Quốc bảo chân kinh: Phục hưng văn hóa cội nguồn rồng tiên việt nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi shopoga, 1 Tháng mười một 2023.

  1. shopoga

    Bài viết:
    515
    59. ÔNG CHỦ VÀ ĐẦY TỚ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nói đến Ông Cụ Bình ở làng Bàu Sen không ai là không biết, vì Ông Cụ có tài kể chuyện rất hay. Lũ trẻ làng Bàu Sen khi đến mùa nghỉ hè thường đến nhà Ông Cụ Bình để nghe kể chuyện.

    Ngôi nhà tranh Ông Cụ Bình hôm nay chật kín những em trẻ chúng cười nói vui tươi hồn nhiên. Ông Cụ Bình thích lắm và luôn kể chuyện cho các em nghe.

    Lũ trẻ nhìn Cụ Bình nói chúng con đến đây là muốn nghe Ông kể chuyện. Ông có chuyện gì hay kể cho chúng cháu nghe đi, chúng cháu tích nghe lắm.

    Không để lũ trẻ đợi lâu Ông Cụ Bình kể rằng;

    Ngày xửa ngày xưa, có một người nông dân phải nói là rất giàu, giàu lắm các cháu ạ. Giàu đến nổi có cả rừng vàng, biển bạc, do Tổ Tiên để lại cho người nông Dân.

    Đã là nông Dân thời các cháu biết rồi chất phát thật thà lam lũ, không tính toán hơn thua lợi hại. Chỉ biết làm và làm trời cho trúng mùa thời có ăn, trời không cho trúng mùa thời đói.

    Người nông Dân nầy có một cái tánh là thích trò ảo thuật, nghe đến trò ảo thuật thời mê dù xa mấy cũng tìm đến xem coi.

    Và cho đến một hôm từ xa xôi có một người đầy tớ, đầy tớ chuyên đi gạt người hết xứ nầy đến xứ khác nghe người nông Dân giàu có liền tìm đến người nông Dân. Hầu chiếm đoạt tài sản người nông Dân mà Tổ Tiên Ông Cha để lại.

    Người Đầy Tớ tìm gặp người nông Dân rồi nói tôi là một nhà ảo thuật tài ba nhất thế giới, trên đời nầy không có gì là tôi không biến ra được. Ông có muốn xem tài ảo thuật của Tôi không? Nghe nói đến tài ảo thuật thời người nông Dân đã mê tít rồi liền nói ngươi thử biến hóa cho ta xem.

    Người đầy tớ liền biến ra vàng bạc nhiều vô số kể, người nông Dân hoa cả mắt không thể nào tin được muốn có vàng là có vàng, muốn có bạc là có bạc, muốn giàu bao nhiêu mà chẳng được cần chi làm. Người đầy tớ thấy người nông Dân mê mẫn cả tâm thần liền nói chưa hết đâu. Tôi có thể biến ra trâu, bò, dê, heo nhiều vô số kể nói xong người đầy tớ liền biến ra trâu, bò, dê, heo hàng nghìn con.

    Người nông Dân lấy làm thích lắm nói ngươi có thể dạy cho ta được không?

    Người đầy tớ nói chuyện đó dễ thôi chỉ cần Ông biến thành Đầy Tớ. Còn tôi thời biến thành Ông Chủ nông Dân. Khi đó Ông muốn biến ra bao nhiêu vàng bạc, trâu, bò, dê, heo tùy thích giàu có mấy cũng được mà không cần cực khổ gì cả.

    Người nông Dân không cần suy nghĩ nói, ngươi cứ biến Ta thành Đầy Tớ, còn Đầy Tớ ngươi biến thành Ta. Người nông Dân nghĩ đến, khi mình biến thành Đầy Tớ thời tha hồ mà biến ra thật nhiều vàng nhiều bạc, biến hóa ra thật nhiều trâu, bò, dê, heo nên miệng luôn hối thúc người Đầy Tớ ngươi biến đi.

    Người Đầy Tớ tức thời làm phép biến người nông Dân trở thành Đầy Tớ, còn người Đầy Tớ trở thành người nông Dân.

    Người Đầy Tớ giờ đây trở thành Ông Chủ giàu có rừng vàng biển bạc có kẻ hầu người hạ ăn sung mặc sướng, ba bà vợ trẻ đẹp của người nông dân giàu có thi nhau phục vụ.

    Người nông Dân đã biến thành đầy tớ tưởng mình muốn gì được nấy nằm ngủ trong một cái xó không lo lắng gì cả. Vì nghĩ rằng khi thức dậy sẽ biến ra thật nhiều vàng, nhiều bạc, trâu, bò, dê, heo, tha hồ mà làm giàu không cần làm gì cả. Nhưng người nông dân nào có biết đã là ảo thuật thời không có cái chi là thật, chỉ toàn là giả. Biến ra vàng giả bạc giả, trâu giả, bò, dê, heo giả, đụng đến là tan biến, cuối cùng chẳng có chi cả, khi thức tỉnh thời quá muộn không làm chi được nữa. Vì mình đã biến thành tên đầy tớ xa lạ, Người nông dân bụng thời đói, suốt từ hôm qua đến giờ chưa có một hột trong bụng đói thôi là đói. Nhà cửa mất sạch ba cô vợ đẹp thi nhau phục vụ cho ông chủ giả. Người nông Dân tức giận run lên vì bị tên Đầy Tớ lừa tìm tên lừa đánh cho một trận.

    Người nông Dân bước vào trong nhà thấy tên Lừa ngồi chễm chệ ăn toàn thức ăn cao lương mỹ vị, ba bà vợ trẻ ra sức phục vụ cho tên Đầy Tớ hắn lấy làm sung sướng thích thú hả hê. Tức quá người nông dân lao tới la lớn thằng lừa tao đánh vỡ đầu mầy.

    Người Đầy Tớ giờ là thân phận của Ông Chủ. Chỉ người nông Dân với thân phận là Đầy Tớ hét lớn chúng bây đâu lôi thằng Đầy Tớ nầy ra đánh cho một trận. Thế là bọn gia nhân lôi người nông Dân ra đánh bầm dập. Người nông Dân la lớn sao chúng bây lại đánh tao, bọn gia nhân còn đánh hơn nữa quá mắn đồ ăn mày cút đi nếu không muốn bỏ mạng nơi đây.

    Người nông Dân sưng mình dập mẩy lê lết đi ra khỏi nhà bị thằng Đầy Tớ nó lừa mới nên nông nỗi nầy. Chỉ biết kêu trời khóc đất, không biết phải đi đâu khi không có một đồng xu trong túi. Đói đến nổi gầy còm ốm tong ốm teo.

    Cho đến một hôm người nông Dân trở lại ngôi nhà của mình, thời ôi thôi mọi việc đều thay đổi những gì của người nông Dân trước đó đã biến mất, thay vào đó thay vào đó là ngôi nhà lộng lẫy khang trang, kẻ ăn người ở còn nhiều hơn trước, sự nghiệp Cha Ông để lại nay thuộc của người khác rồi. Tại ai do tại lòng Tham mà ra tất cả, không muốn làm mà muốn có, ham quá hóa ra thâm, mất đi tất cả. Với thân phận Đầy Tớ sợ người trong nhà phát hiện túm cổ đánh nữa đành lủi thủi bỏ đi.

    Từ ngày cướp sạch gia sản sự nghiệp của người nông Dân. Tên Đầy Tớ bán lần đất đai, rừng vàng, biển đảo ăn chơi trác táng, cao lương mỹ vị, nem rồng chả phụng, gái gú hết con nầy tới con kia.

    Người nông Dân mỗi lần đi ngang qua ngôi nhà của mình đã về tay người khác cứ rụt rè ngoài ngõ. Vô tình tên Đầy Tớ nay đã là Ông Chủ nhìn thấy được cho người ra tóm cổ vào hỏi ngươi rình mò cái gì muốn xin những cục xương thừa thải phải không? Chúng bây đâu cho tên Đầy Tớ ăn mày nầy vài cục. Nhìn những cục xương còn dính chút thịt, nhưng có còn hơn không ra sức mà gặm.

    Tên Đầy Tớ đã biến thành Ông Chủ nông Dân lúc nào cũng ra bề phết sang cảnh. Nhìn Ông Chủ nông Dân đã biến thành Đầy Tớ trở thành ăn xin không chút thương hại mà còn nói. Trước kia ngươi chính là Ông Chủ, còn ta chỉ là tên Đầy Tớ, nhưng chỉ vì ngươi quá ngu lại chứa đầy tham lam nên mới bị Ta Lừa với cái giá ngu si cũng như đầy lòng tham lam đã biến ngươi thành thế nầy. Bụng làm dạ chịu còn trách ai.

    Tên Đầy Tớ trở thành Ông Chủ nói Lòng tham của Ta cái tham đầy mưu mô xảo quyệt thuộc hàng Ông Nội. Còn cái tham của Ông Chủ ngươi. Cái tham thuộc hàng cháu chắt của Ta. Nên Ông Chủ ngươi mới mất trắng như thế.

    Lũ trẻ nghe Ông Cụ kể đến đây cười lắc ngang lắc ngửa la lên bị đòn là phải, làm Ông Chủ mà ngu như thế, mất nhà mất cửa, mất mấy bà vợ trẻ cũng đáng, đánh vài hèo nữa cho bớt tánh ngu.

    Nói về người nông Dân đã biến thành Đầy Tớ, ngày nào cũng trở về nhà của mình để gặm xương cũng như ăn đồ thừa của tên của tên Đầy Tớ giờ đang là Ông Chủ liền khôn lần ra. Một hôm quỳ xuống trước mặt Ông Chủ Giả, nói tôi giờ đây không còn gì nữa chỉ là thân phận Đầy Tớ. Làm Đầy Tớ ở đâu cũng vậy, tôi xin nguyện ở đây làm Đầy Tớ cho Ông Chủ, Ông Chủ biểu làm gì tôi cũng làm miễn là có cơm ăn là được.

    Ông Chủ giả hiệu nói, thôi được Ta nhận ngươi làm Đầy Tớ, trông coi nhà cửa cho Ta.

    Với cái tánh ăn chơi tiêu xài như nước, gái gú đầy nhà ăn một nửa đổ một nửa, của cướp được thời đâu có gì là tiếc mặc sức mà tiêu mà xài. Ở đời không làm ra mà xài quá của đống cũng hết. Với cái tánh tham lam lại ỷ mình có tài đánh bạc. Nên sanh ra bài bạc kiếm tiền, nào hay đâu con đường bài bạc là bác thằng bần nhà cửa hết sạch ra thân ăn mày. Ông Chủ giả hiệu chính là tên Đầy Tớ càng lún sâu vào nghề đánh bạc, càng đánh càng thua, thua ngày thua đêm không còn tiền để đánh bằng ăn trộm tiền của Bà Vợ Cả trước đây là vợ của Ông Chủ nông Dân. Bà vợ cả phát hiện mất tiền liền nói dạo nầy hay mất tiền coi chừng có ăn trộm.

    Ông Chủ giả hiệu, kêu Đầy Tớ đến chính là Ông Chủ nông Dân dặn rằng ngươi phải coi nhà cẩn thận ngó trước ngó sau thấy ăn trộm là đánh chết cho tao. Ngày nào Ông Chủ Nông Dân cũng bị kêu lên mà căn dặn như vậy, để cho Bà vợ lớn yên lòng.

    Người nông Dân với thân phận Đầy Tớ, bằng nghĩ ra một kế đánh trả thù, mà Ông Chủ giả hiệu không làm chi được.

    Màng đêm buông xuống Bà cả đi đến nhà bạn. Ông Chủ giả hiệu thua liểng xiểng sạch túi, còn nợ thêm người Ta bằng trở về nhà kiếm hạt cơm vào bụng. Ông Chủ giả hiệu thấy không có bà lớn ở nhà cho đây là cơ hội ăn trộm tiền.

    Vội vã mò vào phòng bà lớn, trong phòng Bà Lớn tối om nên không thấy gì cả lục lạo kiếm tìm, tiền lấy chưa được. Thời bị một trận đòn tới tấp, người nông Dân với thân phận Đầy Tớ đánh thôi là đánh, đánh cho hả dạ cơn tức bấy lâu. Tay thời đánh miệng thời hét lớn có ăn trộm, có ăn trộm. Tao đánh cho mầy chết có lẽ bị đánh quá chịu không nổi la lớn. Tao là Ông Chủ đây, ngừng tay ngay ngừng tay ngay đau quá chết mất.

    Lũ trẻ nghe đến đây thích thú quá cười ồ lên đánh nữa đi đánh nữa đi, đánh cho dập mật đập mề, đánh cho chừa cái tội lừa đảo.

    Nói về Đầy Tớ nông Dân không ngừng tay mà còn đánh tới tấp miệng thời la hét ăn trộm ăn trộm, Cả nhà kéo nhau chạy tới thời Ông Chủ giả hiệu đã ngất xỉu, hiện nguyên hình là tên Đầy Tớ. Phép đã hết người Đầy Tớ nông Dân hiện nguyên hình trở lại thành Ông Chủ.

    Phòng Bà Cả đèn đã được thắp lên thấy tên Đầy Tớ bị đánh bầm dập bởi tay Ông Chủ. Bà cả nói Ông giỏi lắm đã là Đầy Tớ không biết thân phận mà còn mò vào đây ăn trộm tiền của Bà. Bà Cả liền bước tới đá cho mấy cái rồi nói lôi cổ nó ra đánh thêm cho một trận nữa. Tên Đầy Tớ khiếp hoảng xin Bà Lớn tha cho.

    Ông Cụ Bình kể đến đây lũ trẻ reo hò hay quá đáng đời cho tên lừa đảo. Ông Cụ ra hiệu bảo im Ông Kể tiếp.

    Nói về người nông Dân đã trở về là thân phận Ông Chủ chỉ tên Đầy Tớ nói. Mầy đã đưa ra cái lợi để nhử tao, bởi tao ham cái lợi, nên chẳng còn cái răng để mà ăn. Lợi thời có lợi hàm răng không còn.

    Ngươi đưa cho Ta những miếng mồi không thật có, lại dai nhách Ta còn răng đâu để mà nhai ăn, ăn không được trở thành ốm tong ốm teo, Nhờ cơm thừa canh cặn ngươi cướp được của Ta, nên Ta mới sống đến ngày hôm nay.

    Những gì ngươi gạt Ta, nay Ta trả lại cho ngươi. Ông Trời có mắt quả báo nhãn tiền báo ứng không sót mảy lông. Nay Ta đã lấy lại tất cả những gì của Ta thuộc về Ta, nên Ta không làm hại hay đánh đập ngươi nữa, đây là bài học quả báo nhãn tiền hãy làm người tử tế mà sống. Cả nhà ngồi nghe Ông Chủ nông Dân nói với thằng Đầy Tớ không hiểu nếp tẻ gì cả. Hay là Ông Chủ đánh quá cũng hóa khùng luôn, nhưng là Ông Chủ ai dám phê phán nên tất cả đều lặng thinh. Người hiểu được lời nói Ông Chủ nông Dân chính là Đầy Tớ bị đánh bầm dập.

    Tên Đầy Tớ bị đánh bầm dập lại không còn gì nữa trắng tay, lủi hủi ra đi luyến tiếc những gì mình cướp được trong bỗng chốc trở thành mất trắng cốt khỉ hoàn khỉ cuối cùng Đầy Tớ cũng trở về là Đầy Tớ người tính không bằng Trời tính xưa nay vốn là như vậy. Gieo nhân Ác mà muốn gặt quả Phúc Lành là điều nghịch lý khó mà đạt được. Ngược lại gieo nhân Thiện, không cầu mong gặt quả phúc lành, thời quả phúc lành cũng tự đến, đó là Định Luật Hóa Công.
     
  2. shopoga

    Bài viết:
    515
    60. THẦY CHÙA VÀ VỊ CƯ SĨ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vào thời mạt pháp có một ngôi chùa Năm Vàng, thờ đủ vị Phật, đủ vị Bồ Tát, phải nói là trang nghiêm. Khi đến đây thành tâm lễ bái cả tiếng cũng chưa kính lễ hết các chư Phật cũng như chư vị Bồ Tát. Sự cúng dường lễ lạy ấy không biết là được xóa tội lỗi hay không, cũng như siêu thoát về trời, nhất là không còn sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Nhưng niềm tin là mình đi lễ Phật, thời được Phật độ Phật Cứu, Bồ Tát phù hộ che chở, cứ thế mà hành hương Cầu Phật, lễ lạy Chư Tăng hết lớp nầy đến lớp khác.

    Nhưng mấy ai hiểu, thật ra không có Phật nào xóa tan tội lỗi khi trong Tâm đã hành ác không có lòng cải hối làm lành. Đã hành ác mà không cải hối làm lành thời phải theo nghiệp ác báo gặt lấy tai ương, hể làm Ác thời Linh Hồn sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, như một Định Luật tự nhiên. Đừng nói là người Phàm, mà ngay cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chỉ cần phạm giới hành Ác thời cũng bị sa đọa như thường. Như vậy không phải là Phật độ, Bồ Tát cứu vớt mà chính mình tự độ cho chính mình, gieo nhân hành Thiện. Nhờ vào gieo nhân hành Thiện ấy sẽ đưa Linh Hồn con người trở về Thiên Đàng Cực Lạc hưởng an vui hạnh phúc trên Thiên Giới. Biết Tánh tự tu, biết Tâm tự độ, không sa vào con đường ác, ấy là Đạo giải thoát. Không cần cầu cũng siêu lên Thiên Đàng cực lạc. Không cần lạy cũng trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Kính lạy Phật, tôn vinh Bồ Tát là điều tốt vì đã gieo hạt giống Nhân Duyên Lành. Nhưng muốn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, mà chỉ biết kính lạy Phật, tôn vinh Bồ Tát. Thời không bao giờ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Mà phải biết Chân Tánh Tự Tu, Biết Chân Tâm Tự Độ. Biết điều ác xa lánh, biết điều thiện cần phải làm. Thông suốt được căn bản nói trên mới là Đạo Giải Thoát. Có nghĩa là phải hiểu căn gốc các Ngài vì sao trở thành Phật, trở thành Bồ Tát hưởng phước báo an vui tự tại, là vì các Ngài Biết Tánh Tự Tu, biết Tâm Tự Độ. Xa lánh điều ác, đi trên con đường Nhân Thiện Từ Bi, Bác Ái, cứu người không di hại đến người.

    Kính lạy Phật, tôn vinh Bồ Tát nhưng Tâm hành ác, Tánh hành hung, không có lòng Từ, thường làm hại con người, thời dù cho lạy khắp mười phương chư Phật. Cúng dường mười phương chư Bồ Tát cũng không siêu thoát được tội lỗi của mình. Phải chịu theo Định Luật Thiên Ý Vũ Trụ gieo nhân kết quả mà thọ lãnh. Những người không lạy Phật, cũng chẳng tôn vinh Bồ Tát nhưng Tâm hành thiện rất tốt. Tánh Từ Bi, Bác Ái thương người, không cầu thành Phật cũng thành Phật. Không lạy Bồ Tát cũng trở thành Bồ Tát.

    Sự mê tín, tin vào những chuyện hoang tưởng hành Ác chuyên làm hại con người. Chỉ cần cúng dường lễ Phật là được siêu sanh lên các Cõi Trời, Tầng Trời. Không phải cuồng tín hoang tưởng là gì. Đã hành ác gieo nghiệp ác muốn siêu thoát về trời, chỉ còn một cách duy nhất là cải hối làm lành, bỏ ác tùng thiện mà thôi. Muốn về trời cũng như thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa như các Ngài, thời phải gieo nhân hành Thiện, dùng Văn Hóa Thiên Ý tận độ nhân loại con người, xa lìa tội lỗi thời nhất định siêu sanh về trời, cũng như thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

    Thế nhưng ở đời mấy ai hiểu được điều nầy. Tự thần thánh hóa đi đến ảo tưởng trở thành cuồng tín, tin những chuyện không bao giờ có thật. Nếu hành Ác mà chỉ cúng dường chư Phật, kính lễ Bồ Tát siêu sanh về thiên giới thời cần gì xa lìa tội lỗi, cần gì hành thiện, cần gì đi tu. Cúng dường lễ Phật là xong. Nơi chùa Năm Vàng có vị Đại Sư được cho là chứng đắc thông thái, thông suốt kinh Phật, kinh nào cũng biết. Lời nói của vị Đại Sư có trọng lượng lên đến hàng tấn, hàng Cư Sĩ đều phải cúi đầu lắng nghe.

    Cho đến một hôm, vị Đại Sư giảng Đạo thao thao bất tuyệt. Sư nói: Những người để tóc theo hạnh Cư Sĩ, Đạo hạnh còn thấp, chỉ có các Tăng, Ni cạo đầu là người trí huệ, chứng Đạo thâm cao. Vì thế những người còn để tóc phải luôn cung phụng cúng dường Tăng, Ni. Vì những Tăng, Ni cạo đầu có phước báo lớn, nhân duyên lớn, cũng như sự giác ngộ lớn về Đạo. Vì vậy muốn thành Phật thời phải xuất gia Cạo đầu tức là cầu Đạo mới thành Phật. Cạo Đầu trở thành Tăng, Ni là đi vào giác ngộ trí huệ cao siêu, phước báo thù thắng. Hàng Cư Sĩ không cạo đầu tu hành còn thấp, nói chung là muốn cho người ta kính lạy thời phải cạo đầu, xuất gia.

    Lời của Cao Tăng Đắc Đạo ai dám không nghe, hay biện luận hỏi lại, nên im thin thít cho đây là lời dạy Chân Thật nghĩa. Lời dạy vàng. Khi ấy có vị Cư Sĩ đứng dậy lên tiếng: Bạch Đại Sư, theo như Sư nói, những người để tóc Đạo Hạnh chưa cao, trí huệ thấp kém, không bằng người Cạo Đầu trở thành Sư Sãi. Lời dạy nầy có đúng là Chân, Thật, Nghĩa không? Đúng như những gì Phật dạy không?

    Vị Đại Sư nghe vị Cư Sĩ nói thế không được vui còn cho là thiếu hiểu biết. Nên nói: Hạnh Cư Sĩ là hạnh Tam Quy Ngũ Giới. Còn hạnh Tăng, Ni là hạnh 250 giới, 350 giới. Hàng Cư Sĩ phải coi Tăng, Ni là bậc Thầy. Người có tóc phải lạy người Cạo Trọc.

    Vị Cư Sĩ nói: Thưa Đại Sư, Đại Sư có bao giờ lạy người có tóc chưa? Không những lạy mà còn lạy sói đầu.

    Vị Đại Sư cố dằn lòng tức giận để tỏ ra là người không còn Tham, Sân, Si. Bình tĩnh hỏi: Nầy vị Cư Sĩ kia không được phỉ báng Tăng Ni như thế. Vì lời nói nầy thời phải chịu sa đọa vào Tam Đồ Khổ. Tức là sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

    Vị Cư Sĩ không lấy gì làm giận, lại tôn kính nói: Thưa Sư, bao lâu nay Sư lạy người có tóc hay người trọc đầu? Vị Sư nghe xong chưng hửng nói: Đương nhiên là lạy người trọc đầu. Vị Cư Sĩ nói: Trong hành Thập Thiện, Phật dạy là không được nói láo, nói đâm thọc, nói thêu dệt, nói ác khẩu. Ý phải chân chính không được vọng ngữ. Nếu vi phạm một trong bốn điều vọng ngữ ác khẩu nầy dù tu vạn kiếp làm Tăng, Ni cũng không bao giờ trở thành Phật hay Bồ Tát được. Để minh chứng những gì Cư Sĩ tôi nói. Đại Sư ngày đêm luôn lạy người có tóc, không phải lạy người trọc đầu. Thế mà Đại Sư nói người có tóc phải lạy người trọc đầu, mới gọi là tu hành chân chính.

    Đại Sư hãy dẫn toàn bộ Cư Sĩ nơi đây đi vào Điện Thờ, xem lâu nay Đại Sư thờ lạy người có tóc hay người trọc đầu. Thật ra nhiều vị Phật trên điện đâu có vị Phật nào Cạo Đầu, toàn là để tóc. Như Phật Thích Ca, Phật A Di Đà. Phật Nhiên Đăng và còn nhiều vị Phật khác. Cũng như các vị Bồ Tát, như Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đâu có vị nào là Cạo Đầu. Như vậy Cạo Đầu đi tu mới thành Phật, Mới thành Bồ Tát, chính Là nói không đúng sự thật, không có căn cứ về mặt Pháp Lý cũng như Chân Lý. Chỉ có vị Phật Di Lặc là Cạo Đầu nhưng ngài chưa ra đời, không thể chứng minh là Phật Di Lặc cạo đầu hay không. Từ xưa đến nay Tăng, Ni đều lạy người có tóc, coi người có tóc là Phật, là Bồ Tát. Không những lạy ngày mà còn lạy cả đêm.

    Nếu Đại Sư biết xưa nay mình lạy người có tóc, thời Sư đã không dám xem thường người để tóc. Xa lìa sắc tướng, chú trọng về Tâm. Chỉ có tu Tâm hướng thiện mới đi đến kết quả Chân Thiện, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Chứ Không phải ở chỗ xuất gia, hay tại gia. Cạo đầu hay không cạo đầu. Chân Tâm vốn Bình Đẳng. Lương Tâm vốn là Phật Tánh. Phật tại Tâm không cầu, cầu Phật ngoài Tâm làm sao thành Phật được. Thiện, Ác do mình gieo ra. Muốn xuống Địa Ngục thì hành Ác, không hành Ác làm sao xuống Địa Ngục được. Lời nói Thật chính là lời nói Thiện. Lời nói không thật chính là lời nói Ác. Đã nói sai sự thật lừa dối Tâm mình lừa dối mọi người Địa Ngục không mời cũng tự mình sa đọa xuống đó.

    Theo Định Luật Vũ Trụ:

    Tâm tạo Ác thành Quỉ.

    Tâm Từ Bi cứu khổ là Phật

    Tâm hành Luật là Thánh

    Tâm hiểu Đạo an nhàn là Tiên

    Tâm bảo hộ lẽ phải là Thần

    Tâm không nhiễm cảnh trần là người giải thoát.

    Tâm không hại người là Tâm Bồ Tát

    Chỉ có một cái Tâm, khởi động thành Pháp. Chỉ một cái Tánh mê chấp biến ra đủ dạng đủ hình. Đủ loại tướng. Nào là Phật, nào là Thánh, nào là Tiên, nào là Thần, nào là Chúa. Nào là Thinh Văn, nào là Bồ Tát. Nào là Thiện, nào là Ác, nào là Quỉ, nào là Ma. Chỉ một Chân Tâm, Chân Tánh mà biến ra vô lượng nghĩa như vậy.

    Biết Tâm Tự Độ, biết Tánh Tự Tu, thường làm Chủ Chân Tâm, thường tịnh không Chân Tánh, an trụ tự nhiên, có nghĩa là Vô Trụ, không khởi niệm an trụ, an định Tự Nhiên. Tùy duyên mà hóa độ chúng sanh, lập ra nhiều phương tiện bệnh nào thuốc nấy. Chúng sanh có 8 muôn 4 nghìn tật bệnh. Thời phải có 8 muôn 4 nghìn pháp môn để chữa trị. Thầy thuốc giỏi rời xa chấp Pháp tức là chấp Văn Tự, rời xa chấp Tướng tức là chấp hình tướng để không đi đến phân biệt chấp ngã thọ giả rơi vào Ma Đạo Kiến Chấp.

    Cạo Đầu, không Cạo Đầu đâu liên quan gì đến Tu Tâm. Tại Gia, xuất Gia đâu liên quan gì đến sự Giác Ngộ. Để tóc mà sống Thiện, còn hơn Cạo Đầu trở thành Ma Tăng. Tại Gia mà biết tôn kính Ông Bà, Cha Mẹ, còn hơn Xuất Gia mà quên Cội, quên Nguồn. Sự sống của những bậc Đại Giác Ngộ. Sự – Lý bao giờ cũng Viên Dung. Lý thường gắn liền với Sự. Sự thường hiển bày rõ Lý. Đó chính là Chân, Thật, Nghĩa của Giáo Pháp. Đem lại niềm tin cho Đời lẫn Đạo. Nói xong vị Cư Sĩ biến mất, để lại những lời Châu Ngọc cho cả Cư Sĩ và Tăng, Ni.

    Vị Đại Sư từ đó trở đi, không còn xem thường hạnh Cư Sĩ nữa. Vì Hạnh Cư Sĩ cũng chính là Hạnh Phật, hạnh Bồ Tát, hạnh Thánh, hạnh Tiên, hạnh Thần, hạnh Chúa. Gần Bùn Mà Chẳng Hôi Tanh Mùi Bùn. Nhất thời tu ở tại Gia, thứ hai tu Chợ, thứ ba tu Chùa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 16 Tháng năm 2024
  3. shopoga

    Bài viết:
    515
    61. ĐỈNH CAO CỦA SỰ GIÁC NGỘ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngã tư Kỳ Hòa quẹo vào con hẻm 37 số nhà 56 là nhà Ông Bà Hưng. Thường đến chơi nhà Ông Bà Hưng là Ba Hiệp và Tư Lợi. Lần nào cũng vậy khi bộ ba đủ mặt thời cuộc tranh luận sôi nổi lại xảy ra, bộ ba nầy nổi tiếng là ba nhà thông thái. Đề tài tranh luận thời đa dạng nhiều chủ đề, trong đó có sự đàm luận con đường giải thoát đi đến tự tại là sôi nổi nhất.

    Ông Hưng nói: Ba Hiệp, Tư Lợi, nghĩ xem: Tạo Hóa đã tạo lên các Tầng Trời, và cũng tạo ra các Tần Địa Phủ, là để chi vậy, thành phần nào được ở trên trời. Thành phần nào thời ở nơi các tần Địa Phủ. Theo như các Tôn Giáo, Đạo Giáo nói theo Phật thời về cõi Phật trên các tầng trời, theo Chúa thời về nước Chúa trên các tầng trời. Còn những người không theo Chúa, không theo Phật, nhưng họ biết tu tâm dưỡng tánh thời họ về đâu?

    Ba Hiệp nói: Còn về đâu nữa nếu hành thiện không hành ác thời tất cả đều siêu sanh về các cõi trời gần trời. Nếu truyền kinh thuyết giáo tận độ nhân loại con người thời làm Vua, làm Chúa các cõi trời. Cõi Phật cũng ở trên trời, nước Chúa cũng ở trên trời, nói chung là các cõi Thiên Đàng Cực Lạc. Nếu được siêu sanh về trời thời dù ở cõi nào. Cõi Phật, Cõi Chúa, Cõi Tiên, Cõi Thần đều hưởng sự an vui ngang nhau. Sống trên Ngọc Ngà Châu Báu như nhau. Ai cũng có Thần Thông pháp thuật bay biến như nhau, Tưởng ăn có ăn tưởng mặt có mặt như nhau. Lầu đài cung điện như nhau, tùy theo ý thích của mỗi chư thiên tạo ra cảnh giới mình ưa thích. Đã siêu sanh về các tầng trời, thời tần trời nào cũng như tầng trời nào đất đai châu báu. Nhưng khác ở đây là khác xây dựng tạo lập lên kiến trúc cảnh quan lầu đài cung điện, tùy ý thích xây dựng cõi nước trời. Cũng như trí huệ thần thông, đạo đức, sự giác ngộ của mỗi người khác nhau. Nên sự uy linh có khác nhau. Kẻ làm Vua Trời, người làm thiên chúng dân trời.

    Ba Hiệp trầm ngâm suy nghĩ rồi nói. Thượng Thiên, Trung Thiên, Hạ Thiên Vũ Trụ, có 28 tầng trời, Tu Di Sơn, Năm Non Bảy Núi, Thất Sơn Châu Báu. Mỗi tần trời, mỗi Non Tiên đều có vô lượng cõi nước. Mỗi nước trời, mỗi cõi nước Non Tiên tùy theo công hạnh độ người của mỗi người mà có cõi nước trời khác nhau. Như Cõi Nước Phật. Cõi Nước Thánh. Cõi Nước Tiên. Cõi Nước Thần. Cõi Nước Chúa. Đã là con người tức là con cháu Tiên Rồng con cái Nhà Trời, nếu không đánh mất Cội Nguồn Tôn Thờ Tổ Tiên Tạo Hóa, thời ai ai cũng có Quyền thành lập Cõi Nước Trời, cõi nước Non Tiên cho riêng mình. Thiên Chúng đông hay ít là do mình ra công tận độ vậy.

    Tư Lợi xen vào theo như Tôi biết cơ bản cái Gốc để về trời không cần theo Phật, Chúa gì cả. Chỉ cần hành thiện không hành ác, không quên Cội Nguồn là coi như đã được về trời rồi. Phật, Chúa cũng chỉ là những con người Hành Thiện có lòng Từ, biết thương người. Những ai có lòng Từ biết thương người chính là Phật, Chúa, cần gì theo Phật, theo Chúa để về trời. Huống chi làm theo Thiên Ý sống theo Lương Tâm truyền Văn Hóa Cội Nguồn tận độ nhân loại về trời thành lập quốc độ, trở thành các vị Vua Trời. Đâu cần theo Tôn Giáo, Đạo Giáo tu luyện mới được về trời, cũng như làm Vua Trời.

    Bằng chứng ở vào thời xa xưa chưa có Chúa, Phật ra đời nhân loại cũng về trời như thường sống trên Thiên Giới đông vô số vô biên. Trở thành Vua trời cũng đông vô số vô biên.

    Như vậy cái Gốc để về trời chính là giác ngộ con đường Chân Thiện, nhất là yêu nước thương dân sáng lòng Trung, Hiếu rời xa hành ác đi vào hành thiện Nhân, Nghĩa tu luyện, hướng về Cội Nguồn nơi sanh ra Tiểu Linh Hồn cũng như thể xác con người. Không muốn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cũng thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không muốn về trời thời cũng được về trời.

    Lại nữa cái Gốc làm Vua Trời nào đâu phải xa vời chính là dùng Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời tận độ nhân loại về trời. Thành lập Quốc Độ cõi nước trời. Nhiều người lầm tưởng chỉ có theo Phật, theo Chúa mới được về trời. Nên phải quy y Phật, quy y Chúa, cầu độ về trời.

    Nhưng họ nào có hiểu Quy Y Phật chính là Quy Về Chân Tâm, Chân Tánh của mình. Căn cốt của Phật Tánh chính là Lương Tâm con người, không phải quỳ lạy van xin mà có. Quy Y Chúa có nghĩa là hướng về Cội Nguồn tôn thờ Tổ Tiên Tạo Hóa Như Lai. Ấy là trách nhiệm bổn phận của mỗi Tiểu Linh Hồn, hướng về Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Như con phải nương vào Cha, như cành lá phải nương về Cội Gốc. Như một Định Luật Tự Nhiên. Mỗi con người đều có quyền thành lập cõi nước trời. Có quyền tận độ nhân loại về trời theo hạnh nguyện của mình, không ai có quyền ngăn cản.

    Lại nữa theo Phật theo Chúa mà hành ác thời bị sa đọa xuống các tầng địa phủ theo Định Luật Vũ Trụ làm sao về trời, đã hành ác lại không biết ăn năng sám hối bỏ ác hành thiện, dù cho hằng hà sa số Phật, hằng hà sa số Chúa cũng đành bó tay không cứu nổi, đây chính là sự thật. Phật, Chúa mà cứu nổi người ác thời nơi Địa Phủ không có tội nhân để mà hành hình.

    Những ai hành động không trái ngược lại Lương Tâm chính là Tự Độ, (biết tâm tự độ) (biết tánh tự tu) Chân Tánh không thiện không ác, hay còn gọi là Tâm Điền. Hễ gieo sao thời mọc vậy gieo Ác tích Ác, cái Ác lớn lên từ nơi Tâm để rồi gặt họa không biết đến bao giờ cho hết. Gieo Thiện tích Thiện cái Thiện từ Tâm nẩy tạo ra hằng hà sa số phước báo hưởng không bao giờ hết. Vì vậy chọn giống Thiện Lành để mà gieo. Gặt hái phúc báo về sau (nên gọi là biết Tánh tự tu, biết Tâm tự độ) đạt đến cảnh giới làm chủ Chân Ông, Minh Tâm Kiến Tánh chính là như vậy.

    Ông Hưng nói xen vào có nhiều người cho rằng Tu Thiền Luyện Khí chứng đắc nầy đắc kia mới được trường sanh bất tử là không đúng. Vì sao lại nói như thế.

    Vì chỉ cần nghe qua mỗi Linh Hồn đã trải qua vô lượng ức kiếp thời cũng hiểu rõ mỗi Linh Hồn sống mãi chưa bao giờ mất đi, vô lượng thọ sống ngang Linh Hồn Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Chúa Tổ, Thần Tổ. Có thể nói là trường thọ ngang Tạo Hóa. Chỉ khác nhau ở chỗ Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hưởng vô lượng phước báo an vui tự tại làm chủ sanh tử của mỗi kiếp đi qua. Có nghĩa là tạm mượn xác thân, rồi trả lại xác thân, cũng như cởi bỏ lớp áo già cũ nầy, mặc vào lớp áo non trẻ mới. Đường sanh tử của xác thân, là cái lối đi ra đi vào của mỗi kiếp Linh Hồn. Đầy sự vui của những người đã chứng lý giác ngộ không thân.

    Những Linh Hồn hành ác phải chịu vô lượng kiếp quả báo chịu nhiều tai ương khốn khổ hết kiếp nầy sang kiếp khác.

    Linh Hồn Phật Tổ, Linh Hồn Phàm Phu Chúng Sanh. Linh Hồn Tà Ma Ác Quỉ trường thọ ngang nhau. Đâu phải tu cao hay chứng đắc gì mà tăng tuổi thọ của Linh Hồn.

    Thọ lâu hay thọ ít là chỉ cho thể xác tạm mượn mà thôi. Hể có vay mượn đều phải trả. Dù cho đó là Kim Thân của Phật, hay của Chúa.

    Sanh tử là chỉ cho lớp áo da thể xác, bỏ lớp áo da nầy mặc lớp áo da khác. Sự già cỗi của lớp áo da phải bỏ đi, phải thay thế bằng sự non trẻ của lớp áo da mới. Đó cũng chính là Định Luật tự nhiên. Hễ có sanh thời phải tử lâu hay mau mà thôi. Mượn thân tứ đại, phải trả lại cho tứ đại đó là định luật Thiên Ý ai cũng như ai không ai khác ai. Dù cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên trời, phàm phu chúng sanh trần gian sự sống thân xác, hể vay mượn thời phải trả nào có khác gì nhau.

    Xác thân tiên thiên thọ vài tiểu kiếp già cỗi, rồi cũng phải thay xác thân tiên thiên non trẻ mới. Theo Định Luật Hóa Công là như thế nào ai khác ai cùng chung một quy luật sanh tử mượn xác, trả xác như nhau.

    Sự vay mượn thân xác nơi trần gian ở vào giai đoạn gần hết tiểu kiếp sự vay mượn thân xác quá ngắn chớp mắt thời đã già, sự trả lại xác thân tứ đại cũng đi vào nhanh chóng không ai khác ai.

    Phật Thích Ca cũng trả lại xác trần.

    Chúa Giê-su cũng thế.

    Vua, Chúa dân thường cũng vậy. Đã vay mượn xác trần, thời phải trả lại cho trần. Rồi thọ lãnh mặc qua lớp áo da khác. Cứ như thế hết kiếp nầy đến kiếp khác, vay mượn không biết bao nhiêu là xác thân.

    Vì thế những người giác ngộ Sanh Tử, đã gieo trồng nhiều nhân thiện thời lấy đó làm vui, giải thoát kiếp khổ qua kiếp khác vui sướng hơn, nên không sợ hãi vì cái chết trả lại thân xác của mình. Luôn chuẩn bị cho mình một tương lai đi vào sự sống mới. Ví như mãn trần Linh Hồn lìa xa bể khổ siêu sanh lên thiên giới để sống. Với thân xác Tiên Thiên cõi trời sống lâu vài tiểu kiếp, hoặc sống lâu hơn nữa. Làm chủ sanh tử cũng như làm chủ sự thay áo, sống theo Định Luật tuần hoàn xoay chuyển, thời đâu còn sợ hãi cũng như sự lo lắng mà phải cho đó là sự an vui Công Bằng Tạo Hóa.

    Người hành thiện chuyển kiếp sẽ có thân xác Thiên Tiên xinh đẹp. Người hành ác chuyển kiếp sẽ có thân xác Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

    Như vậy sanh tử là quy luật tự nhiên thân xác già nua sẽ bỏ đi, thay vào đó là thân xác non trẻ đi vào cuộc sống mới. Sự vay mượn thời phải trả thời gian vay mượn dài hay ngắn mà thôi. Không ảnh hưởng gì đến Linh Hồn chỉ là thân xác lớp áo da thay ra mặc vào. Linh Hồn là Linh Giác Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ bất sanh bất diệt vô lượng thọ, sống ngang Linh Hồn Phật Tổ Di Đà hay Linh Hồn Phật Tổ Thích Ca. Thậm chí sống ngang bằng Tổ Tiên Như Lai Tạo Hóa. Tiểu Linh Hồn sống ngang Đại Linh Hồn Vũ Trụ.

    Ba Hiệp nói; từ lâu tôi đã thấu rõ dù tu hay không tu Linh Hồn vẫn trường thọ ngang nhau. Sự sanh tử là chỉ cho thân xác vay mượn mà thôi. Nhưng sự chứng đắc thời tôi chưa rõ lắm. Người cho mình đã chứng đắc quả vị nầy, người cho rằng chứng đắc quả vị kia.

    Tư Lợi nói; Chẳng có sự chứng đắc nào cả. Ví như tấm kính bụi bám lâu ngày càng lau càng chùi càng sáng ra cảnh giới bên ngoài lần lần hiện rõ trong gương.

    Hội ngộ Bổn Lai Diện Mục là như thế, mỗi Chân Tâm Chân Tánh đều là Minh Tâm Kiến Tánh, đâu phải tu thiền luyện khí mà thêm. Đâu phải không tu thiền luyện khí mà bớt. Sự chứng đắc chẳng qua Chân Tâm được thanh tịnh không còn phiền não thấy rõ mọi cảnh giới. Ví như lau chùi tấm kính sáng lần ra mà thôi. Nhờ sáng lần ra mà thấy rõ nhiều cảnh giới. Tu thiền luyện khí chẳng qua là sự vay mượn thu nạp Tinh, Khí, lâu ngày kết tụ nhị xác thân liền có pháp thuật Thần Thông cho đó là sự chứng đắc.

    Sự vay mượn xác thân tứ đại, nói chung là có bốn cách, đầu thai vào bụng mẹ sanh ra (gọi là thai sanh) Sự vay mượn tinh hoa tứ đại bằng tu thiền luyện khí lâu ngày kết tụ thành nhị xác thân (gọi là hóa sanh) sự vay mượn xác thân qua hình thức, Noãn Sanh, Thấp Sanh.

    Đã vay mượn thời phải theo Định Luật tiến hóa Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Như một Định Luật Tự Nhiên. Dù cho vay mượn xác thân Tiên Thiên. Thời Tâm cũng chẳng thêm. Dù vay mượn xác thân Phàm Tục thời chân Tâm chân Tánh cũng không bớt. Nên không có sự chứng đắc nào cả. Chân Tâm Chân Tánh trước sau như một Bất Sanh, Bất Diệt, Không Cấu Nhiễm, Trong Sạch Vô Vi. Dù ở kiếp Yêu Tinh cũng Không Giảm Bớt. Dù thành Phật Tổ Cũng Không Thêm Vào, Tu cũng bấy nhiêu, không tu cũng bấy nhiêu. Chỉ khác nhau ở chỗ Mê với Ngộ. Thiện với Ác. Siêu với Đọa. Gặt hái Phúc Báo, nhận lấy tai họa mà thôi.

    Nói về Linh Hồn thời không ai khác ai đều là Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ, khởi sanh ra từ Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Đại Linh Hồn Vũ Trụ là Cội Nguồn của Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ. Ví như Nước khởi sanh ra Bọt Nước. Cội Nguồn của Bọt Nước chính là Nước.

    Linh Hồn nào đoạn diệt phiền não đi vào thanh tịnh thời Linh Hồn ấy càng sáng lần ra, cảnh giới quá khứ vị lai đều hiện rõ trong Tâm từng giai đoạn tạm gọi đó là chứng đắc. Thật ra không chứng đắc gì cả. Vì Chân Tâm, Chân Tánh có thêm, bớt gì đâu mà chứng đắc.

    Tu vô lượng kiếp Chân Tâm Chân Tánh cũng chẳng thêm, luân hồi sanh tử thay đổi xác thân vô lượng kiếp Chân Tâm Chân Tánh vẫn không bớt như như thường còn.

    Sự chứng đắc chẳng qua Chân Tâm Chân Tánh thanh tịnh sáng lần ra mà thôi, do sự sáng lần ra nên có sự chứng biết khác nhau tạm gọi đó là đắc quả vị. Ví như tấm gương càng lau chùi càng sáng mọi cảnh giới đều hiện rõ trong gương.

    Từ cảnh giới đời thường, cho đến cảnh giới quá khứ vị lại. Thậm chí thấy rõ cảnh giới tam thiên đại thiên thế giới, thấy rõ cảnh giới Tiểu Linh Hồn của mỗi Linh Hồn. Cho đó là sự chứng đắc. Nhưng thật ra có chứng đắc gì đâu. Đó là Định Luật hiển nhiên Chân Tâm, Chân Tánh vốn Minh Tâm Kiến Tánh là như vậy. Tự Thể Linh Giác thấy biết tất cả. Chính Là Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Những ai không rõ sự diệu dụng tự nhiên của Chân Tâm Chân Tánh nghĩ do tu luyện mà chứng đắc rơi vào Ma Đạo. Bị Ma cảnh xoay chuyển. Khó mà làm tan biến căn bản phiền não vi tế trong nội Tâm. Lẩn quẩn trong kiến chấp khó mà đạt đến Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Tư Lợi nhìn Ông Hưng, rồi nhìn sang Ba Hiệp nói những người có chút trí thức đều biết Chúa, Phật không có tạo lập ra thế giới vật chất Vũ Trụ. Chúa, Phật sống trong thế giới vật chất vũ trụ. Chúa, Phật cũng không tạo lập ra Đất, Nước, Gió, Lửa tứ đại. Mà vay mượn từ Đất, Nước, Gió. Lửa tứ đại kết tụ thành thân. Phật, Chúa cũng không tạo ra Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mà vay mượn từ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo ra pháp thuật Thần Thông. Như vậy Phật, Chúa không tạo lập lên thế giới vật chất vũ trụ. Nên không có quyền quyết định vận mệnh vũ trụ. Mà chỉ sống theo những Định Luật Vũ Trụ. Thuận theo Thiên Ý thời còn, nghịch lại Thiên Ý thời mất.

    Trời Tạo Lập lên vũ trụ thời chỉ có Trời mới quyết định những gì nơi vũ trụ. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chỉ nghe theo làm Thiên Ý Cha Trời mà thôi, gieo nhân lành để rồi hưởng phúc báo. Nên mới có câu Đại Phú do Thiên trở về với Cha Trời có thể nói là muốn gì đặng nấy.

    Những người giác ngộ đều biết tiểu Linh Hồn, từ Đại Linh Hồn Vũ Trụ khởi sanh ra, ví như Bản Thể của nước sanh ra Bột Nước. Đại Linh Hồn Linh Giác Vũ Trụ sanh ra Linh Thức tiểu Linh Hồn vũ trụ. Trở về Cội Nguồn là chỉ cho Linh Thức tiểu Linh Hồn Vũ Trụ, trở về với Đại Linh Giác Cội Nguồn Vũ Trụ, để rồi nhận lấy vô lượng vô biên phúc báo từ nơi Cội Nguồn ban cho.

    Như vậy con cháu Tiên Rồng là con cái Nhà Trời. Tự mình làm chủ Chân Tâm Chân Tánh, lại biết Lương Tâm chính là Phật Tánh, Thánh Tánh, còn phải quy y Phật, quy y Chúa làm gì.

