền đã được sửa chữa nhiều lần, cuối thế kỷ 17 được tôn thêm nền cũ và mở rộng thêm. Năm 1781, chúa Trịnh chuẩn y cho dân các giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ, và Hà Khẩu xung quanh đền Bạch Mã được" tạo lệ "(sắm lễ vật tế, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, sửa chữa thêm tráng lệ. Năm 1839 dựng thêm văn chỉ ở bên trái đền, dựng Phơng đình để làm nơi cúng lễ các tuần tiết.

    Trong số các ngôi đền ở Hà Nội, đến Bạch Mã hiện còn lưu giữ được nhiều bia nhất. Đền được xây dựng theo hình chữ tam, bên ngoài là phương đình tám mái, có một tam bảo và có hơn 13 hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ và Bạch Mã, nghi lễ cúng thần, các lần trùng tu tôn tạo. Ngày nay. Đảng, Nhà nước và đông đảo nhân dân ta thường xuyên góp công sức và tiền bạc để tu bổ ngôi đến nhằm lưu giữ mãi những chứng tích xa xưa của lịch sử, của hồn khí Thăng Long. Ngôi đền vẫn giữ nguyên cấu trúc, nhưng được sắp xếp lại theo cấu trúc" Tam nguyên đồng hóa"tức là thêm điện thờ Phật và Mẫu. Lễ hội đền hàng năm diễn ra vào tháng 2 âm lịch, truớc đây có tổ chức lễ đánh trâu rước xuân. Ngày 12-12-1986, đền được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích văn hóa và nghệ thuật. Cao Biền Bình Giặc Nam Chiếu.

    Cao Biền là người tướng giỏi nhà Đường, vốn dòng võ tướng môn, tính ham văn học, quân sĩ đều có lòng mến phục.

    Năm Ất Dậu (865), Cao Biền cùng với quan Giám Quân là Lý Duy Chu đưa quân sang đóng ở Hải Môn. Nhưng Lý Duy Chu không ưa Cao Biền, muốn tìm mưu làm hại. Hai người bàn định tiến binh. Cao Biền dẫn 5.000 quân đi trước, Lý Duy Chu không phát binh tiếp ứng.

    Tháng chín năm ấy quân rợ đang gặt lúc ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), Cao Biền đến đánh cất lẻn một trận, giết được nhiều người, rồi lấy thóc gạo nuôi quân lính.

    Đến tháng 4 năm sau (866), Nam chiếu cho bọn Dương Tập, Phạm Nê Ta, Triệu Nặc Mi sang giúp Đoàn Tù Thiên để giữ Giao Châu. Khi bấy giờ có tướng nhà Đường là Vi Trọng Tể đem 7.000 quân mới sang, Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy trận, cho người đưa tin thắng trận về Kinh, nhưng mà đi đến Hải Môn, Lý Duy Chu giữ lại, không cho triều đình biết.

    Trong triều mãi không thấy tin tức gì, cho ra hỏi, thì Lý Duy Chu tâu dối rằng Cao Biền đóng quân ở Phong Châu không chịu đánh giặc. Vua nghe tin ấy, nổi giận sai Vương Án Quyền ra thay, và đòi Cao Biền về hỏi tội. Ngay tháng ấy Cao Biền phá quân Nam Chiếu và vây La Thành đã hơn 10 ngày rồi, chỉ nay mai thì lấy được, bỗng chốc được tin Vương Án Quyền và Lý Duy Chu sang thay. Cao Biền liền giao binh quyền cho Vi Trọng Tể, rồi cùng với mấy người thủ hạ về Bắc. Nhưng trước Cao Biền đã sai người lẻn về Kinh dâng biểu tâu rõ tình trạng. Vua nhà Đường biết rõ sự tình, mừng lắm, lại cho Cao Biền thăng trật và sai trở sang cầm quân đánh Nam Chiếu.

    Bọn Vương Án Quyền và Lý Duy Chu lười biếng không vây đánh gì cả, đến khi Cao Biền trở sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn Tù Thiên và người thổ làm hướng đạo là Chu Cổ Đạo. Còn những động Mán Thổ ở các nơi xin về hàng rất nhiều.

    Đất Giao Châu bị Nam Chiếu phá hại vừa 10 năm, đến bấy giờ Cao Biền lấy lại, đem về nội thuộc nhà Đường như cũ.

