Resident Evil - S.D. Perry

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Đêm Nay, 9 Tháng mười hai 2020.

  1. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 2

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Jill thở phào nhẹ nhõm khi nghe thấy tiếng Wesker trong lúc bước về cánh cửa mở sẵn của văn phòng S. T. A. R. S. Cô đã thấy một chiếc trực thăng cất cánh lúc vừa tới, tưởng rằng họ đã bỏ cô lại. Nói cho cùng thì S. T. A. R. S. Là một tổ chức hoạt động hoàn toàn không theo giờ giấc. Nhưng đồng thời cũng không có chỗ cho những người không theo kịp – mà cô thì rất muốn tham gia vụ này ngay từ đầu. "RPD đã khoanh vùng khu vực tìm kiếm, mở rộng ra khu vực một, bốn, bảy và chín. Đó là tâm điểm chúng ta quan tâm, và đội Bravo sẽ đáp xuống ở đây.." Ít nhất cô cũng không quá trễ, Wesker luôn chủ trì cuộc họp theo một cách - thông báo tin mới, giả thuyết, rồi hỏi và trả lời. Jill hít sâu và bước vào văn phòng. Wesker đang chỉ vào điểm trên bản đồ phía trước căn phòng, những chỗ đánh dấu màu là nơi các thi thể được tìm thấy. Anh ta tiếp tục nói, không hề mảy may bận tâm Jill đang bước nhanh về phía bàn làm việc, cô chợt cảm thấy như trở lại buổi thực tập căn bản và cô đến lớp trễ vậy.

    Chris Redfield thảy cho cô nụ cười nửa miệng lúc cô ngồi xuống, và cô gật đầu trở lại trước khi chú ý vào Wesker. Cô thật sự không quen biết thành viên nào của đội Raccoon đến thế, nhưng Chris thật sự đã làm cô cảm thấy được chào đón ngay khi cô tới đây. ".. sau khi bay qua các vùng tâm điểm khác. Khi họ báo cáo lại, chúng ta sẽ có ý niệm tốt hơn về việc nên tập trung chủ yếu ở đâu." "Nhưng còn về khu biệt thự Spencer thì sao?", Chris hỏi "Nó nằm ngay giữa phạm vi xảy ra vụ án. Nếu bắt đầu từ đó thì có thể chúng ta sẽ phải tiến hành một cuộc lùng sục rộng lớn hơn nữa."

    "Và nếu thông tin của đội Bravo hướng tới khu vực này thì cứ yên tâm, chúng ta sẽ tìm kiếm nó. Bây giờ, tôi không thấy có lý do nào để đặt địa điểm đó lên hàng đầu cả." Chris nhìn ngờ vực: "Nhưng chúng ta chỉ nghe Umbrella nói là ngôi biệt thự đó an toàn.." Wesker dựa vào bàn, khuôn mặt vẫn vô cảm: "Chris, mọi người đều muốn xử lý xong vụ này. Nhưng chúng ta phải làm việc theo đội, và phương thức tốt nhất ở đây là tìm kiếm những người chạy bộ bị mất tích trước khi đưa ra kết luận. Bravo sẽ xem xét tình hình và chúng ta sẽ bắt đầu việc này theo đúng trình tự."

    Chris không tán thành nhưng cũng không nói gì nữa. Jill cố hết sức ngăn mình trừng mắt với Wesker. Bề ngoài thì hắn đang làm theo đúng quy tắc, nhưng cô biết tỏng đây chỉ là một trò bịp bợm do lão Irons giật dây. Irons đã bố trí cho việc này một khoảng thời gian cố định, thông qua đó lão ta sẽ hưởng thụ những cuộc vui trác táng béo bở với tư cách là người chịu trách nhiệm điều tra chính và là người lãnh đạo. Chuyện đó cũng chẳng làm cô để tâm mấy, ngoại trừ việc Wesker cứ ra vẻ mình là một kẻ suy nghĩ độc lập, một kẻ không tham gia vào trò chơi chính trị. Cô gia nhập S. T. A. R. S. Vì không chịu nổi đám quan liêu khốn kiếp chi phối quá nhiều vào lực lượng thi hành công lý, và việc Wesker kéo dài thời gian một cách trắng trợn cho lão ấy thật khiến cho người ta cáu tiết. Thôi nào, đừng quên mày có cơ hội rất lớn vào tù nếu mày không thay đổi nghề đấy.. "Jill, tôi thấy cô đã xoay sở kịp thời gian đến họp rồi. Giờ cho chúng tôi được khai thông với sự sáng suốt của cô đi. Cô có gì cho chúng ta không?" "

    Jill bắt gặp ánh mắt sắc lẹm của Wesker, hắn đang cố tỏ ra điềm tĩnh và lãnh đạm như hắn thường thể hiện." Không có gì mới cả, tôi e là vậy. Manh mối rõ ràng duy nhất là vị trí.. "Cô nhìn xuống mấy mảnh ghi chép trong đống hồ sơ trước mặt cô, nhìn lướt qua chúng tham khảo.

    " Ừm, mẫu mô dưới móng tay của cả Becky McGee và Chris Smith hoàn toàn trùng khớp, chúng ta nhận được thông tin đó hôm qua.. và Tonya Lipton, nạn nhân thứ ba, khi xảy ra vụ án chắc chắn đang đi bộ ở chân đồi, đó là khu vực B.. "Cô ngước lên Wesker và đi tới kết luận:" Giả thuyết của tôi là có khả năng có một giáo phái hiến tế người ẩn nấp ở khu núi này, từ bốn tới mười một thành viên khỏe mạnh, với chó đã được huấn luyện để tấn công bất cứ ai đột nhập vào lãnh địa của chúng. "

    " Và từ đó suy ra? ", Wesker khoanh tay lại, chờ đợi. Ít nhất chẳng ai cười. Jill tiếp tục:" Từ việc chúng ăn thịt người và chặt tay chân gợi đến các nghi thức hiến tế, cũng như những phần thịt thối rữa tìm thấy trên người một số nạn nhân - có vẻ những tên sát nhân đã mang theo trong các cuộc tấn công những phần thi thể của những nạn nhân mà chúng đã giết. Chúng ta có nước miếng và những mẫu mô từ bốn người riêng biệt bị tấn công, mặc dù nếu theo lời khai của nhân chứng thì có tới khoảng 10 hay 11 người. Và những người bị thú giết chết đều được tìm thấy đã chết hoặc bị tấn công trong cùng một vùng, suy ra họ đã đi vào vùng cấm. Theo báo cáo dấu nước miếng là của chó, tuy nhiên vẫn có nhiều bất đồng.. ". Cô ngừng lại, kết thúc bản báo cáo. Wesker vẫn giữ nguyên vẻ mặt nhưng hắn chậm rãi gật đầu:" Không tệ lắm. Thế sơ hở là gì? "

    Jill thở dài. Cô ghét phải tự công kích giả thuyết của chính mình, nhưng đó là một phần của công việc - và thật sự nó khuyến khích lối suy nghĩ chín chắn và rõ ràng. S. T. A. R. S. Huấn luyện các nhân viên phải thử nhiều biện pháp khác nhau để tìm đến sự thật. Cô liếc bản ghi chép lần nữa." Thật khó tin rằng một giáo phái lớn như thế có thể di chuyển xa như vậy, khi mà những tên sát nhân gần đây đã bắt đầu tiến gần đến thành phố; nhất là khi RPD cũng đã thấy rõ các dấu hiệu leo thang của loại nghi thức này. Đồng thời, khám nghiệm tử thi về mức độ bạo lực cho thấy hung thủ tấn công một cách vô tổ chức, và chúng thường hành động một mình. "

    Joseph Frost, chuyên gia phương tiện giao thông đội Alpha nói từ phía cuối phòng:" Về phần bọn thú tấn công thì đúng đấy, bảo vệ lãnh thổ của chúng và chỉ có vậy thôi. "Wesker rút cây viết máy của hắn ra và bước tới cái bảng cạnh bàn hắn làm việc, vừa đi vừa nói:" Tôi đồng ý. "Hắn viết lên một khu vực trên bảng rồi quay lại đối mặt cô:" Còn gì nữa không? "

    Jill lắc đầu, nhưng cảm thấy mừng khi đã đóng góp được chút gì đó. Cô biết về khía cạnh giáo phái là không tưởng, nhưng đó là toàn bộ những gì cô nghĩ ra được. Cảnh sát cũng chẳng nghĩ ra gì hơn. Wesker chuyển sự chú ý của hắn sang Brad Vickers, người đề xuất đó có thể là làn sóng khủng bố mới, và yêu sách sẽ sớm được đưa ra. Wesker lại viết lên một vùng khác trên bảng, nhưng có vẻ không hăng hái lắm về ý kiến này. Cũng như những người khác vậy. Brad nhanh chóng quay lại cái điện đài của mình, kiểm tra tình hình đội Bravo. Cả Joseph và Barry đều không đưa ra giả thuyết nào, và suy nghĩ của Chris về việc giết người đã rõ ràng rồi, thậm chí anh còn mơ hồ tin là có một cuộc tấn công có tổ chức đang diễn ra, và cũng có sự can thiệp của bên ngoài bằng cách nào đó. Wesker hỏi nếu anh có gì mới muốn thêm vào không, và Chris lắc đầu một cách chán nản. Wesker thảy cây viết đen lên bàn, nhìn chăm chú vào khoảng trắng trên bảng." Đó là sự khởi đầu ", hắn nói," Tôi biết các bạn đều đã đọc báo cáo của cảnh sát và nhân viên điều tra, đồng thời đã lắng nghe lời khai của nhân chứng.. "

    " Vickers đây ", Từ phía cuối phòng Brad nói nhỏ vào điện đài, cắt ngang Wesker. Viên đội trưởng hạ giọng và tiếp tục:" Lúc này, chúng ta vẫn không biết chúng ta đang đương đầu với cái gì và tôi biết toàn bộ chúng ta đều.. quan tâm RPD đang đối phó với tình hình thế nào. Nhưng bây giờ chúng ta đang lo liệu vụ này, tôi.." "Cái gì?"

    Nghe Brad lên giọng, Jill và những người khác quay về phía cuối phòng. Cậu ta đang đứng, kích động, một tay ấn vào phần tai nghe: "Đội Bravo, trả lời đi. Nhắc lại, đội Bravo, trả lời đi!" "Wesker đứng dậy:" Vickers, chuyển qua máy ngay! "

    Brad ấn nút chuyển trên bảng điều khiển và âm thanh của sự im lặng tràn ngập căn phòng. Jill bồn chồn chờ đợi tiếng ai đó, nhưng trong vài giây căng thẳng, chẳng có gì cả. Và rồi:".. nghe không? Trục trặc, chúng tôi sắp phải.. "Sau đó chỉ còn âm thanh tĩnh lặng. Giọng đó nghe như Enrico Marini, trưởng đội Bravo. Jill cắn môi dưới và trao đổi cái nhìn lo lắng với Chris. Enrico có vẻ.. hoảng loạn. Họ lắng nghe thêm một lúc nhưng chẳng có gì ngoài tiếng chân không.

    " Vị trí? ", Wesker gắt. Mặt Brad tái nhợt:" Họ ở khu vực hai mươi hai, khúc đuôi của C.. ngoại trừ việc tôi mất tín hiệu rồi. Bộ phận liên lạc không hoạt động. "Jill choáng váng, thấy gương mặt những người khác đều có chung tâm trạng. Bộ phận liên lạc của máy bay được thiết kế để hoạt động trong mọi hoàn cảnh, nó chỉ ngưng trong những trường hợp bất khả kháng – hệ thống chính bị phá hủy hoặc bị hư hại trầm trọng.

    Như là một vụ va chạm. Chris thấy bụng thắt lại khi nhận ra tọa độ. Khu biệt thự Spencer.

    Marini đã nói gì đó về trục trặc, hẳn là trùng hợp thôi - nhưng có vẻ không trùng hợp tí nào. Đội Bravo gặp rắc rối, và ngay trên tòa biệt thự cũ của Umbrella. Mọi chuyện lướt qua đầu anh trong một lúc, và rồi anh đứng thẳng lên, sẵn sàng xuất phát. Dù chuyện gì xảy ra, mỗi thành viên S. T. A. R. S. Có thể tự lo cho mình. Wesker đã sẵn sàng hành động. Hắn điểm danh cả đội, cùng lúc rút chìa khóa đi về phía tủ súng." Joseph, cố liên lạc với họ. Vickers, khởi động trực thăng và dọn khoang đi, tôi muốn chúng ta sẵn sàng cất cánh trong năm phút. "

    Tên đội trưởng mở tủ lúc Brad đưa điện đài cho Joseph và đi nhanh ra khỏi phòng. Cánh cửa kim loại gia cố mở tung, bên trong là một kho súng trường và súng ngắn trên đống hộp đạn. Wesker quay lại phía họ, khuôn mặt vẫn vô cảm như thường lệ nhưng giọng hắn đầy uy quyền:" Barry, Chris. Tôi muốn hai anh mang vũ khí lên trực thăng, phải nạp đạn và đảm bảo an toàn. Jill, lấy trang bị, áo vest và gặp chúng tôi trên mái nhà. "Hắn gỡ chìa khóa ra khỏi vòng rồi thảy cho cô." Tôi sẽ gọi Irons, đảm bảo ông ta sẽ chuẩn bị đội tiếp viện và lực lượng cứu hộ khẩn cấp ", Wesker nói, rồi bất chợt chuyển giọng sắc lẹm," Trong vòng năm phút, các cậu. Bắt đầu thôi. "

    Jill đi tới phòng chứa đồ và Barry vớ một trong đám bao vải len thô dưới tủ súng, gật đầu với Chris. Chris lấy cái bao thứ hai và bắt đầu chất vào những hộp đạn và băng trong khi Barry cẩn thận nạp đầy vũ khí, kiểm tra từng cái một. Đằng sau họ, Joseph tiếp tục liên lạc với đội Bravo nhưng vô vọng. Chris lại suy nghĩ về địa điểm cuối nhận được tín hiệu của đội Bravo đến biệt thự Spencer. Liệu có mối quan hệ nào không? Và nếu có, làm cách nào? Billy đã làm việc cho Umbrella, họ sở hữu căn biệt thự." Sếp hả? Wesker đây. Chúng tôi vừa mất liên lạc với đội Bravo, Tôi cho đội của tôi xuất phát đây. "

    Chris chợt thấy rùng mình và làm nhanh tay hơn, nhận thức rằng mỗi giây trôi qua đều có thể là thời khắc sinh tử với những người bạn và đồng đội của anh. Có thể đó không phải là một vụ va chạm nghiêm trọng, đội Bravos có thể bay thấp xuống và Forest là một phi công khá.. nhưng chuyện gì xảy ra sau khi họ đáp xuống? Wesker nhanh chóng chuyển thông báo cho Irons qua điện thoại và gác máy, quay lại gia nhập họ:" Tôi sẽ lên kiểm tra để chắc chắn trực thăng của chúng ta đã ổn. Joseph, cố gắng giữ liên lạc thêm một phút nữa rồi chuyển cho những người ở bàn tiếp tân. Cậu có thể giúp hai người này mang đồ lên. Tôi sẽ gặp cậu trên đỉnh. "

    Wesker gật đầu với họ rồi bước nhanh ra, tiếng bước chân của hắn vang ầm ĩ suốt hành lang." Hắn khá đấy ", Barry nói nhỏ, và Chris phải đồng ý. Thật yên lòng khi đội trưởng mới của họ không bị lay động dễ dàng. Chris vẫn chưa chắc anh cảm thấy thế nào về tính cách của người này, nhưng lòng kính phục của anh đối với Wesker cứ tăng dần từng phút." Trả lời đi, Bravo, có nghe thấy không? Lặp lại.. "

    Joseph kiên nhẫn tiếp tục, giọng anh đầy căn thẳng, lời van nài của anh biến mất vào những âm thanh đều đều vang khắp phòng. Wesker sải bước xuống hành lang vắng vẻ và qua tấm màn sáo phòng đợi tầng hai, hắn gật đầu với hai nhân viên mặc đồng phục đang nói chuyện cạnh máy soda. Cửa sổ ra sân đáp ngoài mở toang, một ngọn gió yếu ớt và ẩm ướt xé toang sự ngột ngạt của không khí bên trong. Vẫn còn là ban ngày, nhưng không lâu nữa. Hắn hi vọng chuyện đó sẽ không ảnh hưởng gì, mặc dù hắn nhận ra nó sẽ..

    Wesker rẽ sang trái và hướng về phía cửa cánh cửa cuốn hướng ra sân trực thăng, lơ đãng lướt qua danh mục những thứ cần kiểm tra trong đầu.. hệ thống đóng mở, vũ khí, dụng cụ, báo cáo.. Hắn biết mọi thứ đều ổn, nhưng vẫn kiểm tra lại, nó đâu có được tạo ra để hoạt động ỳ ạch, và nếu nó chỉ có ổn bề ngoài thôi thì đó là bước đầu tiên xuống con đường diệt vong. Hắn thích nghĩ hắn là con người chính xác, người đã suy nghĩ mọi khả năng có thể và quyết định cách tốt nhất để hành động sau khi cân nhắc kỹ lưỡng mọi khả năng. Điều khiển là toàn bộ việc một người lãnh đạo đủ khả năng phải làm.

    Nhưng để giải quyết vụ này.. Hắn dập tắt ngay suy nghĩ trước khi nó tiến xa hơn. Hắn biết phải làm gì, và vẫn còn khối thời gian. Tất cả những gì hắn cần làm bây giờ là đưa đội Bravo trở về, an toàn và khỏe mạnh. Wesker mở cánh cửa phía cuối hành lang và bước ra ngoài màn đêm rực rỡ, tiếng máy trực thăng ngày một to và mùi dầu máy tràn vào mũi hắn. Cái sân trực thăng nhỏ mát hơn bên trong, một phần được bao phủ bởi bóng tòa tháp nước cũ kỹ, chiếc trực thăng màu đen xám của đội Alpha đứng trơ trọi giữa cái sân trống. Lần đầu tiên, hắn tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra với đội Bravo, hắn đã cho Joseph và mấy tân binh kiểm tra hai con chim sắt hôm qua và chúng đều ổn, hệ thống hoạt động tốt. Hắn đuổi đi dòng suy nghĩ và đi về chiếc trực thăng, bóng hắn trải dài trên nền bê tông. Vì sao thì cũng chẳng quan trọng nữa, chẳng cần nữa. Điều quan trọng là điều gì sẽ xảy ra tiếp. Trông đợi những chuyện không thể ngờ là khẩu hiệu của S. T. A. R. S, mặc dù ý nghĩa cơ bản là sẵn sàng cho mọi tình huống.

    Chẳng trông đợi gì cả, khẩu hiệu của Albert Wesker là thế. Như thế sẽ ít đánh lừa chính bản thân hơn, có lẽ, nhưng chắc chắn hữu dụng hơn. Thật sự chắc chắn là chẳng có gì làm hắn ngạc nhiên cả. Hắn bước vào cánh cửa buồng lái đang mở và làm Vickers giật bắn lên, cậu ta trông xanh xao rõ ràng, và Wesker cân nhắc xem có nên bỏ cậu ta lại không. Chris có bằng lái máy bay trong khi Vickers nổi danh là chết ngạt dưới mũi súng, điều tồi tệ nhất trong tất cả những gì hắn nghĩ ra lúc này là một trong số người của hắn chết đứng vì sợ lúc gặp rắc rối. Rồi hắn nghĩ tới đội Bravo bị thất lạc và quyết định ngược lại. Đây là nhiệm vụ giải cứu. Điều tồi tệ nhất Vickers có thể làm là nôn mửa nếu chiếc trực thăng đã va chạm nặng nề, và Wesker có thể chịu đựng được. Hắn mở cửa hông và trèo vào cabin, làm một cuộc kiểm tra nhanh những dụng cụ trên thành. Pháo hiệu cấp cứu, thực phẩm.. hắn bật nắp tủ đồ nổi, nặng phía dưới sau băng ghế kiểm tra lượng thuốc cơ bản trong tủ, gật đầu với chính hắn. Chúng đã sẵn sàng như họ vậy..

    Wesker đột nhiên cười nhếch mép, tự hỏi không biết Brian Irons đang làm gì. Đang đi ra quần, không nghi ngờ gì. Wesker phì cười rồi lại bước ra ngoài lên lớp nhựa đường khô cứng, tưởng tượng rõ ràng hình ảnh của Irons, cặp má phệ của lão đỏ lên vì giận và phân chảy giọt xuống chân lão. Irons nghĩ rằng lão có thể điều khiển mọi thứ và mọi người xung quanh để rồi mất bình tĩnh khi thấy mình không thể làm được điều đó, cuối cùng lão tự biến mình thành tên ngốc. Không may cho bọn họ, lão là tên đần độn với một chút quyền hành. Wesker đã kiểm tra lão rõ ràng trước khi nhận nhiệm vụ ở thành phố Raccoon, và biết được vài điều lão không bao giờ dám phơi bày ra ánh sáng. Hắn không có ý định dùng những thông tin đó, nhưng nếu Irons định làm rối mọi chuyện thêm lần nữa thì Wesker sẽ không e ngại mà tung những thông tin đó ra..

    ".. hoặc ít nhất bảo cho lão biết mình có những bí mật nho nhỏ của lão, chắc chắn lão sẽ không dám cản đường nữa. "Barry Burton đặt chân lên sàn bê tông với những túi đạn dự trữ, bắp tay khổng lồ của anh căng lên khi anh đổi cái bao nặng sang tay kia và bắt đầu tiến đến chiếc trực thăng. Chris và Joseph theo sau, Chris mang đống vũ khí đeo bên sườn còn Joseph kéo lê mấy khẩu rocket chống tăng cầm tay, khẩu súng phóng lựu ở một bên vai. Wesker ngạc nhiên trước sức mạnh của Burton khi anh leo vào và đặt cái bao xuống như thể nó không nặng tới hơn một trăm pounds vậy. Barry cũng không kém phần thông minh, nhưng ở S. T. A. R. S, cơ bắp là một thứ tài sản rõ ràng hữu dụng. Mọi người khác trong đội của hắn đều khỏe mạnh, nhưng nếu so với Barry thì họ chỉ như cổ mấy cây bút chì thôi. Lúc ba người họ lấy đồ trang bị, Wesker chuyển sự chú ý của hắn về phía cửa, tìm kiếm Jill. Hắn kiểm tra đồng hồ và cau mày. Chưa tới năm phút kể từ lần liên lạc cuối của họ với Bravo, họ đã thực hiện xuất sắc trong thời gian ngắn.. vậy Valentine ở đâu rồi?

    Hắn vẫn chưa nói gì nhiều với cô từ khi cô tới Raccoon, nhưng hồ sơ của cô quả là hiếm. Cô nhận được sự đề bạt cao từ toàn bộ những người cô đã làm việc chung, được đội trưởng trước của cô khen ngợi là rất thông minh và bình tĩnh đến độ" bất thường"khi xảy ra khủng hoảng. Cô phải như thế thôi, với quá khứ của cô. Cha cô là Dick Valentine, tên trộm chuyên nghiệp nhất khoảng vài thập kỷ trước. Ông đã huấn luyện cô theo con đường của ông, và cô đã làm rất tốt cho tới khi cha cô bị bỏ tù.. Phi thường hay không cũng thế, cô vẫn có thể đứng sắp hàng để mua một cái đồng hồ tươm tất. Hắn thầm giục Jill đến mau và ra hiệu cho Vickers khởi động cánh quạt. Đã tới lúc tìm hiểu xem chuyện xảy ra ngoài kia tồi tệ đến cỡ nào..
     
    Ezio. thích bài này.
  2. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 3

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Jill hướng về phía cửa phòng chứa đồ tối lờ mờ và im lặng của S. T. A. R. S, tay mang hai bao da căng phồng. Cô đặt chúng xuống và nhanh chóng vén tóc ra sau, nhét vào dưới chiếc mũ nồi đen cũ. Thật sự là rất nóng, nhưng nó là chiếc mũ may mắn của cô. Cô liếc đồng hồ trước khi xách hai cái bao lên, hài lòng khi thấy mình chỉ mất có ba phút để lấy đồ.

    Cô đã mở tủ toàn bộ thành viên Alphas, lấy đai lưng, bao tay không ngón, để ý thấy mỗi tủ đều phản ánh tính cách chủ nhân của nó: Barry dán đầy tủ của mình những bức ảnh gia đình và một tấm ảnh cắt ra từ tạp chí về súng, khẩu 45 Luger hiếm, sáng lấp lánh trên nền vải nhung đỏ. Tủ Chris thì có mấy tấm hình người bạn của anh hồi còn trong Không Quân, còn mấy cái kệ thì đầy áo sơmi nhăn nhúm, giấy rời, cả cái yoyo phát sáng bị đứt dây. Brad Vickers thì có cả một đống sách tự lực và Joseph thì một tấm lịch Three Stooges. Riêng tủ của Wesker thì chẳng có gì nói lên tính cách chủ nhân của nó cả. Không hiểu sao điều này chẳng làm cô ngạc nhiên. Cô luôn cảm giác có một vết thương sâu kín nào đó chi phối rất lớn đến cảm xúc của viên đội trưởng.

    Tủ của cô có một đống tiểu thuyết về tội phạm, một cái bàn chải đánh răng, quần áo vải sồi, kẹo ngậm, và ba cái mũ. Ở trên cánh cửa là một tấm gương và tấm ảnh cũ, nhạt màu của cô và bố cô khi cô còn nhỏ lúc họ tới bãi biển vào mùa hè. Cô vừa nhanh chóng gom đồ của đội Alpha lại vừa quyết định sẽ bố trí lại tủ của mình khi có thời gian rảnh, kẻo ai đó nhìn vào tủ cô có thể nghĩ cô là kẻ quái dị thích đánh răng. Jill cúi xuống mò mẫm cái chốt cửa, cỗ gắng giữ thăng bằng bên chân đang đứng thẳng. Cô túm được nó vừa lúc có người ho lớn đằng sau.

    Giật mình, Jill làm rớt hai cái giỏ và quay lại tìm xem kẻ đó là ai, đồng thời tâm trí cô nhanh chóng xem xét tình hình. Cửa khóa, căn phòng nhỏ có ba dãy tủ, khi cô vào thì nó tối và yên lặng. Có một cánh cửa khác ở cuối phòng, nhưng chưa có ai bước qua đó từ khi cô vào.

    "Tức là ai đó đã ở đây khi mình vào, nấp trong bóng tối đằng sau dãy cuối cùng. Một viên cảnh sát chợp mắt ở đây chăng?"

    Không hẳn vậy. Phòng ăn của tòa nhà có cả đống giường ngủ phía sau, dễ chịu hơn hẳn băng ghế hẹp trên nền đất lạnh.

    Vậy có lẽ ai đó đang thưởng thức một chút thời gian rỗi với tờ tạp chí, đầu cô rối tung, có đáng quan tâm không chứ? Mày đang chạy đua với thời gian đấy, đi mau lên! Jill xách hai cái túi lên và cất bước đi ra.

    "Cô Valentine, đúng không?". Cái bóng tách mình ra khỏi phía cuối căn phòng và bước ra phía trước, người đàn ông cao với giọng nói êm dịu. Khoảng bốn mươi tuổi, thân hình mảnh khảnh, tóc đen và đôi mắt sâu. Ông ta đang mặc một áo khoác bó người, một cái đắt tiền là khác.

    Jill chuẩn bị sẵn sàng nếu cần đối phó. Cô không nhận ra ông ta.

    "Phải". Cô nói thận trọng.

    Người đàn ông bước về phía cô, nụ cười nở trên mặt: "Tôi có vài thứ cho cô đây", ông ta nói nhỏ.

    Jill nheo mắt và tự động chuyển qua thế phòng thủ, cân bằng sức nặng cơ thể trên đôi chân.

    "Đợi đã, quý ông, tôi không biết ông nghĩ ông là cái quái gì hay ông biết tôi muốn cái gì, nhưng ông đang trong sở cảnh sát.."

    Cô ngừng lại khi ông ta lắc đầu, càng giãn rộng nụ cười, đôi mắt đen lấp lánh vui vẻ:

    "Cô hiểu lầm ý tôi rồi, cô Valentine. Tha lỗi vì thái độ của tôi. Tôi tên Trent, và tôi là.. một người bạn của S. T. A. R. S."

    Jill nhìn kĩ tư thế và dáng điệu của ông ta rồi chậm rãi đứng thẳng lên nhìn sâu vào đôi mắt, dò tìm một mưu đồ gì đó. Chính xác cô cũng chẳng cảm thấy bị ông ta đe dọa..

    ".. nhưng làm cách nào ông ta biết tên của mình?"

    "Ông muốn gì?"

    Trent lại nhếch mép rộng hơn:

    "À, đi thẳng vào vấn đề. Nhưng tất nhiên rồi, cô đang gấp mà.."

    Ông chậm rãi đưa tay vào áo khoác rồi lôi ra cái gì đó giống như một chiếc điện thoại di động.

    "Mặc dù nó không phải là thứ tôi muốn đưa cho cô lắm nhưng nó quan trọng đấy. Tôi nghĩ cô nên mang nó theo."

    Jill liếc qua món đồ ông ta đang cầm, hơi cau mày:

    "Cái đó ư?"

    "Phải. Trong đó có vài tài liệu cô có thể sẽ quan tâm, hấp dẫn thì đúng hơn". Vừa nói ông vừa chìa thiết bị ra.

    Cô thận trọng cầm lấy, nhận ra nó là một máy đọc đĩa mini, một cái máy vi tính quý giá phức tạp và đắt tiền. Dù Trent là ai đi nữa ông ta cũng là một người giàu có.

    Jill bỏ cái máy đặt vào túi bên hông, bất chợt tò mò.

    "Ông làm việc cho ai?"

    Ông ta lắc đầu.

    "Chuyện đó không quan trọng vào lúc này. Dù sao tôi cũng muốn nói là hiện tại có rất nhiều nhân vật rất quan trọng đang theo dõi thành phố Raccoon."

    "Ồ? Và những người đó có là" 'bạn' "của S. T. A. R. S. Không, Ông Trent?"

    Trent bật cười, nhẹ và sâu.

    "Có quá nhiều câu hỏi mà lại có quá ít thời gian. Cô hãy đọc những tài liệu đó đi. Và nếu tôi là cô, tôi sẽ không cho ai biết về cuộc trò chuyện này, nếu không hậu quả sẽ rất nghiêm trọng."

    Ông ta đi về phía cửa sau căn phòng, quay lại phía cô còn tay thì vặn nắm cửa. Giọng và gương mặt Trent đột nhiên mất hết vẻ hóm hỉnh, cái nhìn đầy nghiêm nghị và dữ dội:

    "Một điều nữa, cô Valentine, và cực kì quan trọng, đừng vấp phải sai lầm, không phải ai cũng có thể tin tưởng được, và không phải ai cũng có bộ mặt thật như họ thường biểu lộ, kể cả những người cô nghĩ cô biết rõ. Nếu cô muốn sống sót, cô nên nhớ rõ điều đó."

    Trent mở cửa bước ra và cứ như thế ông ta đã biến mất.

    Jill nhìn theo hướng ông ta, tâm trí cô chạy ngược chạy xuôi. Cô cảm thấy như mình đang ở trong một phim trinh thám cổ điển và vừa gặp một người lạ mặt bí hiểm.

    "Thật đáng buồn cười, thế nhưng ông ta vừa đưa cho mày mấy món đồ đáng giá vài trăm dollar một cách thản nhiên và kêu mày cẩn thận, mày nghĩ ông ta đang đùa hả?"