    Đã hiểu rõ Phật Tánh, Thánh Tánh, Chúa Tánh, từ Chân Tâm, Chân Tánh sống theo Lương Tâm mà ra. Nơi Vũ Trụ không có kiểu Phật Quy Y Phật. Thánh Quy Y Thánh, Chúa Quy Y Chúa. Mà chỉ tôn trọng lẫn nhau sống Hòa Đồng quy nguyên trở lại Cội Nguồn, sống theo Thiên Ý hành theo Thiên Ý thời coi như đã đi vào viên mãn. Có thể nói là muốn gì được nấy an vui tự tại.

    Những người lạc Cội lạc Nguồn, chưa liễu ngộ được Chân Tâm Chân Tánh, cũng như chưa nắm vững được Lương Tâm của chính mình rời xa Phật Tánh, Thánh Tánh. Để rồi Phật đi cầu Phật. Chúa đi cầu Chúa. Muôn đời không thành Phật, và cũng không bao giờ thành Chúa. Vì bỏ Phật Lương Tâm đi tìm Phật bên ngoài nên không bao giờ thành Phật. Vì bỏ Thánh Tánh trong Tâm đi cầu Thánh cầu Chúa bên ngoài cầu mãi cầu hoài hết kiếp nầy đến kiếp khác không bao giờ thành Chúa, thành Thánh được.

    Còn Quy Nguyên trở lại Cội Nguồn tôn thờ Nguồn Cội. Tôn thờ Cha Trời, Mẹ Trời. Là tiểu Linh Hồn trở về căn Cội của mình là Đại Linh Hồn. Bọt Nước trở về với Nước. Thành con Trời chính là Thiên Tử, Thánh Mẫu. Đã là Con Trời thời có quyền làm chủ vũ trụ. Cai quản tam thiên đại thiên thế giới. Trở thành Vua, Chúa, các tầng trời cõi trời.

    Chỉ có trở về Cội Nguồn làm chủ những Quyền cơ bản Tạo Hóa ban cho những Quyền Bất Khả Xâm Phạm. Sống theo Thiên Luật vũ Trụ. Tôn vinh Nhân Quyền. Thực thi Dân Chủ. Đời Đạo viên dung, tốt Đạo đẹp Đời, tốt Đời đẹp Đạo.

    Quá bất ngờ với sự hiểu biết của Tư Lợi. Ông Hưng, Ba Hiệp nói. Kiến thức của Tư Lợi có thể nói là vượt qua Tôn Giáo, Đạo Giáo đạt đến cảnh giới đại giác đại ngộ giải thoát tất cả. Giải thoát nô lệ Thần Quyền, Giải thoát nô lệ kiến chấp, Giải thoát sự ràng buộc Tôn Giáo, Đạo Giáo. Đi đến tự tại an vui.

    Ông Hưng nhìn Ba Hiệp rồi quay sang Tư Lợi nói. Theo Tư Lợi. Ba Hiệp hai vị muốn ở ngôi vị Thiên Tử con Trời, Thánh Mẫu con Trời. Phật Mẫu con Trời, Tiên Mẫu con Trời. Hay mãi mãi chỉ là người đi cầu Phật cầu Chúa, cầu Thánh, cầu Tiên.

    Tư Lợi không cần suy nghĩ trả lời. Ở ngôi vị con Trời bao giờ cũng hay hơn là đi cầu Phật, cầu Chúa, cầu Thánh, cầu Tiên, để rồi được Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ban cho chút phúc đức.

    Lại nữa những gì Trời tạo lập ra con Trời sẽ làm chủ cai quản thừa hưởng đó là Định Luật Tự Nhiên. Những người chỉ biết cầu Phật, cầu Thánh, cầu Tiên, cầu Thần, cầu Chúa làm gì được quyền năng ấy.

    Ở đời người ta thường nói Cha Mẹ giàu thời con cái hưởng. Cha Trời Tạo Lập vũ trụ thời chỉ có con trời thừa hưởng mà thôi. Quả đúng như vậy.

    Ví như Tự Lợi có năm người con đứa nào nhận Tư Lợi làm Cha, thời những gì của Tư Lợi tạo lập khai ra được quyền kế thừa thọ hưởng. Còn những đứa không nhận Tư Lợi là cha thời phải tự mình tìm kiếm sanh nhai vậy. Đại phú do Thiên những ai theo Trời, nhận Trời là Cha thời được Cha Trời ban cho đại phú, Phước. Lộc, Tài tràn đầy bao nhiêu sự may mắn kéo đến muốn gì đặng nấy.

    Còn những người không nhận Trời làm Cha thời phải ra sức tìm kiếm bươi mổ. Tiểu phú do cần ra sức làm ăn mới có của không có phúc phần Trời Cho.

    Ông Hưng xen vào nói, phúc phần Trời cho không phải là sự giàu có tầm thường trần gian bạc tỉ. Mà là phúc mệnh làm Vua làm Chúa cao hơn nữa là Vua, Chúa các tầng trời. Phúc phần giàu có ở nhân gian chẳng qua là phúc phần từ bản thân hành thiện, phúc phần từ Ông Bà Cha Mẹ. Không phải là đại phúc do Thiên. Trời đã ban thời ban cho cõi nước giàu có quyền lực không ai sánh kịp.

    Tư Lợi nói, có người theo Phật cho Phật lớn hơn Trời, những người như thế tự phỉ báng Cội Nguồn của chính mình. Trở thành những con người Bất Hiếu đối với Đấng Tạo Hóa. Bao sự may mắn cũng theo đó biến tan.

    Sự tôn sùng đề cao quá đáng, trong khi Phật còn hít không khí để sống, ăn thức ăn để tồn tại, uống nước duy trì thân thể. Không khí, thức ăn, nước uống do Trời tạo, nào phải Phật, Chúa tạo ra. Dù ở trên trời cũng vậy, ở trần gian cũng thế. Vậy mà có người dám cao ngạo nói rằng Phật lớn hơn Trời. Với lời nói thiếu khoa học sắc mùi ngu si cao ngạo nầy khó mà hưởng được phước trời phải trôi lăn vô lượng ức kiếp khốn khổ.

    Ba Hiệp nhìn Tư Lợi nói, có luận chứng pháp lý khoa học chứng minh Phật nhỏ hơn Trời không?

    Tư Lợi nhìn Ba Hiệp rồi hỏi có vì sao nào lớn hơn Mặt Trời không? Ba Hiệp không cần suy nghĩ trả lời ngay. Đương nhiên Mặt Trời lớn hơn các vì sao rồi. Vì Mặt Trời chỉ có một, còn sao thời nhiều vô lượng vô biên.

    Tư Lợi nhìn Ba Hiệp rồi hỏi. Tam thiên đại thiên thế giới có lớn hơn Hư Không Vũ Trụ không? Ba Hiệp nói Hư Không Vũ Trụ chỉ có một. Còn tam thiên đại thiên thế giới là số nhiều làm sao lớn hơn Hư Không Vũ Trụ được. Vũ Trụ Hư Không bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới.

    Lại nữa Trời chỉ có một Pháp Thân rộng lớn như hư không, pháp thân Trời chỗ nào cũng có. Còn Phật thời hằng hà sa số. Những gì hằng hà sa số thời không bao giờ lớn hơn có một không hai. Hằng hà sa số Phật cũng chỉ ở trong Pháp Thân Cội Nguồn của Trời mà thôi. Những Định Lý vũ trụ đã cho ta thấy những gì hằng hà sa số không bao giờ lớn hơn chỉ có một. Vì vậy Phật không bao giờ lớn hơn Trời, chỉ là con cháu của Trời mà thôi.

    Những người cho Phật lớn hơn Trời xem thường Trời thời khó mà tìm thấy sự yên vui hạnh phúc, khó mà siêu sanh lên các miền thượng giới. Xem thường Trời thời những Định Luật của Trời xoay chuyển gieo nhân cuồng ngạo thời phải nhận quả báo tai ương.

    Đó là Định Lý Thiên Ý Định Luật vũ trụ mãi mãi vẫn là như thế, vũ trụ nầy mất đi vũ trụ khác thành lập Định Lý vẫn y như thế mà thôi.

    Ba vị Thông Thái Ông Hưng, Ba Hiệp, Tự Lợi đàm luận với nhau chưa đến đâu chỉ làm sáng tỏ một ít vấn đề mà đã trải qua mấy tiếng. Bà Hưng đã dọn lên những món ăn tuy đạm bạc nhưng chứa đựng đầy tình người. Với giọng ngọt ngào mời ba cao thủ đương đại dùng cơm.

    Nói tóm lại: Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng con cái Nhà Trời cần gì phải theo Tôn Giáo nầy, Đạo Giáo kia mới được về trời. Chỉ cần làm chủ Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền bá Thiên Ý tận độ nhân loại về trời thành lập quốc độ trên thiên giới trở thành các vị vua trời. Chúa Trời, cõi nước Phật, cõi nước Thánh, cõi nước Tiên, cõi nước Thần, cõi nước Chúa. Hưởng phước báo vô tận vô biên. Có hướng đi riêng đi theo Đại Đạo Vũ Trụ. Chúa về trời bằng đường Bộ. Phật về trời bằng đường Thủy, con cháu Tiên Rồng về trời bằng Đường Hàng Không, nhanh nhất, mau đến nhất, đơn giản nhất, không cần tốn sức nhiều.

    BÀI HÔM TRƯỚC BỊ TRÙNG TÔI ĐÃ SỬA
     
  4. shopoga

    Bài viết:
    515
    62. TÀI KỂ CHUYỆN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trường trung học Vạn Hoa, có một học trò có tài kể chuyện đến nỗi thầy Giáo Nhàng cũng mê.

    Thầy Giáo Nhàng đang dạy môn lịch sử nói về Nhân Quyền, Dân Chủ. Liền nhớ đến người học trò kể chuyện rất hay tên là Hậu. Hậu là con mọt sách đọc đủ loại truyện nhất là về chuyện xã hội mang tầm vóc chính trị. Thầy Giáo Nhàng nhìn xuống Hậu nói em có mẩu chuyện nào nói về Nhân Quyền, Dân Chủ không?

    Hậu nói dạ thưa Thầy em có mẫu chuyện Nhân Quyền Dân Chủ rất hay. Thầy Giáo Nhàng kinh ngạc sao mà trùng hợp với môn học đến thế, vậy em kể cho cả lớp nghe đi. Hậu liền bước lên mục giảng kể chuyện.

    Thưa các bạn;

    Ngày xửa ngày xưa, ở vào thời ấy có một đất nước tên là Nam Đu, vì đất nước nầy chuyên đu hết nước nầy sang nước kia, đu đến nỗi rớt lên tuột xuống lỗ tráng mẻ đầu mà cũng không chừa cả lớp bụm miệng cười.

    Hậu tiếp tục kể đất nước Nam Đu luôn bị mẻ đầu lỗ tráng đã khổ lại sinh cái khổ chồng lên. Không may cho đất nước Nam Đu ấy sinh ra một thủ lĩnh tên là Bất Minh phải nói là thiên tài vì tài quá nên đất nước Nam Du gánh lấy tai họa bầm dập. Đúng là chữ tài Bất Minh tài quá làm cho tai họa sanh ra đến nỗi ăn, uống, ca, hát. Thậm chí hang rắn, ổ chuột mà cũng bị tai họa. Nói gì đến dân chúng thời tai họa nhiều như lỗ chân lông, có nghĩa là đụng đâu thời mang họa đó.

    Càng gánh tai họa chúng dân càng ca ngợi tài Lãnh Đạo của Bất Minh.

    Cái tài Lãnh Đạo của Bất Minh không ai có thể hiểu được, tất cả mọi hoạt động của cấp dưới không ngoài sự sắp xếp của Bất Minh không một ai hay biết gì cả. Bất Minh muốn thi hành một chính sách nào đó, hoặc đề cử một người nào đó lên giữ trọng trách quan trọng, liền cho triệu tập cuộc họp thảo luận lấy ý kiến tập thể, thể hiện đẳng cấp Dân Chủ, nhưng khi nào bàn trúng ý Bất Minh thời cuộc thảo luận coi như là đạt kết quả.

    Ví dụ; Bất Minh muốn chọn anh a thời khi nào tập thể bàn đề cử trúng anh a thời coi như dạt kết quả.

    Nếu bàn chưa trúng anh a thời nói rằng bầu chọn chưa sâu sát tiếp tục bầu chọn ra người tài giỏi, đến khi bầu trúng anh a mà Bất Minh ưng ý thời coi như đạt kết quả.

    Kiểu Dân Chủ như vậy thời phải nói là độc nhất vô nhị không ai làm được chỉ có Bất Minh mà thôi.

    Tài không các bạn tài đến nỗi không có sự lựa chọn nào của tập thể. Mượn tập thể lựa chọn đúng người mình chọn, một nước cờ sắp sắp tuyệt đỉnh không ai có thể nhận ra.

    Bất Minh muốn hại một người nào đó mà Bất Minh sinh nghi không bao giờ ra tay, mà thăng cấp người đó làm một nhiệm vụ quan trọng, liền mượn tay địch thủ có nghĩa là chỉ điểm cho địch thủ hạ sát.

    Các bạn thấy tài giết người Bất Minh không để lại dấu viết khiếp đảm chưa, ớn lạnh chưa.

    Nghe tin người mình muốn hại đã chết liền tới khóc lóc ra vẻ thảm thương đòi trả thù nầy nọ, gia đình người bị hại càng thêm cung kính. Giết người thân của họ không ai oán hận mà được cả gia tộc sùng kính, ca ngợi là có Đức. Các bạn có thấy Bất Minh tài không? Đã hại người ta mà còn thu phục nhân tâm cả gia đình người ta, tùng phục mình hơn nữa, đúng là một con Cáo Già thành tinh.

    Cái hay của Bất Minh là muốn làm một việc gì đó để đi đến thắng lợi không những Bất Minh không bao giờ làm.

    Vì làm một là thành công, hai là thất bại, nếu thành công thời không nói gì, nếu lỡ thất bại thời mất huy đâu còn ở ngôi vị thiên tài Lãnh Tụ. Cũng vì vậy mà Bất Minh luôn tìm người thế thay cho việc tính toán của mình. Chỉ có thành công không có thất bại.

    Ví dụ; Bất Minh muốn cướp hết tài sản của Dân, bằng tìm người thay thế cho mưu đồ của mình, bằng đưa ra một cuộc thảo luận Dân Chủ đi vào sôi nổi bàn luận. Bàn cho đến khi nào người nào bàn trúng ý định chọn người của Bất Minh, thời Bất Minh bằng hỏi người ấy lý do nào đồng chí đưa ra ý kiến nầy, đồng chí có thể giải trình trước cuộc họp được không?

    Có nghĩa mưu đồ của Bất Minh là muốn anh A làm việc đó thay mình và đã có người đề cử trúng anh A coi như Bất Minh đã đạt một nửa thành công về mưu đồ chọn người thay thế cho mình thực hiện theo kế sách của mình. Và chỉ cần người ấy giải trình đúng ý định của mình là Ô Kê. Nên Bất Minh nói Đồng Chí A có thể giải trình những kế sách cướp lấy sạch của dân, mà dân không kêu ca gì được cho cuộc hợp nghe để thảo luận.

    Đồng Chí A thưa rằng thưa đại hội Dân còn của là nói Dân không nghe, ví như con gà ăn no thời cú nó không chạy, phải là con gà đói chỉ cần khua cái kiểng là lao tới bất kể sống chết tranh giành nhau mà ăn. Khi Dân no Dân chỉ nghe cái gì có lợi cho Dân cho Nước. Khi Dân đói Dân chỉ lo cho cái bụng Dân thôi, nếu muốn Dân nghe thời Dân luôn ở cảnh nghèo. Vì cảnh nghèo Dân luôn tùng phục những người nắm hết của cải. Sự thành công là ở chỗ nầy.

    Bất Minh nghe sự giải trình đúng theo kế sách của mình liền nói đồng chí A phân tích có khoa học quá. Việc nầy giao cho đồng chí thế là cuộc họp đi vào kết thúc.

    Nếu đồng chí A thực hiện thành công thời Bất Minh tài tình lãnh đạo. Nếu đồng A thực hiện bất thành, bị dân phản kháng chống đối quyết liệt thời đồng chí A gánh thay cho sự đen tối âm mưu của mình Bất Minh không hề liên can.

    Giống như Bất Minh cho người chỉ đạo vụ mùa cấy lúa, trồng ngô, trật thời đổ thừa cho thiên tai, trúng thời nói là tài lãnh đạo. Với tài lãnh đạo nầy Bất Minh chưa bao giờ thất bại một việc làm nào. Vì có người đã thế thay sự thất bại của mình. Bất Minh ra quân hàng trăm trận nhưng không có trận nào là Bất Minh thua cả vị sự thua đã có người gánh thay.

    Với cái tài Ma không hay Quỉ không biết ai mà qua được được Bất Minh. Bất Minh có nhiều phương pháp làm cho người ta đi theo. Mà không biết tại sao mình đi theo. Rất nhiều mẫu chuyện Bất Minh làm cho những người tài đi theo, trong đó có câu chuyện không mời mà cũng tự nguyện đi theo.

    Ở vào thời ấy có vị kỳ nhân ra đời ở Thủ Đô không chịu theo ai cả không theo bên nầy, cũng không theo bên kia, vì thấy không bên nào cũng gian hùng không chân chính. Nên vị kỳ nhân theo hạnh nho sĩ hưởng nhàng, vì bên nào Vị Kỳ Nhân cũng chê. Người tài như thế mà không dùng được thời phí quá.

    Cho đến một hôm Bất Minh nói với những người theo mình, ai mà hàng phục được vị Nho Sĩ ấy theo phe ta thời được phong hàng đầu có công chiêu mộ nhân tài, thế là tay chân thuộc hạ của Bất Minh thi nhau tìm đến nhà vị Nho Sĩ ấy ra công thuyết phục tìm đủ mọi cách cũng không thuyết phục được vị Nho Sĩ tài ba ấy.

    Đàn em tay chân thuộc hạ liền nói với Bất Minh rằng thưa thủ lĩnh người tài không theo phe mình thời chỉ có giết đi tránh hậu họa về sau, nhở vị nho sĩ ấy theo phe khác chống lại phe của mình.

    Bất Minh nói không ai thu phục nổi thời để Bất Minh vậy. Bất Minh kéo theo một số anh em đồng chí đi theo có vẻ phô trương để cho Dân chúng thấy là mình đã đến nhà Nho Sĩ.

    Vị Nho Sĩ tiếp đãi Bất Minh trọng hậu. Bất Minh không đá động gì đến lời chiêu mộ chỉ hỏi thăm sức khỏe cũng như khen tặng lời ca tụng sự tài giỏi của vị Nho Sĩ ấy mà thôi rồi ra về. Những tay chân thuộc hạ lấy làm ngạc nhiên tới thăm chơi như thế thời làm sao thu phục được vị Nho Sĩ đó. Khi ra về Bất Minh đánh động thêm Dân chúng là có Bất Minh tới thăm vị kỳ nhân Nho Sĩ.

    Bất Minh trở về căn cứ bí mật cho người theo dõi. Thời biết vị Nho Sĩ ấy bị triều đình mời lên mời xuống mời lần thứ hai. Bất Minh nói với anh em tay chân thuộc hạ hãy chững bị cho ta thêm một cái chắn với một đôi đũa để chiều nay ta tiếp đãi Nho Sĩ vì đã đến với chúng ta.

    Những tay chân bộ hạ không lấy làm tin cho lắm vì thủ Lĩnh có chiêu mộ gì đâu mà đi theo trong khi những anh em làm đủ kiểu cách mua chuộc hù dọa, đủ mọi thứ cũng không làm cho Nho Sĩ đó đi theo mà đôi khi có ý chống trả lại.

    Quả đúng như lời Bất Minh nói trời vừa sẩm tối thời có đồng chí người được Bất Minh cho ở lại theo dõi Nho Sĩ dẫn vị Nho Sĩ đến gặp Bất Minh. Bất Minh chờ đợi đến ăn cơm.

    Tay chân thuộc hạ theo Bất Minh, vô cùng kinh hãi Thủ Lĩnh liệu việc như Thần biết trước mọi việc xảy ra. Số tay chân thuộc hạ nào biết Bất Minh chỉ sử dụng một mẹo nhỏ đưa vị Nho Sĩ vào thế bí là cấu kết với Bất Minh phản lại Triều Đình nên mới hẹn hò quân cách mạng như vậy.

    Vị Nho Sĩ ấy là người rất thông minh Triều Đình mà mời lên lần thứ hai là bỏ tù luôn đôi khi còn mất mạng vì tưởng rằng mình không chịu khai ra sự thật, âm thầm cấu kết với quân cách mạng, trong khi bằng chứng dân nhìn thấy sờ sờ. Vị Nho Sĩ ấy chỉ còn một cách là bỏ nhà ra đi tìm thủ Lĩnh Bất Minh.

    Vừa ra khỏi nhà đi một đoạn, thời có người đến làm quen dẫn vị Nho Sĩ đi gặp Bất Minh.

    Nói về vị Nho Sĩ thấy Bất Minh ở trong một cái hang thời lấy làm kinh ngạc liền tỉnh ngộ hóa ra là thế.

    Tin đồn lan khắp Bất Minh tài hơn cả Thần Thánh biết trước mọi việc trên đời có một không hai

    Thế dân chúng ủng hộ đi theo sự lớn mạnh như nước thủy triều với một bài hịch tuyệt vời. Là xóa bỏ chủ nghĩa Phong Kiến độc tài độc trị Vua Chúa, đem lại sự Độc Lập Quyền Tự Do, Quyền Công Bằng, Bình Đẳng cho người dân.

    Thế là Quân Dân vùng lên như nước thủy triều đi vào khởi nghĩa xóa sổ chủ nghĩa Phong Kiến độc tài Vua Chúa về tay Nhân Dân. Quân, Dân suy tôn Bất Minh lên làm Lãnh Tụ. Khi lên làm Lãnh Tụ Bất Minh thường nói nào là Dân là Chủ, nào là Nhà nước của Dân, nào là Chính Quyền do Dân, vì Dân, nào là Chính Quyền là đầy tớ của Dân.

    Nghe mùi tai không các bạn cái gì cũng của Dân nhưng đi vào thực tế thời Đảng Lãnh Đạo, Chính Quyền Quản lý. Dân làm chủ không biết là chủ cái gì ở đây? Có làm chủ đấy các bạn làm chủ cái miệng để ăn. Làm chủ cái chân để chạy. Làm chủ cái tay để làm, sự làm chủ tuyệt đối không ai tranh giành sự làm chủ nầy cả, cả lớp đều cười ồ lên bạn Hậu kể chuyện hay quá.

    Các bạn có biết không trong thời gian lãnh đạo đất nước. Bất Minh thường nói đến sự công bằng bình đẳng cao nhất chính là sự Công Bằng Bình Đẳng trong giai cấp công quyền. Theo Thể Chế độc tài độc trị. Người có công nhiều hưởng nhiều, người có công ít hưởng ít.

    Còn thường Dân chỉ là thường Dân. Người nào cũng là Dân Công Bằng Bình Đẳng gì nữa, dân tự làm tự ăn đó là Công Bằng, đã là Dân ai cũng như ai đó là bình đẳng.

    Bất Minh thường nói Chế Độ Ta hơn hẳn triều đại phong kiến là ở chỗ một Đảng Phái lãnh đạo theo kiểu tập thể, không giống Vua, Chúa độc tài lãnh đạo. Một mình muốn làm gì thời làm không có Nhân Quyền, Dân Chủ. Còn chế độ thể chế Ta một tập thể lãnh đạo Công Bằng Bình Đẳng ai cũng như nhau. Người được tập thể chọn bầu lên làm lãnh đạo, thời có quyền lãnh đạo.

    Ông Bà xưa thường nói, ăn cây nào rào cây ấy, người được bầu chọn lên làm lãnh đạo. Là phải trung thành tuyệt đối với Đảng. Vì Đảng còn là đất nước còn. Đảng mất là đất nước mất. Các bạn nghĩ xem cái Đảng Phái của Bất Minh còn quan trọng hơn đất nước Nam Du rồi. Nhưng thật ra đất nước Nam Đu có hơn mấy nghìn năm Văn Hiến. Bao Lớp Ông Cha ngã xuống, nước Nam Du mới tồn tại đến ngày nay.

    Hồn Thiên sông núi nghe đến tài Lãnh Đạo kiểu nầy cũng lắc đầu. Đất nước Nam Du lớn như con voi lần lần chỉ còn bằng con Chuột.

    Mất đi chủ quyền mấy nghìn năm dựng nước giữ nước Nam Du. Mất lần đất đai không còn cơ hội đòi lại đất đai mà ngoại xâm, xâm lấn. Đúng là tài không đức thường gây tai hại. Mở đầu câu chuyện ngoại giao thường học chữ Đu. Đu hết thế lực nầy Đu qua thế lực khác. Đu tới Đu lui u đầu bể trán.

    Khi ấy có một người Dân có thể nói ảm hiểu Về Nhân Quyền, Dân Chủ bằng nói thưa Lãnh Đạo. Thời Vua, Chúa độc tài độc chỉ có một mình còn lợi hại như vậy, nay nâng cấp lên một Đảng độc tài độc trị phải nói là quản lý sát dáng một con kiến cũng không lọt nói gì con người to gấp vạn lần con kiến thời càng khó chui lọt hơn. Dân càng khổ thời quan càng béo mập sinh bệnh gút (gout) đau nhức cả đêm lẫn ngày lại thêm tốn của chữa trị. Cuộc chạy đua thừa đạm chỉ có ở trong quan. Dân còn xương da làm gì chạy đua bệnh gút thừa đạm nổi! Cả lớp cười ồ lên.

    Cuộc nổi dậy thành công xóa sổ độc tài Vua, Chúa dưới sự lãnh đạo tài tình của Bất Minh Dân thoát miệng sói liền rơi vào miệng Beo. Các bạn biết không con Beo chính là con Báo đó, răng nanh con Báo to lớn hơn con Sói ngoạm một cái là tơi xương, móng vuốt to dài nhọn hoắt gấp mười lần móng vuốt của Sói vồ một cái là mạng đi đời, lên bàn thờ mà ngồi giáp một năm chỉ hửi hơi nhang khói một bửa khỏi tốn kém cơm gạo của Lãnh Đạo,

    Sự quản lý tính toán của nhà nước mặt nào cũng lợi cho quan, nên quan càng ngày càng béo phì thi đua cái bụng với mấy bà bầu. Quan hàng Bộ thi nhau lên lầu đài cung điện nguy nga tráng lệ. Hàng quan cấp nhỏ không được cung điện lầu đài, thời cũng mang hình hài dáng dấp đỉnh cao của biệt thự.

    Các bạn thấy chưa độc tài Vua, Chúa Phong Kiến chỉ một Ông Vua ở hoàng cung mà Dân phải ăn cơm độn củ, độn ngô, độn chuối. Còn độc tài Đảng trị ít nhất cũng hàng trăm Ông Vua thi nhau mà xây cung vàng điện ngọc, Dân không hết sạch là may, bửa đói bửa no là khá lắm rồi. Cả lớp không khỏi nín cười.

    Hậu tôi không phải kể đùa chỉ có người nào mang bệnh trí mù là không thấy mà thôi. Còn không cũng dính chút xôi mở miệng mắt quay mất trắng chỉ còn nước là húp cháo.

    Cả lớp nghe Hậu kể chuyện hay quá liền cười ồ lên. Thầy Nhàn đang nghe mùi tai vì tiếng ồn làm cho mất hứng gõ cây thước xuống bàn im lặng im lặng để nghe Hậu kể tiếp.

    Hậu nói nhà Lãnh Tụ thiên tài không phải là không biết Nhân Quyền, Dân Chủ. Nên mới nói được câu Dân là Quyền Lực Tối Cao (Dân Chủ) Mỗi con người sanh Tạo Hóa ban cho con người những Quyền cơ bản, trở thành (Nhân Quyền) có Quyền hưởng Độc Lập, có Quyền hưởng Tự Do, có Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc, những Quyền ấy không ai có Quyền xâm phạm. Nếu làm đúng Nhân Quyền, Dân Chủ, đi vào Công Bằng, Bình Đẳng thời Đảng, Quan, Dân như nhau.

    Quyền kiểm soát của Dân tối cao lấy đâu ra một chốp bu năm bảy bà vợ bà nào cũng trẻ trung xinh đẹp ngực nở mông to lưng eo thắt đáy, cung son lầu đài chín mười cái. Mỗi lầu đài cung điện nuốt trọn vài mẫu đất của Dân.

    Một bữa ăn chơi xa xí chớp bu tốn vài chục triệu. Mười gia đình người dân ăn cả tháng cũng chưa hết. Những nhà hàng dư thừa đồ ăn sơn hào hải vị mấy con bặc-rê nhìn thấy rùng mình ăn không nổi, còn người dân thời làm ăn chạy bữa, có người đi mót từng cái cũ để mà ăn.

    Thể Chế Độc Tài là như thế, người thời giàu quá, người thời áo rách khố ôm tự trong nội thể Chế Độ tao ra mất Công Bằng, Bình Đẳng nghịch lại Thiên Ý. Vì Nghịch Thiên Ý Hóa Công, nên Hóa Công luôn cào chỗ cao lấp xuống chỗ trũng. Nên mấy cung son biệt thự thường lúc lắc rung rinh. Những con chuột quan càng đào hang thủ thế hơn nữa.

    Dân coi vậy mà bình yên vì ở nhà tranh vách lá. Còn Quan thời sợ sắt, thép, gạch ngói đè chết nên phập phồng lo sợ ngày đêm, tội nghiệp cho mấy vị Quan Tham quá. Vợ con bồ nhí hàng tá có bề gì thời tiếc mà đứt ruột. Đâu phải bồ nhí cho không mỗi cô nàng cũng phải mất vài tỉ.

    Người tài quá mà không có đức thường là nghịch Thiên cướp hết Quyền Tạo Hóa ban cho mỗi con người (Nhân Quyền), cướp hết Quyền Công Dân tức là (Quyền Dân Chủ) nên mới ló ra cái ngu ẫn tàn sau cái tài. Nên mới có câu chữ tài liền với chữ Tai một vòng, đất nước Nam Đu vì đi theo Thể Chế Độc Tài Độc Trị luôn bị mẻ đầu lỗ tráng Dân Tộc Nam Du ăn không ngon ngủ không yên, đã khổ lại sinh cái khổ chồng lên. Gánh lấy tai họa bầm dập, tai họa sanh ra đến nổi thậm chí ăn, uống, cũng sợ. Còn dân khổ đến nỗi bắt được con gì cũng ăn, trừ con bồ lon ốc vít ra, tai họa nhiều như lỗ chân lông, có nghĩa là đụng đâu thời mang họa đó. Cũng bởi lãnh tụ quá tài mà không có đức.

    Thầy Nhàng nghe xong liền nói hay quá, hay hết biết luôn còn nữa không thầy muốn nghe tiếp. Hậu nói câu chuyện Lãnh Tụ Thiên Tài đến đây là hết. Thầy Nhàng như có vẻ luyến tiếc vì câu châu chuyện hết mất, những em không hiểu chính trị như vịt nghe sấm. Còn những em hiểu chút ít chính trị thời đây là câu chuyện tuyệt vời. Chuyện để đời những bài học vô giá.
     
  5. shopoga

    Bài viết:
    515
    63. VẠN CỐC SƠN

    PHẦN 1

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày xửa ngày xưa vào thời Hùng Vĩ Lang đời thứ 20 thượng Hùng Vương. Hùng Vĩ Lang lên ngôi thay cho Quốc Vương Nội là Hùng Yên Lang thiên hạ thái bình an lạc, thi đua phát triển làm giàu.

    Khi ấy ở Hoa Sơn Động có vị kỳ Nhân hội nhập Cội Nguồn trí huệ sáng soi chuyện gì cũng biết, nhưng không bao giờ thâu đệ tử. Biết bao người tìm đến chỉ nghe lời giảng dạy rồi về.

    Cũng vào thời ấy có hai chàng trai phải nói là thông minh ít ai bằng một người ở Trung Châu, Một người ở Hồng Châu, hai người gặp nhau ở dưới Hoa Sơn Động. Đồng chung cảnh ngộ là chờ đợi gặp cho được vị kỳ Nhân, sự chờ đợi cả tháng nên hai người dần dần đi đến làm bạn kết nghĩa Huynh, Đệ, với nhau tâm đầu ý hợp không khác gì anh em ruột thịt. Một người tên là Đào Hoa nhỏ tuổi hơn làm Đệ, một người tên là Chí Thiện lớn tuổi hơn làm Huynh, sự kiên nhẫn chờ đợi của hai chàng trai trẻ cuối cùng vị Kỳ Nhân cũng xuất hiện.

    Vị Kỳ Nhân nói hai con đều có nhân duyên với Ta. Ta nhận hai con làm đồ đệ, đây là chuyện hi hữu chưa từng có xảy ra trong đời của Ta. Chí Thiện và Đào Hoa mừng quá quỳ lạy bái sư.

    Vị Kỳ Nhân nắm lấy tay hai đệ tử phi thân bay qua dãy núi đến dòng thác Hoa Sơn Động. Nơi đây cảnh sắc rực rỡ hoa nở khắp cùng cảnh vật xinh đẹp lạ lùng khác xa nơi trần thế khác gì Bồng Lai Tiên Cảnh trên cõi Tiên. Hương thơm thoang thoảng làm cho người thư thới nhẹ nhàng, bao phiền não không còn. Hai chàng trai trẻ ở Vạn Cốc Sơn tu tiên học thuật. Thời gian mới đó đã được ba năm. Chí Thiện và Đào Hoa cùng luyện một chiêu cuối cùng trong Vạn Kiếm Hoa Tiên. Nhìn đường kiếm của hai chàng trai trẻ đã luyện đến xuất thần nhập quỉ, kiếm pháp lúc thời như mây bay. Lúc thời như thác đổ. Lúc thời như mưa sa bão táp.

    Bỗng một người xuất hiện khen hai con đã luyện thành công chiêu cuối cùng trong Vạn Kiếm Hoa Tiên. Ở chốn giang hồ khó kiếm người đỡ nổi vài chiêu của các con.

    Nay thầy cho hai con xuống núi, hai con chửng bị rồi lên đường.

    Chí Thiện cùng Đào Hoa quỳ lạy Sư Phụ rồi nói chúng con khờ dại, trường đời thời rộng lớn, khó tìm ra phương hướng để đi xin Thầy chỉ dạy cho.

    Vị Kỳ Nhân liền dạy bảo chỉ cần sống đúng Lương Tâm làm theo Lương Tâm, sự thành đạt sẽ như ý nói xong vị Kỳ Nhân biến mất.

    Hai chàng trai trẻ chưa hiểu gì về lời dạy của Thầy nhất là những thâm sâu trong ấy. Hai chàng trai nhớ mãi lời dạy của Thầy trong từng bước đi cũng như nằm ngồi.

    Trên đường trở về Đào Hoa và Chí Thiện luôn đem ra bàn luận với nhau, nào là không hại người, thường giúp đỡ người nào là làm ăn chân chính tất cả những đề tài đưa ra đều có lý. Về tới Trung Châu hai người chia tay Đào Hoa trở về nhà nằm trong thành phố Trung Châu. Còn Chí Thiện trở về Hồng Châu.

    Cha của Đào Hoa là Ông Chậm Tiến, nhưng là người có đầu óc thương gia, tuy có võ công nhưng lại ít vốn thường buôn bán nhỏ lẻ kiếm sống qua ngày.

    Thấy con trở về Ông Chậm Tiến vui mừng khôn xiết lại thấy Đào Hoa trông khôi ngô tuấn tú hơn xưa. Vai mang thanh kiếm Ông nghĩ ngay đến một thương gia nổi tiếng trùm Trung Châu. Có tài thời đương nhiên sẽ làm nên nghiệp cả. Huống chi Đào Hoa đã tu tiên học đạo thời chuyện làm giàu như trở bàn tay.

    Nói về Chí Thiện trở về Hồng Châu trở lại quê nhà là một xóm nghèo trong huyện Hồng Ngự. Cha Mẹ mất sớm Chí Thiện lớn lên trong tình thương xóm làng. Nhưng nhờ sự thông minh Chí Thiện đã đóng góp nhiều phát minh giúp cho xóm làng kiếm ra cái ăn cái mặc. Sau ba năm xa quê không ngờ nơi đây đã trở nên thay da đổi thịt.

    Một ngôi nhà tranh trong cơn mưa tầm tã, lẻ loi cô độc cách xa xóm làng, một chàng trai trẻ đang phóng tầm nhìn vào cơn mưa. Như đang tìm kiếm cái gì mà chàng trai chưa nắm bắt được. Bỗng nghe tiếng binh khí choảng nhau phát ra từ ngôi nhà bên kia. Không biết ngôi nhà bên kia mọc lên từ lúc nào, nhưng ít ai dám đến nghe đâu là một tên cướp đến ở nhưng không phá phách dân làng, mà thường bảo vệ dân làng nữa là khác. Nên dân làng không cho đó là cướp mà người từ phương xa đến ở.

    Tiếng binh khí chạm nhau mỗi lúc một vang rền. Thiện nghĩ, thấy người gặp nạn Ta nên cứu là sống đúng Lương Tâm, làm theo Lương Tâm, cứu người đâu phân biệt kẻ tốt người xấu, đâu phân biệt kẻ nghèo người giàu. Chí Thiện liền phi thân đi trong cơn mưa hoàng hôn cũng dần dần lịm tắt cơn rét buốt lạnh thấu xương. Đến nơi Chí Thiện nhìn thấy người đàn ông trung niên đang bị sáu người bịt mặt tấn công, người đàn ông trung niên trúng nhiều nhát đao máu tuôn xối xả, một tên bịt mặt quát lớn mạng ngươi đã hết tức thời ánh đao chớp tới.

    Bỗng một tiếng quát lớn dừng tay tức thời một ánh kiếm chớp lên ken đinh tai nhức óc tên sát thủ kinh hãi nhìn sững Chí Thiện như không tin người đỡ được nhát đao của mình là một chàng thanh niên còn rất trẻ. Lấy lại bình tỉnh tên sát thủ quát ngươi là thằng ranh ở xứ nào tới đây can thiệp vào chuyện bọn Ta. Khôn hồn thời cút đi may ra còn mạng sống.

    Người trung niên thấy có người đến cứu mình liền nói chúng nó là bọn cướp với biệt danh là Hổ Báo. Đến đây giết Ta cướp lại túi vàng mà chúng đã cướp của nhà quan. Ta tuy là cướp nhưng không cướp của Dân, không cướp của Quan mà chỉ cướp của bọn cướp. Nên Ta bị bọn cướp truy sát tìm đến đây để giết Ta lấy lại túi vàng cũng như loại trừ tên cướp, cướp trên kẻ cướp làm chúng mất ăn mất ngủ ngày đêm.

    Nghe được lời ấy Chí Thiện thầm nghĩ đây cũng là một hành động tốt cướp của kẻ cướp một việc làm không ai dám làm. Đúng là bậc anh hùng có khác. Chí Thiện nhìn sáu tên cướp nói các ngươi luôn sống trái lại Lương Tâm các ngươi chuyên đi giết người cướp của, các ngươi cho là đúng, nhưng khi người Ta cướp của các ngươi thời các ngươi cho là sai tìm đến để giết.

    Các ngươi biết quý mạng sống của mình, lại xem thường mạng sống của kẻ khác thậm chí giết đi như con gà con chó. Của các ngươi các ngươi không cho ai lấy, ai đụng đến thời các ngươi giết.

    Thế mà các ngươi chuyên đi cướp của thiên hạ, làm cho thiên hạ đã mất của còn mất luôn cả mạng.

    Theo Công Lý thời các ngươi đều là đáng tội chết, nhưng Ta vẫn mở cho các ngươi một con đường sống là từ bỏ trộm cướp đi, không được làm hại những người dân vô tội.

    Người Trung niên bị bọn cướp truy sát nghe được những lời ấy trong lòng liền tỉnh ngộ nói nếu tôi còn sống, tôi sẽ bỏ nghề trộm cướp trở thành người hầu cho Công Tử sống theo Lương Tâm của chính mình.

    Tên đầu đảng quát Lương Tâm là cái chó gì, các ngươi không một ai sống sót. Bọn Ta chỉ cần vàng và bạc anh em đâu giết tên nầy cho Ta. Chí Thiện nói với người trung niên tạm thời lui vào nhà băng bó vết thương để bọn chúng cho bổn Công Tử. Người trung niên nói lòng tốt Công Tử tôi xin ghi nhận, tốt hơn hết là Công Tử hãy cao bay xa chạy may ra còn được sống bọn cướp Hổ Báo là những tay cao thủ chỉ cần một tên cũng khó đánh lại huống chi tới sáu tên.

    Chí Thiện nghe xong nói bảy đáp bỏ đao thành Bụt. Người hiểu rõ Lương Tâm của mình là bậc kỳ nhân trên đời, tôi quyết cứu người cho bằng được.

    Bọn bịt mặt kẻ kiếm người đao đồng loạt ra tay kiếm đao chơm chớp thân pháp như Ma. Tiến lui như quỷ hầu lấy mạng Chí Thiện trong chớp mắt. Chí Thiên nhanh như tia chớp ra chiêu chống trả binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc, những tên bịt mặt ra chiêu càng hiểm hóc, một đấu sáu vẫn ngang ngửa bên năm lạng người nửa cân trận giao tranh rền trời rền đất. Người trung niên đến lúc nầy hầu như lấy lại bình tĩnh nhìn chàng thanh niên lạ mặt, kiếm pháp tuyệt vời không dễ gì bọn bịt mặt hạ gục trong vòng vài trăm chiêu.

    Nói về Chí Thiện vì không muốn giết người nên chỉ dùng có năm thần công lực, cũng không sử dụng đến tuyệt chiêu, bằng không thời sáu tên bịt mặt bỏ mạng lâu rồi. Không thể kéo dài trận chiến Chí Thiện quát lên một tiếng như sấm nổ đường kiếm cuồn cuộn nổi lên kiếm khí thét gào khủng khiếp ầm ầm đùng đùng sáu tên bịt mặt kẻ thời bay đao người thời gãy kiếm trào máu họng kinh hoàng khiếp vía thi nhau trốn chạy.

    Người trung niên người tuy đầy những vết thương ráng chịu đựng chứng kiến tài nghệ siêu phàm của chàng trai trẻ như nhìn thấy thái sơn xuất hiện. Mạng sống của mình là do chàng trai cứu mạng liền quỳ xuống xin làm gia nhân. Chí Thiện bước tới đỡ người trung niên dậy móc trong túi ra một viên thuốc trị thương đưa cho người trung niên nói đây là viên thuốc Thần Đan quý báu vô cùng không những tăng công lực trị lành vết thương nhanh chóng.

    Quả đúng như Chí Thiện đã nói, người trung niên vừa uống xong Thần Đan trong người liền nóng lên những vết thương kéo da non chóng lành trở lại. Người trung niên thấy mình khỏe mạnh còn hơn trước thời biết là thuốc Tiên, liền nói chủ nhân không những cứu mạng sống của tiểu nô mà con ban cho Tiên Dược ơn như trời biển kiếp nầy khó mà trả được.

    Người trung niên mời Chí Thiện vào nhà rồi kể lại những gì đã xảy ra.

    Gia Nô vốn mồ côi cha mẹ tên là Từ Nhân lớn lên theo thầy học võ nhờ ra công khổ luyện nên cũng có chút căn bản hơn người, có một lần Gia Nô nhìn thấy bọn cướp, cướp của giết người làm những điều tàn bạo ác độc trái với Lương Tâm. Chúng sống trên xương máu đồng loại. Từ đó Gia Nô nguyện làm tên cướp, cướp lại những gì bọn cướp đã cướp của dân của quan, đã là cướp thời Chính Quyền nhà nước không tha, nên Gia Nô phải tìm nơi hoang vắng để sống duy chuyển hết nơi nầy đến nơi khác tránh sự truy sát của bọn cướp.

    Một hôm Gia Nô nhìn thấy bọn cướp Hổ Báo dấu một số kim ngân châu báu không biết là cướp được của nhà nào, chờ cho bọn cướp ăn uống no say lơ là cảnh giác, nhờ vào thân pháp kỳ diệu ẩn hiện như bóng ma Gia Nô đã cướp đi những kim ngân châu báu cũng chúng.

    Đến khi bọn cướp phát hiện thời Gia Nô đã cao bay xa chạy, thế mà bọn cướp cũng đánh hơi được mò đến đây. Võ công bọn cướp Hổ Báo rất cao không ai làm gì chúng nổi nếu một chọi một thời Gia Nô có thể thắng, nhưng đằng nầy có tới sấu tên Gia Nô đành phải thất bại trúng nhiều nhát đao tí nữa thời bỏ mạng may sao Chủ Nhân đến cứu kịp thời.

    Người trung niên vào phòng lấy ra một túi vải lớn đổ xuống đất thời ra trong túi vải đựng toàn là vàng bạc ngọc ngà châu báu. Chí Thiện nhìn thấy vô cùng kinh ngạc bọn cướp, cướp của ai mà nhiều đến vậy.

    Từ Nhân nhìn Chí Thiện nói số vàng bạc châu báu nầy thuộc về Chủ Nhân, nếu không có Chủ Nhân đến cứu không những mạng sống Gia Nô không còn mà số vàng bạc châu báu cũng trở về tay bọn cướp. Chí Thiện nghĩ Từ Nhân đã đi theo mình của mình cũng là của Từ Nhân bằng nói Ta giao số châu báu vàng bạc này cho Từ Nhân gìn giữ khi nào cần Ta sẽ sử dụng.

    Nói về Chí Thiện rời bỏ làng quê Huyện Hồng Ngự phía bắc Hồng Châu dẫn theo Từ Nhân tìm về phía nam Hồng Châu tìm nơi sanh sống đi gần một ngày còn hơn một dặm thời đến Đèo Lao Dốc, ánh hoàng hôn cũng dần dần lịm tắt rừng đồi bạt ngàn hoang vu xa xa thôn làng chìm lần trong làn sương khói. Từ Nhân phát hiện trước mặt vài trăm mét có một ngôi nhà nhỏ bằng nói với Chí Thiện thưa chủ nhân phía trước là ngôi nhà nhỏ đến đó xin tá túc qua đêm. Chí Thiện nói ngôi nhà phía trước sợ không có người ở vì nơi đây hoang vu quá, lại xa làng xốm ba bốn dặm hai ta tạm đến ngôi nhà nhỏ nghĩ nơi đây cũng được.

    Khi còn cách vài chục mét hai người vô cùng kinh ngạc nhìn thấy một thanh nữ tuổi trạc 25 cũng khá xinh đẹp đang dọn dẹp trước sân. Nhìn đôi chân nhanh nhẹn đôi bàn tay lanh lẹ vai mang thanh kiếm cũng đón là người có võ công.

    Chí Thiện chấp tay thi lễ nói. Tại Hạ là người Huyện Hồng Ngự lỡ bước qua đây trời lại sắp tối nên không thể đi qua Đèo Lao Dốc xin tạm vỉa hè qua đêm. Người thanh nữ nhìn qua hai người rồi bước vào nhà lác sau thời bước ra nói.

    Nhà tôi toàn là phụ nữ không nhận khách qua đường nhất là về đêm. Một là các hạ tạm nghỉ nơi đây một lác chúng tôi sẽ đưa quý khách qua Đèo Lao Dốc với số tiền không rẽ vì qua đèo về đêm.

    Hai là quý khách quay trở lại tạm nghỉ chân nơi làng xóm sáng mai sẽ qua đèo. Nếu các hạ cảm thấy cần người bảo tiêu. Chủ Nhân tôi sẽ đưa hai vị qua đèo đến nơi làng xóm bên kia với giá rẻ hơn phân nửa giá về đêm. Chí Thiện nói trời cũng đã tối ánh trăng đã hiện về trở lại xóm làng cách đây khá xa đường đi hoang vu dù cho tới được xóm làng cửa nhà nào cũng cài then đóng kín khó mà cho hai chúng tôi trọ ở lại nhà của họ. Xin Cô thông cảm nói với chủ nhân chúng tôi là những người lương thiện không có ý gì xấu. Chỉ tạm nghỉ vỉa hè qua đêm mà thôi.

    Bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, từ trong nhà tiếng nói ngọt ngào thanh tao vọng ra. Hạnh Cô đưa hai người đó vào trong nhà nhanh. Hạnh Cô nói mau lên hai người theo tôi vào trong nhà không được bước ra ngoài.

    Hai người vừa bước vào trong thời đèn đuốc cũng tắc hết tối om. Nhưng với đôi mắt của Chí Thiện thời nhìn thấy người trong nhà một cách rõ ràng một thanh nữ tuổi trạc mười tám mười chín phải nói là xinh đẹp ăn mặc gọn gàng vai mang cung tên vai mang thanh kiếm không khác gì một nữ hiệp. Ngoài đường vó ngựa đã dừng Chí Thiện nhìn thấy năm người xuất hiện. Bọn chúng người nào người nấy mặt mày hung dữ. Một tên quát lớn đã thấy bọn Ngũ Sát ta sao không quỳ lạy, một tên nói coi bộ cũng xinh gái đấy chớ, đại ca để cô ấy cho ngũ Sát, chỉ là một con gà mái cần gì đến Sói chúa Đại Ca.

    Tên ngũ Sát liền xuống ngựa nhích chân một cái là di chuyển năm sáu mét chụp vào tay của Hạnh Cô. Hạnh cô liền né tránh tên Ngũ Sát chụp hụt quát lên ra là thế thảo nào ngươi dám ở đây. Tên Ngũ Sát hai tay nhanh như chớp tấn công vào ba nơi thượng, trung, hạ hầu điểm huyện Hạnh Cô. Hạnh Cô nào phải tay vừa, vừa né tránh vừa phản công. Tên Ngũ Sát biết dùng tay khó mà khống chế đối thủ bằng rút đao chém tới những thế đao bí hiểm.

    Hạnh Cô rút kiếm chống trả hai bên đánh nhau chưa bên nào hạ được bên nào. Thời một tiếng quát nổi lên tùng phục ngũ sát ta thời sống chống lại ngũ sát ta thời chết. Ngũ Sát lui ra để con nhỏ đó cho Nhị Sát ta làm thịt cho rồi. Với đường đao mạnh như sấm sét chém vào Hạnh Cô, Hạnh Cô ra chiêu chống trả ken một tiếng đinh tai nhức óc Hạnh Cô lảo đảo muốn ngã hình như đã bị thương tuy không nặng nhưng cũng khá sâu nơi vai. Nhị Sát liền nhanh tay chụp tới Hạnh Cô khó mà chống đỡ. Bỗng một tiếng quát nổi lên hay cho bọn ngũ sát tới đây tìm cái chết ầm một tiếng Nhị Sát trúng liền một chưởng trào máu họng thất kinh. Nhất Sát thấy một người con gái xinh đẹp cười lên hô hố không ngờ Đèo Lao Dốc nầy có người xinh đẹp như vậy. Ta tuy đã có nhiều bà, như không bà nào xinh đẹp bằng cô nầy quy thuận ta thời sống chống ta thời chết. Người con gái xinh đẹp quát hỗn láo xem nầy tức thời thân hình như con chim phụng bay lên thanh trường kiếm loang loáng chém tới. Nhất sát quát lên khá lắm hắn chém liền mười mấy đao vào người con gái xinh đẹp binh khí chạm nhau chói tai không ai nhường ai xông vào xáp chiến, hai tiếng quát nổi lên Tam Sát, Tứ Sát xông vào mỗi người đồng ra chiêu tử thần thế là ba người đánh một, người con gái xinh đẹp coi bề yếu thế đồn lần đến chỗ chết.

    Nói về Hạnh Cô lảo đảo bị thương Nhị Sát từ trên ngựa phóng xuống nhanh tay chụp tới tưởng đâu là tóm được Hạnh Cô nào hay đâu trúng một chưởng học máu bị thương khá nặng. Vì ráng sức đánh ra một chưởng Hạnh Cô lảo đảo muốn ngã. Ngũ Sát không để cho Hạnh Cô đứng vững chém tới một đao Hạnh Cô ra sức né tránh, Ngũ Sát truy Sát tới cùng. Nhị Sát như lấy lại sức lực chém nhanh một đao về Hạnh Cô. Bỗng Nhị Sát rú lên một tiếng kinh hãi cánh tay cầm đao của Nhị Sát đứt lìa máu tuôn lênh láng.

    Ngũ Sát nhìn thấy một người trung niên không biết từ đâu đến lạnh lùng đứng nhìn bọn chúng không nói không rằng.

    Sự thể xảy xa quá bất ngờ người trung niên như bóng ma tống cho Ngũ Sát một quyền bị trúng đòn ngã nhào hộc máu hắn kinh hãi rú lên như heo bị chọc huyết.

    Nói về người con gái xinh đẹp bị ba tên ác sát dồn lần đến chỗ chết ba ánh đao ba hướng chớp lên thế là xong đời người con gái xinh đẹp. Bỗng nghe một giọng nói lạnh lùng lũ các ngươi thật đáng chết ầm ầm đùng đùng ba tên ác sát mỗi người trúng một chưởng trào máu họng khiếp kinh bỏ chạy, người con gái xinh đẹp nào để yên bắn liền ba mũi tên bọn chúng rú lên cố sức tẩu thoát thế là năm tên ác sát biến mất.

    Nói về Hạnh Cô thấy người cứu mình không ai khác hơn là người xin nghỉ qua đêm, không ngờ võ công lại cao cường đến thế, đúng là chân nhân bất lộ tướng Hạnh Cô đỏ mặt vì đã xem thường người ta. Hạnh Cô nhìn đi nhìn lại trông người trung niên cũng dễ coi tim liền rung động mỉm cười nói thì ra người là một cao nhân. Thật ra Từ Nhân không lợi hại như vậy nhờ uống Tiên Đơn công lực tăng lên gấp bội nên mới lợi hại như vậy bọn Ác Sát nầy không kém gì bọn cướp Hổ Báo võ nghệ vô cùng cao cường.

    Người con gái xinh đẹp nhìn Chí Thiện nở nụ cười duyên trông càng xinh đẹp hơn lên e thẹn nói thiếp quả có mắt như mù không nhìn thấy thái sơn. Với võ công cái thế như vậy thời đi qua đèo như đi trên đất bằng, chẳng có con Ma nào dám động đến. Cảm ơn Công Tử ra tay cứu mạng. Thiếp tên là Bảo Trâm quê Thiếp cũng ở Huyện Trạch Châu nầy cách đây không xa gia đình thiếp bị bọn cướp Hổ Báo cướp sạch của còn bị chúng giết khi ấy thiếp theo thầy học võ trở về thời ôi thôi chẳng còn gì chỉ còn một người hầu sống sót chính là Hạnh Cô đây.

    Thiếp truyền thụ võ công cho Hạnh Cô nghe đâu bọn cướp thường hoành hành đèo lao dốc thiếp đến đây làm nhà trước thời kiếm sống bằng con đường bảo tiêu người đi qua đèo, hai là truy tìm tông tích bọn cướp Hổ Báo đã cướp sạch vàng bạc châu báu nhà thiếp, trả mối hận thù giết cha giết mẹ giết người thân tiện thiếp hơn chục người. Chí Thiện ngớ người một sự trùng hợp ngẫu nhiên có lẽ gia đình Bảo Trâm không phải là người ác đức. Nên Ông trời xui khiến của chủ trả về cho chủ, ôi thế gian rộng lớn nhưng có bàn tay vô hình che chở.

    Bảo Trâm nhìn thấy Chí Thiện như ngẩn người ra mà nhìn mình thời càng e thẹn nói mời Công Tử vào nhà. Bốn người ngồi chung một cái bàn Chí Thiện chưa kịp giới thiệu thời Từ Nhân đứng dậy nói đây là Gia Chủ của tôi tên là Chí Thiện còn tôi tên là Từ Nhân theo hầu Gia Chủ của tôi.

    Chí Thiện như sực nhớ ra điều gì bằng hỏi Bảo Trâm tiểu thơ có thể nhận ra được số châu báu ngọc ngà bị mất không? Bảo Trâm nghe xong lấy làm kinh ngạc nhưng cũng nói đương nhiên thiếp biết rõ vì thiếp thường đùa chơi với số châu báu ấy.

    Chí Thiện nói tiểu thơ có thể kể sơ những gì đã mất không? Gồm có những gì. Bảo Trâm liền kể có hai con ngựa bằng vàng mỗi con nặng ba ký. Vàng bốn trăm tám chục lượng. Ngọc ngà châu báu ba trăm viên. Còn bạc thời rất nhiều.

    Chí Thiện nhìn Từ Nhân rồi nói có hai con ngựa bằng vàng không? Vàng có đủ bốn trăm tám chục lượng không?

    Từ Nhân nói thưa chủ nhân Bảo Trâm tiểu thơ đây nói trúng không sai tí nào Chí Thiện không còn nghi ngờ gì nữa bằng nói đưa số ngọc ngà châu báu ấy cho Bảo Trâm tiểu thơ nhận dạng xem có phải là vàng bạc châu báu nhà tiểu thơ không? Từ nhân liền cởi cái bao đang mang đưa đến trước mặt Bảo Trâm nói tiểu thơ xem đi, những thứ nầy có phải là của tiểu thơ không. Bảo Trâm nói không cần mở nếu là của gia đình Bảo Trâm thời có hai con ngựa bằng vàng mỗi con nặng ba ký. Để xác minh là mình nói đúng Bảo Trâm liền lấy cái cân ra để trước mặt Chí Thiện nói. Nếu trong bao kia có hai con ngựa bằng vàng thời đem cân thử có đúng như những gì tôi nói không. Nếu không đúng là không phải của tôi. Từ Nhân liền lấy hai con ngựa bằng vàng để lên cân thời đúng là mỗi con ba ký. Chí Thiện thấy Bảo Trâm nói trúng phóc như thế thời không còn nghi ngờ gì nữa nói của chủ hoàn trả về cho chủ đây cũng là ý của Ông Trời. Chí Thiện trao bao vải nặng hơn ba chục ký cho Bảo Trâm. Bảo Trâm liền đổ số châu báu ra nền nhà liền la lên đúng là số châu báu của gia đình nhà Bảo Trâm rồi. Chí Thiện nói chính Từ Nhân cướp lại từ tay bọn Hổ Báo. Từ Nhân nói bọn cướp Hổ Báo có lẽ đã cao bay xa chạy vì chúng sợ Chủ Nhân của tôi.

    Có lẽ cơ duyên tiền định do Ông Trời đã sắp xếp cho đôi cặp gặp nhau, để rồi yêu nhau, đi đến trăm năm hạnh phúc. Mới có cảnh hội ngộ ly kỳ như vậy.

    Đây nói về Đèo Lao Dốc là đèo huyết mạch giao thương liên thông qua nhiều Quận, Huyện thuận lợi vô cùng, dân chúng không dám đi qua đây vì thường có trộm cướp. Nên đi đường vòng rất xa.

    Không biết từ lúc nào ba gian quán mọc lên trên đỉnh đèo như nói rằng đỉnh Đèo Lao Dốc đã đi vào bình yên nên mới có người ở từ đấy không thấy bóng dáng trộm cướp xuất hiện nữa, thay vào đó là sự an toàn bình yên cho lữ khách qua đèo tiếng đồn càng lúc càng lan rộng người qua đèo vì thế càng ngày càng đông lên. Người ta qua đèo không những quan cảnh đèo rất đẹp mà còn nhìn thấy ba gian quán trông bề thế rộng lớn có thể vài chục người nghĩ qua đêm cũng còn rộng. Ngôi quán lúc nào cũng hơn mười người dừng nghĩ nơi quán thưởng thức nước trà miễn phí, ăn những quả chuối từ rừng núi cũng chẳng trả tiền, có thể nói là phục vụ từ thiện chỉ nhận những đồng tiền tùy lòng hảo tâm mà thôi hoặc khách có thể mua những đặc sản của rừng núi.

    Người Chủ Quán Đèo Lao Dốc không ai khác hơn là vợ chồng Chí Thiện. Vợ chồng Từ Nhân, cũng như thêm mấy gia nhân người ở.

    Bà Chủ quán là một người con gái xinh đẹp lại ăn nói ngọt ngào được lòng khách đến vừa lòng khách đi. Bà Chủ quán để kiếm thêm thu nhập nên phục vụ cơm chay. Cho những lữ khách đi đường hoặc nghỉ qua đêm. Quán Đèo Lao Dốc vì thế nổi tiếng khắp vùng nổi danh với cái tên quán Thiên Đạo.

    Thật đúng vậy nơi quán Đèo Lao Dốc phong cảnh rất đẹp suối chảy mây bây chim ca hoa nở, cảnh quan thiên nhiên đã đẹp lại thêm có bàn tay kiến tạo của con người trông như một Bồng Lai chốn nhân gian. Đèo Lao Dốc không cao lắm nhưng uốn khúc quanh co, như rồng bay, phụng múa, người qua lại rất đông khối người dừng chân nghỉ ngơi trên đỉnh đèo không khí trong lành thưởng thức cảnh quan xinh đẹp.

    Có lần người ta nhìn thấy Bà Chủ quán phi thân qua thác suối như một nàng tiên, từ đấy tiếng đồn vang xa cho rằng bà chủ quán là người tiên. Nên khách dừng chân không ai dám dở thói trêu hoa ghẹo nguyệt. Bọn cướp giặc không ai dám lảng vảng nơi Đèo Lao Dốc. Nên những người nghỉ chân trên Đèo Lao Dốc không bị mất cắp gì cả.

    Nói đến sống theo Lương Tâm, làm theo Lương Tâm không phải ai cũng làm được, kể cả người tu cũng khó mà thực hành. Thế mà Quán Đèo Lao Dốc họ đều sống như vậy. Đức Độ của họ đã cảm hóa không biết bao nhiêu người, có nhiều người bỏ ác làm lành, lánh xa điều dữ. Chí Thiện nhìn những đám mây lơ lửng trên bầu trời liền nhớ đến Vạn Cốc Sơn, nhớ đến người bạn kết giao Đào Hoa không biết bây giờ ra sao.

    * * *

    Hết Phần 1 xem tiếp Phần 2

    * * *
     
  6. shopoga

    Bài viết:
    515
    PHẦN 2

    VẠN CỐC SƠN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nói về Đào Hoa trở về Trung Châu.

    Cha của Đào Hoa là Ông Chậm Tiến tuy có đầu óc thương gia nhưng võ công không cao khó mà làm ăn cạnh tranh những thế lực mạnh hơn, lại ít vốn thường buôn bán giao thương nhỏ kiếm sống qua ngày. Đã đi vào trung lộ thương gia không giàu thời cũng sướng. Ông Chậm tiến có ba người con hai trai một gái. Chị gái lớn tên Cẩm Nhung có chồng là Ông Chủ Sầm Sơn tiêu cục vận chuyển hàng cho các thương gia. Người anh kế chị Cẩm Nhung tên là Vũ Dũng làm cho anh rể là Ông Chủ Sầm Sơn. Nhưng có quen biết Ông Chủ bảo tiêu Chu Thương.

    Trong các bảo tiêu Ông Chủ Chu Thương là hùng mạnh nhất, nên được các thương gia mướn vận chuyển hàng hóa những hàng cao cấp, nên kiếm được tiền khá lớn. Nhờ kiếm tiền khá lớn nên Ông Chủ Chu Thương trả lương cho người làm khá cao nhất là những người có võ công cao.

    Anh của Đào Hoa là Vũ Dũng đang làm việc cho anh rể là Sầm Sơn, nhưng có quen biết với Ông Chủ Chu Thương biết em mình học thuật tiên đạo nên võ công rất cao, có thể vào Bảo Tiêu Chu Thương với tài năng Đào Hoa thời kiếm tiền rất dễ bằng giới thiệu Đào Hoa cho Ông Chủ Chu Thương.

    Ông Chủ Chu Thương nghe nói Đào Hoa theo Vạn Cốc Tiên Ông học đạo thời biết Đào Hoa võ công rất cao bằng thuê với giá đặc biệt, một chuyến bảo tiêu ngắn ngày lên đến chín mười lượng vàng.

    Đào Hoa khá đẹp trai nên nhiều cô nàng để ý trong đó có con gái Ông Chủ tên là Chu Ngọc vừa thấy Đào Hoa liền mê tít ngay. Đào Hoa đánh bại nhiều đối thủ cạnh tranh không còn ai dám cạnh tranh với Chu Thương. Những mối làm ăn ngon kiếm được kim ngân rất khá do Chu Thương đảm nhiệm. Chu Ngọc theo tiêu cục bám sát Đào Hoa Ông Chủ Chu Thương không muốn mất người con rể tài ba nầy liền gả Chu Ngọc cho Đào Hoa.

    Từ khi lấy Chu Ngọc làm vợ, Đào Hoa hết lòng trợ giúp cho Nhạc Phụ theo nghề bảo tiêu vận chuyển hàng hóa cho nhiều thương gia Chu Thương càng ngày càng làm ăn như diều gặp gió, tiền vô như nước.

    Không may Nhạc Phụ lâm bệnh Ông Chu Thương không thể tiếp tục vận chuyển hàng hóa được nữa, bằng kêu vợ chồng Chu Ngọc vào nói. Cha vốn có bệnh về tim gan dùng không biết bao nhiêu là thuốc nhưng không khỏi nay bệnh tái phát càng trầm trọng không thể đảm nhiệm tiêu cục được nữa Cha giao lại cho vợ chồng con điều hành phát triển tiêu cục bảo tiêu.

    Thế là Đào Hoa thay thế Cha Vợ mở rộng bảo tiêu có thể nói sau nhiều chuyến vận chuyển an toàn tiêu cục Chu Thương lại càng hùng mạnh, nắm bắt thị trường cung cầu qua nhiều Châu, Bộ. Nên việc lớn mạnh Chu Thương nhanh như thổi.

    Ông Chủ Chu Thương vì bệnh quá nặng chỉ mấy tháng sau là qua đời Ông chỉ có một người con gái duy nhất là Chu Ngọc. Chu Ngọc thừa kế cả gia tài đồ sộ Đào Hoa nhờ đó mà làm nên nghiệp lớn. Đào Hoa phát triển tiêu cục bảo tiêu lớn mạnh, mở rộng nhà kho bãi chứa thành thương gia tiêu cục bảo tiêu Hoa- Ngọc. Thương Gia bảo tiêu Hoa- Ngọc, vừa vận chuyển hàng hóa cho các thương gia, vừa tự mình làm thuê cho chính mình qua trung gian cung cầu phân phối. Theo đường lối của Cha Vợ chiêu hiền đãi sĩ nên được nhiều nhân tài theo về làm ăn mỗi ngày mỗi ngày một lớn mạnh, không nói là trùm bá cả Trung Châu.

    Trong nhiều tiêu cục có tiêu cục Vạn Hà, tiêu cục Đồng Cố hơi yếu không thể cạnh tranh lại những tiêu cục hùng mạnh, bằng gia nhập Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc.

    Con gái Vạn Hà là Hồng Thắm khá xinh đẹp, con gái Đồng Cố là Chân Chân cũng khá xinh đẹp, nhìn thấy Đào Hoa vừa đẹp trai vừa phong độ, vừa tài giỏi mặt nào cũng ưu việt thời mê tít thi nhau bám sát Đào Hoa miệng nói giao dịch làm ăn nhưng thật ra đưa miếng mở sát miệng mèo. Đã có tên là Đào Hoa thời đâu có chịu một bà cũng đưa mắt làm tình hành động tán tỉnh thế là như nam châm càng ngày càng hít mạnh. Chu Ngọc lúc nầy có bầu sắp sanh con thứ hai phản đối la lối nhưng không làm gì được, Đành phải chấp nhận thêm hai bà nhỏ nữa cùng chung một chồng.

    Ở Vân Châu có một thương gia giàu có tên là Nhất Gia chuyên buôn bán vàng, bạc, ngọc ngà châu báu. Thuê nhiều tiêu cục vận chuyển vàng, bạc, ngọc ngà châu báu đến kinh đô Văn Lang giao hàng cho thương gia Mạnh Tiến giàu nhất kinh đô Văn Lang.

    Nhưng không tiêu cục nào dám nhận, thứ nhất là vận chuyển kim ngân châu báu. Thứ hai là đi qua nhiều đoạn đường nguy hiểm. Như thung lũng tử thần có yêu tinh quỷ dữ, như rừng Hổ Man bọn cướp Hổ Báo. Qua Đèo Lao Dốc ngũ cướp Ác Sát. Thứ ba là đường sá xa xôi gặp phải giang hồ hắc đạo thời khó mà chống trả.

    Nhất Gia liền đến Trung Châu tìm gặp Đào Hoa Ông Chủ nổi tiếng lẫy lừng thuê vận chuyển ngọc ngà châu báu đến kinh đô Văn Lang với số kim ngân lên đến cả tấn. Đào Hoa cho đây là thời cơ đã đến chỉ cần một chuyến làm ăn nầy bằng ba bốn năm làm ăn. Ngoài vận chuyển kim ngân châu báu, còn kết hợp vận chuyển hàng hóa trao đổi cung cầu hai chiều giữa Trung Văn Lang và Nam Văn Lang.

    Hai bên giao kết xong chờ tháng sau thời đi vào vận chuyển. Để nắm chủ động về cung cầu Nam Văn Lang cũng như thủ đô Văn Lang. Đào Hoa liền thân hành một mình một người vào kinh đô Văn Lang tìm hiểu cũng như giao dịch buôn bán với các thương gia ở kinh đô. Các thương gia kinh đô cũng đã nghe tiếng về Ông Chủ Đào Hoa thế là cuộc trao đổi làm ăn hai chiều đi vào thuận lợi.

    Đào Hoa trở về Trung Châu dốc toàn lực lượng nhân lực cũng như mua hàng chở về Nam Văn Lang để bán, với giá cả thỏa thuật cam kết với các thương gia Nam Văn Lang.

    Qua tháng sau người ta nhìn thấy trên đường đi đoàn xe gần trăm chiếc trên đường xuôi về nam. Đi trước dẫn đường đoàn xe là chàng trai tuổi trạc độ 30 mươi cùng hai người vợ xinh đẹp đi sát bên, chàng trai nhìn hai người vợ nói biểu ở nhà lo cho con cái lặn lội đường xa chi cho mệt. Người phụ nữ đi bên trái nói chàng yên tâm đi thiếp đã gởi con cho Cha chăm sóc rồi. Người bên phải nói thiếp nhờ ngoại chăm sóc rồi. Người phụ nữ bên phải nói chàng là tay Đào Hoa ở nhà sao được không khéo mấy cô ả nơi kinh đô Văn Lang cột chân mất. Đào Hoa nín thinh giây lát rồi lại nói có thêm vài bà nữa cũng không sao, của dư của để ăn sao hết nói xong thời cười lên ha hả, hai bà vợ nguýt một cái dài tận bên tây, mắt liếc ngang rồi nhìn nghiêng tỏ ý không bằng lòng nói, con mèo nào dòm ngó muốn phỏng tay trên thời biết tay với bà.

    Trước mặt xa xa là thung lũng Tử Thần trời cũng đã xế chiều Đào Hoa thầm nghĩ nếu đi bình thường qua khỏi thung lũng Tử Thần mặt trời cũng sắp lặng Đào Hoa ra lệnh cho đoàn xe đi nhanh lên. Không bao lâu thời đoàn xe tới thung lũng tử thần. Nhìn thung lũng Tử Thần xa hàng bảy tám dặm cây cối rậm rạp âm u đến rợn người ít ai dám đi qua đây, phải đi đường vòng rất xa đường đi gập ghềnh quanh co tốn nhiều sức lực đi hơn nửa ngày mới qua khỏi thung lũng Tử Thần. Hồng Thắm và Chân Chân đã từng theo Cha đụng độ nhiều trận chiến ác liệt. Nên Hồng Thắm cùng Chân Chân có khác hơn những cô gái tay yếu chân mềm. Nhưng nhìn qua cảnh thung lũng Tử Thần cảm thấy rùng mình như linh cảm có yêu tinh trong ấy.