    9. Công Việc Của Cao Biền.

    Vua nhà Đường đổi An Nam làm Tĩnh Hải, phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ. Cao Biền chỉnh đốn mọi công việc, lập đồn ải ở mạn biên thùy để phòng giữ giặc giã, làm sổ sưu thuế để chi dụng việc công20. Cao Biền trị dân có phép tắc cho nên ai cũng kính phục, bởi vậy mới gọi tôn lên là Cao Vương.

    Cao Biền đắp lại thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Thành ấy bốn mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước, cao hai trượng linh 6 thước, đắp một đường đê bao bọc ở ngoài dài hơn 2125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dày 2 thượng. Trong thành cho dân sự làm nhà hơn 40 vạn nóc ().

    Sử chép rằng Cao Biền dùng phép phù thủy khiến Thiên Lôi phá những thác ghềnh ở các sông để cho thuyền bè đi được. Thiên Lôi ấy có lẽ là Cao Biền dùng thuốc súng chăng?

    Tục lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đai đế vương, thường cứ cỡi diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. Những chuyện ấy là chuyện ngoa ngôn, không có lẽ gì mà tin được.

    Năm Ất Vị (875) vua nhà Đường sai Cao Biền sang làm Tiết Độ Sứ ở Tây Xuyên (Tứ Xuyên). Biền dâng người cháu họ là Cao Tầm làm Tiết Độ Sứ ở giao Châu.

    Nhà Đường tuy lấy lại được đất Giao Châu nhưng bên Tàu lại sắp loạn, giặc cướp dần dần nổi lên, ngôi nhà vua cũng dần dần sắp đổ, nước Tàu lại chia rẽ làm mấy nước, cho nên ở xứ Giao Châu cũng có sự biến cải. Mộ Cao Biền

    Đầm Ô Loan nằm sát quốc lộ 1A, dưới chân đèo Quán Cau, cách thành phố Tuy Hòa 22km. Đây là một địa danh gắn với phong trào Cần Vương của tỉnh Phú Yên.

    Bình minh trên đầm Ô Loan - Ảnh: PYP

    Đầm Ô Loan rộng khoảng 1.200 ha. Đứng trên đèo Quán Cau nhìn xuống, Ô Loan giống như con phượng đang xòe cánh, còn trên bản đồ, Ô Loan giống như con thiên nga đang thong thả bay.

    Phía tây đầm Ô Loan là những quả đồi nhỏ nằm san sát nhau. Phía đông là mả Cao Biền. Dân gian cho rằng trên đường đi ếm hại nhân tài nước Nam, Cao Biền đã bị trời chôn tại đây.
     
    Thùy Minh thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2017
  6. Admin Nothing to lose.. your love to win..

    Bài viết:
    4,093
    Ly kỳ cuộc đấu phép giữa Cao Biền và thần Long Đỗ

    Thế kỷ 9, Cao Biền được triều Đường cử sang làm Tiết độ sứ ở An Nam. Đây là một viên quan được cho là rất giỏi phong thủy, đã trấn yểm nhiều long mạch của nước ta. Tuy nhiên Cao Biền đã phải chịu thất bại khi gặp linh khí đất Thăng Long.

    Thần Long Đỗ là một trong bốn vị thần linh thiêng ở Thăng Long – Hà Nội. Ngày nay, đền thờ thần còn gọi là đền Bạch Mã nằm ở số 76 phố Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã cũng chính là một trong Thăng Long Tứ Trấn nổi tiếng ở đất kinh kỳ. Sự tích về thần Long Đỗ gắn chặt với các sự kiện lớn của đất Thăng Long. Bởi thế, ngài còn được coi là Thành hoàng của kinh đô. Một trong những sự tích ly kỳ nhất về thần Long Đỗ được dân gian truyền tụng là việc phá sự trấn yểm của Cao Biền.

    Cuối thời Đường, sự phản kháng của nhân dân ta ngày càng tăng lên. Những cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, Mai Thúc Loan tuy cuối cùng đều bị đàn áp song đã làm lung lay thêm cái nền đô hộ mấy trăm năm của giặc phương Bắc. Trong bối cảnh ấy, Cao Biền được triều Đường cử sang làm tiết độ sứ cai trị dân ta năm Bính Tuất - 866 theo Đại việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Tùy Đường.