    Cô không biết phải nghĩ gì, và cô cũng chẳng có thời gian để nghĩ, đội Alpha có lẽ đã chuẩn bị xong, đang đợi, và suy nghĩ xem cô đang ở chỗ quái quỷ nào. Jill vác hai cái bao nặng lên rồi bước nhanh ra cửa.

    Họ đã chuẩn bị vũ khí sẵn sàng và Wesker đang dần mất bình tĩnh. Mặc dù đôi mắt hắn bị che khuất sau đôi kính đen nhưng Chris có thể thấy được điều đó qua dáng đứng của tên đội trưởng và cách hắn cứ nghếch đầu về phía tòa nhà. Chiếc trực thăng đã chuẩn bị sẵn sàng, cánh quạt thổi làn gió ấm và ẩm ướt vào tòa nhà chật hẹp. Cánh cửa để mở khiến tiếng động cơ nhấn chìm bất kỳ ý định trò chuỵện nào. Chẳng còn gì để làm ngoài chờ đợi.

    "Coi nào Jill, đừng làm chúng ta chậm lại chứ.."

    Vừa lúc Chris nghĩ thế, Jill xông ra từ tòa nhà và đi nhanh về phía họ với đống đồ của đội Alpha, khuôn mặt lộ vẻ xin lỗi. Wesker nhảy xuống giúp cô, đỡ lấy một cái bao da lúc cô leo vào.

    Wesker theo sau, đóng cái cổng đôi lại phía sau họ. Lập tức, tiếng gào rú của động cơ im bặt, thay vào đó là tiếng cánh quạt quay.

    "Có vấn đề sao Jill?". Giọng Wesker không có vẻ giận dữ, nhưng từ một góc của nó cũng đủ biết hắn cũng không vui.

    Jill lắc đầu: "Một cái cửa tủ bị kẹt. Tôi tốn thời gian để làm cái chìa khóa tra vào lỗ hoạt động được."

    Tên đội trưởng nhìn cô một lúc, và như quyết định không làm khó dễ cô nữa rồi nhún vai: "Tôi sẽ gọi bảo trì khi chúng ta quay lại. Cứ phát đồ cho mọi người đi."

    Hắn đeo một cái điện đài vào và ngồi cạnh Brad trong khi Jill bắt đầu chuyền áo vest. Chiếc trực thăng từ từ lên cao, tòa nhà RPD dần thu nhỏ lại khi Brad chuyển hướng lái tới phía tây bắc. Chris bò lại cạnh Jill sau khi mặc xong áo và giúp cô xếp lại đám thắt lưng và găng tay cùng lúc họ tăng tốc bay trên thành phố hướng về dãy núi Arklay. Con đường đô thị sầm uất bên dưới nhanh chóng nhường chỗ cho vùng ngoại ô, các con đường rộng và những ngôi nhà ở giữa các ô vuông cỏ nâu và hàng rào. Sương mù màn đêm phủ xuống khu công nghiệp đang phát triển nhưng biệt lập, làm náo động lên một góc của cảnh vật và cho nó một không khí vô thực như trong mơ. Nhiều phút trôi qua trong yên lặng, đội Alpha tự chuẩn bị và thắt dây an toàn, mỗi người đều bận tâm với suy nghĩ riêng của mình.

    Với chút may mắn nào đó, trực thăng của đội Bravo chỉ bị hư hại máy móc nhỏ. Forest chắc đã hạ cánh xuống một cánh đồng không bằng phẳng khuất trong rừng rậm và có lẽ đang chống tay lên cằm, nguyền rủa cái động cơ chết tiệt trong lúc họ đợi đội Alpha xuất hiện. Con chim sắt không hoạt động thì Marini không thể bắt đầu cuộc tìm kiếm theo kế hoạch được. Ngoài ra..

    Chris nhăn mặt, không muốn nghĩ tới khả năng khác. Anh đã một lần thấy hậu quả của vụ va chạm trực thăng nghiêm trọng hồi trước khi còn ở không quân. Sai lầm của viên phi công đã dẫn đến việc Huey mất điều khiển mang theo mười một người cả nam và nữ trong nhiệm vụ huấn luyện. Khi đội cứu hộ tới nơi thì chẳng còn gì ngoài những khúc xương đã thành than đang bốc khói giữa đám đổ nát đang bốc cháy, mùi ngọt nồng của thịt nướng bằng xăng nồng nặc trong không gian đen kịt. Cả mặt đất cũng bốc cháy, và hình ảnh đó đã ảm ảnh anh trong giấc mơ nhiều tháng sau đó, mặt đất bốc cháy, ngọn lửa hóa chất nuốt chửng từng tất đất phía dưới chân Chris..

    Brad xoay cần lái làm họ hơi nghiêng xuống, lôi Chris ra khỏi dòng suy tưởng về những quá khứ không vui. Quang cảnh xơ xác rừng Raccoon trôi qua bên dưới, chấm vàng từ hàng rào chặn của cảnh sát đứng trơ trọi giữa màu xanh của đám lá cây. Hoàng hôn cuối cùng cũng bắt đầu, khu rừng như dày thêm trong bóng tối.

    "BETA.. ba phút", Brad gọi lại, và Chris nhìn quay cabin, để ý thấy vẻ mặt im lặng, căng thẳng của đồng dội, Joseph đã cột cái khăn lên đầu, đang thay giày. Barry đang nhẹ nhàng chùi khẩu Colt Python yêu dấu của mình, nhìn ra ngoài cửa khoang. Chris quay sang phía Jill và bất ngờ thấy cô đang nhìn anh trầm ngâm. Cô đang ngồi cùng một băng ghế với anh và cô cười trừ, gần như bồn chồn khi Chris bắt gặp cái nhìn của cô. Bất ngờ cô tháo thắt lưng rồi nhích lại ngồi gần Chris. Anh cảm nhận được mùi hương phảng phất từ da cô, một mùi xà phòng rõ ràng.

    "Chris.. về những gì anh đã nói, về những lực lượng bên ngoài trong những vụ này.."

    Giọng cô hạ xuống nhỏ đến nỗi anh phải ghé sát vào bất chấp tiếng ầm ĩ của động cơ. Cô liếc nhanh qua những người khác, như thể để chắc chắn không ai nghe thấy họ, rồi nhìn thẳng vào mắt anh, còn đôi mắt cô thì dè chừng cảnh giác.

    "Em nghĩ anh đã đi đúng hướng", cô nói nhẹ, "và em bắt đầu nghĩ không phải là ý kiến hay nếu cứ tiếp tục nói về nó."

    Cổ họng Chris chợt khô lại: "Có chuyện gì xảy ra à?"

    Jill lắc đầu, khuôn mặt như được chạm trổ ấy chẳng biểu lộ điều gì.

    "Không. Em chỉ nghĩ là anh nên thận trọng những gì anh nói. Có lẽ không phải tất cả những người lắng nghe anh nói đều ở cùng phe.."

    Chris cau mày, không rõ cô định nói gì với anh.

    "Những người duy nhất anh đã nói về chuyện này đều đang thi hành nhiệm vụ cả."

    Cái nhìn của cô vẫn không dao động, bất chợt anh nhận ra cô đang muốn nói gì.

    "Vì Chúa, và mình nghĩ mình bị hoang tưởng!"

    "Jill, anh biết những người này, mà kể cả khi anh không quen biết họ thì S. T. A. R. S. Vẫn có hồ sơ tâm thần của từng thành viên, quá khứ, tính cách. Không đời nào chuyện đó có thể xảy ra đâu."

    Jill thở dài: "Thôi, quên những gì em nói đi. Em chỉ.. nhớ cẩn thận, thế thôi."

    "Được rồi, mọi người, quan sát kỹ vào! Chúng ta đang tới khu vực hai mươi hai, có thể ở bất cứ đâu."

    Bị Wesker ngắt ngang, Jill ném cho hắn cái nhìn sắc bén trước khi di chuyển tới một trong những cái cửa sổ. Chris theo sau, Joseph và Barry tìm kiếm qua cửa sổ phía bên kia.

    Nhìn ra ngoài cái cửa sổ nhỏ, Chris tự động đưa tầm mắt quét qua hoàng hôn đang xuống dần, nghĩ về những gì Jill vừa nói. Đáng lẽ anh nên mừng là không chỉ mình anh nghi ngờ có một vụ dàn xếp sau chuyện này, nhưng tại sao trước đó cô không nói gì cả?

    Và lại cảnh giác anh về S. T. A. R. S..

    Cô ấy biết chuyện gì đó.

    Cô ấy có lẽ biết, đó là giải thích hợp lý duy nhất. Chris quyết định sau khi họ đón đội Bravo, anh sẽ nói chuyện với cô lần nữa, cố thuyết phục cô là nói thẳng với Wesker là giải pháp tốt nhất của họ. Nếu cả hai cùng ép thì đội trưởng có lẽ phải nghe.

    Anh đưa mắt ra biển cây tưởng chừng như vô tận vừa lúc chiếc trực thăng hạ thấp xuống, cố gắng ép mình chú ý tới cuộc tìm kiếm. Tòa biệt thự Spencer chắc gần đây thôi dù anh không thể thấy nó trong qua ánh sáng ban ngày đang tắt dần. Suy nghĩ về Billy, Umbrella rồi bây giờ là lời cảnh báo kì lạ của Jill cứ xoay vòng đe dọa ngắt sự tập trung của anh, nhưng anh quyết không để nó làm thế. Anh vẫn còn đang lo về đội Bravo – dù khi từng hàng cây trôi qua, anh càng cảm thấy chắc rằng họ không gặp phải vấn đề nghiêm trọng nào. Có thể chỉ là chập mạch, Forest tắt máy để sửa.

    Rồi Chris thấy cách đó một dặm, kể cả Jill cũng chỉ vào và lên tiếng, mối lo ngại của anh đã biến thành sự thật.

    "Nhìn kìa, Chris!"

    Một cột khói đen xộc thẳng lên trời qua những tia nắng còn sót lại của buổi chiều, nhuộm đen bầu trời như lời hứa hẹn của thần chết.

    " "Ôi, không!" "

    Barry nghiến chặt răng, nhìn vào dòng khói bay lên từ những hàng cây, cảm thấy buồn nôn.

    " Đội trưởng, hướng hai giờ! ", Chris gọi, và họ xoay qua phía đó, hướng về mảng khói đen chỉ có thể là một vụ va chạm.

    Wesker quay trở lại cabin, vẫn mang kiếng. Hắn bước tới cửa sổ và nói nhỏ, giọng hắn như muốn xoa dịu." Hãy hy vọng họ không gặp phải điều tồi tệ nhất. Có khả năng xảy ra vụ cháy sau khi họ hạ cánh, hoặc họ cố tình đốt lửa để làm tín hiệu." "

    Barry ước gì họ có thể tin Wesker, nhưng ngay cả Wesker cũng biết rõ điều đó thật khó tin. Nếu trực thăng tắt máy thì khó mà phát lửa được, và nếu đội Bravos muốn ra hiệu, họ có thể dùng pháo sáng.

    Ngoài ra, gỗ không thể làm nên loại khói đó được..

    " Dù chuyện gì xảy ra đi nữa, chúng ta vẫn không biết chắc được tới khi chúng ta tới đó. Bây giờ xin mọi người hãy hết sức tập trung. "

    Barry quay khỏi cửa sổ và thấy những người khác cũng làm thế, họ đều có chung một cảm giác: Sốc. S. T. A. R. S. Đôi khi bị thương khi đang làm nhiệm vụ, đó là một phần của công việc, còn tai nạn thế này thì..

    Biểu lộ lo âu duy nhất của Wesker là miệng hắn biến thành một đường chỉ nhỏ giữa làn da rám nắng của hắn.

    " Nghe đây. Chúng ta có thể sẽ đáp xuống vùng đất nguy hiểm. Tôi muốn toàn bộ các bạn đều phải trang bị vũ khí, và tôi muốn chúng ta di chuyển theo đội hình cơ bản ngay khi chúng ta xuống tới nơi. Barry, anh sẽ dẫn đầu. "

    Barry gật đầu, tập trung tư tưởng. Wesker nói đúng, bây giờ không phải lúc dành cho tình cảm.

    " Brad sẽ thả chúng ta tại nơi gần nhất có thể, chỗ trông có vẻ như khoảng đất trống cách năm mươi mét phía nam từ nơi cuối cùng họ liên lạc. Cậu ta sẽ ở trên máy bay và giữ nó tiếp tục hoạt động trong trường hợp có rắc rối. Có thắc mắc gì không? "

    Không ai nói gì, và Wesker gật đầu:

    " Tốt. Barry, dẫn chúng ta đi. Chúng ta có thể để những thiết bị khác lại đây và quay lại lấy. "

    Tên đội trưởng bước ra phía trước nói chuyện với Brad, trong khi đó Jill, Chris và Joseph chuyển qua Barry. Là một chuyên gia vũ khí, anh kiểm tra hỏa lực cho từng thành viên đội S. T. A. R. S. Và giữ chúng ở trạng thái an toàn.

    Barry quay qua cái tủ cạnh cửa mở ra, trong đó gồm sáu khẩu Beretta 9mm, sạch sẽ và mới kiểm tra hôm qua. Mỗi khẩu có mười lăm viên, bộ phận giảm nhiệt ở họng súng. Nó là một cây súng tốt, nhưng Barry thích khẩu Colt Python của mình hơn, hỏa lực mạnh hơn với đạn 357..

    Anh nhanh chóng phân phát vũ khí, đưa kèm theo ba băng đạn cho mỗi người.

    " Tôi hy vọng chúng ta không phải dùng tới mấy cái này ", Joseph nói, vỗ nhẹ lên một băng đạn và được Barry gật đầu đồng tình. Anh thích NRA không có nghĩa vì anh là một tên hiếu chiến, thích tìm kiếm thứ gì đó để bắn hạ, anh chỉ thích súng thôi.

    Wesker quay trở lại nhập bọn và năm người họ đứng ở cửa khoang, đợi Brad đưa họ xuống. Lúc họ lại gần luồng khói, cánh quạt xoay của trực thăng quạt chúng xuống, tạo nên đám sương đen quyện vào cái bóng lớn những hàng cây bên dưới. Bất kỳ cơ hội trông thấy phương tiện nào từ trên không đều bị khói và hoàng hôn che khuất. Brad xoay vòng rồi cho con chim sắt hạ cánh xuống khu cỏ đang bị sức gió thổi tung. Barry đặt tay lên cửa khoang, sẵn sàng ra ngoài. Một bàn tay ấm đặt lên vai anh, Barry ngoái lại và nhìn thấy Chris nhìn mình chăm chú.

    " Chúng tôi ở ngay sau anh ", Chris nói và Barry gật đầu. Anh không lo chút nào vì có cả đội Alpha yểm trợ anh. Bây giờ điều anh lo lắng là tình hình của đội Bravo. Rico Marini là bạn tốt của anh. Vợ Marini đã trông nom con gái của anh nhiều tới mức anh không đếm xuể và là bạn của Kathy. Ý nghĩ anh ta đã chết vì mấy cái máy móc vớ vẩn trục trặc..

    " Cố lên! Ông bạn, chúng tôi tới đây."

    Một tay cầm chắc khẩu Colt python, Barry kéo cửa và bước ra ngoài màn đêm ẩm thấp còn le lói chút ánh sáng của rừng Raccoon, sẵn sàng cho bất cứ đìều gì.
     
    Ezio. thích bài này.
  3. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 4

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Họ tản ra và hướng về phía bắc, Wesker và Chris ở phía trái đằng sau Barry, Jill và Joseph thì ở bên phải. Ngay phía trước họ là một hàng cây thưa thớt, Jill có thể ngửi thấy mùi dầu đang cháy ngay khi cánh quạt trực thăng đội Alpha chậm dần đi, một làn khói cuốn quanh tán lá. Họ di chuyển nhanh qua khu rừng, lúc ẩn lúc hiện dưới tán cây. Mùi nồng của thông, mặt đất bị bao phủ bởi mùi cháy, mùi acid càng lúc nồng nặc hơn. Từ ánh sáng yếu ớt trước mắt họ, Jill thấy một khoảng trống ngay phía trước đám cỏ mềm cao đó.

    "Tôi thấy rồi, ngay phía trước!"

    Tim Jill đập nhanh hơn theo tiếng hét của Barry, họ bắt đầu chạy, cố gắng bắt kịp người dẫn đường họ.

    Cô lao ra từ một xác cây, Joseph ngay bên cạnh. Barry đã tới cạnh chiếc trực thăng, Chris và Wesker ngay phía sau. Khói vẫn bốc lên từ cái máy hỏng, nhưng nó đang nhỏ dần đi. Nếu đã có một đám cháy thì nó đã tắt rồi.

    Cô và Joseph đến cạnh những người khác và dừng lại, chăm chú quan sát, họ xem xét hiện trường, trong lúc đó không ai nói gì cả. Tấm thân rộng, dài của chiếc trực thăng vẫn nguyên vẹn, không một vết trầy. Cần đáp có vẻ bị cong, nhưng ngoài nó và làn khói đang tan dần từ cánh quạt thì chẳng có gì hư hại cả. Cửa khoang sau mở, tia sáng từ cây bút laser của Wesker cho họ thấy cái khoang không hư hại gì. Từ những gì cô có thể thấy, đa số trang bị của đội Bravo vẫn còn trong khoang.

    Vậy thì họ ở đâu?

    Thật không hiểu nổi. Đã mười lăm phút từ lần liên lạc cuối cùng của họ, nếu có người bị thương, họ đã ở lại. Và nếu họ quyết định rời khỏi đây, tại sao họ lại bỏ dụng cụ ở lại chứ?

    Wesker đưa cây đèn cho Joseph và hất đầu về phía khoang lái.

    "Kiểm tra nó đi. Những người còn lại tản ra, tìm kiếm xem có dấu vết nào của cuộc đụng độ không. Nếu tìm được bất cứ gì, cho tôi biết. Và hãy cảnh giác."

    Jill đứng thêm một lúc lâu, nhìn chiếc trực thăng đang bốc khói và tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra.

    Enrico có nói gì đó về trục trặc, vậy thì ổn thôi, đội Bravo đã hạ cánh. Chuyện gì đã xảy ra kế đó? Điều gì khiến họ từ bỏ cơ hội tốt nhất để được tìm thấy, bỏ lại dụng cụ cấp cứu, vũ khí - Jill thấy vài áo vest chống đạn vứt bừa bãi cạnh cửa khoang và lắc đầu, thêm nó vào danh sách những hành động kì quái đang ngày một tăng thêm.

    Cô bắt đầu gia nhập cuộc tìm kiếm thì Joseph bước ra khỏi buồng lái, trông có vẻ bối rối. Cô nán lại nghe cậu ta báo cáo và đưa lại chiếc đèn cho Wesker. Đồng thời nhún vai.

    "Tôi không biết chuyện gì xảy ra nữa. Cái cần cong là kết quả của vụ hạ cánh ép buộc, nhưng ngoài hệ thống điện, mọi thứ đều ổn cả."

    Wesker thở dài, lên giọng đủ cho những người khác nghe thấy: "Quây tròn lại nào mọi người, cách xa ba mét, mở rộng ra khi chúng ta di chuyển!"

    Jill lại đứng cạnh Chris và Barry, hai người họ vừa rà soát mặt đất dưới chân vừa chậm rãi di chuyển về phía đông và đông bắc chiếc trực thăng. Wesker bước vào khoang, tìm kiếm trong bóng tối với cây bút của hắn. Joseph hướng về phía tây. Cỏ dại khô bị họ đạp gẫy trên đường mở rộng vòng tròn, âm thanh duy nhất trong bầu không khí yên tĩnh ấm áp phát ra từ động cơ trực thăng đội Alpha ở phía xa. Jill sử dụng đôi giày tìm kiếm trong mặt đất được bao phủ rậm rạp, gạt qua những bụi cỏ cao với từng bước chân. Trong vài khoảnh khắc nữa bầu trời sẽ trở nên quá tối để có thể thấy bất cứ cái gì, họ cần đèn pin, thứ mà đội Bravo đã bỏ lại..

    Bất ngờ Jill dừng lại, lắng nghe. Âm thanh rì rào giòn giã từ những bước chân của những đồng đội khác, tiếng quạt trực thăng từ phía xa, ngoài ra không có bất kì tiếng động nào. Không một tiếng hót, một tiếng ríu rít, chẳng có gì cả. Họ đang ở trong rừng, vào giữa mùa hè, đâu rồi những con thú, sâu bọ? Khu rừng im lặng một cách lạ kì, chỉ có âm thanh của con người. Lần đầu tiên từ khi họ đáp xuống, Jill cảm thấy sợ.

    Cô định gọi những người khác thì Joseph la lên từ phía sau họ, giọng cậu ta cao và hoảng loạn:

    "Này! Ở đây!"

    Jill bắt đầu chạy ngược trở lại, trông thấy Chris và Barry cũng làm y vậy. Wesker vẫn đang ở chỗ chiếc trực thăng, rút vũ khí sẵn sàng và hướng thẳng về phía tiếng la của Joseph rồi chạy nhanh đến.

    Trong ánh sáng mập mờ, Jill có thể thấy dáng lờ mờ của Joseph, cúi xuống một đám cỏ cao gần đám cây cách chiếc trực thăng độ một trăm bước. Theo bản năng, cô rút vũ khí và lên đạn, đột nhiên cô cảm thấy bị lấn át bởi cảm giác về mối hiểm họa sắp ập xuống.

    Joseph đứng dậy, cầm cái gì đó, và gào lên trước khi làm rơi nó xuống, đôi mắt mở to kinh hoàng.

    Trong khoảnh khắc, ý thức của Jill không tin nổi vào vật vừa ở trong tay Joseph.

    Khẩu súng ngắn của S. T. A. R. S, khẩu Beretta.

    Jill chạy nhanh hơn, bắt kịp Wesker.

    Một phần thân người nắm khẩu súng, bị đứt chỗ cổ tay.

    Có tiếng gầm gừ sâu trong yết hầu phát ra đằng sau Joseph, từ bóng tối của lùm cây. Một con thú, và lại thêm một con nữa, những hình hài mạnh mẽ lao ra từ khu rừng, bám lấy Joseph và vật cậu ta xuống.

    "Joseph!"

    Tiếng thét của Jill vang vào tai anh, Chris rút vũ khí và dừng lại, cố ngắm chính xác vào đám quái vật đang tấn công Joseph. Cây bút của Wesker chiếu một luồng sáng nhỏ nhảy khắp người đám sinh vật đang lồng lộn, phác họa rõ ràng cơn ác mộng. Thân hình Joseph bị ba con dã thú che mất, chúng đang cắn xé cậu ta bằng những hàm răng đang chảy dãi. Chúng có kích cỡ và hình dạng như loài chó, có lẽ bự như chó chăn cừu giống Đức, trừ việc chúng không có da và lông. Từng đám gân và thớ thịt đỏ và ướt sáng lên dưới ánh sáng lập lòe từ tay Wesker, đám sinh vật giống chó cắn xé trong cơn điên dại khát máu.

    Joseph gào lên bằng giọng yếu ớt lắp bắp khi cậu khuỵu xuống trước những kẻ tấn công man dại, máu tuôn ra từ nhiều vết thương. Tiếng hét của kẻ sắp chết. Không còn thời gian để lãng phí, Chris nhắm và bắn.

    Ba viên đạn trúng thẳng vào một con chó, viên thứ tư đi chệch lên trên. Con quái vật rớt xuống kêu lên ăng ẳng, nhưng vẫn cố chồm dậy. Hai con thú còn lại tiếp tục cuộc tấn công của chúng không màng đến tiếng súng chói tai. Chris nhìn kinh hoàng, một trong đám chó lâu la địa ngục chồm lên và xé rách cổ họng Joseph để lộ ra xương trắng và đám sụn đẫm máu.

    Đội S. T. A. R. S. Nổ súng, bắn một làn mưa đạn vào những kẻ giết Joseph. Máu bắn vào không trung, đám chó vẫn cố chồm tới cái xác đang co giật mặc cho đạn đục lỗ trên đám thịt lạ kỳ của chúng. Với một loạt tiếng tru chói tai cuối cùng, chúng ngã xuống và không đứng dậy nữa.

    "Ngừng bắn!"

    Chris rời ngón khỏi cò súng nhưng vẫn chĩa vào đám sinh vật nằm bất động, tay anh co giật trong cơn kích động muốn xả thêm vào con quái vật ấy. Hai trong số chúng vẫn còn gầm gừ qua hơi thở gấp. Con thứ ba nằm bất động cạnh cái xác bị xé nát của Joseph.

    Đáng lẽ chúng phải chết rồi chứ, chúng phải chết ngay từ những phát súng đầu rồi! Chúng là cái quái gì đây?

    Wesker tiến thêm một bước lại gần những kẻ giết người trước mặt họ khi chung quanh tiếng tru vang vọng ngập trong không khí ấm áp ban đêm, âm thanh những con dã thú điên cuồng đang xông đến đội S. T. A. R. S. Từ mọi hướng.

    "Quay trở lại trực thăng ngay!", Wesker hét lên.

    Chris chạy, Barry, Jill phía trước anh và Wesker đang dần bắt kịp. Bốn người họ chạy băng qua rừng cây tối như mực, những cành cây khuất quất vào họ trong khi tiếng tru càng to hơn và nhiều hơn.

    Wesker quay lại và bắn loạn xạ vào rừng cây khi họ chạy đến chỗ chiếc trực thăng đợi sẵn, cánh quạt của nó đã quay rồi. Chris cảm thấy một tia hi vọng quét qua: "Brad chắc đã nghe tiếng súng. Họ vẫn còn một cơ hội.."

    Chris có thể nghe thấy tiếng những sinh vật đằng sau lưng họ, tiếng xào xạc từ những thân hình gân guốc chạy băng qua những tàn cây. Anh cũng có thể thấy gương mặt tái xanh, đôi mắt mở to của Brad, ánh sáng phản chiếu từ bộ điều khiển lên gương mặt hoảng loạn của anh. Anh ta đang gào lên điều gì đó nhưng tiếng gầm của động cơ đang nhấn chìm tất cả, một luồng gió khuấy tung cánh đồng như bãi biển đang gợn sóng.

    "Thêm mười lăm bước nữa, gần tới rồi."

    Bất ngờ, chiếc trực thăng lao lên không trung, xoay vòng một cách man rợ. Chris bắt gặp một thoáng sự kinh hoàng tột độ trên gương mặt Brad, một sự hoang mang không tưởng khi cậu ta bám lấy cần điều khiển.

    "Không! Đừng đi!", Chris gào lên, nhưng cái thang vịn lắc lư đã ra khỏi tầm với, chiếc trực thăng chúi nhủi về phía trước và xa dần họ biến mất vào màn đêm bao la.

    Họ sẽ chết mất!

    " "Vickers, đồ khốn!" "

    Wesker lại xoay người tiếp tục bắn, và nhận được những tiếng kêu quằn quại trong đau đớn từ những kẻ đang truy đuổi họ. Chúng có ít nhất bốn con đang tiến gần họ rất nhanh.

    " Chạy tiếp đi! ", Hắn thét lên, cố sức chống đỡ trong khi mọi người đang loạng choạng, tiếng kêu từ những con chó quái dị thôi thúc họ hành động nhanh hơn nữa. Âm thanh của chiếc trực thăng đang nhạt dần đi, tên Vickers hèn nhát đã đem cơ hội trốn thoát của họ đi cùng với hắn.

    Wesker lại bắn, viên đạn bay xa, và hắn thấy thêm một hình thù tham gia cuộc săn. Những con chó nhanh kinh khủng. Họ chẳng có cơ may nào, trừ khi..

    Ngôi biệt thự!

    " Sang phải, hướng một giờ! ", Wesker thét, hy vọng cảm giác phương hướng của hắn vẫn còn nhạy bén. Họ không thể chạy thoát đám sinh vật đó, nhưng có lẽ họ có thể giữ cho chúng không lại gần họ.

    Hắn xoay lại và bắn viên đạn cuối cùng trong băng.

    " Hết đạn! "

    Lấy băng đạn rỗng ra khỏi súng, hắn lục tìm băng còn lại trong thắt lưng trong khi đó Barry và Chris bắn yểm trợ, những viên đạn bay qua hắn và găm vào đám đông đang tiến đến. Wesker lắp băng mới vào vừa lúc họ vượt qua khoảng đồng trống rồi lại tiếp tục lao vào một rừng cây tối khác.

    Họ vừa chạy vừa né xuyên qua khu rừng, băng qua khu đất không bằng phẳng, theo sau là lũ chó giết người. Hít một hơi thật sâu, Wesker tưởng tượng hắn có thể ngửi thấy mùi thịt thối rữa hôi hám của đám quái vật khi chúng thu hẹp khoảng cách, và bằng cách nào đó hắn lại chạy nhanh hơn.

    " Đáng lẽ chúng ta phải đến rồi, mình bị mụ mẫm rồi chắc.. "

    Chris trông thấy nó trước tiên xuyên qua những cái bóng nhỏ của rừng cây, ngôi nhà kì quái mờ mờ được ánh trăng sớm chiếu rọi.

    " Đằng kia! Chạy tới ngôi nhà đó!"

    Bên ngoài nó có vẻ bị bỏ hoang, những miếng đá và gỗ đắt tiền của ngôi biệt thự khổng lồ đổ nát và tối. Kích thước thật sự của ngôi nhà được che lấp bởi khu rừng tăm tối và rậm rạp chung quanh nó, cô lập nó với khu rừng. Cái cổng vòm vĩ đại phía trước là một cánh cửa đôi, lựa chọn duy nhất của họ để trốn thoát.

    Wesker nghe thấy tiếng táp của đôi hàm mạnh mẽ phía sau hắn và hắn bắn ngay phía phát ra âm thanh bằng trực giác và chạy đến ngôi biệt thự. Một tiếng kêu và con vật đó ngã xuống, tiếng kêu những anh em của nó to hơn bao giờ hết do tác động của cuộc rượt đuổi.

    Jill đến được cánh cổng trước, dùng một bên vai tông thẳng vào cánh cửa gỗ nặng đồng thời xoay nắm cửa. Thật không ngờ, chúng mở toang ra, ánh sáng tuôn ra ngoài rọi lên những bậc thềm đá dẫn đến cửa, soi sáng con đường của họ. Cô quay lại và bắt đầu bắn, yểm trợ cho ba người đang chạy hộc tốc đến lối thoát trong bóng đêm.

    Họ chạy thẳng vào tòa biệt thự, Jill xông vào sau cùng và Barry dùng tấm thân đồ sộ của mình dộng thẳng vào cánh cửa, đóng chúng lại trước những tiếng sủa của lũ sinh vật. Anh khuỵu xuống dựa lưng vào nó, mặt đỏ và đầy mồ hôi, cùng lúc Chris tìm thấy chốt khóa và kéo chúng lại.

    Họ đã làm được. Ngoài kia, lũ chó vẫn tru và cố gắng cào vô vọng vào hai cánh cửa chắc chắn.

    Wesker hít một hơi sâu bầu không khí mát, tĩnh lặng trong căn phòng sáng sủa và thở hắt ra. Như hắn đã biết, ngôi nhà Spencer không hề bị bỏ hoang. Và bây giờ họ đều ở đây, mọi tính toán kĩ lưỡng của hắn đều tiêu tùng.

    Wesker rủa thầm Brad Vickers lần nữa và suy nghĩ trong này họ có được an toàn hơn ở bên ngoài chút nào không..
     
    Ezio. thích bài này.
  4. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 5

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Jill vừa quan sát quang cảnh xung quanh vừa thở dốc, cảm giác như cô là một nhân vật trong cơn ác mộng hoang tưởng. Những con quái vật hoang dã gầm rú, cái chết đột ngột của Joseph, cuộc chạy trốn hoảng loạn qua khu rừng tối, và bây giờ thì tới ngôi nhà này.

    Bị bỏ hoang à?

    Nơi đây là một cung điện, đơn giản và thuần khiết, nói theo cha cô thì đây là một nơi kiếm chác được rất nhiều. Căn phòng họ đang ở chỉ là một phần nhỏ của sự xa hoa. Nó rất lớn, hẳn nhiên to hơn toàn bộ căn nhà của Jill, sàn lát bằng đá cẩm thạch xám lốm đốm, chính giữa phòng nơi cây cầu thang ngự trị được trải tấm thảm dẫn lên ban công lầu hai. Các cây cột đá cẩm thạch tạo thành vòm cong trang trí thêm cho cái sảnh vốn đã được chăm chút kỹ lưỡng, được tô điểm bởi hàng lan can bằng gỗ đen ở tầng trên. Những chiếc đèn trên các rãnh tường đang tỏa ánh sáng khắp bốn bức vách gỗ sồi màu kem, rọi đến tận rìa của tấm thảm lót sàn màu nâu vàng nhạt. Nói vắn tắt, căn phòng thật tráng lệ.

    "Nơi này là đâu đây?", Barry hỏi nhỏ. Không ai trả lời anh cả.

    Jill hít một hơi sâu và cảm thấy cô không ưa nó. Có cảm giác.. điều gì đó bất ổn với căn phòng rộng lớn này, bầu không khí của một áp lực vô hình. Căn nhà này hình như bị ếm, bởi ai hay cái gì thì cô không biết.

    Chạy đứt hơi để khỏi bị ăn thịt bởi lũ chó đột biến, thật kinh khủng. Và trên hết, vì Chúa, tội nghiệp Joseph! Bây giờ không có thời gian để đau buồn, nhưng ký ức về cậu ấy sẽ không bao giờ nhạt đi.

    Cô tiến đến cầu thang, tay nắm chặt súng, tiếng bước chân cô bị nhấn chìm bởi tấm thảm dày trải dài từ cửa chính. Có một cái máy đánh chữ trên bàn ngay phía bên phải cầu thang, trong nó đã có một cuộn giấy. Sự bất cẩn này hơi lạ. Ngoài nó ra căn phòng đại sảnh đắt tiền chẳng có gì cả.

    Cô quay trở về chỗ những người khác, tò mò không biết họ nghĩ gì về mọi chuyện vừa xảy ra. Barry và Chris đều có vẻ ngờ vực, họ quan sát căn phòng, gương mặt họ đầy mồ hôi và kích động. Wesker đang cúi xuống xem xét cái chốt khóa cửa chính.

    Hắn đứng dậy, cặp kính mát vẫn như dán cứng ở chỗ cũ.

    "Phần gỗ chung quanh ổ khóa bị vỡ vụn rồi. Ai đó đã phá cái cửa này trước khi chúng ta tới đây."

    Chris trông tràn trề hy vọng: "Có thể là đội Bravo chăng?"

    Wesker gật đầu: "Đó là điều tôi đang nghĩ. Tiếp viện có lẽ đang tới, điều đó còn tùy thuộc vào" anh bạn "Vickers của chúng ta có thèm gọi họ không."

    Giọng hắn trở nên chế giễu, và Jill cảm thấy cơn tức giận của chính cô cũng bùng lên. Brad đã bỏ mọi người ngay lúc quan trọng và gần như làm họ bỏ mạng. Không có lý do gì để biện minh cho điều cậu ta đã làm.

    Wesker tiếp tục, đi ngang qua căn phòng tới một trong hai cánh cửa phía bên trái. Hắn vặn nắm cửa, nhưng nó không mở ra.

    "Bây giờ trở ra ngoài thì không an toàn chút nào. Cho tới khi đội cứu viện tới, chúng ta cũng nên đi xung quanh đây xem xét căn nhà. Theo những gì chúng ta thấy thì hiển nhiên có ai đó đang sống ở đây, dù chúng ta không biết tại sao và đã bao lâu rồi.."

    Hắn ngừng lại, quay lại nhóm: "Chúng ta còn bao nhiêu đạn?"

    Jill lấy băng đạn trong khẩu Beretta của cô ra và đếm: Còn ba viên, cộng thêm hai băng đầy trong thắt lưng của cô. Ba mươi ba phát. Chris còn hai mươi hai, Wesker, mười bảy. Barry còn hai băng cho khẩu Colt của mình, kèm theo nắm đạn dự phòng trong túi, tổng cộng mười chín viên.

    Jill nghĩ về những thứ họ bỏ lại trên trực thăng và cảm thấy cơn giận một lần nữa bốc lên. Những hộp đạn, đèn pin, máy thu phát tín hiệu cầm tay, mấy khẩu Shotgun – không kể đến thuốc men.

    Khẩu Beretta Joseph tìm thấy trên cánh đồng, những ngón tay xanh xao, vấy máu vẫn còn nắm lấy nó, một thành viên S. T. A. R. S. Chết hoặc đang hấp hối, và nhờ Brad, họ chẳng có bông băng để giúp thành viên đó nữa.

    Ạch!

    Âm thanh của cái gì đó nặng nề đang lê trên sàn, ở đâu đó gần đấy. Mọi người đồng loạt quay đầu về cánh cửa duy nhất phía đông. Jill đột nhiên nhớ đến bộ phim kinh dị cô đã xem, một ngôi nhà kì lạ, tiếng động kì lạ.. cô thấy lạnh run, và quyết định sẽ cho Brad một trận khi họ ra khỏi đây.

    "Chris, kiểm tra và quay lại đây báo cáo càng nhanh càng tốt."

    Wesker nói tiếp: "Chúng tôi sẽ đợi ở đây phòng trường hợp RPD tới gõ cửa. Nếu gặp rắc rối, cứ nổ súng và chúng tôi sẽ tìm cậu."

    Chris gật đầu và bắt đầu hướng về cánh cửa, đôi giày theo bước chân anh gõ âm thanh vang khắp nền nhà đá hoa cương. Jill một lần nữa như cảm thấy một điềm báo.

    "Chris?"

    Tay đã đặt lên nắm cửa, anh quay lại, và cô nhận ra mình không thể nói gì để Chris biết được tâm trạng của cô. Mọi thứ đều xảy ra quá nhanh, tình huống này có quá nhiều bất ổn mà cô không biết bắt đầu từ đâu.

    Và anh ấy đã được huấn luyện kỹ kia mà, mày cũng vậy. Bắt đầu cư xử đúng như thế đi.

    "Cẩn thận", Cô nói. Đó không phải là điều cô muốn nói, nhưng như thế có lẽ cũng đủ rồi.

    Chris đáp lại cô bằng một nụ cười, rồi giơ khẩu Beretta lên và tiến vào trong. Jill nghe tiếng ổ khóa và anh đã đi rồi, đóng lại cánh cửa phía sau lưng.

    Barry bắt gặp ánh nhìn của cô và mỉm cười với cô, ánh mắt khuyên cô không nên lo lắng, nhưng Jill không thể gạt bỏ ý nghĩ Chris sẽ không quay lại nữa.

    Chris nhìn quét qua căn phòng, cảm nhận sự thanh nhã trong đó và nhận ra chỉ có mình anh, bất kỳ ai gây ra tiếng động thì họ cũng không ở đây. Âm thanh đều đều của chiếc đồng hồ dây cót rót đầy không khí mát, vang vọng trên nền gạch đen trắng. Anh đang ở trong phòng ăn, loại anh chỉ thấy trên phim về những người giàu có. Nơi đây cũng có trần nhà cao vời vợi giống đại sảnh chính, nhưng nó cũng được trang trí bằng những thứ đắt tiền và có một lò sưởi phía cuối phòng, phía trên nó là một tấm phù hiệu hình lá chắn cùng hai thanh kiếm chéo nhau, nhưng ngay phía bên phải lò sưởi là một cánh cửa đóng.

    Chris hạ thấp vũ khí và tiến đến cánh cửa, vẫn bị choáng ngợp bởi vẻ giàu có của căn biệt thự "bỏ hoang" mà đội S. T. A. R. S. Buộc phải trốn vào. Căn phòng ăn rộng lớn được tô điểm bởi gỗ đỏ và những bức họa đắt tiền treo trên các bức tường vôi màu kem, bao bọc quanh cái bàn gỗ chạy dọc theo chiều dài căn phòng. Cái bàn có ít nhất hai mươi chỗ ngồi, mặc dù nó chỉ dùng cho một số người đếm trên đầu ngón tay. Từ đám bụi bám trên bàn, có vẻ không ai đã sử dụng nó trong nhiều tuần lễ.

    Ngoại trừ việc không ai có thể ở đây trong ba mươi năm, một mình tổ chức một bữa tối trang trọng cả! Spencer đã đóng cửa nơi này trước khi có bất kỳ ai sống ở đây.

    Chris lắc đầu. Rõ ràng có ai đó đã sử dụng nó lại cách đây rất lâu.. vậy tại sao mọi người trong thành phố Raccoon đều tin rằng biệt thự Spencer đã bị đóng cửa, chỉ là một phế tích giữa rừng? Quan trọng hơn nữa, tại sao Umbrella lại nói dối với Irons về tình trạng an ninh của nó?

    Những vụ giết người, mất tích, Umbrella, Jill.. Thật chán nản. Anh cảm thấy anh có vài câu trả lời, nhưng không chắc nó thuộc câu hỏi nào.

    Anh tới cánh cửa và xoay nắm chậm rãi, lắng nghe bất kỳ âm thanh nào phía bên kia. Anh không thể nghe được gì ngoài tiếng kim của chiếc đồng hồ cũ, nó được đặt sát ngay tường và mỗi chuyển động từ cây kim thứ hai đều vang lên giả tạo, do được khuếch đại bởi căn phòng có mái vòm.

    Cánh cửa mở ra dẫn đến một phía hành lang chật, được chiếu sáng lờ mờ bởi hệ thống ánh sáng cũ. Chris nhanh chóng kiểm tra cả hai hướng. Về phía bên phải có lẽ là 10 mét hành lang gỗ, vài cánh cửa ngang trước mặt Chris và một cánh cửa ngay cuối hành lang. Lối đi bên trái bẻ sang một hướng khác từ chỗ anh đứng, khá rộng rãi. Anh thấy một viền nâu chạy trên sàn nhà tới đó.

    Anh nhăn mặt. Có một mùi thối phảng phất trong không khí, của một thứ gì đó quen quen mà không vui vẻ chút nào. Anh đứng ở hành lang thêm một lúc, cố định vị nơi cái mùi khó ngửi ấy xuất phát. Vào một mùa hè khi anh còn nhỏ, sợi xích trên xe đạp anh đã tuột ra khi anh đi ra ngoài chơi cùng vài người bạn. Kết quả Chris rớt xuống cái rãnh khoảng sáu inch cách đường, phần xác rữa đã khô còn lại của con chuột chũi cũng ở đó. Thời gian và sức nóng của mùa hè đã làm nó trở thành cái mùi tồi tệ nhất, phần còn lại của nó cũng đã kinh khủng rồi. Đám bạn tỏ ra thích thú khi anh nôn hết lên cái xác con vật, lấy hơi sâu và lại tiếp tục nôn. Anh vẫn còn nhớ cái mùi phơi nắng của xác sinh vật đang phân hủy ấy, như sữa chua và mật đặc vậy, cũng chính cái mùi đó đang lan tỏa trong hành lang như một giấc mơ báo điềm gở vậy.

    Thụp!

    Có tiếng lê bước nhẹ phía sau cánh cửa đầu tiên bên phải, giống như nắm tay độn bông đang trượt trên tường. Có ai đó phía bên kia.

    Chris tiến tới về phía cửa, cẩn thận không để lưng quay về hướng khu vực chưa xác minh. Khi anh bước tới gần, âm thanh đó ngưng lại, và anh có thể thấy cánh cửa không hoàn toàn đóng.

    Không có thời gian để chần chừ.

    Với một cú đẩy nhẹ, cánh cửa tung vào trong, mở ra hành lang tối cùng những bức tường được sơn xanh. Một người đàn ông to con đang đứng cách Chris chưa đến 20 bước, nửa khuất trong bóng tối, lưng quay lại phía anh. Ông ta quay lại chậm rãi, điệu bộ của những người say hay bị thương, và cái mùi Chris ngửi thấy trước đó tỏa ra từ người đàn ông nồng nặc. Đồ của ông ta rách rưới và vấy máu, phía sau đầu loang lổ những mảng tóc.

    Chắc đang bệnh, hoặc có thể sắp chết.

    Dù ông ta bị gì đi nữa thì Chris cũng không ưa cái kiểu này, trực giác của anh đang thôi thúc anh làm một việc gì đó. Anh bước ra ngoài hành lang và chĩa thẳng khẩu Beretta vào ngực người đàn ông.

    "Dừng lại, không được cử động!"

    Người đàn ông đã hoàn tất việc xoay người lại và bắt đầu tiến tới Chris, lê bước vào vùng sáng. Gương mặt của nó xanh lè, ngoại trừ phần máu xung quanh cái miệng đang phân rữa. Những mảng thịt khô đung đưa còn dính lại từ cặp má rữa, trong hố mắt sâu của sinh vật đó ánh lên sự thèm thuồng và nó giương đôi tay xương xẩu ra.

    Chris bắn ba phát vào ngực sinh vật đó làm phun ra dòng máu đỏ thẫm. Với một tiếng kêu, nó đổ gục xuống sàn, giãy chết. Chris giật lùi lại, dòng suy nghĩ dồn dập cùng với trái tim đang đập liên hồi. Anh chạm vào cánh cửa bằng một bên vai, lờ mờ biết được nó đã đóng và nhìn cái thân hình hôi thối trên sàn. Xác chết, thứ đó là cái xác chết biết đi khốn khiếp! Những tên ăn thịt người tấn công Raccoon, toàn bộ bọn chúng ở gần khu rừng. Anh đã coi đủ phim chiếu về khuya để biết thứ anh đang nhìn là gì, tuy nhiên anh vẫn không thể tin được.

    Những xác chết hồi sinh.

    Không, không đời nào, đó chỉ là tiểu thuyết thôi, nhưng có lẽ là một bệnh dịch gì đó, tương tự như triệu chứng đó vậy. Anh phải báo với những người khác. Anh xoay người lại và vặn tay nắm, nhưng cánh cửa không chuyển động, có lẽ nó đã tự khóa khi anh dựa vào nó.

    Đằng sau anh, cái gì đó ướt đang chuyển động. Chris quay phắt lại, mắt mở to nhìn cái sinh vật đang co giật cào vào sàn gỗ lết tới chỗ anh trong sự im lặng một cách phấn khởi và quyết tâm. Chris nhận ra nó đang chảy dãi, và cuối cùng anh hành động khi thấy cái chất dinh dính hồng đó rỏ xuống sàn.

    Anh bắn lần nữa, hai phát vào khuôn mặt thối rữa đang ngửa lên của nó. Những cái lỗ đen khoan vào hộp sọ phồng rộp, từ dưới hàm nó bắn ra dòng chất lỏng và thịt. Thở hắt ra lần cuối, cái đống thịt rữa ấy nằm im dưới sàn trong một vũng máu ngày càng lan rộng. Chris không dám chắc nó đã nằm yên hay chưa. Chris giật mạnh cái cửa lần nữa và cẩn thận bước qua cái xác, di chuyển xuống phía dưới hành lang. Anh vặn tay nắm phía bên trái, nhưng nó khóa. Có một hình khắc nhỏ trông giống như một thanh kiếm, anh ghi thông tin ít ỏi đó vào đầu giữa những suy nghĩ đang quay cuồng, và tiếp tục tiến tới, nắm chặt khẩu Beretta.

    Có một lối đi nhỏ bên phải anh cùng với một cánh cửa, nhưng anh không quan tâm tới nó, lúc này anh chỉ muốn tìm đường vòng trở lại đại sảnh. Những người khác chắc đã nghe tiếng súng, nhưng anh đoán chắc là còn nhiều những sinh vật đang chạy quanh đây như thứ anh vừa xử lý.

    Có một cánh cửa phía bên trái cuối hành lang chỗ khúc quanh. Chris đi mau tới, mùi phân hủy của sinh vật đó – những con zombie - làm anh buồn nôn. Vừa đi gần cánh cửa, anh nhận thấy cái mùi đó càng tệ hơn, càng nặng hơn theo mỗi bước chân.

    Anh nghe thấy tiếng kêu thèm thuồng khi tay đặt vào nắm đấm cửa, cùng lúc nhận ra anh chỉ còn hai viên trong băng đạn. Trong bóng tối phía bên phải anh, nó đang chuyển động.

    Phải nạp đạn thôi, tới chỗ nào đó an toàn vậy.

    Chris đẩy cánh cửa mở và bước thẳng vào vòng tay con sinh vật đã đợi sẵn phía bên kia, những ngón tay trơ xương của nó túm lấy anh trong khi hàm răng nó hướng tới cổ anh.

    Ba phát súng. Vài giây sau, hai phát nữa, âm thanh có vẻ xa xăm nhưng chắc chắn ở chỗ hành lang nào đó.

    Chris!

    "Jill, sao cô không..", Wesker bắt đầu, nhưng Barry không để hắn dứt lời.

    "Tôi cũng đi." anh nói, vừa tiến đến cánh cửa phía đông." "Chris sẽ không lãng phí đạn như thế này trừ khi cậu ta buộc phải làm vậy, cậu ta cần giúp đỡ." "

    Wesker mau chóng dịu lại, chấp thuận:" Đi đi. Tôi sẽ đợi ở đây. "

    Barry mở cửa, Jill ngay phía sau. Họ bước vào căn phòng ăn rộng lớn, không rộng như đại sảnh nhưng ít nhất nó cũng dài bằng. Có một cánh cửa phía cuối phòng, ngang qua cái đồng hồ dây cót cổ đang gõ nhịp trong bầu không khí đầy bụi bẩn và lạnh lẽo.

    Barry đi nhanh tới, cầm chắc khẩu súng lục, cảm thấy căng thẳng và lo lắng.

    " Chúa ơi, nhiệm vụ lần này còn lộn xộn đến cỡ nào đây! "

    Đội S. T. A. R. S. Thường được cử đi thực hiện những tình huống mạo hiểm nơi sự việc bất thường, nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi còn là một anh lính mới, Barry cảm thấy mọi chuyện đều như đã mất kiểm soát. Joseph đã chết. Gã Vickers mặc cho họ bị đám chó từ địa ngục kia làm thịt, và giờ Chris đang gặp rắc rối. Đáng lẽ Wesker không nên gửi cậu ta đi một mình.

    Jill tới cửa trước, chạm vào nắm cửa bằng những ngón tay thon thả và nhìn anh. Barry gật đầu và cô đẩy cửa mở, bước vào, tiến về phía trái.

    Barry đi sang phía còn lại, cả hai người họ đưa mắt quét qua hành lang trống.

    " Chris? ", Barry gọi, nhưng không có ai trả lời. Barry hơi bực mình, khịt mũi:" "Có gì đó như mùi trái cây thối vậy." "

    " Tôi sẽ kiểm tra mấy cánh cửa ", Barry nói. Jill gật đầu và tiến về phía bên trái, cảnh giác và tập trung.

    Barry tiến về cánh cửa đầu tiên, cảm thấy yên tâm vì Jill phía sau mình. Anh đã nghĩ cô là kẻ có ác ý khi cô mới chuyển đến, nhưng cô đã chứng minh cô là một người lính có thực lực và tài năng, một thành viên đáng được chào mừng vào đội Alpha.

    Jill kêu lên hốt hoảng và Barry xoay lại, mùi thối rữa bất ngờ dày lên trong hành lang hẹp.

    Jill đang lùi dần từ lối vào phía cuối hành lang, đang chĩa súng vào cái gì đó Barry không thể thấy được.

    " Dừng lại! ", Giọng Jill cao và run, khuôn mặt lộ rõ nỗi hoảng loạn và cô bắn, một lần, hai lần, vẫn lùi về phía Barry, hơi thở nhanh và ngắn.

    " Tránh về phía trái! "

    Anh giương khẩu Colt lên, một người đàn ông cao hiện ra khi Jill tránh sang trái. Đôi tay của nó giang rộng ra như người mộng du, yếu ớt và như muốn nắm lấy.

    Barry trông thấy khuôn mặt của sinh vật đó và không chần chừ nữa. Anh bắn, viên đạn 357 làm nổ tung phần trên hộp xọ xám xịt của nó, máu chảy xuống thân hình kì quái, kinh khủng, nhuộm đỏ đôi mắt đục ngầu xanh xao trợn trừng.

    Nó đổ ngược lại, mặt ngửa lên ngay cạnh chân Jill. Barry bước nhanh tới cạnh cô và sững người.

    " Cái gì.. ", Anh thốt lên khi nhìn lên tấm thảm đằng trước họ, được đặt ở vị trí cuối hành lang.

    Trong khoảnh khắc, Barry nghĩ đó là Chris, tới khi nhìn thấy dấu hiệu của đội S. T. A. R. S. Bravo trên chiếc áo, và cảm thấy một nỗi hoảng sợ khác khi anh cố nhận dạng nó. Thành viên đội Bravo này đã không còn nguyên vẹn, cái đầu ở cách xác khoảng một bước chân, khuôn mặt hoàn toàn bị vấy máu.

    Đó là Ken.

    Kenneth Sullivan, một trong những người trinh sát giỏi nhất Barry từng biết và là một người cực kỳ tốt bụng. Có một vết thương nham nhở ở ngực anh, một phần cơ đã bị ăn và nội tạng lòng thòng quanh cái lỗ rỉ máu. Tay trái anh bị mất, và không có vũ khí nào gần đó, có lẽ đó là khẩu súng Joseph đã tìm thấy trong rừng.

    Barry nhìn đi hướng khác, cảm thấy phát ốm. Ken là một người ít nói, ân cần và đã làm rất nhiều việc trong ngành hóa học. Anh ta có một cậu con trai đang tuổi thiếu niên đang sống với vợ cũ của anh ở California. Barry nghĩ về chính các con gái của ông ở nhà, Moira và Poly, và cảm thấy một nỗi sợ hãi dâng trào. Anh không sợ chết mà chỉ sợ khi nghĩ đến việc chúng lớn lên mà không có bố.

    Jill cuối xuống cạnh cái xác của Ken và lục lọi đai lưng. Cô ném cho Barry một cái nhìn xin lỗi, nhưng anh gật nhẹ với cô. Họ cần đạn, Ken tất nhiên chẳng cần nữa rồi.

    Cô lấy ra hai băng đạn 9 ly và bỏ vào túi. Barry nhìn xuống kẻ đã giết chết Ken trong sự phẫn nộ và phân vân.

    Anh không nghi ngờ gì rằng mình đang nhìn một trong số những kẻ ăn thịt người đã và đang săn lùng con mồi ở thành phố Raccoon. Quanh miệng nó là một lớp máu đỏ, móng tay nó thì dính máu, áo sơmi đầy máu khô. Điều lạ là việc nó trông chết chóc như thế nào.

    Barry đã một lần tham gia cuộc giải thoát con tin ở Ecuador, nơi một nhóm những nông dân bị một nhóm quân du kích nổi loạn bắt giữ trong nhiều tuần. Nhiều con tin đã bị giết trong cuộc tấn công, và sau khi S. T. A. R. S. Đã bắt gọn đám nổi loạn, Barry đi cùng với một trong số những người sống sót để ghi nhận số tử vong. Bốn nạn nhân bị bắn, thi thể bị tống ra phía sau cái lán gỗ bọn nổi loạn đã chiếm đóng. Sau ba tuần dưới cái nắng miền Nam Mỹ, da trên mặt họ co lại, những mảng thịt rạn nứt tách rời ra khỏi gân và xương. Anh vẫn còn nhớ rõ những khuôn mặt ấy, và giờ đây lại thấy nó trên gương mặt thứ sinh vật đã ngã xuống này. Nó mang gương mặt của cái chết.

    Bên cạnh đó, nó bốc mùi như lò sát sinh vào ngày nắng nóng vậy. Đáng lẽ người ta phải nói với cái thây này là người chết không nên đi lung tung.

    Anh có thể thấy sự ghê tởm và bối rối trên gương mặt Jill, trong đôi mắt cô cũng có cùng câu hỏi như anh, nhưng bây giờ chẳng có câu trả lời nào cả, họ phải tìm Chris và tụ tập lại.

    Họ quay trở lại hành lang và kiểm tra ba cánh cửa, xoay tay nắm và đẩy những khung cửa gỗ chắc chắn. Tất cả đều bị khóa chặt. Nhưng Chris đã đi qua một trong chúng, ngoài ra không có nơi nào cậu ta có thể biến đi cả.

    Điều đó chẳng hợp lý chút nào, ngoại trừ việc phá cửa thì họ chẳng làm được gì nữa.

    " Chúng ta nên báo cáo việc này với Wesker", Jill nói, và Barry đồng ý. Nếu họ đã lạc vào hang ổ của bọn giết người, họ cần một phương án tấn công.

    Họ chạy ngược lại ngang qua phòng ăn, mùi cũ kỹ tạm xua đi mùi máu tanh và thối rữa ở hành lang. Họ nhanh chóng bước qua cánh cửa dẫn đến đại sảnh, Barry tự hỏi không biết đội trưởng sẽ làm gì để đối phó với việc này đây. Điều đó là lẽ tất nhiên thôi. Barry dừng lại, tìm kiếm xung quanh cái sảnh trống không, thanh nhã và cảm thấy một trò đùa chẳng vui chút nào.

    Wesker không có ở đó.
     
  5. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 6

    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Wesker!", Barryhét lên. Giọng của ông vang vọng khắp căn phòng. "Đội trưởng Wesker!"

    Anh đi dọc theo phía sau căn phòng, gọi với theo Jill: "Đừng rời căn phòng này, Jill."

    Jill đi xuống cầu thang, trong đầu cảm thấy choáng váng. Ban đầu là Chris, bây giờ lại đến đội trưởng. Họ đi chưa quá năm phút, và Wesker đã hứa sẽ giữ vị trí. Tại sao anh ta lại bỏ đi? Cô nhỉn quanh tìm xem có dấu hiệu của sự đụng độ không, một vài vỏ đạn hay vài vũng máu chẳng hạn – nhưng không có gì để xác định được chuyện đã xảy ra ở đây cả.

    Barry xuất hiện ở phía đối diện của cái cầu thang khổng lồ, lắc đầu và tiến lại phía Jill. Cô cắn môi, lắp bắp:

    "Anh có nghĩ là Wesker đã đụng độ với bọn chúng.."

    Barry thở dài: "Tôi không nghĩ là lực lượng RPD đã đến và bắt anh ta đi, ngay cả nếu như anh ấy gặp rắc rối, lẽ ra chúng ta đã phải nghe thấy tiếng súng.."

    "Không cần thiết. Có thể anh ấy đã bị mai phục và bị bắt đi.."

    Họ đứng yên suy nghĩ. Jill vẫn còn hơi bất ngờ khi phải đối mặt với những cái xác chết biết đi ấy, nhưng sau đó cô đã phải chấp nhận thực tại, khu rừng quanh thành phố Racoon đã bị lây nhiễm với những xác chết sống.

    Sau một thời gian dài gặm nhấm mấy thứ tiểu thuyết rác rưởi về những tên giết người hàng loạt, những xác chết ăn thịt người có phải là chuyện gì quá khó chấp nhận không nhỉ?

    Có lẽ là không, cũng không phải là những con chó ăn thịt người hay ngôi biệt thự trong vòng bí mật. Câu hỏi bây giờ không phải là sự tồn tại của chúng, mà là tại sao? Ngôi biệt thự có vai trò gì đối với những vụ giết người, hay chỉ đơn giản là nó đã bị lũ Zombie tràn ngập, như đã tràn ngập khắp rừng Raccoon?

    "Thế bây giờ chúng ta đi tìm kiếm hay là ngồi đợi?", Jill hỏi Barry.

    "Đi tìm họ. Ken đã tới đây. Những người còn lại của đội Bravo chắc đang ở đâu đó trong ngôi nhà này. Rất dễ bị lạc.. Và còn Chris.."

    Anh nở một nụ cười nửa miệng ra vẻ lạc quan, nhưng Jill vẫn có thể nhận ra nét lo lắng trong đôi mắt anh. "Chris và Wesker đã biến mất, nhưng chúng ta sẽ tìm ra họ sớm thôi. Vài ba cái thây ma biết đi thì chả là cái thá gì với họ đâu."

    Barry mở túi áo khoác, lấy ra một vật gì đó bọc trong chiếc khăn tay và đưa cho Jill. Cô cảm thấy có một lớp kim loại mỏng bên dưới tấm vải và ngay lập tức nhận ra nó.

    "Đây là dụng cụ mở khóa mà cô đưa cho tôi tháng trước", Barry nói, "Tôi nghĩ đưa cho cô sử dụng sẽ tốt hơn là tôi giữ nó."

    Jill gật đầu và cất nó vào túi. Barry đã từng thấy hứng thú với tay nghề phá khóa của Jill, và cô đã đưa cho anh mượn một số dụng cụ cũ của mình để luyện tập, bây giờ có lẽ những thứ này sẽ trở nên hữu ích. Cái gói chạm vào một vật gì đó cứng và trơn láng - "Máy tính của Trent!"

    Một loạt những chuyện xảy ra đã khiến cô quên mất sự đụng độ kỳ lạ của mình trong phòng tư liệu. Cô định nói với Barry, nhưng sau đó lại thôi khi nhớ đến lời cảnh báo của Trent. "Tôi sẽ không đề cập đến cuộc trò chuyện này với ai cả". Chết tiệt. Suýt chút nữa thì cô đã kể cho Chris.

    Thế nhưng, Chris đang ở đâu? Ai dám chắc là cái "hậu quả khủng khiếp" Trent đề cập chưa xảy ra?

    Jill chợt nhận ra là mình đang nghĩ ngợi mông lung. Chuyện gặp gỡ với Trent có lẽ không liên quan đến tình trạng khốn đốn của họ, và dù thế nào, cô cũng không tin Trent. Cô quyết định sẽ nói ra điều ấy sau khi cô biết được trong máy tính ẩn chứa những gì.

    "Tôi nghĩ chúng ta nên chia nhau ra", Barry tiếp tục, "Tôi biết rằng điều này rất nguy hiểm, nhưng chúng ta phải lùng sục từng chỗ một. Khi tìm thấy ai sống sót, chúng ta sẽ quay trở lại căn phòng này và hãy dùng nó làm điểm hẹn"

    Vừa vân vê bộ râu, Barry vừa nhìn cô đăm đăm: "Jill, liệu cô có thể làm được không? Hay là chúng ta cùng nhau tìm.."

    "Không, anh nói đúng đấy", Jill đáp, "Tôi sẽ đi tới mạn phía tây tòa nhà."

    Không như cảnh sát, những thành viên của S. T. A. R. S đã được huấn luyện bài bản để hành động một mình. Họ hiếm khi đi cùng nhau.

    "Được rồi", Barry gật đầu, "Tôi sẽ quay lại và cố gắng thuyết phục những cánh cửa chết tiệt kia mở ra. Hãy cẩn thận và tiết kiệm đạn dược.."

    "Anh cũng phải cẩn thận đấy", Jill đáp. Barry gật đầu, nắm chặt khẩu Colt Python. "Tôi sẽ ổn thôi, bảo trọng"

    Không còn gì để nói. Jill đi thẳng tới chỗ những cánh cửa ở góc tường phía tây, nơi mà Wesker chưa đến trước đó. Phía sau lưng cô, Barry nhanh chóng quay về phía phòng ăn. Có tiếng cửa mở ra rồi đóng lại, và giờ đây chỉ còn một mình cô.

    Xem nào!

    Cánh cửa sơn xanh mở ra nhẹ nhàng, phô bày một căn phòng nhỏ, tối và yên lặng. Những hình ảnh phản chiếu ánh sáng chạy nhập nhằng trên tường, và ở giữa căn phòng là bức tượng của một người phụ nữ nâng một chiếc bình lớn trên vai. Jill đóng cửa lại và quét mắt khắp căn phòng, để ý thấy có hai cánh cửa đối diện cánh cửa cô vừa bước vào. Cánh bên trái đã mở sẵn, nhưng có một cái rương đã chặn mất lối đi. Có vẻ như Wesker đã không đi qua lối này.

    Cô đi đến phía cánh cửa bên phải và thử vặn tay nắm.

    Khóa!

    Thở dài, cô lấy cái máy mà Trent đã đưa cho cô ra và bật màn hình lên.

    "Hãy thử xem đâu là cái mà 'Ngài' Trent cho là quan trọng."

    Cô bật máy lên và bắt đầu kiểm tra. Dường như Trent đã cập nhập tất cả những gì mà cô tìm thấy về những vụ giết người và mất tích bí ẩn ở thành phố Racoon, ngay cả thông tin về S. T. A. R. S cũng được lưu trữ. Không có gì mới cả. Jill bỏ qua những thứ ấy đến khi cô nhìn thấy một danh sách những cái tên.

    WILLIAM BIRKIN, STEVE KELLER, MICHAEL DEES, JOHN HOWE, MARTIN CRAGKHORN, HENRY SARTON, ELLEN SMITH, BILL RABBITSON.

    Cô cảm thấy lo. Không có cái tên nào trong này quen thuộc cả. Ngoại trừ Bill Rabittson, bạn của Chris, có phải là người làm việc cho Umbrella không? Cô không chắc lắm, và cô nghĩ sẽ hỏi Chris sau..

    Thật lãng phí thời gian, cô còn phải tìm kiếm những thành viên S. T. A. R. S khác nữa. Cô tua đến đoạn cuối của tập tài liệu và một tấm ảnh nhỏ hiện ra, bao quanh bởi những dòng nhỏ. Bên dưới là một dòng chữ nhỏ, và dường như đó chính là thứ cô đang mong chờ từ Trent:

    CHÌA KHÓA HIỆP SĨ, MẮT HỔ, BỐN HUY HIỆU (CÁNH CỔNG DẪN ĐẾN CUỘC SỐNG), ĐẠI BÀNG PHÍA TÂY/CHÓ SÓI PHÍA ĐÔNG "

    " Hừm, thật là trừu tượng. Có vẻ như nó đã làm rõ mọi điều phải không? "

    Bức tranh ấy là một loại bản đồ. Trông nó như một tấm phác đồ. Khu vực lớn nhất nằm chính giữa, và có một ngách nhỏ hướng về phía bên trái.

    Jill chợt cảm thấy tim mình đập lỡ một nhịp. Cô nhìn vào màn hình và băn khoăn rằng Trent đã khám phá ra nó như thế nào.

    Đây là tầng một của căn nhà. Cô bấm nút" tua "một lần nữa, và sơ đồ tầng 2 của căn nhà hiện ra. Không còn gì nữa cả.

    Đúng như cô đã nghĩ, không còn nghi ngờ gì nữa để khẳng định những vụ án thảm khốc trong thành phố đều bắt nguồn từ biệt thự Spencer này, có nghĩa rằng, câu trả lời cho những vụ án ấy đều nằm trong căn nhà này.

    * * *Con zombie rên lên khi Chris bắn 2 phát vào bụng nó. Một chất nhầy ghê tởm bắn ra, sượt qua mặt Chris. Anh lau nó đi, trong khi tay vẫn dính chặt vào cò súng. Con quái đổ vật xuống sàn. Thịt nó nhão ra.

    Chris cất khẩu Beretta đi, thở sâu, cố gắng hết sức để không nôn ra. Con zombie ngoài đại sảnh chỉ là 1 xác chết khô, còn con zombie này thì khác. Nó còn tươi! Vâng, tươi, ẩm ướt và hôi thối. Bụng anh chợt quặn lại..

    " Hãy bình tĩnh, có thể bọn chúng sẽ xuất hiện nữa.. "

    Anh bình tĩnh nhìn xuống cái xác, liên tưởng đến hình hài trước đó của nó. Anh đã cảm thấy luồng hơi thở nóng hổi của nó phả vào mặt mình. Tuy nhiên, anh nghĩ nó không thực sự đáng quan tâm. Dù với mục đích và quyết định nào, thì nó cũng là một con zombie. Nó đã cố gắng cắn anh, và rõ ràng những con quái vật này bao gồm một số cư dân của thành phố Racoon. Anh cần phải tìm những đồng đội khác, và họ cần phải tìm lối thoát và sự trợ giúp. Họ không có đủ vũ khí để chống trả trong tình huống này.

    Chris lên đạn cho khẩu súng của mình. Chỉ còn 15 viên đạn. Anh cảm thấy lo lắng. Chris có một con dao, nhưng ý nghĩ dùng dao để đối phó với những con quỷ khát máu ấy quả thực là không tưởng.

    Có một cánh cửa bên tay trái Chris. Anh vặn tay nắm và nhận ra nó đã bị khóa. Chris đi xuống dọc theo đại sảnh, nín thở để nghe từng tiếng động nhỏ nhất. Chất nhờn dính trên áo của Chris gây khó khăn cho việc nhận biết zombie, nhưng đó có thể là cơ hội duy nhất của anh để tránh đụng độ trực tiếp.

    Anh nhanh chóng rẽ về phía bên trái đại sảnh, nắm chắc khẩu beretta trong tay. Có một cây cột đỡ trần chắn mất tầm nhìn của anh, nhưng anh có thể nhìn thấy tấm lưng của một người ngay sau nó, cái lưng lở loét và những mảnh quần áo tả tơi của một con zombie.

    Chris nấp mình về phía bên phải, cố gắng ngắm thật kỹ. Con zombie ấy cách anh khoảng 40 feet, và anh không muốn lãng phí băng đạn cuối cùng của mình..

    * * *Nghe thấy tiếng đôi giày anh gõ lên mặt sàn gỗ, nó quay lại, lết đi một cách chậm rãi. Chậm đến mức khiến Chris do dự, anh đứng quan sát cái cách nó di chuyển.

    Con này trông như được bao phủ bởi một lớp chất nhầy mỏng, ánh sáng lờ mờ phản chiếu làn da lấp lánh của nó khi nó lết bước một cách mù quáng về phía Chris. Nó từ từ giơ tay lên, cái hộp sọ xanh xao, trọc lóc của nó lắc lư trên cái cần cổ gầy hốc hác. Nó lết tới trước một cách lặng lẽ. Chris lùi sang bên trái, con zombie liền đổi hướng, xoay qua phía anh một cách háo hức, từ từ thu ngắn dần cự ly.

    Giống hệt trong phim; nguy hiểm nhưng lại ngu ngốc. Và dễ dàng vượt qua..

    Anh phải tiết kiệm đạn trong trường hợp bị dồn vào chân tường. Có cái cầu thang ở cuối hành lang, và Chris hít một hơi thật sâu, chuẩn bị tinh thần. Anh lùi lại, tự tạo cho mình đủ chỗ để lấy đà thì nghe thấy một tiếng kêu hổn hển sau lưng, một làn gió đầy mùi hôi thối đột ngột tràn ngập các giác quan của anh. Quay người lại, anh nhận ra nó trước khi có thể nhìn thấy nó. Con zombie thối rữa chỉ còn cách anh có vài bước, đang vươn tới chỗ anh, mấy khúc ruột mục nát của nó thòi ra ngoài khoang bụng hở hoác. Nó vẫn chưa chết, anh đã không đợi đủ lâu để kiểm tra chắc chắn, và sự dại dột của anh suýt chút nữa đã khiến anh phải trả giá.

    " Khốn kiếp! "

    Chris chạy nước rút về phía chiếc hành lang, lách qua cả hai con và tự nguyền rủa chính mình. Anh chạy qua cái xà nhà dầy cộm, gần đến hành lang rồi thì bỗng nhiên anh khựng lại, lạnh người khi nhìn thấy cái gì đang đợi mình ở phía trước. Anh chỉ kịp nhìn lướt qua con quái vật rách rưới đứng ở đầu cầu thang, anh quay phắt lại, giương súng lên đối mặt với con vật đang lê bước về phía mình một cách thèm thuồng.

    Từ trong bóng tối dưới chân cầu thang là một tiếng thở dài kêu ùng ục và tiếng cào vào mặt gỗ; thêm một con nữa. Anh đã bị mắc kẹt, không có cách gì có thể giết hết bọn chúng - đúng rồi, cái cửa!

    Cánh cửa đó đối diện với cầu thang, chỗ lượn của mặt gỗ đen quá khớp với bóng tối khiến suýt chút nữa thì anh đã không nhìn thấy nó. Chris chạy ào về phía cánh cửa, nắm lấy tay nắm, cầu trời cho nó mở ra được trong khi xung quanh anh, lũ quái vật đang sáp lại gần.

    Nó mà bị khoá thì đời anh kể như xong.

    Mười tám tuổi đầu, Rebecca Chambers chưa bao giờ khiếp sợ đến thế, chưa bao giờ. Trước cái thứ quái vật dường như là bất tử, cô nghe thấy tiếng sột soạt của thịt thối rữa cọ cọ vào cánh cửa và cố gắng liều mạng nghĩ đến một kế hoạch, sự sợ hãi của cô tăng thêm theo từng phút. Cánh cửa phòng này không hề có khoá còn cô thì đã làm mất súng trên đường chạy tới ngôi nhà. Nhà kho thì bé tí tẹo, tuy đầy thiết bị y tế và hàng chồng giấy, nhưng tuyệt không có thứ gì có thể sử dụng làm vật hộ thân ngoại trừ một cái bình xịt diệt côn trùng đã bị vơi đi một nửa. Thứ mà cô đang nắm chặt trong tay, đứng sau cánh cửa căn phòng nhỏ. Trường hợp lũ quái vật cuối cùng cũng tìm ra cách sử dụng cái tay nắm cửa, cô dự định sẽ xịt thẳng vào mắt chúng rồi sau đó bỏ chạy.

    Cứ cho là bọn chúng sẽ phá lên cười, nhưng mình thì có cơ hội để chạy lách qua bọn chúng; thuốc xịt côn trùng, vũ khí xịn đấy chứ.

    Cô nghe thấy tiếng súng nổ ở đâu đó quanh đây, nhưng sau đó thi im bặt. Niềm hy vọng của cô khi cho rằng đó là một thành viên trong đội mất dần đi sau vài giây, và khi cô bắt đầu nghiêm túc đặt ra giả thuyết có lẽ mình là người duy nhất còn sống sót thì cánh cửa mở tung, một bóng người thở hổn hển nhào vào trong phòng. Rebecca không một chút do dự. Cô nhảy lên phía trước và bấm nút xịt, phun một làn sương hoá chất thẳng vào mặt nó, gồng mình định chạy qua.

    " Ah! ", Nó rú lên, ngã ngược về phía sau khiến cánh cửa đóng sầm lại. Nó ôm mắt, thở phì phì. Nó không phải là quái vật; cô vừa tấn công một thành viên của đội Alpha.

    " Ôi, không! ", Rebecca vừa chạm vào túi đựng dụng cụ y tế của mình, nộ khí của cô giảm xuống khi nhìn một thành viên khác của đội chiến đấu S. T. A. R. S. Với cảm giác ngượng nghịu. Cô mò trong túi ra một miếng vải sạch và một bình nước nhỏ rồi bước về phía anh.

    " Anh hãy nhắm chặt mắt lại, đừng dụi mắt. "

    Thành viên đội Alpha bỏ tay xuống, mặt anh đỏ bừng, và cuối cùng cô cũng nhận ra anh. Đó là Chris Redfield, chàng trai hấp dẫn nhất đội S. T. A. R. S, chưa kể lại còn là cấp trên của cô nữa. Cô thấy mặt mình ửng đỏ, và đột nhiên cảm thấy mừng là anh không nhìn thấy cô lúc này.

    Thú vị thật đấy Rebecca. Cái kiểu gây ấn tượng tốt vào lần đầu ra quân là thế này đây. Mất súng, lạc đường, làm đồng đội mù mắt..

    Cô dẫn anh đến một chiếc giường nhỏ ở góc phòng, bảo anh ngồi xuống rồi bắt đầu thực hành những gì cô đã được dạy.

    " Anh ngửa đầu ra sau đi. Sẽ đau một tí, nhưng chỉ là nước thôi, anh hiểu không? "Cô lau mắt cho anh bằng miếng vải ẩm và nhận ra rằng cô đã xịt vào mắt anh một thứ không thể tệ hơn.

    " Cái thứ đó là gì thế? ", anh nói, chớp mắt liên tục. Nước mắt cùng với nước chảy đầy xuống mặt anh, nhưng có vẻ như anh đã không bị thương.

    " Ơ, thuốc xịt muỗi ạ. Cái nhãn đã bị bóc đi nhưng thành phần của nó chắc là permephrin, nó gây khó chịu nhưng tác dụng của nó sẽ không kéo dài lâu đâu. Em bị mất súng, và khi anh bước vào, em cứ tưởng anh là một trong số những cái thứ ngoài kia, tuy nhiên nếu đến giờ mà chúng vẫn chưa nghĩ ra cách dùng tay nắm cửa thì gần như chắc chắn là chúng không thể. "

    Cô nhận ra là mình đang nói lảm nhảm linh tinh nên cô dừng lại, rửa nốt vết thương rồi lùi lại. Chris lau mặt và nhìn cô chằm chằm với đôi mắt đỏ ngầu.

    " Rebecca.. Chambers phải không? "

    Cô gật đầu:" Vâng. Anh à, em thật sự xin lỗi. "

    " Đừng bận tâm về điều đó ", anh nói và mỉm cười," Thực sự mà nói thì vũ khí của em cũng không tệ đấy chứ. "

    Anh đứng dậy và nhìn quanh căn phòng nhỏ, cau mày. Ở đây chẳng có gì nhiều: Một cái hộp để mở trong đựng đầy giấy tờ, một cái giường, và một cái bàn làm việc. Rebecca đã tìm khắp phòng để tìm vũ khí chống lại lũ quái vật.

    " Những người còn lại trong đội của em thế nào rồi? ", Anh hỏi. Rebecca lắc đầu:" Em cũng không biết nữa. Máy bay bị hỏng hóc gì đó nên bọn em phải hạ cánh. Bọn em bị bọn thú trông như một loại chó tấn công, và Enrico bảo bọn em là chạy trước còn anh ấy yểm trợ. "

    Cô nhún vai, đột nhiên cảm thấy mình như con bé mới 12 tuổi.

    " Em chạy lòng vòng trong rừng cho đến khi gặp cổng trước của toà nhà này. Em nghĩ là ai đó trong đội đã phá cửa, em mở nó ra.. "

    Cô quay mặt đi tránh ánh mắt mạnh mẽ của anh. Phần còn lại thì quá rõ rồi: Cô không có vũ khí, lạc đường và cuối cùng thì chui vào đây. Nói gì thì nói, đó đúng là một màn trình diễn quá sức nghèo nàn.

    " Này ", giọng anh dịu dàng," Em cũng chẳng thể làm gì hơn thế được cơ mà. Enrico bảo em chạy thì em chạy, em đã làm theo mệnh lệnh. Lũ quái vật ngoài kia, bọn zombie.. chúng có mặt ở khắp mọi nơi. Anh cũng đang bị lạc đây, và những thành viên còn lại của đội Alpha thì có thể đang ở bất cứ đâu. Tin anh đi, chỉ cần biết là em vẫn còn sống đến giờ này là giỏi lắm rồi. "

    Bên ngoài, một con zombie rên lên một tiếng nhỏ sầu não, khiến Chris dừng lại, khuôn mặt anh trở nên dữ tợn.

    Rebecca rùng mình:" Giờ thì chúng mình làm gì đây? "

    " Mình sẽ tìm những người còn lại và cố gắng tìm đường thoát khỏi nơi này ". Anh thở dài, nhìn xuống vũ khí của mình." Có điều là em thì không có súng, còn anh thì sắp sửa hết sạch đạn.. "

    Mặt Rebecca rạng rỡ, cô lục tìm trong túi ba lô. Cô rút ra hai băng đạn còn đầy nguyên và đưa cho anh, vui mừng khi cô cũng có thể giúp đỡ anh.

    " Ồ! Còn cái này em tìm thấy trên bàn làm việc ", cô nói và đưa cho anh chiếc chìa khoá có hình thanh kiếm khắc ở trên. Cô không biết nó dùng để mở cái gì, nhưng cô nghĩ rằng biết đâu nó sẽ có ích. Chris suy tư ngắm nhìn chiếc chìa khoá rồi anh thả nó vào trong túi. Anh bước tới hộp giấy và nhìn xuống tập giấy tờ. Anh lật chúng ra, cau mày.

    " Chuyên khoa em học là hoá sinh, đúng không? Em đã xem qua chỗ giấy tờ này chưa? "

    Rebecca lắc đầu:" Thực ra. Lúc trước em cứ lo trông chừng cái cửa ra vào. "

    Anh đưa cho cô một tờ giấy và cô đọc lướt qua nó thật nhanh. Đó là một danh sách của các nơ ron truyền tín hiệu và mức độ chỉ thị.

    " Hoá học não ". Cô nói." Nhưng tất cả con số ở đây đều không rõ. Lượng chất serotonin và norepinephrine quá thấp.. nhưng anh nhìn này, chất dopamine lại không có trên biểu đồ, chúng ta đang nói đến chứng tâm thần phân liệt ác tính. "

    Cô nhận thấy cái nhìn hoài nghi của anh và mỉm cười. Là một sinh viên tốt nghiệp đại học khi mới mười-tám-tuổi, cô biết rất rõ về những chất đó. Đội S. T. A. R. S. Đã kết nạp cô ngay khi cô ra trường, hứa với cô là sẽ dành riêng cho cô một phòng nghiên cứu riêng cùng với cả một đội những nhà nghiên cứu để học về sinh học phân tử, niềm đam mê thật sự của cô, tất nhiên cô đã được đào tạo cơ bản và cũng có chút kinh nghiệm trước đây. Chưa từng có ai thể hiện sự thiết tha trong việc tuyển dụng một thần đồng đến thế..

    Có một tiếng thụi nhẹ vào cửa khiến nụ cười của cô héo đi. Được rồi, cô đang tích luỹ kinh nghiệm. Chris kéo chiếc chìa khoá có vết khắc hình cây kiếm ra khỏi túi và nhìn cô một cách nghiêm trang:

    " Anh đã đi ngang qua một cánh cửa có khắc hình cây kiếm trên lỗ khoá. Anh định sẽ kiểm tra nó, xem nó có dẫn trở lại đại sảnh chính không. Và anh muốn em ở lại đây nghiên cứu đống tài liệu. Biết đâu có điều gì đó chúng ta có thể dùng được. "

    Sự thiếu chắc chắn chắc hẳn đã thể hiện trên mặt cô. Anh cười thân thiện, tiếng cười nhỏ và êm dịu:

    " Nhờ có em, giờ anh đã có cả đống đạn, và anh sẽ không đi lâu đâu. "

    Cô gật đầu, cố gắng thư giãn. Cô cảm thấy sợ hãi, nhưng để anh nhận ra điều đó cũng chẳng ích gì. Cô đoán chắc là anh cũng sợ như cô.

    Anh bước tới cửa, tiếp tục nói: ." Đội RPD có thể đến đây bất cứ lúc nào, nên nếu anh chưa quay lại ngay thì em vẫn cứ đợi ở đây nhé. "

    Anh giương súng lên, đặt tay còn lại lên nắm cửa.

    " Chuẩn bị nhé. Ngay khi anh ra ngoài, em hãy đẩy cái rương ra chặn trước cửa. Anh sẽ gọi em khi anh quay lại."

    Rebecca lại gật đầu, và với một nụ cười nhẹ cuối cùng, Chris mở cửa và thò đầu nhìn hai bên trước khi đi ra đại sảnh. Cô đóng cửa lại rồi áp tai vào cửa, nghe ngóng. Sau vài giây im lặng, cô nghe thấy tiếng súng nổ cách đó không xa, khoảng năm sáu phát rồi lặng im.

    Vài phút sau, cô đẩy cái rương chặn cửa ra vào, dịch nó ra ngay trước bản lề để cô có thể đẩy nó ra khỏi lối đi một cách dễ dàng. Cô quỳ xuống trước nó, cố gắng gạt bỏ suy nghĩ ra khỏi đầu khi cô bắt đầu xem qua đống giấy tờ, cố quên đi sự trẻ con và tự ti mà cô thật sự đang cảm thấy.

    Thở dài thườn thượt, cô rút ra vài tờ giấy và bắt đầu đọc.
     
  6. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 7

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Phá khóa dễ ợt, ba cái lẫy dẹt nằm trên cùng một hàng; chỉ cần với hai cái kẹp giấy, Jill cũng thừa sức mở được nó. Theo như tấm bản đồ thì cánh cửa đó sẽ mở ra một hành lang dài..

    Không còn nghi ngờ gì nữa. Cô nhìn lại màn hình máy tính thêm một lúc nữa rồi thả nó vào trong ba lô và bắt đầu suy nghĩ. Hình như là có một con đường thoát ra phía sau tòa nhà, xuyên qua vài cái hành lang và một loạt căn phòng. Cô có thể vừa tìm Wesker và những người khác trên đường đi, vừa kiểm nghiệm xem con đường đó có đảm bảo thoát ra được không. Cô bước từng bước một lên cái cầu thang chật hẹp, tay lăm lăm khẩu Beretta đã nạp đầy đạn.

    Có điều gì đó bất thường. Cái hành lang không hề đẹp mắt chút nào, chỉ có thảm trang trí và giấy dán tường màu nâu vàng nhạt, Mấy cánh cửa sổ lớn thì không nhìn thấy gì khác ngoài bóng tối bao phủ. Còn đống tủ trưng bày thì xếp thành hàng sát tường, tuy vậy..

    Có ba cái tủ, trên đỉnh mỗi cái có một con cừu nhỏ, và mỗi cái lại trưng bày một dãy lớn xương người trắng nhởn được sắp xếp ngay ngắn trên các kệ một cách nổi bật, rải rác bên cạnh là những món đồ khó hiểu. Jill bắt đầu đi dọc hành lang, dừng lại một chút trước những cảnh tượng kỳ quái. Xương sọ, xương cánh tay, xương chân, xương bàn tay, xương bàn chân. Có ít nhất ba bộ xương hoàn chỉnh, và giữa những chiếc xương tái nhợt và rỗ lỗ chỗ đó là lông vũ, chuỗi hạt bằng đất sét cùng những mảnh da lột nhăn nhúm.

    Jill nhấc thử một trong những mảnh da lột lên và nhanh chóng phải đặt ngay chúng xuống, chùi mấy ngón tay mình vào quần. Cô không chắc lắm, nhưng cảm giác thì đúng như cô tưởng tượng, y như da người thuộc, cứng và có vẻ nhờn nhờn.

    Choang!

    Cánh cửa sổ phía sau lưng cô vỡ tung, kính bắn văng vào phía trong, một hình hài mềm nhũn, gân guốc phóng vào trong sảnh, gầm gừ và đang táp vào không khí. Đó là một trong số những con chó săn giết người bị đột biến, hai con mắt đỏ au như những mảnh da sống đẫm máu của nó. Nó bắt đầu tấn công cô, những chiếc răng trắng ánh lên và nguy hiểm như những miếng thủy tinh lởm chởm sáng lấp lánh rơi xuống từ khung cửa sổ bị đập vỡ.

    Lùi lại giữa hai chiếc tủ, Jill bắt đầu bắn. Góc bắn bị chệch, viên đạn làm tróc lớp gỗ dưới chân cô trong khi con chó đã nhảy chồm về phía cô, tiếng gầm gừ phát ra từ sâu trong cổ họng.

    Nó va thẳng vào bắp đùi Jill, đẩy Jill va rầm vào tường đau đớn rồi cố gắng cắn ngập hàm răng của nó vào người cô. Mùi thịt thối rữa phả vào người Jill, cô lại tiếp tục bắn không biết thêm bao nhiêu phát và nhận thấy rõ là mình đang gào lên trong sự sợ hãi lẫn phẫn nộ, một tiếng kêu giận dữ như phát ra từ yết hầu cùng tiếng rít lúc hấp hối phát ra từ con chó ghê tởm.

    Viên đạn thứ năm trúng thẳng vào ngực của con chó đẩy văng nó ra xa. Với một tiếng kêu ăng ẳng cuối cùng nghe như tiếng chó con, nó đổ gục xuống sàn, máu tuôn ra thấm đẫm chiếc thảm màu nâu vàng.

    Jill vẫn tiếp tục chĩa súng vào cái thân hình bất động, cô hít một hơi dài, rùng mình. Các chi của con chó đột ngột co rút lại, những móng vuốt to lớn co giật, đập đập vào mặt sàn nhầy nhụa máu đỏ tạo thành những vệt hình thù kỳ quái, rồi nó lại nằm im. Jill nghỉ ngơi một chút, cô xem cử động vừa rồi như một sự bùng phát cuối cùng trước khi chết, khi sự sống đang được giải thoát khỏi cơ thể. Người Jill bị thâm tím, nhưng con chó đã chết.

    Jill gạt tóc ra khỏi mắt và cúi xuống cạnh nó, nhìn kỹ những bắp thịt lộ ra ngoài và hàm răng khổng lồ. Lúc trước thì trời quá tối và cô quá vội vã để có thể nhìn rõ những con vật đã giết chết Joseph, nhưng dưới ánh sáng rực rỡ của hành lang, ấn tượng lúc ban đầu của cô vẫn không hề thay đổi; nó trông giống hệt như một con chó bị lột sạch da.

    Jill đứng dậy rồi quay lại, thận trọng nhìn hàng cửa sổ trong ngôi nhà. Rõ ràng chúng không giúp gì cho việc phòng chống những mối nguy cơ bên ngoài. Hành lang đột ngột rẽ sang trái và cô khẩn trương vượt qua những hình thù kinh khủng được trang trí trên tường.

    Cánh cửa cuối hành lang đã được mở khóa. Nó mở ra một hành lang khác, tuy không sáng bằng cái đầu nhưng đỡ rùng rợn hơn. Giấy dán tường màu xanh xám lặng thinh trưng lên những hình vẽ trang trí thông thường và phong cảnh dịu dàng, không có bất kỳ một cái xương hay vật thờ cúng nào trong tầm mắt.

    Cánh cửa đầu tiên phía bên phải đã bị khóa, có một hình áo giáp được khắc cạnh lỗ khóa. Jill nhớ lại danh sách trong máy tính, có thông tin gì đấy về những cái chìa khóa hiệp sỹ, nhưng cô quyết định là chưa quan tâm tới nó vội. Theo như bản đồ của Trent, có một căn phòng ở phía còn lại mà không dẫn đến đâu cả. Thêm nữa, nếu Wesker đã đi theo lối này, cô không nghĩ rằng hắn lại đi khóa trái cửa sau khi đã đi qua.

    Đúng thế, có vẻ là chưa chắc Chris đã biến mất, không nên giả định bất cứ điều gì về nơi này.

    Cánh cửa tiếp theo dẫn cô vào một phòng tắm nhỏ tạo cảm giác cổ xưa, có một cái quạt trần và một cái bình bốn chân kiểu cổ. Căn phòng không có dấu hiệu gì là mới được sử dụng cả.

    Jill đứng trong căn phòng cũ kỹ, nhỏ bé, hít thở thật sâu, và cảm thấy kết quả là chất andrenaline xộc lên hệt như lúc cô đứng ở ngoài hành lang. Lớn lên, Jill học được cách tận hưởng cảm giác rùng mình trước nguy hiểm, của việc lén lút đột nhập và thoát ra khỏi những nơi xa lạ chỉ với vài đồ nghề đơn giản cộng thêm sự thông minh nhanh trí giúp cô được an toàn. Từ khi gia nhập đội S. T. A. R. S, cảm giác thích thú thời thơ ấu ấy bị giảm bớt dần, và thay vào đó là cái thực dụng của đồ hỗ trợ và súng ống, nhưng giờ đây nó đã trở lại, không báo trước và cũng không phải là không hay. Jill không thể tự lừa dối mình về cái thú vui đơn giản mà thường kéo theo nó là việc đối mặt với cả cái chết lẫn cảm giác chiến thắng. Cô cảm thấy khá.. tuyệt. Tràn đầy sức sống.

    "Đừng có mà liên hoan vội, tâm trí cô thì thào một cách châm biếm. Hay là mày đã quên mất rằng đội S. T. A. R. S. Đang bị nuốt chửng dưới cái đáy địa ngục này?"

    Jill buớc trở lại hành lang tĩnh lặng rồi lách qua một góc khác, tự hỏi liệu Bary đã tìm thấy Chris chưa và cả hai người bọn họ có tìm thấy thành viên nào của đội Bravo không. Cô cảm thấy mình có lợi thế khi có bản đồ trong tay, và dự định khi cô tìm ra con đường thoát khỏi nơi này, Jill sẽ quay lại đại sảnh chính và đợi Barry. Với thông tin trên máy tính của Trent, họ sẽ có thể tìm kiếm nhanh chóng và kỹ lưỡng hơn.

    Cuối hành lang là hai cánh cửa đối diện với nhau. Cánh cửa bên phải là cái cô cần. Jill vặn thử tay nắm và được tưởng thưởng xứng đáng với một tiếng động nhỏ từ cái then cửa vang lên. Jill bước vào trong một hành lang tối tăm và nhìn thấy một con zombie, cái bóng vụng về, nhợt nhạt của nó đang đứng gần một cánh cửa cách đó khoảng mười bước. Khi Jill giương vũ khí lên, sinh vật đó bắt đầu tiến về phía cô, phát ra những tiếng đói khát từ đôi môi rữa nát của nó. Một cánh tay treo lủng lẳng bên hông, và mặc dù Jill có thể thấy xương của nó lởm chởm lòi ra khỏi vai, nó vẫn hăng hái giương tay ra với cánh tay còn lại.

    "Cái đầu, ngắm vào cái đầu."

    Phát súng nổ lớn đến mức khó tin xé toạc không khí ảm đạm phát rùng mình, phát súng đầu tiên thổi bay bên tai trái của nó, phát thứ hai và thứ ba thì khoan hai lỗ trên hộp sọ của nó, ngay giữa cái trán xanh xao. Chất lỏng màu đen chảy đầm đìa xuống khuôn mặt đã tróc thành từng mảng, nó khuỵu xuống, đôi mắt vô hồn không còn chút sự sống lộn tròng vào phía trong.

    Trong bóng tối phía sau hành lang về phía bên phải có chuyển động lê bước, đúng chỗ mà cô đang định đi đến. Jill chĩa súng vào bóng tối và đợi nó di chuyển lại gần hơn, cả cơ thể cô căng lên như dây đàn.

    "Có tất cả bao nhiêu cái thứ như vậy ở đây thế nhỉ?"

    Ngay khi con zombie hiện ra ở góc tường, cô bắt đầu bắn, khẩu Beretta giật nhẹ trong lòng bàn tay lấm tấm mồ hôi của cô. Phát thứ hai làm thủng mắt phải của nó và nó ngay lập túc đổ gục xuống sàn gỗ bóng láng, tối tăm, chất bầy nhầy, nhớp nháp của nhãn cầu bị văng ra dính lốm đốm trên khuôn mặt xương xẩu của nó.

    Jill đợi, nhưng ngoài vũng máu chảy tràn ra xung quanh xác con vật, không một thứ gì chuyển động. Hít thở qua miệng để tránh cái mùi hôi thối đến kinh người, cô đi vội đến phía sau hành lang và rẽ phải, đi xuống một đoạn ngắn, cuối hành lang hẹp là một cái cửa sắt rỉ sét.

    Nó kẽo kẹt mở ra và không khí trong lành tràn ngập người cô, ấm áp và sạch sẽ sau cái không khí lạnh lẽo như nhà xác của khu biệt thự. Jill cười, lắng nghe tiếng kêu đều đều của dế và ve sầu dưới bầu trời buổi đêm. Cô đã đến điểm đích cuối cùng của chuyến khảo sát, và mặc dù cô vẫn chưa đi ra phía ngoài nhưng tiếng động và mùi hương từ khu rừng đã khiến cô có cảm giác hoàn thành nhiệm vụ.

    Giờ thì đã có con đường an toàn rồi, chạy thẳng ra phía sau biệt thự. Chúng ta sẽ có thể đi về phía bắc, đến khi bắt gặp một con đường dành cho những người đi đốn gỗ rồi sau đó có thể cuốc bộ đến hàng rào giới hạn..

    Cô bước ra ngoài trên con đường đi bộ có mái che lát đá khảm màu xanh lá, bao xung quanh là tường bê tông. Có những khe hở hiện ra gần trần của con đường mòn, giải thích cho cái không khí ấm áp ở đây. Cây thường xuân lộ ra từ kẽ hở hình vòm như nhắc nhở người ta nhớ tới thế giới bên ngoài. Jill vội vàng đi xuống cái hành lang mờ tối, cô nhớ rằng theo như bản đồ thì có một căn phòng đơn ở phía bên phải, cuối hành lang, gần như chắc chắn là một kho dự trữ.

    Quẹo ở góc tường và dừng lại trước một cánh cửa sắt khác trông có vẻ nặng nề, nụ cười của Jill hơi héo đi khi cô chạm vào tay nắm; lỗ khóa đã bị bít lại. Jill cúi người xuống và lấy ngón tay chọc vào cái lỗ bé tí, nhưng vô ích. Ai đó đã dùng chất đóng cứng để bịt nó lại. Bên trái cánh cửa là một thứ trông như biểu đồ làm bằng chất đồng đỏ xám xịt gắn trên lớp bê tông. Có bốn vết lõm hình lục lăng trên một tấm sắt phẳng, mỗi lỗ to bằng nắm tay và nối với lỗ bên cạnh bằng một đường mảnh. Jill liếc mắt xuống lời ghi chú khắc ở bên dưới và ước gì cô có được một chiếc đèn pin trong tay khi cô cố gắng đọc dòng chữ. Cô phủi lớp bụi mỏng khỏi mặt chữ được in lõm và thử đọc lại.

    KHI MẶT TRỜI.. LẶN Ở HƯỚNG TÂY VÀ MẶT TRĂNG MỌC LÊN TỪ HƯỚNG ĐÔNG, NHỮNG VÌ SAO SẼ BẮT ĐẦU XUẤT HIỆN TRÊN BẦU TRỜI.. VÀ GIÓ SẼ THỔI HƯỚNG VỀ PHÍA MẶT ĐẤT. KHI ĐÓ CÁNH CỔNG CỦA CUỘC SỐNG MỚI SẼ MỞ RA.

    Jill chớp mắt. Bốn cái lỗ - Danh sách của Trent! Bốn cái huy hiệu bằng đồng, và điều gì đó về cánh cổng của cuộc sống mới - đó là cơ chế kết hợp để mở cái khoá. Đặt bốn cái huy hiệu vào, cánh cửa sẽ mở ra.. chỉ có điều là mình phải đi tìm chúng trước.

    Jill đẩy thử cánh cửa và cảm thấy hoàn toàn thất vọng; đến một tiếng lách cách nhỏ cũng không có, chẳng được tích sự gì. Họ phải tìm ra một con đường khác để thoát ra, trừ khi là tìm được mấy cái huy hiệu - thứ mà có khi phải mất hàng năm trời mới tìm được ở một nơi như thế này.

    Một tiếng chó tru đơn độc phát ra xa xăm và được phụ hoạ thêm bởi tiếng gào thét của lũ chó gần biệt thự, những âm thanh kỳ lạ, cao vút xé toạc bầu không khí yên tĩnh dịu dàng của khu rừng. Phải có hàng tá con ở ngoài kia, và Jill đột ngột nhận ra rằng việc trốn thoát ra khỏi toà nhà từ phía sau chưa chắc đã là ý hay. Số đạn còn lại của cô rất hạn chế và chắc hẳn còn không ít những sinh vật ghê tởm khác đang lang thang khắp các đại sảnh, lết đi trong cơn đói, tìm kiếm cho mình bữa ăn kinh khủng tiếp theo một cách lặng lẽ..

    Cô thở dài nặng nề và bắt đầu quay lại ngôi nhà, nghĩ đến cái mùi hôi thối lạnh lẽo của cái chết mà rùng mình, cố gắng chuẩn bị sẵn tinh thần trước bất kỳ mối nguy cơ nào đang lẩn trốn trong các góc khuất của ngôi nhà.

    Cả đội S. T. A. R. S. Đã bị mắc kẹt.

    Chris biết rằng anh phải tiết kiệm đạn, nên khi rời chỗ Rebecca, anh đi xuyên qua hành lang mờ tối và chạy thật nhanh, đôi giày của anh nện lộp cộp trên nền nhà bằng gỗ. Chỉ còn ba con, tất cả đều tập trung gần cầu thang. Anh lách qua chúng một cách dễ dàng và chạy nước rút tới hành lang rồi vòng qua góc tường. Ngay khi anh chạm tới cánh cửa mở ra một hành lang khác, anh rẽ và tạo tư thế như một xạ thủ kiểu cổ điển, nắm chặt cổ tay cầm súng, ngón tay đặt trên cò súng.

    Từng con một loạng choạng lết qua góc tường, rên rỉ, nghiêng ngả. Chris ngắm thật cẩn thận, hít thở đều, tập trung tinh thần.. Anh bóp cò, hai viên đạn trúng vào cái mũi đã bắt đầu hoại thư của con đầu tiên. Không dừng lại, anh tiếp tục bắn phát thứ ba vào giữa trán con zombie tiếp theo. Chất lỏng nhão nhoét phun lên tường sau lưng chúng trong khi mấy viên đạn rơi trên sàn gỗ.

    Ngay khi chúng gục xuống sàn, anh thấy dấu hiệu của con thứ ba. Thêm hai phát súng nữa, đục lủng sọ con zombie, nó đổ sập xuống như một cái bị đựng đầy xương.

    Chris hạ khẩu Beretta xuống, tràn đầy tự hào. Anh là một tay súng thiện xạ đẳng cấp cao, thậm chí còn có không ít giải thưởng về bắn súng, nhưng vẫn thật tuyệt khi thấy rằng anh có thể làm được những gì khi có đủ thời gian ngắm bắn. Tuy rằng tốc độ bắn của anh chưa phải là nhanh lắm, bắn nhanh là sở trường của Barry.

    Anh chạm vào tay nắm cửa, đẩy thật mạnh, trong lúc đầu thì suy nghĩ về những mối đe doạ. Anh cho rằng đội Alpha có thể tự chăm sóc cho mình, họ cũng có từng ấy cơ hội mà anh đã có, nhưng đây là lần hành quân đầu tiên của Rebecca và cô ấy thậm chí còn chằng có súng; anh phải giúp cô thoát ra mới được.

    Anh bước trở lại khu vực ánh sáng êm dịu của hành lang với giấy dán tường màu xanh lá cây, nhanh chóng kiểm tra cả hai hướng. Thẳng phía trước, hành lang tối hơn; không biết có an toàn không.

    Phía bên phải là một cánh cửa với vết khắc hình thanh kiếm cạnh lỗ khoá, và con zombie đầu tiên bị anh bắn vẫn đang nằm dài ra không còn chút sinh khí nào trên sàn. Chris hài lòng khi thấy rằng nó không hề động đậy. Có vẻ như bắn vào đầu là cách tốt nhất để giết zombie, giống hệt như trong phim.. Chris lách về phía cánh cửa có hình thanh kiếm trên lỗ khoá, chĩa súng về bên trái, bên phải, rồi lại bên trái; anh đã có quá đủ ngạc nhiên trong một ngày rồi. Anh kiểm tra và khi thấy rằng đã an toàn, anh nhanh chóng tra chiếc chìa khoá mỏng vào lỗ khoá.

    Chìa khoá xoay một cách dễ dàng. Chris bước vào một căn phòng ngủ nhỏ, được chiếu sáng tốt hơn một chút so với hành lang, chỉ có một cái đèn duy nhất trên bàn cạnh góc tường. Không hề có một con quái vật nào, trừ khi là có con nào đấy đang nấp dưới gầm giường chật hẹp.. hoặc có thể là trong cái tủ phía bên kia bàn.

    Anh rùng mình, đóng cửa lại sau lưng. Đó là cảm giác của lần sợ hãi đầu tiên ở mọi đứa trẻ, và cũng là ở anh.

    Những con quái vật nấp trong tủ rồi thứ gì đó đang sống dưới gầm giường, chỉ rình lúc nhìn thấy mắt cá chân của đứa trẻ bất cẩn thò xuống là vồ lấy.

    "Mấy tuổi rồi mà còn?"

    Chris rũ bỏ trạng thái kích động, anh cảm thấy xấu hổ với trí tưởng tượng đang lang thang trong đầu mình. Anh bước một cách chậm rãi xung quanh phòng, tìm bất cứ thứ gì hữu ích. Không còn cánh cửa nào khác, không có đường quay lại đại sảnh chính, nhưng mà biết đâu anh lại tìm thấy một thứ vũ khí nào đấy cho Rebecca, ít ra thì cũng xịn hơn cái bình xịt côn trùng.

    Trong căn phòng, bên cạnh cái bàn ăn làm bằng gỗ sồi và kệ sách, là một cái giường nhỏ, bừa bộn và một cái bàn làm việc, hết. Anh nhanh chóng lục đống sách, sau đó đi vòng qua chân giường đến cái bàn làm việc. Có một cái chiết áp nhỏ cạnh cái đèn bàn, một tấm vải không có hoa văn; một cuốn nhật ký. Và mặc dù mặt bàn phủ đầy bụi nhưng cuốn nhật ký lại được để ở đây mới đây thôi.

    Tò mò, Chris cầm nó lên và thử lướt mắt qua vài trang. Biết đâu lại có manh mối giải thích chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây. Anh ngồi xuống mép giường và bắt đầu đọc.

    Ngày 9 tháng 5 năm 1998

    "Tối nay chơi bài xì phé với Scott cùng Alias ở phòng bảo vệ và Steve ở phòng nghiên cứu. Steve thắng lớn, nhưng mình nghĩ hắn chơi bẩn. Đúng là thứ cặn bã."

    Chris phì cười. Anh bỏ qua đọc tiếp đoạn sau và rồi nụ cười của anh đóng băng, tim anh như ngừng đập.

    Ngày 10 tháng 5 năm 1998

    "Cấp trên phân công mình tham gia một cuộc thí nghiệm. Trông con vật giống y như một con Gorilla bị lột da. Theo như hướng dẫn thì phải cho nó ăn sinh vật sống. Khi mình ném một con heo vào thì con Gorilla như đùa giỡn với nó rồi xé toạc chân con heo, kéo ruột nó ra trước khi bắt đầu ăn.

    " Cuộc thí nghiệm? Không lẽ tác giả đang nói đến lũ zombie? "

    Chris tiếp tục đọc, anh cảm thấy hứng thú với phát hiện của mình. Cuốn nhật ký rõ ràng là của một ai đó từng làm việc ở đây, và như thế có nghĩa là bức màn tội ác được che đậy thậm chí còn kinh khủng hơn cả những gì anh từng tưởng tượng.

    Ngày 11 tháng 5 năm 1998

    " Khoảng 5 giờ sáng, Scott đánh thức mình dậy. Làm mình sợ chết khiếp. Hắn ta mặc bộ đồ bảo hộ trông cứ như của phi hành gia vũ trụ. Hắn đưa cho mình một bộ khác và bảo mình mặc vào. Nói rằng có một tai nạn xảy ra ở phòng nghiên cứu dưới tầng hầm. Mình đã biết trước kiểu gì một vụ tương tự như thế này cũng sẽ xảy ra. Lũ khốn kiếp ở phòng nghiên cứu chưa bao giờ chịu nghỉ ngơi, kể cả vào ban đêm. "

    Ngày 12 tháng 5 năm 1998

    " Mình đã mặc bộ đồ không gian đáng ghét suốt từ hôm qua tới giờ. Da mình bắt đầu cáu ghét và ngứa ngáy toàn thân. Đã thế lũ chó đáng nguyền rủa lại còn nhìn mình như thể đang làm trò hề, nên mình quyết định hôm nay không cho chúng ăn nữa. Cho chúng mày chết. "

    Ngày 13 tháng 5 năm 1998

    " Phải lên phòng chữa bệnh vì lưng mình sưng phồng lên và rất ngứa. Họ dán băng thuốc lên lưng và bác sĩ bảo mình rằng không cần phải mặc bộ đồ không gian ấy nữa. Tất cả những gì mình muốn bây giờ là ngủ một giấc thật đã. "

    Ngày 14 tháng 5 năm 1998

    " Sáng nay lại thấy thêm một vết phồng rộp ở chân, làm mình phải kéo lê chân cả quãng đường ra đến chỗ chuồng chó. Cả ngày hôm nay chúng im lặng, thật là không bình thường chút nào. Thế rồi mình nhận ra một số trong bọn chúng đã trốn thoát. Ai mà phát hiện ra chuyện này thì mình tiêu mất. "

    Ngày 15 tháng 5 năm 1998

    " Ngày nghỉ đầu tiên sau một thời gian dài và mình cảm thấy đây đúng là một ngày tồi tệ. Tuy nhiên mình vẫn quyết định đến thăm Nancy, chỉ có điều khi mình định ra khỏi toà biệt thự thì bọn lính gác chặn mình lại. Chúng nó bảo là công ty đã có lệnh cấm ai rời khỏi khu vực này. Mình thậm chí còn không được phép gọi điện thoại - tất cả điện thoại đều bị bỏ đi! Luật lệ đếch gì thế này? "

    Ngày 16 tháng 5 năm 1998

    " Có tin đồn là một tay bên phòng nghiên cứu định tìm cách thoát khỏi ngôi biệt thự và đã bị bắn chết tối hôm qua. Cả cơ thể mình nóng nực và ngứa ran, người mình thì đổ mồ hôi liên tục. Mình gãi thử vào chỗ sưng tấy trên cánh tay thì thấy một miếng thịt rữa nát rớt ra. Trước khi mình nhận ra cái mùi khiến mình cảm thấy đói cồn cào thì mình đã bị ốm nặng. "

    Nét chữ bắt đầu run rẩy. Chris lật trang, và anh khó có thể thấy rõ những dòng cuối, nét chữ nghuệch ngoạc bừa bãi khắp mặt giấy.

    Ngày 19 tháng 5 năm 1998

    " Cơn sốt đã qua nhưng vẫn còn ngứa. Đói quá và phải ăn cả thức ăn của chó. Ngứa. Ngứa. Scott đến thăm, cái bản mặt của hắn thật khó coi nên giết hắn luôn. Ngon thật. Ngứa. Ngon thật. "

    Phần còn lại của trang giấy hoàn toàn trống không.

    Chris đứng dậy và thả cuốn nhật ký vào túi áo, những suy nghĩ trong đầu anh bắt đầu rộn lên. Một số trong những mảnh ghép cuối cùng cũng đã khớp vào đúng vị trí của nó –" việc nghiên cứu bí mật tại một khu biệt thự được canh gác cẩn mật, vụ tai nạn xảy ra tại phòng thí nghiệm ẩn, một loại virus hay bệnh truyền nhiễm nào đó đã biến đổi những người làm việc ở đây, biến họ thành những con quái vật kinh tởm.. và một số trong bọn họ đã thoát ra ngoài. "

    Những vụ tấn công và giết người ở thành phố Raccoon này khởi đầu từ cuối tháng Năm, hoàn toàn khớp với thời điểm" vụ tai nạn "bắt đầu phát huy tác dụng; trật tự thật có ý nghĩa. Nhưng chính xác thì loại nghiên cứu nào đã được thực hiện ở đây, và Umbrella thì can thiệp sâu đến đâu vào vụ này?

    " Liên quan gì đến Billy?"

    Anh không muốn nghĩ đến chuyện này, nhưng khi anh đang cố giải thoát khỏi suy nghĩ ấy thì một suy nghĩ khác lại hiện ra.. thế nhỡ nó vẫn còn lây nhiễm thì sao? Anh vội vã bước ra cửa, đột nhiên anh quyết định sẽ thông báo tin này cho Rebecca biết đã. Với học vấn của mình, có lẽ cô ấy có thể hình dung ra được cái gì đã bị giải phóng khỏi phòng nghiên cứu bí mật trong ngôi biệt thự.

    Chris nuốt nước bọt một cách nặng nề. Vào lúc này, anh và những thành viên khác của đội S. T. A. R. S. Rất có thể đã bị nhiễm bệnh mất rồi.
     
  7. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 8

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau khi Jill và Barry đi khỏi, Wesker ngồi trong một căn gác ở sảnh chính, suy nghĩ. Hắn biết đã đến thởi điểm hành động, nhưng vẫn muốn vạch ra thêm một vài tình huống có thể xảy ra trước khi ra tay; Wesker đã phạm sai lầm một lần, và đương nhiên hắn không muốn đi vào vết xe đổ của mình. Tuy vậy đội Alpha đã gián tiếp làm giảm thiểu khả năng mắc sai lầm của hắn.

    Hắn đã nhận được lệnh cách đây vài ngày, nhưng không muốn thực hiện nó sớm đến vậy. Vụ rơi máy bay của đội Bravo cùng với sự hèn nhát bất ngờ của Brad Vickers đã trở thành sự may mắn cho hắn. Thế nhưng, hắn nên chuẩn bị tốt hơn mới phải.. Wesker thở dài, gạt bỏ những suy nghĩ ấy ra khỏi đầu. Hắn sẽ tự kiểm điểm mình sau. Hắn không muốn phải kết thúc như thế này, và việc ẩn trốn thế này sẽ không thay đổi được điều gì. Hơn nữa còn rất nhiều việc phải hoàn thành. Wesker nắm rõ đường đi lối lại của phòng thí nghiệm ngầm dưới thành phố Raccoon, nhưng hắn mới chỉ đến căn nhà này một vài lần, và không một lần nào nữa từ khi chính thức được chuyển về thành phố Raccoon. Căn nhà này là một mê cung đích thực, được xây dựng dưới bàn tay của một kẻ thiên tài nhưng điên loạn. Spencer là một con cáo già, và lão đã dựng lên căn nhà này với vô số những đường ngầm, chìa khóa ẩn giấu - dường như Wesker đã bị lạc lối trong căn nhà này.

    Kế hoạch của Wesker là đưa đội Alpha và Bravo đến để giải quyết mọi thứ trước khi hắn vào trong căn phòng thí nghiệm bên dưới và làm rối loạn mọi thứ lên. Wesker có những chiếc chìa khóa và mã số chính được gửi đến cùng với thời điểm hắn nhận được mệnh lệnh, và có thể mở được hầu hết những cánh cửa trong tòa nhà này. Thế nhưng vấn đề nằm ở chỗ không có chìa khóa nào có thể dẫn ra khu vườn, hay nơi duy nhất để đi vào phòng thí nghiệm thay vì đi trong khu rừng.

    Điều đó sẽ không xảy ra. Bọn chó sẽ giết mình trước khi mình kịp làm gì, và nếu bọn 121 thoát ra ngoài.. Wesker chợt rùng mình. Hắn nhớ đến tai nạn xảy ra với người lính đứng quá gần chuồng chó, khoảng 1 năm trước đây. Anh ta chết trước khi kịp kêu cứu, và tất nhiên, Wesker sẽ không đi ra ngoài nếu không có một đội quân theo sau và bảo vệ..

    Đã 6 tuần trôi qua kể từ lần liên lạc cuối cùng của Michael Dees tới một vị giáo sư trong White Office. Người giáo sư ấy đã cô lập tòa nhà và giấu đi 4 mảnh của chiếc chìa khóa, ngăn không cho bất kỳ ai bị lây nhiễm vào tòa nhà. Thế nhưng ngay sau đó, chính những vị giáo sư ấy đã bị lây nhiễm và trở nên điên loạn, một tác dụng khác của loại virus ấy. Chỉ có chúa mới biết bọn họ đã chế tạo ra những cái bẫy chết người như thế nào trong căn phòng thí nghiệm ấy, khi họ đang dần dần mất đi ý thức của con người và trở thành những con quái vật gớm ghiếc.

    Dees không nằm ngoài số những người bị lây nhiễm, có chăng chỉ là ông ta có thể chịu đựng được lâu hơn so với những người khác. Mặc dù họ đã được hứa rằng sẽ có sự giúp đỡ, nhưng thực sự không có lý gì những thành viên White lại mạo hiểm mạng sống để rồi bị lây nhiễm. Họ sẽ để cho RPD lo chuyện đó. Một kế hoạch thâm độc.

    Wesker mân mê tấm thảm dưới chân, cố nhớ lại chi tiết cuộc gọi của Dees. Dù hắn có muốn hay không, mọi thứ cần phải được giải quyết trong đêm nay. Hắn cần phải thu hồi những chứng cứ cần thiết và vào được phòng thí nghiệm, điều đó có nghĩa là hắn sẽ tìm được những mảnh cần thiết của chìa khóa. Dees nói không rõ ràng về loài quạ ăn thịt người và những con nhện khổng lồ, nhưng anh ta nhấn mạnh về chiếc chìa khóa "được giấu ở nơi mà chỉ có Spencer có thể tìm ra", và đó là điều mà Wesker đang suy nghĩ. Hắn không mấy quan tâm đến tòa nhà, và điều đó khiến hắn không có được thứ mà hắn cần. Wesker chợt nhớ tên bức tượng con hổ với cặp mắt ngược, bộ áo giáp trong phòng trưng bày với cái bẫy gas chết người cùng với căn phòng bí mật trong thư viện..

    "Nhưng mà mình không có thời gian để kiểm tra tất cả những chỗ ấy, và sẽ không làm điều đó một mình.."

    Wesker tự nhủ. Bất chợt hắn đứng bật dậy, nở một nụ cười kiêu hãnh. Đúng vậy, ai nói là hắn phải làm điều đó một mình? Hắn có thể lợi dụng những thành viên S. T. A. R. S cho mục đích của hắn, và tất nhiên, hắn sẽ không phải nhúng tay vào. Jill và Chris đều tin tưởng hắn..

    Và khi chúng đang tìm kiếm trong tòa nhà, mình sẽ kích hoạt hệ thống và thoát khỏi cái chỗ chết tiệt này, nhiệm vụ hoàn thành!

    Vẫn với nụ cười trên môi, Wesker đi tới cánh cửa dẫn vào hành lang phòng ăn, chuẩn bị cho cuộc "phiêu lưu" của hắn. Đây là cơ hội để hắn thử sức mình với những người còn lại trong đội, với cuộc thí nghiệm thất bại của Spencer nói riêng. Và nếu hắn thành công, hắn có thể trở thành một người giàu có.

    Thực sự đối với hắn, mọi thứ đang trở nên thật đơn giản và vui nhộn.
     
  8. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    Bấm để xem
    Đóng lại
    CHƯƠNG 9

    Caw!

    Jill vội chĩa súng vào nơi phát ra tiếng động. Tiếng kêu ghê rợn ấy vang lên khắp căn phòng rộng lớn. Và sau đó, cô phát hiện ra nguồn gốc của tiếng động và thở phào. Chỉ là một cánh của bị sập lại.

    "Chúng đang làm cái quái gì ở đây vậy?"

    Jill vẫn đang ở mạn đằng sau của tòa nhà. Cô quyết định sẽ kiểm tra thêm một vài căn phòng nữa trước khi quay trở lại đại sảnh chính. Căn phòng đầu tiên cô thử vào đã bị khóa, có hình chiếc mũ sắt được chạm khắc bên ổ khóa. Bộ đồ phá khóa của cô không có tác dụng trong tình huống này, vì đây là một loại khóa kỳ lạ mà cô chưa từng thực tập bao giờ, vì thế Jill quyết định sẽ thử cánh cửa bên kia căn phòng. Cô mở cửa một cách dễ dàng, bước vào, sẵn sàng cho mọi điều có thể xảy ra. Và thật là hài hước, thứ mà cô đang "mong đợi" là những con quạ đen đúa đang bám mình vào những xa ngang chạy dọc căn phòng và đập cánh liên hồi.

    Một con quạ lớn rú lên kinh dị, tiếng rú của nó khiến Jill cảm thấy rùng mình. Có cả tá con đang xù bộ lông đen bóng và quan sát cô với những cặp mắt lấp lánh, và cô nhanh chóng cảm thấy mối đe dọa toát ra từ căn phòng.

    Căn phòng hình chữ U mà cô bước vào là một nơi lạnh lẽo như những nơi còn lại trong tòa nhà, có thể còn lạnh lẽo hơn, và trống trơn. Đó là một căn phòng trưng bày với những bức chân dung và tranh vẽ treo xung quanh tường. Trên sàn vung vãi những sợi lông chim, một minh chứng cho thấy lũ quạ đã xâm nhập được vào tòa nhà, và Jill đang băn khoăn vì sao. Có điều gì rất lạ với vẻ ngoài của chúng Chúng to lớn một cách khác thường, và ánh mắt chúng dành cho cô có vẻ gì đó thật nham hiểm và độc ác.

    Jill lại rùng mình, rồi cô quay lại cánh cửa. Không có gì ở đây cho cô cả, và cần phải tiếp tục cuộc chơi; cuộc chơi của tử thần. Cô chợt để ý đến những bức tranh và nhận thấy có những cái công tắc ở bên dưới mỗi khung tranh - cô đoán đó là công tắc đèn, mặc dù cô không thể tưởng tượng rằng kẻ nào lại có thể xây dựng một phòng tranh với những bức tranh tầm thường đến vậy. Một đứa bé, một chàng trai trẻ.. những bức tranh ấy không thực sự tồi tệ, nhưng chúng cũng không đáng để ý đến.

    Cô dừng lại khi chạm vào cái tay nắm lạnh ngắt của cánh cửa, khẽ cau mày. Có một cái bảng điều khiển nhỏ ngang tầm mắt phía bên phải, bên dưới là dòng chữ "Vùng sáng". Cô bấm vào một trong những cái nút và căn phòng chìm vào trong bóng tối.

    Một vài con quạ kêu lên giận dữ, đập cánh ầm ĩ. Jill bật lại đèn và suy nghĩ.

    "Nếu như đây là công tắc đèn, thì những cái công tắc bên mỗi bức tranh ấy có tác dụng gì?"

    Có lẽ có những thứ khác trong căn phòng này mà cô chưa khám phá ra. Jill tiến tới gần bức tranh đầu tiên. Đây là một bức tranh lớn có hình một thiên thần vẫy cánh bay qua những áng mây được tô điểm bằng một vài ánh mặt trời le lói. Tựa đề của nó là: Từ trong nôi đến hầm mộ. Ở bên dưới bức tranh không có cái công tắc nào, do vậy Jill liền chuyển sang bức tranh tiếp theo.

    Đây là bức chân dung của một người đàn ông trung niên đứng bên một cái lò sưởi khá tinh xảo, nét mặt của ông phảng phất sự mệt mỏi đến tột cùng. Dựa vào cách ăn mặc của ông, có vẻ như bức tranh này được vẽ vào khoảng những năm 40-50. Chỉ có một cái công tắc bên dưới bức tranh và chẳng có cái nhãn nào hết. Jill gạt công tắc và có tiếng điện nổ lách tách đằng sau lưng, lũ quạ trên xà ngang đồng loạt phát ra những tiếng kêu inh ỏi.

    Trong tích tắc cô nghe thấy tiếng phần phật phát ra từ những đôi cánh đen sì, kèm theo đó là những tiếng kêu dữ tợn bất thường khi lũ quạ lao thẳng vào cô. Jill vội chạy thật nhanh về phía cánh cửa, cảm thấy con đường như xa tới ngàn dặm. Một con quạ đã bắt kịp khi cô vừa chạm vào tay nắm cửa. Móng vuốt của nó vạch một đường lên làn da mềm mại sau gáy của cô. Jill thấy tai phải mình đau buốt, đồng thời nhận ra một mớ lông vũ đang cọ vào hai bên mặt, tiếng kêu điên loạn của nó dội vào màng tai của cô. Jill quật mạnh vào khoảng không phía sau và ngạc nhiên khi nghe thấy những tiếng quạc quạc. Con chim đã bị cô đánh văng ra xa.

    Nhiều quá, ra mau, mau, mau!

    Jill giật mạnh cánh cửa, chạy nhanh ra ngoài hành lang và đóng sập nó lại. Cô ngồi bẹp xuống một lúc, điều hòa hô hấp, tận hưởng sự im ắng lạnh giá của hàng lang bất chấp cái mùi hôi thối của lũ Zombie. May mà không có con quạ nào thoát ra khỏi căn phòng.

    Khi nhịp tim đã trở lại bình thường, cô ngồi lên và cẩn thận sờ vào vết thương sau tai. Cô cảm thấy ngón tay của mình ươn ướt, nhưng không có gì nghiêm trọng, máu đã bắt đầu đông lại rồi; thật là may mắn. Nếu lúc nãy cô bị vấp ngã thì..

    "Tại sao chúng lại tấn công, có chuyện gì với cái công tắc nhỉ?"

    Jill chợt nhớ đến tiếng điện lách tách sau lưng mình khi cô vặn công tắc, tiếng của một tia lửa điện..

    "Thanh xà ngang!"

    Thâm tâm cô dậy lên một mối khâm phục bất đắc dĩ với kẻ đã tạo ra cái bẫy đơn giản này. Khi cô khởi động công tắc, có một dòng xung điện đã được truyền tới những thanh sắt mà chúng đậu lên. Cô chưa bao giờ nghe đến những con quạ được huấn luyện để chiến đấu, nhưng có lẽ đó là lời giải thích hợp lý nhất hiện tại. Ai đó đã cài cái bẫy này để giấu đi một thứ gì đó trong căn phòng.. Và nếu Jill muốn biết thứ ấy là gì, cô buộc phải quay lại căn phòng.

    "Mình có thể cố thủ ở hành lang này và hạ từng con một khi chúng bay ra.."

    Thế nhưng, cô không nghĩ đây là cách hiệu quả. Cô không còn tin vào khả năng ngắm bắn của mình nữa, và chắc chắn cô sẽ hao phí rất nhiều đạn.

    "Chỉ có kẻ ngốc mới trông chờ vào sự ngẫu nhiên và không làm gì cả; hãy động não đi, Jilly.."

    Jill mỉm cười, nhớ lại quãng thời gian ở cùng cha.. Đó là lời khuyên của ông dành cho Jill trước khi cô gia nhập S. T. A. R. S. Ông đã dạy cho Jill rất nhiều điều trong căn nhà ông thuê ở Massachussetts để huấn luyện riêng cho cô. Học làm bạn với bóng tối, hòa mình với sự vật xung quanh, huấn luyện cho Jill hơn 10 năm về nghiệp vụ và ông đã dặn rất kỹ: Mọi lối mòn đều có cách xử lý, và luôn có nhiều hơn một câu trả lời..

    Hiện tại, rõ ràng việc tiêu diệt lũ quạ là một việc cần làm. Jill nhắm mắt lại, trầm ngâm.

    Công tắc và những bức chân dung.. một đứa bé sơ sinh, một cậu bé, một thanh niên, một người trung niên..

    "Từ trong nôi đến mộ.. Từ nôi đến mộ.."

    Cô chợt lóe lên 1 ý tưởng và chính cô cũng không ngờ nó lại đơn giản đến như vậy. Cô đứng lên, sửa sang lại quần áo và băn khoăn liệu lũ quạ đã trở lại chỗ của chúng hay chưa. Khi chúng quay về chỗ cũ thì việc khám phá ra bí mật của căn phòng sẽ trở nên thật dễ dàng với cô.

    Cô từ từ mở cánh cửa, lắng nghe tiếng đập cánh của lũ quạ, và tự hứa với bản thân mình sẽ cẩn thận hơn. Trong căn nhà này, chỉ cần bấm sai một nút bấm thì mọi việc sẽ trở nên hết sức nguy hiểm.

    "Rebecca? Cho anh vào, Chris đây!"

    Có âm thanh của một thứ gì đó nặng nề trượt dọc theo tường, cánh cửa nhà kho mở ra cót két. Chris chạy nhanh vào và vội vã đưa cho Rebecca xem cuốn nhật ký anh vừa tìm được.

    "Anh tìm thấy quyển nhật ký này ở trong một căn phòng." Anh nói. "Có vẻ như có một hình thức nghiên cứu nào đó đang diễn ra trong căn nhà này. Anh không biết nó là gì, nhưng.."

    "Nghiên cứu về Virus". Rebecca ngắt lời, đưa ra một tập giấy và cười nhếch mép. "Anh đã đúng về việc có thứ gì đó hữu ích ở đây."

    Chris cầm lấy xấp giấy trên tay cô và lật trang đầu. Tất cả những gì mà anh nhìn thấy là một loại ngôn ngữ nào đó được viết bởi những con số và những ký tự.

    "Cái quái gì thế này? DH5a-MCR.."

    "Đây là một biểu đồ đặc tính". Rebecca nói. "Đây là một chủ thể với đặc tính tạo ra bản đồ gen bao gồm Methylated Cytosine hoặc Adenine residues, mà thực ra điều ấy cũng tùy."

    Chris nhíu mày: "Cứ cho là anh chẳng hiểu bất cứ cái gì mà em vừa nói. Còn bây giờ tốt nhất hãy đi vào vấn đề chính: Em đã tìm thấy cái gì nào?"

    Rebecca thở dài và lấy lại tập giấy trên tay Chris: "Xin lỗi, nhưng mà nói chung là, ờ, cơ bản thì đó là một loại vi khuẩn lây nhiễm.."

    Chris gật đầu: "Anh hiểu.. một loại virus.."

    Anh lật nhanh những trang nhật kí và đếm số ngày tính từ trang đầu của bản báo cáo về tai nạn xảy ra trong phòng thí nghiệm.

    "Vào ngày 11 tháng 5, có một loại hóa chất nào đó bị phát tán trong phòng thí nghiệm. Trong vòng 8 - 9 ngày, bất cứ ai trong căn phòng thí nghiệm ấy đều trở thành những con quái vật kinh tởm."

    Rebecca tròn mắt: "Nó có nói gì về triệu chứng ban đầu không?"

    "Có vẻ như.. trong tầm khoảng sau 24 giờ, họ bắt đầu có triệu chứng ngứa da. Bị lở loét sau khoảng 48 tiếng đồng hồ."

    Rebecca tái mặt: "Thật.. thật vậy sao.. ôi.."

    Chris gật đầu: "Đúng như anh nghĩ. Vậy có cách nào để biết liệu rằng chúng ta đã bị lây nhiễm hay chưa?"

    "Không có thông tin nào khác. Đó là tất cả..", Rebecca trầm ngâm nhìn xấp giấy, ".. nó đã rất cũ, được chế tạo khoảng 10 năm trước đây. Mặc dù vậy, nếu nó vẫn còn hoạt động thì với tốc độ phát tán như vậy, cả thành phố Racoon ắt đã bị lây nhiễm rồi. Em không dám chắc, nhưng em ngờ rằng nó vẫn đang lây lan.."

    Chris cảm thấy đỡ lo hơn về tình hình của mình và các thành viên S. T. A. R. S, có điều không thể phủ nhận sự thực rằng zombie chính là những nạn nhân của căn bệnh truyền nhiễm này - thật đáng buồn, cho dù căn bệnh ấy là do chính họ gây ra, họ cũng không đáng phải gánh chịu nó..

    "Chúng ta cần phải tìm những người còn lại", Chris nói, "Nếu như ai đó không biết mà bước vào căn phòng thí nghiệm ấy thì không biết điều gì sẽ xảy ra.."

    Rebecca thoáng chút đắn đo, nhưng cũng đánh liều gật đầu và tiến tới cánh cửa. Trong giây phút đó, bằng vào kinh nghiệm bản thân, Chris tin chắc rằng Recbecca sớm muộn gì cũng sẽ là một thành viên chủ chốt của S. T. A. R. S. Cô là một chuyên gia hóa học, và mặc dù không có súng nhưng cô vẫn sẵn sàng rời chỗ nấp an toàn trong nhà kho theo mệnh lệnh, để cứu giúp những người đồng đội.

    Họ cùng rảo bước nhanh qua những hành lang lát gỗ tối tăm. Rebecca theo sát Chris. Khi họ tới cánh cửa dẫn ra hành lang đầu tiên, Chris kiểm tra khẩu súng và quay lại nhìn Rebecca.

    "Hãy theo sát anh. Chúng ta cần tới được cánh cửa bên phải ở cuối hành lang này. Có lẽ anh sẽ phải phá khóa, và chắc chắn có vài con zombie đang lởn vởn ngoài kia, vì thế anh cần em yểm trợ."

    "Tuân lệnh!". Cô lặng lẽ nói, và Chris cười khổ. Đúng ra anh vẫn là cấp trên của Rebecca, nhưng thật là không bình thường khi nghe cô nói vậy vào lúc này.

    Chris mở cửa và bước vào, súng chĩa thẳng về bóng tối phía trước rồi xuống hành lang bên phải; Không có gì chuyển động cả.

    "Đi nào". Anh thầm thì, và họ rảo bước nhanh qua hành lang. Rebecca quan sát sau lưng khi Chris khi anh vặn tay nắm cửa với hy vọng nó đã mở sẵn.

    Thật là đen đủi. Chris lùi lại, ngắm thật kỹ vào ổ khóa. Bắn vỡ ổ khóa không dễ như ở trên những bộ phim. Nếu như một mảnh đạn văng ra ở cự li gần, nó có thể giết chết người bắn.

    "Chris."

    Anh quay đầu lại và nhìn thấy một cơ thể đang di chuyển ở đầu bên kia hành lang. Ngay cả trong ánh sáng mập mờ thế này, anh vẫn có thể nhận ra cái cơ thể dang di chuyển kia bị mất một cánh tay. Sự kinh tởm toát ra từ con Zombie. Nó rú lên và lao về phía hai người.

    Chris bắn hai phát vào ổ khóa và vặn tay nắm. Cánh cửa đã mở! Anh nắm lấy tay Rebecca và kéo cô vào, chĩa súng về đằng sau. Nó đã đi được nửa đường thì bất chợt dừng lại trước cái xác không hồn của con Zombie Chris giết ban đầu. Nó chợt quỳ xuống và vuốt nhẹ vào đầu cái xác, rú lên những tiếng rú thảm thiết như lời khóc thương ai oán.

    "Ôi trời!"

    Chris bất chợt rùng mình, anh nhanh chóng bước theo Rebecca và đóng sập cánh cửa để khỏi thấy cái cảnh kinh khủng ấy. Rebecca chợt tái mặt nhưng dường như cô đã trở lại bình thường, và một lần nữa Chris thấy ngưỡng mộ sự dũng cảm của cô; Rebecca còn trẻ nhưng rất cứng cỏi, dù cô mới chỉ 18 tuổi.

    Chris rảo bước trên hành lang và ngay lập tức nhận ra sự thay đổi. Cách họ khoản 20 feet về phía bên phải, có xác của một con Zombie với đầu bị bể nát. Máu đọng lại thành vũng trong cái hốc mắt vô hồn của nó. Ở bên trái là hai cánh cửa mà ban đầu Chris chưa vào thử. Cánh cửa cuối cùng đã được ai đó mở ra, bên trong là bóng tối nặng nề bao trùm.

    Chắc hẳn có ít nhất 1 thành viên STARS đã đi qua lối này, chắc là đi tìm mình.

    "Theo anh". Chris nói và nhanh chóng di chuyển đến cánh cửa đang mở, nắm chặt tay súng. Anh muốn quay lại đại sảnh cùng với Rebecca, nhưng trọng trách tìm kiếm đồng đội đang đè nặng lên vai anh.

    Khi họ đi qua cánh cửa bị khóa bên phải, Rebecca thì thầm: "Có hình một thanh kiếm ở bên cạnh ổ khóa."

    Chris tập trung vào bóng tối trong cánh cửa, nhưng anh chợt nhận ra lời nói của cô đồng nghĩa với việc có rất nhiều khả năng họ sẽ bị lạc đường. Anh không nghĩ là những người còn lại có thể kiên nhẫn chờ mình, nhưng nhiệm vụ của anh là quay trở về sảnh chính; anh không nên dẫn theo một thành viên mới không được trang bị vũ khí vào một nơi chưa biết mà không kiểm tra qua.

    Chris hạ vũ khí xuống, thở dài: "Mình quay về sảnh chính đi". Anh nói. "Chúng ta có thể quay lại và kiểm tra nơi này sau."

    Rebecca gật đầu, và họ cùng nhau quay lại phòng ăn. Chris hy vọng rằng sẽ không có "ai" đang chờ họ ở đó..

    Barry chĩa khẩu Colt về phía con quái vật kinh tởm đang bò về phía mình rồi bắt đầu bắn, hỏa lực mạnh mẽ của khẩu súng khiến hộp sọ con quái vật vỡ nát, chất lỏng trào ra ngay khi nó chạm được tới chân anh. Máu con zombie phun ra tung tóe khắp khuôn mặt nó khi nó co giật trước khi lìa đời. Barry cau có, chùi chùi cánh tay vào quần áo. Lớp đá ốp tường bé tí của căn phòng bếp khiến khung cảnh căn phòng trông còn tồi tệ hơn, những dòng máu đỏ lăn xuống qua các kẽ hở giữa mấy viên đá ốp, chảy tràn xuống lớp vải sơn lót sàn nhà màu nâu trông thật kinh tởm. Barry hạ khẩu súng lục xuống, cảm thấy vai trái của anh đau nhức. Cánh cửa tầng trên bị khóa cứng, và để phát hiện ra điều đó, anh đã phải huých vai phá cửa đến thâm tím cả vai. Và khi anh nhìn con zombie đang nằm trước mặt mình, anh nhận ra rằng thế nào anh cũng sẽ phải quay lại và phá nát một cái cửa khác. Lúc trước thì anh không chắc lắm nhưng giờ thì anh đã có thể khẳng định - Chris không đi lối này. Nếu có thì con quái vật vừa rồi đã "đi vào lịch sử".

    "Thế thì cậu đang ở chỗ quái quỉ nào vậy hả Chris?"

    Ba cánh cửa đều bị khóa, Barry đã phá cánh cửa phía cuối hành lang theo linh cảm của anh mách bảo. Và anh thấy mình đứng trong một hành lang yên ắng tối tăm dẫn đến một chiếc thang máy trống rỗng ngay phía dưới một dãy cầu thang chật hẹp. Căn phòng bếp màu trắng ở phía dưới đáy của dãy cầu thang trông có vẻ trống trải, lớp đệm sàn phủ một lớp bụi dầy còn giấy dán tường thì đã phai màu - căn phòng này không có dấu hiệu nào mới được sử dụng gần đây, không thấy bóng dáng của Chris, còn cánh cửa đơn cạnh bồn rửa bát thì đã bị khóa. Anh đang chuẩn bị rời khỏi căn phòng thì anh để ý thấy một vệt dài kéo xuyên qua lớp bụi trên sàn nhà, anh liền thử đi theo hướng đó và chạm trán với con zombie vừa rồi. Anh thở dài nặng nề, kiểm tra lại lần cuối rồi quay lại chỗ cánh cửa thứ hai. Có mấy cái thùng gỗ to theo kiểu cổ, cùng kiểu với chiếc thang máy, và cũng hoàn toàn rỗng không. Barry thậm chí còn chẳng thèm bấm thử nút "gọi" vì cái tương tự ở tầng trên khi anh bấm thử đã hoàn toàn không hoạt động. Bên cạnh đó là cái lò sưởi đã bị gỉ sét từ lâu, không ai dùng đến nó. Anh quay lại đường cũ trong khi không ngừng tự hỏi không biết Jill làm ăn thế nào rồi. Bọn anh cần rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt. Barry chưa bao giờ ghét nơi nào như cái biệt thự này. Nó vừa lạnh lẽo, vừa nguy hiểm lại có mùi giống như một kho thịt bị để thiu thối trong một tuần liền. Nói chung anh không phải loại người dễ dàng hoảng sợ hoặc để trí tưởng tượng của mình vượt ngoài tầm kiểm soát, nhưng anh luôn có cảm giác có một bóng trắng mang hình dạng quái vật xẹt qua sau lưng mỗi khi anh quay lại.

    Bỗng có tiếng lách cách vang vọng sau lưng anh. Barry quay phắt lại, cảm thấy một nỗi khiếp sợ quặn lên trong ruột khi anh chĩa súng bừa vào khoảng không, mắt anh mở to, miệng khô đắng. Lại thêm một tiếng lách cách nữa vang lên, kèm theo là tiếng máy móc rộn rạo. Barry hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra, lấy lại bình tĩnh. "Ít nhất thì cũng không phải tiếng động của linh hồn khi rời khỏi thể xác mà là có ai đó đang sử dụng thang máy. Ai vậy nhỉ? Chris và Wesker thì mất tích, còn Jill thì đang ở cánh khác của tòa nhà.."

    Anh đứng yên tại chỗ, hạ thấp khẩu Colt xuống một chút và chờ đợi. Anh không nghĩ rằng bọn quái vật thông minh đến mức biết dùng thang máy, chưa kể còn phải biết mở cửa nữa, tuy nhiên anh không muốn mạo hiểm. Khả năng bắn của anh rất tốt trong vòng 20 bước từ chỗ anh đến chân cầu thang máy, nơi cánh cửa mở ra, giả định thang máy sẽ dừng ở tầng hầm thì anh có thể bắn trúng bất cứ ai bước ra từ đó. Một tia hy vọng lóe lên trong óc anh; biết đâu đó lại là một thành viên của đội Bravo, hay ai đó sống ở đây và người đó có thể nói cho bọn anh biết chuyện gì đã xảy ra thì sao.

    Một tiếng kêu ảm đạm vang lên, thang máy dừng lại dưới nhà bếp. Tiếng bản lề sắt kêu ken két, tiếng bước chân và đội trưởng Wesker hiện ra, chiếc kính đen thường lệ được gác lên trên cặp lông mày màu nâu vàng. Barry hạ súng xuống, thở phào nhẹ nhõm, anh mỉm cười. Wesker dừng bước và cười đáp lễ lại anh.

    "Barry! Đúng người tôi đang tìm đây rồi", hắn nói nhẹ nhàng.

    "Chúa ơi, anh làm tôi hoảng sợ đấy! Tôi nghe thấy tiếng thang máy khởi động và tưởng mình sắp bị đau tim đến nơi..". Barry hơi lùi lại, nụ cười của anh trở nên ngập ngừng.

    "Đội trưởng", anh nói một cách từ tốn, "Anh đã đi đâu vậy? Khi bọn tôi quay lại thì anh đã đi đâu mất rồi."

    Wesker cười toe toét: "Tôi xin lỗi. Tôi có tí việc phải đi, anh cũng biết đấy, 'tiếng gọi của tự nhiên' ấy mà."

    Barry lại cười, nhưng anh cảm thấy ngạc nhiên về câu nói của Wesker. Bị kẹt lại giữa nơi nguy hiểm như thế này mà hắn ta còn có thể nghĩ đến chuyện đi vệ sinh được?

    Wesker tiến lại gần và kéo nhẹ lưỡi trai trên mũ xuống, tránh nhìn thẳng vào mắt Barry, khiến anh tự nhiên có cảm giác bồn chồn. Nụ cười của Wesker có vẻ gì đó hết sức xảo trá. Trông như thể hắn đang khoe tất cả bộ hàm ra ngoài.

    "Barry, tôi cần anh giúp đỡ. Anh đã bao giờ nghe nói đến White Umbrella chưa?"

    Barry lắc đầu, anh cảm thấy càng ngày càng thiếu thoải mải.

    "White Umbrella là một bộ phận của Khu Liên Hợp Umbrella, một phân khu rất quan trọng. Họ chuyên về.. có thể gọi là nghiên cứu sinh vật học. Biệt thự Spencer đây chính là nơi nghiên cứu của họ, và gần đây, một vụ tai nạn đã xảy ra."

    Wesker phủi bụi khỏi một bức tường ở trung tâm nhà bếp rồi tùy tiện dựa người vào đó, hắn nói vui vẻ.

    "Phân khu này của Umbrella có một chút liên kết với tổ chức S. T. A. R. S, và cách đây không lâu lắm, họ đã.. ờ.. nhờ tôi giúp đỡ trong việc xử lý tai nạn này. Thật là một tình huống khó xử, anh cũng thấy đấy, rất bí mật; White Umbrella không muốn bất cứ một tin đồn nào về sự dính dáng của họ lan ra ngoài."

    "Bây giờ, tôi định sẽ tới khu thí nghiệm ở dưới tầng hầm rồi xóa hết những chứng cứ chứng minh sự dính líu của White Umbrella với vụ tai nạn đã gây ra bao nhiêu rắc rối cho thành phố Racoon thời gian gần đây. Nhưng vấn đề ở chỗ tôi không có chìa khóa để đến chỗ lấy mấy cái chìa khóa mở cửa phòng thí nghiệm. Và đó là điều tôi muốn nhờ vả anh. Tôi muốn anh giúp tôi đi tìm những cái chìa khóa đó."

    Barry nhìn hắn chằm chằm mất một lúc, không nói gì cả, óc anh như bị khuấy tung lên.

    "Một vụ tai nạn, một phòng thí nghiệm bí mật đang nghiên cứu sinh vật học..

    * * * lũ chó giết người và bọn zombie lang thang trong rừng.."

    Anh liền giương khẩu súng lục lên và chĩa thẳng vào khuôn mặt đang cười của Wesker, cau mày giận dữ.

    "Mày điên đấy à? Mày nghĩ tao sẽ giúp mày phá hủy chứng cứ à? Đồ điên khùng khốn kiếp!"

    Wesker lắc đầu một cách chậm rãi, hắn xử sự cứ như Barry chỉ là một đứa trẻ con. "A, anh Barry à, anh không hiểu vấn đề rồi; anh không có sự lựa chọn nào hết. Tôi nói cho anh biết, mấy tay bạn tôi ở White Umbrella hiện đang đứng ở ngay phía ngoài nhà anh, theo dõi vợ và mấy đứa con gái anh đang say ngủ. Nếu anh không giúp tôi, cả gia đình anh sẽ phải chết."

    Barry cảm thấy máu như bị rút hết khỏi mặt mình. Anh từ từ kéo cò súng, và cảm thấy sự căm thù đối với Wesker đột ngột trào lên tới từng đường gân thớ thịt trên cơ thể mình.

    "Trước khi anh bóp cò, tôi xin thông báo cho anh biết một tin rằng nếu tôi không báo cáo lại với bọn bạn tôi sớm thì mệnh lệnh được giao cho bọn nó là cứ việc hành động."

    Câu nói của hắn khiến Barry trở nên hoang mang, tay anh run lên vì sợ hãi.

    "Kathy, lũ trẻ - mình.."

    "Mày định lừa tao đấy hả", anh nói khẽ và nụ cười của Wesker cuối cùng cũng biến mất, mặt hắn trở lại cái vẻ khó đoán như mọi khi.

    "Tôi lừa anh làm gì", giọng hắn lạnh lẽo, "Không tin thì anh cứ thử giết tôi xem. Rồi sau này anh sẽ tha hồ mà sám hối trước bia mộ của gia đình mình."

    Mất một lúc, cả hai đứng tại chỗ, sự yên tĩnh như có thể sờ thấy được lan tỏa khắp không gian lạnh lẽo. Sau đó Barry từ từ nhả cò súng trở lại rồi hạ vũ khí, vai anh sụp xuống. Anh không thể mạo hiểm như thế được, gia đình đối với anh là tất cả.

    Wesker gật đầu rồi lục túi rút ra một chùm chìa khóa, cử chỉ của hắn đột nhiên trở nên sôi nổi một cách rất kịch.

    "Có bốn cái huy hiệu được cất ở đâu đó trong ngôi nhà này. Mỗi miếng to bằng cái tách trà, và được chạm khắc ở mặt bên hình: Mặt trời, mặt trăng, những vì sao và gió. Và cánh cửa sau ở phía còn lại của ngôi nhà chính là nơi anh có thể đặt cả bốn miếng này vào".

    Hắn tháo lấy một chiếc từ chùm chìa khóa rồi đưa cho Barry.

    "Cái chìa này có thể mở tất cả các cánh cửa ở phía còn lại của ngôi nhà, hay ít nhất thì nó cũng có thể mở những cánh cửa quan trọng ở tầng một và tầng hai. Anh hãy tìm những huy hiệu đó cho tôi và rồi vợ con anh sẽ được an toàn."

    Barry nhận lấy cái chìa khóa mà mấy ngón tay anh tê cóng, anh chưa bao giờ cảm thấy yếu đuối và sợ hãi như lúc này.

    "Chris và Jill.."

    ".. sẽ không nghi ngờ gì khi giúp anh tìm kiếm mấy miếng đồng. Nếu anh thấy ai trong số họ thì hãy bảo rằng cánh cửa sau mà anh vừa mới phát hiện ra có lẽ là một trong những con đường thoát ra ngoài. Tôi dám chắc là họ sẽ rất vui mừng được làm việc cùng với một người bạn đáng tin cậy như anh Barry tốt bụng đây. Thực tế, tôi nghĩ anh nên mở khóa tất cả các cánh cửa anh có thể mở được để việc tìm kiếm thuận tiện và kỹ càng hơn."

    Wesker lại cười, kiểu cười nửa miệng ra vẻ thân thiện của hắn hoàn toàn trái ngược với những lời mà hắn nói. "Tất nhiên, nếu anh nói với họ là anh đã gặp tôi thì chỉ làm vấn đề trở nên rắc rối. Chẳng may mà tôi có bị sao đó, giả dụ như bị bắn trúng lưng chẳng hạn thì.. mà thôi, nói vậy đủ rồi. Cứ như coi đây là bí mật giữa hai ta nhé."

    Chiếc chìa khóa được chạm khắc một hình vẽ nhỏ, phần bảo vệ khoang ngực của một bộ áo giáp sắt. Barry thả nó vào túi.

    "Anh định sẽ đi đâu?"

    "Ồ, anh đừng lo, tôi sẽ ở xung quanh thôi. Lúc nào cần thì tôi sẽ liên lạc với anh."

    Barry nhìn Wesker, anh không thể nào ngăn nổi sự sợ hãi lẫn van xin khi anh nói "Anh sẽ nói với họ là tôi đang giúp anh, đúng không? Anh sẽ không quên báo cáo lại đấy chứ?"

    Wesker quay lưng lại và bước về phía thang máy, nói vọng lại:

    "Tin tôi đi, Barry. Cứ làm những gì tôi bảo, anh sẽ không phải lo lắng gì hết."

    Tiếng cửa thang máy mờ ra rồi đóng lại lách cách, Wesker đã đi rồi.

    Barry đứng ngây ra mất một lúc, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không nơi Wesker vừa ở đấy, cố tìm cách thoát khỏi những lời hăm dọa của hắn. Nhưng vô ích. Không có chuyện đắn đo giữa danh dự của anh và gia đình anh; anh vẫn có thể sống mà không có danh dự.

    Anh cắn răng, bước trở lại dãy hành lang, quyết định sẽ làm những việc anh phải làm để cứu Kathy và lũ trẻ. Tuy nhiên, khi mà chuyện này kết thúc, khi mà anh có thể chắc chắn rằng gia đình mình đã an toàn.

    "Thì không có cửa cho mày trốn thoát đâu, thưa" Đội trưởng "."

    Barry nắm chặt nắm đấm, các đốt ngón tay anh trắng bệch, anh thề sẽ bắt Wesker phải trả giá cho những gì hắn đang làm. Cả vốn lẫn lãi.
     
  9. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 10

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Jill đẩy chiếc huy hiệu bằng đồng đỏ nặng trịch có khắc hình ngôi sao ở bên cạnh vào đúng vị trí của nó - vị trí trên cùng trên tấm bảng kim loại. Nó trượt vào lỗ nghe "cách" một cái, bề mặt tấm bảng kim loại lại trở nên bằng phẳng.

    "Một cái đã vào vị trí.."

    Cô bước lùi lại trước cái khóa kỳ lạ, mỉm cười hân hoan.

    Lũ quạ vẫn quan sát cô khi cô đi ngang qua cái sảnh trưng bày tranh, chúng không hề rời khỏi vị trí, thi thoảng chúng lại kêu ré lên trong lúc cô đang giải câu đố đơn giản. Có sáu bức chân dung tất cả, từ cái nôi đến ngôi mộ - tức là từ đứa bé sơ sinh tới người đàn ông lớn tuổi có bộ mặt nghiêm nghị. Cô cho rằng tất cả những bức tranh chân dung đó là của Ngài Spencer, mặc dù cô chưa từng nhìn thấy bức ảnh nào của ông.

    Bức tranh cuối cùng vẽ một khung cảnh thật tang thương, một người đàn ông xanh xao đang nằm trang trọng giữa những người than khóc đứng đầy xung quanh. Khi cô bật công tắc ở bức tranh đó, bức tranh liền bị bốn cái chốt nhỏ xíu bằng kim loại ở bốn góc đẩy cho rơi xuống khỏi bức tường. Đằng sau bức tranh có một cái hốc nhỏ, bọc nhung, trong đựng chiếc huy hiệu bằng đồng đỏ. Sau đó, cô đã rời khỏi căn sảnh mà không gặp phải bất cứ khó khăn gì; trừ một điều cô không chắc lắm là liệu lũ chim có cảm thấy thất vọng hay không.

    Cô hít một hơi cuối cùng thật sâu cái không khí dễ chịu buổi đêm trước khi quay trở lại ngôi nhà, vừa đi cô vừa rút chiếc máy tính của Trent ra khỏi ba lô. Cô bước từng bước một cách thận trọng qua cái xác nhàu nát nằm giữa hành lang mờ tối, rồi cô kiểm tra lại tấm bản đồ, băn khoăn không biết nên đi đâu tiếp theo.

    Có vẻ như là cô sẽ phải trở lại con đường mà cô đã dùng để đi đến đây. Cô quay về cánh cửa đôi nối giữa dãy hành lang và thấy mình bước vào một hành lang uốn khúc, ấm áp, màu xanh xám với những bức tranh phong cảnh treo trên tường. Theo như tấm bản đồ thì cánh cửa đơn ngang chỗ cô đứng sẽ dẫn tới một căn phòng nhỏ hình vuông, và sau đó căn phòng này sẽ dẫn đến một căn phòng khác lớn hơn.

    Hồi hộp, cô vặn tay nắm cửa rồi đẩy nó mở ra, vừa khom người vừa chĩa khẩu Beretta xung quanh. Quả thật căn phòng nhỏ có hình vuông và hoàn toàn trống rỗng.

    Jill bước ngang qua căn phòng, cô tiến tới cánh cửa phía bên phải, vừa đi vừa ngắm nghía những đường nét đơn giản nhưng thanh lịch của căn phòng. Nó có một cái trần cao, sáng sủa với những bức tường ốp đá cẩm thạch màu kem lốm đốm vàng; tuyệt đẹp. Và thật đắt tiền, ít nhất cô có thể nói như vậy. Tự nhiên, cô cảm thấy bâng khuâng nhớ lại những ngày tháng cũ khi cô còn sống với bố cô, nhớ lại những kế hoạch và hy vọng to lớn của hai cha con mỗi khi họ thành công. Và đây là thứ mà đồng tiền chân chính có thể mua được.

    Cô đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, cô nắm lấy cái then cửa kim loại lạnh lẽo rồi đẩy nó mở ra. Khẩu Beretta quét nhanh một đường và rồi cô thở phào nhẹ nhõm; chỉ có mình cô ở đây.

    Có một cái lò sưởi mốc meo phía bên tay phải, ngay dưới tấm thảm thêu hoa mỹ màu đỏ vàng. Một chiếc ghế tràng kỷ hiện đại cùng chiếc bàn uống cà phê thấp hình bầu dục đặt trên tấm thảm kiểu phương Đông rám nắng màu da cam, và dựa vào bức tường phía sau căn phòng - là một khẩu shotgun pump - action, được đặt trên hai cái móc, sáng lấp lánh dưới ánh sáng của cái đèn kiểu cổ đang chiếu thẳng xuống từ phía trên. Jill nhoẻn miệng cười, cô vội bước ngang qua căn phòng và không thể tin rằng mình lại gặp may đến thế.

    "Cầu trời cho nó nạp đầy đạn, cầu trời cho nó nạp đầy đạn."

    Khi cô dừng lại trước khẩu shotgun, cô nhận ra khẩu súng này tuy hơi nặng đối với cô, nhưng nó lại cùng loại với những khẩu shotgun mà đội S. T. A. R. S. Thường dùng: Loại Remington M870, bắn 5 phát liền.

    Cô cất khẩu Beretta đi rồi dùng hai tay nâng khẩu shotgun lên, miệng vẫn cười tươi - nhưng ngay lập tức nụ cười của cô biến mất khi thấy cả hai cái móc được nhấc lên sau khi thoát khỏi trọng lượng của khẩu súng. Cùng lúc đó, một tiếng động ầm ĩ phía sau bức tường phát ra, nghe như tiếng kim loại đang hoán đổi vị trí cho nhau.

    Jill không biết tiếng động đó là gì, nhưng cô cảm thấy không thích nó một chút nào. Cô nhanh chóng quay lưng lại, kiểm tra quanh phòng xem có cái gì di chuyển không. Căn phòng vẫn nguyên xi như lúc cô bước vào, không hề có lấy một tiếng chim gào thét, cũng không có tiếng báo động hay ánh đèn lóe sáng đột ngột, và cũng chẳng có bức tranh nào rơi khỏi mấy bức tường cả. Nói chung là không có cái bẫy nào hết.

    Yên lòng, cô nhanh chóng kiểm tra lại khẩu súng và thấy rằng nó đã được nạp đầy đạn. Ai đó đã lau chùi nòng súng sạch sẽ, cả khẩu súng bốc lên mùi dầu nhẹ, và đó là cái mùi tuyệt nhất mà cô có thể tưởng tượng ra. Trọng lượng của khẩu súng đè nặng trên cánh tay khiến cô cảm thấy vững dạ, đó là trọng lượng của sức mạnh.

    Cô tìm kiếm khắp những chỗ còn lại trong căn phòng, nhưng thất vọng khi thấy không còn một viên đạn nào khác cả. Tuy nhiên, dù gì thì khẩu Remington vẫn là một phát hiện.

    Tất cả áo khoác của đội S. T. A. R. S. Đều có một bao đựng shotgun hoặc súng trường phía sau lưng, nên mặc dù cô không giỏi lắm việc rút súng vượt - qua vai, nhưng ít ra thì cô cũng có thể mang nó theo mà không bị mỏi tay.

    Chẳng còn gì thú vị trong căn phòng. Jill bước về phía cánh cửa, cô cảm thấy thích thú với việc quay trở lại sảnh chính và nói cho Barry biết về những phát hiện mới của mình. Cô đã kiểm tra tất cả các căn phòng mà cô có thể vào được ở phía bên này của tầng một. Nếu Barry cũng đã kiểm tra hết như cô ở phía còn lại thì họ có thể lên tầng trên và kết thúc quá trình tìm kiếm đội Bravo cùng những thành viên còn thiếu của đội mình.

    Và sau đó, biết đâu lại có thể thoát luôn khỏi cái nhà xác này. Cô đóng cửa lại sau lưng rồi sải chân qua căn phòng lát đá màu xám đen, hy vọng, khi cô nắm lấy tay nắm cửa, rằng Barry đã tìm thấy Chris và Wesker rồi.

    "Vì rõ ràng là bọn họ đã không đi lối này."

    Cánh cửa đã bị khóa lại. Jill cau mày, vặn tới vặn lui tay nắm nhỏ màu vàng. Có tiếng lách cách nhỏ nhưng cánh cửa không hề động đậy. Cô dí sát mắt vào khe hở giữa cánh cửa và cái khung cửa, đột nhiên cô cảm thấy chột dạ.

    Đây rồi, mặt kia của cánh cửa, cạnh tay nắm là đoạn then cửa bằng thép đã chốt lại, loại then rất chắc; khu vực còn lại xung quanh cái then cửa lại còn được gia cố. Còn bên này thì chỉ có duy nhất một lỗ khóa và cái tay nắm cửa mà thôi..

    Cách! Cách! Cách!

    Bụi từ trên trần nhà tự nhiên rơi xuống như mưa trong khi tiếng bánh răng di chuyển tràn ngập căn phòng, tiếng kim loại chạm nhau lách cách đều đều khó hiểu phát ra đâu đó đằng sau những bức tường lát đá.

    "Cái gì?"

    Giật mình hoảng hốt, Jill ngó lên trần nhà và ngay lập tức cô cảm thấy bụng mình đau quặn, hơi thở mắc nghẹn lại giữa cổ họng. Trần nhà cao vút, mà lúc trước cô vừa mới ngắm nhìn một cách thích thú, đang di chuyển, đá cẩm thạch ở bốn góc phòng bị nghiền nát thành bụi, tiếng đá nghiến vào nhau kêu ken két. Trần nhà đang hạ xuống.

    Trong nháy mắt cô phóng đến cánh cửa dẫn trở lại căn phòng có cây shotgun. Cô vồ lấy tay nắm cửa, đẩy thật mạnh..

    * * * và phát hiện ra nó đã bị khóa cứng như cánh cửa đầu tiên.

    "Thôi chết! Không may rồi! Không may rồi!"

    Càng lúc càng hoảng loạn, Jill vừa chạy ngược trở lại cánh cửa đầu tiên vừa nhìn trần nhà đang sập xuống với ánh mắt kinh hoàng. Với vận tốc 2 đến 3 inches một giây thế này thì chỉ chưa đầy một phút nữa, nó sẽ chạm tới tận sàn.

    Jill nâng khẩu shotgun lên, chĩa vào cánh cửa dẫn tới hành lang, cố gạt bỏ suy nghĩ ra khỏi đầu rằng sẽ phải mất bao nhiêu phát đạn thì mới thổi bay được cái then cửa làm bằng thép cứng đã được gia cố xung quanh như thế; bắn phá cửa là tất cả những gì cô có thể làm bây giờ vì dụng cụ của cô không thể phá nổi loại khóa như thế này.

    Loạt đạn đầu tiên bắn về phía cái cửa, gỗ vụn bay vèo vèo, và điều cô lo sợ đã trở thành hiện thực. Tấm kim loại hỗ trợ cho cái then kéo dài hết cánh cửa. Suy nghĩ của cô bắt đầu rộn lên, đua nhau tìm câu trả lời, nhưng kết quả lại hoàn toàn là con số không. Cô không có đủ đạn để bắn thủng cánh cửa trong khi khẩu Beretta thì hỏa lực lại không đủ mạnh, đạn của nó bị bẹp dí ngay khi chạm vào cánh cửa.

    "Biết đâu mình có thể làm cánh cửa yếu đi, phải tiếp tục phá nó thôi."

    Cô lại bắt đầu bắn, nhắm thẳng vào khung cửa. Phát đạn vang như sấm rền, khoét lỗ trên rìa cánh cửa và đục vỡ đá hoa cương, nhưng không ăn thua, thậm chí cự ly còn chưa đủ gần. Trần nhà vẫn tiếp tục hạ xuống trong tiếng lách cách đều đều, giờ thì từ đầu cô đến trần nhà chỉ còn cách nhau chưa đến 10 feet. Cô sắp sửa bị nó đè nghiến lên người cho đến chết.

    Chúa ơi, con không muốn chết như thế này.

    "Jill? Có phải cô đấy không?"

    Một giọng nghèn nghẹt phát ra từ phía ngoài hành lang, và đột nhiên cô cảm thấy một niềm hy vọng tràn trề khi nghe thấy tiếng gọi vừa rồi.

    Barry.

    "Cứu em! Barry, phá cái cửa này ra!", Jill gào lên, giọng cô run rẩy và cao vút.

    "Lùi lại đi!"

    Jill loạng choạng né sang một bên khi cô nghe thấy tiếng huých mạnh vào cánh cửa. Cánh cửa gỗ rung lên bần bật nhưng vẫn đứng yên. Jill hét lên một tiếng nhỏ, đầy thất vọng, ánh mắt cô khiếp sợ hết nhìn cánh cửa lại nhìn lên trần nhà.

    Lại một cú huých mạnh nữa khiến cánh cửa rung chuyển. Trần nhà chỉ còn cách đầu cô có 5 feet.

    "Coi nào, coi NÀO."

    Cú huých thứ ba, cánh cửa kêu lên răng rắc, vụn gỗ bay tứ tung. Cánh cửa bật mở, Barry đứng ngay trước ngưỡng cửa, mặt anh ửng đỏ nhễ nhại mồ hôi, tay anh lần tìm về phía cô.

    Jill liền chạy lên phía trước và ngay lập tức anh nắm lấy cổ tay cô, kéo giật trờ lại về phía hành lang. Cả hai ngã nhào ra sàn nhà trong khi sau lưng họ, cánh cửa của căn phòng đang bị nghiến bay khỏi tấm bản lề. Tiếng gỗ và kim loại kêu lên ầm ĩ trong khi trần nhà đang tiếp tục sập xuống, cánh cửa dần dần nứt toác rồi vỡ vụn.

    Với một tiếng "rầm" vang dội cuối cùng, trần nhà đã chạm tới mặt sàn. Căn nhà lại trở lại yên tĩnh như một nấm mồ. Họ lảo đảo đứng dậy, Jill nhìn chằm chằm cái ô cửa. Toàn bộ khung cửa đã bị chặn lại bởi một lớp đá cứng ít nhất phải nặng đến vài tấn mà lúc trước chính là cái trần nhà.

    "Cô không sao chứ?", Barry hỏi.

    Phải mất một lúc, Jill không nói được câu nào. Cô nhìn xuống khẩu shotgun mà cô vẫn đang cầm trên đôi cánh tay run rẩy, nhớ lại lúc trước cô đã tự tin đến thế nào khi cho rằng không có cái bẫy nào hết và đây là lần đầu tiên, cô tự hỏi, làm thế nào mà bọn cô có thể thoát ra khỏi cái ngôi nhà khủng khiếp như thế này được.

    Họ đứng giữa căn sảnh trước trống rỗng, Chris đi đi lại lại trên tấm thảm phía trước cầu thang, còn Rebecca thì bồn chồn đứng cạnh lan can. Căn sảnh chính đồ sộ vẫn lạnh lẽo và đáng ngại y như lần đầu tiên Chris nhìn thấy nó, những bức tường lặng câm như không muốn thổ lộ ra bất kỳ bí mật nào của chúng; còn cả đội S. T. A. R. S. Thì đã đi rồi, và không có một dấu hiệu nào cho biết họ đã đi đâu hay lý do tại sao. Từ đâu đó sâu trong tòa nhà, có tiếng ầm ầm nặng nề phát ra, giống như tiếng một cánh cửa khổng lồ vừa bị đóng sập lại. Cả hai đều ngẩng đầu lên, nghe ngóng, nhưng không nghe thêm gì nữa. Chris thậm chí còn không thể nói được âm thanh đó được phát ra từ hướng nào.

    Tuyệt thật đấy, phải nói là "hết xẩy". Lũ zombie, bọn khoa học gia điên loạn, và giờ thì đến lượt thứ gì đó va đập vào nhau kêu ầm ĩ giữa đêm khuya. Rõ thật khôi hài.

    Anh cười với Rebecca, hy vọng rằng trông anh không đến nỗi bối rối như anh đang cảm thấy trong lòng.

    "Lạ thật, chẳng thấy ai để lại tin nhắn gì cả. Anh nghĩ chúng ta phải tiến hành kế hoạch B thôi."

    "Kế hoạch B là gì hả anh?"

    Chris thở dài: "Anh cũng chưa biết nữa. Nhưng chúng mình có thể bắt đầu kiểm tra thử căn phòng thứ hai có hình thanh kiếm khắc cạnh lỗ khóa xem sao. Biết đâu lại tìm thấy thêm thông tin nào đấy hữu ích như một tấm bản đồ hay đại loại thế chẳng hạn, trong khi chờ cả đội tập hợp lại."

    Rebecca gật đầu, và thế là Chris dẫn đường cùng cô quay ngược trở lại, đi xuyên qua căn phòng ăn. Anh không thích cái ý tưởng là cứ phải đưa cô đến những chổ có thể có những mối nguy hiểm đang rình rập, nhưng anh lại càng không muốn để cô phải ở lại một mình, ít nhất là ở căn sảnh chính; đó là nơi trông không an toàn chút nào.

    Khi họ đang đi ngang qua cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ thì có thứ gì đó cứng cứng, nhỏ xíu vỡ ra kêu canh cách dưới gót giầy của Chris. Anh cúi xuống và nhặt lên một miếng thạch cao màu xám đen. Có hai ba miếng tương tự cũng rơi ở gần đó.

    "Em có để ý thấy mấy miếng thạch cao này trong lần trước khi chúng mình đi ngang qua đây không?", Anh hỏi.

    Rebecca lắc đầu, Chris liền cúi xuống, tìm thêm những miếng khác tương tự. Và anh phát hiện ra phía bên kia bàn ăn cũng có một đống những mảnh vỡ như thế.

    Họ nhanh chóng vòng qua phía cuối của chiếc bàn dài, ngang qua cái lò sưởi được trang trí tỉ mỉ rồi dừng lại trước đống mảnh vỡ tan tành. Chris di mũi giày vào giữa đống mảnh vỡ màu xám. Theo hình dạng và các góc cạnh của chúng, có vẻ như đây là những mảnh vỡ của một bức tượng hay cái gì đó tương tự.

    Nhưng cho dù nó từng là cái gì đi chăng nữa thì bây giờ nó cũng chỉ còn là một đống rác rưởi mà thôi.

    "Cái này có quan trọng không anh?", Rebecca hỏi.

    Chris nhún vai: "Có thể có, cũng có thể không. Dù gì thì anh thấy cũng đáng để xem xét. Trong một hoàn cảnh như thế này thì chúng ta không tài nào có thể biết được liệu thứ gì đó có thể trở thành một manh mối hay không."

    Tiếng tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ cổ đi theo họ tới tận cửa hành lang, hòa cùng với mùi thối rữa tràn ngập trong hành lang chật hẹp. Chris rút chiếc chìa khóa bạc ra khỏi túi khi họ rẽ sang bên phải rồi anh dừng lại, anh nhanh chóng rút khẩu Beretta ra và tiến sát vào người Rebecca. Cánh cửa cuối hành lang đã bị đóng lại; lúc nãy khi họ rời khỏi chỗ này, nó vẫn còn mở.

    Không một thứ gì hiện ra trong tầm nhìn, cũng không có gì di chuyển trong hành lang, nhưng chắc hẳn ai đó đã đi ngang qua lối này khi Chris và Rebecca còn đang ở ngoài đại sảnh. Suy nghĩ đó thêm một lần nữa tạo cho Chris cảm giác lo lắng rằng có điều gì đó bí mật đang xảy ra khắp xung quanh ngôi nhà này. Con quái vật đã chết ở bên trái chỗ họ đứng vẫn nằm đúng vị trí cũ, đôi mắt ngập đầy máu của nó nhìn chằm chằm vô định lên cái trần nhà thấp, và Chris lại băn khoăn tự hỏi rằng ai đã giết nó. Anh biết là anh nên kiểm tra cái xác và khu vực không an toàn phía sau nó, nhưng anh lại không muốn làm vậy trước khi anh tìm được chỗ ẩn náu an toàn cho Rebecca.

    "Đi thôi!", anh thì thầm, họ tiến về phía cánh cửa bị khóa, Chris đưa chìa khóa cho Rebecca để anh có thể trông chừng hành lang xem có con quái vật nào tấn công họ không. Và với một tiếng "cách" nhỏ, cánh cửa đóng ván cầu kỳ đã được mở khóa, Rebecca nhẹ nhàng đẩy nó mở ra.

    Căn phòng trông có vẻ ổn, theo cảm giác của Chris, tuy nhiên anh vẫn kiểm tra nhanh khắp xung quanh rồi mới ra hiệu cho Rebecca bước vào trong. Căn phòng này nhìn giống y như một quán bar piano, một chiếc piano cánh loại nhỏ nằm chễm trệ trên sàn nhà, còn phía bên kia là một cái quầy giải khát gắn liền với bức tường, cuối cùng là một hàng ghế cao đặt dọc theo chiều dài của cái quầy. Không biết là ánh sáng mờ ảo hay gam màu trầm của căn phòng đã tạo cho nó một bầu không khí tĩnh lặng và êm đềm. Nhưng cho dù là lý do nào đi nữa thì Chris vẫn phải thừa nhận rằng đây là căn phòng đẹp nhất anh từng bước vào cho tới giờ.

    "Và có khi cũng là một chỗ tốt cho Rebecca ở lại trong khi mình đi tìm mấy người kia."

    Rebecca ngồi lên mép chiếc ghế dài phủ đầy bụi trước chiếc đàn piano màu đen trong khi Chris thì kiểm tra khắp xung quanh phòng một cách kỹ càng hơn. Có mấy cái cây được trồng trong chậu, một chiếc bàn con, và một hốc tường nhỏ thụt vào trong gần nơi đặt cây đàn piano, trong nó là mấy cái kệ sách làm bằng gỗ. Cánh cửa duy nhất để có thể vào được phòng này chính là cánh cửa mà bọn họ vừa đi qua. Đúng là một địa đỉểm lý tưởng cho Rebecca ẩn náu.

    Anh cất súng vào bao và tiến lại gần chiếc đàn piano nơi cô đang ngồi, cố gắng chọn lời lẽ phù hợp; anh không muốn làm cô hoảng sợ với đề xuất sẽ để cô ở lại phía sau. Cô nhìn anh cười ngượng nghịu, trông cô lúc này thậm chí còn trẻ hơn cả tuổi thật của mình, mái tóc cô cắt ngang, màu hung đỏ với những vạt tóc chĩa nhọn tạo thêm cảm giác rằng cô vẫn chỉ là một cô bé con..

    ".. một cô bé con học hết đại học trong quãng thời gian còn ngắn hơn cả thời gian mày cần để học lấy bằng lái máy bay cơ đấy; đừng có mà coi thường cô ấy, cô ấy chắc chắn là còn thông minh hơn mày nhiều."

    Chris ngầm thở dài trong bụng và cười đáp lại cô:

    "Em cảm thấy thế nào với việc ở lại chỗ này trong khi anh kiểm tra xung quanh ngôi nhà một lúc?"

    Nụ cười của cô hơi héo đi một chút, nhưng cô nhìn anh một cách công bằng.

    "Em hiểu ý anh rồi", cô nói, "Em không có súng, nên nếu chẳng may anh có gặp rắc rối thì em chỉ làm vướng chân vướng tay anh thôi chứ gì."

    Cô cười to hơn, nói tiếp: "Có điều là nếu anh bị định lý toán học nào" đá đít "thì đừng có mà chạy đến khóc lóc với em đấy."

    Chris bật cười với câu nói đùa của cô và với cả sự lo ngại không cần thiết của mình; cô quả là người không thể coi thường. Anh bước tới cánh cửa, đặt tay lên tay nắm cửa.

    "Anh sẽ quay lại sớm nhất có thể", anh nói, "Em hãy khóa ngay cửa lại sau khi anh rời khỏi đây, và nhớ là đừng có đi đâu linh tinh đấy nhé."

    Rebecca gật đầu, và anh bước trở lại hành lang, đóng cửa lại sau lưng một cách kiên quyết. Anh đợi cho đến khi nghe thấy tiếng then cửa rồi mới rút khẩu Baretta ra, nụ cười trên môi anh nhạt dần khi anh bắt đầu nhanh chóng bước về phía cuối hành lang.

    Càng đến gần con quái vật hôi thối, cái mùi bốc lên càng khó chịu. Anh hớp một ngụm không khí trước khi anh lại gần cái xác, rồi anh bước qua nó để xem xem hành lang còn kéo dài đến đâu rồi mới bắt đầu kiểm tra những vết đạn bắn trên cái xác, bỗng anh khựng lại, lạnh người khi nhìn thấy một cái xác khác cụt đầu và đầy máu đang nằm trong hốc tường. Chris kiểm tra khuôn mặt mềm nhũn, vô hồn nằm cách đó một bước chân, và anh nhận ra đó là Kenneth Sullivan. Đột nhiên anh cảm thấy lòng mình sôi sục kèm theo một cơn giận giữ chỉ chực trào dâng khi anh nhìn thấy cái xác của người thành viên đội Bravo.

    Thật là sai lầm, tất cả đều sai lầm. Joseph, Ken, có lẽ cả Billy - bao nhiêu người đã phải chết? Rồi sẽ còn thêm bao nhiêu người nữa phải chịu đựng, đau khổ chỉ vì một vụ tai nạn ngu xuẩn?

    Cuối cùng anh quay lưng lại, sải chân một cách quyết tâm tới cánh cửa dẫn trở lại phòng ăn. Anh sẽ bắt đầu từ đại sảnh chính, kiểm tra tất cả các lối mà đội S. T. A. R. S. Có thể đã đi qua và giết hết tất cả lũ quái vật trên đường anh đi tìm họ.

    Các đồng đội của anh sẽ không phải chết một cách vô ích; Chris sẽ làm bất cứ chuyện gì để chứng minh điều đó, bất kể đó có là công việc cuối cùng anh làm trên cuộc đời này.

    Rebecca khóa cửa lại sau khi Chris đã rời khỏi căn phòng, lòng thầm chúc cho anh được may mắn rồi bước trở lại chỗ để chiếc piano đầy bụi bặm và ngồi xuống. Cô biết rằng anh luôn cảm thấy phải có trách nhiệm với cô, và cô lại tự hỏi tại sao mình lại ngốc nghếch đến thế, làm rơi cả súng của mình.

    Nếu mình có súng thì ít nhất anh ấy cũng không phải lo lắng cho mình đến thế. Tuy là mình không có kinh nghiệm chiến đấu nhưng dù sao thì mình cũng đã trải qua khóa huấn luyện cơ bản như tất cả mọi người.

    Cô bâng quơ lướt ngón tay qua những phím đàn đầy bụi bặm, lòng cảm thấy mình thật vô dụng. Lẽ ra cô nên mang ít tài liệu trong nhà kho theo bên mình. Cô không chắc là còn điều gì khác cô có thể biết được qua những tài liệu ấy, nhưng ít nhất thì cô còn có cái để mà đọc. Vì cô vốn là người không giỏi ngồi yên một chỗ, và chẳng có việc gì làm sẽ chỉ khiến cho tâm trạng của cô thêm thê thảm mà thôi.

    "Mày có thể chơi đàn", tâm trí cô đề nghị một cách sáng suốt, Rebecca mỉm cười, mắt cô nhìn xuống các phím đàn. Không đâu, xin cám ơn. Lúc cô còn bé, cô đã phải chịu đựng ròng rã suốt bốn năm trời luyện tập các bản nhạc cho đến khi mẹ cô cuối cùng cũng cho phép cô được nghỉ.

    Cô đứng dậy, nhìn xung quanh căn phòng vắng lặng xem có gì đó khác có thể khiến cô bận rộn. Cô bước tới quầy bar và nhòm qua nó, nhưng cô chỉ thấy mấy cái kệ đựng ly và một chồng khăn ăn, tất cả đều bao phủ một lớp bụi mỏng. Ngoài ra còn có vài chai rượu, hầu hết đều trống rỗng, cùng vài chai khác chưa mở trông có vẻ đắt tiền trên mặt bàn phía sau quầy bar.

    Rebecca gạt bỏ ngay cái suy nghĩ khi nó vừa mới nhen nhóm trong đầu cô. Cô vốn không phải là đứa nghiện rượu, và bây giờ lại càng không phải lúc thích hợp để uống rượu. Thở dài, cô quay người nhìn tổng quát tất cả những chỗ còn lại trong căn phòng.

    Ngoài cái đàn piano ra thì chẳng còn gì nhiều để mà xem. Chỉ có độc một bức tranh chân dung nhỏ vẽ hình người phụ nữ dịu dàng trong khung tranh màu đen treo trên bức tường phía bên tay trái cô; một cái cây rậm lá, mà cô thường thấy trong các nhà hàng lịch sự, đang héo dần được đặt trên sàn cạnh chiếc đàn piano; một chiếc bàn đặt sát tường với một cốc rượu martini nằm đổ trên mặt bàn. Sau khi xem xét những thứ còn lại trong căn phòng thì chiếc piano với cô bắt đầu trông có vẻ hấp dẫn.

    Cô bước qua chiếc đàn piano cánh nhỏ và thử kiểm tra cái hốc tường phía bên phải cô. Trong hốc chỉ có hai cái kệ sách trống rỗng, ngoài ra chẳng có gì thú vị.

    Cô cau mày, bước tới gần hơn nữa về phía cái kệ sách. Cái kệ sách nhỏ hơn phía bên ngoài thì đúng là trống rỗng rồi nhưng cái kệ đằng sau nó thì không.

    Cô đặt tay lên hai mép của cái kệ sách bên ngoài và bắt đầu đẩy, cố dịch nó về phía trước. Cái kệ chẳng nặng nề gì nên cô có thể dễ dàng đẩy nó tạo thành một vết trượt trên mặt sàn gỗ đầy bụi.

    Rebecca xem xét cái kệ sách bí mật, rồi thất vọng. Một chiếc kèn bị mẻ, một cái đĩa thủy tinh đựng hoa quả đầy bụi, mấy cái chặn giấy trong suốt có chứa nước và vài bản nhạc dành cho đàn piano được kẹp lại với nhau bằng một cái kẹp giấy. Cô nhìn xuống tiêu đề bản nhạc, và đột nhiên cô cảm thấy lòng mình ấm lại khi cô bồi hồi nhớ về quãng thời gian cô vẫn còn chơi nhạc; đó là bản Xô - nát Ánh trăng, một trong những bản nhạc yêu thích của cô.

    Cô cầm bản nhạc đã ố vàng trên tay, nhớ tới những giờ phút cô cố gắng học cách chơi bản nhạc này khi cô mới mười hay mười một tuổi gì đấy. Trên thực tế, chính bản nhạc này đã giúp cô nhận ra rằng cô không thể nào trở thành một nghệ sĩ dương cầm thực thụ được. Giai điệu của bản nhạc quá đẹp đẽ và quá tinh tế nên hầu như cô toàn chơi hỏng nó mỗi khi cô ngồi lên chiếc ghế dài.

    Vẫn cầm tác phẩm trên tay, cô quay trở lại chỗ góc phòng và nhìn chiếc đàn piano một cách suy tư. Có vẻ như chẳng còn việc gì hay ho hơn để làm. Và ngoài ra, biết đâu ai đó trong đội của cô nghe thấy tiếng cô đánh đàn sẽ tới gõ cửa phòng và cố gắng tìm mọi cách để dừng thứ âm thanh khủng khiếp do cô tạo ra thì sao.

    Cô bật cười, phủi bụi khỏi chiếc ghế dài rồi ngồi xuống, đặt bản nhạc lên kệ. Các ngón tay cô tìm đến vị trí chính xác trên bàn phím một cách hoàn toàn tự động khi cô bắt đầu đọc các nốt nhạc đầu tiên, cứ như thể như cô chưa từng nghỉ chơi đàn bao giờ vậy. Một cảm giác dễ chịu và thú vị bắt đầu thế chỗ cho nỗi khiếp sợ đang lan tỏa khắp ngôi biệt thự.

    Cô bắt đầu đánh, một cách chậm rãi và không chút ngập ngừng. Những âm thanh u buồn vang lên phá vỡ không gian tĩnh mịch, Rebecca thấy lòng mình trở nên thanh thản, cảm giác căng thẳng và sợ hãi lúc trước đã hoàn toàn biến mất. Tuy cô vẫn chơi không được tốt lắm, nhịp độ vẫn bị hỏng như mọi khi - nhưng cô đã đánh đúng nốt, và giai điệu bản nhạc vẫn đủ sức khỏa lấp những khiếm khuyết về mặt kỹ thuật của cô.

    Giá mà các phím đàn không cứng đến thế.

    Có gì đó di chuyển phía sau lưng cô.

    Rebecca nhảy dựng lên, hất tung cả cái ghế dài khi cô quay người lại, tìm kiếm một cách hoang dại kẻ sắp tấn công mình. Và cô nhìn thấy một thứ khiến cô ngạc nhiên đến mức người cô cứng đơ ra mất mấy giây, không hiểu nổi ý thức đang nói gì với mình.

    Bức tường đang di chuyển.

    Ngay cả khi nốt nhạc cuối cùng vẫn còn treo lơ lửng trong không gian mát mẻ của căn phòng thì một ô tường cách mặt đất 3 feet trên bức tường trống không phía bên tay phải cô bắt đầu ầm ầm trượt ngược lên trần nhà cho đến khi nhẹ nhàng dừng lại. Người cô không động đậy mất một lúc, cô đứng đợi điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra với mình, nhưng sau vài giây đồng hồ trôi qua một cách lặng lẽ, không còn gì khác chuyển động; căn phòng trở lại yên tĩnh và hiền lành như trước.

    Bản nhạc bị giấu đi. Các phím đàn thì cứng một cách kỳ lạ..

    * * * có vẻ như chúng được nối với một cơ cấu máy móc nào đấy thì phải?

    Khe hở chật hẹp để lộ ra một căn buồng bí mật có kích thước bằng một chiếc tủ quần áo cỡ lớn, có thể bước vào được, và cũng được chiếu sáng nhẹ nhàng như phần còn lại của căn phòng. Ngoại trừ bức tượng bán thân với cái bệ đặt phía sau thì căn buồng hoàn toàn trống rỗng.

    Cô bước về phía cái khe cửa rồi dừng lại, suy nghĩ về một cái bẫy chết người với những chiếc phi tiêu tẩm thuốc độc bắt đầu quay cuồng trong đầu cô. Ngộ nhỡ cô bước vào và gây ra một thảm họa nào đó thì sao? Nhỡ cánh cửa đóng sập lại và nhốt cô luôn ở đó, còn Chris thì không quay lại đây nữa thì sao?

    Thế còn việc mày là thành viên duy nhất của đội S. T. A. R. S. Chẳng làm được cái tích sự quái gì trong toàn bộ chiến dịch lần này thì sao đây? Thể hiện tí nghị lực xem nào!

    Rebecca cố gắng cứng rắn hơn một chút trước hậu quả có thể xảy ra rồi bước vào bên trong, nhìn xung quanh một cách thận trọng. Cô không thấy có hiểm họa nào xuất hiện ở đây cả. Bức tường vữa thô mang màu cà phê sữa, có gắn gỗ trang trí. Căn buồng nhỏ này được chiếu sáng bởi cái bể kính bé tí tẹo ở phía bên phải cô mà bên trong là một nhúm cây héo rũ được trồng đằng sau lớp kính bẩn thỉu.

    Cô bước gần hơn tới cái bệ ở phía sau và nhận thấy bức tượng bán thân bằng đá đặt trên bệ chính là tượng của Beethoven; cô nhận ra vẻ nghiêm trang cùng hàng lông mày rậm rạp của nhà soạn nhạc đã viết nên bản sonát Ánh trăng bất hủ. Bản thân trên cái bệ cũng có một cái huy hiệu bằng vàng, dầy cộp trông giống như một cái khiên hay bao bảo vệ tay, có kích thước to bằng cái đĩa ăn.

    Rebecca cúi xuống cạnh cái cột chống đơn giản, mắt cô nhìn chăm chăm cái huy hiệu. Trông nó có vẻ cứng và dày, các họa tiết được trang trí một cách quý phái với một khối vàng đẹp đẽ ngang đỉnh. Trông cái huy hiệu có vẻ gì rất quen; hình như cô đã từng trông thấy những họa tiết tương tự ở đâu đó trong tòa nhà này.

    Trong phòng ăn, phía trên lò sưởi!

    "Đúng rồi, đúng là nó, chỉ có điều là cái huy hiệu đặt trên lớp khăn trùm lò sưởi được làm bằng gỗ", cô có thể khẳng định chắc chắn. Cô đã để ý thấy nó trong khi Chris đang nhìn đống mảnh vỡ của bức tượng thạch cao.

    Tò mò, cô chạm tay vào cái huy hiệu, lần theo những hoa văn chạy ngang qua mặt trước của nó, sau đó cô dùng hai tay nắm lấy hai cái gờ hơi nhô cao một chút trên tấm huy hiệu rồi nhấc nó lên. Cái huy hiệu nặng nề được nhấc lên một cách dễ dàng, cứ như thể đây không phải là chỗ thuộc về nó và đằng sau lưng cô, cánh cửa bí mật ầm ầm trượt xuống trở lại, nhốt cô ở lại trong phòng.

    Không hề nao núng, cô quay lại và đặt chiếc huy hiệu trở lại chỗ cũ - mặt tường lại một lần nữa được nhấc lên, trượt nhẹ nhàng trên những rãnh bí mật. Thở phào nhẹ nhõm, cô nhìn xuống cái huy hiệu nặng nề bằng vàng và bắt đầu suy nghĩ.

    Ai đó đã sắp đặt tất cả chuyện này theo thứ tự để giúp cho miếng huy hiệu được giữ kín, như thế hẳn nó phải quan trọng lắm - nhưng mà nếu thế thì tại sao cô lại nhấc nó ra khỏi chỗ để dễ dàng như thế được? Cái huy hiệu ở trên nóc lò sưởi không biết có mở ra cái hành lang bí mật nào không?

    Hay là.. cái huy hiệu ở trên lò sưởi có cùng kích cỡ với cái này? Tuy cô không chắc lắm nhưng cô nghĩ điều đó đúng và linh tính của cô cũng nói với cô rằng cô đã đúng. Nếu cô đổi chỗ hai cái với nhau, dùng cái huy hiệu bằng gỗ để giữ cho cánh cửa mở rồi đặt cái huy hiệu bằng vàng lên trên lò sưởi thì..

    Rebecca quay trở lại căn phòng chính, nhoẻn miệng cười. Chris đã dặn cô phải ở nguyên tại chỗ, nhưng cô sẽ không đi lâu quá, chừng một hai phút thôi - biết đâu khi anh quay lại thì cô lại có gì đấy để cho anh xem thì sao, và rất có thể đây sẽ là một trong những đóng góp thật sự giúp làm sáng tỏ những điều bí mật đang ẩn giấu bên trong tòa biệt thự.

    Và cũng là một minh chứng rõ ràng rằng cô không hề vô dụng chút nào.
     
  10. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 11

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Barry và Jill đứng cạnh cánh cửa bị khóa bằng bốn cái huy hiệu, hít thở bầu không khí của bầu trời đêm. Ngoài kia tiếng dế và ve sầu cứ vang lên rộn rã cho họ biết rằng mọi việc ngoài kia không điên rồ như trong này.

    Việc suýt nữa là bị nghiền nát vẫn còn làm cho Jill chưa hoàn hồn lại, nên Barry nhẹ nhàng dẫn cô ra đây với lời đề nghị là bầu không khí ngoài này sẽ làm cho cô dễ chịu hơn. Tuy anh ta không tìm thấy Chris hay Wesker nhưng có vẻ như anh ta biết chắc rằng họ còn sống. Barry kể lại vể những hành lang ngoằn ngoèo trong căn nhà này trong khi Jill vẫn đứng dựa vào tường hít thở những hơi dài.

    ".. và khi nghe thấy tiếng súng, tôi chạy lại ngay". Barry vừa nói vừa chà chà bộ râu quai nón của mình. Anh ta cười với Jill, nụ cười có vẻ gì đó hơi khác.

    "May cho cô đó, chậm vài giây nữa là có món sandwich Jill rồi."

    Jill bật cười rồi gật đầu đáp trả nhưng nhận thấy Barry có hơi.. căng thẳng, có vẻ như anh ta cố làm ra vẻ hài hước. Kỳ lạ thật. Cô biết rằng không phải dễ mà làm cho Barry trở nên lo lắng cho dù đang trong tình cảnh ngặt nghèo như bây giờ.

    Nhưng cũng phải thôi. Bị mắc kẹt ở đây, không tìm được các đồng đội khác, cả cái ngôi biệt thự này không biết còn bao nhiêu cái bẫy nữa. Việc đó có thể khiến bất cứ ai phải lo lắng.

    "Cám ơn vì đã cứu mạng". Jill nhẹ nhàng nói.

    Barry lơ đãng nhìn ra nơi khác: "Không có chi, cô thoát chết là tốt rồi, cần phải cẩn thận vì nơi này rất nguy hiểm."

    Jill vừa gật đầu cái nữa vừa nghĩ đến việc xém chút nữa là bị nghiền nát như cám. Cô cảm thấy vẫn còn rùng mình; và rồi cố không nghĩ đến chuyện đó nữa, việc cần làm bây giờ là tìm Chris và Wesker. Jill hỏi lại Barry:

    "Anh chắc rằng hai người bọn họ còn sống chứ?"

    "Phải, ngoại trừ tiền sảnh ra thì nguyên khu bên kia của ngôi biệt thự đầy xác những con zombie bị bắn hạ, tất cả đều là những phát chuẩn ngay đầu, chắc chắn là Chris đã hạ chúng – có điều việc tôi phải bắn hạ vài con trên lầu cho thấy là Chris đang bị kẹt ở đâu đó..", Barry đáp.

    Barry bước tới cái bảng đồng chỗ bốn cái lỗ khóa.

    "Cái huy hiệu hình ngôi sao này đã ở đây sẵn à?"

    Jill nhíu mày lại, cảm thấy hơi bất ngờ vì Barry đột ngột thay đổi đề tài câu chuyện. Chris là một trong những người bạn thân của Barry. Cô trả lời:

    "Không! Em tìm thấy nó ở một căn phòng khác, nó cũng có một cái bẫy. Xem ra nơi này đầy những bẫy ngầm. Tóm lại, bây giờ em nghĩ rằng chúng ta nên đi tìm Chris và Wesker - không gì có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra cho hai người bọn họ và em nữa."

    Barry lắc đầu: "Tôi không biết nữa. Ý tôi là cô nói đúng, chúng ta phải cẩn thận - tuy nhiên ở đây có quá nhiều căn phòng khác nhau, và nhiệm vụ chính yếu bây giờ là tìm ra một lối thoát. Nếu chúng ta chia ra thì chúng ta có thể tìm được ba cái huy hiệu còn lại nhanh hơn và sẵn tiện tìm Chris luôn thể. Và cả Wesker nữa."

    Mặc dù giọng nói và nét mặt của Barry vẫn bình thường nhưng bản năng của Jill mách với cô rằng anh ta đang khó chịu. Barry quay sang nhìn cái bảng đồng nhưng có vẻ như anh ta cố ý làm vậy để tránh ánh mắt của cô.

    Barry quay lại nói tiếp: "Ngoài ra, bây giờ chúng ta đã biết chúng ta đang đối mặt với cái gì, chỉ cần cẩn thận một chút là ổn thôi."

    Jill hỏi vặn lại: "Barry, anh vẫn ổn chứ, trông anh có vẻ - hơi mệt". Jill biết rằng đó không phải là từ đúng nhưng cô không biết nói gì hơn.

    Barry thở dài, cuối cùng anh ta cũng chịu nhìn thẳng vào Jill. Quả thật anh ta đang mệt mỏi, điều đó thể hiện qua đôi mắt và đôi vai đang chùng xuống của Barry.

    Barry trả lời: "Không sao, tôi vẫn khỏe. Chỉ vì tôi đang lo cho Chris, cô biết mà."

    Jill gật đầu nhưng cô cảm thấy có điều gì còn hơn thế nữa. Nãy giờ từ lúc kéo cô ra khỏi cái bẫy chết người đó, Barry trông có vẻ hơi lãnh đạm, và cả căng thẳng nữa.

    Mình khùng rồi! Đây là Barry Burton, một thành viên trụ cột của S. T. A. R. S - không phải bàn cãi gì về điều đó. Và hơn nữa anh ta lại vừa cứu mạng mình. Liệu anh ta có cái gì để che giấu chứ? Jill cảm thấy mình nghi ngờ hơi quá đáng - nhưng cô quyết định không nhắc tới Trent và cái PDA của ông ta. Sau những gì mà Jill đã từng trải qua, cô không thực sự tin tưởng ai hoàn toàn. Và có vẻ như anh ta đã biết về đường đi trong này rồi, anh ta không cần thêm thông tin nữa..

    Hay thật, cứ suy diễn kiểu này một hồi nữa mình lại cho rằng đội trưởng Wesker đứng sau mấy chuyện này.

    Jill tự cười mình rồi nhấc người ra khỏi tường, cô và Barry từ từ quay lại cánh cửa dẫn vào trong. Bây giờ thì điều đó thật điên khùng.

    Khi bước tới cánh cửa thì cả hai cùng dừng lại, Jill hít một hơi thật sâu luồng không khí trong lành để thư giãn thần kinh. Còn Barry thì lôi khẩu Python ra và lắp đạn vào mấy lỗ đạn trống, nét mặt anh ta trông như đang cười.

    Barry quay sang: "Tôi nghĩ mình sẽ quay lại phía đông ngôi nhà này một lần nữa để tìm Chris, còn cô thì đi lên lầu để tìm mấy cái huy hiệu còn lại đi. Nếu làm vậy chúng ta có thể kiểm tra tất cả các phòng, sau đó chúng ta quay lại tiền sảnh, được chứ?"

    Jill gật đầu và Barry mở cửa, cái bản lề đã rỉ sét kêu lên kót két. Một luồng gió lạnh thổi qua họ làm Jill thở dài một tiếng, chuẩn bị bước vào một mê cung lạnh lẽo với những hành lang tối tăm, một loạt những căn phòng chưa được kiểm tra với những bí ẩn bên trong chúng.

    "Cô sẽ ổn thôi mà". Barry nói một cách nhẹ nhàng và vỗ vỗ lên vai cô mấy cái. Khi cánh cửa vừa đóng lại anh ta đưa tay lên trán chào cô một cái rồi mỉm cười.

    "Chúc may mắn", Barry nói rồi chạy đi trước khi Jill kịp trả lời. Một tiếng kẽo kẹt vang lên anh ta đi qua cánh cửa đôi ở cuối hành lang và biến mất.

    Jill vẫn đứng đó nhìn theo và một lần nữa cô chỉ còn một mình trong cái hành lang im ắng, tối tăm và bốc mùi hôi thối này. Không phải là cô đang tưởng tượng; Barry đang giấu cô điều gì đó. Có lẽ anh sợ điều đó sẽ làm cô lo lắng chăng, hay là anh ta đang cố bảo vệ cô khỏi cái gì đó?

    Có lẽ anh ta tìm thấy Chris hay Wesker đã chết và không muốn nói chuyện đó cho mình.

    Đó không phải là ý nghĩ hay nhưng nó giải thích tại sao anh ta có vẻ khác lạ như vậy. Rõ ràng là anh ta muốn tất cả ra khỏi đây thật nhanh và muốn cô tiếp tục tìm kiếm ở phía bên này căn nhà. Và với cái vẻ anh ta nhìn cái cửa thì anh ta có vẻ quan tâm đến nó nhiều hơn cả Wesker hay Chris..

    Cô nhìn xuống hai cái xác đang nằm trên sàn, máu của chúng đã bắt đầu khô lại. Có lẽ cô đang cố tưởng tượng ra một chuyện không có thật. Có lẽ Barry cũng giống như cô, anh ta đang sợ vì cái chết có thể đổ ập xuống đầu họ bất cứ lúc nào.

    Có lẽ mình nên thôi đừng nghĩ đến chuyện đó nữa và bắt đầu làm việc của mình đi thì hơn. Dù có tìm được những người khác không thì Barry đã đúng về việc phải mau chóng ra khỏi nơi này. Phải mau chóng quay lại thành phố để cho mọi người biết chuyện gì đang xảy ra ngoài này..

    Jill đứng thẳng người lên và bước qua cánh cửa đôi hướng về tiền sảnh. Cô đã tiến xa đến mức này và thêm chút nữa để khám ra cái bí mật đã cướp đi mạng sống của bao người này - hoặc là mình đang đi vào chỗ chết, cô tự nhủ như vậy.

    Forest Speyer đã chết. Anh chàng vui tính với chất giọng miền Nam và bộ quần áo rách te tua lúc nào cũng cười đã chết. Forest gục chết dựa lưng vào tường và xung quanh anh máu loang lỗ khắp nơi.

    Chris lặng nhìn vệt máu chảy dài trên tường trong khi xung quanh những cơn gió mạnh thổi ù ù qua cái ban công ngoài trời ở tầng một này nơi anh đang đứng. Đó là những âm thanh nghe có vẻ ma quái; tuy nhiên Forest đã không thể nghe nữa, anh ta chẳng bao giờ còn nghe gì được nữa.

    Chris cúi xuống bên xác người bạn, người đồng đội và cẩn thận cạy khẩu Beretta ra khỏi bàn tay đã lạnh giá của anh ta. Chris đã tự nhủ sẽ không nhìn xác của Forest, nhưng khi Chris rướng lên với tay vào ba lô đeo lưng của Forest thì anh thấy hai cái hốc mắt trống không của anh ta.

    Lạy chúa, chuyện gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra cho cậu vậy, anh bạn?

    Toàn thân Forest đầy những vết thương nhỏ ly ty khoảng từ 2 đến 4 cm, đầy máu - giống như là anh ta bị đâm hàng trăm nhát bằng một con dao cùn vậy, và mỗi một chỗ như vậy thì có một khoanh thịt biến mất. Lồng ngực của anh bị xé một lỗ toang hoác để lộ ra xương lồng ngực xen lẫn thịt và máu. Vẻ mặt kinh hoàng và đôi mắt trống rỗng của Forest làm Chris nghĩ rằng kẻ giết anh ta muốn Forest phải chịu đau đớn trước khi chết..

    Chris lượm ba băng đạn Beretta trong túi của Forest ra và cho vào túi mình rồi nhanh chóng đứng dậy, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào xác người bạn. Rồi anh ngoảnh mặt đi nhìn vào khu rừng tối đen và hít những hơi thở dài. Trong đầu Chris đang rối tung lên bởi những suy nghĩ về cái chết của Forest mà anh đang cố tìm lời giải thích hợp lý.

    Hồi nãy anh quyết định sẽ kiểm tra tất cả các cánh cửa mà anh mở được. Lúc bước lên lầu một anh thấy có những dấu tay đầy máu trên cánh cửa ngoài cùng bên phải và nghe thấy những tiếng kêu của một loài chim nào đó thì anh quyết định đi vào đó trước..

    * * *Quạ. Những tiếng kêu đó nghe giống tiếng quạ. Chỉ là mấy con quạ bình thường hay là những con quạ giết người đây. Sau khi đã gặp những con chó điên và bọn zombie thì chuyện quạ giết người không phải là không có khả năng xảy ra.

    Chris chớp chớp mắt, đáng lẽ ra anh không nên tập trung suy nghĩ về cái chuyện tầm phào này. Nhíu mày lại, Chris lại cúi xuống quan sát các vết thương của Forest kỹ hơn. Có những vết xước xung quanh những cái lỗ đó, và những vết cào đó đi theo những đường thẳng hàng và song song nhau.

    Móng vuốt của thú, hoặc của chim.

    Khi ý nghĩ đó vừa xuất hiện trong đầu Chris thì bên trên anh vang lên những tiếng vẫy cánh. Chris từ từ quay lại, tuy anh vẫn nắm chặt khẩu Beretta trong tay nhưng anh cảm thấy nó có vẻ như lạnh đi.

    Một con chim kỳ dị, đen bóng đang đậu trên một thanh sắt trên tường khoảng 0, 5m đang nhìn anh bằng đôi mắt đen bóng của nó. Bộ lông đen mượt phủ lên thân hình mập mạp của nó.. và có một vệt màu đỏ dính trên mỏ của nó.

    Con chim nghiêng đầu qua một bên và bỗng cất lên một tiếng chói tai, một mảnh thịt rơi ra khỏi mỏ. Xung quanh những tiếng kêu khác cất lên đáp trả làm vang dội cả bầu trời đêm. Những tiếng vỗ cánh cất lên từ bên trên mái hiên và Chris thấy bọn chúng đang bổ nhào xuống anh.

    Chris vùng chạy, hình ảnh khuôn mặt đầy máu của Forest như làm anh chạy nhanh hơn mức mà mình có thể. Anh chạy vào hành lang bên trong và đóng sầm cửa lại. Mồ hôi túa ra đầy mình khi anh dựa vào tường đứng thở hổn hển.

    Chris hít thở một hơi dài, rồi một hơi khác, sau một lúc tim anh đập chậm lại như bình thường. Tiếng kêu the thé của bọn quạ vẫn còn vang lên ở xa xa bên kia cánh cửa.

    "Lạy Chúa, sao mình ngu quá vậy?"

    Chris đã quá nóng vội khi bước ra ngoài này, anh sẵn sàng tâm lý trả thù cho bất cứ người đồng đội S. T. A. R. S nào mà anh tìm thấy. Và anh đã bị sốc khi nhìn thấy xác của Forest, nếu đây là xác một người khác thì Chris đã có thể liên tưởng đến bọn quạ nhanh hơn qua các vết thương đó - và cũng phát hiện ra bọn chúng đang theo dõi anh từ phía sau sớm hơn, xém chút nữa là anh đã nằm lại đó cùng Forest rồi.

    Chris đi ngược trở lại trên cái hành lang nhỏ để quay lại sảnh đường, vừa đi vừa tự trách mình đã lao ra đây mà không chuẩn bị gì cả. Chirs tự nhủ mình không thể mắc những sai lầm ngớ ngẩn như vậy nữa, không thể để sự việc xảy ra trước mắt làm mất để ý đến xung quanh. Đây không phải là một trò chơi mà anh có thể làm lại lên lại nếu bị chết. Mọi người đang gặp nguy hiểm chết người, các bạn anh đang bước vào chỗ chết – "và nếu mày không tỉnh táo và cẩn thận hơn thì mày sẽ là người kế tiếp. Một cái xác bị xé ra tiếp theo nằm đâu đó trong một hàng lang lạnh giá, một nạn nhân tiếp theo của ngôi nhà đáng nguyền rủa này."

    Chris thôi không tự cằn nhằn mình nữa, anh hít một hơi dài và bước ra trở lại bao lơn lầu một. Bây giờ không phải là lúc tự trách mình về việc đã nổi điên lên và chạy vào một nơi nguy hiểm lạ lẫm để trả thù. Chris phải tập trung vào nhiệm vụ quan trọng trước mắt: Tìm các thành viên của đội Alpha và quay trở lại với Rebecca..

    Chris đang định bước xuống cầu thang với khẩu súng của Forest được giắt bên hông. Ít ra thì Rebecca cũng có thể tự bảo vệ cô ta với cái này -

    "Chris". Tiếng của Rebecca bỗng vang lên.

    Chris ngạc nhiên nhìn xuống thì thấy Rebecca đang đứng ở chiếu nghỉ cầu thang, cô mỉm cười với anh.

    Chris bước nhanh xuống dưới hỏi vội: "Có chuyện gì vậy, mọi việc vẫn ổn chứ?".

    Rebecca đưa ra một cái chìa khóa bằng bạc khi Chris vừa đến bên cô. Nụ cười trên môi cô như rộng ra: "Em tìm thấy cái này, có lẽ nó sẽ giúp ích cho anh."

    Chris cầm chiếc chìa khóa lên xem và thấy có hình một cái khiên được khắc vào đó trước khi anh bỏ nó vào túi. Rebecca vẫn cười, cô nói với vẻ hào hứng.

    "Sau khi anh đi, em chơi thử cây đàn và một cánh cửa bi mật đã mở ra. Có một vật bằng vàng trong đó trông giống như cái khiên vậy, em tháo nó ra và đổi chỗ cho cái khiên bằng gỗ ở phòng ăn thì cái đồng hồ bự đó dịch sang một bên, để lộ ra cái này trong một hốc tường đằng sau"

    Rebecca dừng lại, cô nói ấp úng khi nhìn thấy vẻ mặt của Chris:

    "Em xin lỗi.. lẽ ra em không nên rời khỏi chỗ đó, nhưng em nghĩ có thể bắt kịp trước khi anh đi quá xa.."

    "Không sao đâu", Chris cố nở một nụ cười rồi nói tiếp. "Anh chỉ ngạc nhiên khi thấy em ở đây thôi. Anh tìm thấy cái này, nó có lẽ sẽ hữu dụng hơn cái chai xịt côn trùng."

    Chris đưa khẩu Beretta cho Rebecca kèm theo hai băng đạn. Rebecca cầm khẩu súng rồi nhìn nó một lát.

    Khi cô ngẩng đầu lên nhìn Chris, ánh mắt của cô trở nên nghiêm túc và xúc động. "Của ai vậy?"

    Trong một giây Chris nghĩ đến chuyện sẽ nói dối cô, nhưng anh biết rằng Rebecca không dễ gì bị gạt - và anh bỗng nhận ra rằng mình quan tâm hơi quá mức tới cô, anh đang cố gắng bảo vệ cô khỏi những nỗi buồn từ sự thật phủ phàng.

    Claire.

    Chính là vậy, Rebecca làm anh nhớ đến đứa em gái từ những lời châm chọc vui tính, cách ăn mặc và mái tóc của nó.

    "Nghe này". Rebecca hạ giọng xuống. "Em biết rằng anh đang lo cho em và em cũng thừa nhận rằng mình chưa có kinh nghiệm tác chiến. Nhưng em là một thành viên trong đội, việc che dấu sự thật có thể sẽ làm em mất mạng. Vì vậy hãy trả lời em - đây là súng của ai vậy?"

    Chris nhìn Rebecca một hồi rồi nói: "Forest. Anh tìm thấy xác cậu ta ngoài kia, cậu ta bị bọn quạ mổ chết. Kenneth cũng đã chết."

    Một nét đau khổ thoáng ánh lên trong mắt Rebecca nhưng cô gật đầu chậm rãi, mắt vẫn nhìn anh: "Được rồi. Vậy bây giờ chúng ta làm gì nào?"

    Chris không thể mỉm một nụ cười dù nhỏ nhất để an ủi cô, nhớ lại khi mình còn trẻ như Rebecca.

    Anh nhìn lên phía trên, hy vọng rằng mình không đưa ra một quyết định sai lầm nào nữa.

    "Anh nghĩ rằng chúng ta nên thử hai cánh cửa còn lại.."

    Wesker không nghe hết cuộc đối thoại giữa Barry và Jill, nhưng sau khi nghe câu "Chúc may mắn" từ ngài Burton thì có tiếng mở rồi đóng cửa vang lên - một lát sau những tiếng bước chân thình thịch nện xuống sàn gỗ lại vang lên cùng tiếng mở, đóng cửa lần nữa. Ngoài kia đã yên tĩnh trở lại, mấy người đồng đội của hắn đã đi tìm những cái huy hiệu còn lại.

    "Có vẻ như mình chọn đúng phòng để ngồi đợi rồi.."

    Wesker đã dùng chiếc chìa khóa có khắc hình cái mũ sắt để vào căn phòng nhỏ dùng để nghiên cứu sách vở ở đối diện phòng tranh để giám sát những người bạn của hắn. Ở đây hắn không những có thể biết được có bao nhiêu người qua đây mà còn là người đầu tiên đến được khu vực phòng thí nghiệm..

    Hắn cầm cái huy hiệu khắc hình những cơn gió săm soi dưới ngọn đèn bàn, miệng cười toe toét. Việc này quá dễ dàng, thật sự là quá dễ. Tình cờ sau khi hắn quay trở lai sau khi nói chuyện với Barry, hắn đi qua bức tượng ở bao lơn phía trên phòng ăn và nhớ ra rằng nó có một ngăn bí mật ở đâu đó. Chẳng để phí một giây nào, thay vì săm soi để bức tượng để tìm thì hắn đẩy nó rớt xuống phòng ăn luôn thể. Tuy không có cái huy hiệu nào trong đó nhưng viên ngọc màu xanh biển lẫn trong đống thạch cao vỡ vụn làm hắn mừng rơn. Có một căn phòng phía sau phòng ăn có một bức tượng hình đầu con hổ mà hắn nhớ rằng đó là một loại cơ quan bí mật. Vừa nhìn cái đầu đó là hắn biết ngay mình đúng, hai mắt con hổ đã biến đâu mất. Hắn lắp viên ngọc vào đúng vị trí của nó và bức tượng xoay qua một bên để lộ ra cái huy hiệu này bên trong. Và như vậy hắn đã bước đến gần hơn việc hoàn thành sứ mạng. Khi ba miếng còn lại đã được lắp vào, ta sẽ đợi bọn chúng đi chỗ khác để tìm miếng huy hiệu này rồi a lê hấp, vọt qua cái cửa đó.. Wesker định đi ra kiểm tra cánh cửa nhưng rồi lạii biệt thự này tuy lớn thật nhưng vẫn có khả năng hắn sẽ đụng những người khác, và điều đó thật không khôn ngoan chút nào. Ngoài ra, chắc hẳn bọn chúng bây giờ cũng chưa tìm ra thêm cái nào nữa đâu. Hồi nãy lúc bước xuống lầu để lượm viên ngọc kia thì suýt chút nữa hắn đã đụng mặt Chris. Chris đã tìm thấy con nhỏ tân binh kia và chắc bọn chúng đang lần theo các "manh mối"..

    Hơn nữa, ở trong này thật dễ chịu. Có lẽ mình nên ngủ một chút trong khi đợi bọn chúng.

    Hắn ngồi ngả người ra ghế, cảm thấy hài lòng về những gì mình làm được từ nãy đến giờ. Sự cố có thể dẫn đến một rắc rối lớn này đã được hắn dàn xếp êm thấm nhờ vào đầu óc nhanh nhạy của mình. Hắn đang có trong tay một cái huy hiệu, Jill và Barry thì đang đi tìm mấy cái còn lại cho hắn - và may mắn thay hồi nãy khi vào thư viện hắn đã gặp Ellen Smith..

    "Oops, đó là tiến sĩ Ellen Smith, cám ơn cô rất nhiều."

    Sau khi lấy được mảnh huy hiệu này Wesker đã định đi vào căn phòng nhỏ bí mật ở thư viện, nơi có cửa sổ nhìn ra bãi đáp trực thăng ở phía sau ngôi biệt thự. Lối vào đã bị chặn bởi những kệ sách nặng trịch, hắn nhanh chóng kiểm tra khắp thư viện để tìm xem có vật gì có ích không thì gặp tiến sĩ Smith đang lê bước về phía hắn để đón chào.

    Wesker đã cố gắng hẹn hò cô ta kể từ khi hắn chuyển đến thành phố Raccoon, hắn bị hấp dẫn bởi đôi chân dài và mái tóc vàng rực rỡ của cô; Wesker luôn thích những người có tóc vàng, đặc biệt là người đó lại còn thông minh nữa. Không những nhiều lần không nhận lời mà cô ta còn không mảy may thèm cư xử tốt hơn một chút đối với hắn. Khi hắn gọi cô ta là Ellen, cô lạnh lùng nhắc rằng cô ta là cấp trên của hắn, và còn là một tiến sĩ, Wesker thấy cô ta nhấn mạnh chữ đó. Nếu mà con nhỏ đó không gợi cảm đến vậy thì hắn đã không bận tâm đến.

    "Nhưng nhìn xem nhan sắc của cô đã phai nhạt như thế nào, tiến sĩ Ellen."

    Wesker nhắm mắt lại, mỉm cười nhớ lại hồi nãy. Mái tóc vàng rực rỡ của cô ta giờ nhìn như đống rơm cháy nắng xuất hiện đằng sau một cái kệ, vừa rên rĩ vừa lê bước về phía hắn. Cặp chân dài của cô ta vẫn còn nhưng nó đã mất đi vẻ quyến rũ vốn có, thay vào đó là một làm da xám xịt..

    "Mùi nước hoa của cô thật là quyến rũ tiến sĩ Smith à". Wesker nói xong giơ súng lên bắn hai phát vào đầu cô ta. Cô ta ngã xuống với hai lỗ thủng trên đầu đang xịt máu, Wesker thấy cả xương sọ loáng thoáng trong đó nữa. Tuy Wesker không phải là kẻ nông cạn thiếu suy nghĩ, nhưng tặng cho con nhỏ kiêu kỳ đó vài viên đạn đối với hắn thật là tuyệt - phải nói là rất phấn khởi.

    Giống như lớp kem trên một cái bánh vậy, chỉ giúp người ta cảm thấy đậm đà đôi chút. Nếu may mắn thì mình còn gặp cả đống con như vậy dưới phòng thí nghiệm..

    Một lúc sau Wesker đứng dậy vươn vai cho đỡ mỏi rồi đảo mắt nhìn qua cái kệ sách để tìm một cuốn sách đọc cho đỡ chán. Hắn đang rất nóng lòng muốn đi tiếp, nhưng phải một lát nữa thì bọn S. T. A. R. S mới có thể tìm ra mấy cái huy hiệu đó, và hắn không thể làm gì khác hơn là chờ đợi; hắn cần tìm một cái gì đó để giữ cho hắn khỏi ngủ gục..

    Nhìn qua một lượt mấy cuốn sách khoa học hắn nhíu mày lại. Một trong mấy cuốn đó có tựa là Phagemids: Alpha Complementation Vectors, cuốn kế tiếp là cDNA Libraries and Electrophoresis Conditions.

    Sách hóa sinh và mấy cuốn sổ ghi chép quá trình nghiên cứu, tuyệt vời thật. Có lẽ là hắn nên đi ngủ thì hơn. Nội việc đọc mấy cái tựa này thôi đã làm hắn cảm thấy buồn ngủ rồi.

    Ánh mắt của hắn dừng lại ở một cuốn sách to ở kệ dưới, bìa sách được bọc bằng một tấm da màu đỏ. Hắn cầm quyển sách lên, cảm thấy có hứng thú một chút vì ít ra tựa của nó không đến nỗi đáng chán mặc dù nghe có vẻ buồn cười:

    "Chim ưng phía Đông, Chó sói phía Tây..

    Khoan đã - đó là dòng chữ được viết trên cái đài phun nước mà" - Wesker nhìn chăm chăm vào cuốn sách, niềm hân hoan của hắn đang tắt lụi dần. Không thể nào như vậy được, mấy thằng nghiên cứu đã biến thành bọn quái hết cả rồi, bọn chúng không thể khóa lối dẫn xuống phòng thí nghiệm được, chẳng có lý do gì để làm như vậy cả. Wesker vừa lật cuốn sách ra vừa lạy trời cho hắn sai - và hắn gầm lên tức giận khi nhìn thấy vật đó trong cuốn sách. Một cái mề đay bằng đồng thau có khắc hình con chim ưng - thêm một cái chìa khóa nữa của thằng cha Spencer điên khùng.

    Giống như số mệnh đang đùa với Wesker vậy. Để ra khỏi ngôi nhà này hắn phải có mấy cái huy hiệu. Và khi đã ra đến sân sau hắn lại phải đi xuyên qua một đường hầm ngầm để đến một địa điểm bí mật trong khu vườn - nơi có một cái đài phun nước là lối vào khu vực phòng thí nghiệm. Cái đài phun nước đó là một trong những tuyệt phẩm của Spencer, nó là cánh cửa của khu vực thí nghiệm - và muốn mở nó ra thì phải cần hai cái mề đay bằng đồng thau này..

    Nhưng cái mề đay chim ưng ở đây có nghĩa là cánh cửa đó đã bị khóa lại. Và điều đó có nghĩa là hắn phải đi tìm cái mề đay chó sói, nó có thể ở bất cứ đâu trong cái nơi chết tiệt này - điều này làm cho cơ hội xuống được khu phòng thí nghiệm tụt xuống gần bằng không.

    Cơn giận bốc lên, Wesker ném cái mề đay vô cái kệ sách, rồi vung tay hất đổ cái đèn bàn làm cho căn phòng trở nên tối thui. Việc giữ cái huy hiệu hình ngọn gió bây giờ đã trở nên vô ích; kế hoạch hoàn hảo của hắn đã tan thành bọt xà phòng. Bây giờ hắn đành phải gắn nó vào cánh cửa, và hy vọng rằng ai đó sẽ tình cờ tìm thấy cái mề đay chó sói dùm hắn ở đâu đó trong cái ngôi biệt thự rộng lớn chết tiệt này.

    Và điều này có nghĩa là sự việc sẽ trở nên nguy hiểm hơn, phải tìm kiếm nhiều hơn - và biết đâu ai đó sẽ có thể xuống được khu thí nghiệm trước hắn thì sao.

    Tức giận, Wesker đứng lặng người trong bóng tối, tay nắm chặt lại và hắn cố lắm mới không hét lên những tiếng giận.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...