Bài viết: 250 



PHẦN 1: TÁC GIẢ NGUYỄN KHUYẾN
I. Cuộc đời
II. Sự nghiệp văn học
Nguyễn Khuyến có hơn 800 tác phẩm đã được sưu tầm, gồm thơ chữ Nôm, chữ Hán, thơ dịch, câu đối. Nguyễn Khuyến sáng tác cả trong thời gian trước và sau khi về hưu. Các tác phẩm này là tài liệu quý để hiểu biết tâm hồn, tư tưởng, nhân cách và tài năng nhiều mặt của ông.
2. Những nét lớn về nội dung
A) Tâm sự trước thời cuộc
b) Hòa mình vào cuộc sống nông thôn
c) Cảm quan trào phúng
3. Nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến
a) Nghệ thuật thơ chữ Hán
b) Nghệ thuật thơ chữ Nôm

I. Cuộc đời
- Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), hiệu là Quế Sơn, quê làng Và (tên chữ là Vị Hạ), xã Yên Đổ (nay thuộc xã Trung Lương), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng.
- Nối chí tổ tiên, ông đi thi rất sớm nhưng trải qua ba kì thi Hương (1852, 1855, 1858) đều không đỗ. Kiên trì học tập, đến khoa thi năm 1864, ông đỗ đầu cử nhân. Ông đi thi Hội nhưng lại trượt liền hai khoa thi (1865, 1868).
- Đến khoa thi 1871, ông mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội và thi Đình. Đỗ đầu cả ba khoa thi nên Nguyễn Khuyến được tôn vinh là Tam nguyên Yên Đổ.
- Ông đã được triều Nguyễn bổ làm quan trên nhiều cương vị khác nhau.
- Nguyễn Khuyến đi thi và ra làm quan trong một hoàn cảnh lịch sử hết sức phức tạp. Thực dân Pháp đã chiếm đóng Nam Kì năm 1867, đánh chiếm Hà Nội năm 1882, đánh kinh thành Huế năm 1885. Năm 1883, thành Sơn Tây rơi vào tay Pháp, quan đầu tỉnh bỏ chạy, Pháp ép triều Nguyễn tổ chức bộ máy quan lại ở đây.
- Từ năm 1884 cho đến khi qua đời, Nguyễn Khuyến đều sống ở Yên Đổ trong cảnh thanh bần, không cộng tác với giặc Pháp.
II. Sự nghiệp văn học
- Những tác phẩm chính
Nguyễn Khuyến có hơn 800 tác phẩm đã được sưu tầm, gồm thơ chữ Nôm, chữ Hán, thơ dịch, câu đối. Nguyễn Khuyến sáng tác cả trong thời gian trước và sau khi về hưu. Các tác phẩm này là tài liệu quý để hiểu biết tâm hồn, tư tưởng, nhân cách và tài năng nhiều mặt của ông.
2. Những nét lớn về nội dung
A) Tâm sự trước thời cuộc
- Là một nhà nho có nhân cách, Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn để bảo toàn nhân cách đạo đức, nhưng ông không thể không nhận ra sự bất lực của tầng lớp trí thức nho sĩ như mình trước thời cuộc.
- Tâm sự đó cho ta biết vì sao Nguyễn khuyến đã từ quan về ở ẩn, đồng thời cũng cắt nghĩa lí do ông viết những bài thơ tự trào.
- Trong tiếng cười tự trào ẩn chứa nỗi đau mất nước và cảm giác về sự bất lực của tầng lớp trí thức nho sĩ.
b) Hòa mình vào cuộc sống nông thôn
- Nguyễn Khuyến đã hòa mình vào cuộc sống nông thôn như mọi người dân bình thường khác, từ bỏ vị trí của người đứng trên cao nhìn xuống như nhiều nhà nho khác.
- Nguyễn Khuyến tham gia vào cuộc sống nông thôn ở quê ông dưới nhiều hình thức phong phú.
- "Hai trục cảm xúc rất rõ trong thơ Nguyễn Khuyến là quê hương làng nước, là đồng bào nhân dân". (Xuân Diệu)
c) Cảm quan trào phúng
- Nguyễn Khuyến đã hấp thụ cảm quan trào phúng đầy tinh thần dân chủ của văn hóa dân gian.
- Đối tượng trào phúng trong thơ văn Nguyễn Khuyến khá đa dạng.
- Cảm quan trào phúng đã góp phần làm cho sáng tác của ông đậm đà chất hiện thực và phong phú, đa dạng sắc thái thẩm mĩ.
3. Nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến
a) Nghệ thuật thơ chữ Hán
- Ông có một số bài thơ được viết cả bằng chữ Hán và chữ Nôm (hiện tượng song ngữ) rất khó biết là bài chữ Nôm được dịch ra chữ Hán hay ngược lại.
- Nguyễn Khuyến sáng tạo một số từ Hán theo cách tạo nghĩa tiếng Việt thông tục.
- Ông đưa cả nghệ thuật chơi chữ của tiếng Việt vào thơ chữ Hán.
b) Nghệ thuật thơ chữ Nôm
- Nguyễn Khuyến sử dụng các thể loại thơ văn chữ Nôm là thơ Đường luật, hát nói, song thất lục bát và câu đối.
- Phong cách Nguyễn Khuyến trong cả thơ trữ tình và trào phúng đều thiên về thâm trầm, kín đáo, tinh tế. Tình ý của ông thường ẩn kín dưới lớp ngôn từ, khi đã chạm tới được tầng nghĩa đó thì dư vị của tình ý sẽ lắng đọng bền lâu trong tâm trí người đọc.
- Ông đưa nội dung đời sống sinh hoạt hằng ngày vào sáng tác Nôm và sử dụng ngôn từ, thành ngữ, tục ngữ, cách diễn đạt dân gian để chuyển tải nội dung hằng ngày đó. Tiếng Việt trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến đã đạt đến mức điêu luyện mà rất giản dị, trong sáng, dễ hiểu.
Chỉnh sửa cuối: