Resident Evil - S.D. Perry

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Đêm Nay, 9 Tháng mười hai 2020.

  1. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 9

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Con khỉ đầu chó lao tới ngay khi họ trở ra hành lang – và ra đi một cách hoành tráng, khẩu súng săn hai nòng bắn nó vỡ sọ với một tiếng nổ đinh tai. Billy nạp lại đạn mới với viên còn lại duy nhất. Anh nhớ là mình còn nhiều, nhưng có lẽ đã bị rớt mất đâu đó dọc đường. Dù sao cũng chẳng có gì khác chặn đường họ nữa, và cả hai quay lại căn phòng lớn. Billy có một cảm giác nhẹ nhõm mà đã lâu anh không có. Bên cạnh trận cười hết mức, như để thư giãn giữa những sự kiện hỗn độn mà họ dính vào, đây còn là lần đầu anh thổ lộ tâm sự với một người thật lòng muốn nghe, một người tin rằng anh nói sự thật. Họ dừng chân chỗ cái tượng đài lớn bằng đá giữa căn phòng thênh thang, nhìn quanh quất. Quanh bệ là sáu con vật tạc tượng, mặt hướng ra ngoài, mỗi con có một tấm thẻ bài gắn phía trước, bên cạnh mỗi tấm là một ngọn đèn dầu nhỏ. Những con vật được chạm khắc cực kỳ điêu luyện, nhưng chỉ càng làm nổi bật thêm tính chất kỳ quái, nếu không muốn nói là thật sự chướng mắt.

    Sinh vật trước mặt anh là một con đại bàng đang bay, dưới móng vuốt quắp chặt một con rắn. Anh đọc lớn tấm thẻ. "TA TỰ DO BAY LƯỢN GIỮA KHÔNG TRUNG, SĂN BẮT CON MỒI KHÔNG CHÂN." Anh cau mày, chuyển sang đọc tấm thẻ kế bên, của một con hươu. "TA ĐỨNG CHỄM CHỆ TRÊN MẶT ĐẤT VỚI CẶP SỪNG NGẠO NGHỄ PHÔ BÀY."

    Rebecca rảo bước quanh những mẫu vật nghệ thuật không đúng chỗ, chợt thấy một cánh cổng thép bắt chặt vào vách tường phía sau. Cánh cổng chắn lối vào một hành lang ngắn, có hai ô cửa nằm dọc theo vách. "Ở đây có ký hiệu, nó nói" cô quay lại nhìn chăm chú những con vật. "Đại để là dùng mấy ngọn đèn để đánh dấu từ con yếu nhất đến con mạnh nhất. Một bài toán đố." Cô nắm lấy một thanh thép của cánh cổng, lắc mạnh. "Chắc để mở cái cửa này."

    "Tức là phải thắp sáng mấy ngọn đèn theo thứ tự, bắt đầu từ con yếu nhất," Billy nói. Thật ngu ngốc. Sao lại phải đâm đầu vào mấy cái rắc rối này cơ chứ.. Anh lôi bàn đồ ra khỏi túi, nghiên cứu nó. "Dường như có vài căn phòng chỗ đó. Tôi không thấy lối ra."

    Rebecca nhún vai. "Ừ, nhưng có thể chúng ta tìm được gì đó. Liệu nó có gây tổn hại gì không nhỉ?"

    "Tôi không biết," anh thật thà trả lời. "Biết đâu đấy."

    Cô cười cười rồi quay sang bức tượng gần nhất, một con cọp, đọc tấm thẻ bên cạnh. "TA LÀ VUA CỦA VẠN VẬT: KHÔNG AI THOÁT ĐƯỢC KHI TA MUỐN BẮT."

    Billy đi sang trái, tới một con rắn đang cuộn quanh nhánh cây. "Cái này nói, TA LẶNG LẼ TRƯỜN QUA NẠN NHÂN BẰNG CƠ THỂ KHÔNG CHÂN, KHUẤT PHỤC NHỮNG VỊ VUA MẠNH MẼ NHẤT BẰNG CHẤT ĐỘC."

    Rebecca đọc to lên hai cái cuối – bên dưới một con sói có dòng chữ, TRÍ TUỆ SẮC SẢO CỦA TA CÓ THỂ HẠ GỤC NGAY CẢ NHỮNG SÚC VẬT CÓ SỪNG VĨ ĐẠI NHẤT.

    Tượng cuối cùng là một con ngựa, đang trong tư thế chồm lên. Chữ khắc bên dưới nó ghi là, BAO NHIÊU TRÒ GIAN TRÁ CŨNG KHÔNG NHANH BẰNG VÓ NGỰA THẦN TỐC CỦA TA.

    Súc vật có sừng. Billy quay lại con hươu, đọc lại phần "cặp sừng ngạo nghễ phô bày."

    "Nghĩa là sói mạnh hơn hươu," anh nói.

    "Và nếu gian lận cũng không đuổi kịp ngựa, thì ngựa tất phải mạnh hơn sói," cô nói. "Thứ gì mạnh hơn rắn nhỉ?"

    "Hẳn là đại bàng, nó quắp được rắn."

    Họ rảo bước quanh tượng đài, đọc lên những gì ghi trên đó, cân nhắc bài toán. Sau khi đã đồng ý về thứ tự, Billy bước đến từng con vật, lần lượt thắp sáng những ngọn đèn dầu – từ yếu nhất đến mạnh nhất, dĩ nhiên chỉ là với những bức tượng này thôi, con kém nhất là hươu, rồi sói, ngựa, hổ, rắn, và đại bàng.

    Ngay lúc anh thắp xong ngọn đèn của đại bàng, một âm thanh nặng nề của máy móc phát ra đâu đó bên trong những bức tượng – và cánh cổng thép phía sau nhẹ nhàng kéo lên, trượt vào trong cái rãnh phía trên mái vòm.

    Hai người dấn bước vào hành lang. Căn phòng đầu tiên bên tay phải, khi nhìn sơ qua thì thấy nó chẳng có gì đáng giá. Chỉ có một chồng thùng gói hàng trống không, vài cái kệ xếp lộn xộn. Billy chuẩn bị bỏ qua thì Rebecca bước về phía đống thùng. Có một cái quay lại phía cửa nên họ không thể thấy được có gì trong đó – và khi bước vòng qua, cô bật cười hào hứng, đồng thời cúi xuống bên cạnh cái thùng, xoay nó lại cho Billy thấy. Anh bước nhanh tới cạnh cô, cảm giác giống như một đứa trẻ được nhận quà Giáng sinh. Câu đố chết tiệt ấy cũng đáng giá quá chứ.

    Có hai hộp rưỡi loại đạn cỡ chín ly. Còn lại nửa hộp, loại hộp hai mươi hai viên, cỡ. 50, thì không mấy hữu ích với loại súng nạp băng đạn – nó được thiết kế cho súng lục ổ quay. Nhưng một hộp mười bốn viên đạn súng săn thì quá tuyệt. Billy không thể không nghĩ tới một khẩu bazooka, nhưng với những gì thu thập được thì họ không thể mong chờ gì hơn.

    Cả hai mất vài phút để nạp lại đạn. Rebecca tìm được trên kệ một cái ba lô đã hỏng khóa kéo, rồi tống hết mọi thứ vào đó và vào đai lưng của cô; họ đồng ý là nên mang nó theo, để có đủ chỗ chứa trong trường hợp tìm được thêm vũ khí. Billy nhặt một cái ghim băng dưới sàn để thay thế dây kéo cho ba lô, cảm thấy an tâm với sức nặng của mớ đạn.

    "Tôi đến phải hôn cô mất," anh vừa nói vừa bồng khẩu súng săn lên – và khi thấy im lặng, anh quay lại nhìn, thấy cô hơi đỏ mặt. Cô quay đi chỗ khác, xốc lại đai lưng.

    "Tôi không định nói theo nghĩa đen," anh chữa lại. "Ý tôi là, không phải cô không hấp dẫn, nhưng cô – Tôi – Ý tôi là –"

    "Thôi đừng ấp úng nữa," cô nói mát mẻ. "Tôi biết anh định nói gì mà."

    Billy gật đầu nhẹ nhõm. Họ đã kết hợp với nhau đủ nhiều để không nghĩ tới cái chuyện nam nữ. Mặc dù cô ta cũng khá xinh.

    Anh dẹp ý nghĩ đó đi, tự nhắc nhở là mình chỉ mới đoạn tuyệt với đàn bà có một năm – lúc này chưa tới mức phải nghĩ tới chuyện đó.

    Hai người chuyển sang ô cửa thứ hai, thấy nó không khóa. Đây là một phòng ngủ tồi tàn và bẩn thỉu, mấy cái giường làm bằng gỗ dán nằm xếp lớp, vài cái mền rải rác xung quanh trông xơ xác và cáu bẩn. Với những tiện nghi tồi tàn thế này, cùng với cánh cổng thép khóa kín ngoài hành lang, Billy có thể đoan chắc rằng những người ở đây không hề tình nguyện. Rebecca có nói với anh về quyển nhật ký, về những đối tượng thử nghiệm vốn là người..

    Cả căn cứ này làm anh thấy sởn gai ốc. Họ phải thoát ra ngoài càng nhanh càng tốt.

    "Chúng ta đi lên hay xuống bây giờ?" Rebecca hỏi khi họ quay trở ra hành lang.

    "Có một đài quan sát trên lầu à?" Billy hỏi. Rebecca gật đầu. "Vậy đi quan sát thử xem. Biết đâu có thể phát tín hiệu cầu cứu không chừng."

    Billy chợt nhận ra mình vừa gợi ý gọi hỗ trợ, nhưng anh không hề đổi ý, cho dù biết cái gì đang chờ mình nếu điều đó xảy ra. Anh thà chết trong cuộc chiến sống còn chứ không muốn bị hành quyết.. Nhưng Rebecca thì khác. Cô ấy là người tốt, lương thiện và chân thật, nên anh muốn làm mọi cách để giúp cô sống sót rời khỏi đây.

    Họ ra ngoài, Billy tự hỏi không biết bản tính tàn nhẫn của mình đã đi đâu mất, và nhanh chóng quyết định rằng mình không cần nó nữa. Lần đầu tiên sau biến cố kinh khủng ở ngôi làng trong rừng rậm, anh lại thấy mình là chính mình.

    OOo

    Hắn chứng kiến cả hai thu nhặt đạn, vừa ấn tượng vừa thất vọng bởi sự kiên cường của chúng. Sau khi xem lại bản đồ, chúng lên cầu thang, hẳn là tới đài quan sát; mặc dù lũ con nghe được giọng bọn chúng, nhưng lại không thể lên tiếng.

    Hắn đã cho đám con lùng kiếm những phiến đá cần thiết, đặt cạnh cánh cửa dẫn tới đài quan sát. Trừ khi Billy và Rebecca quá đỗi ngu ngốc – mà với những gì đã làm thì chúng không ngu chút nào – còn thì chúng nhất định sẽ tìm được cách khởi động trụ xoay của khối kiến trúc, đến gần lối ra. Từ đó sẽ dẫn tới phòng thí nghiệm, nằm ẩn sau một nhà nguyện..

    Hắn tự hỏi liệu bọn chúng sẽ tìm thấy cái gì trong đó, trong phòng thí nghiệm của Marcus, hay lại cuỗm thêm những đồ nào khác. Hắn muốn họ khám phá mọi thứ về bản chất thật sự của Umbrella, nhưng lại không muốn thấy bọn họ thu thập những tàn dư đáng buồn về công việc vĩ đại của Marcus.

    Hắn nghĩ ngợi về phòng thí nghiệm, về Marcus, mặc dù Marcus đã qua đời một thập niên. Toàn khu vực đã bị đóng cửa sau "sự mất tích" của giám đốc, nhưng gần đây, Umbrella đã tái khởi động mọi thứ - phòng thí nghiệm, nhà máy xử lý, trung tâm huấn luyện. Chưa có nơi nào hoàn tất lúc virus phát tán; toàn bộ được vận hành bởi đội ngũ các nhân viên bảo trì, được giám sát bởi một ban quản lý đầy triển vọng; thế nhưng, Umbrella đã mất mát không ít những nhân viên trung thành.

    Billy và Rebecca đã soát qua những căn phòng phía đông tầng một và quay ra tiền sảnh, tiếp tục tiến lên tầng hai. Chúng tìm thấy cánh cửa dẫn đến tầng ba, rồi tiến đến chỗ cầu thang với súng trong tay, những khuôn mặt trẻ trung lộ vẻ kiên quyết không chút sợ hãi. Hắn quan sát cả hai leo lên, những cảm xúc trái ngược trào dâng trong đầu. Hắn muốn thấy chúng thành công, và muốn thấy chúng chết. Có cách nào thấy được cả hai không nhỉ? Chúng đã dễ dàng xử lý bọn Eliminator, mặc dù bọn này đã yếu đi bởi đói khát và bị bỏ bê. Nếu gặp lũ Hunter thì sao? Hoặc với nguyên mẫu Tyrant?

    Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu chúng đến được nơi hắn và lũ con đang chờ và quan sát? Chúng sẽ làm gì?

    Hắn cau mày, thấy khó chịu với suy nghĩ đó. Bầy đàn, vốn nhạy cảm với tính khí của hắn, bắt đầu trườn lên chân hắn, lên ngực, ra dáng ôm ấp hắn. Hắn nựng chúng, bàn tay rờ rẫm vỗ về chúng. Nếu hai kẻ mạo hiểm đó thật sự đến được tổ - một giả thiết khó tin – hắn sẽ để chúng đi, dĩ nhiên rồi, để chúng có thể công bố những tội ác của Umbrella.

    "Hoặc có thể ta sẽ giết chúng," hắn nhún vai. Hắn sẽ quyết định sau, nếu chuyện đó xảy ra. Hoàn toàn sai nếu nói hắn thờ ơ với số phận của bọn chúng; trong lúc chờ đợi cái chết đến gần của Umbrella, thì quan sát Billy và Rebecca là một niềm khoái lạc của hắn, hắn thật sự hứng thú chờ xem bọn chúng gặp chuyện gì tiếp theo. Nhưng hắn sẽ giết chúng, trước khi chúng có cơ hội làm tổn thương bầy con lần nữa.

    Cả hai đã lên đến đỉnh cầu thang, cảnh giác nhìn quanh tay vịn xem có bất cứ động tĩnh nào. Hắn chợt nhớ đến bọn Centurion, đang ẩn trong những bức vách chỗ hồ nuôi, tự hỏi liệu chúng có ra mặt để xem kẻ nào đã dám cả gan xâm phạm lãnh thổ. Billy và Rebecca khó có hy vọng với bọn này. Nếu lũ Eliminator là quân tốt trên bàn cờ, thì lũ Centurion chính là quân mã. Hắn hăm hở chồm tới để quan sát.

    OOo

    Quãng đường lên tầng ba hoàn toàn yên ổn, ngoại trừ việc họ phải chạy nhanh qua phòng ăn; mặc dù hai con zombie quanh bàn đủ chậm để ăn đạn, nhưng cô vẫn không sao cảm thấy thoải mái khi phải lướt qua những sinh vật đã chết. Billy đang chạy trước ba bước chắc cũng suy nghĩ giống như cô.

    Lúc này, trên đỉnh cầu thang, Rebecca thở phào nhẹ nhõm. Tầng ba – chính xác là một phần tầng ba – là một gian phòng rộng rãi độc nhất, không có góc khuất nào nên đỡ phài lo lắng. Cửa lên đài quan sát nằm bên phải họ. Thẳng phía trước là hồ nuôi, một cái hố rỗng không lõm xuống, trải rộng suốt chiều dài phòng. Bên trái là một cánh cửa, mà theo bản đồ, nó dẫn ra mái hiên ngoài trời.

    "Cô nghĩ cái này để nuôi thứ gì?" Billy hỏi, hạ giọng xuống. Nhưng âm thanh vẫn lan đi khắp căn phòng mênh mông.

    "Chẳng biết nữa. Đỉa chắc?" Rebecca đáp. Cô đang nghĩ tới cái bóng lẻ loi họ thấy lúc còn trên tàu, hát gọi lũ đỉa, và bất giác rùng mình. "Vậy đài quan sát hay mái hiên đây?"

    Billy nhìn trước ngó sau, rồi nhún vai. "Có vẻ an toàn. Chúng ta có thể chia ra đi từng cửa – chỉ mở và ngó qua thôi, không được đi lẻ đâu nhé?"

    Rebecca gật đầu. Cô đã cảm thấy an toàn hơn nhờ số đạn dồi dào mới kiếm được, nhưng đề nghị này khiến cô phải cẩn trọng lại một chút. Phải nói là cô không mấy sốt sắng khi xé lẻ ra. "Tôi sẽ xem mái hiên."

    Hai người cất bước, tiếng chân dội lại quanh căn phòng rộng lớn. Cửa lên đài quan sát ở gần hơn; nên chỉ còn tiếng chân Rebecca vang lên khi cô đi tiếp đến vách tường phía nam.

    "Nhìn này," Billy gọi to khi cô đến bên cửa. Anh đang cầm lên một thứ giống như quyển sách, tay kia còn hai cuốn nữa. Rebecca nheo mắt nhìn ngang qua gian phòng rộng, thấy chúng được làm bằng đá, cái nào cũng có một cạnh bo tròn. "Nó ở ngay trước cửa."

    "Cái gì thế?" cô hỏi. Mặc dù cô đã thấp giọng, nhưng tiếng nói vẫn dễ dàng truyền qua khoảng không vắng lặng.

    "Vật trang trí, có lẽ thế," anh đáp. "Mỗi cái có khắc chữ ngoài bìa." Anh nhìn xuống mấy tấm biển, đọc lướt qua. "À.. chúng ta có đoàn kết, kỷ luật, vâng lời."

    Giống đoạn ghi âm mà họ đã nghe, lời kể lể của Tiến sĩ Marcus về quy tắc ứng xử của công ty – chính là ba từ này. "Nên giữ lấy chúng," Rebecca nói. "Chắc là một phần của câu đố, giống như mấy con vật."

    "Tôi cũng nghĩ vậy," Billy nói, và hạ giọng. "Căn nhà điên rồ."

    Cô quay lại cánh cửa, giương súng lên trong lúc đẩy chốt – và thấy nó bị khóa. Cô thở phào, buông lỏng hai vai, nhận ra mình đã quá tập trung để đón đợi một cuộc tập kích.

    "Bị khóa," cô lên tiếng.

    Billy đã mở cánh cửa vào đài quan sát và đang nhìn dáo dác bên trong. Anh thò đầu trở ra, tay giữ cửa mở. "Chỗ này hay đây. Không biết để làm gì, nhưng có cả đống thiết bị trong này; không chừng là radio."

    Radio. Cô cảm thấy hy vọng bùng lên. "Tôi đến –"

    Chữ đây bị bị cắt ngang bởi một âm thanh giống như tiếng va đập mạnh vào đá, như thể có con gì đang gõ móng thép xuống mặt bàn, tiếng động phát ra rất to. Dù là giống gì đi nữa, nó cũng có kích thước khá lớn – và càng lúc càng đến gần với tiếng động to dần. Thật khó phán đoán nó đến từ hướng nào; bởi tiếng dội vang khắp mọi hướng.

    "Hồ nuôi," Billy hét lớn, vẫy tay gọi cô. "Qua đây mau!"

    Rebecca đâm đầu chạy tới, tim đập thình thịch, thấy sợ khi nhìn vào cái hồ, không biết có qua kịp không. Cô cảm thấy có sự chuyển động của một thứ gì đó long lỏng và tối thui, và chạy vắt giò lên cổ, cuối cùng đánh liều liếc nhìn khi chạy ngang nó.

    Hình dáng của nó đủ sức dập tắt bất cứ một ý nghĩ tỉnh táo nào. Là một con rết, hoặc một loại động vật nhiều chân nào đó, lớn đến nỗi mấy con nhện to lúc trước mà thấy chắc cũng phải khép nép. Những con mắt vàng ệch trồi ra từ hai bên cái đầu đen thui bóng loáng, mấy cọng râu đo đỏ dài ngoằng đang co duỗi và rung động trên đầu. Cái thân uốn khúc dài lê thê nằm gần sát sàn, chia làm nhiều đốt và óng ánh sắc kim loại, được chống chỏi bởi mười hai cặp chân đỏ ối nhọn hoắc. Chiều dài của nó dễ phải đến bốn mét hoặc hơn, to cỡ cái thùng rượu – và đang rượt theo cô, mấy cái cẳng vung vẩy hết tốc lực giúp nó băng ngang cái hồ trống không.

    "Chạy đi!" Billy thét, và Rebecca chạy bán sống bán chết, ngửi thấy mùi hôi thối của con vật ngập trong không khí, một thứ mùi ôi kinh khủng đủ sức làm cô nôn mửa, ấy là nếu có thời gian. Billy đang dùng chân để chặn cửa vào đài quan sát, khẩu súng săn nhắm thẳng vào phía sau cô, và Rebecca cảm thấy nó đang rất gần mình, như thể bóng tối đang sắp sửa chụp xuống.

    Ngay khi cô vừa đến chỗ Billy, anh nổ súng, giật nòng rồi bắn tiếp phát nữa khi cô lướt qua bên cạnh, đâm bổ qua cánh cửa. Trong khoảnh khắc cô vừa vào trong, anh cũng nhảy qua, đóng sầm cánh cửa sau lưng – và không đầy nửa giây sau, có tiếng con vật dộng mình vào cửa, tiếng va chạm của phần cơ thể bọc thép với gỗ dày. Cả hai chờ đợi thấp thỏm, mắt nhìn đăm đăm ra cửa – nhưng rồi âm thanh đó ngưng bặt sau vài giây, rồi có tiếng chân lóc cóc biến đi xa dần.

    "Ơn Chúa," Billy nói. Rebecca gật đầu. Anh đưa tay ra kéo cô đứng dậy, cả hai thở hổn hển.

    "Tốt nhất là không đi ngả này nữa," Rebecca nói, cầu mong họ sẽ không phải quay lại đó.

    "Có lý lắm," Billy đồng ý.

    Họ im lặng một lát, đưa mắt nhìn quanh chỗ ẩn náu. Đây là một căn phòng tròn khá lớn, có hai tầng. Họ đang đứng trên một lối đi hẹp tạo thành hình bán nguyệt ôm lấy căn phòng; góc phía bắc có vài cánh cửa khác. Gần đó là một cầu thang ngắn tách khỏi lối đi, dẫn xuống một cái sàn bằng lưới kim loại, xếp đầy trang thiết bị. Dưới cái sàn toàn là bóng tối.

    Hai người cùng rảo quanh lối đi, dừng lại trước mấy cánh cửa một chút. Tất cả đã khóa. Họ trao đổi ánh mắt với nhau nhưng không nói gì, và tiếp tục đi đến cái thang. Rebecca xuống trước, dừng lại bên một cỗ máy khá lớn nằm chình ình chính giữa sàn, có lẽ là kính thiên văn. Có một cánh tay đòn, nhưng nó cao ngoài tầm với. Billy đứng đằng sau cô, đang quan sát những thiết bị còn lại, gồm một dàn máy tính và những máy móc mà cô không biết chúng là gì. Cô quay lại kính thiên văn, nhìn xuống bảng điều khiển – và nín thở. Có ba khối lõm xuống trên đó, khuôn dạng giống như tấm bia mộ, một cạnh dẹt, cạnh kia tròn.

    "Tôi không thấy có radio, nhưng –" Billy cất tiếng, nhưng cô đã ngắt lời.

    "Anh vẫn giữ mấy phiến đá chứ?" cô nói.

    Billy quay lại nhìn bảng điều khiển trong lúc mở túi. Anh lấy mấy phiến đá ra, cả ba có kích thước cỡ một cuốn sách bìa mềm nhưng mỏng hơn. Rebecca cầm lấy, nhớ lại cái phương châm rối rắm của Umbrella trong lúc đặt chúng vào vị trí. "Vâng lời tạo thành kỷ luật. Kỷ luật tạo thành đoàn kết. Đoàn kết làm nên sức mạnh.."

    "Và sức mạnh là sự sống," Billy kết câu.

    Ngay khi phiến thứ ba vào chỗ, một âm thanh cực lớn vang khắp căn phòng hai tầng, tiếng máy móc hoạt động – và họ nhận ra cả phòng bắt đầu đi xuống như một cái thang máy. Không phải cái sàn, mà là cả phòng, cả tường, tất cả. Dưới chân họ, bóng tối đang trôi dần lên, lộ rõ là một hồ nước, bọt khí bị khuấy động lên theo đà đi xuống của căn phòng. Trong một thoáng, Rebecca tự hỏi liệu nó có dừng lại chăng, thật hãi hùng nếu bị dìm chết ngộp – và rồi tiếng máy móc nhỏ dần, căn phòng đứng yên trở lại. Giữa âm thanh nhỏ dần của cỗ máy, họ nghe một tiếng click phát ra từ mấy cánh cửa ở góc phía bắc trên đầu.

    Cả hai nhìn nhau, Rebecca thấy anh cũng lộ vẻ kinh ngạc chẳng khác gì mình.

    "Xem ra chúng ta đã biết phải đi đâu tiếp rồi," Billy nói, cố gắng nở nụ cười không chút thuyết phục. Rebecca thậm chí còn không định cười. Họ đang bị dẫn dắt – nhưng không biết để được tự do, hay để làm những con cừu giết thịt?

    Phải thử thôi. Cả hai không nói gì nữa, mà cùng quay lại và leo lên thang.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  2. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNg 10

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sau cánh cửa phía bắc là một bầu trời đêm mát mẻ, Billy thấy thật sự nhẹ nhõm và hít thở thật sâu. Anh không nhận ra là mình đã hoảng sợ đến thế nào, khi nghĩ có thể sẽ không bao giờ thoát được nơi này. Thật không may, anh nhanh chóng thấy là họ vẫn chưa thoát; cánh cửa trong đài quan sát mở ra một lối đi dài và hẹp, hướng thẳng tới một toà nhà khác, cách chừng năm mươi mét. Hai bên mép lối đi đều là nước, một kiểu hồ nhân tạo tiếp giáp mặt đông của khu nghiên cứu.

    Họ rời khỏi đài quan sát, rồi quay lại nhìn để xem cái nơi mình vừa đi qua, mất khoảng vài phút để nhận định xem họ đang ở hướng nào so với tiền sảnh, so với những căn phòng bên trong. Hoàn toàn thất bại. Cảm giác về phương hướng của Billy không mấy tốt, Rebecca cũng chẳng khá hơn bao nhiêu. Sau cùng họ từ bỏ mọi nỗ lực, và quay lại với tòa nhà cao sừng sững cuối con đường.

    Hai người cùng sải bước, Billy vẫn đang ra sức hít đầy vào phổi bầu không khí ngọt ngào đượm đầy sương mù. Có lẽ đã qua nửa đêm về sáng. Khó nói chính xác vì không nhìn thấy được bầu trời, chỉ có vài đám mây xám lớn sau cơn mưa trôi lửng lơ trên đầu.

    "Cô nghĩ coi chúng ta đang ở đâu," anh hỏi.

    "Làm sao mà biết được," Rebecca trả lời. "Hy vọng là một nơi có điện thoại."

    "Và nhà bếp," Billy nối thêm. Anh ta đang đói meo.

    "Phải," cô đồng ý, giọng nói pha chút thèm thuồng. "Cất đầy bánh pizza và kem."

    "Loại thịt bò và heo có rắc tiêu?"

    "Loại Hawaiian," cô nói. "Và kem pistachio."

    "Gaah," Billy làm điệu bộ khoái trá với mẩu đối thoại. Họ không có nhiều thì giờ để tìm hiểu nhau, mặc dù anh cảm thấy có một mối liên kết giữa hai người, kiểu anh thường gặp trong chiến đấu. "Tin chắc cô cũng sẽ thích đồ ăn kiểu cam."

    "Đồ ăn kiểu cam?"

