Bài viết: 207 




Tóm lược lịch sử thời đại Tam Quốc trên đất Trung Hoa
* * *
Cuối thế kỷ thứ 2 nhà Đông Hán suy yếu, vua Hán Linh Đế lại ưa dùng bọn hoạn quan suốt ngày chỉ vùi đầu vào ăn chơi hưởng lạc, làm cho triều đình thối nát, tham quan ô lại ở khắp nơi, bóc lột nhân dân nặng nề, siu cao thuế nặng cộng với thiên tai địch họa khiến dân chúng lầm than, chỉ có nước phải vùng lên phản kháng.
Vào năm Giáp Tý 184, nhân dân khắp nơi theo Trương Giáp nổi dậy khởi nghĩa, tiến hành đánh chiếm quận huyện, đốt dinh quan, cùng tịch thu tài sản của quan lại, phá kho lương, trừng trị bọn địa chủ gian ác. Quân khởi nghĩa đều quấn khăn vàng trên đầu làm dấu, nên thường được gọi là quân khăn vàng. Tin đó về đến thành đô, Hán Linh Đế cuống quýt sai tướng quân Hà Tiến mang quân đi đánh dẹp, nhưng do nghĩa quân lúc này đã lớn mạnh, quân triều đình không sao chống đỡ nổi. Hà Tiến đành phải xin Hán Linh Đế viết chiếu thư, yêu cầu các châu quận mau chóng triệu tập binh mã đối phó với quân khăn vàng. Nhân cơ hội đó, các tôn thất quý tộc quan lại mượn cớ đánh quân khăn vàng mà tranh nhau giành giật địa bàn, mở rộng thêm thế lực khiến cho đất nước chia năm sẻ bảy. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng nó cũng đã giáng xuống cho đế chế phong kiến nhà Hán lúc này đã thối nát thực sự một đòn đau điếng.
Vào năm 189 Hán Linh Đế chết, Hoàng Tử mới 14 tuổi lên ngôi lấy hiệu là Hán Thiếu Đế, tướng quân Hà Tiến nhiếp chính phò trợ. Bấy giờ thế lực của hoạn quan trong triều rất lớn, Hà Tiến muốn thanh trừ hoạn quan bèn nghe theo lời Viên Thiệu, triệu về thứ sử Tây Lương Đổng Trác đem quân về thành, tin này bị lộ, bọn hoạn quan liền bày mưu sát hại Hà Tiến.
Sau khi Hà Tiến bị giết, Viên Thiệu bèn sai em trai là Viên Thuật về đánh hoàng cung, cũng đúng lúc đó quân Đổng Trác cũng về tới Lạc Dương, khống chế toàn bộ kinh thành rồi độc chiếm đại quyền. Đổng Trác còn quá đáng bức Hán Thiếu Đế phải thoái vị nhường ngôi cho em là Lưu Nghiệp, tức Hán Hiến Đế, rồi tự mình giết Hán Thiếu Đế đi, tự mình phong làm Tướng Quốc.
Đổng Trác là người tàn bạo, ông ta thường dung túng cho binh lính cướp bóc, tàn sát hãm hiếp nhân dân vô tội. Từ lúc Đổng Trác lên nắm đại quyền đã khiến cho kinh thành Lạc Dương hỗ loạn chả khác chi một chốn địa ngục trần gian, những người có kiến thức thì lũ lượt rời khỏi kinh đô, trong đó có anh em Viên Thiệu, Viên Thuật, cùng Tào Tháo.

Đến năm 190 Tào Tháo cùng các chư hầu gồm mười mấy vạn người tập hợp lại thành liên quân đánh Đổng Trác, cử Viên Thiệu làm minh chủ. Tin đó về đến Kinh Thành, Đổng Trác liền đưa Hán Hiến Đế cùng dân chúng quan lại rời đô về Trường An.
Đám người liên quân tuy vô cùng lớn mạnh đông đảo nhưng ai cũng có tâm tư riêng, Tào Tháo thấy vậy thì tức giận bèn tự mình dẫn theo 5000 binh mã tức tốc đánh Đổng Trác, nhưng do quân ít thế cô nên nhanh chóng thất bại. Tào Tháo nhận thấy nếu cộng tác với đám người này thì không sao làm nổi việc lớn liền rơi đi rồi về Dương Châu chiêu binh mãi mã để chuẩn bị ngày sau khởi binh.
Về mặt Đổng Trác, thấy đám quân binh tự xưng là liên quân liên minh kia, nhưng người nào người nấy đều có tính toán riêng, không thể nhất trí liên hiệp với nhau được, nên cảm thấy không có gì đáng sợ, liền tự mình xưng làm Thái Sư ở Trường An, còn bắt Hán Hiến Đế gọi mình là Thượng Phụ.
Lúc bấy giờ dưới trướng Đổng Trác có thuộc hạ tâm phúc là Lữ Bố, sức khỏe hơn người, lại có võ nghệ cao cường. Lữ Bố vốn trước kia là thủ hạ của Đinh Nguyên, thứ sử Tinh Châu. Khi Đổng Trác dẫn quân vào Lạc Dương, Đinh Nguyên đem quân ra chống giữ, Đổng Trác liền đem rất nhiều tiền của ra mua chuộc Lữ Bố, còn nhận Lữ Bố làm nghĩa tử. Bị cám dỗ bởi danh vọng và tiền tài, Lữ Bố liền giết Đinh Nguyên rồi theo về dưới trướng Đổng Trác. Sau quan tư đồ Vương Doãn vì muốn trừ đi Đổng Trác, lại biết quan hệ giữa Đổng Trác và Lữ Bố bất đồng, bèn lôi kéo Lữ Bố cùng thực hiện âm mưu.

Đến năm 192, Lữ Bố theo kế của Vương Tư Đồ liền ra tay giết chết Đổng Trác bình định được cơ nghiệp nhà Hán. Thế nhưng do Vương Tư Đồ vì quá hận quân Tây Lương gian ác bạo ngược trước đây, đã cự tuyệt không cho hai tướng Quách Dĩ và Lý Thôi quy hàng, khiến hai kẻ này căm hận mang quân vào đánh chiếm Trường An, giết Vương Doãn, đuổi Lữ Bố, khiến nhân dân Trường An vừa yên bình chưa được bao lâu lại lâm vào cảnh lầm than cùng khổ.
Sau nạn Đổng Trác, triều đình Đông Hán chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn có thể điều khiển được các Châu Quận, chư hầu các nơi tranh nhau chiếm lấy địa bàn, hình thành cục diện cát cứ khắp đất nước.
Những kẻ có thế lực lớn phải kể đến như Viên Thiệu ở Ký Châu, Viên Thuật ở Nam Dương, Lưu Biểu ở Kinh Châu, Lưu Chương ở Ích Châu, Trương Lỗ ở Hán Trung, Đào Khiêm ở Từ Châu. Bọn họ thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau, khiến cho đất nước loạn lạc không ngừng khiến dân chúng lầm than không biết kêu sao cho thấu.
Thế lực Tào Tháo ban đầu vốn rất nhỏ, sau đó ông đánh bại được tàn dư của quân Khăn Vàng ở Duyện Châu, rồi xây dựng phát triển căn cứ tại đó.

Lại nói về Lưu Bị, ông là người Trắc Quận, vốn dòng dõi Hoàng Thất nhà Hán, ông mồ côi cha từ nhỏ, phải cùng mẹ dệt chiếu để kiếm sống, sau nhờ sự giúp đỡ của người trong họ mà học được ít chữ nghĩa, ông thích kết giao với những người hào liệt trong thiên hạ, sau gặp đực Quan Vũ và Trương Phi có võ nghệ cao cường, lại cùng chí hướng với mình nên đặc biệt thân thiết, tình cảm như anh em ruột thịt.

