Soạn bài: Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ngữ văn 11 kết nối tri thức

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 28 Tháng mười hai 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    I. Tri thức ngữ văn

    1. Kí:

    A. Khái niệm:

    Là tên gọi một nhóm các thể, tiểu loại tác phẩm văn xuôi phi hư cấu có khả năng dung hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thông tin.. nhằm tái hiện những trạng thái đời sống đang được xã hội quan tâm và bộc lộ trực tiếp những cảm nghĩ của tác giả.

    B. Tiểu loại: Tùy bút, tản văn, phóng sự, kí sự. Truyện kí, hồi kí, Nhật kí, du kí..

    2. Tự sự và trữ tình trong tùy bút và tản văn:

    A. Tùy bút: Tiểu loại kí có tính tự do cao, bố cục linh hoạt, nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả.

    B. Tản văn: Là tiểu loại kí thường sử dụng đồng thời cả yếu tố tự sự và trữ tình còn có thể kết hợp với nghị luận, miêu tả.. nhằm thể hiện những rung cảm thẩm và quan sát tinh tế của tác giả về các đối tượng đa dạng trong đời sống.

    - >Trong tùy bút, tản văn, yếu tố tự sự và trữ tình luôn có sự kết hợp linh hoạt.

    3. Phi hư cấu và hư cấu trong truyện kí:

    - Truyện kí là dạng kể về người thật, việc thật, tôn trọng sự thật đời sống, đảm bảo tính xác thực.. nên được xếp vào loại phi hư cấu.

    - Yếu tố hư cấu trong truyện kí thể hiện qua cách hình dung, miêu tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật.

    II. Tìm hiểu chung

    1. Tác giả:

    - Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực (lịch sử, địa lí, văn hóa Huế)

    - Chuyên viết về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, với những liên tưởng mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm, tài hoa.

    - "Ai đã đặt tên cho dòng sông" là bài bút kí xuất sắc được viết tại Huế ngày 4.1. 1981, in trong tập sách cùng tên.

    [​IMG]

    2. Tác phẩm:

    A. Xuất xứ: "Ai đã đặt tên cho dòng sống" rút từ tập bút ký cùng tên, được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế ngày 4-1-1981.

    B. Thể loại: Tác phẩm thuộc thể loại bút ký. Nhân vật là "Cái tôi" tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm.

    III. Đọc hiểu chi tiết

    1. Sự kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình trong tùy bút


    A. Hình tượng sông Hương được miêu tả từ nhiều góc nhìn và phân tích cụ thể từng đoạn

    * *Cảm nhận từ dòng chảy địa lý

    * Vùng thượng nguồn:


    - Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khám phá nét đẹp đầy bí ẩn của dòng sông ở vùng thượng nguồn. Ông cho rằng "Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng"

    - Với sự am hiểu của mình, tác giả phát hiện sông Hương ở thượng nguồn mang một nét đẹp bí ẩn. Một loạt tính từ được nhà văn sử dụng "rầm rộ" "mãnh liệt" "cuộn xoáy".. kết hợp với cách ngắt câu ngắn và hình thức điệp cấu trúc đã tạo nên một nhịp văn dồn dập gợi dòng chảy mãnh liệt, tuôn trào của dòng sông. Giữa rừng già của Trường Sơn, sông Hương như đã góp một phần đời mình để tạo nên những cung bậc hùng tráng, nét đẹp nguyên sơ, thuần khiết và trong sáng của núi nước nơi này

    - Nhưng tính cách sông Hương ở thượng nguồn không chỉ đơn giản có thế "cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những rặng dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng". Mãnh liệt rồi lại dịu dàng, phóng khoáng rồi có lúc đắm say. Sự đối lập ấy đã làm rõ nét đẹp của sông Hương ở thượng nguồn

    - Vì vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả sông Hương như "cô gái Digan phóng khoáng và man dại" Với sự so sánh này, dòng chảy Hương giang ở vùng thượng nguồn tưng bừng, chứa đựng những khát khao cháy bỏng như vũ điệu cuồng nhiệt, say đắm đam mê của cô gái Digan.

    - Nếu như dòng sông kín đáo không muốn cho ai thấy được phần sâu thẳm của tâm hồn nên đã "đóng kín lòng mình ở cửa rừng và ném chìa khóa dưới chân núi Kim Phụng" thì chính Hoàng Phủ Ngọc Tường là người tìm được chiếc chìa khóa mở rộng cánh cửa tâm hồn cùa dòng sông. Chiếc chìa khóa ấy là tình yêu, là cái duyên của người con gái Huế với sông Hương để rồi ông đã giúp độc giả khám phá được bề sâu, bề xa của hình tượng thiên nhiên này

    * Vùng trung du

    - Giấu kín một phần đời mình giữa đại ngàn, khi ra khỏi rừng "người con gái Digan" ấy bỗng biến đổi trở thành người đẹp được đánh thức sau giấc ngủ nhiều thế kỉ. Nàng thiếu nữ vươn mình bắt đầu cuộc hành trình tìm về với Huế - với người tình trong mong đợi để trở thành "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở"

    - Quả thực không sai khi nói rằng "Sông Hương đã phải trải qua một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó". Bằng vốn tri thức uyên bác của mình về địa lí của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện cả một cuộc hành trình đầy gian nan nhưng quyết liệt của dòng sông hướng về Huế, giống như bước chân chí tình, mãnh liệt của Kiều khi xưa "xưm xăm băng lối vườn khuya một mình" để tìm đến Kim Trọng. Hành trình ấy, mà ta có thể tạm chia ra làm các chặng

    + Chặng 1: Ở CỬA RỪNG => Trước hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy tình của sông Hương khi ra khỏi rừng. Hương giang bỗng trở nên dịu dàng "Uốn mình theo những đường cong thật mềm" trong sự chuyển dòng tìm đường về Huế. Tác giả quy chiếu sự chuyển dòng dó bằng nét đẹp đầy gợi cảm: Đó là những đường cong thật mềm trên cơ thể của giai nhân Hành trình của sông Hương về với người tình của mình không theo con đường bằng phẳng mà phải vượt qua biết bao rào cản "Sông Hương chuyển dòng một cách liên tục", nhà văn chứng minh qua những thông tin địa lí sinh động: "Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trảm" rồi "nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một đường vòng cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân núi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế" Mỗi một lần chuyển dòng khiến cho dáng vẻ của sông Hương có những nét lượn mềm mại. Nét thướt tha của dòng sông ngỡ như sự vươn mình của người con gái vượt qua mọi trở ngại để tìm đến nơi hẹn hò, đến với thành phố Huế và trở thành người tình chung thủy

    + Chặng 2: TỪ NGÃ 2 TUẦN TỚI CHÂN ĐỒI THIÊN MỤ => Với tình yêu, sự am hiểu về dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn khám phá chiều sâu tâm hồn của Hương giang trong chặng đường về với Huế. Đó là vẻ đẹp hết sức phong phú, đa dạng "từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn – âm hưởng của rừng già, của những dãy núi hùng vĩ vẫn còn thấm sâu trong mạch chảy của dòng sông". Nhưng khi vượt qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trảm "dòng nước lại mang sắc xanh thẳm" – nét đẹp độc đáo. Nếu Nguyễn Tuân khi quan sát dòng sông Đà từ trên cao để thấy nó như "một chiếc dây thừng ngoằn nghèo" hay là vẻ đẹp thướt tha của áng tóc trữ tình tuôn dài, tuôn dài thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của dòng sông khi nó trôi qua những "hai dãy đồi sừng sững thành quách với những điểm cao đột ngột như Vọng cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo". Dòng sông "mềm như một tấm lụa" mà những con thuyền xuôi ngược chẳng khác nào những con thoi đang dệt lên tấm lụa đầy gợi cảm của thiên nhiên đất trời. Một sự liên tưởng thật lí thú!

    Thủy trình của sông Hương xuôi dần về Huế càng gần với người tình mong đợi của mình, người con gái ấy càng thể hiện những tính cách, chiều sâu tâm hồn hòa vào không khí chung của Huế. Đấy là nét đẹp đầy hư ảo khi tấm lụa ấy in bóng "những mảng phản quang đầy màu sắc của những ngọn đồi trên nền trời thiên nhiên thành phố". Đấy là những sắc màu biến đổi thời gian "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím". Sự phản quang của sắc màu tạo nên nét đẹp lung linh, huyền ảo, diễm lệ, trữ tình!

    + Chặng 3: TỪ CHÂN ĐỒI THIÊN MỤ XUÔI DẦN VỀ HUẾ => Nói đến Huế, người ta nói đến thành phố với những lăng tẩm, đền đài, tạo cho Huế không khí trầm mặc, cổ kính. Khi chảy qua "những đám quần sơn lô xô", "những rừng thông u tịnh", Hương Giang mang theo vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi "Dòng chảy thật chậm, thật tĩnh. Dòng sông như sợ mình làm xáo động giấc ngủ ngàn năm cả những bậc vua chúa nơi này. Nhịp chảy trầm mặc mang không khí thâm niên của Hương giang tựa như lời ngợi ca về một miền đất" Bốn bề núi phủ mây phong/Mảnh trăng thiên cổ, bóng trùng vạn niên "

    Vượt qua Thiên Mụ, sông Hương về đến ngoại ô Kim Long. Ở đây" nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non ". Vậy là với quyết tâm và sự chí tình, sông Hương đã nhìn thấy đích đến của mình. Dáng vẻ của con sông được nhà văn tái hiện" sông Hương kéo nét thực thẳng "và ông nhân cách hóa dáng vẻ ấy là sự yên tâm của dòng sông khi biết mình tìm đúng hướng về. Vậy nên, tâm hồn của sông Hương ở vùng ngoại ô Kim Long là nét" vui tươi "đầy sức sống khi nó đi giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô thành phố - Một vẻ đẹp bình yên của tâm hồn!

    * Trong lòng thành phố Huế

    - Rồi sông Hương gặp cầu Trường Tiền, gặp thành phố Huế. Dòng sông cũng đã vươn tới được cái đích của mình. Niềm vui không ồn ào mà lặng lẽ, sâu lắng. Hương giang" uốn một đường cong mềm mại "như chút lẳng lơ, như nét duyên thầm, như làm nũng để hoàn mình vào trong vòng tay của người tình mong đợi. Đường cong ấy được nhà văn miêu tả bằng sự so sánh kì thú" như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu ". Một sự e lệ, kín đáo, một nét duyên thầm của người con gái Huế làm mê đắm lòng người

    - Sông Hương trong lòng thành phố Huế mang một diện mạo vừa hiện đại, vừa cổ kính. Hiện đại là khi tác giả có những liên tưởng giữa sông Hương với sông Xen của Paris và sông Đa nuýp của Bu-đa-pét. Sự so sánh để khẳng định" Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất ". Nhưng khác với sông Xen và sông Đa Nuýp, dòng chảy của sông Hương tronng lòng thành phố Huế" vẫn giữ nguyên dạng đô thị cổ trải dọc hai bên bờ sông ". Vì thế sông Hương in bóng" những cây đã, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy vẫn lập lòe trong đêm sương nững ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện địa nào còn nhìn thấy được ". Khung cảnh ấy khiến cho diện mạo của dòng sông mang một nét đẹp cổ kính, xa xưa. Phải chăng đây là diện mạo riêng của sông Hương mà dòng sông Xen và Đa Nuýp không thể nào có được

    - Giữa vòng tay của Huế, chiều sâu tâm hồn của sông Hương là nét đẹp đằm thắm, lắng sâu. Hoàng Phủ Ngọc Tường lắng chiều sâu ngòi bút của mình để gợi tả dòng chảy của con sông trong lòng thành phố. Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng và trôi thật chậm in bóng cầu Trường Tiền. Tác giả sử dụng sự so sánh tương đồng: Sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Theo tác giả, dòng sông đã thật tâm lí khi trôi chậm qua kinh thành Huế. Dòng chảy như để an ủi người ta đừng quá sầu buồn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Nước sông Hương lặng lờ một cách cố tình để" trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng ". Vẻ đẹp tĩnh lặng của dòng sông vừa được tả bằng thị giác, vừa được tả qua sự liên tưởng phong phú của Hoàng Phủ Ngọc Tường về phong tục, văn hóa Huế

    - Đặc tả chiều sâu tâm hồn của Hương Giang, nhà văn còn so sánh nhịp chảy của Hương giang, nhà văn còn so sánh nhịp chảy của Hương giang với sông Nêva. Nếu như:" Sông Neva chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo "thì sông Hương lại có" điệu chảy lặng lờ khi qua thành phố ". Nhịp chảy của Neva khiến cho con người chưa kịp giãi bày tâm sự của nỗi lòng. Nhịp chảy của những dòng sông như thế khiến Heracrit khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh. Còn dòng chảy của sông Hương khiến cho con người nhìn sâu vào tâm hồn, cảm thấy bao bịn rịn, nhớ thương của một tâm hồn trầm mặc, đằm thắm, lắng sâu. Điệu chảy chẳng khác nào điệu" slow tình cảm dành riêng cho Huế "để rồi lòng người mỗi lần đến Huế thêm dùng dằng, vương vấn, biết mấy bâng khuâng.

    * Khi chia tay Huế

    - Cuộc vui cũng đến lúc kết thúc, cuộc hẹn hò nào rồi cũng phải chia li. Cuộc chia tay giữa sông Hương với kinh thành Huế được nhà văn miêu tả không kém phần bịn rịn. Rời khỏi kinh thành" sông Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre, trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ "

    - Mảnh đất lắm sương nhiều khói của vùng ngoại ô đã khoác lên mình sông Hương nét đẹp mơ màng, huyễn hoặc. Thật bất ngờ" như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặpBao V lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ "Khúc quanh đột ngột này cho người ta cảm nhận rõ sự chí tình, gắn bó của sông Hương với Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường một lần nữa lại dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Nhà văn cho rằng lần gặp lại của sông Hương với Huế" là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu ". Khúc quanh đột ngột này khẳng định nỗi niềm bịn rịn, lưu luyến và gắn bó của sông Hương với thành phố của mình. Thả ngòi bút trong cmả hứng rất phong tình, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng: Sự dùng dằng của sông Hương khi chia tay Huế" như nàng Kiều chí tình quay lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả "

    - Sông Hương nặng một lời thề với con người Huế, với quê hương, xứ sở:" Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ ". Với nghệ thuật nhân hóa, nhà văn của cố đô đã thổi hồn vào dòng sông, tạo nên sự kết nối giữa sông Hương với con người và văn hóa mảnh đất kinh kì.

    ** Cảm nhận về dòng chảy lịch sử

    * Thời chiến


    - Không yên lòng khi khám phá dòng chảy của sông Hương với tư cách là dòng chảy thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử Huế để từ đó khẳng định:" Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc "Một sự liên tưởng, so sánh gợi cho ta nghĩ đến sự hài hòa giữa nét đẹp sử thi với từng chương sử của Huế, của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá vai trò của sông Hương qua hai thời điểm: Sông Hương trong những chặng đường vẻ vang của dân tộc và sông Hương khi trở về với cuộc sống đời thường

    - Qua mỗi giai đoạn lịch sử vẻ vang của đất nước trong thời kì dựng nước và đấu tranh giữ nước, sông Hương" đã sống hết mình với những nhiệm vụ lịch sử vinh quang của nó "

    + Thời đại vua Hùng: Đây là dòng sông biên thùy, là nơi phân chia ranh giới, bờ cõi, lãnh thổ.

    + Thời phong kiến: Thế kỉ 15 với tên gọi là Linh Giang" nó đã oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc ". Đến thế kỉ 18, sông Hương hòa mình trong những chiến công của người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Hương giang đẫm máu những cuộc khởi nghĩa thế kỉ 19.

    + Thời chống Pháp: Đến năm 1945, dòng sông rung chuyển cùng với những chiến công của cuộc cách mạng Tháng Tám.

    + Thời chống Mĩ: Sông Hương không chỉ góp mình làm nên những chiến công của con người và mảnh đất Phú Xuân mà nó còn là nhân chứng lịch sử chứng kiến, sẻ chia nỗi đau oằn mình của Huế dưới sự tàn phá của đế quốc Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân năm 1968. Viết về nỗi đau của Huế trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ngòi bút của nhà văn đi sâu lên án tội ác hủy diệt văn hóa của một vùng đất. Chẳng cần những ngôn từ phẫn nộ, những lời lẽ căm thù Hoàng Phủ Ngọc Tường trích dẫn nguyên văn lời đánh giá của một người Mĩ về sự tàn phá ghê gớm trong sự kiện mùa xuân năm 1968 mà sông Hương là một nhân chứng" các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật và chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng, Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó giống như các thành phố của London, Paris, Berlin.. Một trong số đó đã bị phá hủy lúc thành Nội bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một bảo tàng hay một thư viện Mĩ. Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh Chau Âu khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì bị các nhà thờ bị phá hoại "Với cách diễn đạt khách quan với những tư liệu mang tính trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tăng thêm sức thuyết phục về sức mạnh tố cáo tội ác của chiến tranh mà Huế và sông Hương trở thành nhân chứng muôn đời

    - Ông khẳng định những đóng góp của sông Hương và Huế qua lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp" Lịch sử Đảng đã ghi bằng những nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc ".

    * Cuộc sống đời thường

    - Nếu chiến tranh, trong những năm tháng hào hùng và bi tráng của dân tộc, sông Hương tự hiến đời mình là một chiến công đã ghi những nét son vẻ vang trên trang sử đất nước thì khi trở về cuộc sống đời thường, Hương giang trở thành người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy âm thầm, lặng lẽ giữ gìn nét đẹp văn hóa của Huế - một nhiệm vụ lịch sử trong cuộc sống đời thường. Hoàng Phủ Ngọc Tường như bắt gặp trên sông Hương những sắc màu biến ảo" sớm xanh, trưa vàng, chiều tím "chính là sắc màu trong tấm áo cưới truyền thống xưa của những cô dâu Huế" Màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh châm lồng trên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng bóng người. Thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng ". Mày của sương khói trên sông Hương được nhà văn so sánh" giống như tấm voan huyền ảo tự nhiên sau đó ẩn dấu khuôn mặt thực của dòng sông ". Người con gái dịu dàng Hương giang đã lặng lẽ" gìn giữ một nét đẹp văn hóa xưa, rất xưa của cố đô Huế.

    [​IMG]

    ** Cảm nhận về dòng chảy văn hóa

    * Dòng chảy thi ca


    - "Dòng sông trắng – lá cây xanh" (Chơi xuân – Tản Đà)

    - > Dòng sông với sắc màu biến ảo

    - "Như kiếm dựng trời xanh" (Trường giang như kiếm lập thanh thiên – Cao Bá Quát)

    - > Dòng sông hùng vĩ trong thiên nhiên đất trời bao la

    - "Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

    Tiếng ốc xa đưa vắng trống dồn

    Gác mái ngư ông về viễn phổ

    Gõ sừng mục tửu lại cô thôn" (Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

    Dòng sông mang nỗi quan hoài vạn cổ trong một buổi chiều hôm

    - "Hương giang ơi dòng sông êm

    Quả tim ra vẫn ngày đêm tự tình" (Tố Hữu)

    - > Dòng sông như người tình êm thắm thiết

    - Nhận xét: Sông Hương – Dòng sông không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

    * Dòng chảy âm nhạc

    "Sông Hương đã trở thành một người tài nữa đánh đàn lúc đêm khuya.. Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này"

    - Tác giả tưởng tượng "trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới có sự liên tưởng này

    - Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhớ tới Nguyễn Du "Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều".