    "Ừ, cô biết đó. Màu cam không tự nhiên. Người ta trộn phô mai và mì ống, thêm chút hương vị nuớc cam, bánh snack, phô mai chiên.."

    Rebecca nhoẻn miệng cười. "Nghe hay đấy. Tôi thích món này."

    Billy tròn mắt. "Thiếu niên.. Có phải cô đang tuổi thiếu niên không vậy?"

    "Vừa đủ đi bầu cử," cô nói, ngữ điệu có phần hơi thủ thế. Trước khi anh kịp hỏi làm sao mà cô vào được S. T. A. R. S. Ở tuổi này, cô đã tiếp lời. "Tôi là một trong những thần đồng xuất chúng, đã tốt nghiệp cao đẳng và có đủ loại bằng. Còn anh thì bao nhiêu tuổi, ông cụ? Ba mươi?"

    Đến lượt Billy giở giọng thủ thế. "Hai mươi sáu."

    Cô cười. "Wow, già quá rồi. Để cháu kiếm cho cụ một cái xe lăn."

    "Nín mau," anh vừa nói vừa cười lớn.

    "Cháu nói rồi, để cháu kiếm cho cụ một cái xe lăn!" cô la còn lớn hơn, không chút nể nang. Họ vừa cười vừa đi qua một chòi canh trống trải nhỏ bé, nằm phía bên phải con đường, và thấy một thi thể nằm dưới đất.

    Chỉ là phần còn lại, Billy nghĩ thầm, tâm trạng đang vui bỗng chùn hẳn xuống khi cả hai dừng bước, không thể không quan sát nó. Đôi chân và một cánh tay đã biến mất, khiến cái xác đang nằm úp mặt – quá xa để biết nam hay nữ - trông có vẻ như bị chết chìm trong vũng máu đậm đặc bao quanh.

    Không ai nói thêm gì khi tiếp tục cất bước, cả hai đều tự trấn tĩnh lại trước tấn thảm kịch vừa xảy ra. Không thể để nó ám ảnh mãi trong đầu được; cứ mãi kinh tởm với những tai nạn rò rỉ virus chỉ tổ ảnh hưởng đến hành động, đôi lúc cười được một trận cũng rất quan trọng, thậm chí còn cần thiết, để giải tỏa phần nào gánh nặng tâm lý. Tuy nhiên, nếu nhìn một cái xác mà còn cười được, thì tình trạng tâm thần chắc là có vấn đề mất rồi.

    Họ từ từ đi quanh khu kiến trúc chưa biết, nghiên cứu cách bố trí. Có vài nhánh rẽ nằm dọc hai bên con đường chính phía trước tòa nhà, bị bao bọc bởi cây cối và hoa lá nảy mầm từ khá lâu, khiến cho lối đi bị che khuất sau những bờ giậu rậm rạp. Có vài ngọn đèn bên ngoài chưa hư hỏng, nhưng chỉ đủ khiến cho bóng đêm trông có vẻ như tối hơn. Môi trường có phần không mấy hiếu khách, nhưng Billy không thấy bóng dáng một con zombie hay người đỉa nào, nên dù sao cũng đỡ hơn tòa nhà vừa rồi một chút.

    Có vài bậc thềm đá dẫn lên cánh cửa đôi. Billy canh chừng mấy lối đi tối lờ mờ, trong lúc Rebecca đi lên những bậc thềm, đẩy cửa.

    "Bị khóa," cô nói.

    "Đáng ghét thật," Billy nói, và cũng leo lên theo. Anh thử lại tay nắm cửa, nhận thấy mặc dù lớp gỗ khá dày, nhưng ổ khóa thì không mấy chắc chắn. Ít nhất là với một lực tông đủ mạnh. "Lùi lại."

    Anh quay ngang người, xuống tấn, đạp một cái thật mạnh vào ổ khóa, rồi cái nữa. Đến cú thứ ba, anh nghe tiếng gỗ nứt, rồi nó vỡ toác sau cú thứ năm, cái ổ kim loại rẻ tiền văng long lóc.

    Hai người bước lên khung cửa, nhìn xung quanh. Sau những thứ đã gặp qua, anh nghĩ nơi này sẽ làm mình kinh ngạc, nhưng anh lầm. Đây là một nhà thờ được trang trí công phu như vẫn thường thấy, từ lớp kính màu trên vách tường cao sau bàn thờ, đến những chiếc ghế dài bằng gỗ sáng sủa. Nó cũng đã hư hại; chí ít một nửa số ghế bị lật nhào, và họ chỉ nhìn thấy được mọi vật nhờ cái lỗ thủng to tướng trên trần, cách nơi đang đứng không xa lắm.

    "Coi cái bàn thờ kìa," Rebecca thì thào.

    Billy gật đầu. Thực ra không phải nhìn bản thân bàn thờ, mà là nhìn những những thứ xung quanh nó. Ngay trên mặt đất chỗ gần cửa trước là hằng trăm cây nến đã cháy hết, những bức tượng biểu trưng tôn giáo bị mất đầu, hầu hết bị hư hại hoặc bị trây trét bằng tro, còn có một bó hoa héo khổng lồ. Chỉ có thể miêu tả bằng một từ, ghê rợn.

    "Tôi sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu được rời khỏi chỗ này," Billy nói, hạ giọng thấp đến độ nhận ra chính mình đang thì thào. "Chúng ta nên kiểm tra xem có lối đi nào không."

    Rebecca gật đầu, đang lui lại – thì từ trên cái trần nhà cao hình vòm, có thứ gì đó vừa lớn vừa đen thui nhào xuống chỗ họ, kêu ré lên khủng khiếp, đôi cánh bụi bặm khổng lồ vỗ phần phật. Tất cả diễn ra một cách chậm chạp, đủ lâu để Billy nhìn rõ con vật. Nó là một loài dơi rất lớn, lớn hơn bất cứ loại nào anh từng biết, có sải cánh rộng cỡ chim đại bàng.

    Nó bay vụt lên trước khi chạm đất, lui trở vào bóng tối trên đầu, nhưng cũng đã kịp quạt một luồng không khí đậm mùi thịt thối trùm lên họ. Billy kéo Rebecca lại bằng một tay, tay kia chộp lấy nắm cửa đã hỏng. Anh dập cửa lại, ước gì mình đã không phá tung nó, nhưng rồi nhận thấy là chuyện đó chẳng thay đổi được gì. Họ nghe tiếng con dơi khổng lồ bay vụt qua lỗ hổng trên nóc, nghe tiếng bộ móng vuốt ngoại cỡ cào sột soạt trên lớp ván.

    "Chạy!" Billy la lớn.

    Cả hai lao xuống những bậc thềm, Rebecca dẫn đường sang phải. Ở đó có nhiều thứ che chắn hơn, với một con đường mòn men dọc theo tòa nhà. Nó rẽ ngoặt rất gắt, một lần, hai lần, lối rẽ ẩn trong những cây cối và bụi rậm mọc tràn lan. Rebecca chạy rất nhanh, nhưng Billy vẫn theo kịp, phần nào bị thúc đẩy bởi hình ảnh đôi cánh rung động phủ chụp lên mình, bị cấu xé bởi những móng vuốt -

    "Đằng kia!" Rebecca chậm lại, tay chỉ tới trước.

    Bên phải con đường trước mặt là một thứ giống như thang máy, nằm chơi vơi bên hông nhà thờ. Billy không biết đây có phải là một lựa chọn sáng suốt hay không, nhưng tiếng vỗ cánh đã vang lên đâu đó trên đầu, cùng với tiếng ré đinh tai của con dơi đang săn mồi. Anh theo Rebecca đến cửa thang máy, lòng thầm tạ ơn Chúa khi thấy nó trượt ra theo đà kéo của cô. Không gian bên trong tương đối chật cho hai người; họ phải ép sát vào nhau, và thấy cái này chỉ đi xuống. Vậy cũng tốt; Billy chẳng màng tới chuyện viếng thăm tháp chuông nhà thờ, kẻo lại gặp lũ chị em con dơi thì toi.

    Rebecca nhấn công tắc đóng cửa. Ngay khi nó sắp đóng, một con zombie lắc lư sấn tới chỗ họ như từ trên trời rơi xuống, một phụ nữ, mấy ngón tay lòi xương quơ quào về phía hai người. Nó rên lên, để lộ hàm răng đen sì, và rồi cánh cửa đóng sập lại, ngăn cách con zombie bên ngoài, ngăn cách tiếng rít the thé của con dơi bị lây nhiễm.

    Hai người cùng ngồi thụp xuống, tựa vào vách thang. Họ vẫn có thể nghe thấy tiếng rên đói khát của con zombie cái ngoài cửa, nghe tiếng mấy ngón tay lòi xương cào sột soạt lên khung cửa sắt. Vài giây sau, tiếng rên của nó được phụ họa bởi một tiếng nữa, rồi tiếng thứ ba, tất cả lộ vẻ tiếc nuối thất vọng.

    Chỉ có hai lựa chọn, tầng B1 hoặc B2. Billy nhìn Rebecca, cô khẽ lắc đầu, da mặt nhợt nhạt. Lũ zombie bên ngoài vẫn tiếp tục cào cào cánh cửa, và Billy nhấn nút B1. Thang máy không hề nhúc nhích.

    "Vậy thì, B2," Billy nói, cầu mong là họ đã không tự đút đầu vô rọ. Anh nhấn nút. Thang máy khẽ tròng trành rồi hạ xuống êm ả. Billy hơi sấn lên trước Rebecca, hờm sẵn khẩu súng, hy vọng nó sẽ không mở ra giữa một bầy sinh vật bị nhiễm, đang háo hức chờ xơi bữa khuya.

    Cửa thang máy trượt ra không một tiếng động, để lộ một hành lang đầy gạch vụn nhưng vắng ngắt. Anh nhấn lại nút B1, hy vọng nó hoạt động, nhưng thang máy cứ nằm ì đó. Xem ra, họ chỉ có thể quay lại với con dơi và lũ zombie, hoặc thám hiểm tầng hầm thứ hai. Đương nhiên là Billy chọn giải pháp thứ hai.

    Anh thận trọng bước ra, Rebecca theo sát phía sau. Tương tự ngôi biệt thự vừa rồi, cách trang trí cũng như kiểu kiến trúc chỗ này khá tao nhã và xa hoa. Mặt sàn lát đá hoa cương, tuy đã sứt mẻ nhưng vẫn toát lên vẻ lịch sự sang trọng, nằm dọc hành lang là những cây trụ tinh xảo, phía trên lối vào được uốn cong thành hình mái vòm. Bên trái họ có một cầu thang đi lên, bị lấp kín bởi đá vụn và vữa tường. Nằm cùng phía còn một cánh cửa nữa, ngay trước lối rẽ sang phải của hành lang.

    Họ dừng trước cầu thang, nhưng nó hoàn toàn không sử dụng được nữa, đá và vữa đã bịt kín từ sàn lên tới trần. Nếu muốn trở lên chỉ có cách dùng thang máy.. tuy nhiên Billy không muốn chút nào. Sau khi đã liên tiếp chạm trán đủ thứ quái vật kinh khủng, nguy hiểm, kinh tởm, anh thật sự muốn nghĩ ngơi một lát.

    "Cái đống này đảm bảo cho ta tránh được bọn quái vật," anh khẽ nói.

    "Nhất trí," Rebecca nhẹ nhàng đáp lại. Cô nhoẻn miệng cười với anh, có điều không được tự nhiên. Họ cùng dấn bước, tiếng giày nện lộp cộp trên mặt đá.

    Rebecca dừng lại ở cửa đầu tiên, trong khi Billy kiểm tra nhanh phần còn lại hành lang. Có một ô cửa thứ hai bị khóa bằng loại khóa két sắt – và cửa thứ ba, Billy không chắc lắm, nhìn có vẻ như hành lang kết thúc bởi một vách tường màu xanh, nhưng ngay đó lại xuất hiện một điện thờ rất công phu - với hai bức tượng làm giá đỡ cho một khuôn mặt đắp nổi dựng nghiêng, giống Marcus như tạc. Không thấy lỗ khóa, nhưng dưới bức tượng là một dấu lõm có kích cỡ bằng nắm tay con nít, trông cứ như bị mất một mảng.

    Hấp dẫn làm sao. Lại thêm hai câu đố mở khóa nữa, Billy ngán ngẩm, quay lại chỗ Rebecca. Bọn người này muốn gì cơ chứ? Nếu bọn nó nghĩ mình thông minh xuất chúng, sao không đi giải đố ô chữ cho rồi?

    May mắn thay, cánh cửa đầu tiên không khóa. Hai người tiến vào một căn phòng tao nhã đã hư hỏng, chất đầy những kệ. Nằm ngay đầu phòng là một tấm thảm phương Đông đã ố màu. Nơi này có hình dáng gần như chữ U, sáng rực rỡ trong đêm dưới nhiều ngọn đèn. Bên cạnh mấy cái kệ có nhiều bàn thấp và bàn giấy loại nhỏ, với một máy đánh chữ cổ lỗ. Billy bước tới cái bàn gần nhất, nhặt lên một mảnh giấy.

    "'Không có vẻ gì là rắc rối, nhưng tôi vẫn phải đề phòng, '" anh đọc lên. "Để giấu chiếc lá, hãy đặt nó trong rừng. Để giấu chìa khóa, hãy làm nó giống như chiếc lá, '"

    "Rõ như ban ngày ấy," Rebecca nói, Billy gật đầu. Lại nữa - bọn này muốn gì cơ chứ?

    Rebecca nhìn lên kệ, còn Billy đi quanh phòng, chú ý thấy một cái lỗ hổng lớn trên trần, nằm trong góc gần phía cửa. Nó khá cao, nhưng nếu có một cái bàn..

    "Tất cả đều nói về sinh vật học," Rebecca nói. "Động vật có vú, côn trùng, động vật lưỡng cư.."

    "Nhìn này," Billy gọi lại, Trong lúc cô đi quanh lỗ hổng, Billy lôi một cái bàn gần nhất kê bên dưới nó. Anh vẫn không thể với tới..

    "Tôi có thể lên đó được," Rebecca nói. "Anh tìm thử xem có dây hay thứ gì giúp leo lên không."

    Billy nhăn mặt. "Tôi không biết. Lần gần nhất khi cô tìm kiếm.."

    "Được mà," cô nói với vẻ mặt cương quyết. Cô đang tình nguyện làm, nếu không muốn nói là hăm hở - mà họ thì phải làm gì đó thôi.

    Billy bước lên bàn, bắt chéo tay lại để nâng Rebecca. Cô leo lên, đạp chân phải lên tay anh, một tay vịn vai. Thật sự thì cô nhẹ hẫng, đến nỗi Billy có thể nâng hai người như cô cũng được. Anh dể dàng đẩy cô lên cao, và Rebecca biến mất khỏi tầm nhìn khi trườn vào trong. Một giây sau, cô thò đầu ra ngoài lỗ hổng.

    "Có vẻ an toàn, nhưng tối quá," cô nói. "Dường như là một phòng thí nghiệm, có nhiều kệ, vài cái bàn.. Để tôi xem có thể tìm được gì."

    Cô lại biến mất kần nữa. Billy nhìn chăm chăm lên đó chờ đợi, không ngừng tự nhắc mình rằng cô ta biết cách tự xoay sở. Rebecca đã chứng minh rằng cô mạnh mẽ và tháo vát còn hơn khối quân nhân từng trải mà anh biết - nếu gặp rắc rối, cô chỉ việc nhảy xuống là xong, không có gì phải lo ngại –

    Rebecca thốt lên một tiếng hét ngắn ngủi sắc gọn, và Billy lạnh toát cả người

    "Rebecca!" anh la lớn, bất lực nhìn lên lỗ đen trên đầu.

    OOo

    Có vẻ là một phòng thí nghiệm, một nơi được sử dụng liên tục hồi thập niên trước, và tới giờ vẫn chưa được dọn dẹp hết. Có một lớp bụi dày trên sàn và trên kệ, nhưng đâu đó có dấu hiệu bị dịch chuyển và để lại dấu tích - những lằn vết dưới ghế, dấu tay trên những cái chai mẫu vật, Rebecca liếc nhanh xung quanh, rồi quay xuống lỗ trống. Phía dưới, Billy đang căng thẳng chờ đợi.

    "Có vẻ an toàn, nhưng tối quá. Dường như là một phòng thí nghiệm, có nhiều kệ, vài cái bàn.. Để tôi xem có thể tìm được gì."

    Cô quay lại, quan sát căn phòng nhỏ lần nữa – và nhận ra nó lớn hơn cô tưởng, có một phần bị ẩn đi dưới một mặt thềm rộng chia đôi gian phòng. Cô chỉ thấy được nó, nhờ ánh sáng màu xanh nhạt yếu ớt phát ra từ khu vực ẩn. Nắm chặt súng trong tay, cô vòng qua góc –

    - Và hét lớn, suýt nữa bắn vào con quái vật lay động phía trước, để rồi nhận ra nó không phải là vật sống.

    "Rebecca!"

    "Tôi không sao!" cô gọi xuống, vẫn nhìn vào sinh vật kỳ quái đó. "Chỉ bị hú hồn thôi. Không sao."

    Cô tiến lại gần một ống trụ mẫu vật có kích cỡ bằng người thường, bên trong chứa đầy chất lỏng trong suốt, đang phát ra ánh sáng nhàn nhạt. Có tất cả bốn ống dàn thành một hàng, cái sau nhìn ghê rợn hơn cái trước. Thứ bên trong đã từng là người, nhưng đã bị biến đổi qua phẫu thuật, tin chắc cũng bị tiêm T-Virus. Cô cố gắng nghĩ cách mô tả cho Billy, nhưng thật sự là không tài nào tả nổi; các chi vạm vỡ của chúng đang nổi lơ lửng, trông méo mó hết sức kỳ quặc, phần thân vá víu khắp chỗ, bộ mặt biến dạng thể hiện một nỗi thống khổ và hung tợn. Tóm lại là hết sức kinh tởm.

    Phía sau hàng sinh vật kỳ quái giống người đó, có một cái hộp đựng mẫu vật khác, chứa toàn những ống nhỏ hơn. Rebecca nghiêng người, thấy trong mỗi ống có một con đỉa chết. Cô nhăn mặt, tính quay đi chỗ khác – thì nhận ra có một ống hơi khác biệt. Con đỉa bên trong.. không thật là một con đỉa.

    Cô đẩy ô cửa kính lấm bụi sang bên, kéo cái ống khác thường đó ra, đưa lên dưới ánh sáng lờ mờ. Nắp ống được dán keo hoặc hàn kín, và thứ bên trong có hình một con đỉa, nhưng là một vật được chạm trổ hoặc điêu khắc, nhuộm màu xanh thẫm.

    Tại sao lại làm một con đỉa giả và đặt nó –

    Cô chớp mắt, nhớ lại mảnh giấy Billy đã đọc – để giấu chiếc lá, hãy đặt nó trong rừng. Để giấu chìa khóa..

    Rebecca quay lại lỗ hổng, đưa cái ống ra cho Billy thấy. "Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chìa khóa chiếc lá," cô nói, và thả nó xuống. "Nói cho đúng phải là chìa khóa con đỉa."

    Billy bắt gọn lấy nó, nhìn săm soi. "Cá là nó khớp với một trong mấy cánh cửa," anh nói. "Leo xuống đi thôi, chúng ta sẽ cùng thử."

    "Cái nắp không mở được," cô lên tiếng, và ngưng lại khi thấy Billy thả nó xuống dưới sàn bên cạnh bàn. Anh chàng cười nhe răng với cô, rồi nhảy lên, giậm gót giày xuống cái lọ. Thủy tinh bể nát, và một giây sau, anh lượm vật chạm khắc đó lên.

    "Chuyện nhỏ," anh nói. "Đi thôi."

    Cô cắn môi, nhìn xung quanh gian phòng thí nghiệm. Có nhiều tủ hồ sơ và giấy tờ khắp nơi..

    "Anh đi trước đi. Để tôi xem có thể tìm được tấm bản đồ nào không."

    Billy cau mày. "Cô chắc chứ?"

    "Sợ đi một mình à?" cô đáp lại, khẽ cười cười.

    "Thú thực là có," anh vừa cười vừa đáp. "Được thôi. Tôi sẽ trở lại ngay. Đừng có đi đâu xa quá đấy nhé? Nếu có gì nhớ gọi tôi."

    Rebecca vỗ lên bộ đàm. "Dễ mà."

    Anh nhìn cô một thoáng, rồi quay lưng đi thẳng. Rebecca ngó quanh phòng thí nghiệm lần nữa, chú ý đến hai cái bàn lớn nhất. "Nào, Marcus, để coi ông có để lại cho bọn tôi thứ gì hữu dụng không," cô nói và đi đến cái bàn, không hề biết rằng mình đang bị quan sát từ khoảng cách rất, rất gần, trong lúc nhặt một cuộn giấy lên và bắt đầu đọc.

    OOo

    Mày tới số rồi.

    Hắn nắm chặt bàn tay lại, điên tiết. Lũ con cố gắng xoa dịu hắn, trườn qua vai hắn, nhưng hắn phủi chúng thẳng tay, mặc kệ mọi nỗ lực của chúng.

    Rebecca, đang đọc những bản ghi chép riêng tư của Tiến sĩ Marcus. Tìm được lá bùa dẫn tới phòng riêng của tiến sĩ Marcus, đưa cho Billy. Rồi tất cả những gì còn lại chúng cần làm chỉ là leo lên xe cáp treo, có lẽ mở thêm vài cái khóa, thế là sẽ ra đi yên ổn.. Nhưng xem ra bọn chúng không chịu bỏ lại ký ức về Tiến sĩ Marcus lại đằng sau, chúng cả gan xâm phạm đến những điều riêng tư ít ỏi mà ông ta để lại.

    "Còn lâu, nếu chúng ta ngăn cản bọn chúng," hắn nói với lũ con, trong lúc quan sát Billy dùng cái hình khắc để mở cửa phòng Tiến sĩ Marcus, còn Rebecca đang nghiên cứu cẩn thận những giấy tờ của Marcus. Theo dõi hai đứa nó thật là một thú tiêu khiển ra trò, nhưng nhiêu đó đủ rồi. Thế giới này sẽ biết đến sự thật về Umbrella mà không có chúng.

    Đã đến lúc những đứa con của hắn gia nhập cuộc chơi.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  3. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 11

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đúng như anh nghi ngờ, cái điện thờ trong ngõ cụt chính là cánh cửa, và con đỉa gỗ Rebecca tìm được lắp vừa khít vào "lỗ khóa" của cửa. Sau một tiếng click khẽ, ô cửa đã được mở khóa.

    Billy quan sát phía ngoài một hồi trước khi bước vào, quả quyết rằng vật đắp nổi đó thật sự là của Tiến sĩ James Marcus. Anh tự hỏi, không biết sao gã người đỉa trên toa tàu lại có thể giống như Marcus; khi mà chúng được điếu khiển bởi một gã thanh niên, kẻ cất tiếng hát ngoài đoàn tàu. Phải chăng thật sự Marcus vẫn còn đâu đây? Không hợp lý lắm. Quyển nhật ký Rebecca tìm được cho thấy Marcus đã gần như mất trí, bị ám ảnh rằng Spencer đang chơi lão, muốn hạ bệ lão, và cũng đã mười năm rồi. Một người lẩn thẩn sao có thể kiểm soát được công việc.

    Rebecca đang đợi. Billy dẹp những mối nghi vấn sang một bên, dùng nòng súng đẩy cánh cửa. Anh quan sát nhanh xem bên trong có chuyển động nào không – không có gì cả - và hạ thấp súng, sải bước vào trong.

    "Wow," anh không nói nên lời khi nhìn xung quanh. Đây là một văn phòng lớn, sang trọng, một bên xếp hàng loạt những kệ và tủ âm tường, toàn bộ bằng gỗ mun bóng loáng với cửa kính, đối diện là một lò sưởi trang trí công phu. Nội thất được làm bằng gỗ xưa - gồm một cái bàn thấp. Nhiều ghế, một bàn làm việc lớn – nhìn thật tuyệt mỹ, dưới sàn lót thảm nhung, khiến cho anh bước rất êm. Anh thấy một cánh cửa phía cuối phòng, đằng sau bàn làm việc, và bắt chéo hai ngón tay để cầu nguyện rằng nó chính là lối thoát cho họ.

    Hầu như toàn bộ ánh sáng trong phòng đều phát ra từ cái bể cá lớn, chiếm cứ một góc phía đông bắc tính từ chỗ anh đang đứng, và dệt lên mọi thứ một màu xanh nhạt của nước, mặc dù thực tế nó trống rỗng –

    - Billy cau mày, tiến lại gần. Không hoàn toàn rỗng. Không cá, không đá sỏi, không thực vật, nhưng lại có những vật thể dao động trên bề mặt – thứ gì đó rất kinh nhưng cũng không kém phần kỳ quặc. Trông giống những mảng thịt người, có điều không ra hình thù gì, không có xương, kiểu như các phần cơ thể bị cắt bỏ, bị làm biến dạng. Billy nhanh chóng đến gần, thấy bối rối với những vật thể nhợt nhạt dao động đó.

    Một trong số mấy cái tủ âm tường mở sẵn, Billy lại gần nó, ngó qua mấy cuốn sách bên trong. Có một cuốn album hình khá cũ nằm trên kệ, và anh nhấc nó ra. Anh biết mình phải quay lại chỗ Rebecca, nhưng lại đang rất tò mò, muốn biết phải chăng cái tượng đắp nổi ngoài cửa chính là dấu hiệu cho thấy mình đang ở trong văn phòng của Marcus.

    Tập hình đã khá cũ, bị ố vàng và quăn queo. Billy lật qua vài trang, thấy thật mất thì giờ. Anh tính để nó lại như cũ thì một tấm hình rớt ra. Anh nhặt lên, giơ nó ra dưới ánh sáng xanh nhạt.

    Bản thân tấm hình không có gì đáng chú ý, chỉ là ba người đàn ông có tuổi từ ba mươi đến năm mươi, trông sạch sẽ và bảnh bao, đang cười với người chụp hình. Phía sau hình có dòng chữ viết tay của ai đó, "Gởi James, nhân dịp lễ tốt nghiệp, 1939."

    Billy nhìn tấm ảnh cẩn thận, tin chắc người đứng giữa là James Marcus. Nhưng có điều gì đó về hình dáng cái đầu.. Không hiểu sao thấy quen quen..

    "Chính hắn," anh nói và khẽ gật đầu. Gã ca sĩ lúc trên tàu. Họ không thấy rõ hắn, nhưng xem ra hắn có cùng vóc dáng, cùng bờ vai rộng.. "Có thể con của Marcus. Hoặc cháu."

    Có một vấn đề nan giải ở đây, và anh nghĩ mình đã tìm được mảnh ghép còn thiếu. Nếu Spencer đã hạ bệ Marcus, cướp đoạt công việc của ông ta, liệu con Marcus, hoặc cháu, có định báo thù chăng? Biết đâu vụ phát tán virus không phải là tai nạn. Biết đâu gã đàn ông với lũ đỉa đã làm chuyện đó.

    Billy thở dài, nhét tấm hình lên trên cùng cuốn album. Nghe có vẻ hay ho, nhưng có ý nghĩa gì đâu chứ? Cái anh cần là tìm đường thoát ra.

    Billy kiểm tra cái bàn để tìm chìa khóa hay bản đồ gì đó, không thấy, và chuyển sang cánh cửa trong phòng, thật may mắn nó không khóa. Anh đẩy cửa, cảm thấy hy vọng lịm dần; chẳng có cái đường hầm lớn nào với dấu hiệu lối thoát hiểm cả. Có vẻ chỉ là một cái kho nằm trong ngạch tường, với vài bức tượng được che đậy quần áo xộc xệch. Có một bức không có lấy một mảnh che thân, làm bằng đá hoa cương trắng, nhìn giống như một trong các vị thần thời Rome, đang ngồi tựa vào tường, ánh mắt vô hồn nhìn thẳng lên, một tay khum gần dưới bụng –

    - Và cầm một vật gì đó. Màu xanh.

    Billy bước qua, nhặt lấy vật thể nhỏ bé trong mấy ngón tay xanh xao của bức tượng, nở nụ cười nhợt nhạt khi nhận ra nó. Lại một con đỉa được chạm khắc, lần này màu xanh lá chứ không phải xanh lam.

    Thêm một chìa khóa nữa, chắc là dành cho một cửa bí mật đâu đó. Và tin chắc nó sẽ dẫn họ ra ngoài.

    OOo

    Ngày Một

    T được thử nghiệm với bốn con đỉa. Cấu trúc đơn bào khiến chúng trở thành những ứng viên hoàn hảo cho cuộc nghiên cứu, nhưng lại quá đơn giản để thích nghi. Kết quả quan sát cho thấy chưa có gì biến đổi.

    Từ bốn được gạch dưới. Bên lề giấy, ai đó viết nguệch ngoạc mấy chữ ngoằn ngoèo "thay đổi thứ tự," và khoanh tròn lại.

    Đây là một phần nhật ký phòng thí nghiệm, hầu hết được ghi ngày và đánh số thứ tự. Rebecca tính trả nó về chỗ cũ, thì bỗng thấy có nhiều chữ và cụm từ được gạch dưới trong mấy trang cuối. Cô bèn đọc tiếp, chú ý tới những chỗ đánh dấu.

    Ngày Tám

    Một tuần rồi. Chúng tăng trưởng nhanh tới mức gấp đôi kích cỡ, chứng tỏ đã có sự chuyển biến. Quá trình sinh sản thành công giúp nhân đôi lượng cá thể, nhưng thói quen ăn thịt cũng đã xuất hiện, có lẽ là hệ quả của sự tăng cường tính thèm ăn. Phải gấp rút tăng thêm lượng thức ăn, nhhưng cũng đã mất hai.

    Từ nhân đôi và hai được gạch dưới.

    Ngày 12

    Đã cung cấp thịt sống, nhưng lại mất tới một nửa vì chúng ăn lẫn nhau. Tuy nhiên, chúng đang biết rút kinh nghiệm, biết tập họp thành nhóm để săn mổi. Tiến triển ngoài mong đợi.

    Một nửa được gạch dưới.

    Có hai mục ghi không đánh dấu, Rebecca lướt qua, thấy bối rối với thành công của cuộc thí nghiệm kỳ quặc.

    Ngày 23, bầy đỉa không tập họp theo kiểu cá thể nữa, mà thành một khối thống nhất. Ngày 31, tốc độ nuôi tăng kinh khủng, bây giờ chúng ăn mọi thứ..

    Mục ghi cuối phác họa cho cô thấy, rằng Tiến sĩ Marcus đã rơi vào điên loạn đến cùng cực.

    Ngày 46

    Một ngày đáng nhớ. Hôm nay, chúng bắt đầu bắt chước mình. Mình tin là chúng nhận ra cha của chúng. Có cảm giác rằng mình ảnh hưởng rất mạnh đến chúng, và ngược lại. Chúng có yêu mến mình không nhỉ? Hẳn là có. Bây giờ chỉ có chúng ta mà thôi, chỉ mình ta với những đứa con xuất chúng. Không ai có thể tách rời chúng khỏi ta.

    Bằng vào những gì đã thu thập, bọn nó đừng hòng thách thức ta.

    "Này!"

    Tiếng Billy gọi từ dưới lên. Rebecca bỏ tập giấy xuống và quay lại lỗ trống, quỳ gối xuống.

    "Anh tìm được gì à?" cô nói trong lúc nhìn xuống anh.

    "Có lẽ. Chộp được," anh nói, tay đưa vật gì đó lên trên. Rebecca nhận lấy. Lại một chìa khóa con đỉa nữa, cái này màu xanh lá.

    "Trên đó có cánh cửa nào với bức tượng bán thân của Marcus đằng trước không?" Billy hỏi.

    Rebecca lắc đầu. "Không biết nữa. Nếu có thì cũng không ở trong này. Tôi đang đọc về mấy cái thí nghiệm điên loạn. Để tôi lục thử xung quanh xem sao."

    Billy do dự. "Hay để tôi leo lên, chúng ta sẽ cùng tìm. Chỉ việc kiếm thêm một cái bàn nữa hoặc.."

    "Tôi sẽ cẩn thận mà," Rebecca nói. "Anh nói có một cánh cửa nữa ở dưới đó thì phải? Thử xem mở được nó không, trong lúc tôi tìm coi có lỗ khóa nào khớp với cái này."

    "Cái dưới đó là loại khóa két sắt," Billy nói. "Trừ khi cô có đồ nghề mở khóa, còn không thì bó tay."

    Rebecca thở dài. Thật xui xẻo khi không có Jill Valentine ở đây. Cô ấy ở đội Alpha, và giống như Barry, cô có thể phá vỡ bất cứ thứ gì.. "thay đổi thứ tự."

    "Chờ đã. Khóa két sắt à?"

    Billy gật, và Rebecca biến mất khỏi lỗ trống, trở lại chỗ bàn có bản ghi chép của Marcus. Cô đọc nhanh những đoạn đánh dấu, nhẩm tính trong lúc quay lại. "Bốn con đỉa.. Gấp đôi.. Mất hai.. Mất một nửa..

    " Thử xem.. bốn-tám-sáu-ba, "cô nói.

    " Tính đại à? "Billy hỏi.

    Rebecca cười yếu ớt." E là vậy. Cứ thử xem, "Cô giơ cái vật chạm khắc con đỉa màu xanh." Để tôi xem có tìm được chỗ nào đút nó vào không. "

    Billy miễn cưỡng gật đầu, và Rebecca đứng dậy, đi tới chỗ cửa phòng, không biết mình can đảm hay ngu ngốc nữa. Cô thật sự không muốn làm mọi thứ một mình, kể từ sau cuộc chạm trán với đám động vật bậc cao, nhưng chừng nào còn ở trên tầng này, chừng đó cô nên ngó qua mọi thứ.

    Cửa phòng thí nghiệm mở ra một hành lang ngắn, có ba cửa khác ngoài cái cô vừa mở. Cửa thứ nhất, bên phải, bị khóa trái. Cửa thứ hai, vòng qua góc và cũng bên phải, đang mở, nhưng khi nhìn sơ qua bên trong thì thấy chỉ là một phòng lớn trống rỗng, với một phòng làm việc nhỏ bên hông. Quá tối để nhìn được gì khác. Rebecca đóng nó lại, thở phào ra vì đã hoàn tất hai phần ba chặng đường tìm kiếm, rồi đi đến cửa thứ ba ở cuối hành lang.

    Cũng không khóa. Rebecca đẩy vào, thấy có thêm một cửa khác chỉ cách mình một mét về bên trái. Căn phòng này dẫn vào một nơi có vẻ giống như phòng thí nghiệm mà cô vừa từ đó ra.. không hẳn vậy, nhưng từ hướng quay suy ra một điều là nó có nối với phòng thí nghiệm thứ nhất. Có lẽ người ta đã ngăn ra ở đâu đó –

    - Có chuyển động. Kia rồi, gần cái bàn nằm cạnh vách tường tiếp nối, là một kẻ đã bị nhiễm, một người đàn ông xanh xao hốc hác, hai mắt tối sầm, cái miệng mở ra đầy vẻ đói khát. Nó lảo đảo bước tới, cổ họng phát ra một tiếng òng ọc khe khẽ.

    Nó chậm, rất chậm. Rebecca ước lượng khoảng cách giữa nó và cánh cửa trước mặt, chiếc chìa hình con đỉa nắm chặt trong tay. Cô đánh liều bước tới và đẩy mạnh cửa, luồn qua, rồi đóng sập lại trước khi con zombie ốm tong teo bước thêm bước nữa.

    Cô thấy mình đang ở trong một phòng phẫu thuật, khá cũ kỹ và dơ bẩn, sàn nhà bị phủ một lớp váng mỏng, vài cái cáng đẩy nằm chỏng chơ trên những bánh xe vặn vẹo. Từ vị trí này, băng ngang qua phòng về bên trái, là một cánh cửa màu lục với bức tượng Marcus bên ngoài.

    " Thấy rồi, "cô nói và rảo bước tới, quyết định lờ đi không nhìn kỹ cái bàn phẫu thuật trong góc xa căn phòng, sau khi thoáng thấy những đoạn dây buộc đính kèm trên đó. Cô có thể đoán được Marcus muốn làm gì với cái đó, và chẳng cần phải coi cụ thể.

    Chìa khóa vừa khớp với khối lõm vào bên dưới bức tượng Tiến sĩ Marcus, rồi cô nghe tiếng chốt cửa bật đánh tách. Cửa mở ra –

    - Và cô bật lùi lại một bước, choáng váng bởi cái mùi xộc vào mũi, thứ mùi cô đã quá quen thuộc.

    Căn phòng hẹp này xếp đầy những ngăn đựng xác ở hai bên, nhiều cái vẫn để dựng đứng. Có hai cái xác nằm dưới sàn, không hề nhúc nhích, nhưng cô vẫn chĩa súng vào cái gần nhất không chút chút do dự. Rối vừa thở nhẹ, vừa đi vào trong.

    Chúa ơi, hy vọng trong này có thứ gì đó đáng để mở khóa, cô thầm nghĩ, bước ngang qua một ngăn lật úp. Và thứ đó làm ơn nằm trong tầm mắt, chứ đừng có đánh đố nữa. Cô chẳng dám nghĩ tới chuyện lục lọi trong mấy cái ngăn.

    Cuối phòng là một lối rẽ nhỏ sang phải. Rebecca bước qua cái xác thứ hai, quẹo vào, cố gắng không ói trước cái mùi kinh khủng. Có một ngăn tủ áp sát bên tường – và trên đó là một chìa khóa bằng kim loại.

    Cô nhặt nó lên, cảm xúc lẫn lộn. Quá tốt, rốt cuộc cũng tìm được thứ cần tìm – nhưng mà lại thêm một cái chìa nữa. Nó có thể dẫn đi bất cứ đâu, không chừng đến nhà nghỉ mùa hè của Marcus.

    Có thể là cửa đầu tiên ngoài hành lang..

    " Rebecca? "

    Cô nhét chìa khóa vào túi và cầm lấy bộ đàm, vừa trả lời vừa đi ra cửa.

    " Tôi đây. Có chuyện gì, hết. "Rebecca đi ngang phòng phẫu thuật, dừng lại trước cánh cửa dẫn ra ngoài cái phòng thí nghiệm bị ngăn đôi. Cô tính chạy thẳng tới ngưỡng hành lang, nếu được thì khỏi mất công bắn con zombie..

    " Không có ổ quay trong lỗ khóa, "Billy nói, nghe tức tối." Tôi đã quay lại kiểm tra văn phòng Marcus, nhưng không thấy gì cả. Cô tìm được gì hay ho chứ, hết? "

    " Có lẽ, "cô nói." Để tôi xem lại một thứ. Gặp lại anh chỗ thư viện, hết. "

    " Cẩn thận nhé. Hết. "

    Cẩn thận. Rebecca khẽ lắc đầu trong lúc nhét bộ đàm trở vào thắt lưng, ngạc nhiên khi thấy mối liên hệ giữa hai người đã thay đổi một cách chóng vánh, nhờ đó kéo theo những tình huống có lợi - hoặc có hại không chừng. Mới vài giờ trước, cô đã hăm bắn anh, đã tin rằng anh sẵn sàng bắn cô. Còn bây giờ.. Từ" bạn "chưa hẳn là đúng, nhưng sẽ hết sức vô lý nếu họ quay ra giết nhau.

    Lần đầu tiên, cô tự hỏi không biết các đồng đội của mình đang làm gì. Vẫn đang săn lùng Billy chăng? Họ có đang tìm cô, tìm Edward chăng? Hay là cũng gặp phải rắc rối, phải chạm trán với những hậu quả tạo ra bởi sự lây lan T-Virus?

    * * *đó mới là vấn đề. Rebecca áp sát vào cửa một hồi, nhưng không nghe thấy gì cả. Cô hít một hơi rồi đẩy nó ra, nhanh chóng chạy ngang quãng đường ngắn ngủi tới cửa phòng thí nghiệm, thậm chí không hề quay đầu lại. Ngay khi sập cửa, Rebecca nghe thấy một tiếng rên rỉ đầy thất vọng, khiến cô không khỏi chạnh lòng cho con zombie có đôi mắt trũng sâu. Hẳn nó đã chờ sẵn đó, và mặc dù bắn nó chẳng có gì là khó khăn, nhưng một con zombie yếu ớt không phải là kẻ thù lớn nhất của cô lúc này.

    Rebecca đi đến cái cửa mà cô đã thử lúc đầu, hy vọng đây là chìa khóa cho nó, nhưng cũng nghi ngại không kém. Cô cho là họ phải mất nhiều công sức để sục sạo cho ra chỗ mở khóa, hay tìm cho được thứ gì đó khác, bản đồ, hoặc chìa khóa khác nữa chẳng hạn, hay một cái lỗ hổng đâu đó trên trần; nói ra thấy mà nản. Trường hợp thất bại, họ đành quay lại thang máy để tìm cơ hội trên mặt đất –

    Cô cắm chìa vào lỗ khóa cửa, vặn nó, nghe ngóng, và cảm thấy nó trượt đi.

    " Vừa y, "cô thì thào trong lúc bật cười, rồi mở cửa.

    Một thứ gì đó to lớn và tối thui chồm lên cô, nó tru lên.

    OOo

    Billy chờ đợi dưới cái lỗ hổng nối liền tầng một và hai, vẩn vơ tự hỏi, không biết có thể thổi bay cái lỗ khóa két sắt bằng đạn Magnum chăng – thì nghe một tiếng tru kinh khủng dội tới từ tầng một, tiếp theo là một, hai phát súng.

    Anh không kịp nghĩ tới chiếc bộ đàm, mà nhảy vọt lên cái bàn kê dưới lỗ hổng, hất khẩu súng săn lên rồi nhảy theo, hai tay bám vào bên mép lỗ hổng. Trước đây anh luôn nghi ngờ khả năng của mình, nhưng bây giờ trong đầu anh không có chỗ để suy tính tới chuyện leo lên được hay không nữa. Bằng một tiếng hự đầy nỗ lực, anh nâng mình lên khỏi lỗ hổng, trước tiên bằng cùi chỏ, rồi đến đầu gối.

    Billy nhặt súng và nhổm dậy, vừa lúc tiếng tru lại cất lên, âm thanh nghe quái gở và lạ lẫm, giống như tiếng con chim bị xé xác làm nhiều mảnh. Anh mất nửa giây để xác định phương hướng, tìm cánh cửa, và lao đi thật nhanh.

    Anh bổ nhào ra hành lang - thấy Rebecca đang tựa lưng vào vách tường đối diện, một ống tay áo đã rách, bị bốn vết xước trên cánh tay, đang chĩa súng về phía –

    - Cái quái gì thế này –

    - Một con quái vật, một giống bò sát khổng lồ. Trông nó gần giống người, với cơ bắp nở nang, bộ da lấp lánh màu xanh lục tối, nhìn cứ như cẩn đá. Cánh tay nó rất dài, dài đến nỗi bàn tay đầy vuốt gần chạm xuống sàn. Khi trông thấy Billy, nó trề bộ răng ra và gào lên lần nữa, đôi mắt ti hí trên cái đầu phẳng phiu lộ rõ ác ý. Một tia máu đen kịt đang phún ra từ trên ngực, kết quả phát đạn của Rebecca, nhưng nhìn nó chẳng có vẻ gì là bị ảnh hưởng bởi vết thương.

    Thử cái này coi, Billy nghĩ thầm, giương súng lên trong khi Rebecca tiếp tục bắn. Anh bắn thủng một lỗ trên mặt nó, giật súng và bắn tiếp phát nữa, không để ý đến uy lực của phát đầu tiên-

    - Và nguyên cả khuôn mặt nó bị bay mất, bị bắn văng tung tóe lên tường lẫn sàn nhà dưới chân, cái cơ thể nặng nề run lẩy bẩy. Máu phun ra như suối từ những mảnh vụn trên cổ, những gì còn lại của cái đầu khi nãy - gồm vài mảnh xương hàm, răng, vài mảng thịt đen thui.

    Billy không nhúc nhích có đến mấy giây, tai dỏng lên nghe ngóng xem có âm thanh nào khác, chuyển động nào khác, nhưng hoàn toàn yên ắng. Anh nhìn sang Rebecca, đang lấy tay phải bụm lấy vết thương bên vai trái. Máu rỉ ra dưới kẽ ngón tay của cô.

    " Trong túi đeo ở đai lưng của tôi, "cô nói." Có lọ thuốc khử trùng, gạc và băng dính.. Nó mới cào trúng tôi chứ chưa cắn. "

    Mặt Rebecca tái nhợt đi, cô bậm môi lại khi Billy rửa vết thương và băng bó, nhưng tỏ ra không hề khuất phục, chịu đựng cơn đau vẫn hơn là đầu hàng nó. Tình trạng vết thương khá xấu, có thể phải khâu lại, nhưng như vậy cũng có thể làm nó nặng hơn. Khi anh băng xong, cô hất đầu về phía cánh cửa đã mở một nửa.

    " Nó bị khóa trong đó. Ý tôi là con quái vật. "

    Giọng cô vẫn chưa hết bàng hoàng. Billy đến gần cửa, sẵn sàng chờ đón bất cứ thứ gì muốn nhảy xổ ra ngoài. Anh dừng bước cạnh con vật không đầu, mắt nhìn xuống.

    " Trông nó giống sinh vật trong phim Creature from the Black Lagoon, "Billy nói và nhìn lên, hy vọng có người sẽ cười. Đáp lại anh là một nụ cười, tuy run run nhưng rất thật, và một lần nữa anh bị ấn tượng trước sự kiên cường của cô. Hiếm ai có thể phục hồi nhanh như vậy sau khi bị tấn công bất ngờ, nhất là bởi một con quái vật như thế này. Phần lớn mọi người sẽ run như cầy sấy suốt hàng giờ đồng hồ.

    Rebecca đã đến bên cạnh anh. Cô lấy giày khều cái cẳng đồ sộ của con vật." Thật kinh ngạc, "cô nói." Về những thứ mà bọn họ tạo ra ở đây. Nghiên cứu di truyền, tổng hợp virus.. "

    " Tôi nghĩ từ 'tâm thần' là chính xác nhất. "Billy nói.

    Cô gật đầu." Không sai chút nào. Để xem nó có bảo vệ thứ gì đáng giá hay không. "

    Họ bước qua xác con vật, Rebecca kể lại những gì cô đã tìm được trên tầng một trong lúc cả hai vào phòng. Nơi này gần như một loại chuồng nhốt, và Billy không chút nghi ngờ rằng nó đã từng được sử dụng để nhốt lũ chó; có hàng đống cũi với chấn song bằng thép, nhiều cái quấn đầy dây lòi tói, chưa kể cái mùi hôi thối của động vật hoang dã nồng nặc trong không khí.

    ".. là nơi tôi tìm thấy chìa khóa vào phòng này, "cô đang nói." Tôi hy vọng tìm được thứ gì đó hữu ích ở đây. "

    Căn phòng có dạng chữ U, khắp nơi ngổn ngang những kệ. Họ đi vòng quanh chúng, và Rebecca thốt lên một tiếng lộ vẻ kinh tởm. Xếp đầy trong góc là một đống lông rách bươm và những khúc xương gặm nham nhở, hiển nhiên là những gì còn lại của loài động vật bậc cao. Còn có nhiều bãi phân rải rác, nhiều đống gì đó vừa đen vừa dày, bốc mùi như thể - như thể mùi phân. Có vẻ con quái vật đã bị nhốt khá lâu.

    Có một cái bàn gỗ chen giữa hai cái cũi, vài tờ giấy vương vãi trên đó. Billy thận trọng bước sang, và cầm lấy tờ trên cùng trong lúc Rebecca ngó qua vài cái cũi rỗng. Dường như đây là một phần của bản báo cáo.

    * * *những nghiên cứu đến lúc này cho thấy, sức mạnh của Progenitor chính là kiểm soát được lối sống theo dạng quần thể, biến đổi mãnh liệt những tế bào khiến cho các hệ chính bị tàn phá, nhất là hệ thần kinh trung ương. Hơn nữa, chưa có biện pháp khả dĩ nào để điều khiển quần thể này như một vũ khí. Rõ ràng, sự kết hợp các tế bào ở cấp độ cao là cần thiết cho sự tăng trưởng không ngừng.

    Những thí nghiệm trên côn trùng, động vật lưỡng cư, động vật bậc cao đều thất bại như đã dự tính. Có vẻ khó có thêm tiến triển nào nếu không sử dụng người làm quần thề chủ. Gợi ý của chúng tôi vào lúc này, là các sinh vật thí nghiệm nên được nuôi sống để nghiên cứu, và để làm mồi cho những vật lai thế hệ sau, trong khi chờ dòng Tyrant ra đời.

    Chúa ơi. Billy lục lọi những trang giấy, tìm phần còn lại của báo cáo, nhưng chỉ thấy một mớ lịch làm việc lấm lem cà phê.

    Dòng Tyrant. Tất cả những sinh vật chúng ta đã gặp.. Và bọn họ đang nghiên cứu thứ gì đó dư sức làm gỏi hết tất cả các sinh vật đó.

    " Ha! "

    Billy ngó lên, thấy Rebecca vẫy vẫy một vật, nụ cười đắc thắng hiện trên khuôn mặt.

    " Có ai muốn quay số không? "

    Anh buông bản báo cáo xuống bàn." Đừng lừa phỉnh tôi chứ. "

    " Không hề. Nó nằm trong một cái cũi. "Cô đưa vật đó cho Billy. Anh cầm lấy, cảm thấy mình cũng đang cười toe toét. Chính xác là thứ anh muốn tìm, một tay nắm tròn vừa vặn với lỗ khóa két sắt dưới tầng hai.

    " Bốn tám sáu ba? "Billy hỏi, và Rebecca gật đầu.

    " Bốn tám sáu ba, "cô lặp lại, bắt chéo ngón tay ra dấu chiến thắng. Billy cũng vậy. Chỉ là một động tác của lũ trẻ con, nhưng lúc này anh chẳng thèm dè chừng hành vi của mình nữa. Anh sẵn sàng tung hô bất cứ cái gì giúp được mình lúc này.

    " Đi thôi,"anh nói, cảm thấy hy vọng tràn trề khi hai người rời khỏi căn phòng có con quái vật, hào hứng với những cảm xúc đang dâng trào. Có một câu ngạn ngữ, rằng hễ còn sống thì còn hy vọng. Billy đã từng nghe nó trong thời gian bị xét xử, lúc đó anh nghĩ nó thật hiển nhiên và ngu ngốc. Thật kỳ diệu và kinh ngạc làm sao, khi anh có thể chiêm nghiệm chân lý của nó qua cuộc chiến đấu sinh tồn trong bối cảnh hoàn toàn khác biệt.

    Cả hai cùng quay lại phòng thí nghiệm. Ngón tay Billy vẫn còn bắt chéo.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  4. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 12

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hắn dõi theo bộ đôi cùng nhau dắt díu leo xuống cái lỗ, quay lại cánh cửa có khóa dạng két sắt. Sau cùng chúng đã tìm được đường ra; thật sự thì hắn mong bọn chúng phá khóa, nhưng một đứa đã phát hiện những ghi chép về số lượng con đỉa, từ đó suy ra mã khóa.

    Có vẻ con Hunter duy nhất, quân mã đơn độc, không phải là đối thủ của chúng. Hắn đã ngạc nhiên, nhưng không đến nỗi choáng váng, và vẫn quan sát khi chúng mở khóa. Hai đứa nó có bộ óc thông minh của loài động vật thấp hèn; thật buồn cho thế giới này, vì chúng phải bị tiêu diệt.

    Hắn mỉm cười. Loài người rồi sẽ được đền bù lại những tổn thất, sẽ có dư dật thời gian để chấp nhận sự diệt vong của Umbrella. Ngoài ra, bầy con của hắn đã vào vị trí.

    Billy đẩy cánh cửa vào toa xe kéo dùng dây cáp, cả hai cùng cười, chúc mừng nhau vì đã "khám phá" ra cách thoát khỏi phòng thí nghiệm. Toa xe cáp đang trong tình trạng sẵn sàng hoạt động, mặc dù chúng thật ra chẳng cần phải xài tới nó; mạng sống bọn chúng đang tính bằng giây. Bầy con đang quan sát từ bóng tối dưới toa, từ cái cống ngập nửa nước, đang kết hợp thành hình người, một, hai người. Bằng một ý nghĩ, một tiếng thở, hắn thả dây cương, lệnh cho hai quân Hậu đi chập chững về phía con mồi.

    Một âm thanh, tiếng gào thét. Hắn cau mày, quay một người giả lại để xem cái gì vừa rống lên từ bóng tối đằng sau – và bị tấn công bởi một con Eliminator, con vật đó nhảy xổ vào quần thể hình người như từ trên trời rơi xuống, kêu the thé trong lúc cấu xé bầy con của hắn với hàm răng nhễu nước.

    Dưới sàn, Rebecca và Billy bị đánh động bởi tiếng vật lộn, nên đã sẵn sàng vũ khí. Vừa điên cuồng vừa thương tiếc, hắn ngập ngừng, muốn kết liễu hai đứa nó, nhưng lại lo lắng cho bầy con–

    Hắn ra lệnh cả hai tiến tới, mặc kệ con vật kia tấn công, và để các cá thể chảy tràn ra khỏi hàm răng con vật, rồi tái định hình bên rìa sàn, trở lại thành tổ hợp thứ hai. Hai người giả leo qua thanh ray, hăm hở muốn xơi tái bọn xâm nhập. Con Eliminator theo sau, nhày chồm lên hai người giả.

    Hắn kinh hoàng chứng kiến cảnh Billy nã súng săn vào một người giả, phát đạn không sai một ly. Hắn cảm nhận thấy bầy đàn đang kêu gào, thấy quần thể đang thu hẹp lại, và cơn thịnh nộ dâng trào xen lẫn nỗi thống khổ, cùng lúc Billy bắn thêm phát nữa, hợp lực cùng khẩu súng ngắn của Rebecca. Chỉ trong vài giây. Một trong hai tổ hợp đã hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn.

    "Không!" Bầy đàn của hắn chưa từng đối diện với súng săn, nên hắn không ngờ chúng bị tổn hại dễ dàng như vậy, nhưng lúc này không thể lâm trận rút lui. Ý thức của hắn lệnh cho các cá thể sống sót tập họp lại, kết hợp với người giả thứ hai, trong lúc con Eliminator chồm lên Billy, vồ lấy gã bằng những móng vuốt dày cộm. Con vật ôm chầm lấy thằng sát thủ - rồi cả hai lăn trên thanh ray, rơi vào dưới đường cống trong tiếng nước văng tung tóe.

    Rebecca gào lên, lao nhanh đến tay vịn, nhưng người giả thứ hai đã tiếp cận con bé. Hắn cảm thấy hết sức hài lòng, khi quan sát người giả vươn dài cánh tay diệu kỳ ra, tát vào bộ mặt ngu ngốc đang gào thét của Rebecca, mạnh đến nỗi đánh con bé té xuống. Nó lăn một vòng trong khi hắn dừng lại, và ngẫm nghĩ xem nên giải quyết con bé thế nào cho đẹp mắt nhất. Những mất mát của bầy đàn quá sức to lớn, lớn chưa từng thấy, nên hắn muốn làm cho con nhãi ấy phải nếm đủ mùi đau đớn –

    - Có điều nó bất ngờ nhỏm dậy, vồ lấy khẩu súng săn Billy làm rớt, khuôn mặt tràn đầy giận dữ. Con bé nã đạn vào người giả, bắn bay mất một cánh tay, lũ con của hắn kêu gào đau đớn trong lúc nó bắn thêm phát nữa, rồi phát nữa.

    Bây giờ hắn chỉ còn có thể nhìn thấy Rebecca, có quá ít những ánh mắt tập trung lên con bé, phần lớn bầy đàn đang giãy chết bất chấp nỗ lực giữ liên lạc của hắn. Hình ảnh cuối cùng hắn nhận được bị nhòe hẳn đi, rồi bóng tối lan dần, sau cùng biến mất hoàn toàn.

    Xung quanh hắn, bầy đàn đang khóc, nước mắt đau thương của chúng chảy vào trong những đường rãnh tiếp xúc, nỗi buồn phiền trào dâng trên khắp quần thể. Hắn nhắm mắt lại, khóc theo chúng, nhưng chỉ trong chốc lát. Cơn thịnh nộ của hắn không kể sao cho xiết; con nhãi ấy phải chết, chết như thằng bạn nó.

    Dù phải đánh đổi thêm bao nhiêu đứa con..

    Tyrant. Quân tướng của ta.

    Hắn nở nụ cười. Cơn giận của hắn càng lớn, sự trừng phạt giáng xuống càng tồi tệ.

    OOo

    Có một khẩu Magnum trong toa xe, nắm chặt trong những ngón tay lạnh giá của một xác chết. Trong lúc toa xe trượt từ từ vào bóng tối, thực hiện cuộc hành trình ngắn ngủi để đến một khoảng sân mới, Rebecca gỡ khẩu súng lục ổ quay đó ra. Nó chưa nạp đạn. Cô nhớ Billy có một mang mớ đạn cỡ. 50 cho loại này, nhưng anh ta đã..

    * * *không. Anh ta còn sống và mình phải tìm anh ta, cô kiên quyết tự nhủ, và rảo bước khỏi toa xe khi nó dừng lại, mặc kệ giọng nói hoảng hốt trong đầu, đang nhắc nhở cô rằng anh đã chết. Billy đi rồi, đã mất tích trong đường cống dưới chỗ toa xe, luồng nước đó đã cuốn cả anh lẫn con quái vật đi xa, nhưng anh nhất định vẫn còn sống, và cô sẽ tìm anh cho bằng được. Những luồng suy nghĩ quay cuồng, lặp đi lặp lại trong đầu Rebecca; cô nợ anh niềm hy vọng này, niềm tin này, hết lần này đến lần khác.

    Mặt sân bên đây cũng giống bên kia, vừa nhỏ vừa lạnh vừa tối, nhưng có thêm một loạt các cầu thang đi lên khỏi mặt sân. Rebecca kiểm tra lại vũ khí, nạp đầy đạn cho khẩu chín ly. Billy giữ chỗ đạn súng săn còn lại, nhưng anh đã nạp đầy đạn cho nó, sau đợt tấn công của con quái vật phía ngoài căn phòng có mấy cái cũi.

    - Sau khi cứu mạng mình lần nữa,

    - Và ở đây còn lại hai viên; cô không thể bỏ nó lại, cũng như không thể bỏ khẩu Magnum. Biết đâu chừng cô lại tìm được một kho đạn thì sao. Khẩu súng lục ổ quay nặng nề được nhét vào thắt lưng, cây súng săn trên vai làm cô thấy tê nhức, nhưng cô phải để sẵn phòng khi cần.

    Anh ta chết rồi, Rebecca. Mày phải cứu-

    Không.

    - Cứu chính mày, ngay bây giờ-

    Không!

    Cô đi nhanh lên cầu thang, không đếm xỉa gì tới cơn mệt nhọc thể xác, phải tìm anh ta, phải tìm. Trên đỉnh cầu thang có một cánh cửa, mở vào một cái kho rất to, gần như trống không. Đầu bên kia dẫn ra ngoài trời. Rebecca rảo bước ngang căn phòng, chân đạp lên đường rãnh của xe vận chuyển, đi ngang những cái thùng sắt gỉ nằm dọc tường, đầu óc chỉ toàn hình ảnh của Billy. Nếu anh ấy bị thương, nếu anh ấy –

    Chết. Anh ta ắt là chết rồi. Cô dẹp ý nghĩ đó đi, nhưng giọng nói trong đầu vẫn vang lên không chút hoảng hốt, không chút mù quáng; nó bình tĩnh đến lạ thường. Cô hít thở vài hơi thật sâu, dừng lại một chút bên cạnh buồng thang máy vận chuyển nằm giáp căn phòng, quan sát bầu trời xanh thẫm lành lạnh buổi sáng sớm; rốt cuộc mây cũng đã tản đi, để lộ những ánh sao lu mờ đang nhấp nháy từ xa. Cơn bão đã tan. Cô cầu mong nó là một điềm báo trước những điều tốt đẹp.. nhưng chỉ là hy vọng. Nếu Billy đã chết - gần như vậy – cô sẽ phải đối mặt với sự thật đó.

    Nhưng mình sẽ không làm gì một khi chưa chắc chắn.

    Có một bảng điều khiển bên phía bắc của buồng thang máy. Rebecca nghiên cứu nó một lát, rồi quyết định nên hạ xuống tầng thấp nhất, B-4, để tìm một lối chui vào hệ thống cống. Cô nhấn nút. Cả bề mặt rộng hình bát giác giật mạnh, rồi bắt đầu hạ xuống, bốn vách bao quanh buồng trượt lên nhanh chóng, bầu trời đêm dần thu nhỏ lại trên đầu.

    Thang máy dừng lại trong một gian phòng rất rộng, vách tường xung quanh toàn một màu xám. Bên phải cô có một văn phòng nhỏ ghi chữ AN NINH, rồi đến một hành lang ngắn dẫn tới một thang máy hơi khác lạ, nhìn qua giống như tòa nhà làm việc. Bên trái là một cái hang, gạch vụn chồng chất lên nhau tới tận cái trần thấp bị sụp – và ngay trước nó là chiếc thang máy thứ hai, to hơn, loại vận chuyển hàng.

    Cô rời khỏi sàn, kiểm tra xung quanh xem có dấu hiệu nào của sự sống không, hai chân đạp êm trên những mảnh bê tông vỡ vụn. Hoàn toàn vắng vẻ. Cô tiến tới phòng an ninh, thấy cửa khóa – nhưng nhìn sơ qua cửa sổ thì thấy chẳng có gì bên trong đáng để lấy cả.

    Rebecca thở dài, không biết nên đi lối nào. Kế hoạch của cô là tiếp tục đi xuống đến khi gặp mặt nước, nhưng mấy cái thang máy này có thể sẽ khiến cô lạc hướng.

    Lựa một cái vậy. Sai còn hơn phí thì giờ suy nghĩ. Đúng vậy. Cô nhắm đại trong đầu, và chọn cái thang máy bên phía tây.

    Cô vừa tới bảng điều khiển, tay chạm vào cái nút duy nhất –

    - Thì ping một tiếng, thang máy ngừng lại ngay đó.

    Rebecca bật lùi ra sau, không kịp nữa rồi, mà cũng có chẳng chỗ nào để chạy. Cô dán sát mình vào vách, sao cho càng gần cánh cửa càng tốt, cầu mong cái thứ sắp chui ra sẽ không đủ nhanh để nhìn lại sau lưng.

    Cửa trượt ra. Cô nắm chặt súng, thở thật nhẹ, cùng lúc một cái bóng bước ra, một người đàn ông vạm vỡ, mặc áo quân phục –

    Rebecca hạ súng, trố mắt nhìn khi Enrico Marini quay lại, chỉa khẩu chín ly vào cô.

    "Đừng bắn!"

    Cô đang nhìn một cách sửng sốt, khuôn mặt lộ vẻ bất ngờ, và anh hướng mũi súng lên trần.

    "Rebecca," anh nhẹ nhõm thốt lên, Rebecca chợt thấy có vết bẩn trên bàn tay và mặt của anh, mùi máu tỏa ra từ cánh tay. Mấy khớp ngón tay thì thâm tím và có dấu hằn; bộ trang phục S. T. A. R. S. Bị rách nhiều chỗ. Có vẻ cô không phải là thành viên duy nhất trong đội Bravo bị đe dọa tính mạng. "Em không sao chứ?"

    "Anh vẫn sống," cô nói trong lúc bước tới, vui mừng lại gặp được anh, đến nỗi không hiểu sao mình lại không bật khóc. Anh vụng về ôm lấy cô bằng một tay, vỗ nhẹ lên vai cô rồi buông ra.

    "Những người khác đâu rồi?" cô hỏi.

    Enrico nhìn lại phía thang vận chuyển. "Họ đi trước. Mọi người đang tìm Edward và em."

    Cô cụp mắt xuống. "Edward – anh ấy không qua được."

    Ánh mắt Enrico hơi sững lại, nhưng chỉ gật đầu. "Em có thấy những người kia đi ngang đây không?"

    "Không ạ."

    "Ắt là họ đã mất dấu em," anh nói. "Chúng ta tìm được những tài liệu này.." Anh lắc đầu, như thể muốn chối bỏ một câu chuyện quá dài để kể. Điều này thì cô hoàn toàn hiểu rõ.

    "Về phía đông là một biệt thự cổ," anh nói tiếp. "Chúng ta tin rằng Umbrella đã sử dụng nó làm nơi nghiên cứu. Đi thôi. Có thể bắt kịp mọi người nếu chúng ta nhanh chân."

    Anh rảo bước đi tới, và Rebecca cảm thấy tim mình nhảy giật lên, giống như bị giáng một đấm ra trò ngay lồng ngực.

    "Khoan đã!" cô thốt lên mà không kịp đắn đo. "Em phải tìm Billy."

    Enrico quay lại nhìn cô chăm chú. "Billy Coen? Em tìm thấy hắn à?"

    "Vâng, nhưng đã bị tách ra, và.." cô ngập ngừng, không biết diễn tả thế nào.

    "Không phải lúc lo lắng cho hắn," Enrico nói. "Dù thế nào thì hắn cũng sẽ không thoát được. Chúng ta đi thôi."

    "Sir, tôi –" Cô ngắc ngứ, miễn cưỡng nhìn vào mắt anh. "Đó là một câu chuyện dài. Nhưng tôi – tôi cần phải tìm anh ta. Đừng lo, tôi sẽ theo kịp mà."

    "Rebecca," anh cất tiếng, và rồi dường như nhận ra có điều gì đó chứa trong giọng điệu của cô, trên khuôn mặt cô, có lẽ y như điều cô đang nhận ra từ vẻ mặt của anh – quá nhiều chuyện đã xảy ra, và giải thích nó là việc quá sức của cả hai người.

    "Cẩn thận nhé," anh nói, và cô đứng thẳng lên, mạnh mẽ gật đầu, chứng tỏ sự thông hiểu giữa những tay chuyên nghiệp với nhau. Anh quay lưng đi thẳng. Cô dõi theo sau, nhìn anh tiến tới đống gạch vụn phía bên kia phòng, bước vào thang máy, rồi biến mất khỏi tầm nhìn.

    Cuối cùng mình đã tìm thấy đồng đội, và bảo họ đi trước không cần đợi mình, cô nghĩ thầm, thấy mệt mỏi và kinh ngạc trước quyết định đó. Ít nhất họ vẫn sống. Một khi tìm được Billy, cô – đúng ra là cả hai - sẽ đi về hướng đông, nhập bọn với cả nhóm ở ngôi biệt thự của Umbrella.

    Cô kiểm tra cái thang máy mà Enrico vừa đi xuống, nhận thấy nó chỉ có thể đi lên. Vậy cũng tốt, dễ quyết định hơn. Cô đi ngang gian phòng tới chỗ thang máy còn lại. Khi nhấn nút, cô nghe có tiếng cót két và tiếng cơ khí chuyển động mạnh, phát ra đâu đó trong hầm thang máy. Nó ì ạch đi xuống từ nơi mà Enrico đã dừng lại trên kia. Rebecca tựa lưng vào vách, cầu mong thang máy tới nhanh. Cô đã quá mỏi mệt, đến nỗi sợ rằng mình sẽ không gượng dậy được nếu dừng lại nghỉ ngơi.

    Một khối đá lăn xuống từ trên đỉnh đống đổ nát, nện xuống mặt đất cách chân cô không xa, bể thành nhiều mảnh. Rồi khối thứ hai, thứ ba nhanh chóng nối tiếp – và một trận đá lở nhỏ, hàng loạt gạch đá tràn xuống thành một bãi, bụi bốc lên mù mịt. Rebecca lùi khỏi cửa thang máy, căng thẳng nhìn đống gạch đá.

    Crunch. Crunch. Crunch.

    Nghe như tiếng bước chân nặng nề, phát ra từ trên đỉnh đống đổ nát. Thêm nhiều cục đá lăn xuống bề mặt.

    "Enrico?" Rebecca hỏi, giọng đầy hy vọng, âm thanh yếu ớt giữa đám bụi mù.

    Crunch.

    Crunch.

    Cô nhấn nút gọi thang máy lần nữa. Căn cứ theo âm thanh thì nó đang nhích dần tới, nhưng cô đã trông thấy có thứ gì đó đang chuyển động trong bóng tối. Thứ gì đó rất to. Và nó đang đến gần cô.

    OOo

    Billy bám vào phần còn lại của cây trụ chống đã xói mòn, làn nước lạnh lẽo tối om chảy xiết xung quanh, khiến những ngón tay tê cóng của anh dần dần tuột đi. Anh bám thật chặt trong trạng thái gần như nửa tỉnh nửa mê, cố gắng duy trì. Anh nghĩ lại mọi chuyện, nhớ tới con khỉ -

    - Là khỉ đầu chó, theo cô ta nói –

    - Nó tấn công, móng vuốt bẩn thỉu cắm sâu vào bắp tay của anh, nhớ lại cú va chạm mạnh vào tay vịn. Nhớ đến cú rơi tõm xuống dòng nước dơ bẩn, nếm cái vị chua chua nhơn nhớt như dầu và mùi tanh lợm giọng khi nó chảy xiết qua. Rebecca thét gọi tên anh, giọng cô văng vẳng khi anh bị cuốn đi xa. Tiếng tru hoảng loạn của con vật khi nó cũng bị trôi tuột đi – và có một gờ đá nhô ra, rồi một cú đụng trúng thái dương đau điếng – bây giờ thì anh ở đây. Đâu đó không biết.

    Anh đã bị thương, choáng váng, lạc lối. Dòng nước đang tụ lại và kêu réo ngay bên cạnh phải, đổ dồn vào một đường ống lớn đen ngòm, nó đủ lớn để nhấn chìm anh. Cách bên trái chừng mười mét có vài lối đi nhỏ, lập lờ trên làn nước xoáy, nhưng sẽ mất không ít công sức nếu muốn qua đó. Dòng nước quá nhanh, quá mạnh, mà anh không phải là tay bơi cự phách ngay cả những khi sung sức.

    Billy bám thật chặt. Lúc này, anh chỉ làm được nhiêu đó.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  5. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 13

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một sinh vật nhô lên trên đống đổ nát, trông nó không giống bất cứ thứ gì mà Rebecca từng thấy. Nó đứng gần ngay đỉnh cây cột bị sụp, cánh tay vươn lên như thể muốn kéo dãn ra, nhờ vậy cô có thể quan sát nó một cách rõ ràng, để rồi thấy miệng mình khô khốc, bàn tay đẫm mồ hôi. Tự nhiên cô muốn kiếm một cái nhà tắm kinh khủng.

    Nó thuộc giống người. Gần như vậy, bởi lẽ vóc dáng bên ngoài vẫn là một con người - ngoại trừ việc không ai có một lớp da xanh xao mà lại sáng bừng như vậy, lớp da không một cọng lông, còn cơ thể phát sáng trắng xóa. Không ai lại có bộ móng dài gần bằng cánh tay, cong vồng và lóe sáng như thể dao thép, tay phải dài hơn tay trái. Những đường động mạch dày cộp nổi rõ dưới da; những khối màu đỏ lẫn trắng nổi cục dưới bờ vai rộng, kéo dài xuống tận bộ ngực lực lưỡng. Hàng loạt vết lở loét đỏ ối nằm rải rác lung tung khắp phần thân cao ba mét, phần dưới mặt đã bị rọc mất, lộ ra một nụ cười nhăn nhở nhễu máu của xương và thịt. Bây giờ nó đang quay sang Rebecca, khua bộ móng như thể rất hào hứng với cuộc gặp gỡ này.

    Sinh vật đó nhìn xuống Rebecca, bộ mặt đã nhăn nhở lại càng nhăn nhở hơn. Cô nghe tiếng nó thở, một âm thanh khò khè cộc cằn, thậm chí còn nghe được quả tim lạ lùng của nó đang nhịp, một quả tim chỉ được che chắn một phần trong lồng ngực.

    Bấy nhiêu đã đủ để cô giương súng, siết cò.

    Ánh lửa xuyên thẳng vào ngực nó, làm phún ra một dây máu chảy tràn xuống phần thân, và nó ngửa đầu ra sau, rống lên, âm thanh báo hiệu của Ngày Tận thế, ngày tàn của vạn vật. Nó lộ vẻ cuồng nộ hơn là đau đớn, và Rebecca bỗng hiểu rằng mình chỉ còn sống không bao lâu nữa.

    Bằng một cú nhảy điệu nghệ duy nhất, con quái vật phóng khỏi cây trụ đổ sụp và chạm xuống mặt đất trong tư thế cúi thấp, cách cô không đầy bốn mét. Rebecca cảm thấy mặt đất rung nhẹ. Móng thép của nó cạ lên lớp bê tông rồi giơ lên, cặp mắt xám ngoét nham hiểm nhìn cô chăm chăm. Cô lùi ra xa, lên đạn khẩu súng săn, khắp người run run khi ngắm bắn, cố gắng canh cho trúng cái mặt cười toe toét. Nó sấn lại gần hơn, đến khoảng giữa cô và thang máy – cùng lúc cô nghe tiếng thang dừng lại, cửa trượt ra.

    Nó sấn thêm bước nữa. Ít nhất nó cũng chậm; nếu mình có thể dụ nó ra xa, rồi quay lại –

    Một bước nữa, rồi cô nghe và trông thấy mặt sàn sụp xuống dưới lớp móng chân đồ sộ dáy cộm của nó. Cô lùi tiếp, cố gắng kéo dài khoảng cách giữa hai bên –

    - Và thình lình nó lao tới, cực nhanh, chỉ thấy một cái bóng chớp lên khi nó thả tay xuống, vung ra, những lưỡi dao mọc trên cánh tay sáp lại, gần đến nỗi cô thấy được ảnh phản chiếu của chính mình trên đó khi lao sang một bên. Cô lăn tròn một vòng, giữ chặt khẩu súng trước ngực, rồi bật dậy khi con quái vật chấm dứt cú nước rút thần tốc. Tia lửa nhoáng lên từ vách tường bên cạnh thang máy, bảng nút bấm điều khiển bị bong ra một mảng -

    - Chợt ánh sáng lóe lên sau lưng cô, chuông kêu đánh cong một tiếng – ngay khoảng giữa Rebecca với cái sàn thang máy cô sử dụng khi nãy, một tấm kim loại đồ sộ đang trượt xuống dần. Nó sắp ngăn đôi gian phòng – và nhốt cô vào chung với con vật quái đản đó.

    Cô cắm đầu chạy sang phía bên kia cửa. Tấm kim loại nặng nề ấy đang trượt khá nhanh, và có thể nói là bất khả xâm phạm đối với con quái vật.

    Cô sang được bên kia không chút trở ngại, rồi quay người lại, bước thụt lùi.

    Sinh vật kỳ dị kia đã đuổi theo cô, nó đang luồn qua dưới tấm kim loại hạ thấp. Rebecca nghe tim mình nhảy lô tô, mồ hôi toát đầm đìa khắp người; nếu cô mà bị nhốt cùng một chỗ với nó thì coi như xong đời.

    Cô chờ đợi, còn nó vẫn chầm chậm tiến dần về phía cô – và khi mép dưới tấm kim loại nằm ngang tầm trán, cô lao vọt sang mé bên kia, vừa chạy vừa cúi đầu, hy vọng con quái vật bị nhốt lại.

    Nó vẫn tiếp tục hướng theo cô, đang khom người, móng vuốt giơ cao trên đầu khi luồn ngang dưới tấm kim loại. Cô cảm thấy một tia hy vọng, rằng nó sẽ bị nghiến nát - rồi có tiếng kêu rít lên khi bộ móng khổng lồ của nó rạch dài trên tấm kim loại hạ thấp. Rebecca nhìn, vừa kinh hãi vừa sửng sốt, khi nó làm đà tuột chậm lại để có thể luồn qua. Và nó đã qua được, còn tấm kim loại tiếp tục hạ xuống với một tiếng kêu lớn.

    Bản năng mách bảo cô nên chạy ngay, chạy thật xa – nhưng chẳng có nơi nào mà chạy. Tấm kim loại đang tụt dần, gian phòng lúc này chỉ còn rộng hơn căn hộ nhỏ của cô một chút. Cô phải vào trong thang máy. Đó là cơ may duy nhất.

    Cô lao đến đó, chộp vào cánh cửa và kéo ra – thì nghe thấy tiếng nó đang đến, tiếng chân bình bịch của nó, tiếng kêu răng rắc của xi măng dưới sải chân dữ dội của nó.

    Khốn kiếp! Rebecca thậm chí không kịp quay đầu lại, bản năng cho cô biết rằng không kịp nữa. Tất cả những gì cô có thể làm là rùn chân xuống, lăn sang một bên - vừa đúng lúc những móng vuốt nện xuống, đâm thẳng vào cửa thang máy, rạch lên bức vách mà cô vừa đứng đó một giây trước.

    Rebecca loạng choạng đứng lên khi nó quay lại, cặp mắt nhìn cô đăm đăm, chân lại bước tới. Nó rất tập trung, lạnh lùng và khắc nghiệt chẳng khác gì một cỗ máy. Cánh tay dài của nó đang kéo ra sau, giống như tư thế chuẩn bị ném banh, và sấn thêm một bước.

    Nghĩ đi, nghĩ đi! Cô không thể đối đầu trực diện, có lẽ không thể giết được nó bằng những gì đang có; hy vọng duy nhất lúc này là đánh lừa nó bằng cách nào đó..

    Cô vừa hành động vừa phác dần kế hoạch trong đầu. Con quái vật quá to lớn, nên sẽ không dễ dàng dừng bước một khi bắt đầu chạy; nếu canh được đúng thời điểm nó di chuyển, tránh khỏi đường lao của nó, cô sẽ kịp chui vào thang máy. Rebecca quyết định đứng yên không lùi nữa, càng đi xa thang máy thì cô càng khó vào được bên trong.

    Một bước nữa. Những móng vuốt cứa trên sàn. Dấu hiệu cho thấy chưa đến lúc để chạy. Cô giữ nguyên khẩu súng chĩa vào nó, sẵn sàng hành động một khi nó tăng tốc.

    Nụ cười nham nhở của con quái vật nở rộng thêm, khi đầu gối nó khẽ động đậy, chuẩn bị lao đến-

    - Và nó đang đến, chỉ còn cách cô có vài bước chân. Rebecca vọt sang bên và chạy, đâm bổ tới chỗ thang máy, bàn tay run rẩy vịn vào cửa. Cô kéo nó ra, nhào vào trong, quay lại đóng cửa -

    - Và thấy nó đã lại nhìn cô chăm chú, rồi lao nhanh theo, rất nhanh. Cánh cửa sẽ không ngăn nổi nó, cô biết chắc như vậy. Rebecca giương súng, siết cò mà không kịp ngắm.

    Phát đạn bắn trúng vai phải. Nó giật ngược lại, gào rú, máu phun ra từ vết thương loang lỗ, và Rebecca không thấy gì nữa. Cô đóng sầm cửa, nhấn cái nút thấp nhất trên bảng, mắt nhắm lại trong lúc cầu nguyện.

    Nhiều giây đồng hồ trôi qua. Thang máy tiếp tục đi xuống, đi xuống - cuối cùng dừng lại. Cô ngưng cầu nguyện một lát, nghe thấy tiếng nước chảy bên ngoài – hẳn là đường cống - nhưng vẫn còn quá bàng hoàng với những việc vừa xảy ra, toàn thân run rẩy không sao kìm được.

    Sau một lúc lâu, cơn run dần tan biến. Cô vẫn ổn.. ít nhất là còn sống cho tới lúc này. Sau khi cầu nguyện lần cuối để đừng gặp lại sinh vật đó nữa, Rebecca đẩy cửa, bước ra ngoài.

    OOo

    William Birkin đang rời đi thì nghe thấy một tiếng gào rú không giống người vọng khắp căn cứ, chất giọng chứa đầy phẫn nộ. Lão dừng chân trước lối vào đường hầm nhỏ dưới mặt đất, nơi sẽ dẫn ra ngoài, ngó ngoái về phía phòng điều khiển. Lão đã mất tới hai tiếng đồng hồ trong khu vực bí mật, đầu tiên là đắn đo quyết định, kế đến là vật lộn với cái máy tính để buộc nó chịu nhận lệnh của lão. Tiến trình tự hủy được thiết lập trong thời gian một tiếng theo gợi ý của Wesker, để sự hủy diệt của toàn bộ khu nghiên cứu lẫn vùng phụ cận xảy ra lúc rạng sáng.

    Tiếng gào đó.. Lão chưa từng nghe thấy, nhưng ngay lập tức hiểu ra nó là gì, nhất là khi đã chứng kiến những giai đoạn cuối của dự án. Ngoài nó ra, đâu còn gì khác có thể phát ra âm thanh đó. Nguyên mẫu Tyrant hẳn đã sổng chuồng.

    Bóng tối bao phủ trong đường hầm bỗng trở nên quá thăm thẳm, quá cô độc. Quá kín kẽ. Birkin quay người chạy nhanh tới trước, tin chắc mình đã quyết định đúng.

    Mọi thứ sẽ biến thành tro bụi.

    OOo

    Billy nghe thấy tiếng động. Anh nặng nề nhấc đầu lên, cố gắng quay qua một cách chậm chạp. Ngay đó, bên tay trái, một cánh cửa mở ra trên lối đi, và một bóng người xuất hiện.

    "Hey," anh cất tiếng, nhưng không phát ra được thanh âm nào, giọng anh tan biến theo dòng nước chảy xiết. Anh nhắm mắt lại.

    "Billy!"

    Anh nhìn lại, cảm giác sôi sục cả người. Chính là Rebecca, người đã chồm qua tay vịn gọi vang tên anh, hình bóng và giọng nói của cô khiến anh tỉnh lại, làm cơn mệt nhọc thể xác phần nào vơi bớt.

    "Rebecca," anh ráng lên tiếng, không biết cô có nghe thấy chăng. Anh đã cố nghĩ xem nên nói gì đó với cô, hay làm một động tác gì đó, nhưng rốt cuộc lại chỉ thốt lên tên cô; bản thân tình hình đã đủ nói lên tất cả, và anh thì đang trong tình trạng quá tệ. Nếu muốn giúp anh, cô sẽ phải mang theo cái gì đó mới được.

    "Billy, coi chừng," Rebecca đang ra điệu bộ bằng một tay, tay kia vẫn cầm súng.

    Tiếng gọi hoảng hốt của cô làm anh sực tỉnh. Anh ghì chặt lấy cây trụ chống, cố gắng nhích lên trên để nhìn cái thứ cô vừa chỉ - và thấy một thứ gì đó di chuyển rất nhanh, nó rất dài và đang luồn đi trong làn nước y như một con rắn khổng lồ, nhắm thẳng tới anh.

    Anh cố gắng di chuyển vòng qua cây trụ, nhưng nước chảy xiết quá, anh không tài nào làm được. Anh sắp rơi xuống trong phút chốc nữa.

