[Tiểu luận] Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi khunglongbietbay, 15 Tháng sáu 2023.

  1. khunglongbietbay

    Bài viết:
    41
    Đề tài: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể và sự vận dụng những quan điểm này trong cuộc sống, học tập của bản thân.

    Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

    Khái niệm


    Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với nhau, qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình là những đối tượng thực tồn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối tượng các thuộc tính của nó thay đổi, và trong một số trường hợp có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các công tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các đối tượng khác. Nhưng thế nào là mối liên hệ? – "Mối liên hệ" là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng khi thay đổi. Chẳng hạn, vận động của vật thể có liên hệ hữu cơ với khối lượng của nó bởi sự thay đổi vận tốc vận động tất yếu làm khối lượng của nó thay đổi; các sinh vật đều có liên hệ với môi trường bên ngoài..

    Tính chất của mối liên hệ:

    Tính khách quan: Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác động trong thế giới. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần. Có các mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh thần với nhau (mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của nhận thức).. Các mối liên hệ, tác động đó- suy đến cùng đều là sự quy định tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.

    Tính phổ biến: Của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự vật hiện tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau không nhận diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.

    Tính đa dạng, phong phú: Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong tuần lĩnh vực, cần sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu.. chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

    Ý nghĩa phương pháp luận:

    Quan điểm toàn diện là khi xem xét các sự vật hiện tượng, phải xem xét ở tất cả các mặt, các yếu tố làm nên các sự vật, hiện tượng, kể cả khâu trung gian, gián tiếp. Nghiên cứu cơ sở triết học của quan điểm toàn diện có một vai trò vô cùng quan trọng giúp chúng ta đánh giá đúng vị trí, vai trò của sự vật, hiện tượng.

    Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát thành nguyên tắc toàn diện với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức và thực tiễn như sau. Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh hệ thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chính thể đó; "cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt tất cả các mối liên hệ" và quan hệ gián tiếp "của sự vật đó" tức trong chỉnh thể thống nhất của "tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy có những sự vật khác". Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng. Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, sẽ thấy mặt này mà không thấy mặt khác hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành phong cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ cái mặt nhau vào một mối liên hệ phổ biến).

    Quan điểm lịch sử - cụ thể cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể, xác định, những điều kiện này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật.

    Quan điểm lịch sử - cụ thể có ý nghĩa rất to lớn trong quá trình nghiên cứu và cải tạo tự nhiên, xã hội. Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Khi nghiên cứu một lý luận khoa học nào đó cần phải phân tích hoàn cảnh ra đời và phát triển của lý luận đó. Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn cũng cần phải tính đến những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nơi đó. Đồng thời cần phải có những bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn để đạt được hiệu quả tốt nhất.

    Vận dụng quan điểm trong cuộc sống, học tập của bản thân:

    Quan điểm toàn diện trong cuộc sống, học tập của bản thân

    Ví dụ 1. "Khi xem xét các sự vật hiện tượng, chúng ta phải xem xét ở tất cả các mặt, các yếu tố làm nên các sự vật, hiện tượng.." Trong cuộc sống, khi giải quyết một vấn đề nào đó như đưa ra quyết định, tranh luận, lựa chọn.. chúng ta phải có cái nhìn đa chiều và khách quan như nguyên nhân, hậu quả, lập trường của những người khác, giá cả, v.. vv để có thể đưa ra cho mình một quyết định sáng suốt, hợp lí nhất.

    Ví dụ 2. Trong cuộc sống, xung quanh chúng ta sẽ có rất nhiều mối quan hệ, chính vì vậy khi đánh giá một ai đó, chúng ta phải đánh giá một cách toàn diện về con người của họ, từ tính cách cho đến dáng vẻ, hành động, hoàn cảnh để có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, tránh đi cái nhìn phiến diện để từ đó có thể lựa chọn kết giao với những mối quan hệ tốt đẹp, tích cực hơn.

    Ví dụ 3. Trong vấn đề học tập thì ở mỗi môn học mình phải xem xét tất cả các yếu tố có trong môn học đó vì nó liên quan đến nhau, ví dụ như ở môn hán nôm thì để học tốt môn này, ta phải học cả cách viết nét bút, ngữ pháp và cả lịch sử nữa vì nó liên quan đến nguyên quá trình học. Mình phải học tốt các mặt thì mới có thể điểm tốt môn đó.

    Ví dụ 4. Trong học tập, chúng ta nên hạn chế tránh tình trạng học lệch, học tủ hay đợi đến gần thi hay gần kiểm tra mới học vì việc học là việc tích luỹ và những kiến thức cũ và mới, giữa môn này và môn kia có mối quan hệ khắng khít với nhau. Chính vì lẽ đó chúng ta phải có những phương pháp học toàn diện, từ cơ bản đến nâng cao để tích lũy được vốn kiến thức nhất định, phục vụ cho cả thi cử và phát triển bản thân.

    Ví dụ 5. Trong học tập, khi phát hiện hướng học tập bị lệch hoặc tình trạng học tập bị sa sút, cần phải xem xét và đưa ra những vấn đề, nguyên nhân gây ra việc đó một cách khái quát toàn diện, sau đó cải thiện sửa đổi dần để nhận được kết quả tốt hơn và đi đúng hướng, đạt hiểu quả tốt.

    Ví dụ 6. Trong học tập, chúng ta cần phải vận dụng nhiều yếu tố khác nhau để đạt được kết quả học tập tốt. Không chỉ cần nỗ lực, trí tuệ của bản thân mà còn cần học hỏi thêm nhiều điều từ sách vở, từ cuộc sống. Kiến thức phải được xây dựng từ lý thuyết và thực hành để trở nên hoàn thiện.

    Ví dụ 7. Trong đời sống hiện nay, Mạng xã hội cũng như các phương tiện truyền thông đang có quá nhiều các thông tin tràn lan mỗi ngày nhưng đa số chúng chỉ mang cái nhìn chủ quan, phiến diện và đôi khi sai lệch nhằm mục đích câu dẫn lượt xem, khuấy đảo thị phi, đả kích, tuyên truyền phản động hay lừa đảo người dùng. Vậy nên bản thân chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện ở mọi mặt khi sử dụng mạng xã hội như là xác định nguồn thông tin phải chính thống, uy tín và đảm bảo nội dung tích cực.

    Quan điểm lịch sử cụ thể trong cuộc sống, học tập của bản thân:

    Ví dụ 1. Trong cuộc sống có rất nhiều quan điểm, giá trị mà trước khi trong các khoảng thời gian quá khứ thì nó rất đúng, được mọi người lấy đó làm tôn chỉ sống nhưng ở thời hiện đại thì đã trở nên sai lệch. Ví dụ như những câu ca dao tục ngữ: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, tốt gỗ hơn tốt nước sơn, bồng bồng cõng chồng đi chơi/ đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng. Chính vì vậy mà khi suy xét một vấn đề gì, chúng ta phải dựa trên những yếu tố thời gian, không gian cụ thể để có thể có những suy nghĩ đúng đắn, phù hợp với cuộc sống ngày nay.

    Ví dụ 2. Khi chúng ta làm biên soạn sách hay lựa sách để đọc, học và giáo dục cho thế hệ con trẻ thì chúng ta phải chắt lọc nội dung, chỉnh sửa một số chi tiết để phù hợp với đạo đức, luân thường đạo lý và tư duy ngày nay bởi vì có vài tác phẩm dân gian ở trong những thời điểm quá khứ cụ thể như xã hội nguyên thủy, xã hội phong kiến vẫn còn có những chi tiết, giá trị lệch lạc hay kinh dị, không phù hợp cho việc giáo dục con trẻ ngày nay. Từ đó có thể bổ sung những chi tiết hợp lý, phù hợp với thời gian ngày nay để giáo dục thế hệ sau một cách hiệu quả.

    Ví dụ 3. Trong học tập: Khi học môn ngữ văn, để phân tích bất kì một tác phẩm nào đó, chúng ta phải chú ý vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể mà trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Ví dụ khi phân tích tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng ta phải xem xét về hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm để từ đó hiểu được hành trình 15 năm lưu lạc của nhân vật Thúy Kiều, hiểu sâu sắc các giá trị tư tưởng mà đại thi hào mang đến. Từ đó có những suy nghĩ, nhận xét và điều chỉnh bài học để phù hợp với thực tiễn cuộc sống hơn.

    Ví dụ 4. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể trong học tập, ta có thể hiểu rõ và sâu sắc hơn vì sao "Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau" ví dụ điển hình là muối ăn, ngày nay muối ăn có giá thành rất rẻ, hầu như ai cũng mua được nhưng vào cuối thế kỷ 6 sau CN, thương nhân ở hạ Sahara (châu Phi) thường đổi muối lấy vàng. Muối cũng được sử dụng như một thứ tiền tệ ở một số nơi trên thế giới, bao gồm cả Ethiopia, phiến muối được gọi là amole dùng làm tiền tệ đến đầu thế kỷ 20.
     
    LieuDuongTiên Nhi thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...