    Bằng nói với Đào Hoa chàng cho đoàn xe quay trở lại đi theo đường vòng tránh đi những rủi ro không đáng có, thiếp biết chàng võ công tuy cao nhưng đối với yêu tinh thời khó mà chống trả cho được không khéo bỏ mạng nơi thung lũng Tử Thần nầy. Đào Hoa nói sợ thời quay ngựa trở về theo mà chi. Chân Chân nói cứng đi thời đi sợ gì miệng thời nói thế nhưng trong bụng đã khiếp hoảng, Hồng Thắm cũng thế hơi run.

    Đoàn xe đi sâu vào thung lũng Tử Thần khí âm u càng rùng rợn có lẽ đi hơn một nửa Tử Thần đến một khúc quanh thời mây đen kéo tới phủ kín, hơi lạnh thấu xương cuồng phong nổi dậy hàng trăm người la hoảng thét lên yêu tinh xuất hiện. Quả đúng là như vậy một con hổ to lớn đứng trên một tảng đá to thổi ra những luồng cuồng phong dữ dội như muốn cuốn phen con người cùng xe bay lên.

    Đào Hoa không thể chần chờ được nữa bằng phi thân rời khỏi mình ngựa bay lên không trung trước sự kinh ngạc của hai bà vợ lần đầu tiên nhìn thấy kinh công siêu đẳng như thế. Đào Hoa từ trên không lao xuống chém con Hổ. Con Hổ gầm lên rung chuyển cả núi rừng phóng tới chụp vào Đào Hoa. Thế là Hổ Tinh cùng Đào Hoa đánh nhau cát bay đá chạy cây cối ngã đổ ầm ầm giao tranh hơn nửa giờ bất phân thắng bại. Bỗng nghe Hổ Tinh thét lên đau đớn vì đã trúng một chưởng Đào Hoa liền thi triển tuyệt chiêu với 12 thần công lực chém vào Hổ Tinh chỉ nghe một tiếng nổ rền trời Hổ Tinh trúng liền ba nhát kiếm bỏ mạng, tức thời thung lũng Tử Thần yên tỉnh trở lại. Hạ được Hổ Tinh Đào Hoa lột da, cắt lấy móng vuốt làm của quý. Lấy xương cốt về sau nấu cao hổ cốt, rất tốt cho người luyện võ. Hàng trăm võ sĩ chứng kiến sự tài nghệ của Ông Chủ vô cùng khiếp đảm. Tin đồn lan xa là Ông Chủ Ngọc Hoa giết chết Hổ Tinh còn lột da lấy móng làm cho bọn cướp tránh xa không dám đụng tới. Đoàn xe rời xa thung lũng Tử Thần bảy tám dặm thời mặt trời mới lặng, đi thêm ba bốn dặm nữa thời tới thị trấn Trung Sơn đoàn xe dừng nghỉ tại đây, sáng hôm sau mới lên đường.

    Nói về đoàn xe gần trăm chiếc ngày đi đêm nghĩ thường dừng chân nơi thị trấn để ăn uống cũng như nghĩ qua đêm. Ngày lại ngày qua vượt qua rừng Hổ Mang vẫn bình yên vạn sự. Xa xa trước mắt là Đèo Lao Dốc, Đào Hoa hỏi một võ sĩ trước mặt chúng ta có phải là Đèo Lao Dốc không. Tên võ sĩ nói đúng vậy thưa Ông Chủ. Đào Hoa nói nghe nói Đèo Lao Dốc trộm cướp dữ lắm có thiệt như thế không. Hồng Thắm nói đoàn xe ta qua đèo tuy là ban ngày nhưng cũng phải ra lệnh cho các võ sĩ đề phòng bất trắc khi đi qua đèo nầy. Khi đoàn xe gần đến Đèo Lao Dốc thời vô cùng kinh ngạc vì thấy người đi qua lại trên đèo khá đông, đường sá qua đèo hình như phát dọn sạch sẽ không như lời đồn. Đoàn xe lên dốc không tốn sức lực là mấy vì đã thông thương. Đào Hoa cùng hai người vợ đi trước đoàn xe khi lên tới lưng đèo thời không khỏi ngạc nhiên phong cảnh nơi đây đây vô cùng xinh đẹp rất đông người dừng chân trong ngôi nhà tranh rộng rãi thoáng mát.

    Đào Hoa ra lệnh cho đoàn xe dừng lại vì đẩy xe lên dốc cũng đã thấm mệt cần nghỉ ngơi ăn uống lấy sức tiếp tục lên đường. Đào Hoa cùng Hồng Thắm, Chân Chân xuống ngựa bước vào quán, ai nấy cũng giương mắt ra nhìn vì nghe các võ sĩ lễ phép khiêm cung gọi ba người trẻ tuổi là Ông Bà Chủ cả một đoàn xe đứng chật cả lưng đèo.

    Đào Hoa vô cùng kinh ngạc vì thấy Bà Chủ quán lưng đèo là một người phụ nữ xinh đẹp còn hơn còn hơn Hồng Thắm và Chân Chân, ngồi bên người phụ nữ xinh đẹp là hai em bé một trai một gái, trai khôi ngô tuấn tú, gái xinh đẹp không khác gì mẹ. Thưởng thức mấy ngụm nước trà ăn mấy trái chuối từ thiện. Đào Hoa cảm thấy ngon miệng vô cùng. Đào Hoa nào có biết chủ quán Lưng Đèo là của vợ chồng Chí Thiện người bạn thâm giao cũng là Huynh, Đệ một thầy. Nhưng hôm nay Chí Thiện đi vắng nên Huynh Đệ không gặp nhau. Đoàn xe bảo tiêu dừng chân Quán Lưng Đèo gần tiếng lại tiếp tục lên đường. Đào Hoa không quên lời cảm ơn tiếp đãi nước chuối miễn phí phục vụ từ thiện của Bà Chủ xinh đẹp quán Lưng Đèo.

    Chuyến vận chuyển hàng hóa thành công, lại bán trôi chảy hơn chín mươi xe hàng phải nói là chuyến đi hốt ngân lượng Đào Hoa giàu lên như thổi. Lại mua hàng từ Nam Văn Lang chở ra Trung Văn Lang có đi ngang qua Đèo Lao Dốc nhưng về đêm nên không dừng nghĩ. Chí Thiện không biết chủ nhân tiêu cục bảo tiêu là ai mà giàu đến như vậy. Đào Hoa vận chuyển hàng hóa về tới Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc một vốn bốn lời, tức là mua một đồng bán được năm đồng. Bỏ ra nghìn lượng vàng kiếm được bốn nghìn lượng vàng. Bảo Tiêu Thương Gia Hoa- Ngọc vàng bạc kim ngân thi nhau mà chảy vào túi, không bao lâu trở thành giàu có nhất Trung Văn Lang. Tuổi trẻ tài cao nhiều cô gái bu theo có lẽ số phận đa thê nên về sau Đào Hoa có đến bảy bà vợ người nào cũng xinh đẹp.

    Nói đến Trung Châu thời ai cũng biết Bảo Tiêu, Thương Gia Hoa- Ngọc nổi tiếng giàu có lại nhiều vợ, có tới 15 người con do năm bà vợ sanh ra, còn hai bà tuổi còn trẻ mới nhập gia nên chưa có con.

    Ở đời người ta thường nói.

    Một vợ thời ở giường lèo

    Hai vợ thời nằm chèo queo

    Ba vợ ra chuồng heo mà nằm

    Đào Hoa ngược lại thường tình

    Có vợ càng nhiều sung sướng như vua

    Ăn ngon kẻ đấm người xoa

    Kẻ hầu người hạ lên mây cuộc đời

    Mười năm trôi qua kể từ khi vận chuyển hàng hóa vào Nam Văn Lang Đào Hoa cũng đã hơn bốn mươi tuổi một hôm rảnh rỗi nhớ lại Chí Thiện người bạn thâm giao cũng là người anh cùng học một thầy, cũng như nhớ lại lời dạy Sư Phụ Vạn Cốc Sơn hai con sống theo Lương Tâm làm theo Lương Tâm thời hai con sẽ có tất cả.

    Đào Hoa nghĩ mình đã sống theo Lương Tâm là không trộm cướp ra sức làm ăn. Lại giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm người cơm no áo ấm. Đem cái cần đến cho mọi người trang trải cung cầu hàng hóa. Làm cho xã hội phát triển đi lên. Sống đúng Lương Tâm hành sự chánh nghiệp muốn gì được nấy nơi trần gian phải nói là tột đỉnh sung sướng rồi. Đào Hoa lại nghĩ không biết Chí Thiện có được như mình không. Liền nói với bà vợ lớn là muốn đi đến Hồng Châu, nơi Huyện Hồng Ngự một chuyến tìm thăm sư huynh Chí Thiện.

    Bà vợ lớn chính là Chu Ngọc xưa nay vẫn trợ giúp chồng điều hành Thương Gia Hoa- Ngọc chỉ huy sáu bà vợ quán xuyến gia môn, nghe đến Thất Nương thời ai cũng ớn, bảy bà hết năm bà là con tiêu cực võ nghệ cao cường không ai dám giỡn mặt đụng vào, không những mất việc làm mà còn toi mạng nữa là khác.

    Nơi làng Tân An, xã Tân Bình, Huyện Hồng Ngự có một khách lạ sang trọng từ phương xa đến tìm nhà Chí Thiện. Người Dân cho biết Chí Thiện đã bỏ quê mười mấy năm về trước nghe đâu đến ở Đèo Lao Dốc tu hành thời phải. Đào Hoa liền nhớ lại cách đây hơn mười năm có đi qua Đèo Lao Dốc không lẽ quán Lưng Đèo Lao Dốc là quán của Chí Thiện. Một người anh tài giỏi đâu thua kém gì mình, không thể nào trở thành người tầm thường chỉ biết ăn những đồng tiền hảo tâm người qua đường sinh sống.

    Nói về vợ chồng Chí Thiện làm ăn không khá giả gì, chỉ đủ sống nếu có dư dả chút ít thời bồi dưỡng cho người ăn kẻ ở, cuộc sống không cao lương mỹ vị nhưng vô cùng hạnh phúc, trên nói dưới nghe trên thuận dưới hòa lúc nào cũng vui cười thỏa mái, ai nấy nét mặt cũng rạng rỡ, nhà cửa lúc nào cũng sạch sẽ, nhất là nhiều loại hoa khoe sắc tỏa hương khách ra vào nhộn nhịp đông vui quả là chốn thần tiên không khác. Hai người con lớn Chí Thiện một nam một nữ, nam tên là Nhật Quang anh cả, nữ tên là Thu Nguyệt chị kế cũng đã lớn theo thầy đồ học văn, học giỏi nổi tiếng ở thị xã Hồng Châu Với số vàng bạc ngọc ngà châu báu vợ chồng Chí Thiện không phải là nghèo ăn suốt đời chơi không cũng không hết, việc trang trải cho con ăn học thành tài đồng ra đồng vô buôn bán cũng đủ.

    Võ thời có Cha Mẹ truyền dạy khi còn nhỏ, qua mười hai tuổi thời theo học thầy Đồ vốn là quan văn triều đình về ở thị xã giỏi văn đệ nhất Hồng Châu. Trung Sơn người con út mới lên năm tuổi ở nhà với cha mẹ tu luyện võ học.

    Nói Về Từ Nhân từ ngày nên duyên với Hạnh Cô hai người thương yêu hết mực điều hành gia nhân phục vụ lữ khách. Từ Nhân thường lên rừng cùng Chí Thiện phát hoang trồng chuối, trồng cây thuốc quý cả thuốc Bắc lẫn thuốc Nam mấy mẫu hàng năm kiếm được cũng khá tiền, bán cho thương lái, nên Từ Nhân nuôi hai con ăn học không mấy là khó theo học thầy đồ ở thị trấn Huyện Trạch Khê cách Đèo Lao Dốc chín mười dặm cũng chẳng lấy gì làm xa chỉ cần đi ngựa nửa giờ là tới nên đi đi về về ở gần cha mẹ.

    Không hiểu hôm nay là ngày gì Quán Lưng Đèo vắng khách thơi thớt người qua lại, gia nhân rảnh rỗi chăm sóc cây cảnh thời thấy một người trung niên lớn tuổi rất là sang trọng có người nhìn ra Đào Hoa Ông Chủ đoàn xe đã đi qua cách đây hơn mười năm thời vô cùng kinh ngạc, không biết Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu đến đây để làm gì.

    Đào Hoa xuống ngựa hỏi hôm nay có Chủ Nhân ở nhà không? Một người nói dạ thưa có, Đào Hoa mừng rỡ theo chân một gia nhân đi vào gian quán. Hạnh Cô cũng nhận ra liền tươi cười nói Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu ghé thăm hay có chuyện gì.

    Đào Hoa nói có Chí Thiện ở nhà không? Hạnh Cô nghe xong biến sắc nói thưa Ông Chủ. Ông chủ tìm Chủ Nhân tôi có chuyện gì? Bảo Trâm từ nơi nhà khách cũng nhận ra Ông Chủ Bảo Tiêu năm xưa có ghé qua đây liền ra gian quán mời Đào Hoa vào nhà khách.

    Đào Hoa nhìn nhà khách trang trí đơn sơ một cái bàn mấy cái ghế khay trà theo kiểu cách trung lưu dân dã. Bảo Trâm chế nước pha trà mời khách hỏi Ông Chủ tìm Phu Quân tôi có chuyện gì.

    Đào Hoa liền đứng dậy chấp tay thi lễ nói xin Tẩu Tẩu thứ tha cho Tiểu Đệ vì không biết Tẩu Tẩu là vợ của Sư Huynh Chí Thiện. Bảo Trâm cùng vợ chồng Hạnh Cô lấy làm kinh ngạc hỏi có phải Ông Chủ tên là Đào Hoa không? Đào Hoa gật đầu chính là Tiểu Đệ, Bảo Trâm nói thì ra Tiểu Đệ là người nổi tiếng giàu nhất Trung Châu. Đào Hoa nói không dám không dám Tẩu Tẩu phá khen. Nghe tiếng vó ngựa quen thuộc từ xa Bảo Trâm nói anh Chí Thiện đã về vì đi mua một số đồ ở thị trấn.

    Đào Hoa từ trong nhà khách bước ra đón Chí Thiện hai anh em gặp nhau vui mừng khôn xiết ôm nhau rơi nước mắt. Chí Thiện nắm lấy tay Đào Hoa rồi nói. Đệ đến đây hồi nào sao không thông báo cho Huynh tiếp đón. Đào Hoa nói Tiểu Đệ đã tìm đến quê của Sư Huynh họ mới mách bảo Sư Huynh đến đây để ở. Nếu Đệ biết sớm thời anh em ta gặp nhau cách đây hơn mười năm. Chí Thiện kinh ngạc Đệ có đi qua đây. Bảo Trâm xen vào Đào Hoa Tiểu Đệ chính là Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc giàu nhất Trung Châu cách đây hơn mười năm vận chuyển đoàn xe gần trăm chiếc dừng nghĩ lại đây giây lát rồi xuôi về Nam đến Kinh Đô Văn Lang.

    Chí Thiện nghe xong vô cùng kinh ngạc cách đây mười năm mà Hiền Đệ giàu đến mức ấy quả là thiên tài không có ai sánh kịp. Đào Hoa ở lại chơi mấy ngày thấy vợ chồng Chí Thiện sống đơn sơ đạm bạc thời nghĩ rằng, anh Chí Thiện hình như không có ý làm giàu, nên mới sống kiểu nầy. Liền nói rằng nếu nói về tài võ công cũng như học rộng hiểu nhiều Sư Huynh còn giỏi hơn Đệ nhiều. Tội gì phải sống khổ như thế nầy.

    Tiểu Đệ chỉ là phận em đâu thể xem vào hay chỉ vẻ gì cho Sư Huynh Được. Trước khi Huynh Đệ anh em chúng Ta xuống núi thầy có chỉ dạy con đường tương lai muốn gì được nấy chính là sống theo Lương Tâm hành động theo Lương Tri. Đệ cũng đã thấu hiểu được thâm ý trong câu nói Thầy dạy:

    Nên Đệ luôn sống đúng Lương Tâm hành động theo Lương Tri không làm hại người mà thường hay giúp đỡ người bằng chứng hàng trăm người làm việc cho Đệ thường ca tụng Đệ là Ông Chủ ăn ở có nhân có đức, nên ai nấy cũng hết lòng phục vụ cho Thương Gia Bao Tiêu Hoa- Ngọc.

    Nhất là bảy bà vợ sống hòa thuận với nhau hiếm thấy trên đời, con cái rất đông đến 15 người con trên dưới có ngăn có nắp đúng là đa thê đa tử đa phú quý khác gì vua. Đệ muốn gì đặng nấy thỏa mãn vô cùng, nghe đến bảy bà vợ Bảo Trâm, Hạnh Cô không khỏi bụm miệng cười.

    Chí Thiện nghe xong liền hiểu Đào Hoa muốn nói gì, ý Đào Hoa muốn nói sao không đi con đường như Đào Hoa.

    Chí Thiện nghe xong liền khen rằng Đệ thông minh mới khám phá nổi lời dạy cao siêu ấy nên Đệ mới được như ngày hôm nay muốn gì được nấy Huynh khó mà theo kịp. Nói đến Lương Tâm, Lương Tri xưa nay ít người thấu đạt nổi, nếu có hiểu đi chăng nữa thời mỗi người hiểu mỗi khác. Trình độ cao hiểu theo cao, trình độ thấp hiểu theo thấp, bậc giác ngộ hiểu theo cảnh giới giác ngộ, do vì Huynh hiểu theo cách của huynh sống biết đủ thời coi như muốn gì được nấy rồi lúc nào cũng an vui tự tại.

    Đào Hoa nghe Chí Thiện giải về theo Lương Tâm hành động theo Lương tri khó hiểu như thế, nhưng cũng khen là Huynh giảng nghe thông suốt.

    Đào Hoa nói Đệ ở đây chơi cũng đã được ba ngày công việc của Đệ vô cùng bề bộn. Đệ không thể ở lại lâu hơn Đệ

    Xin cáo từ Sư Huynh cùng Tẩu Tẩu cũng như gia nhân ở đây hẹn lại dịp khác anh em Huynh Đệ gặp lại nhau lâu hơn, trước khi từ giả lên đường.

    Đào Hoa nói vì đi tìm Sư Huynh nên Đệ không mang theo nhiều vàng chỉ có một ít phần quà nho nhỏ. Đệ biếu cho mấy cháu mua quà xin anh chị nhận cho. Đào Hoa nói xong liền trao túi vải cho Chí Thiện.

    Chí Thiện không đành từ chối nhận lấy túi vải rồi đưa cho Bảo Trâm. Bảo Trâm vừa cầm túi vải thời biết ít nhất cũng 20 lượng vàng. Cuộc hội ngộ nào rồi cũng phải chia tay, hai người chia tay trong bịn rịn, nhìn Đào Hoa khuất dần theo những rặng cây như nói theo rằng, đâu thể một kiếp tu thành chính quả nhưng Đệ cũng là người tốt không ai làm khó dễ được Đệ. Bảo Trâm trao túi vải cho Chí Thiện nói trong ấy có hai mươi cây vàng. Chí Thiện bằng đem 20 lượng vàng trợ giúp cho người khốn khổ cầu nguyện lên Cha Trời Mẹ Trời ban phước lành cho Đào Hoa.

    Cho đến một hôm Chí Thiện ngồi trầm tư suy nghĩ ôn lại quá khứ mới đây mà đã trải qua ba năm rồi từ khi chia tay với Đào Hoa ở Vạn Cốc Sơn, liền thở dài đời người như bóng câu qua cửa sổ như nước chảy qua cầu mới đó mà đã gần năm mươi tuổi cái tuổi đi lần về xế chiều trần gian chỉ là cõi tạm khác gì ngôi nhà trọ đến rồi đi.

    Chí Thiện linh tính như có chuyện gì khác thường thời có hai vị khách vào quán nghỉ chân, một vị khách nói với vị khách kia Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc không biết mang chứng bệnh lạ gì đã qua đời, bỏ lại bảy bà vợ cùng 15 người con, chỉ tội cho hai bà vợ sau cùng còn quá trẻ lại chưa có con ở vậy sao được chắc phải đi bước nữa.

    Chí Thiện nghe Đào Hoa qua đời thời không khỏi bồi hồi. Một lúc sau thời xây xẩm mặt mày do luồng gió lạ ngang qua, đây là chuyện không bao giờ xảy ra đối với người có võ công cao kinh mạch đã thông suốt như Chí Thiện nắng mưa thời tiết bất xâm, nhất là Tâm Hồn định tỉnh an trụ Chân Tâm. Chí Thiện bất tỉnh giây lát rồi tỉnh lại. Chí Thiện bằng nói với gia đình ta phải đi xuống Thập Điện Điện Diêm Vương gặp Đào Hoa trả lại cái ơn đến thăm gia đình mình cũng như đã biếu cho 20 lượng vàng tình nghĩa Huynh Đệ khó mà bỏ nhau cho được gia đình nghe xong lấy làm kinh hãi không biết lành dữ thế nào.

    Tắm rửa sạch sẽ ăn cơm xong Chí Thiện lên giường ngủ thiếp đi Linh Hồn Chí Thiện xuất ra khỏi thể xác bay xuống Âm Phủ. Thập Điện Diêm Vương cho người ra tận cửa đón Chí Thiện vào. Bằng nói Đại Thánh xuống Âm Cung tìm ai? Chí Thiện nói thưa Diêm Vương tôi có người Đệ tên là Đào Hoa học cùng thầy mới mất cách đây mấy ngày có lẽ Linh Hồn đã xuống đây tôi muốn gặp Đệ ấy. Diêm Vương nói trời có Luật Đạo Trời, dương thế có Luật dương thế. Đường sanh tử con người là do Thiên Định, nhưng con người có thể làm giảm tuổi thọ chết trước căn số Thiên Định vì sa vào dục lạc quá lớn.

    Diêm Vương nói Hắc Bạch vô thường dẫn Linh Hồn Đào Hoa ra gặp Đại Thánh. Hắc Bạch vô thường đi một lúc dẫn Đào Hoa đến. Đào Hoa nhìn thấy Chí Thiện thời sững sờ nói Huynh cũng chết rồi sao? Chí Thiện nói số Huynh chưa mãn kiếp trần chỉ xuất Hồn xuống đây gặp Đệ mà thôi.

    Thập Điện Diêm Vương mời Đào Hoa ngồi rồi nói Chí Thiện. Đào Hoa đây không làm gì nên tội, nhưng nói đến công thời chẳng có công gì đối với trời đất đáng lý ra hưởng thọ đến 70 tuổi mới hết số mãn trần. Thường thường hưởng dục lạc nhiều thời tuổi thọ suy giảm, nên các vị Vua Chúa thường là chỉ ở vào tuổi hưởng dương khó mà đi vào hưởng thọ. Vì nhiều vợ làm suy kiệt sinh khí, ăn nhiều cao lương mỹ vị Âm- Dương không được điều hòa nhất là hai bà vợ trẻ bắt ngày đêm phục vụ cho theo kịp mấy bà lớn Tinh, Khí, Thần, suy kiệt dẫn đến chết sớm chưa được 50 tuổi. Muốn đầu thai chờ cho mãn số Thiên Định mới được đầu thai. Đó là nói những người không đánh mất Lương Tâm vẫn còn Lương Tri. Còn những Linh Hồn hành ác thời sa đọa vào Địa Ngục chịu sự hành hình có khi cả nghìn năm chưa được đầu thai.

    Chí Thiện chắp tay nói với Diêm Vương. Diêm Vương có thể cho Đệ tôi biết trước được tương lai tái sanh làm người trần trở lại không? Diêm Vương nói mời hai vị theo Bổn Vương. Diêm Vương dẫn Chí Thiện cùng Đào Hoa đến nghiệt kiến đài.

    Diêm Vương chỉ Nghiệt Kiến Đài rồi nói chỉ cần đứng trước nghiệt kiến đài nghĩ về quá khứ thời thấy rõ quá khứ, nghĩ về hiện tại thời thấy rõ hiện tại, nghĩ về tương lai thời thời thấy rõ về tương lai.