Vào năm 193 Tào Tháo dẫn quân tấn công Từ Châu, Đào Khiêm chống đỡ không nổi phải cho người đến cầu cứu Công Tôn Toản. Khi ấy Công Tôn Toản còn đang bận đối phó với Viên Thiệu, lại khéo khi ấy Lưu Bị đang lưu nhờ ở đậu, liền sai Lưu Bị cùng bộ tướng Triệu Vân đến cứu. Dưới sự chỉ huy tài tình của Lưu Bị cùng Quan Vũ, Trương Phi và Triệu Vân đã thủ thế giữ vững Từ Châu. Cùng lúc này Lữ Bố được Trần Cung phò trợ hiến kế, đem quân đánh vào quân doanh Duyện Châu, buộc Tào Tháo phải bỏ Từ Châu mà đưa quân trở về cứu viện. Qua cơn binh hỏa, Đào Khiêm vô cùng kính trọng cảm tạ Lưu Bị, còn tự nguyện dâng Từ Châu lên cho ông ta. Lưu Bị khiêm nhường, sợ khó giữ nổi Từ Châu nên từ chối, sau lại được quan lại Từ Châu hết lời khẩn thiết khuyên nhủ nên ông ta đành phải nhận lời quản hạc.

Vào năm 195, Lý Khôi và Quách Dĩ xảy ra xung đột ở Trường An, Đổng Thừa cùng với quần thần liền đưa Hán Hiến Đế trốn chạy khỏi Trường An trở về Lạc Dương. Tào Tháo liền biết tin đó, ngày đêm thần tốc không ngừng nghỉ mà tới đón Hán Hiến Đế về Hứa Xương, bắt đầu dùng danh nghĩa Thiên Tử để ra lệnh cho các chư hầu.
Cùng thời gian này, Viên Thuật cùng Lữ Bố giáp công đánh vào Từ Châu, Lưu Bị thua trận phải chạy đến nương nhờ Tào Tháo. Sau Tào Tháo đánh thắng Lữ Bố chiếm trọn Từ Châu, mở rộng thêm được một vùng lãnh thổ rộng lớn.
Tào Tháo vô cùng tôn trọng Lưu Bị, đi đâu cũng mời Lưu Bị đi cùng. Nhưng Lưu Bị bụng ôm trí lớn, thấy Tào Tháo đối đãi với mình như vậy, trong lòng áy náy không yên, sợ bị Tào Tháo nghi ngờ nên ông luôn tìm cơ hội rời khỏi Hứa Đô. Lại vừa thấy Viên Thuật đã thế cùng lực kiệt, định chạy lên Hà Bắc theo Viên Thiệu, đường từ Hà Nam qua Hà Bắc tất phải đi qua Từ Châu, Lưu Bị bèn xin với Tào Tháo cho mình mang quân đi đánh chặn, trận này Lưu Bị đánh bại được Viên Thuật rồi chiếm luôn Từ Châu, trở mặt thành thù với Tào Tháo từ đó.

Qua năm sau Tào Tháo mang quân tiến đánh Từ Châu, quyết diệt Lưu Bị cho bằng được. Lưu Bị sức yếu không sao chống nổi, thua trận liền chạy qua nương nhờ Viên Thuật. Khi Lưu Bị đến, Viên Thuật lúc này mới nhận ra được Tào Tháo là một địch thủ đáng gờm. Đến năm 200 Viên Thiệu liền đem 10 vạn tinh binh tiến đánh Tào Tháo, hai bên giao tranh nhau tại Quan Độ, cầm cự hơn 1 tháng, sau Hứa Du là mưu sĩ tâm phúc của Viên Thiệu làm phản, giúp Tào Tháo đốt mất kho lương của Viên Thiệu tại Ô Sào, khiến Thiệu thua to trốn chạy lên phía bắc, hai năm sau thì ốm chết. Ba người con của Viên Thiệu là Viên Thượng, Viên Hy, Viên Đàm vì tranh nhau quyền lực mà dần bị Tào Tháo lần lượt tiêu diệt trong 7 năm sau đó, giúp Tào Tháo thống nhất được một vùng Trung Nguyên phương Bắc gồm Dự, Duyện, Từ, Thanh, U, Ký, Tinh rộng lớn.

Trong thời gian Tào Tháo cùng Viên Thiệu tranh đấu ở miền Bắc, thì tại miền Nam một thế lực cát cứ cũng dần hùng mạnh, đó chính là anh em Tôn Sách, Tôn Quyền. Cha của họ là Tôn Kiên, khi trước là thuộc hạ cũ của Viên Thuật. Tôn Sách chiến đấu dũng cảm, quân đội lại có kỷ luật nghiêm minh nên được dân chúng ủng hộ, do đó đã chiếm được một vùng rộng lớn đất Giang Đông gồm 8 quận lớn. Trong một lần đi săn, Tôn Sách bị thích khách bắn lén mà khó bề qua khỏi, liền trao toàn bộ quyền thành cho người em trai Tôn Quyền khi đó mới 19 tuổi. Lại nhờ có Trương Chiêu cùng Chu Du hết lòng phò trợ, nên cục diện Giang Đông dần dần.