    B. Cái "tôi" của tác giả hiện hữu trong văn bản

    - Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất; nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng; lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố.. ; đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát; tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ;..

    C. Sự đan xen kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình

    * Yếu tố tự sự

    + Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu

    + Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng luót trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền qua Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại. Ôi, tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hy Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố..

    - > Tác dụng:

    + Yếu tố tự sự không chỉ vẽ lên trong tâm trí người đọc thuỷ trình của sông Hương khi chảy vào thành phố với những đường nét uốn lượn mềm mại, duyên dáng (một nét thẳng thực yên tâm, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến) mà còn mang đến cho độc giả sự cảm nhận rất rõ về cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với một thành phố chỉ dành riêng cho nó sau rất nhiều gian truân, thử thách trên hành trình.

    + Yếu tố tự sự trong đoạn văn còn được thể hiện qua những liên tưởng thú vị của tác giả về sông Nê-va của Lê-nin-grát; để từ đó, tô đậm điệu chảy lặng lờ, chậm rãi rất riêng của sông Hương.

    * Yếu tố trữ tình

    +.. như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long.

    +.. sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu.

    + Ôi, tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển.

    + Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố.. Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

    - > Tác dụng: Yếu tố trữ tình trong đoạn văn này vừa góp phần khắc họa vẻ đẹp thơ mộng của dòng Hương Giang (qua những liên tưởng độc đáo, lãng mạn: Đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu;.), vừa trực tiếp thể hiện tình cảm của tác giả dành cho dòng sông (ngạc nhiên, thích thú, tự hào khi phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của dòng sông ở đoạn này (đường nét uốn lượn tình tứ, điệu chảy lặng lờ của dòng sông) ; yêu thương, trìu mến trong cách kiến giải cho điệu slow của dòng sông (vì quá yêu thành phố, quá lưu luyến với người tình mong đợi trước khi chia xa).

    - > Nhận xét: Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ trình vừa làm cho hình tượng sông Hương trong đoạn văn trở nên sinh động, gợi cảm vừa trực tiếp bộc lộ tình cảm của tác giả dành cho dòng sông. Với sự xuất hiện của yếu tố tự sự, đoạn văn không chỉ ghi lại thuỷ trình của dòng sông khi chảy vào thành phố mà còn thể hiện được những tình cảm mà Hương Giang dành riêng cho Huế. Vì thế, hình tượng sông Hương hiện lên không đơn thuần là một dòng sông mà đã được nhân hóa như một cô gái Huế e ấp, dịu dàng, duyên dáng với một vẻ đẹp riêng, khó lẫn trong hành trình tìm về với thành phố thân yêu của nó. Những yếu tố tự sự ấy kết hợp những yếu tố trữ tình đã phần nào giúp người đọc hình dung rõ hơn về những tình cảm, cảm xúc của tác giả dành cho sông Hương và xứ Huế.

    2. Đặc điểm ngôn ngữ văn học được thể hiện qua văn bản

    - Xác định một số biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản:

    + So sánh: Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dạ; dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu;..

    + Ẩn dụ: Sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở; sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc;..

    + Nhân hóa: Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc; và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ..

    - Tác dụng:

    + Giàu sức biểu cảm (biểu lộ tình cảm, cảm xúc của tác giả dành cho sông Hương và xứ Huế)

    + Tạo tính đa nghĩa và tính hình tượng cho VB (câu văn/ đoạn văn hàm chứa nhiều tầng ý nghĩa và làm cho hình tượng được miêu tả trở nên sinh động, gợi cảm bởi những liên tưởng bất ngờ, thú vị)

    + Tạo nên được những rung động thẩm mĩ ở người đọc.