    Đào Hoa vì muốn biết rõ về tương lai của mình liền bước lên nghiệt kiến đài nghĩ về tương lai. Thời thấy một viễn cảnh xảy ra hết sức kỳ lạ thấy một em bé sanh ra đời bị dị tật nơi tay, lớn lên mang nhiều bệnh tật, bị vợ con xem thường hành hạ, cuộc sống nghèo khổ không đủ ăn, áo quần không đủ mặc, khốn khổ vô cùng. Chí Thiện thấy hoàng cảnh của một kiếp người khốn khổ như vậy liền hỏi người trong nghiệt kiến đài kia là ai? Diêm Vương nói đó là kiếp tới của Đào Hoa.

    Đào Hoa liền nghĩ về quá khứ tất cả quá khứ đều hiện ra không sót một chi tiết nào từ khi mới sinh cho đến khi chết đi. Nhất là nhìn thấy cảnh, bảy bà vợ đánh nhau sứt đầu mẻ trán vì tranh của, không ai nhường nhịn ai. Nhưng người con cũng thế con nào mẹ mấy không có anh em gì cả chỉ có kim ngân châu báu vàng bạc tranh giành cơ đồ sự nghiệp là trên hết. Hai bà vợ trẻ đã liếc mắt đưa tình với người đàn ông khác. Đào Hoa ôm mặt khóc ròng, lại thấy cái xác đem chôn đã sình chương hôi thúi giòi tửa sinh ra lúc nhúc thấy mà ghê.

    Bằng quỳ lạy Thập Điện Diêm Vương nói tôi làm gì nên tội mà Ông Trời ban cho tôi nhiều thảm họa như vậy, nào tương lai nào quá khứ thấy mà kinh khiếp.

    Chí Thiện nói với Diêm Vương. Đệ tôi phạm tội gì mà Thiên Ý chuyển xoay như vậy.

    Diêm Vương nói hiện tại Đào Hoa không có tội nên không bị sa đọa vào Địa Ngục bị hành hình, sống tự do nơi cõi Âm Phủ chờ ngày đầu thai. Nhưng cũng không có công gì đối với người. Những người làm công ra sức vì Đào Gia. Đào Gia trả công xứng đứng thời coi như hai bên chẳng nợ gì nhau. Đóng thuế nhà nước, nhà nước bảo vệ sự bình yên làm ăn cũng như cuộc sống, không có công vì dân vì nước, chỉ có công làm giàu cho bản thân. Cũng không có công vì xã hội như xây cầu. Làm đường, giúp đỡ người nghèo, phát thuốc miễn phí, giúp người chữa bệnh, bố thí làm lành. Sống có Tâm nhưng hành động chưa phải là làm theo Lương Tâm. Làm theo Lương Tâm là phải sống vì nhân loại. Tình thương yêu rộng lớn. Cống hiến đời mình vì nhân loại không phải vì mình, giúp người không cầu trả ơn. Nói chung là không có công với đời, tái kiếp sanh ra làm người phải chịu nghèo khổ. Thích ăn cao lương mỹ vị tiếp tay cho những người sát sanh, nên kiếp tới mang nhiều bệnh tật. Không có công với Trời, nên không được Trời ban cho phúc lành nên kém sự may mắn trong đường đời thường gặp toàn xui xẻo chịu nhiều sự khốn khổ đau thương. Làm ăn giàu to quên kẻ khuất mặt giúp đở không cúng kiến tạ ơn, hưởng hết phước thời gặt họa không ai che chở cho.

    Chỉ có công nuôi thân xác tốn nhiều công phu, như ham muốn nhiều bà thỏa mãn dục lạc, ăn toàn cao lương mỹ vị cho sướng cái miệng, ở nhà cao cửa rộng, giường xịn chiếu êm cho sướng cái thân, nói tóm lại đổ bao công sức chỉ vì thân xác. Nhưng nay thân xác đã đem chôn hôi thối sình chương giòi tửa thi nhau mà xơi nuốt.

    Tốn bao công sức cuối cùng chẳng được cái gì, gia đình tan nát, con cái tranh giành, vợ nhiều nên tranh của dữ dội. Sao cho bằng Đại Thánh đây sống không trái ngược lại Lương Tâm. Hành sự theo Lương Tri, tạo nhiều phúc đức cho xã hội, làm từ thiện giúp người mấy mươi năm. Phước Đức hà sa không thể kể hết đi vào Hiển Thánh muốn gì được nấy không ai bằng, muốn lên thiên đàng thời lên. Muốn tái sanh làm vua thời được như ý.

    Đào Hoa nghe xong liền ngộ chân lý hiểu rõ lời dạy của Thầy căn số liền thay đổi. Chí Thiện nói khi Đào Hoa còn tại thế có trao cho vợ chồng tôi 20 lượng vàng tôi đã dùng nó giúp đỡ người ghèo, người tàn tật, người lâm trọng bệnh người neo đơn khó khăn, đều hồi công đức về cho Nghĩa Đệ của tôi là Đào Hoa. Đào Hoa nghe xong lấy làm cảm động, Đệ vô cùng biết ơn Huynh, nói xong trên đầu Đào Hoa có hào quang.

    Chí Thiện liền nói Đệ nhìn về Nghiệt Kiến Đài nghĩ tưởng về tương lai xem sao, Đào Hoa liền làm theo thời lạ thay, một cảnh giới nhiện ra không giống như trước. Đào Hoa liền thấy một em bé sanh ra khỏe mạnh không khuyết tật, tuy mồ cô cha mẹ, thân lớn lên không bệnh tật, thông minh trí huệ hơn người. Gặp người vợ chung thủy đảm đang, cuộc sống không giàu nhưng dư giả đủ ăn. Sống theo lương Tâm hành xử theo Lương tri, không việc lành nào không làm, sanh được bốn người con đều thành đạt. Hưởng thọ 70 tuổi thời về trời. Diêm Vương nói số mạng con người là do con người quyết định, gieo nhân kết quả. Có nghĩa là hể gieo Thiện thời gặt phước báo theo Định Luật của Huyền Cơ. Một mảy lông gieo ra thời cũng phải nhận lấy. Nên có câu lưới Trời lồng lộng mảy lông cũng không lọt.

    Chí Thiện nhìn thấy được tương lai của nghĩa Đệ Đào Hoa liền từ biệt Diêm Vương biến mất.

    Chí Thiện trở về trần gian nhập hồn vào thể xác mở mắt ngồi dậy cả gia đình đều mừng rỡ. Bảo Trâm lau nước mắt nói tưởng đâu chàng bỏ thiếp đi luôn bảy ngày rồi còn gì.

    Chí Thiện vô cùng kinh ngạc đã bảy ngày không ăn uống gì cả. Chí Thiện liền nghe bụng đói cồn cào liền nói còn đồ ăn thức uống gì không đói quá. Chí Thiện quất một bụng no cành thấy trong người vô cùng sảng khoái liền kể chuyện Âm Phủ cho cả nhà nghe. Chí Thiện kể lại tất cả không bỏ sót một chi tiết nào ai nấy cũng kinh hãi đúng là lưới trời lồng lộng mảy lông cũng không loạt. Mỗi việc làm hành động của mình gieo nhân kết quả ở tương lai kiếp tới.

    Từ đó quán Lưng Đèo càng làm nhiều việc thiện hơn nữa,

    Nhật Quang thi đỗ sau trạng nguyên được bổ nhiệm về làm quan Châu Phủ Hồng Châu. Trung Sơn đổ đậu cao nhưng không làm quan sau nầy trở thành Ông Chủ Quán Lưng Đèo nối nghiệp Cha Mẹ. Chị gái là Thu Nguyệt ưng một thương gia giàu có cũng ở Hồng Châu.

    Từ An con trai Hạnh Cô thi đổ Thám Khoa về làm quan Huyện Trạch Khê em gái của Từ An gả cho Tùng Lâm con của võ sư Đại Hãn chủ cơ sở võ đường Bình Mỹ ở gần Nha Môn Huyện Trạch Khê.

    Chí Thiện thọ 80 tuổi thời về trời con cháu đầy nhà, nhờ biết tu nhân tích đức. Về sau có câu Dầu Rằng Để Của Bằng Non, Không Bằng Để Đức Cho Con Ở Đời. Khen Ai Ăn Ở Khéo Tu, Mai Sau Con Cháu Võng Dù Nghênh Ngang. Dẫu Rằng Để Của Bằng Non, không Bằng Để Đức Cho Con Ở Đời.
     
  7. shopoga

    Bài viết:
    515
    64. VAY TRẢ, TRẢ VAY

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ở vào thời Hạ Hùng Vương đời thứ 17 Hùng Nghị Vương. Bảo Quang Lang.

    Dân chúng không được bình yên có nhiều thứ giặc nổi lên, như giặc đói, giặc cướp, giặc ôn địch, giặc chia bè rẽ phái chống bán lẫn nhau trong triều đình, còn ngoài biên cương giặc xâm lấn biên cương. Giặc mê tín dị đoan, nói chung là nhiều thứ giặc nổi lên làm cho cuộc sống bất an.

    Khi ấy nơi Huyện Hạ Long có một gia đình Phú Hộ giàu có nổi tiếng Hà Châu, sinh được bốn người con, một người tên Đại, một người tên Phá, một người tên Gia. Người con gái Út tên là Hạnh Duyên.

    Ba người con trai càng lớn càng ăn chơi, không lo học hành gì cả đánh lộn quậy phá, hết người nầy đến máng vốn đến người kia đòi bồi thường cơm thuốc, cuộc sống vốn đầy khốn khó, đã không làm ra của nhưng tiền bạc cứ tuôn ra của đống của kho cũng hết Bà Phú Hộ càng suy nghĩ càng buồn rầu sinh bệnh rồi qua đời.

    Ông Phú Hộ vừa nhớ thương vợ vừa buồn cho gia cảnh luôn gặp phải những rắc rối hết tai họa nầy đến tai họa khác do ba người con gây ra đúng như ba tên chúng nó Đại, Phá, Gia, Ông tường nhớ đến câu thơ.

    Người ta sinh con để nhờ

    Nhiều con có phúc về già cậy nương

    Còn mình thời lại thảm thương

    Nhiều con thời lại khốn nguy cuộc đời

    Lao tâm khổ tứ tháng ngày

    Sinh con nghịch tử đứng ngồi không yên

    Đôi lúc Ông buồn quá than rằng Bà đi trước bỏ tôi ở lại một mình chịu sự hành hạ của ba thằng nghịch tử. Người con gái út Hạnh Duyên thấy Cha buồn rầu thời lòng đau như cắt ruột, sợ Cha buồn rầu sinh bệnh ra đi như mẹ thời hoang mang sợ hãi.

    Còn Cha gót đỏ như son

    Mai kia cha mất góc con như chì.

    Còn Cha còn Mẹ ăn cơm với cá, mất Cha Mẹ nắm rau nắm lá cũng không có mà ăn, nói gì áo ấm cơm no. Hạnh Duyên ra sức an ủi những lúc Cha buồn, có ngày ba anh sẽ thức tỉnh hiểu rõ công ơn sanh thành dưỡng dục công lao trời biển của Cha của Mẹ, lo làm ăn không còn làm khổ Cha nữa.

    Ông Phú Hộ nhìn người con gái thở dài nói, nếu ba đứa nó bằng một nửa như con, thời hay biết mấy. Cha cứ nghĩ ra sức làm ăn giàu có là có hạnh phúc, nhưng ở đời không phải thế hạnh phúc không phải là giàu hay nghèo mà ở lòng người có đạo đức hay không? Nhiều gia đình nghèo khổ nhưng con cái rất có hiếu. Giàu như Cha đây luôn mơ ước. Ước gì được như nhà nghèo con có hiếu nhưng nào có được. Vậy mới biết giàu tiền giàu bạc chưa phải là tất cả có những thứ tiền bạc không bao giờ mua được.

    Gia tài giàu có của Ông Phú Hộ dần dần bị ba thằng con trai phá sạch chỉ còn lại một ngôi nhà lớn rộng ba giang khu vườn rộng hơn mẫu. Đâu còn gì nữa để mà bán Ông thường nghe người ta nói Quốc Tổ linh lắm thành tâm cầu nguyện sẽ có linh ứng. Ông liền làm theo lập bàn thờ để thờ Quốc Tổ. Ông khấn rằng tên của con là Gia Bần như nhờ biết cách làm ăn nên trở thành Phú Hộ. Không biết đã phạm vào tội lỗi gì sinh ra ba người con trai nghịch tử như vậy. Con cũng đã đi cầu hết nơi nầy đến nơi khác tốn biết bao tiền của nhưng ba thằng con vốn tánh nào tật nấy chẳng thấy ăn năng quay đầu gì cả.

    Và cứ như thế hể nghe nơi nào linh thiên thời con không bao giờ bỏ sót dâng lên nhiều của cải để cúng dường cầu cho ba người con trai tỉnh ngộ, không ăn chơi, bài bạc trai gái đàn đúm, đâm chém chí thú làm ăn. Càng cầu càng mất tiền, càng lạy càng mất bạc ba thằng con tính nào tật nấy chẳng thấy thay đổi gì cả.

    Ông Phú Hộ thành tâm ngày nào cũng thắp hương khẩn cầu lên Quốc Tổ ba tháng liền, một hôm Ông đang cầu nguyện thời một cơn gió thổi đến Ông xây xẩm mặt mày không còn biết gì nữa. Trong giấc mơ Ông thấy mình đến một nơi xa lạ đất lưu ly sáng ngời, đường sa lác bằng kim cương châu báu, cung vàng điện ngọc đẹp chưa từng thấy bao giờ. Hào quang trùng trùng tỏa sáng chóa. Ông còn đang say sưa nhìn ngắm, thời thấy một người con gái xinh đẹp vô cùng hiện đến nói với Ông rằng Ông theo tôi.

    Phú Hộ đi theo người con gái xinh đẹp không bao lâu thời đến nhiều tòa cung điện nguy nga lộng lẫy kiến trúc cầu kỳ cổ kính đẹp lạ chưa từng thấy bao giờ nhất là chất liệu bằng bảy báu vàng, bạc, trân châu, pha lê, kim cương, xà cừ, hổ phách, người con gái dẫn Phú Hộ vào cung điện đẹp nhất đẹp đến nổi ngoài sức tưởng tượng của Ông. Bước vào tòa cung điện càng xinh đẹp lộng lẫy hơn nữa. Nơi tòa bá bảo kim cương có một thiếu phụ xinh đẹp vô cùng đang ngồi có hai tiên nữ đang hầu.

    Ông còn đang sửng sốt, thời nghe tiếng người con gái xinh đẹp dẫn ông đến nói. Trước mặt Ông là Quốc Mẫu Phụng Cơ Nương Nương hiện đang là Vương Mẫu trên cõi trời. Phú Hộ nghe nói đến Quốc Mẫu Nương Nương thời thất kinh quỳ lạy nói con là Gia Bần kính lạy Quốc Mẫu Nương Nương. Vương Mẫu Thiên Đế.

    Quốc Mẫu Phụng Cơ Nương Nương nói Ta cai quản các tầng trời dục giới hạ thiên vũ trụ. Non Tiên Cực Lạc Thất Sơn Châu Báu, trong đó có bốn cõi trần gian, mười tám tầng Địa Phủ. Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, Thiên Hà, Ngân Hà Càn Khôn Hạ Thiên Vũ Trụ. Nên Ta biết rõ tất cả những gì xảy ra trong Hạ Thiên Vũ Trụ.

    Ta thấy Ông cầu lên Quốc Tổ Chí Tôn Thiên Đế Đương Kim Vũ Trụ, ở cõi Long Vân Trung Thiên Giới. Ta thay mặt Quốc Tổ đưa Ông đến đây giải rõ những việc Ông đang cầu.

    Phú Hộ quỳ lạy nói; cúi xin Vương Mẫu cứu ba người con của Con để chúng ăn năng thức tỉnh, không còn sa đọa vào con đường ăn chơi, bài bạc, quậy phá, đánh lộn, cũng như sự bất hiếu. Phụng Cơ Vương Mẫu nói mọi sự ở đời không phải tự nhiên mà có. Đều do căn cơ theo Luật Nhân Quả gieo ra thời phải gặt lấy, theo luật Vay Trả, Trả Vay xoay vần không hay không biết cứ thế oan oan tương báo, nợ nợ đáo đầu, sự vay trả nặng nhất chính là luân hồi tái sanh trở thành Cha, Con, với nhau, khi ông gieo quẻ đặt tên cho con. Huyền Cơ Thiên Ý đã khiến Ông đặt tên cho ba người con là Đại, Phá, Gia. Nhưng Ông không hề hay biết với ba cái tên do Ông đặc ra nầy.

    Vương Mẫu Nương Nương nói xong liền phát tay một cái tức thời một cái gương lớn hiện ra. Vương Mẫu nói Ông hãy tập trung tinh thần mà nhìn vào gương ấy hồi tưởng về quá khứ. Phú Hộ nhìn vào cái gương hồi tưởng về quá khứ thời thấy một cảnh giới hiện ra. Phú Hộ nhìn thấy có mình trong đó khi lên mười sáu tuổi kết nghĩa cùng ba người con trai thân nhau như ruột thịt. Một hôm nghe đồn bọn cướp bị quan triều đình truy sát bỏ mạng. Trước khi bị truy sát bọn cướp có chôn một số vàng, bạc châu báu một nơi bí mật.

    Thế là bốn người cùng nhau đi tìm, khi tìm được nơi vàng, bạc, châu báu bọn cướp cất giấu, nhìn số vàng, bạc châu báu quá nhiều. Lòng tham của Gia Bần nổi lên giết ba người bạn độc chiếm vàng, bạc, châu báu, tưởng đâu là Trời không hay Quỷ Thần không biết. Chỉ mình mình biết, mình không nói ra thời ai mà biết.

    Nào ngờ ba người bạn chết oan Linh Hồn luôn bám sát có cơ hội là trả thù. Gia Bần nhờ độc chiếm số vàng, bạc ngọc ngà châu báu đổi đời trở thành giàu có. Sợ quê xóm xầm xì nghi ngờ sự giàu có ở đâu ra bằng đến xứ khác mua ruộng đất trở nên giàu có thành Phú Hộ.

    Lúc nào cũng có cả trăm người làm công cho mình. Vì giàu có cưới được một người con gái xinh đẹp sinh ra được bốn người con. Ba người con trai càng lớn càng sa đọa vào con đường ăn chơi, cờ bạc hút xách tiêu pha không biết bao nhiêu là tiền của. Bởi sự ám ảnh của ba người bạn do mình giết chết, Phú Hộ nghe chỗ nào linh thiên đều đến đó để cúng hầu giải đi kiếp nạn, cũng như trấn ếm vì Ông nghĩ ba linh hồn chết oan theo phá ba đứa con nhà ông.

    Ông tập trung nhìn vào ba người con thời ôi thôi đó là ba người bạn mình đã giết. Ông kinh hãi thì ra là thế thảo nào ba người bạn đầu thai làm con của Ông phá nát gia nghiêp của Ông, dù Ông có thương đến đâu chúng nó vẫn cứ bất hiếu, dù biết Ông đang đau khổ vô cùng chúng nó cũng không quan tâm gì đến.

    Chúng đã làm cho người mẹ thương tâm buồn rầu mà chết, gia đình tan nát chúng vẫn tỉnh bơ Ông đã rõ tất cả ác lai ác báo gieo gì gặt nấy không có thần linh nào cứu nổi. Khi duyên nghiệp đã hết thời nó tự tan biến chẳng còn. Ông nhìn thấy rõ ba người con của Ông là Đại, Phá, Gia không còn gì để đòi nữa khi Ông bán vườn nhà còn lại trả nợ cho chúng nó thời chúng nói cũng ra đi.

    Ông nhìn sang người con gái út tên là Hạnh Duyên năm đó trời lụt to Dân làng vớt xác một người con gái Ông liền bỏ tiền ra an táng, cũng vì việc làm thiện nầy Dân Chúng ca ngợi Ông là người nhân từ. Người con gái bị chết oan muốn trả ơn Phú Hộ liền đầu thai làm con của Ông. Ứng vào Thiên Cơ Ông đặt tên con là Hạnh Duyên. Hạnh Duyên càng lớn càng có hiếu thương yêu Cha Mẹ hết mực.

    Ông Phú Hộ tên thật Gia Bần, Ông đã rõ tất cả Nhân Quả báo ứng luân hồi Vay Trả, Trả Vay. Luật Trời công minh mảy lông cũng không lọt.

    Ông quỳ lạy rồi nói con muốn cải hối làm lành muốn siêu sanh về cực lạc. Vương Mẫu liền phát tay một cái tức thời Năm Non Bảy Núi Châu Báu hiện ra Gia Bần thấy cảnh giới Non Tiên Cực Lạc xinh đẹp vô cùng Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đông vô số vô biên, lầu đài cung điện, kỳ quan bảo tháp trùng trùng khắp nơi. Ông Quỳ Lạy rồi thưa. Thưa Vương Mẫu tu như thế nào được siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc.

    Vương Mẫu liền phất tay một cái thấy vô số người có lòng yêu nước thương dân không quên Cội Nguồn, làm sáng lòng Trung, Hiếu, Nhân, nghĩa. Tưởng nhớ đến Cha Trời Mẹ Trời. Lạc Long Quân và Âu Cơ làm lành lánh dữ thời liền siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc. Vương Mẫu thấy Gia Bần thấy rõ những gì Ông muốn biết, liền nói với Kim Tiên con đưa Ông ta trở về trần gian. Kim Tiên nói Ông theo tôi Gia Bần lạy tạ Vương Mẫu rồi đi theo Kim Tiên vừa ra khỏi Vương Cung Kim Tiên nói Ông có nhìn thấy một cái hố kia không. Ông vừa nhìn thấy thời Kim Tiên đẩy Ông xuống đó Ông thét lên kinh hoàng giật mình tỉnh dậy. Thời nghe tiếng khóc của Hạnh Duyên cha ơi cha mau tỉnh dậy cha đừng bỏ con ở lại một mình cha ơi là cha tiếng khóc của hạnh duyên vô cùng thê thảm. Ông vô cùng cảm động nói con mới thật là con của cha. Ông ngồi dậy nắm lấy tay con gái nói. Cha nay đã hiểu đã là con dù trai hay gái quý nhất là ở tấm lòng.

    Ba người con trai thấy Ông tỉnh dậy liền nói tưởng Cha đã theo Mẹ rồi chớ chúng con cũng đang lo tính toán giờ thời khỏi lo rồi. Ông không lấy đó làm buồn nói từ nay chúng con muốn gì thời Cha cũng chìu theo các con. Ba người con nói Cha nói thiệt không Cha. Ông nói dù cho bán hết cả gia tài sự nghiệp Cha cũng không từ chối. Ba người con nghe xong rơi nước mắt chúng con làm khổ Cha quá. Nhưng chúng con đã nợ quá lớn nếu không trả chúng sẽ giết chết mất.

    Ồng Gia Bần liền bán hết tài sản chia năm phần mỗi người mỗi phần, ba người con trai nói chúng con làm khổ cha quá chúng con đã biết lỗi. Chúng con trả cho bọn chúng còn dư để làm vốn sống, từ nay chúng con sẽ không làm khổ Cha nữa, chúng con sẽ từ bỏ con đường sa đọa làm lại từ đầu chí thú làm ăn. Ông chỉ nhìn ba người con không nói một lời

    Chỉ nói rằng các con lớn rồi tùy các con quyết định.

    Ba đứa con nhận vàng, bạc xong, Ông nói nơi đây không còn là gia đình mình nữa thuộc về của người khác với số vốn cũng nhiều các con tự định liệu cuộc sống. Mấy hôm sau chủ gia mới đến ở. Ông liền dẫn theo người con gái trở về quê hương nơi mà Ông đã bỏ ra đi. Nhìn khu vườn cây cối um tùm ông ra sức cùng người con gái phát dọn đi vào cuộc sống mới. Bà con lối xóm chạy tới hỏi thăm Gia Bần bỏ quê hương đi đến xứ nào mà lâu quá vậy. Chắc làm ăn khấm khá lắm mới trở về quê Cha đất Tổ. Với số vàng bạc châu báu cũng khá Ông dựng lên ngôi nhà thờ khang trang sạch đẹp cùng người con gái phụng thờ nhang khói Ông Bà Cha Mẹ. Ông không quên lập bàn thờ thờ Quốc Tổ, hàng đêm thường niệm Cha Trời Mẹ Trời Lạc Long Quân cùng Âu Cơ. Ông cùng con gái thường giúp đỡ những gia đình khốn khó. Nhờ biết chút ít về thuốc nam Ông cùng con gái chữa trị miễn phí cho người sống theo lòng hảo tâm người ta cho gì nhận nấy.