Sau đại chiến Quan Độ, Lưu Bị chạy qua nương nhờ Lưu Biểu, được Lưu Biểu đối đãi như thượng khách, cấp cho Lưu Bị quản lý vài nghìn quân binh, cho ra đóng quân ở Tân Dã. Sau có cơ duyên gặp được Tư Mã Huy và Từ Thứ, Lưu Bị biết đến tiếng tăm của Gia Cát Lượng, ông liền dẫn theo 2 người anh em kết nghĩa đến Long Trung tìm gặp Gia Cát Lượng. Sau ba lần tới lều tranh, Lưu Bị mới gặp được Khổng Minh và được ông ta nhận lời phò tá.

Vào năm 208 Tào Tháo lúc này đã rất mạnh, ông ta mang đại binh tiến về phương Nam đánh Lưu Biểu, quân Tào còn chưa tới Kinh Châu thì Lưu Biểu tuổi cao bệnh nặng cũng đã ốm chết, con trai thứ của ông ta là Lưu Tông nghe thanh thế Tào Tháo lớn mạnh thì đã mở cổng thành đầu hàng. Lúc đó Lưu Bị đang ở Phàn Thành, nghe tin quân Tào tiến đánh bèn lui quân về Giang Hạ. Vì tình hình lúc này đã cực kỳ nguy cấp, Gia Cát Lượng bèn khuyên Lưu Bị cầu cứu Tôn Quyền. Vừa may Tôn Quyền cũng sợ Tào Tháo chiếm mất Kinh Châu mà tiến quân chiếm luôn Giang Đông tươi đẹp, nên sai Lỗ Túc đến gặp Lưu Bị bàn việc liên hiệp chống Tào. Tôn Quyền giao cho Chu Du phong làm Đô Đốc, chỉ huy 3 vạn thủy quân.

Sau trận Xích Bích, Tào Tháo thất bại nặng nề chạy về phương Bắc. Chu Du thuận thế quét tan toàn bộ tàn dư quân Tào mà chiếm trọn Nam Quận, Lưu Bị cũng đồng thời chiếm được 4 quận phía Nam Kinh Châu là Vũ Lăng, Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương, bước đầu có được bàn đạp căn cứ vững chắc.
Các quận phía Nam Kinh Châu là những quận nghèo nàn nhất, chỉ đóng vai trò hậu cần cho việc Lưu Bị tiến sang Ích Châu, theo "Long Trung Kế Sách" của Gia Cát Lượng. Lúc này Lưu Bị bèn cho người qua gặp Tôn Quyền đề đạt việc mượn lấy Nam Quận làm bàn đạp thì bị Chu Du phản đối kịch liệt. Ít lâu sau thì Chu Du qua đời, Lỗ Túc lên thay. Lại được Lỗ Túc ra sức thuyết phục nên Tôn Quyền đã cho Lưu Bị mượn lấy Nam Quận, đổi lại Lưu Bị cũng phải cắt nửa quận Giang Hạ cho Tôn Quyền.

Ngày đó ở Giao Châu, Sỹ Nhiếp tuy có thực quyền nhưng vẫn theo lệ triều cống nhà Hán. Đến năm 210, Tôn Quyền bèn sai Đỗ Chất đánh xuống Giao Châu. Khi Chất đến Sỹ Nhiếp không chống lại được liền dẫn anh em ra hàng, Tôn Quyền cho Nhiếp làm Tả Tướng Quân quản lý lại vùng đó, đất Giao Châu cũng chính là toàn bộ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam ta ngày nay, từ đó thuộc về Đông Ngô.

Sau khi Lưu Bị có được Nam Quận, mục tiêu tiếp theo của Lưu Bị chính là Ích Châu của Lưu Chương. Bên phía Lưu Chương lại có hai vị mưu sĩ là Trương Tùng và Pháp Chính đều có thực tài lại là bạn thân của nhau. Từ lâu đã có hảo cảm với Lưu Bị, vẫn muốn theo về mà phản Lưu Chương vì kẻ này bất tài nhu nhược.
Vào Năm 211 Tào Tháo đánh bại Mã Siêu, Hàn Toại, lại chuẩn bị tấn công Trương Lỗ ở Hán Trung. Lưu Chương thấy vậy thì lo sợ lắm, ông ta liền nghe theo Trương Tùng sai Pháp Chính đến mời Lưu Bị vào Xuyên giúp sức chống lại Tào Tháo.
Lưu Bị bèn cho Gia Cát Lượng cùng Quan Vũ ở lại giữ Kinh Châu, tự mình dẫn theo Bàng Thống cùng các tướng khác vào đất Thục. Sau đấy việc Trương Tùng làm nội ứng bị phát hiện, Lưu Chương giết chết Trương Tùng rồi cho binh chống lại Lưu Bị, thế cục giằng co mãi đến quân sư Bàng Thống cũng bị trúng tên mà chết. Lúc này Gia Cát Lượng bèn để lại Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, tự mình vào Thục giúp Bị. Cuối cùng thì Lưu Bị cũng vào chiếm đánh được thành đô, Lưu Chương không kháng nổi bèn ra thành mà hàng. Đến năm 214 Lưu Bị hoàn toàn chiếm được thành đô, tự xưng là Ích Châu Mục.

Ở đất Giang Đông, Tôn Quyền biết tin Lưu Bị chiếm được Ích Châu, liền cho người qua đòi lại vùng đất Kinh Châu. Tuy vậy Lưu Bị đã cự tuyệt không đồng ý trả, Tôn Quyền liền sai Lỗ Túc và Lữ Mông lập kế lừa đánh úp Quan Vũ hòng chiếm lấy Kinh Châu. Từ trong Xuyên nghe tin Kinh Châu nguy kịch, Lưu Bị lập tức dẫn binh đến Vũ Lăng tiếp ứng, Tôn Quyền cũng đích thân dẫn binh tiến đến huyện Lục Khẩu. Hai bên chiến sự giằng co thì có tin Tào Tháo tiến vào Hán Trung đánh Trương Lỗ, Tây Xuyên tất bị uy hiếp. Lưu bị đành giảng hòa với Tôn Quyền để mang quân vào Xuyên cứu viện, cũng ngậm ngùi chia cắt Kinh Châu làm hai phần, lấy sông Hoài làm gianh giới, phía Tây thuộc Lưu Bị, phía Đông thuộc Tôn Quyền.
Trương Lỗ bị Tào Tháo đánh bại, Lưu Bị cũng giải quyết xong tranh chấp ở Kinh Châu, liền chuyên tâm đối phó với Tào Tháo, cử Gia Cát Lượng ở lại giữ thành đô, còn tự mình đem đại quân tiến vào Hán Trung. Hai bên giao tranh đến hơn 1 năm thì Lưu Bị đại thắng, tướng quân Ngụy là Hạ Hầu Uyên bị giết, Tào Tháo buộc phải rút khỏi Hán Trung. Qua trận này Ích Châu lại càng được củng cố, tới năm 219 văn thần võ tướng liền tôn Lưu Bị lên làm Hán Trung Vương.