    Sử sách và cả truyện dân gian truyền miệng nói khá nhiều về viên Tiết độ sứ này. Xung quanh nhân vật này hiện lên những ánh hào quang lung linh thần thoại. Người ta truyền rằng, sau khi đã yên vị chức Tiết độ sứ ở An Nam, Cao Biền bèn cưỡi chim thần đi khắp nước Việt để xem hết các phúc địa. Hễ thấy chỗ đất nào có "long mạch" - chỗ đất tốt khi táng mồ mả ông bà vào đó thì con cháu sau này phát đế vương - thì dùng tà phép trấn yểm hết để người Việt mãi mãi không vùng lên được. Nào là chuyện vãi hạt đậu thành binh lính, nào là việc trồng cây, đào hào để phá long mạch. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại thì luôn luôn hấp dẫn về sự tài phép và luôn được người kể thêu dệt thêm cho nên lại càng lung linh huyền ảo.

    Cao Biền tài phép là thế nhưng rồi y cũng phải bó tay chịu thất bại ở ngay trong chính đất Đại La - thủ phủ mà y chọn để cai trị nước ta. Trong sách Việt Điện U Linh có một giai thoại kể rằng: Khi Cao Biền đang cho đắp thành Đại La thì thấy trời đất tối đen lại, một vị thần ngồi trên lưng rồng vàng lượn quanh thành mới đắp một vòng. Y rất là run sợ, vội đem vàng và đồng đúc thành một tượng theo hình dáng vị thần trong mơ rồi dùng bùa để trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mơ thấy vị thần ấy nói rằng: Ta là thần Long Đỗ, tinh anh của khí thiêng sông núi nơi đây việc gì mà phải trấn yểm. Sáng hôm sau, Cao Biền sai người đi xem lại những chỗ đã trấn yểm thì thấy đồng sắt đều tan nát cả. Sau đó, Cao Biền sợ hãi lập đền Long Đỗ thờ thần ở trong thành. Đánh giá về giai thoại này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần cho rằng, đó là một biểu hiện phản kháng trong lĩnh vực văn hóa. Nếu như nhà Đường cố tạo cho Cao Biền nhiều tài phép để hù dọa dân ta, thì "vỏ quýt dày có móng tay nhọn", dân ta cũng có một vị thần không sợ tài phép của Cao Biền.

    Gần 200 năm sau, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long (1010) cũng lại có một giai thoại nữa liên quan đến thần Long Đỗ. Khi nhà vua đi thuyền từ Hoa Lư ra đến thành Đại La, thuyền vừa cập bến thì thấy rồng vàng bay lên bèn đổi tên Đại La thành Thăng Long. Việc đầu tiên Thái Tổ quan tâm là xây dựng Thăng Long thành một trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Triều đình đã xuất nhiều tiền của, huy động nhiều sức dân để đắp thành Thăng Long. Nhưng quái lạ là thành cứ đắp xong thì lại bị sụt lún. Nghe tiếng thần Long Đỗ linh thiêng, nhà vua đến cầu khấn. Sau đấy, vào một buổi sáng từ đền thờ thần Long Đỗ hiện ra một con ngựa trắng đi từ đền ra quanh khu vực thành đang đắp. Ngựa đi một vòng để lại dấu chân rồi trở về đền và biến mất. Nhà vua y dấu chân ấy xây thành thì thành không bị sụt nữa. Từ đấy đền có tên nữa là đền Bạch Mã.

    Thực ra đây là một mô típ đã có từ thời cổ. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ngoại kỷ còn chép chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Khi ấy, thành cứ xây xong lại đổ xuống. Sau thành chỉ đứng vững được khi xây theo dấu chân thần Kim Quy. Nhà chép sử nổi tiếng Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn rằng: Chuyện rùa vàng có đáng tin không? An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè dặt sức dân, cho nên thần minh nhập vào rùa vàng để răn bảo, thế chẳng phải là làm cho dân oán trách quá mà đến thế ư?

    Thần Long Đỗ hay thần linh nào nữa cũng đều ở tâm linh con người mà ra. Đó chẳng qua là sự phản ánh những tâm tư nguyện vọng và cả sự phản kháng của người dân trước những thực tế xã hội. Chính người dân Thăng Long đã gắn bó với thủ đô ngàn năm tuổi này. Và cũng từ thế giới tâm linh của họ mới xuất hiện những vị thần linh luôn có mặt mỗi khi Thăng Long nói riêng và dân tộc nói chung đứng trước những bước ngoặt quyết định.
     
    Thùy Minh, AlissaGill thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 29 Tháng mười 2017
Trả lời qua Facebook
Đang tải...