    Rebecca nổ súng, một, hai phát – và sinh vật dị thường đó đâm sầm vào trụ chống, đủ mạnh để anh tuột tay.

    Billy hét lên, tay quạt như điên để nổi lên mặt nước, để kháng cự lại sức hút vào trong đường ống, nhưng vô ích. Sau vài giây, anh bị cuốn vào trong bóng tối, bị nhồi đẩy không ngừng, tiếng nước réo vang bên tai khi nó cuốn anh đi xa.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  6. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 14

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong lúc Rebecca đang trong trận chiến ngắn ngủi với nguyên mẫu Tyrant, William Birkin lẻn ra khỏi khu nghiên cứu, đầu cúi gầm, đuôi áo khoác vung vẩy giữa hai cẳng chân. Hắn mất dấu lão vài giờ trước, nên cho rằng lão đã theo chân Wesker đi lên mặt đất để trốn mất - giống như những thành viên trong nhóm người ít ỏi của Rebecca trước đó – nào ngờ lão vẫn còn đây, đang đi được nửa đường hầm bí mật, khuôn mặt xanh xao méo mó lộ vẻ sợ sệt, dĩ nhiên là vì những âm thanh kinh khủng của trận chiến. Lão đâu có biết rằng mình còn sống chỉ vì cái mạng của lão không chút quan trọng.

    Mặc dù rất muốn mặt đối mặt với lão, nhưng hắn vẫn để tay khoa học gia đó bỏ đi, thầm nhủ để dành lúc khác. Hắn đang rất quan tâm đến cuộc chiến, rất mong chờ cái cảnh Rebecca bị xé xác. Có điều, cô ta một lần nữa trốn thoát số mệnh, một loạt những thủ thuật khéo léo cộng thêm chút may mắn khó tin đã giúp con bé làm nên kỳ tích. Hắn chứng kiến cô ta chạy thoát khỏi con Tyrant, sau đó gặp mặt Billy, không hiểu sao vẫn còn sống, đang bám dai như đỉa vào một gờ đá giữa dòng nước chảy xiết chung quanh. Rồi cú tấn công của một sinh vật dưới nước, hất gã trôi vào một trong những ống lọc của nhà máy, Rebecca thét gọi gã phía sau, hiển nhiên đang muốn phát điên vì mất mát và tuyệt vọng.

    Hắn mỉm cười, một nụ cười lạnh lẽo cay nghiệt, cảm thấy bình thản hơn bao giờ hết khi quan sát Rebecca men theo lối đi nhỏ, tìm được một thang máy khác trong phòng vận hành, tìm đường đi vào sâu trong nhà máy – nơi hắn và quần thể đang chờ, đang co quắp trong lớp kén tạo nên bởi chất bài tiết. Nếu may mắn, con bé sẽ sớm tìm được Billy còn sống. Thật sự là vậy. Giờ thì hắn đã hiểu, rằng hắn đã quá nôn nóng để đốt giai đoạn, để đẩy nhanh số mệnh của bọn chúng. Cuộc chạm trán là không thể tránh khỏi.. Chẳng phải hắn đã muốn khán giả tụ tập lại, muốn có người thưởng thức thành quả phi thường của mình đó sao? Hơn nữa, bình minh sắp đến, thời điểm nguy hiểm cho lũ con, bởi cơ thể của chúng dễ dàng bốc cháy dưới những tia nắng yếu ớt nhất; cho nên tốt nhất cứ để hai đứa nó đến với hắn. Bọn nó sẽ chiêm ngưỡng vinh quang của hắn trước khi bị chính hắn tiêu diệt.

    Hắn quan sát và chờ đợi, thấy vô cùng hưng phấn khi giai đoạn cuối cùng dẫn đến chiến thắng đang bắt đầu.

    OOo

    Rebecca không biết mình đang ở đâu nữa, những tầng hầm và phòng ốc trong tòa nhà mới này rối rắm quá sức, nhưng cô vẫn không ngừng tiến tới, không ngừng đi xuống. Lối đi hoàn toàn trống trải, nhưng hai căn phòng cô vừa soát qua chỉ toàn zombie, vẫn là loại phòng nhỏ không rõ mục đích, với những nhân viên thối rữa lê lết. Rebecca chỉ phải bắn hai trong bảy con nhìn thấy, số còn lại quá yếu ớt và chậm chạp để có thể đe dọa được cô. Cô ước gì mình có đủ đạn để bắn gục tất cả, để giúp chúng chấm dứt kiểu sống vật vờ, nhưng cô phải nhanh chân tìm cho ra Billy. Anh ta tuy bị thương nhưng hãy còn sống, và đang lạc đâu đó trong cái mê cung rối rắm.

    Khu vực này là một nhà máy xử lý nước, cô biết vậy dựa vào cái mùi đang lan tỏa khắp không khí, chưa kể đến những dấu hiệu và bảng điều khiển nằm lăn lóc trong những phòng khác nhau, nhưng Rebecca nghĩ nó chẳng qua là để che đậy những hoạt động bất hợp pháp của Umbrella thôi; mắc gì một nơi như vầy lại kết nối với khu nghiên cứu, dù chỉ là gián tiếp? Cô rảo bước qua khoảnh sân nhỏ dưới tầng hầm thứ bảy – theo cô nhớ là vậy - một nơi đang xây dựng dở dang trước khi virus phát tán, và cô ngờ rằng mấy cái boong ke hình tảng đá - chứa toàn những máy dỡ hàng - có ít nhiều tác động đến việc xử lý nước.

    Ừ, nhưng làm thế quái nào mà mình biết cơ chứ, cô nghĩ vẩn vơ, đồng thời đi nhanh hơn, qua một cánh cửa, một căn phòng với đầy những thùng nằm trong một hố trũng dọc tường. Trước tối hôm nay, cô chẳng hề tin có zombie, hay những âm mưu chế tạo vũ khí sinh học.. Thật lòng mà nói, cô không tin vào sự tồn tại của những tai họa có chủ đích. Rồi những gì cô đã chứng kiến, đã trải qua kể từ lúc đặt chân lên đoàn tàu vài tiếng trước.. Bây giờ tất cả đã khác. Rebecca không biết liệu mình còn có thể nhìn đời bằng con mắt ngây thơ nữa chăng, liệu có thể nhìn một người mà không tự hỏi điều gì ẩn giấu đằng sau bộ mặt người đó. Chẳng biết nên vui hay buồn khi đánh mất sự vô tư; nhưng nếu cô còn trụ lại S. T. A. R. S, điều đó sẽ giúp cô không ít.

    Cuối căn phòng chứa nhiều thùng là một cầu thang kim loại. Rebecca đứng trên cao nhìn xuống, điều hòa nhịp thở, mặt nhăn nhó chán nản, không biết làm sao để vượt qua. Có đến hàng tá con đỉa rải rác trên các bậc thang, những chất lỏng sền sệt do chúng tiết ra vạch thành từng dải sáng lấp lánh dọc các nấc thang. Cô không muốn tới gần chúng chút nào, ngại rằng có thể bị tấn công nếu đến quá gần, hoặc lỡ động vào chúng – nhưng cũng không thể bỏ cuộc được. Có cảm giác như thời gian đang tăng tốc, dường như mọi thứ đang xảy ra càng lúc càng nhanh, và cô phải giữ vững tinh thần nếu không muốn đối mặt với thất bại.

    Hoặc đối mặt với những thứ này lần nữa. Thứ tạo thành cỗ máy giết người. Tiếng rít giận dữ của nó vẫn còn âm vang trong đầu cô. Cô đã làm nó bị thương, nhưng còn lâu mới có chuyện nó chết vất vưởng trong xó xỉnh nào đó. Một thứ như thế chẳng bao giờ dễ dàng bị giết cả.

    Rebecca nghiến răng, cẩn thận đặt chân qua mấy con đỉa, rón rén từng bước một, rợn cả tóc gáy khi một con trườn qua mũi giày rồi bò đi luôn. Dù sao thì chuyến đi cũng tương đối ngắn; cô đã xuống hết bậc thang mà không lần nào đạp phải cái thứ kinh tởm đó, đã đến được cánh cửa ở tầng dưới mà không gặp trở ngại nào.

    Khi Rebecca mở cửa, một làn hơi nước lành lạnh tỏa ra quẩn quyện khắp người cô, tiếng nước réo vang trong hệ thống đường ống như một bài nhạc. Đây là một phòng khá lớn, với những ống dẫn đồ sộ nhô ra một bên, nước từ đó tuôn trào xuống một loạt những tấm lưới lọc –

    - Và ở đó, giữa những vật linh tinh đang nổi lềnh bềnh -

    "Billy!"

    Rebecca chạy đến bên thân hình nằm sấp của Billy, nước cuộn lên bên dưới khi cô cúi xuống, chạm tay vào dưới cổ anh. Cô đẩy tấm thẻ bài sang một bên, phát run cả người.. Nhưng không sao, mạch chỗ cô chạm vào hãy còn đập mạnh, và anh mở mắt, nhìn cô mệt mỏi.

    "Rebecca?" Anh ho lên, định ngồi dậy, và cô nhẹ nhàng đặt một tay lên ngực, đẩy anh ngồi xuống. Có một cục u bầm tím ở thái dương bên trái của anh, to ra phết.

    "Nghỉ một chút đi," cô lên tiếng, cố ra vẻ cứng rắn trong lời nói. Cô đã mong anh sẽ ổn, nhưng thật khó mà.. "Để tôi kiểm tra người anh."

    Một nụ cười uể oải thoáng qua trên môi Billy. "Ừ, nhưng mà sau đó tới lượt tôi đó nhé," anh thì thào rồi lại ho tiếp.

    Anh chàng trả lời không chút ngượng mồm, trong lúc Rebecca hết ấn rồi lại chọc, kiểm tra tầm nhìn, lau rửa mấy vết xước khá sâu. Cục u trên đầu có vẻ là chấn thương tệ nhất, nó khiến anh thấy hoa mắt và buồn nôn, nhưng không quá tệ như cô lo lắng – và sau vài phút chăm sóc, anh đã tự mình ngồi lên, vừa nhìn cô vừa cười.

    "Được rồi, được rồi," anh nói, nhăn mặt khi cô rờ vào thái dương. "Tôi còn sống, nhưng nếu cô mà chọt nữa thì chắc tôi chết mất."

    "Ổn cả," cô nói, trở mình ngồi lên, thấy hài lòng đến kinh ngạc; cô đã quyết ý tìm anh, và đã làm được. Rebecca không biết rằng cảm giác thành công lại có tác dụng tuyệt diệu như thế, đến độ có thể dễ dàng khỏa lấp những mặt tiêu cực mà họ đang phải đối mặt lúc này. "Tôi thật mừng là anh vẫn sống, Billy à."

    Anh gật đầu, lại nhăn mặt khi cử động. "Cả hai chúng ta."

    Cô giúp anh đứng dậy, giữ thăng bằng. Khi thấy đã đứng tương đối vững, anh rảo bước về phía trước – và Rebecca thấy một cái nhìn kinh tởm hiện lên mặt anh, miệng anh bặm lại khi đi ngang cô về phía góc phòng, nơi có luồng nước đen đang tuôn chảy trên một tấm lưới khác.

    Góc phòng chất đầy xương. Xương người, đã bị mòn vẹt đi bởi dòng nước xiết, bị bao bọc bởi một khối sền sệt màu lục của vi khuẩn. Rebecca đếm thấy có ít nhất bảy cái đầu lâu, nằm giữa một đống lộn xộn những mẩu xương đùi và xương sườn, phần lớn đã nát vụn.

    "Kết quả một trong những thí nghiệm của Marcus?" Giọng Billy chùn xuống; nó không hoàn toàn là câu hỏi, nên Rebecca không trả lời mà chỉ gật đầu.

    "Là Umbrella," sau một lúc, cô thêm vào. "Chính họ cổ xúy việc này. Tất cả bọn họ."

    Lần này Billy không đáp lời, chỉ nhìn vào mấy khúc xương, những cảm xúc mơ hồ lộ ra trong ánh mắt u ám. Một thoáng sau, anh gạt phắt nó đi, quay lưng lại những tàn tích buồn thảm của sinh mệnh con người.

    "Chắc chúng ta nên phá hủy quách chỗ này cho rảnh nợ?" anh hỏi, và mặc dù giọng rất nhẹ nhàng, nhưng không ai có ý cười.

    "Đồng ý," Rebecca đáp và nắm lấy tay anh một lúc, chỉ một lúc thôi, những ngón tay của cô siết chặt lấy của anh. Anh cũng siết chặt lại. "Nghe hay đấy."

    Billy cảm thấy rất tệ, nhưng vẫn cố chịu đựng trong lúc Rebecca dẫn lối đi về phía đông, cầu mong rằng mình có thể thoát khỏi cái căn cứ chết tiệt của Marcus trước khi gục ngã. Lúc họ đi loanh quanh cái mê cung toàn hành lang và phòng ốc – Billy hoàn toàn lạc lối sau ngã rẽ thứ hai – cô kể lại những gì đã xảy ra sau khi anh rơi khỏi tay vịn chỗ xe cáp treo. Cô đã chạm trán với đội trưởng, và suýt nữa đi đời khi chiến đấu với một con quái vật Frankenstein. Cô cũng tìm thấy khẩu súng lục ổ quay cỡ. 50, đúng thứ dành cho loại đạn mà anh đang giữ, hỏa lực tương đối mạnh, và đã phải cố gắng vác theo cây súng săn. Nói tóm lại, anh nghĩ nếu rơi vào tình huống tương tự, chưa chắc mình đã làm tốt được như cô.

    Họ tìm được một boong-ke trống và tận dụng nó để nghỉ chân, Billy lấy khẩu Magnum, còn Rebecca giữ khẩu súng săn. Có một bình đựng đầy nước dưới gường nằm và hai người lần lượt nốc sạch hết, cả hai đang khát khô cổ. Xem ra bơi trong nước cống không có tác dụng mấy cho cơn khát.

    Được nạp lại năng lượng lại nhờ nước, với vũ khí tươm tất đầy đạn trong tay, Billy có cảm giác như vừa được cứu sống sau một đợt vật lộn dưới thác nước. Hai người ra ngoài qua lối đi ở góc phía nam, qua một phòng xử lý công nghiệp, rồi một phòng nữa. Billy hoàn toàn không có chút ấn tượng gì với hệ thống phòng ốc trong nhà máy, chúng cứ na ná nhau - đều có mặt sàn và tường kim loại rỉ sét, ống dẫn rào xung quanh, tấm vách đồ sộ đầy những thiết bị không tên có bàn phím số và công tắc. Vài thiết bị vẫn còn hoạt động, phát ra tiếng cơ khí rin rít dội khắp phòng, có trời biết chúng dùng làm gì. Billy chẳng mấy bận tâm, nhưng cũng nhận thấy rằng họ càng đi tới thì tiếng nước chảy càng gần hơn, nước lớn - rồi khi đi qua một phòng bơm nước đồ sộ, tiến vào bầu không khí lành lạnh của thời điểm gần sáng, cả hai thấy một lối đi bắc ngang đập nước.

    Họ đứng đó một lát, nhìn ra khoảng không tối mù mờ của hồ chứa, nó chạy dọc theo suốt chiều dài của tòa nhà mà họ vừa đi ra, làn nước trút xuống đâu đó phía xa. Quá ồn để trò chuyện, nên hai người quay trở lại phòng bơm nước, cùng cười mãn nguyện. Rốt cuộc họ đã tìm được lối ra; mặc dù rằng lối đi trên đập dẫn vào một tòa nhà khác, nhưng chỉ cần thấy được những ánh sao mờ ảo, thấy mặt trăng đang lặn, là đã đủ để Billy lấy lại hưng phấn. Cơn ác mộng trong căn cứ của Umbrella sẽ sớm chấm dứt, anh cảm thấy như thế, phần kết đang đến gần trước mắt chẳng khác gì bình minh một ngày mới sắp bắt đầu.

    "Nhóm của tôi hẳn đã đi lối này, nên chắc là nó an toàn cho chúng ta," Rebecca nói, mắt nhìn tới trước đầy hy vọng. Cô phải nói to lên mới át được tiếng thác đổ bên ngoài, và tiếng ùng ục của hệ thống ống bơm chiếm cả nửa gian phòng. Giọng cô lan nhẹ đi trên lối đi bằng kim loại, đang bao quanh hồ nước giữa phòng. "Anh ấy nói cả nhóm đi về hướng đông. Hẳn là chúng ta đang thoát ra ngoài rồi."

    "Tôi tưởng cô nói Enrico đi lên bằng thang máy mà?" Billy nói.

    "Ồ, phải rồi," Rebecca đáp, có vẻ chùn xuống. Cô chớp mắt, và anh nhận thấy cô đang mệt mỏi thật sự. "Xin lỗi. Tôi quên mất."

    "Tổi hiểu mà," Billy nói. "Nhưng mà cô nói đúng, chúng ta đang thoát ra ngoài." Anh rờ tay lên khẩu Magnum ở thắt lưng, cái còng tay lủng lẳng cạ vào đó, như một lời nhắc nhở đột ngột về cuộc sống của anh trước vụ tai nạn xe jeep. Một cuộc sống quá khác biệt so với lúc này, như thể nó thuộc về ai đó khác.. Có điều nó vẫn đang chờ đón anh, đâu đó ngoài kia.

    Để nghĩ sau vậy, nếu có. Anh ráng cười trong lúc vỗ lên khẩu súng. "Cái này là một thứ chìa khóa vạn năng - cô muốn mở khóa hay muốn dọn dẹp chướng ngại nào cũng được tất."

    Rebecca cười đáp lại, tính nói gì đó – và ngưng bặt, nhìn vào mắt anh chăm chăm, cả hai cùng chết trân khi nghe tiếng nước ập lên lối đi bằng kim loại. Cả hai cùng quay một lượt để nhìn - thấy một vật khổng lồ đang trồi lên từ cái hồ cách đó vài mét, cùng loại với con quái vật mà Rebecca đã báo động cho Billy, lúc ở chỗ thang máy. Nó to sù sụ, trắng toát, toàn thân đầy máu và vết lở loét; đang leo lên khỏi cái hồ với những móng vuốt dài sắc bén như dao, đầu móng cào lên lối đi kêu rin rít.

    Billy chộp khẩu Magnum, lùi ra xa, cố gắng đẩy Rebecca ra sau lưng. Rebecca dễ dàng tránh khỏi tầm tay của anh trước khi thủ thế với khẩu súng săn, và ý định làm người hùng của Billy biến mất tăm khi nó nhìn hai người, rống lên một tiếng khủng khiếp, âm thanh chất chứa nỗi căm thù và thèm khát sâu tận xương tủy, không chỉ muốn giết mà còn muốn xé xác con mồi. Một mình đối mặt nó không phải là anh hùng gì, mà chỉ là hành động tự sát ngu ngốc.

    "Một khi di chuyển, nó không thể xoay sở đủ nhanh," Rebecca nói nhanh trong hơi thở gấp. Anh phải căng tai lên mới nghe được giữa tiếng động cơ bơm nước ầm ầm. "Nếu chúng ta có thể dụ nó ra xa cửa, để nó chạy lố, thì sẽ qua được trước khi nó chuyển hướng."

    Billy ngắm cẩn thận vào cái mặt thô kệch của con vật. Nó sấn tới một bước, và cả hai tiếp tục lùi ra. "Sao không cùng hạ nó?"

    "Đừng," Rebecca nói với giọng sợ hãi. "Anh chỉ làm nó nổi điên thôi. Bảo đảm với anh là sau hai phát súng săn, thế nào cũng có một bị trượt."

    Con vật tiếp tục dấn tới và khẽ rùn mình xuống, mấy cái chân căng ra chuẩn bị nhảy.

    "Chạy!"

    Billy không đợi nhắc tới lần thứ hai. Hai người quay lưng và chạy vòng sang trái theo lối đi. Sau lưng họ, hai, ba tiếng bước chân nện thình thình trên sàn kim loại – và rồi móng vuốt của nó hạ xuống, quạt trúng tấm vách nơi góc, âm thanh ken két vang lên khi móng thép thu lại như thể cào lên mặt gỗ.

    Billy quay người, giương khẩu Magnum khi con quái vật từ từ xoay mặt về phía họ.

    "Chạy tiếp đi!" Anh la lên với Rebecca, súng nhắm vào cái khối màu đỏ lún sâu một nửa trong lồng ngực, đang dao động không ngừng. Con quái vật sấn tới, những con mắt xám đục nhìn Billy chằm chằm, móng vuốt giơ lên.

    Billy siết cò, khẩu súng giật mạnh trong tiếng nổ đinh tai. Một lỗ hổng nở ra trên xương ngực của nó, không trúng ngay tim nhưng cũng rất gần. Máu tuôn ra khỏi lỗ đạn, chảy xuống cái bụng trắng hếu mập bự. Con vật rống lên, nghe còn lớn hơn cả tiếng súng bắn pháo, hiển nhiên đã trúng một đòn chí mạng, có điều nó vẫn không ngã gục.

    Lạy Chúa, phát đó có thể hạ gục cả một con voi –

    "Chạy thôi!" Rebecca hét lên, kéo tay anh. Billy đẩy cô ra, tiếp tục ngắm bắn. Nếu nó bị chảy máu thì nhất định có thể chết, và ngoài súng phóng lựu ra, khẩu Magnum. 50 là thứ vũ khí tốt nhất để làm chuyện này.

    Con quái vật loạng choạng sấn tới, có vẻ đang cố lấy lại thăng bằng, tia mắt chết chóc không rời khỏi Billy. Máu vẫn tuôn ra từ vết thương, lúc này đã chảy tới bẹn của nó, ngay trên cái bắp đùi lực lưỡng. Nụ cười nham nhở của nó, nham nhở đến kinh dị - trông cứ như đang cười đùa, mặc dù tin chắc là nó không hề có ý định giỡn chơi với anh.

    Billy nghĩ chắc kế hoạch của nó là xé nát một tay rồi nện anh cho tới chết. Anh ngắm vào quả tim, siết cò –

    - Một tiếng bang dữ dội nữa, thêm nhiều máu tuôn ra, con quái vật gào rống -

    - Chúa ơi, cầu cho nó biết đau!

    - Nhưng nó không ngã. Vẫn không ngã. Không rõ anh đã bắn trúng đâu, bởi máu vấy khắp mọi chỗ, có điều trái tim nó vẫn đập.

    "Chạy đi!"

    Mặc cho Billy xô đẩy, Rebecca vẫn tiến tới, giương khẩu súng săn lên khi con quái vật rùn mình xuống, cẳng chân choãi ra. Cô ngắm xuống thấp, rất thấp, với tư thế đó thì không thể nào bắn trúng được tim.

    - Và tiếng súng nổ vang, con quái vật rốt cuộc đã gục xuống, rống như điên dại. Nó cào lên sàn, móng vuốt cạ vào kim loại làm phát ra âm thanh ken két ghê rợn.

    Billy nhận ra Rebecca đã bắn bay mất một đầu gối của nó, và ngập ngừng một chốc, đủ lâu để tự hỏi không hiểu sao mình lại không nghĩ tới chuyện đó. Nó chưa chết, nhưng trừ khi nó mọc cánh, nếu không thì đừng hòng rượt theo họ được. Rồi anh nâng khẩu Magnum lên, chĩa thẳng vào cái sọ lồi như đầu cá, trong lúc nó loay hoay cào cấu để tiến tới gần hơn, hiển nhiên muốn tiếp tục tấn công. Nó đang xoay sở để trượt dần xuống hồ, làm nước sủi lên từng đám bọt màu hồng.

    "Thật phí đạn," anh nói, nửa như muốn hỏi, mắt nhìn Rebecca để chờ ý kiến. Cho dù con quái vật thật sự kinh khủng, anh vẫn không mong nó phải chịu đựng thêm nữa, không mong nó chết vì mất máu. Chỉ là một nạn nhân khác của Umbrella mà thôi; nó đâu có muốn sinh ra với hình dạng này.

    "Ừ," cô nói và gật đầu, vẻ thương hại lộ ra trên nét mặt, hiển nhiên cũng cảm thấy y như anh. "Kết thúc thôi."

    Hai phát đạn, viên thứ hai chỉ để bảo đảm, và cái cơ thể đồ sộ lặng lẽ tuột xuống hồ, biến mất dưới mặt nước.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  7. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 15

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai người rảo bước trên đập nước dưới ánh mặt trời sắp mọc, màu xanh thẫm của những giờ đầu tiên đang nhường chỗ cho một màu xám nhạt phủ khắp bầu trời, chỉ chừa lại những ánh sao sáng nhất.

    Rebecca đi cạnh Billy, nhận thấy mây đã tản hết. Lại là một ngày hè nóng nực nữa, mặc dù vào lúc này, cô đang cố gắng để không run rẩy; ít nhất nửa tiếng nữa mặt trời mới mọc. Cô đang hết sức mệt mỏi, mệt hơn bao giờ hết, nhưng chỉ cần nghĩ đến việc một đêm đầy hãi hùng đang chấm dứt, một ngày mới đang đến, bấy nhiêu cũng đủ để cô không ngã gục.

    Cuối đập có một cái thang, dẫn tới một cánh cửa. Cả hai leo lên, Billy đi trước và tiến vào một phòng động cơ hơi nước, có rất nhiều rào chắn kim loại rỉ sét bao quanh lối đi bằng xi măng, và hệ thống ống dẫn nặng nề bắt dọc tường. Có hai ô cửa. Cửa phía bắc dẫn tới một cái kho không có lối ra. Cửa phía tây mở sẵn, hướng ra một hành lang dài có bờ rào, phía cuối lại là một ô cửa nữa.

    "Đi tiếp chứ?" Billy hỏi, và Rebecca gật đầu. Có thể chỉ là ngõ cụt, nhưng cô muốn kéo dài thời gian càng lâu càng tốt, trước khi quay lại đường cũ. Họ đã chứng kiến quá đủ cảnh chết chóc và hủy diệt rồi, cô không muốn quay lại thêm một giây nào nữa.

    Cô dừng bước trong lúc Billy đặt chân xuống lối đi, chú ý thấy cái gờ màu bạc cạnh cánh cửa nặng nề. Cửa được gia cố bằng thép với một ô đọc thẻ sát bên. Có ai đó đã chêm một que củi dưới cửa để giữ nó mở.

    Củi ướt, cô nghĩ thầm, lấy tay rờ vào khúc gỗ sáng lấp lánh. Khi cô rút tay lên, một dãi chất nhờn mảnh khảnh bám theo ngón tay, kéo dài ra khỏi que cũi.

    Trong phút chốc, cô nghĩ bâng quơ đến một việc, biết đâu chính những con đỉa đã để cửa mở - và gạt ý nghĩ đó đi, tự nhắc mình rằng chúng có mặt ở khắp nơi trong khu nghiên cứu. Cô chùi tay vào áo, theo chân Billy, lúc này đã đi đến cuối hành lang, khẩu Magnum lên đạn sẵn sàng.

    Cửa không khóa nên Billy chỉ việc đẩy nó ra. Lại một lối đi của kim loại và xi măng, hướng xuống một hành lang ngắn khác. Billy bước vào, thở dài trong tiếng phụ họa của Rebecca. Chừng nào mới hết đây?

    Căn phòng có mùi giống như bãi biển lúc thủy triều xuống, mặc dù họ chẳng thấy được gì khác trên lối đi, phần không gian bên trong còn nằm ngoài tầm mắt của họ. Hai người đi được hai bước thì nghe tiếng click của ổ khóa, và cánh cửa chốt lại sau lưng.

    "Khóa tự động à?" Rebecca nhăn nhó hỏi.

    Billy trở lại bên cửa, lắc tay nắm. "Nó được đóng từ trước. Có điều sao lại khóa lúc chúng ta vừa đi qua –"

    Rebecca chợt nghe thấy gì đó, một âm thanh thấp đủ để tim cô đập mạnh. Nó nhanh chóng gia tăng thành tiếng cười khùng khục kéo dài, phát ra từ không gian phía sau lối đi.