Theo chiến lược của Gia Cát Lượng, dự định tiến đánh Tào Ngụy từ hai cánh. Cánh thứ nhất thừa thắng từ phía Tây Hán Trung công đánh lên, còn cánh thứ hai là phía Đông Kinh Châu đánh vào Trung Nguyên. Lúc ấy tướng quân trấn thủ Kinh Châu là Quan Vũ, một người hội đủ cả dũng và mưu nhưng lại quá kiêu căng tự phụ.
Sau khi Quan Vũ nhận được lệnh tiến quân, Quan Vũ liền dẫn đại quân tiến đánh Tương Dương và Phàn Thành do Tào Nhân trấn giữ. Tào Tháo thấy Tào Nhân gặp nguy liền cử hai đại tướng là Vu Cấm cùng Bàng Đức tiếp viện, nhưng cũng bị Quan Vũ đánh tan. Quan Vũ nóng lòng tấn công Phàn Thành nhưng bị Tào Nhân kiên quyết phòng thủ.
Lúc này Ngụy Vương Tào Tháo thấy nguy, định tạm bỏ Hứa Đô để tránh mũi tiến công rất gắt của Quan Vũ. Nhưng không ngờ lại được Tư Mã Ý bày mưu giải nguy, phái sứ giả xuống Giang Đông thuyết phục Tôn Quyền đánh Quan Vũ để giải vây cho Phàn Thành.
Lưu Bị và Tôn Quyền tuy bề ngoài là liên minh với nhau nhưng bên trong lại có vô số mâu thuẫn, Tôn Quyền cũng không muốn nhìn thấy Quan Vũ thắng trận này, lập tức cử Lữ Mông cùng Lục Tốn đánh vào hậu phương Quan Vũ, chiếm luôn mấy quận Kinh Châu.
Quan Vũ vây đánh Phàn Thành mãi vẫn không thắng, lại bị Tử Hoảng đánh úp, thua chạy về Kinh Châu thì mất đi căn cứ, cuối cùng bị phe Tôn Quyền bắt và giết chết.

Không lâu sau đó ở Lạc Dương, Tào Tháo ốm nặng qua đời, Tào Phi lên nối ngôi Ngụy Vương. Đến cuối năm 220, Tào Phi phế truất Hán Hiến Đế cướp ngôi, chính thức lập ra nhà Ngụy, nhà Đông Hán từ đó chấm dứt. Tin Tào Phi cướp ngôi nhanh chóng truyền đi khắp nơi, ở Tây Xuyên Lưu Bị lập tức cử hành tang lễ cho Hán Hiến Đế.
Đến năm 221 Lưu Bị cũng chính thức xưng đế lập ra nhà Thục Hán. Lưu Bị cũng rất căm hận việc Đông Ngô chiếm Kinh Châu cùng giết chết vị huynh đệ Quan Vũ, nên sau khi lên ngôi coi việc quan trọng nhất chính là thảo phạt Đông Ngô, đánh Tôn Quyền để trả thù. Gia Cát Lượng cùng Triệu Vân và nhiều quan đại thần đã nhiều lần can rằng, không nên bỏ qua Ngụy mà đánh Ngô, nhưng Lưu Bị nhất định không nghe, ông giao cho Gia Cát Lượng ở lại thành đô phò tá thái tử Lưu Thiện, còn tự mình dẫn quân tiến đánh Đông Ngô.
Khi Lưu Bị còn chưa kịp xuất quân, bộ tướng của Trương Phi làm phản, đã giết Trương Phi rồi sang hàng Tôn Quyền. Lưu Bị trong thời gian ngắn mất đi hai viên đại tướng, lực lượng đã yếu đi nhiều, nhưng do nôn nóng báo thù nên không còn tỉnh táo được nữa. Tôn Quyền thấy Lưu Bị ra quân lần này thanh thế lừng lẫy, liền cho người sang giảng hòa nhưng bị cự tuyệt, liền cử Lục Tốn làm đại đô đốc mang quân chống lại. Quân Thục sĩ khí đại thịnh, tấn công mạnh như vũ bão, chỉ trong vài tháng đã chiếm được năm sáu trăm dặm đất đai Đông Ngô. Mặc dù Lưu Bị trải qua chinh chiến cả đời, nhưng chỉ vì khinh địch là Lục Tốn miệng còn hơi sữa nên đã lơ là coi nhẹ, dựng lên vô số doanh trại trên đường tiến quân. Lục Tốn tuy nhỏ nhưng là kẻ đã biết dụng binh, hắn nhẫn nhịn chịu đựng trong vòng nhiều tháng, cuối cùng dùng hỏa công mà thiêu dụi toàn bộ doanh trại của Lưu Bị, khiến Lưu Bị thua nặng đau đớn mà bệnh rồi chết tại thành Bạch Đế. Lưu Thiện lên ngôi tức Hán Hoài Đế, mọi việc trong triều đều do tay một mình Gia Cát Lượng xử lý hết.