    + Khẳng định sự tài hoa, độc đáo của tác giả

    3. Cảm hứng chủ đạo và giá trị văn hóa được thể hiện trong văn bản

    A. Cảm hứng chủ đạo

    - Cảm hứng chủ đạo mà tác giả thể hiện qua văn bản: Ca ngợi vẻ đẹp biến ảo, đầy chất thơ của sông Hương và xứ Huế; yêu tha thiết, đắm say và trân trọng, tự hào đối với những vẻ đẹp nên thơ của thiên nhiên xứ sở, những giá trị lịch sử, bề dày văn hóa và vẻ đẹp tâm hồn của con người ở vùng đất cố đô.

    – Cách thể hiện của cảm hứng chủ đạo ấy trong tác phẩm:

    + Thể hiện qua những từ ngữ, câu văn bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc, nhận xét, đánh giá của tác giả dành cho sông Hương, xứ Huế: Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất; lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố.. ; có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu; có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ;..

    + Thể hiện qua cách tác giả lựa chọn sử dụng từ ngữ, hình ảnh khắc họa hình tượng sống Hương, xứ Huế trong VB: Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn; dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng; uốn mình theo những đường cong thật mềm; dòng sông mềm như tấm lụa; sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long; chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non; dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc;..

    + Thể hiện qua những phát hiện, liên tưởng thú vị, tài hoa, tinh tế và độc đáo của tác giả dành cho sông Hương, xứ Huế: Liên tưởng vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn với hình ảnh một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại và hình ảnh người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở; liên tưởng hành trình sông Hương tìm về với thành phố Huế là hành trình của một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại tìm về với người tình mong đợi của nó; điệu chảy lặng lờ của sông Hương trong lòng thành phố được liên tưởng với điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế;..

    + Thể hiện qua cách nhìn nhận, khám phá đối tượng (hình ảnh sông Hương) ở nhiều góc độ, khía cạnh để phát hiện ra nhiều vẻ đẹp đa dạng của sông Hương. Bộc lộ tình yêu, niềm say mê, gắn bó với thiên nhiên; sự am hiểu sâu sắc, tường tận, uyên bác về thiên nhiên và văn hóa Huế.

    - Nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm:

    + Cảm hứng chủ đạo ấy thể hiện xuyên suốt chiều dài của tác phẩm, được bộc lộ vừa trực tiếp vừa gián tiếp, tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của người đọc khiến độc giả cảm nhận rất rõ tình yêu đắm say, niềm tự hào thương mến của tác giả dành cho dòng sông quê hương.

    + Cảm hứng chủ đạo với những cách thể hiện ấy đã góp phần làm nên chất trữ tình/ chất thơ cho bài tuỳ bút.

    B. Giá trị văn hóa: Vai trò của sông Hương trong tư cách "người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở"

    - Qua cách cảm nhận độc đáo của tác giả, sông Hương được xem là cội nguồn sinh thành và không gian tồn tại của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế: Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. -

    - Không gian bờ sông ấy cũng là nơi lưu giữ một nét văn hóa rất riêng của Huế trong cái sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa:. màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông..

    - Chính vẻ đẹp phong phú, biến ảo của dòng sông đã khiến nó luôn biết cách làm mới mình, từ đó khơi gợi nguồn cảm hứng vô tâm cho các thi nhân: Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

    4. Đặc sắc nghệ thuật:

    - Cách đặt tiêu đề cho tác phẩm: Tiêu đề dưới dạng một câu hỏi tạo hứng thú cho người đọc đi tìm câu trả lời nên buộc phải đọc hết tác phẩm.

    - Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hóa nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân

    - Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như: So sánh, nhân hóa, ẩn dụ..

    - Có sự kết hợp hài hòa cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...