    Không nói một lời, Rebecca và Billy cùng tránh xa cánh cửa, nắm chặt vũ khí, đi vòng qua góc –

    - Và chết lặng đi trước một biển cả sinh vật sống bao quanh, dường như che phủ đến từng góc vuông trên tường, đang nhễu nước và bò lúc nhúc từ sàn đến tận trần. Bầy đỉa, có đến hàng ngàn, hàng trăm ngàn con. Căn phòng rất dài, rộng và cao, được ngăn ra bởi một hàng lang nhỏ chạy suốt đến tường sau. Giữa phòng là một khối kiến trúc vươn dài đến tận trần, với những lò đốt nằm dọc theo bên, cửa lò bằng kim loại đang cháy bập bùng ánh lửa. Có một cánh cửa lớn nơi bức vách phía nam, nằm sau một khuôn cửa lõm vào tường, có thể nói là đường duy nhất đi ra – trong trường hợp họ vượt qua hết ngần ấy con đỉa, điều mà Rebecca hầu như không muốn làm. Không gian phòng chia thành ba tầng, gồm lối đi hẹp vòng qua kiến trúc trung tâm, biển sinh vật đen kịt nhung nhúc khắp phòng đang được soi sáng nhờ ánh lửa phát ra ở một đầu của lối đi nhỏ trên cao – và ở đó, có một hình bóng đơn độc, một thanh niên cao lớn vai rộng đang cười, chất giọng mạnh mẽ lạ lẫm vang khắp khoảng không đậm mùi muối và mùi thối.

    "Xin chào," hắn nói, và lại cười nham hiểm, một con đỉa uốn mình lên hai bên vai, những con khác bò dọc cánh tay dài ngoằng của hắn. Khắp mình hắn được bao phủ bởi lũ sinh vật. "Thật mừng được hai người nhập bọn. Các người là những vị khách danh dự.. Cuối cùng cũng đến lúc các người tỉnh mộng."

    Rebecca chỉ biết nhìn chằm chằm, choáng váng đến im bặt, nhưng Billy đã tiến lên trước, cao giọng.

    "Ngươi là con của lão, phải không? Hay là cháu?" Rebecca lập tức hiểu ra anh nói tới ai, và gật đầu phụ họa. Dĩ nhiên rồi..

    "Chính xác," gã thanh niên đáp, nở một nụ cười nham nhở thâm độc. "Nói đúng ra là cả hai."

    Hắn làm một cử chỉ nhún vai với hai cánh tay – và biến đổi, chuyển dịch cơ thể như nước, như một hiệu ứng điện ảnh. Mái tóc đen dài thu ngắn lại, chuyển sang màu trắng. Hình dáng trẻ trung vụt trở thành một người đứng tuổi, những nếp nhăn định hình, màu mắt thay đổi, đồng tử mắt nở rộng. Vài giây sau, hắn không còn là một thanh niên nữa, mặc dù nụ cười vẫn lạnh lùng một cách tàn bạo.

    Đến lượt Billy nín lặng, còn Rebecca buộc miệng thốt ra cái tên, không dám tin rằng đó chỉ là một trò gian lận, một khuôn mặt giả khác. "Tiến sĩ Marcus?"

    Người đàn ông trên lối đi gật đầu, cất tiếng sang sảng.

    "Mười năm trước, Spencer đã ám sát ta," hắn nói, những ký ức lướt qua trong trí óc bầy đàn, những đứa con đang nhớ lại giùm hắn. Hình ảnh nhòe và tối sầm, hình dáng cũng như màu sắc đều mơ hồ, nhưng cảm giác thì rõ rệt y như cái ngày hắn lìa đời.

    Hắn đã biết sẽ bị tấn công vào một lúc nào đó, nhưng vẫn không khỏi sửng sốt khi chuyện xảy ra. Hắn đang làm việc trong phòng thí nghiệm, lũ con đang nô đùa trong cái vũng dưới chân, thì cửa mở bung ra – rồi tiếng súng nổ, đinh tai và sắc gọn. Hắn nhớ như in cơn đau đớn lúc khuỵu xuống, bụm lấy những lỗ thủng trên ngực, trên bụng – và nhớ đã trông thấy hai gương mặt thân thuộc bước vào phòng, những học trò xuất sắc của hắn, những sinh viên giỏi nhất của hắn chứng kiến hắn trút hơi thở cuối cùng. Albert Wesker và William Birkin, cả hai mỉm cười, đang cười!

    Hắn nhớ đến cảm giác mất mát, đến cơn thịnh nộ vô phương kềm chế dâng trào trong đầu khi ngã xuống, đập mặt xuống vũng, bầy con chạy tán loạn và mọi thứ tối sầm lại..

    * * * và ký ức biến đổi, trở thành ý thức của bầy đàn. Hắn có thể thấy khuôn mặt của chính mình, đang chìm một nửa, trông tái nhợt và méo mó khi chết, nhưng thật đáng yêu, vô cùng đáng yêu trong ý thức của quần thể. Hắn là Chúa trời của chúng, là thầy và là đấng sáng thế của chúng, là cha chúng. Chúng bơi về phía hắn, trườn vào giữa cặp môi đang mở, ngọ nguậy và cố gắng chui vào những lỗ thủng toác ra trên da thịt hắn.

    Marcus lấy lại giọng, tường thuật cho hai khán giả đang sửng sốt biết những gì cần biết, cần hiểu. "Bọn nó mặc cho ta thối rữa, lấy đi những ghi chép rồi đóng cửa phòng thí nghiệm của ta, chôn vùi tất cả theo thời gian. Chúng nó đâu có hiểu, bọn bây thấy đó. Thời gian mới là thứ cần thiết. Mất hàng năm để T-Virus trong nữ chúa của ta tái cấu trúc, tiến hóa.. và trở thành hình thể của ta hiện giờ."

    Hắn mỉm cười, thưởng thức nỗi kinh hãi chết điếng của bọn chúng, thưởng thức khoảnh khắc mà chúng sáng mắt ra. "Cho nên, các người đúng. Ta là Marcus, mà cũng là con của Marcus, là cháu – và mọi phả hệ khác, mọi cặp đôi khác, là sự kết hợp giữa Marus với nữ chúa của ông ta. Nữ chúa của ta. Cô ta sống ngay trong ta, hát ru những đứa con."

    Như để cường điệu thêm niềm hân hoan chiến thắng của hắn, những đứa con cuộn lên như sóng trào, tràn ngập quanh chân hắn, cọ cọ ngang qua hình hài thân thuộc nhất của hắn, hình hài của James Marcus. Hắn say sưa hưởng thụ cảm giác đó, và cười ha hả trước sự kinh hãi lướt qua bộ mặt của hai vị khách trẻ tuổi. Phải chi chúng biết! Nỗi sung sướng phi thường khi là một phần bầy đàn, là kẻ đứng đầu và cũng là kẻ nối dõi – Cái chết của Marcus đã giải phóng hắn, giúp sự sống của hắn đạt đến một tầm vóc vĩ đại chưa từng thấy.

    "Tã đã gieo rắc virus," hắn nói. "Thế giới rồi sẽ biết, nhanh thôi, những gì Umbrella đã làm. Những gì mà Spencer và thói tham lam ngu ngốc của hắn đã dựng nên. Umbrella sẽ bị hủy diệt, còn Marcus sẽ được tung hô như một đấng sáng thế bởi những gì ông ta đã tạo ra. Ta là nguyên mẫu của một giống người mới, một giống loài thượng đẳng so với kiểu mẫu đơn điệu của nhân loại; cả thế giới sẽ tìm đến ta, sẽ gia nhập vào tổ, để hợp thành một bộ não duy nhất, một thực thể toàn năng!"

    Thằng nhãi, Billy, đã nói trở lại, cái mặt bặm lại kinh tởm, gằn giọng. "Đừng có mơ. Dù thế nào thì mày cũng chỉ là một con quái vật bệnh hoạn dặt dẹo – cả thế giới này đương nhiên sẽ tìm đến mày, nhưng là để tiêu diệt mày, để đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng điên loạn đó!"

    Đồ đần độn, kiêu ngạo một cách ngu xuẩn! Cơn thịnh nộ dâng trào trong hắn, trong những dứa con, che mờ niềm vui sướng. Hắn cảm thấy toàn thân run rẩy. "Để coi ai sẽ chết," hắn nói, giọng run lên tức giận –

    - Nhưng đó không còn là giọng Marcus nữa, hắn đã biến trở lại thành gã thanh niên, đôi mắt mà những đứa con bắt chước Marcus cũng về nguyên trạng. Hắn cau mày, không hiểu tại sao mình lại biến đổi, và bằng cách nào - hắn đâu có định làm vậy, đâu có ca hát hay ước muốn dịch chuyển hình dạng.

    Đàn con trườn qua hắn, khuếch đại cơn giận lên, bất chấp những mệnh lệnh trong đầu hắn, và lần đầu tiên kể từ lúc rời khỏi hồ vài tháng trước, từ lúc bầy đàn ban cho hắn sự sống mới, hắn không điều khiển được chúng. Bầy đàn không còn nghe lời, mà chỉ muốn trừng trị bọn xâm nhập, muốn bóp chết chúng.

    Hắn cảm thấy chúng dâng lên cổ họng, trào ra như mật, thít chặt lấy cổ hắn. Hắn cố chống chọi để lấy lại quyền điều khiển, nhưng cơn thịnh nộ quá lớn, quá dữ dội. Hắn đang biến đổi thành một thứ hoàn toàn mới, và nỗ lực chi phối của hắn bị dẹp tan, bị khuất phục bởi dạng thức mới đó.

    Nữ chúa! Hắn cảm thấy ý thức của cô ta đang bao trùm lấy hắn, sức mạnh sáng tạo của cô ta dâng trào như nước vỡ bờ, được những đứa con chuyển tiếp đến từng phần cơ thể vững chãi của hắn. Cô ta muốn giết, muốn tiêu diệt hai kẻ đã cả gan phán xét, và cô ta quá mạnh mẽ so với tưởng tượng của hắn.

    Thứ đã từng là Marcus không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng, chấp nhận trở thành một thực thể mạnh mẽ chưa từng thấy. Trở thành nữ chúa.

    Marcus bắt đầu biến đổi lần nữa, theo cái cách khiến chính hắn cũng phải ngạc nhiên chẳng khác gì Billy.

    Những con đỉa trào lên, lấp đầy miệng hắn, hàng tá con trượt ra thành một chất lỏng nhơn nhớt, nhễu xuống sàn như mưa rơi. Đôi mắt hắn mở rộng, vẻ mặt đầy hoài nghi trong lúc tiếp tục ngắc ngứ bởi hàng đàn đỉa rơi xuống.

    Ngay khi chạm đất, những sinh vật quay trở lại với hắn, bò lúc nhúc khắp người, rồi gắn kết và chui sâu vào trong hắn. Những khối hình tròn di động dưới lớp da, vạch ngang xẻ dọc, làm biến dạng hình dáng kết cấu da thịt. Áo quần của hắn chảy tan ra khi lũ đỉa bu quanh, tạo cảm giác như cơ thể làm bằng cao su, tay chân bắt đầu nhìn giống như những con sâu mập mạp xoắn vào với nhau. Bộ mặt kéo dãn ra, lớp da rách toạc đi để lộ những sớ thịt đỏ tía đang rung động, rồi chuyển sang dày đặc và ươn ướt bởi chất nhầy.

    Rebecca đứng cạnh anh, hớp một hơi thật gắt khi sinh vật Marcus hoàn toàn mất hẳn hình dáng con người, bây giờ toàn thân hắn đã làm bằng những con sâu mập ú, dính chặt vào nhau bằng cách tiết ra những chất nhầy căng đặc. Kích thước của nó đang phình lên, những con đỉa bên cạnh gia nhập vào quần thể, làm tăng thêm khối lượng và chiều cao. Những cái tua dài có sớ đang mọc ra sau lưng nó, vung vẩy lung tung như cờ xí gặp gió lớn, chúng có màu sắc như đang bị cháy, bị lây nhiễm.

    "Con chúa," Rebecca thở ra. "Nó đang nắm quyền."

    Billy chĩa khẩu Magnum vào sinh vật đang lớn dần –

    - Và nó lao vụt lên, hướng thẳng vào khoảng không. Nó đụng trúng trần nghe một cái bộp ướt át thật lớn, rồi bám chặt ở đó một hồi, những chất lỏng dày đặc nhễu xuống cái sàn cách xa bên dưới. Ngoại trừ tứ chi, nó chẳng còn gì giống với con người nữa.

    Billy nã đạn lên trần, nhưng nó không còn ở đó nữa mà đã thả mình xuống mặt sàn phía trước họ, dần dần tụ lại khi tiếp xúc mặt đất như thể một món đồ chơi cao su. Nó – ả - lại kéo dãn ra, ngất ngưỡng trên đầu anh và Rebecca, những cái tua đen kịt vung vẩy tới, chuẩn bị tiếp cận.

    Hai người cùng nhảy lùi lại. Billy cảm thấy giày trượt đi khi anh đạp trúng mấy con đỉa hãy còn bám dưới sàn, nghe tiếng bóc vừa lớn vừa mềm của từng con một dưới gầm giày. Rebecca níu tay anh, làm anh suýt ngã khi cô cũng đạp phải một bầy đỉa.

    Cái chết của những đứa con gây ra hiệu ứng tức thời. Con đỉa chúa kéo mấy xúc tu ra đằng sau và thét lên, một tiếng khóc thét líu ríu cao vút kỳ quặc, không giống bất cứ thứ gì từng được biết, làm cho cái hình hài hoàn toàn quái gở của chúng thêm phần kinh dị. Tất cả những con đỉa trong phòng đều tiến về phía ả một lượt, tránh xa Billy và Rebecca, làm cả dưới sàn và dưới chân họ trở nên trống trải.

    Con đỉa chúa không ngừng vươn cao khi những cá thể nhỏ bé gia nhập vào, kết hợp với sinh vật trung tâm, kích thước của nó tăng gấp đôi sau không đầy một phút. Billy nhìn lướt qua vai, thấy rằng hai người sẽ bị dồn vào ngõ cụt chỗ cánh cửa nếu cứ để con quái vật tự do tung hoành.

    Mặt phía nam căn phòng có một ô cửa đóng kín, đằng trước có một lối đi xây lõm vào tường. Cả một biển đỉa đã ngăn cách họ tới chỗ đó, nhưng lúc này chúng đang di chuyển về phía nữ chúa Marcus lớn dần. Dường như ả đã quên bẵng sự hiện diện của họ, mà chỉ lo tích tụ thêm vào quần thể, đang trương phình lên với một kích thước khổng lồ, trở thành một khối chất mềm mại di động.

    "Cửa phía nam," Billy nói, hạ giọng càng thấp càng tốt trong lúc cả hai tiếp tục lui lại từ từ. Họ phải hành động thật nhanh ngay bây giờ, nếu không muốn để vuột cơ hội.

    "Nó có bị khóa không?" Rebecca thì thào đáp lại.

    "Phải liều thôi," anh nói. "Tôi sẽ yểm hộ. Đếm đến ba. Một.. hai.. ba!"

    Rebecca lao tới trước trong lúc Billy khai hỏa, nhắm thẳng vào cơ thể trương phình khổng lồ của con chúa. Ả thét lên, giọng thét chứa đầy đau đớn và căm hận, rồi vụt một loạt xúc tu về phía anh, nhanh như sấm sét.

    Chúng chộp lấy anh rồi nhấc lên không. Billy đánh rơi khẩu Magnum, và cũng không sao móc được súng lục khi bị rung lắc dữ dội, đầu bó chặt từ trước ra sau, hai tay bị kẹp cứng bởi sức mạnh điên cuồng của con quái vật. Những xúc tu của nó uốn quanh ngực anh, siết lại như gọng kềm, chặt đến nỗi anh không thở được. Chỉ sau vài giây, Billy đã gần như ngất đi, thấy chung quanh như có muôn vàn ánh sao lấp lánh giữa màn đêm đen.

    Anh nghe tiếng khẩu súng săn - rồi con quái vật gào lên lần nữa, nó buông anh ra và quay phắt lại đối mặt với kẻ vừa tấn công. Billy rơi bịch xuống sàn. Anh cắn răng nhịn đau, cố lê đến chỗ khẩu Magnum trong lúc hàng trăm con đỉa bò về phía anh, trong lúc Rebecca tiếp tục bắn và con quái vật rượt theo cô, những xúc tu cuộn lên xung quanh.

    Billy nhổm dậy, thấy Rebecca đã quay lưng chạy. Phát đạn thứ hai không phải bắn con quái vật, mà là bắn vào bảng điều khiển cạnh ô cửa phía nam. Cô bắn phát nữa, đồng thời đạp mạnh. Cửa bật tung ra, nhưng con chúa đã theo kịp, nó cao hơn cô có đến gấp đôi, còn trọng lượng thì khỏi nói, nó sẽ xé xác cô ấy ra như búp bê giấy mất –

    "Này!" Billy gào lên mà không kịp lên đạn khẩu Magnum, anh chỉ mong có thể đánh lạc hướng nó –

    - Và anh nhảy vào đám đỉa gần nhất, nhún lên nhún xuống, vừa đá vừa dậm mạnh hết cỡ. Hàng loạt con đỉa vỡ tung ra, máu và chất nhầy màu vàng bắn khắp sàn nhà, làm ướt sũng đôi giày của anh. Anh nhảy nhót trên xác chúng, cảm thấy hài lòng không thể tả khi con đỉa chúa quay ngoắt lại, gào lên thảm thiết.

    Anh thấy Rebecca lao qua ô cửa, nỗi vui mừng kéo dài được nửa giây – và rồi con quái vật chộp lấy anh lần nữa, ném bay ngang căn phòng trong cơn thịnh nộ điên cuồng.

    Billy đâm sầm vào tường. Anh cảm thấy một dẻ xương sườn đã gãy, rồi thấy mình rơi uỵch xuống nền xi măng. Cú té làm Billy muốn tắt thở, nhưng anh đã lại chồm dậy trong phút chốc, chạy bừa tới ô cửa phía nam, những con đỉa bị đạp bẹp dưới giày trong khi anh cố gắng lấy hơi.

    Khoảng cách từ chỗ con quái vật tới cửa cũng bằng với anh. Billy nhận ra mình không thể qua được, rằng nó nhất định sẽ đuổi kịp anh, và thầm khẩn cầu cho Rebecca được sống sót –

    - Rồi anh thấy cô ta, không phải đứng sau cửa mà là gần giữa phòng, khẩu súng săn hướng thẳng tới con đỉa chúa, lưng quay về phía lò đốt trung tâm. Billy đoán cô đã quay lại khi con quái vật mãi lo ném anh vô tường.

    Anh gào lên, bảo cô ta mau chạy đi, nhưng cô mặc kệ, cứ nổ súng vào con chúa trong lúc nhích dần về phía Billy. Cứ mỗi phát đạn là một mớ đỉa văng tung tóe khỏi tấm thân đồ sộ, nhưng một con mất thì có đến nửa tá con bổ sung vào. Đến phát thứ tư, con chúa quay về phía cô với dáng do dự, có vẻ không biết phải tấn công ai trước.

    "Chạy mau!" cô la lên. "Tôi theo ngay đây!"

    Billy chạy tới ô cửa, cầu trời là cô ta đã có kế hoạch. Cô tiếp tục khai hỏa vào con quái vật, lên đạn rồi bắn, lên đạn, bắn - rồi Billy không nghe thấy gì nữa ngoài một tiếng cạch khô khốc vang lên giữa phòng, âm thanh của sự thất bại không thể tránh khỏi.

    Con đỉa chúa đương nhiên cũng nghe thấy, nó xông về phía cô, cơ thể vẫn không ngừng tăng trưởng, không ngừng phình to theo những bước đi chèm nhẹp tới trước. Billy đã tới bên cửa và đứng đó, máu chảy rần rật trong người, luống cuống lục túi tìm hai viên đạn Magnum cuối cùng.

    "Chạy đi!" anh gào lên, nhưng Rebecca vẫn đứng đó, không hề di chuyển. Cô không thèm nạp đạn, cũng không hề móc súng lục khi con chúa xông đến. Thay vào đó, cô nhấc nòng súng săn lên và bước lùi lại, tựa vào vách lò đốt - rồi thọc nguyên cái khối nặng nề đó xuyên qua tấm kim loại của một ống dẫn hơi, làm văng ra nguyên một tấm nhôm. Những vật liệu cháy rớt đầy dưới sàn. Rebecca nhảy ngay vào giữa, chân đá túi bụi, làm văng những khối chất tổng hợp và rác đang cháy vào lũ đỉa gần nhất.

    Con quái vật rú lên, ngừng hẳn chuyển động, mặc dù hãy còn cách xa đốm lửa mới phát sinh. Mấy con đỉa bị đốt chạy nháo nhào về phía con chúa, giành nhau leo lên cao để được an ủi, nhưng cũng đồng thời mang theo cả nỗi đau đớn khi nhập vào bầy, kết hợp vào quần thể lưu động. Tiếng rú của con chúa gia tăng dữ dội, khi những con đỉa cháy sém bám vào nó, làm nó bị hủy hoại và đau đớn. Billy cầu khẩn cho nó không thể qua khỏi cơn đau này.

    Rebecca nhân cơ hội đó bỏ chạy tới cửa ra, trong lúc con quái vật đang tự mình cấu xé, gào thét. Billy bật ổ súng, nạp hai viên đạn cuối cùng rồi đưa trở về vị trí, ngắm thẳng vào con chúa khi Rebecca chạy ngang nó – nhưng nó không chú ý tới cô, ít nhất là vào lúc này, bởi từng phần cơ thể kinh tởm đó đang cháy đen, đang tan chảy thành một cái hồ sền sệt như đường trên mặt sàn hãy còn cháy âm ỉ.

    Billy giữ nguyên khẩu súng hướng về con chúa đang biến dạng, tới khi Rebecca chạy ngang anh và lao qua cửa. Anh nhanh chóng theo sát gót, và cô đóng sập cửa lại.

    Anh hít một hơi thật sâu, cảm thấy cơn đau lan khắp xương sườn, khắp tay lẫn chân, cả trên đầu, đau như dần khắp mọi bộ phận của cơ thể - cho đến khi quay lại và nhìn thấy cái Rebecca đang chỉ, một nụ cười ngạc nhiên thích thú hiện lên trên khuôn mặt lấm lem kích động của cô. Cơn đau của anh lập tức tan biến, trở nên chẳng là gì so với nỗi nhẹ nhõm vừa xuất hiện.

    Hai người dấn bước vào trong một sàn thang máy. Nó dùng để đi lên – và căn cứ vào độ dài của cái đường hầm khá rộng, kéo dài từ chỗ họ tới một nguồn sáng xa xa theo đường xiên, có thể nói cái này sẽ đi lên tới tận mặt đất.

    Hai người cười với nhau như trẻ con, hạnh phúc đến nỗi không thốt nên lời, nhưng chỉ được vài giây. Nụ cười của họ đông cứng lại khi con đỉa chúa đang chết gào lên, tiếng gào khủng bố phát ra từ căn phòng đằng sau, như nhắc cho họ nhớ rằng tử thần vẫn đang ở rất gần bên.

    Không nói một lời, họ lao đến thang máy, vọt tới cái bảng điều khiển chức năng. Billy nghiên cứu các công tắc một chốc, rồi vừa thầm cầu nguyện cho mọi việc suôn sẻ, vừa nạp điện.

    Sàn thang máy bắt đầu dâng lên, mang cả hai người đi xa khỏi cơn ác mộng. Chí ít là họ tin như vậy.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  8. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 16

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cơn đau đớn dữ dội đến mức không sao tả xiết, nó đang giết ả bằng một cường độ mãnh liệt chưa từng thấy. Đám con bị đốt đã bám vào ả, mong sao được giải thoát, và khi tiếp xúc với ả, với đồng loại, cơn đau của chúng lan truyền như những đợt sóng vô phương kháng cự. Cơn đau gia tăng không ngừng, đến khi các bộ phận của bầy đàn nhận thấy vấn đề và nhảy ra ngoài, giãy chết, tan chảy, hy sinh bản thân cho ả được sống. Cơn đau giảm đi từng chút, từng chút một, nỗi đau thể xác chuyển dần thành nỗi thống khổ vô hạn trước sự mất mất.

    Khi sự tổn thương đã chấm dứt, những cánh tay của ả rũ ra, những đứa con còn sống cùng tụ lại, hát líu lo, thì thầm nho nhỏ với ả, cố gắng hết sức làm dịu đi nỗi đau của ả. Chùng nhấn chìm và dỗ dành ả bằng những nụ hôn ướt át – và rồi tràn ngập lên ả bởi lượng cá thể đông đúc. Chỉ trong phúc chốc. Nữ chúa mất đi hình dáng của ả như Marcus đã mất khi nãy, và hòa nhập vào với bầy đàn, trở thành nhiều hơn. Trở thành tất cả.

    Tập họp những sinh vật mới đã thành hình và đầy sức mạnh, thành một thứ vĩ đại khác hẳn trước kia. Mạnh mẽ hơn. Nó nghe tiếng động cơ khí vang lên gần đó. Nó lục tìm trong ý thức, đọc trí óc để tìm kiếm thông tin, rồi hiểu ngay - bọn hung thủ đang cố gắng tẩu thoát.

    Bọn nó đừng hòng trốn được. Bầy đàn lập tức kết hợp lại thành hàng ngàn cái vòi uốn éo, và đuổi theo sát gót.

    OOo

    Không ai muốn nghĩ tới chuyện gặp thêm rắc rối nào nữa, nhưng vẫn phải đề phòng tình huống xấu nhất. Rebecca kiểm tra súng lục còn Billy nạp đạn cho súng săn, cả hai cùng xướng đếm những con số ảm đạm – tổng cộng chỉ còn mười lăm viên đạn cỡ 9 ly. Bốn viên súng săn. Hai viên đạn Magnum.

    "Chắc chúng ta không cần nó nữa đâu," Rebecca nói đầy hy vọng, mắt nhìn lên vòng tròn sáng đang lớn dần. Cái thang máy khá chậm nhưng rất vững; họ đã đi được nửa đuờng lên mặt đất, chắc sẽ tới nơi trong một hai phút nữa.

    Billy gật đầu, lấy bàn tay lem luốc đè lên ngực trái. "Con quỷ cái đó dám làm tôi gãy mất một cái xương sườn," anh chàng hậm hực, nhưng lại hơi cười cười, trong lúc nhìn lên quầng sáng.

    Rebecca lo lắng bước sang, đưa tay ra rờ vào ngực trái của anh – nhưng cô chưa kịp chạm vào thì có tiếng còi báo động kêu inh ỏi cả trục hầm. Mọi ô cửa họ đi ngang bây giờ đều nhấp nháy đèn đỏ, rọi những vệt màu chói lọi lên sàn thang máy.

    "Cái gì –" Billy thốt lên, nhưng bị ngắt lời bởi một giọng nữ điềm tĩnh lặp đi lặp lại.

    "Hệ thống tự hủy đã được kích hoạt. Tất cả nhân sự lập tức di tản. Nhắc lại. Hệ thống tự hủy!"

    "Ai kích hoạt?" Rebecca hỏi. Billy nín lặng, tay giơ lên, lắng nghe.

    ".. lập tức. Quy trình sẽ bắt đầu trong - mười phút."

    Ánh đèn không ngừng nhấp nháy, còi báo động réo vang, nhưng giọng nói đã ngừng bặt. Billy và Rebecca nhìn nhau lo lắng, nhưng lúc này họ còn có thể làm được gì.. và ơn trời, họ sẽ cao chạy xa bay sau mười phút nữa.

    "Có lẽ con chúa –" Rebecca bỏ lửng câu nói. Có vẻ không giống, nhưng cô chẳng nghĩ được lý do nào khác khiến hệ thống được kích hoạt.