Vào năm 227, khi thực lực Thục quốc đã được củng cố, Gia Cát Lượng mang quân tiến vào Hán Trung, mở đầu cho các trận đánh bắc phạt. Trong suốt những năm sau đó, Khổng Minh đã có đến 6 lần tiến đánh Kỳ Sơn, nhưng do hạn chế về lương thảo, lại có đô đốc nhà Ngụy lúc đó là Tư Mã Ý phòng thủ nên ông đã không thành công. Gia Cát Lượng ốm nặng mất năm 234 trong lần cuối cùng ông mang quân tấn công ra Bắc.
Trong khi đó ở Giang Đông, Tôn Quyền cũng lên ngôi hoàng đế vào năm 239, lập ra nhà Đông Ngô, thế chân vạc Tam Quốc chính thức đã được hình thành.

Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, vị trí chức thừa tướng của ông được lần lượt các vị là Tưởng Uyển, Phí Y, Đổng Doãn đảm nhiệm, chính sự Tam Quốc tạm thời yên ổn. Sau năm 258, nhà Thục Hán ngày càng suy yếu, hậu chủ Lưu Thiện bất tài nhu nhược tin dùng hoạn quan, xa lánh trung thần, lại thêm nạn tham nhũng tràn lan. Cho dù có biết bao cố gắng đầy nghị lực từ vị học trò ưu tú của Khổng Minh là Khương Duy thì nhà Thục Hán cũng không thể giành được chiến thắng, trong thì loạn, ngoài thì suy, việc nhà Thục Hán suy bại chỉ còn là vấn đề thời gian.
Ở Bắc Ngụy thì đã xuất hiện những dạn nứt giữa họ Tào và họ Tư Mã, sau cái chết của Tào Duệ thì chủ nghĩa bè phái đã rõ nét hơn. Cho tới năm 249 nhân lúc những người địa thế họ Tào đi viếng Cao Bình Lăng, Tư Mã Ý lập tức đảo chính ở Lạc Dương, ép được toàn bộ lực lượng nhà họ Tào rời bỏ chính quyền và xử tử họ. Sau sự kiện này, chính quyền nhà Ngụy trên danh nghĩa vẫn là của họ Tào nhưng thực chất đã rơi vào tay họ Tư Mã. Sau khi giết Tào Sảng được 2 năm thì Tư Mã Ý cũng chết, con trai cả là Tư Mã Sư liền thay thế chức vụ của ông.
Đến năm 255, Tư Mã Sư mất, em là Tư Mã Chiêu lên thay. Năm 263 Tư Mã Chiêu sai hai tướng là Đặng Ngải và Trung Hội lãnh binh tấn công vào đất Thục bằng 3 cánh quân, quân Thục yếu kém đã phải rút khỏi Hán Trung. Đặng Ngải đi vòng theo lối Kiếm Các rồi bao vây Thành Đô nước Thục, cũng chỉ cần 20 ngày giằng co cầm cự Lưu Thiện liền tuyên bố đầu hàng, chấm dứt hoàn toàn nền quân chủ Thục Hán sau 43 năm tồn tại, được vị quân chủ Lưu Bị gây dựng vất vả năm nào.

Năm 264 Tư Mã Chiêu chết, con trai ông là Tư Mã Viêm lên thay, đến năm 266 Viêm chính thức phế bỏ Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán rồi tự mình lên làm vua, lập ra nhà Tấn, xưng hiệu là Tấn Vũ Đế.
Ở Đông Ngô sau cái chết của Tôn Quyền, không có người kế nghiệp xứng đáng, nhà Đông từ đó đi xuống, trong nước quần thần đánh nhau lục đục khiến nội bộ ngày càng suy yếu. Đến năm 274 vị tướng giỏi của nhà Ngô là Lục Kháng chết, lúc này nhà Ngô thực sự không còn tướng tài.
Vào mùa đông năm 279, kế hoạch thôn tính Đông Ngô của nhà Tấn chính thức diễn ra, Tư Mã Viêm ra lệnh tấn công bằng 5 cánh quân dọc theo sông Dương Tử mà tiến thẳng đến Giang Lăng. Trước các cuộc tấn công mãnh liệt của nhà Tấn, lực lượng nhà Ngô tan dã, Kiến Khang mất vào tháng ba năm 280, Tôn Hạo tuyên bố đầu hàng, nhà Tấn thống nhất Trung Hoa, đóng lại một thời kỳ lịch sử chia cắt đầy biến động.