Bài viết: 8792 

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP NHÂN – CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.3. Năng lực chủ thể của pháp nhân và một số vấn đề về yếu tố lý lịch của pháp nhân
1.3. 1. Năng lực chủ thể của pháp nhân
1.3. Năng lực chủ thể của pháp nhân và một số vấn đề về yếu tố lý lịch của pháp nhân
1.3. 1. Năng lực chủ thể của pháp nhân
Bao gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Năng lực pháp luật dân sự
Theo Điều 86 Bộ luật dân sự 2015:
1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
Năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi của pháp nhân được được thể hiện thông qua hành vi của người đại diện. Bộ luật dân sự chỉ quy định về người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự. Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi của cá nhân là người đại diện của pháp nhân. Tuy nhiên cũng cần hiểu là hoạt động của pháp nhân còn được thực hiện thông qua hành vi của các thành viên khác của pháp nhân, trong trường hợp này hành vi đó được thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ được pháp nhân giao.
Mối liên hệ giữa hai năng lực trên
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chỉ phụ thuộc vào khả năng pháp nhân và các trường hợp quy định của Bộ luật dân sự, còn năng lực hành vi dân sự của pháp nhân phụ thuộc vào người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân trong quan hệ dân sự.
Năng lực chủ thể của pháp nhân có gì đặc biệt so với năng lực chủ thể của cá nhân?
Năng lực chủ thể là khả năng pháp lí của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật; với tư cách là chủ thể của quan hệ đó; bao gồm hai yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực chủ thể của cá nhân
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác.
Nó xuất hiện từ khi người đó sinh ra cho đến khi người đó chết đi.
Năng lực chủ thể của pháp nhân (đã trình bày ở trên)
Vậy, 2 năng lực chủ thể có các điểm tương đồng:
1. Đều có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể.
2. Tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia.
Ngoài ra, khi đi sâu vào chi tiết, 2 năng lực chủ thể còn có những khác biệt dưới đây:
+ về Cơ sở pháp lý:
- Đối với cá nhân là theo Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015
- Đối với pháp nhân là theo Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015
+ Về Đối tượng
- Đối với cá nhân: Là công dân Việt Nam;người nước ngoài; người không quốc tịch sinh sống lao động và học tập trên lãnh thổ Việt Nam.
- Đối với pháp nhân: Là các cơ quan nhà nước;tổ chức xã hội;tổ chức kinh tế;đơn vị hành chính sự nghiệp. Có cơ cấu tổ chức thống nhất được các văn bản pháp luật quy chế điều lệ của các tổ chức quy định.
Năng lực pháp luật dân sự
Theo Điều 86 Bộ luật dân sự 2015:
1. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký.
3. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chấm dứt kể từ thời điểm chấm dứt pháp nhân.
Năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi của pháp nhân được được thể hiện thông qua hành vi của người đại diện. Bộ luật dân sự chỉ quy định về người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự. Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi của cá nhân là người đại diện của pháp nhân. Tuy nhiên cũng cần hiểu là hoạt động của pháp nhân còn được thực hiện thông qua hành vi của các thành viên khác của pháp nhân, trong trường hợp này hành vi đó được thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ được pháp nhân giao.
Mối liên hệ giữa hai năng lực trên
Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân chỉ phụ thuộc vào khả năng pháp nhân và các trường hợp quy định của Bộ luật dân sự, còn năng lực hành vi dân sự của pháp nhân phụ thuộc vào người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân trong quan hệ dân sự.
Năng lực chủ thể của pháp nhân có gì đặc biệt so với năng lực chủ thể của cá nhân?
Năng lực chủ thể là khả năng pháp lí của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật; với tư cách là chủ thể của quan hệ đó; bao gồm hai yếu tố năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực chủ thể của cá nhân
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác.
Nó xuất hiện từ khi người đó sinh ra cho đến khi người đó chết đi.
Năng lực chủ thể của pháp nhân (đã trình bày ở trên)
Vậy, 2 năng lực chủ thể có các điểm tương đồng:
1. Đều có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể.
2. Tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia.
Ngoài ra, khi đi sâu vào chi tiết, 2 năng lực chủ thể còn có những khác biệt dưới đây:
+ về Cơ sở pháp lý:
- Đối với cá nhân là theo Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015
- Đối với pháp nhân là theo Điều 86 Bộ luật Dân sự 2015
+ Về Đối tượng
- Đối với cá nhân: Là công dân Việt Nam;người nước ngoài; người không quốc tịch sinh sống lao động và học tập trên lãnh thổ Việt Nam.
- Đối với pháp nhân: Là các cơ quan nhà nước;tổ chức xã hội;tổ chức kinh tế;đơn vị hành chính sự nghiệp. Có cơ cấu tổ chức thống nhất được các văn bản pháp luật quy chế điều lệ của các tổ chức quy định.