    "Có lẽ," Billy nói, mặc dù trông cũng ngờ vực chẳng kém. "Thậy kệ nó, dù gì mình cũng sẽ thoát ra trước khi nó tự hủy."

    Cô gật đầu – và cả hai nghe thấy âm thanh va chạm bên dưới, tiếng kim loại xé toạc kêu ken két khi bãi đáp thang máy phía dưới bị hủy hoại không tin nổi.

    Hai người nhìn qua những lỗ hở dưới mặt sàn dạng lưới, trông thấy cái thứ đang đến. Chính là con chúa – mà cũng không hẳn. Thứ này lớn hơn rất, rất nhiều, và nhanh hơn bội phần, một khối thịt khổng lồ đang bám sát theo họ.

    Rebecca nhìn lên, thấy họ đã đến rất gần. Chỉ một phút nữa là thoát rồi –

    Cô nhìn xuống, hơi thở đông cứng lại khi thấy nó đã đến rất gần. Trước mắt cô xuất hiện một hình ảnh dợn sóng tràn tới, màu đen và sống động, nó xòe ra trong lúc tăng tốc, hé lộ thêm nhiều khoảng đen bên trong –

    "Ôi, chết tiệt" Billy nói –

    - Và sàn thang máy lật lên, đâm vào một vách tường, hất hai người tung lên.

    Rebecca té nghiêng một bên, đau điếng, nhưng nhanh chóng bật dậy, tay vẫn nắm chặt khẩu súng săn. Billy bị văng khỏi sàn cách đó vài mét, chân anh đang đạp trên những đường kẻ màu vàng đồng tâm –

    Bãi đáp trực thăng ngầm.

    Họ đang ở trong một phòng rộng rãi, không thấy chiếc trực thăng nào trong tầm mắt, chỉ có những thiết bị cơ khí linh tinh nằm rải rác, phần tiểu đảo bằng kim loại chẳng khác nào nhấn mạnh thêm sự vắng vẻ của nơi này. Ánh sáng mặt trời đang rọi lên cái mái di động qua những lỗ thông hơi. Rebecca thót tim một cái khi nhận ra nơi họ đang đặt chân, và thót thêm lần nữa khi định vị con chúa. Chính xác là cái thứ mà nó vừa biến thành.

    Nó đang đục một cái lỗ toang hoác qua vách tường chỗ thang máy vừa dừng, hàng loạt xúc tu chui ra giữa một đống vụn kim loại và gạch. Thật là một ảo giác kinh hoàng, khi chứng kiến nó trườn ra từ hầm trục, cái hình hài khổng lồ từ từ xuất hiện. Cuối cùng nó đã lọt hẳn ra ngoài sàn bê tông, nhìn vừa đồ sộ, vừa dài lại vừa thấp. Nó loay hoay với những cái tua xoắn làm bằng lũ đỉa.

    Rebecca chỉ biết đứng nhìn – và gần như hổng chân lên khi Billy nắm tay cô kéo đi.

    "Có một cầu thang đằng kia!" anh hướng về cái dấu hiệu LỐI THOÁT HIỂM bên kia phòng, một khoảng cách xa vời vợi –

    - Và dường như nó nghe được họ nói, hiểu được. Con quái vật chúa đã di chuyển, lê cái khối thịt vĩ đại trên sàn với tốc độ kinh ngạc, chặn ngang lối thoát của họ. Nó quay về phía hai người, những xúc tu vung vẩy quanh cái đầu dị dạng, từng vũng nước dày đặc màu đen tuôn ra bên dưới cái thân gớm ghiếc, rồi nó ngóc dậy -

    - Và ré lên, lắc lư từ sau ra trước, một tiếng rít chói tai phát ra từ cái thân hình xấu xí. Khói bốc lên từ sau lưng nó, từ -

    Ánh mặt trời. Một tia nắng mặt trời, tuy mảnh mai nhưng sáng chói, đã chiếu lên cái lưng con quái vật. Nó trượt sang một bên, tránh xa tia nắng, và lại hương về phía họ.

    Billy lại chộp lấy tay cô, đẩy ra đằng sau. Tiếng còi báo động tự hủy vẫn reo inh ỏi, vang dội khắp khắp bãi đáp – và giọng nữ đó điềm tĩnh thông báo, rằng họ còn tám phút trước khi tiến trình tự hủy bắt đầu.

    "Nó sợ ánh nắng!" cô hét lên, đồng thời cả hai cùng quay lưng bỏ chạy. Họ nhắm tới góc phía tây bắc căn phòng, nơi cách xa con quái vật nhất. Nó nhún nhảy rượt theo họ, lạng lách giữa những ánh nắng rọi xuống. Lúc này nó không nhanh như lúc còn trong hầm trục thang máy, bởi lẽ còn phải chỏi người lên, nhưng vẫn dư sức rượt họ tới cùng.

    "Có cách nào hạ mái xuống không?" Billy hỏi trong lúc nhìn xéo qua vai, lạng người về hướng bắc.

    "Không có điện," cô thở hổn hển. "Nhưng thể nào cũng phải có chốt mở thủ công, có thể chạy bằng hơi nước. Nếu phần mái nằm đổ dốc, nó sẽ trượt ra một khi chúng ta mở khóa. Hy vọng vậy."

    "Làm đi," Billy nói, nghe như muốn đứt hơi. "Tôi sẽ cố đánh lạc hướng nó."

    Rebecca gật đầu, nhìn lại con quái vật. Nó bị bỏ lại phía sau, nhưng không hề mệt mỏi, không hề thở hào hển như họ.

    Cô hướng tới chỗ có tấm bảng ở bức tường gần đó, trong lúc Billy quay lại đằng sau, bắt đầu nã đạn.

    OOo

    Bầy đàn theo sát bọn chúng, tách bỏ những phần cơ thể lại phía sau mỗi khi bị tiếp xúc ánh nắng. Ý thức của nó không hoàn toàn giống như động vật hay người, mà là kết hợp của cả hai. Nó hiểu rằng tổ của nó đang bị đe dọa, rằng một thế lực khác sẽ sớm hủy diệt hang ổ của nó. Nó biết ánh nắng gây đau đớn, thậm chí có thể làm nó chết. Và nó còn biết rằng hai con người chạy đằng trước là nguyên nhân tất cả mọi chuyện, là nguồn gốc dẫn đến sự hủy diệt.

    Một đứa đã dừng chân, nổ súng. Đạn khoét lỗ trên thịt của nó, gây thương tích, nhưng không thể xuyên tới phần nội thể. Cũng như khi bị đốt bởi ánh nắng, nó mặc kệ những tổn thương và tiếp tục tiến nhanh tới trước, đủ gần để ngửi thấy mùi sợ hãi của con người. Nó chồm lên, quật gã đó xuống.

    OOo

    Khốn kiếp!

    Billy té nhào khi con quái vật chúa nhảy xổ vào anh, một cái xúc tu quấn lấy chân và nhấc lên. Anh cố lăn ra, nhưng nó đã siết chặt lấy cổ chân phải. Billy nguyền rủa trong lúc đẩy người tới gần con quái vật, nện gót chân kia xuống cái xúc tu mạnh hết mức có thể, rồi nện nữa. Cái dây thịt đó co rút lại, và con quái vật buông tha anh trong một chốc.

    Billy chồm dậy, nhìn sang phía Rebecca ở vách tường phía tây, đang loay hoay với bảng điếu khiển. Anh rẽ sang hướng đông, vừa chạy vừa nhìn lại để bảo đảm là nó có bị dụ chạy theo.

    "Tiến trình sẽ bắt đầu trong - bảy phút."

    Tuyệt. Đúng là họa vô đơn chí. Billy chạy vắt giò lên cổ, con quái vật rượt theo bén gót.

    Lúc đã tạo được một khoảng cách tương đối an toàn, anh quay lại, thấy Rebecca đang đứng bên một bảng điều khiển khác bên kia phòng. Con quái vật chồm tới, nhung nó chưa đến đủ gần, cái vòi kéo dài của nó vẫn còn cách anh cả mét. Billy quan sát nhanh bộ mặt của nó, trước khi quay lưng chạy tiếp, hai chân loạng choạng. Con vật vẫn đuổi theo, dường như không biết mệt mỏi.

    Nhanh lên nào, Rebecca, anh thầm van vỉ, trong lúc nỗ lực chạy thật nhanh.

    OOo

    Rebecca lao đến cái chốt thứ tư, cũng là cái cuối cùng, trong lúc giọng nữ vang lên cho biết họ còn sáu phút. Cô chộp lấy cái bánh xe nhỏ điều khiển chốt thủ công, vặn mạnh –

    - Và bị kẹt. Không hoàn toàn, nhưng cô dốc hết sức cũng chỉ khiến nó xoay được một nửa. Cô gồng mình, cảm thấy cơ bắp như muốn tét ra trong lúc xoay thêm nửa vòng, sắp rồi –

    "Rebecca, chạy đi!"

    Cô ngó ngoái lại xem có chuyện gì, thấy con quái vật chúa đang tới gần, rất gần; nó sẽ bắt kịp cô trong ba mươi giây nữa – nhưng cô không thể, không thể chạy, vì biết rằng họ không đủ thời gian để đánh một vòng rồi thử lại.

    Billy đang bắn, tiếng đạn xuyên vào da thịt con quái vật nghe thật kinh khủng. Cô thậm chí còn không nhìn tới, vì biết mình sẽ mất hết dũng khí nếu trông thấy nó đến sát bên.

    "Coi nào!" cô hét lên, kéo cái bánh xe ngoan cố với tất cả sức lực –

    - Và nó không còn kẹt nữa, cùng lúc một cái vòi mập mạp ướt nhẹp quấn quanh cổ chân Rebecca, còn sống hẳn hoi với những cử động uốn éo -

    - Rồi có tiếng kim loại cọ sát rất lớn, bầu trời mở toang trên đầu, ánh nắng phủ trùm lên tất cả.

    OOo

    Nắng! Nắng!

    Bầy đàn gào thét trước cái chết đang bao trùm xung quanh, đầu tiên là lột đi lớp da, rồi làm sôi lên, hàng ngàn con đỉa lăn ra giãy chết, văng ra ngoài, sự thiêu đốt còn ác liệt hơn lửa, bởi nó cháy khắp mọi chỗ cùng lúc. Nó cố bỏ chạy, cố tìm kiếm hang ổ trong đau đớn, nhưng không tìm thấy gì cả, không có nơi nào để chạy cả.

    Hai con người đang chạy, biến mất sau cái lỗ hổng trên tường, nhưng sinh vật đó không hề nhận ra, không hề quan tâm. Nó uốn éo vặn vẹo, từng mảng thịt bong ra, từng lớp thân thể chảy xuống sàn bê tông, lộ ra phần lõi màu hồng đang co thắt dưới ánh nắng ác nghiệt, ánh nắng tẩy rửa của một ngày mới.

    Khi toà nhà nổ tung sau đó vài phút, không có nhiều thứ còn sót lại – ngoài vài con đỉa lẻ tẻ lạc lõng, đang bơi trong cái hồ chết chóc đã từng là cha của chúng, từng là James Marcus.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  9. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 17

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hai người vừa chạy vừa lết, len lỏi dưới những tán cây trong không khí lành lạnh sáng sớm, một cảm giác thật sự kỳ quặc với Billy - đang bắn những con quái vật đỉa khổng lồ trong bóng tối chuyển sang chạy trong rừng, trên đầu là tiếng chim hót véo von mừng buổi sáng, gió nhẹ thoáng qua mái tóc bẩn thỉu bù xù của họ. Hai người tiếp tục chạy trong lúc Billy lặng lẽ đếm lùi, đến khi gần sắp hết giờ.

    Anh dừng bước nhìn quanh, Rebecca cũng đứng lại, hơi thở nặng nhọc. Họ đã thoát ra khỏi rừng, đến một vị trí cao và trống trải trên ngọn đồi phía đông rừng Arklay.

    "Chỗ này tốt đây," Billy nói. Anh hít một hơi thật sâu và thở ra, nằm thẳng cẳng xuống đất, thả lỏng toàn thân. Rebecca cũng làm y hệt, và giờ đếm lùi chấm dứt sau đó vài giây.

    Vụ nổ thật khủng khiếp, nó làm rung chuyển cả mặt đất, chấn động lan khắp khu rừng và thung lũng bên dưới họ. Một lúc sau, Billy đứng dậy, quan sát cột khói trồi lên trên đỉnh những ngọn cây. Hết sức mệt mỏi, đau nhức, đói khát, chưa kể những cảm xúc lẫn lộn, nhưng không biết sao anh vẫn thấy vô cùng nhẹ nhõm, khi chứng kiến đám khói tỏa ra từ cái nơi khủng khiếp đó. Rebecca đứng bên cạnh, cũng im lặng y hệt, dáng vẻ như vừa trải qua một giấc mơ. Không cần phải nói gì thêm, vì cả hai đều đang ở đây.

    Anh lơ đễnh bóp nắn cổ tay, và nghe kêu đánh tách – cái còng tay rớt ra, lăn dưới thảm cỏ với một tiếng kịch. Billy mỉm cười. Đâu đó trong thâm tâm, có một cái còng khác cũng vừa được phá bỏ. Anh lắc lắc đầu, nghĩ sẽ tốt biết bao nếu tháo được nó hồi mười hai tiếng trước, rồi liệng nó ra phía lùm cây. Rebecca đứng lên, dời tầm nhìn khỏi cột khói, lấy tay che mắt.

    "Chắc đó là nơi Enrico đã đề cập," cô nói. Billy gượng đứng dậy, đi đến bên cạnh cô. Đằng kia, cách chừng một hoặc hai dặm phía dưới chân họ, có một biệt thự lớn, cây cối bao quanh. Những cửa sổ lấp lánh dưới ánh nắng, tạo cảm giác nó bít bùng và trống không.

    Billy gật đầu, bất chợt không biết nói gì. Cô ta hẳn muốn tìm gặp nhóm của mình. Và đối với anh..

    Rebecca với tay nắm lấy tấm thẻ bài của anh, giật mạnh. Dây buộc bung ra, và cô quấn chặt nó quanh cái cổ mảnh khảnh, mắt vẫn nhìn về biệt thự.

    "Đến lúc chia tay rồi," cô nói.

    Billy nhìn cô, nhưng cô không hề nhìn lại, chỉ chăm chú quan sát đích đến kế tiếp, một ngôi nhà im lìm khuất một nửa trong rừng cây.

    "Trung úy William Coen thật sự đã chết," cô nói.

    Billy cố gắng cười, nhưng không có tác dụng. "Phải, bây giờ tôi là một con zombie thôi," anh nói, hơi ngạc nhiên khi bỗng cảm thấy một chút tiếc nuối dâng lên trong lồng ngực, trong ruột gan.

    Rebecca quay lại, nhìn vào mắt anh, ánh mắt đăm đăm không rời. Anh nhìn thấy trong đó sự chân thành, lòng trắc ẩn, cả sự mạnh mẽ nữa - rồi anh nhận ra, cô cũng cảm nhận được cùng một nỗi khát khao cháy bỏng như anh đang cảm nhận, cùng một nỗi thất vọng mong manh đang gợn nhẹ trong anh.

    Phải chi mọi chuyện khác đi.. Phải chi trong một hoàn cảnh khác..

    Cô gật đầu thật nhẹ, như thể hiểu rõ những gì anh đang nghĩ, như muốn đồng tình với nó. Rồi cô đứng nghiêm, đầu ngẩng cao, rút vai lại, tay giơ lên làm động tác chào, vẫn nhìn vào mắt anh.

    Billy lặp lại tư thế của cô, chào đáp lễ, đứng nguyên như thế đến khi cô bỏ tay xuống. Không nói thêm một lời, cô quay người đi thẳng một mạch, men theo con dốc nghiêng đi về phía rừng cây.

    Billy nhìn theo đến khi Rebecca mất dạng dưới những tán cây, rồi quay lại, tìm cho mình một con đường. Anh quyết định rằng hướng nam có vẻ là tốt nhất, và bắt đầu dấn bước, thưởng thức ánh mặt trời ấm áp đang rọi trên vai, lắng nghe tiếng chim hót véo von trên những ngọn cây.

    * * *oOo..

    Đoạn kết

    Tiếng nổ đằng xa lan đến tận biệt thự Spencer, làm nó rung chuyển nhè nhẹ. Bụi rơi lả tả xuống bàn. Đất cát trút xuống trong những đường hầm ngầm. Và những sinh vật sống trong đó hướng những con mắt đứng tròng ra cửa sổ, về phía vách tường, nghe ngóng, sờ soạng trong bóng tối, hy vọng rằng mỗi một chuyển động yếu ớt đồng nghĩa với việc thức ăn sẽ sớm xuất hiện. Chúng đang rất đói.
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
  10. Đêm Nay

    Bài viết:
    172
    CHƯƠNG 1: RESIDENT EVIL 1

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tuần báo Latham ngày 2 tháng 6 năm 1998

    NHỮNG VỤ GIẾT NGƯỜI KỲ LẠ Ở THÀNH PHỐ RACCOON


    Thi thể bị cắn xé của cô Anna Mitaki 42 tuổi được phát hiện cuối ngày hôm qua trên 1 mảnh đất cách không xa nhà cô ấy ở tây bắc thành phố Raccoon đã biến cô thành nạn nhân thứ tư của vụ "Những kẻ giết người ăn thịt" người đâu đó gần hồ Victory trong tháng qua. Phù hợp với những bản báo cáo của bên khám nghiệm pháp y về các nạn nhân gần đây, thi thể của Mitaki cho thấy những bằng chứng của việc bị ăn sống, những vết cắn rõ ràng được thực hiện bằng miệng người.

    Không lâu sau việc phát hiện về cô Mitaki bởi 2 người chạy bộ cỡ 9h tối qua, cảnh sát trưởng Irons trong bài phát biểu ngắn gọn của mình đã khẳng định rằng các cảnh sát RPD đang "nỗ lực hoạt động để tóm tên thủ phạm của các tội ác ghê tởm" này, và hiện ông đang bàn bạc với uỷ ban Thành phố về việc tăng cường bảo vể cho công dân thành phố Raccon.

    Thêm vào đó, 3 người đã chết từ những cuộc tấn công từ thú vật trong rừng Raccon trong vài tuần qua, đã nâng số người bị chết lên 7..

    Thời báo Raccoon ngày 22 tháng 6 năm 1998

    NỖI KINH HOÀNG Ở THÀNH PHỐ RACCOON THÊM NHIỀU NẠN NHÂN BỊ SÁT HẠI


    Xác của một đôi nam nữ đã được tìm thấy vào sáng sớm hôm chủ nhật trong Công viên Victory, khiến Deanne Rusch và Christopher Smith trở thành nạn nhân thứ tám và chín trong vụ bạo lực đã gây khủng hoảng thành phố kể từ giữa tháng năm.

    Cả hai nạn nhân đều 19 tuổi, cha mẹ họ đã thông báo mất tích vào tối thứ Bảy, và được cảnh sát tìm thấy ở phía tây Công viên Victory lúc 2 giờ sáng. Mặc dù phía cảnh sát chưa có phản hồi gì, những người chứng kiến khẳng định hai người trẻ tuổi có những vết thương tươngtự như những nạn nhân trước đó. Dù thủ phạm là người hay thú vật đều chưa bị lôi ra ánh sáng.

    Theo những người bạn của nạn nhân, hai người đã nói gì đó về việc chứng thực tin đồn "những con chó hoang" xuất hiện gần đây ở khu công viên rừng rậm, và đã lên kế hoạch phá lệnh giới nghiêm của thành phố để đi xem một trong những sinh vật về đêm đó.

    Thị trưởng Harris sẽ mở một cuộc hội ý khẩn cấp vào chiều nay, mọi người hy vọng sẽ có một lời nhận xét rõ ràng về tình trạng hiện nay, yêu cầu thực hiện lệnh giới nghiêm chặt chẽ hơn.

    Tờ Cityside ngày 21 tháng 7 năm 1998

    "S. T. A. R. S."

    SPECIAL TACTICS AND RESCUE SQUAD (ĐỘI GIẢI CỨU VÀ CHIẾN THUẬT ĐẶC BIỆT) ĐƯỢC GỬI TỚI ĐỂ BẢO VỆ THÀNH PHỐ RACOON


    Với báo cáo về sự biến mất của ba người chạy bộ ở rừng Raccoon đầu tuần này, quan chức thành phố đã ra quyết định phong tỏa tuyến đường lộ số 6 vùng nông thôn tại chân núi Arklay. Chỉ huy sở cảnh sát Brian Irons đã tuyên bố vào hôm qua rằng S. T. A. R. S. Chính thức tham gia vào cuộc tìm kiếm ba người bị mất tích, và sẽ phối hợp với RPD tới khi chấm dứt những vụ giết người man rợ và mất tích đang phá hoại cộng đồng chúng ta.

    Sếp Irons, cựu thành viên của S. T. A. R. S, hôm nay trong cuộc gặp riêng qua điện thoại với tờ Cityside đã nói: "Đây là thời điểm cao trào cần đến tài năng của những con người tận tụy này vì sự an toàn của thành phố. Chúng ta đã có chín người bị thảm sát ở đây trong vòng chưa đầy hai tháng, và ít nhất đã có năm vụ mất tích, toàn bộ những sự kiện này đều xảy ra ở phạm vi gần rừng Raccoon. Điều này khiến chúng ta tin rằng thủ phạm có thể lẩn trốn đâu đó ở quận Victory Lake, và S. T. A. R. S. Có đầy đủ kinh nghiệm cần thiết để tìm chúng."

    Khi được hỏi vì sao S. T. A. R. S. Không được chỉ định vào vụ này sớm hơn, sếp Irons chỉ nói rằng S. T. A. R. S. Đã hỗ trợ RPD ngay từ khi bắt đầu vụ án và họ sẽ là "lực lượng bổ sung" cho lực lượng đang nỗ lực điều tra các vụ giết người.

    Thành lập năm 1967 tại New York, tổ chức cá nhân phi chính phủ S. T. A. R. S. Gồm những thành viên từng là sĩ quan quân đội và cựu chiến binh từ C. I. A. Và F. B. I, ban đầu mục đích chính là chống lại những nhóm khủng bố. Dưới sự dẫn dắt của cựu giám đốc N. S. D. A. (National Security and Defense Agency - Cục an ninh và phòng thủ quốc gia) Marco Palmieri, nhóm nhanh chóng mở rộng ra mọi lãnh vực từ đàm phán giải cứu con tin, bẻ khóa đến đàn áp phần tử nổi loạn.

    Làm việc với cảnh sát địa phương, mỗi nhánh văn phòng của S. T. A. R. S. Có khả năng hoạt động hoàn hảo như chính đầu não của họ. Nhánh S. T. A. R. S. Thành lập ở thành phố Raccoon nhờ vào sự tài trợ của nhiều ngành thương mại vào năm 1972, hiện tại đang dưới quyền chỉ huy của đội trưởng Albert Wesker, người vừa nhậm chức chưa đầy sáu tháng trước đây.

    Jill đã trễ buổi họp, và tồi tệ hơn là cô làm rơi chìa khóa vào ly cà phê trên tay khi đang bước ra cửa. Chiếc chìa khóa chạm đáy ly đánh "keng", và ngay lúc cô sững lại nhìn cái ly màu kem đang bốc khói, đám hồ sơ dày cộm kẹp dưới tay kia tuột xuống sàn. Kẹp giấy và những mẩu ghi chép văng tung tóe khắp tấm vải nâu. "Chết tiệt." Cô xem lại đồng hồ và quay lại bếp với cái ly đang cầm trên tay. Wesker đã thông báo sẽ họp lúc đúng 7 giờ tối, nghĩa là cô chỉ còn 9 phút để vượt quãng đường dài 10 phút, tìm chỗ đậu xe và lên văn phòng. Cuộc họp chính thức từ khi S. T. A. R. S. Đảm trách vụ án - trời ạ, cuộc họp chính thức từ khi cô chuyển đến Raccoon - và cô sắp trễ.

    "Tưởng tượng được không chứ. Hầu như là lần đầu tiên trong suốt bao năm trời mình mới quan tâm đến việc đúng giờ mà giờ thành ra thế này đây.." Vừa lầm bầm cô vừa quay trở lại bồn rửa, cảm thấy căng thẳng và bực mình vì đã không chuẩn bị sớm hơn. Là vụ đó, cái vụ chết tiệt đó. Cô đã lấy bản copy hồ sơ ME ngay sau bữa sáng và bỏ hết một ngày trời lục lọi đống hồ sơ, tìm xem có gì những viên cảnh sát bỏ sót không, và càng lúc càng thấy nản khi hết chừng đó thời gian cô vẫn chưa tìm thấy gì mới. Cô dốc ngược cái ly xuống, chùi chùm chìa khóa âm ấm và ướt vào quần jean rồi đi nhanh ra cửa. Cô cúi xuống nhặt đám hồ sơ - và dừng lại, nhìn tấm ảnh màu bóng loáng phía trên đám hỗn độn.

    Ôi! Các cô bé.. Cô chậm rãi nhặt nó lên, biết rằng cô không có thời gian nhưng vẫn không thể rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ vấy máu. Cô thấy căng thẳng hơn bao giờ hết, và trong một khoảnh khắc cô chỉ có thể thở ra khi nhìn đăm đăm vào tấm ảnh hiện trường vụ án. Becky và Priscilla McGee, chín và bảy tuổi. Cô đã có thể bỏ qua tấm ảnh đó, có thể tự nhủ chẳng có gì cô cần thấy trong tấm ảnh đó nữa.. ".. Nhưng như thế không thật, phải không? Mày có thể tiếp tục làm ngơ, hoặc có thể chấp nhận nó - tất cả đã thay đổi rồi, đã thay đổi từ ngày hai cô bé ấy chết rồi."

    Khi cô mới chuyển đến Raccoon, cô đã bị rất nhiều áp lực, cảm thấy lưỡng lự khi thay đổi công việc, thậm chí cô còn không chắc là mình có nên ở lại đội S. T. A. R. S. Không. Cô làm việc rất tốt, nhưng cô nhận công việc này chỉ vì Dick, sau khi bị buộc tội, ông bắt đầu gây áp lực để cô làm một công việc khác. Đó là một thời gian dài, nhưng cha cô vẫn kiên quyết nói với cô rằng một người mang họ Valentine trong tù là quá nhiều rồi, rồi ông thú nhận rằng ông đã sai khi nuôi dạy cô theo cách ông đã làm. Với hồ sơ lý lịch và kỹ năng của cô, không có nhiều chọn lựa - nhưng S. T. A. R. S. Ít nhất đã đánh giá cao tài năng của cô và không quan tâm việc cô gia nhập họ như thế nào. Mức lương vừa phải, có những yếu tố mạo hiểm làm cô càng lúc càng thích.. Nhớ lại thì việc cô đổi nghề dễ dàng đến bất ngờ, điều đó làm Dick vui, và cho cô cơ hội xem xem mặt trái với nghề cô từng làm thế nào. Dù vậy, việc chuyển đi đã khó hơn cô thấy. Lần đầu tiên từ khi Dick vào tù, cô thấy thật sự cô đơn, và cô bắt đầu thấy chuyện cô làm việc cho pháp luật cứ như là một trò đùa vậy – con gái Dick Valentine, làm việc vì công lý, sự thật, và theo kiểu Mỹ nữa chứ. Được thăng chức lên vào đội Alphas, một căn nhà nhỏ tiện nghi ở ngoại ô – thật là điên rồ, cô đã có suy nghĩ nghiêm túc là cứ trốn ra khỏi thành phố, bỏ mặc tất cả, và quay trở lại nghề cũ của cô.. cho tới khi hai cô bé sống ở nhà bên kia đường tới gõ cửa nhà cô và hỏi cô có phải là cảnh sát thật không với đôi mắt to tròn và đỏ hoe vì khóc. Ba mẹ hai cô bé đang đi làm và hai cô bé không tìm được con cún của mình..

    * * *Becky mặc váy đồng mục màu lục, cô bé Pris mặc áo khoác - cả hai cô bé đều khóc nấc.. Chú cún con đang quanh quẩn ở khu vườn cách đó chỉ vài thước, chẳng tốn một giọt mồ hôi nào và cô đã có được hai người bạn. Hai cô bé nhanh chóng chấp nhận Jill, tới nhà cô sau giờ học mang cho cô hoa, chơi trong sân nhà cô vào cuối tuần, hát những điệp khúc mà chúng học từ phim. Không hẳn hai cô bé đã thay đổi cách nhìn của cô hay khiến cho cô không còn cô đơn, chỉ đơn giản bằng cách nào đó cô đã dẹp qua một bên ý nghĩ rời khỏi thành phố của mình. Lần đầu tiên trong suốt 23 năm, cô bắt đầu thấy mình là một phần trong xã hội cô đang sống và làm việc, tuy cô khó nhận thức được nhưng vẫn có cái gì đó nó dần nhẹ nhàng thay đổi cô. Sáu tuần trước, Becky và Pris đã đi lang thang ra ngoài khu vực cắm trại gia đình ở công viên Victory và trở thành hai nạn nhân đầu tiên của những tên tâm thần, và từ dạo đó đã gây khủng hoảng cái thành phố biệt lập này.

    Tấm ảnh vẫn trên tay cô, không cho cô trốn chạy thực tại. Becky nằm ngửa, nhìn thẳng lên trời bằng đôi mắt vô hồn, một lỗ to nham nhở ở bụng cô bé. Pris nằm bên cạnh, tay duỗi thẳng, một mảng thịt bị xé ra thô bạo từ đôi chân mảnh khảnh. Cả hai đứa trẻ đã bị moi ruột, chết vì chấn thương khủng khiếp trước khi chết vì mất máu. Dù cho hai cô bé có gào lên cũng không ai nghe thấy cả.. "Đủ rồi! Hai cô bé ấy chết rồi, nhưng cuối cùng mày vẫn có thể làm được một điều gì đó mà!" Jill tống đống hồ sơ vào bìa cứng rồi bước ra ngoài dưới bầu trời đã nhá nhem tối và hít sâu. Mùi cỏ mới cắt vẫn nồng trong bầu không khí ấm nắng mặt trời. Đâu đó ở dưới đường, con chó vui vẻ sủa giữa tiếng la hét của đám trẻ con. Cô bước nhanh tới chiếc xe hơi đuôi cong xám đậu ở trước nhà, cố không nhìn sang bên ngôi nhà im ắng của gia đình McGee lúc cô mở máy xe và lái đi. Jill lái xe dọc theo con đường rộng vùng ngoại ô nơi cô ở, mở cửa sổ, tăng tốc nhưng vẫn cẩn thận xem chừng đám nhóc và thú nuôi. Cũng không có nhiều người xung quanh lắm. Từ khi rắc rối xảy ra, càng nhiều người giữ con họ và thú nuôi ở trong nhà kể cả vào ban ngày.

    Chiếc xe hơi rung lên khi cô tăng tốc vào đường cao tốc 202, ngọn gió khô, ấm thổi nhẹ mái tóc dài. Cảm giác thật tuyệt, như vừa tỉnh một cơn ác mộng vậy. Cô lái xe băng băng dưới bầu trời chỉ còn nhá lên chút ánh mặt trời, bóng những hàng cây đổ dài dọc trên đường. Dù cho là định mệnh hay do hoàn cảnh đưa đẩy, cuộc đời cô đã thay đổi bởi những gì đang xảy ra ở thành phố Raccoon. Cô không thể tiếp tục giả vờ cô chỉ là một tên trộm đang trốn tránh khỏi gông cùm tù tội, đặt chân vào hàng ngũ pháp luật để cha cô vui lòng, hoặc những gì S. T. A. R. S. Sắp làm chỉ là một công việc khác. Cô không thanh thản được. Làm sao cô yên lòng được khi những đứa trẻ ấy đã chết, và những tên sát nhân vẫn ung dung tự tại để tiếp tục ra tay chứ. Hồ sơ những nạn nhân cạnh cô hơi chao đảo vì đám bìa trên cùng bị gió thổi, chín linh hồn chưa yên nghỉ, có lẽ Becky và Priscilla McGee cũng ở trong số đó. Cô đặt tay lên đám hồ sơ, dằn nhẹ xuống và tự thề bằng bất cứ giá nào cô cũng sẽ tìm ra kẻ phải chịu trách nhiệm. Dù cho trước đây cô đã từng thế nào nữa, dù cho tương lai cô sẽ như thế nào nữa, cô đã thay đổi.. và sẽ không yên lòng mà ngủ tới khi những tên sát nhân ấy bị trừng trị vì tội ác của chúng.

    " "Chào, Chris!" "Chris xoay người khỏi máy bán soda tự động và thấy Forest Speyer đang sải chân bước về phía anh, nở nụ cười rộng trên gương mặt ngăm đen, một gương mặt trẻ con. Forest lớn hơn Chris vài tuổi, nhưng trông vẫn như một thiếu niên nổi loạn – tóc dài, áo khoác jean đầy nút, một hình xăm đầu lâu đang hút thuốc trên vai trái. Anh ta là một thợ máy xuất sắc, và là một trong những tay súng giỏi nhất Chris từng biết." Hey, Forest Chuyện gì vậy? "

    Chris lấy lon soda và liếc đồng hồ. Anh vẫn còn chút thời gian trước khi bắt đầu cuộc họp. Chris cười mệt mỏi, Forest dừng trước mặt anh, đôi mắt xanh lấp lánh. Forest đang ôm một đống áo, dây nịt chuyên dụng và túi đeo vai." Wesker lệnh cho Marini bắt đầu cuộc tìm kiếm. Đội Bravo sẽ khởi hành. "Mặc dù phấn khích, Forest Alabama cố tình nói lè nhè theo kiểu rập khuôn. Anh thảy đám đồ xuống một băng ghế, vẫn cười tươi.

    Chris cau mày." Bao giờ?" "Bây giờ. Ngay khi tớ khởi động xong trực thăng."

    Forest vừa nói vừa kéo khóa chiếc áo vest. "Trong lúc đội Alphas của cậu ngồi bàn bạc, bọn này sẽ xử lý vài tên ăn thịt người cho mà xem!" Đội S. T. A. R. S. Sẽ chẳng là gì nếu thiếu tự tin.

    "Phải, tốt.. nhớ là cẩn thận, được chứ? Tớ vẫn nghĩ là trong rừng còn nhiều thứ khác nữa ngoài mấy tên đang rỏ dãi." "Cậu biết mà." Forest hất tóc ra sau và túm lấy đai chuyên dụng, rõ ràng anh ta đã sẵn sàng và hết sức tập trung vào nhiệm vụ.

    Chris còn định nói nữa, nhưng quyết định im lặng. Nói thẳng ra, Forest là một tay có nghề, cậu ta không cần ai nhắc mình phải cẩn thận cả. "Mày chắc chứ, Chris? Mày nghĩ Billy đủ cẩn thận ư?" Thở dài, Chris vỗ nhẹ vai Forest và đi thẳng lên văn phòng qua cầu thang trong phòng đợi ở sảnh. Anh bất ngờ là Wesker đã cho đội xuất phát riêng biệt. Mặc dù bình thường thì những thành viên S. T. A. R. S. Ít kinh nghiệm sẽ đi trinh sát trước, nhưng đây không phải là nhiệm vụ bình thường. Số người đã chết đủ để khẳng định đây không chỉ là một vụ tấn công gây hấn. Việc có dấu hiệu tồn tại của một tổ chức giết người đáng ra phải được đặt vào mức độ A1, và Wesker vẫn coi đó là một cuộc thực tập.

    "Chẳng ai biết cả, họ không biết Billy.." Chris lại nghĩ về cuộc gọi lúc khuya hồi tuần trước từ người bạn thưở thơ ấu. Anh đã không liên lạc được với Billy trong một khoảng thời gian, nhưng anh biết cậu ta đã nhận một vụ nghiên cứu với Umbrella, tập đoàn dược phẩm duy nhất đã đóng góp rất nhiều vào nền kinh tế của thành phố Raccoon. Billy không phải loại người chấp nhận bóng tối, và sự tuyệt vọng và khủng hoảng trong giọng nói cậu ta đã làm Chris bật dậy, lòng tràn ngập lo âu. Billy đã lảm nhảm cuộc sống cậu ta đang bị nguy hiểm, toàn bộ họ đều đang bị nguy hiểm, cầu xin Chris đến gặp cậu ta ở quán ăn phía rìa khu phố và rồi chẳng bao giờ đến. Chẳng còn ai nghe gì về cậu ta từ dạo đó. Từ khi Billy mất tích, Chris cứ suy nghĩ mãi về cuộc gọi đó trong những đêm liền mất ngủ, cố gắng tự trấn an mình chuyện đó không dính dáng gì đến các vụ tấn công ở thành phố Raccoon, nhưng vẫn không rũ bỏ được ý nghĩ có gì đó còn khủng khiếp hơn những chuyện đã xảy ra, và Billy biết đó là gì. Cảnh sát đã kiểm tra căn hộ của Billy và không tìm thấy dấu vết của bất kì vụ thanh toán nào.. nhưng linh cảm của Chris nói cho anh biết bạn anh đã chết, và bởi tay một kẻ không muốn cậu ta tiết lộ điều gì đó.

    "Và mình là người duy nhất. Irons chẳng thèm đếm xỉa gì, cả đội thì nghĩ mình quá khích vì anh bạn cũ mất tích." Anh gạt suy nghĩ qua một bên, quẹo vào góc, đôi giày ống gõ nhịp những âm thanh vang vọng suốt hành lang lầu hai. Anh phải tập trung, để tìm ra nguyên nhân Billy mất tích, nhưng Chris đã kiệt sức rồi, những trăn trở không yên, những đêm dài trằn trọc từ khi Billy gọi đến. Có lẽ anh đang mất phương hướng vì những việc xảy ra gần đây.. Càng gần tới văn phòng S. T. A. R. S anh cố không nghĩ ngợi gì thêm, kiên quyết sẽ tìm được thông tin hữu ích trong cuộc họp. Mấy bóng đèn huỳnh quang trên trần nhà lấn át những tia sáng buổi tối trong hành lang chật hẹp, sở cảnh sát Raccoon xây theo kiểu cổ điển, nếu không nói là bất tiện, một công trình kiến trúc với nhiều đá lát và gỗ đắt tiền nhưng có quá nhiều cửa sổ. Vào thuở ban đầu, ngôi nhà là tòa thị chính Raccoon. Khoảng một thập kỷ trước khi dân số gia tăng, nó biến thành thư viện, và bốn năm trước trở thành sở cảnh sát. Có vẻ ngôi nhà cứ luôn được xây dựng thêm vậy.

    Cửa văn phòng S. T. A. R. S mở, giọng người đàn ông vang khắp sảnh. Chris hơi do dự khi nghe thấy tiếng Sếp Irons trong số đó. "Cứ gọi tôi là Brian," Irons là một kẻ tự kiêu và tư lợi ẩn mình dưới hình hài cảnh sát. Chẳng ai không biết đến bàn tay nhớp nhúa của lão chứ. Lão còn dính dáng vào vụ bất động sản quận Cider hồi năm 1994, mặc dù tại phiên tòa không có chứng cứ buộc tội lão, nhưng những ai biết bộ mặt thật của lão đều không nghi ngờ gì về việc đó. Chris lắc đầu, lắng nghe cái giọng nhầy nhậy của Irons. Khó mà tin được lão từng lãnh đạo S. T. A. R. S, dù chỉ bằng giấy tờ. Có lẽ còn khó tin hơn khi một ngày nào đó hắn trở thành thị trưởng. "Tất nhiên rồi, chẳng có gì lạ khi lão ghét cay ghét đắng mày, phải không Redfield?"

    Phải, Chris không muốn nịnh bợ lão, và lão Irons không biết cách tạo dựng một mối quan hệ nào khác cả. Ít nhất Irons không phải là kẻ thiếu trình độ, lão đã được huấn luyện quân sự. Chris đeo lên bộ mặt dứt khoát và bước vào cái văn phòng nhỏ huyên náo nơi chứa tư liệu và căn cứ họp tác chiến của đội S. T. A. R. S. Barry và Joseph đang ở chỗ bàn dành cho tân binh, xem xét cả thùng tư liệu và thì thầm trao đổi gì đó. Brad Vickers, phi công đội Alpha, đang uống cà phê và chăm chú nhìn màn hình máy chủ cách đó vài bước, vẻ mặt chua chát hiện rõ trên gương mặt vốn ôn hòa. Ở phía kia văn phòng, đội trưởng Wesker đang dựa lưng vào ghế, tay chống sau đầu và cười với những gì lão sếp Irons đang nói. Thân hình đồ sộ của lão dựa vào bàn Wesker, đưa một bàn tay mũm mĩm lên vân vê bộ râu. "Thế nên tôi nói, Cậu sẽ in cái gì tôi bảo cậu in, Bertolucci, và cậu sẽ làm, nếu không cậu sẽ không nhận được gì từ văn phòng này nữa!" "

    " Chris! ", Wesker cắt ngang lời lão, ngồi thẳng dậy." Cậu tới rồi, tốt lắm. Chúng ta ngừng lãng phí thời gian thôi. ". Irons nhìn Chris cau có nhưng Chris vẫn giữ nguyên vẻ mặt. Wesker cũng chẳng thèm để ý Irons. Từ ánh mắt của hắn, tất nhiên hắn cũng chẳng quan tâm nếu ai biết hắn đang xấc xược với lão. Chris bước vào văn phòng, đứng ở bàn làm việc anh dùng chung với Ken Sullivan, một thành viên đội Bravo. Khi hai đội làm việc khác giờ nhau, họ không cần nhiều phòng lắm. Anh đặt lon soda chưa mở lên bàn rồi quay qua phía Wesker." Anh gửi đội Bravo đi à? "Viên đội trưởng nhìn Chris bình thản, tay khoanh trước ngực." Nhiệm vụ thường thôi mà Chris. "

    Chris ngồi xuống, hơi bực mình." Phải, nhưng với những gì chúng ta bàn tuần trước, tôi nghĩ là.. "Irons chen ngang:" Chính tôi ra lệnh đấy, Redfield. Tôi biết anh nghĩ có gì đó đang diễn ra, nhưng tôi không thấy có lí do nào để không giải quyết theo cách thông thường cả "

    " Tên tự phụ.. "Chris cố cười, biết rằng sẽ chọc điên Irons lên." Dĩ nhiên thưa ông. Không cần ông giải thích chuyện đó với tôi đâu. "

    Irons trừng mắt nhìn Chris, đôi mắt lợn ti hí giật giật, và vờ như cho qua. Lão quay lại Wesker:" Tôi hy vọng sẽ có bản báo cáo rõ ràng khi đội Bravo trở về. Giờ xin phép anh, đội trưởng. "Wesker gật đầu.

    " Dĩ nhiên thưa Sếp. "Irons đi ngang qua Chris rồi bước ra khỏi văn phòng. Lão đi chưa tới một phút trước khi Barry bắt đầu." Dám sếp hôm nay bị Tào Tháo rượt lắm nhỉ? Có lẽ chúng ta nên tặng lão thuốc nhuận tràng làm quà Giáng sinh đi. "

    Joseph và Brad phá lên cười, nhưng Chris không cười nổi. Irons đúng là một trò đùa, nhưng cách lão quản lý tồi vụ điều tra này không vui chút nào. Đội S. T. A. R. S. Đáng lẽ phải tham gia ngay từ lúc đầu, chứ không đơn thuần là lực lượng hỗ trợ cho RPD. Chris nhìn sang phía Wesker, khuôn mặt muôn đời điềm đạm đó quả khó đoán được. Wesker nhậm chức chỉ huy đội S. T. A. R. S. Ở Raccoon chỉ ít tháng trước, được đầu não ở New York chuyển tới, và Chris vẫn chưa biết được tí gì về con người thật của hắn. Tên đội trưởng có mọi yếu tố mà một người đội trưởng cần: Chuyên nghiệp, trầm tĩnh, khả năng dàn xếp ổn thỏa, nhưng giữa hắn có một khoảng cách, hắn thường lãnh đạm với những gì diễn ra chung quanh. Wesker thở dài rồi đứng dậy:

    " Xin lỗi nhé Chris. Tôi biết cậu muốn mọi việc diễn ra theo cách khác, nhưng Irons không quan tâm đến.. nỗi lo âu của cậu. "Chris gật đầu. Wesker có thể tiến cử, nhưng Irons là kẻ duy nhất có thể thay đổi cấp độ nhiệm vụ. Chris lên tiếng:

    " Không phải lỗi của anh. "Barry bước về phía họ, chùi bộ râu đỏ ngắn với bằng nắm tay khổng lồ. Barry Burton chỉ cao 6 feet nhưng thân hình thì như cái xe tải. Ngoài gia đình và bộ sưu tập vũ khí thì niềm đam mê đối với môn cử tạ đã thể hiện rõ trên con người anh." Đừng lo quá, Chris. Marini sẽ báo cho chúng ta ngay khi cậu ta ngửi thấy mùi rắc rối. Irons chỉ gây rắc rối cho cậu thôi. "

    Chris lại gật đầu, nhưng trong lòng thì không nghĩ vậy. Khốn thật, Enrico Marini và Forest Speyer là hai chiến binh kinh nghiệm duy nhất trong đội Bravo. Ken Sullivan là một trinh sát giỏi và một nhà hóa học xuất sắc, nhưng ngoài đợt luyện tập ở đội S. T. A. R. S. Ra, anh ta bắn còn không trúng kho thóc nữa chứ. Richard Aiken là thông điệp viên hạng nhất, nhưng anh ta cũng thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Thành viên còn lại của đội Bravo là Rebecca Chambers, người mới gia nhập S. T. A. R. S. Ba tuần, một thiên tài y học. Chris đã gặp cô bé vài lần, cô bé có tài năng đấy nhưng vẫn còn là con nít." Vẫn chưa đủ. Dù toàn bộ chúng ta đi nữa, vẫn có thể chưa đủ. "Chris mở nắp lon soda nhưng không uống, tự hỏi đội S. T. A. R. S. Đang chiến đấu chống lại thứ gì, giọng van nài của Billy, những lời tuyệt vọng lại vang lên trong óc anh.

    " Họ sắp giết tôi, Chris! Họ sắp giết toàn bộ mọi người! Đến gặp tôi ở Emmy ngay bây giờ. Tôi sẽ kể cho cậu mọi chuyện.. "Mệt mỏi, Chris nhìn lơ đễnh vào không trung, cô độc trong nhận thức biết rằng những vụ giết người dã man chỉ là một phần rất nhỏ của tảng băng. Barry đứng cạnh bàn Chris vài phút, cố gắng tìm gì đó khác để nói, nhưng có vẻ Chris không có tâm trạng trò chuyện. Barry nhún vai rồi quay lại chỗ Joseph đang xem xét đống tài liệu. Chris là người tốt, nhưng đôi khi lại quá đặt nặng vấn đề, cậu ta sẽ thôi ngay khi tới phiên họ xuất phát.

    Nóng thật! Từng dòng mồ hôi chảy không ngớt dọc xương sống anh, dán chặt chiếc áo sơmi vào tấm lưng đồ sộ. Máy điều hòa không khí vẫn trục trặc như thường lệ, cho dù cửa mở nhưng cái văn phòng S. T. A. R. S. Nhỏ xíu vẫn oi bức khó chịu." Chút may mắn gì không? "Joseph ngước lên khỏi đống giấy tờ, nụ cười buồn bã trên gương mặt gầy.

    " Đùa đấy hả? Như có ai cố tình giấu cái thứ đó vậy. "Barry thở dài với lấy một đống hồ sơ." Có thể Jill tìm thấy nó rồi. Cô ấy vẫn ở đây hôm qua khi tôi về, đọc đi đọc lại lời khai của nhân chứng khoảng cả trăm lần đấy.. "

    " Hai anh đang kiếm cái gì chứ? ", Brad hỏi. Barry và Joseph đưa mắt về hướng Brad, vẫn đang ngồi cạnh bàn máy, tai nghe trên đầu. Anh ta đang theo dõi quá trình bay của đội Bravo tới khu vực rừng rậm, bây giờ trông cậu ta chán quá rồi. Joseph đáp lời:

    " À, Barry nhất quyết là có bản đồ khu biệt thự Spencer cũ ở đâu đây, bản tóm tắt kiến trúc khi nó được xây dựng. "Anh ngưng lại, rồi cười với Brad:" Ngoại trừ tôi nghĩ Barry đã già rồi. Người ta nói khi xảy ra điều đó thì trí nhớ là thứ đầu tiên ra đi. "Barry làm ra vẻ nổi xung:

    " Này, Barry già nua có thể đá mông cậu tới tuần sau lận đấy, cậu bé ạ. "Joseph nhìn Barry vẻ nghiêm túc." Ừ, nhưng rồi sau đó anh có nhớ không? "

    Barry phì cười, lắc đầu. Anh chỉ mới 38 tuổi, nhưng đã gắn bó với S. T. A. R. S. Suốt 15 năm trời, điều đó làm anh trở thành bậc đàn anh trong đội. Anh đã chịu đựng vô số trò đùa, đa số từ Joseph. Brad nhướng mày:" Biệt thự Spencer? Làm sao nó xuất hiện trên tạp chí được? "

    " Các cậu bé, nên học lịch sử đi. ", Barry tiếp lời," Nó được thiết kế bởi George Trevor ngay trước khi anh ta biến mất. Hắn là tên kiến trúc sư nóng đầu đã thiết kế mấy cái máy bay quái gở ở D. C. – nói cho đúng thì sự biến mất của Trevor là lí do Spencer đóng cửa khu biệt thự. Người ta đồn là Trevor hóa điên trong quá trình xây dựng, và khi khu biệt thự hoàn tất, hắn lang thang khắp nơi đến khi chết đói. "Brad cười chế giễu nhưng đột nhiên trông có vẻ không thoải mái." Thật nhảm nhí. Tôi chưa từng nghe thấy chuyện gì như thế cả. "Joseph nháy mắt với Barry." Không, thật đấy. Bây giờ linh hồn đau khổ của hắn đi lang thang khắp khu biệt thự mỗi đêm trông xanh xao và hốc hác và tôi còn nghe nói là đôi khi cậu nghe thấy hắn rên lên: Brad Vickers.. đem Brad Vickers lại đây cho ta. "

    Brad hơi phì cười." Phải, ha ha. Cậu đúng là tay hài hước có hạng, Frost. "Barry chỉ cười và lắc đầu, nhưng vẫn không hiểu sao Brad lại gia nhập được đội S. T. A. R. S. Cậu ta chắc chắn là tay hacker giỏi nhất từng làm việc cho S. T. A. R. S, là một phi công cũng khá, nhưng cậu ta không chịu được áp lực. Joseph đã gọi cậu ta là" Vickers thỏ đế "khi cậu ta không có mặt, và mặc dù các thành viên S. T. A. R. S. Luôn bênh vực lẫn nhau nhưng không ai bất bình với nhận định này của Joseph cả." Vậy đó là lí do Spencer đóng cửa khu biệt thự sao? "Brad hỏi Barry, mặt cậu ta vẫn đỏ lên.

    Barry nhún vai." Tôi không nghĩ vậy. Khu biệt thự đó đáng ra được sử dụng làm nhà khác cho những thành viên tối cao của Umbrella. Trevor biến mất ngay trước khi nó hoàn thành, nhưng Spencer là kẻ dư tiền. Ông ta quyết định chuyển trụ sở Umbrella tới Châu u, tôi quên mất chính xác là ở đâu rồi, và thảy cái biệt thự đó, có lẽ trị giá tới mấy triệu dollar, vào sọt rác. "Joseph nhếch mép:" Phải rồi. Làm như Umbrella sẽ tổn thất nặng vậy. ". Thật vậy. Spencer có thể mất trí, nhưng ông ta có đủ tiền và kiến thức kinh doanh để thuê đúng người. Umbrella là một trong những tập đoàn hóa chất và dược phẩm lớn nhất trên hành tinh. Kể cả ba mươi năm trước, mất vài triệu dollar chẳng thấm vào đâu cả." Dù sao đi nữa ", Joseph tiếp tục," Người của Umbrella đã thông báo cho Irons biết họ đã cho kiểm tra khu nhà và nó vẫn đảm bảo an ninh, không có dấu hiệu của vụ đột nhập nào cả. "

    " Vậy tại sao lại tìm sơ đồ của nó làm gì? ", Brad hỏi. Lần này thì Chris trả lời thay cho Barry. Anh đã đi lại gia nhập họ, khuôn mặt trẻ hằn nỗi xúc động mãnh liệt." Vì đó là nơi duy nhất trong khu rừng chưa được cảnh sát kiểm tra, và thực tế nó nằm ngay tâm điểm khu vực xảy ra án mạng. Và vì không phải lúc nào cậu cũng có thể tin vào lời người khác được. "

    Brad cau mày:" Nhưng nếu Umbrella đã gửi người đi.. "Chris định nói gì nữa nhưng bị giọng trôi chảy của Wesker cắt ngang từ phía bên kia của căn phòng." Được rồi mọi người. Có vẻ như cô Valentine không muốn tham gia với chúng ta, tại sao chúng ta không bắt đầu nhỉ? "

    Barry đi lại phía bàn mình, lần đầu tiên từ khi mọi việc xảy ra anh cảm thấy lo lắng cho Chris. Anh đã thu nhận một người trẻ tuổi cho S. T. A. R. S. Vài năm trước nhờ vào cuộc gặp mặt tình cờ ở cửa hiệu súng. Chris có đủ tư chất hứa hẹn là một thành viên xuất sắc của đội, thông minh, chín chắn, tài thiện xạ xuất sắc và có thể lái máy bay. Nhưng bây giờ.. Barry nhìn chăm chú vào bức hình của Kathy và mấy cô con gái trên bàn mình. Nỗi ám ảnh của Chris với những vụ giết người ở Raccoon là điều dễ hiểu, đặc biệt từ khi bạn cậu ta biến mất. Không ai trong thành phố muốn mất thêm một sinh mạng nào nữa. Barry có một gia đình, cũng như những thành viên khác trong đội đều quyết tâm tìm ra bọn sát nhân. Nhưng mối ngờ vực không ngớt của Chris đã hơi quá đà rồi. Cậu ta nói:" Cậu không thể luôn tin vào lời người khác nói", là có ý gì? Nếu Umbrella hay sếp Irons nói dối thì cũng thật.. nực cười. Chi nhánh hóa học và cơ quan hành chính của Umbrella ở ngoại ô thành phố cung cấp việc làm cho 3/4 người ở Raccoon, nói dối là điều không thể với họ. Hơn nữa, sự trong sạch của Umbrella cũng tương tự như những tập đoàn khác, cũng có thể có vài tình báo công nghiệp, nhưng trao đổi bí mật hóa chất khác xa với giết người. Và sếp Irons, lão béo huyênh hoang đó không phải loại dám nhúng tay vào những chuyện dơ bẩn hơn là ăn chặn tiền vận động và nhận hối lộ, lão muốn làm thị trưởng, vì Chúa!

    Barry nhìn nấn ná tấm ảnh gia đình thêm một lúc trước khi quay ghế về phía bàn Wesker, và thình lình ông nhận ra mình muốn những gì Chris nghĩ là sai. Chuyện gì đang xảy ra đối với thành phố Raccoon, không ai có thể lên kế hoạch cho những việc làm độc ác và xấu xa đó. Và đó có nghĩa là.. Barry chẳng biết điều đó nghĩa là gì nữa. Anh chỉ còn biết thở dài và chờ cuộc họp bắt đầu..
     
    Kang Bo RaEzio. thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...