    Ông trở về quê sống hơn một năm thời nghe ba người con của Ông đã bị bọn giang hồ giết chết. Ông nghe xong thở dài không còn muốn dính dáng đến nữa. Nợ trần đã dứt từ khi Ông biết rõ ba người con của Ông là những oan gia mà Ông đã gây ra. Ông liền kể lại cho con gái Ông nghe những chuyện về quá khứ. Chính lòng tham đã đưa con người vào vòng tội lỗi.

    Ông gả Hạnh Duyên cho một chàng trai mồ côi nghèo khổ nhưng có tấm lòng lương thiện hơn người. Vợ Chồng Hạnh Duyên sống chung với Ông những ngày tháng thật hạnh phúc.

    Ông qua đời ở tuổi 70 Linh Hồn siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc. Con gái Ông Hạnh Duyên theo bước người Cha làm lành lánh dữ chuyên tâm làm từ thiện. Khi mãn số trần gian Linh Hồn Cô siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc theo Cha.

    Khi chưa mãn kiếp trần Cô thường ngâm bài thơ.

    Trần gian cõi tạm, nhớ ai ơi

    Ghé đến rồi đi, chốn trần đời

    Chỉ có thiên đàng, nơi vĩnh cửu

    Non Tiên Cực Lạc hưởng vui chơi

    Đâu như trần thế, nhiều sự khổ

    Oan trái xoay vần, khổ chơi vơi

    Chi bằng hành thiện, siêu giải thoát

    Hồn về Thiên Giới, Hồn thảnh thơi

    * * *

    Hết Quyển 2, xem tiếp Quyển 3

    * * *
     
  8. shopoga

    Bài viết:
    515
    65. DƯƠNG GIAN, ÂM CẢNH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ở vào thời Hạ Hùng Vương đời thứ 18. Hùng Duệ Vương, Huệ Lang. Cũng là đời cuối niên đại Hùng Vương trước công nguyên 258.

    Ở Làng Hiệp Giao, Xã Nghĩa Thuận, Phong Châu. Có một gia đình ăn ở hiền đức sinh được Cô con gái tên là Sương Sương, khi Cô lên 14 tuổi không may Cha Mẹ qua đời Cô trở thành mồ côi.

    Sương Sương nhớ Cha Mẹ vô cùng ngày nào Cô cũng thắp hương cho Cha Mẹ. Vì Cha Mẹ Cô thường nói chết chỉ là trả lại xác trần còn Linh Hồn thời không bao giờ mất đi hoặc siêu sanh về trời, hoặc sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, hoặc ở lại cõi nhân gian ngày thời ở dưới mồ tối thời sanh hoạt như người Dương Thế. Nhưng ở đời ít ai thấy được người Âm Cảnh.

    Bỗng một hôm Cô thấy trong người khác lạ hình như khỏe khoắn hơn trước, trời vừa chạng vạng ánh hoàng hôn đi vào lịm tắt. Cô nhìn ra ngoài đường thấy người đi rất đông, nói chuyện vui vẻ Cô không biết họ là ai từ đâu tới vì những người đi ngoài đường toàn là những người xa lạ không phải người trong làng.

    Trong số người đi một người nói hôm nay chúng ta đi chợ hơi sớm không biết giờ nầy chợ đông chưa, người kia nói chạng vạng rồi sớm gì nữa. Cô nghe những người đi đường nói thế thời kinh ngạc ở quê mình đâu có chỗ nào nhóm chợ về đêm, hay là những người đi đường kia họ đến chợ đêm nơi huyện khác, Cô miên man suy nghĩ.

    Bóng đêm dần dần buông xuống, bao trùm lấy non sông, theo người khác thời không thấy gì cả, nhưng đối với Sương Sương thời Cô nhìn ban đêm cũng như ban ngày Cô thấy người đi ngoài đường càng lúc càng đông. Cô thầm nghĩ người ở đâu đi ngang qua đây đông như vậy. Cô chạy ra ngõ nhìn họ không thấy ai là người quen, Cô chờ cho tóp người đi qua Cô liền đi theo sau họ.

    Bỗng một người đi phía trước nói Cô là người Dương Gian Cô đi theo Hồn Ma Âm Cảnh để làm gì. Về nhà đi Cô không nên đi theo chúng tôi. Sương Sương nghe xong kinh hãi thì ra những người đi đường là những Hồn Ma, Cô liền quay trở lại thời thấy một bà lão vừa đi tới. Sương Sương hỏi thưa bà lão những người đi phía trước có phải là toàn Hồn Ma không? Bà lão nói đúng vậy những người đi trên đường toàn là Hồn Ma chính Ta cũng vậy, không phải người Dương Gian đâu.

    Sương Sương nghe Bà Lão nói như thế một lần nữa lấy làm kinh hãi, liền nói thưa Bà Lão Hồn Ma sao lại hoạt động như người sống vậy? Cũng biết làm ăn buôn bán nhóm họp chợ búa mua sắm như người còn sống. Bà Lão nói Dương Gian, Âm Cảnh đồng nhất lý. Lối sống không khác gì nhau. Người Dương gian sanh hoạt ban ngày. Còn Hồn Ma sanh hoạt ban đêm. Sương Sương nghe Bà Lão nói càng thêm kinh dị nhớ lại lời Cha Mẹ nói quả không sai, liền hỏi thưa Bà Lão những hồn Ma ấy từ đâu đến đây vậy. Bà Lão nói những Hồn Ma đi trên đường cũng như Lão đây đều ở địa phận Vĩnh Thuận nầy rải rác nhiều khu xóm chính là những khu nhiều gò mả.

    Như Lão đây ở khu gò mả Đồng Khê bảy trăm năm, còn những Linh Hồn kia ở khu xóm gò mả khác ít nhất cũng vài trăm năm trở lên. Sương Sương nghe Bà Lão nói thế tưởng mình nghe lầm hỏi lại Bà Lão ở gò Đồng Khê bảy trăm năm. Bà Lão nói bảy trăm năm mà lâu gì có những Linh Hồn sống ở Đồng khê hơn nghìn năm, có Linh Hồn ở khu xóm mả như Gò Xày hơn hai nghìn năm.

    Sương Sương lại một phen kinh hãi nữa, liền hỏi Bà Lão Linh Hồn Bà Lão sống ở Địa Phận Vĩnh Thuận lâu như vậy. Bà có biết Cha Mẹ Cháu vừa mới mất cách đây hơn một năm người Cha tên là Ông Hợi, người Mẹ tên là Bà Dậu Bà có gặp Cha Mẹ cháu không?

    Bà Lão nói Ta không gặp nghe đâu hai Linh Hồn Ông Hợi, Bà Dậu khi còn sống nơi Dương Trần thường tu nhân tích đức hành thiện nên đã siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc khi vừa mãn kiếp trần.

    Sương Sương nghe Bà Lão nói như thế lấy làm mừng vì biết Cha Mẹ đã siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc. Bà Lão hình như không muốn nói chuyện nhiều với Sương Sương liền bỏ đi. Sương Sương nhìn theo ngơ ngác Cô không trở vào nhà mà đi tìm người quen trong những Hồn Ma đi đường nhất là Chú Tị quán thịt chó vừa mới qua đời được ba ngày.

    Cô liền ra gò nơi chôn Chú Tị đi được một đỗi xa thời gặp bầy trẻ nhỏ đang chơi Sương Sương hỏi các em ở khu mồ nào đến đây chơi vậy? Các em nhỏ đang chơi kinh ngạc nói chúng em ở nhiều khu xóm tập hợp đến đây chơi, có em nói Cô là người Dương Gian mà nhìn thấy được chúng em lạ quá? Sương Sương nói Cô nhìn thấy các em như nhìn thấy người Dương gian, bọn trẻ nghe Sương Sương nói càng thêm kinh dị.

    Sương Sương nói cách đây không xa có một ngôi mồ mới các em có gặp người ấy không? Một em khác nói Cô muốn tìm hỏi ai? Sương Sương nói Cô tìm Chú Tị, Một em nhỏ nói Cô muốn hỏi ai thời hỏi người nầy em nhỏ chỉ một em bé khác. Quá đỗi kinh ngạc cũng chỉ là một em bé. Sương Sương hỏi em bé bao nhiêu tuổi, em bé nhìn Sương Sương rồi nói em nay đã hơn năm trăm tuổi lại thêm một phen kinh ngạc như không tin ở lỗ tai mình bằng hỏi lại em bé đã hơn năm trăm tuổi rồi sao? Em bé trả lời đúng vậy em đã hơn năm trăm tuổi, em rời khỏi dương gian khi ấy mới bảy tuổi xuống nơi âm cảnh đã hơn năm trăm năm.

    Sương Sương lại lấy làm kinh dị hỏi xuống âm cảnh hơn năm trăm năm rồi mà vẫn còn là em bé sao? Hồn ma em bé tên Thu nói dù cho đến một nghìn năm nữa thời em vẫn là em bé mà thôi. Như sực nhớ bé Thu hỏi Cô muốn tìm ai nơi âm cảnh nầy. Sương Sương nói Cô muốn tìm người quen Chú Tị mới chết hơn bảy bữa chôn ở gò Tràm.

    Bé Thu nghe xong mỉm cười nói chị tìm người ấy không có ở đây đâu nghe nói linh hồn ông ấy sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, có người nói đã chuyển kiếp đầu thai làm kiếp chó thời phải. Hình như những linh hồn ở cõi âm cảnh không muốn nói chuyện lâu với người dương gian, nên lũ trẻ đã bỏ đi. Sương Sương định quay trở lại nhà thời thấy một người cụt chân khập khiễng cà thọt đi tới, Sương Sương liền bước tới chào hỏi, chào chú đã là linh hồn sao lại còn tàn tật như vậy?

    Người ấy nói khi còn ở dương gian chú giao tranh với bọn cướp, chú bị bọn cướp chém đứt một chân. Nên đã tàn phế mất một cái chân, bì bị thương quá nặng không bao lâu thời chú qua đời rời bỏ dương gian trở về Âm Cảnh, khi còn sống nơi cõi trần gian sao thời khi chết trở về Âm Cảnh linh hồn cũng y như vậy cũng khập khiễng cà thọt như hồi còn sống chốn nhân gian.

    Dù trải qua hàng nghìn năm nữa linh hồn chú cũng không thay đổi vẫn y như vầy mất một cái chân. Chỉ khi nào được đầu thai làm người trở lại thời mới hết. Sương Sương nói chú sống ở cõi Âm Cảnh lâu như vậy chú có quen biết người nào mới chết ở làng nầy không?

    Hồn Ma tàn tật liền nói chú có biết một người nghèo khổ mới chết hơn tháng ở Xã Nghĩa Thận cùng xã với cô, hiện ông ta đang ở chỗ Thần Bổn Xứ cô muốn hỏi gì thời đến đó mà hỏi hồn ma chỉ đường cho Sương Sương tìm đến cây sanh đại thụ to lớn nói xong hồn ma hình như có có vẻ sợ hãi vội vã bỏ đi.

    Sương Sương tìm đến cây đại thụ té ra nơi đây Sương Sương hồi còn nhỏ thường theo cha mẹ đến đây chơi cô nhìn cây sanh đại thụ to lớn. Cô đang trầm tư suy nghĩ thời nhìn thấy một người rất quen không ai xa lạ chính là Ông Hợi, Ông thường làm chủ cúng tế đình làng khi còn sống ở dương gian Ông Ba Hợi rất thương Sương Sương, vì Cha Mẹ cô là người rất hiền lành thường cúng thí cho đình làng.

    Vừa nhìn thấy sương Sương Ông Ba Hợi la lên con đến đây làm gì con về đi thôi, đi đêm không tốt cho con đâu. Sương Sương nói Ông Dẫn con đến gặp Thần Bổn xứ được không? Ông Hợi nghe xong suy nghĩ một hồi rồi nói con theo ta. Ông dẫn Sương Sương đến cây sanh đại thụ, thời kỳ lạ thay từ nơi cây sanh đại thụ hiện ra một ngôi am miếu lộng lẫy trang nghiêm có quân canh lính gác. Ông Ba Hợi nói con bước vào đi. Sương Sương bước vào ngôi am miếu thấy một vị quan oai vệ Sương Sương lễ lạy nói Ngài là Thần Bổn Xứ, vị quan oai vệ gật đầu rồi hỏi cô tìm quan có việc gì?

    Sương Sương thưa rằng: Thưa Thần Bổn Xứ linh hồn của Cha Mẹ con hiện nay đang ở đâu quan chỉ dạy cho con rõ.

    Thần Bổn Xứ nói linh hồn của Cha Mẹ con đã siêu sanh về non Tiên Cực Lạc. Những linh hồn đang chờ chuyển kiếp đầu thai làm người, là những linh hồn đã gặp cô như bầy trẻ nhỏ, người khập khiễng cà thọt, riêng linh hồn Ông Ba Hợi sẽ tái sanh trở lại dương gian làm người giàu sang hưởng phúc.

    Sương Sương hỏi thưa Quan con chưa rõ dương gian là sao, âm cảnh là sao, âm phủ địa ngục ở đâu, thiên đàng trần gian là gì cúi xin Quan Thần chỉ dạy cho con rõ.

    Quan Thần Bổn Xứ giảng giải:

    Nơi trần gian ở địa cầu nầy có hai cảnh giới sống người dương gian kẻ âm cảnh.

    Có nghĩa là người dương gian có xác thân do Cha Mẹ sanh ra hoạt động sanh sống ban ngày, về đêm thời ngủ nghỉ. Còn người Âm Cảnh là những linh hồn khi đã mãn kiếp trần nơi trần thế bỏ lại xác thân do Cha Mẹ sanh ra. Linh Hồn sanh sống nơi Âm Cảnh ban ngày thời ở nơi mồ mả, hoặc hang động, dưới bóng cây cao nói chung là những nơi không có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Hoạt động sanh sống ban đêm bắt đầu từ lúc chạng vạng và an nghỉ khi lúc rạng đông ánh mặt trời đã lên.

    Ở dương gian làng xã là nơi quê quán,

    Ở âm cảnh làng xã là nơi quê bổn

    Sống ở dương gian chỉ là nơi cõi tạm

    Sống ở âm cảnh cũng vậy mà thôi đều là cõi tạm

    Sống ở dương gian hết số chết đi bỏ lại xác thân

    Sống ở âm cảnh chuyển theo nghiệp ác thiện đầu thai chuyển kiếp.

    Linh Hồn ở âm cảnh, người ở dương gian làm ác đều bị sa đọa xuống các tầng địa phủ, nói chung là 18 tầng địa phủ, mỗi tầng địa phủ có vô số địa ngục hành hình các tội nhân.

    Những Linh Hồn nơi âm cảnh là khi sống nơi dương gian có chút căn lành nên không bị sa đọa xuống các tầng địa phủ ở lại nơi địa cầu chốn nhân gian nếu biết hành thiện không phạm thiên luật thời mau đầu thai làm người trở lại, nếu có công truyền Thiên Ý lời dạy Cha Trời liền được siêu sanh về non tiên cực lạc, nếu có công lớn thời được siêu sanh lên các tầng trời, mỗi tầng trời có vô số cõi nước trời sống tự tại vĩnh hằng an vui hạnh phúc.

    Trên quả địa cầu nầy quyền lực cao nhất chính là nhà nước Tâm Linh Văn Lang. Thừa hành di chí của Trời cai quản Linh Hồn Âm Cảnh khắp địa cầu. Những Linh Hồn phạm tội sẽ bị bắt giam, nhất là bị giam vào hỏa ngục trong lòng đất. Hoặc giam dưới lòng núi băng khi nào tiêu tội thời mới được thả ra. Nếu sanh tâm hành ác liền bị thiên luật vũ trụ xoay chuyển sa đọa xuống các tầng địa phủ.

    Ở dương gian tu một ngày bằng ở trên trời tu một năm. Ở âm cảnh tu một tháng.

    Sương Sương nghe xong quỳ lạy rồi ra khỏi am miếu trở về nhà. Cầu lên Cha Trời quyền năng, con nguyện truyền lời Trời dạy, lời cầu nguyện vừa xong sương sương như thiếp đi trong giấc ngủ, khi tỉnh dậy thời mặt trời đã lên cao. Sương sương từ đó không còn nhìn thấy cảnh giới Âm Cảnh nữa trở thành người bình thường quyết chí tu hành làm bao việc thiện, nhất là truyền lời Thiên Ý cầu về trời. Và đúng vậy Sương Sương gặp được người chồng tốt sanh được ba người con, lớn lên đều làm quan, khi mãn trần Linh Hồn Sương Sương liền được siêu sanh về thiên giới cõi trời cao hơn cảnh giới Non Tiên Cực Lạc hưởng hạnh phúc an vui tự tại.
     
  9. shopoga

    Bài viết:
    515
    SỬ TRUYỆN

    VĂN LANG CHIẾN SỰ I

    THIÊN ẤN THIÊN BÚT

    GÒ HỘI

    ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI

    2005

    Đinh Hùng Chung

    PHẦN 1

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Có sinh có tử luật xưa nay

    Tổ Tiên Tạo Hóa đã an bày

    Hết mưa tới nắng đời là thế

    Hết thịnh rồi suy vốn xưa nay

    Cách đây năm nghìn năm, Hùng Vương Quốc Tổ là con của Kinh Dương Vương. Mở rộng đất đai vào Nam. Khai lập ra nước Văn Lang, cùng văn hóa Cội Nguồn Tiên Rồng, ra đời Hiến Pháp nước Văn Lang, nền Quốc Đạo Tiên Rồng dân tộc. Mở ra thời đại mới, thời đại văn minh tinh thần lẫn vật chất. Có một không hai ở giai đoạn nhân loại con người thời kỳ ấy.

    Vua Hùng lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế năm 25 tuổi, ở ngôi Quốc Vương 79 năm thọ 104 tuổi. Truyền ngôi cho con cả là Hùng Quý Lân 2880 trước Công Nguyên, ở ngôi Quốc Đạo 3 năm thời về Trời. Rồi cứ thế lần lược con, cháu các Vua Hùng kế vị Quốc Vương trị vì Thiên hạ. Nối nhau được 23 đời. Đời Hùng Vương thứ 23 không có con trai. Hùng Dịch Lang đành phải lập cháu. Con của Hùng Cừ dòng thứ. Là Hùng Vân Lang lên ngôi Quốc Vương. Niên hiệu Hạ Hùng Vương đời thứ nhất 1232 năm Nhâm Dần trước Công Nguyên.

    Thời dựng nước 79 năm thời Quốc Tổ Vua Hùng.

    Thời giữ nước, mở rộng thêm đất nước 2622 năm.

    Thời con, cháu kế vị các Vua Hùng. Tổng cộng thời dựng nước, thời giữ nước của các Vua Hùng là 2701 năm. Nhà nước Văn Lang ra đời 2959 trước Công Nguyên.

    * * *

    PHẦN 2

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Văn Lang Độc Lập mấy nghìn đời

    Nào phải không người chớ dễ ngươi

    Con cháu Tiên Rồng luôn yêu nước

    Hiếu trung truyền thống dễ mà xơi.

    Nước Văn Lang: Bắt giáp Hồ Động Đình. Tây Bắc giáp Ba Thục. Tây giáp sông Hồng Lạc tức là sông Mê Công ngày nay. Ở thời Thượng Hùng Vương, Nam giáp Đèo Ngang. Ở thời Hạ Hùng Vương Nam giáp Hồ Tôn giáp giới Quảng Nam. Đông giáp biển Nam Hải, Đông Hải.

    Nước Xích Quỷ được mở rộng vào Nam lên tới 23 Bộ thành nước Văn Lang. Có hai Kinh Đô chính. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ là Kinh Đô cổ có từ thời Viêm Đế Thần Nông trên đất Giao Chỉ.

    Còn Kinh Đô Văn Lang trên vùng đất Phong Châu Nghĩa Lĩnh Phú Thọ là Kinh Đô có từ thời Hùng Vương. Cũng từ đây nền Quốc Đạo Tiên Rồng mở màng Hiến Pháp nước Văn Lang. Thượng trị Quốc Đạo, hạ trị Quốc Hội. Trên thi hành Đạo, dưới thi hành Luật, đồng nghĩa thời nay. Thượng viện Quốc Đạo. Hạ viện Quốc Hội, trên ban hành Công Đạo, dưới ban hành Công Luật. Nền Quốc Đạo không truyền xuống dân, mà chỉ truyền xuống Vua. Rồi Vua truyền xuống Quan ở hàng Vương tộc, Châu – Bộ.

    23 Bộ thời Văn Lang dựng nước, được duy trì hết thời thượng Hùng Vương. Đến thời hạ Hùng Vương 23 bộ xác nhập lại còn 15 bộ đó là:

    1: Bộ Giao Chỉ

    2: Bộ Chu Diêm

    3: Bộ Vũ Ninh

    4: Bộ Phú Lộc

    5: Bộ Việt Thường

    6: Bộ Ninh Hải

    7: Bộ Dương Truyền

    8: Bộ Lục Hải

    9: Bộ Gia Ninh

    10: Bộ Nhật Nam

    11: Bộ Cửu Chân

    12: Bộ Bình Văn

    13: Bộ Tân Hưng

    14: Bộ Cửu Đức

    15: Bộ Văn Lang

    Nước Văn Lang tuy sát nhập còn 15 Bộ. Nhưng có tới hàng nghìn Châu, Huyện. Đất đai rộng lớn vô cùng, rộng lớn hơn thời thượng Hùng Vương, giàu có trù phú vô cùng.

    * * *

    PHẦN 3

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Văn Lang Độc Lập thái bình ca

    Xuân nở đầy xuân gấm đầy nhà

    Bỗng đâu sấm nổ từ phương Bắc

    Giặc Ân tham vọng dấy binh qua.

    Thời hạ Hùng Vương đời thứ 3 Hùng Tiên Lang lên ngôi Quốc Vương trị vì thiên hạ thay Cha Ông Nội Hùng Yên Lang 1141 trước Công Nguyên. Non sông đất nước thái bình an lạc, đời sống lên cao, dân giàu có, của Báu đầy nhà. Hoa khôi xuất hiện khắp nơi, tin đồn vạn cõi. Bay đến tai Ân Thọ Vương Vua Trụ. Đời Ân Vua Trụ là tay háo sắc, háo chiến, hung bạo, tham lam, độc ác. Lúc nào cũng muốn độc bá thiên hạ, luôn luôn đi ngược lại lời dạy của các bật nhơn hiền, nghịch Thiên, ác Đạo. Nghe tin đồn phương Nam giàu có, gái đẹp như Tiên nữ giáng trần. Sơn hào, hải vị, món ngon vật lạ, ngọc ngà châu báu khắp nơi. Thời lòng thèm muốn nổi lên, đến nỗi ăn không ngon, ngũ không yên. Lúc nào cũng nghĩ đến xâm lược thôn tính nước Văn Lang. Cho đến một hôm Vua Trụ không kìm lòng nỗi nữa, liền thực hiện làm theo ý muốn của mình. Thường thường Vua Trụ lâm triều hơi muộn. Nhưng hôm nay lại khác hơn mọi khi, Trụ Vương nét mặt rạng rỡ, nhưng không dấu nỗi đầy vẻ tham vọng, khi thấy các Quan, Tướng đến chầu đông đủ.

    Chễm chệ trên bệ rồng, Trụ Vương tiếng nói oan oan như sấm, hai con mắt tóe lửa, nhìn chòng chọc đầy hung khí, ai nhìn thấy cũng phải khiếp sợ, với hàm râu quai nón dài thòm vểnh ngược như muốn ăn tươi nuốt sống ai đó:

    Trẩm nghe nói ở phương Nam Độc Lập gần hai nghìn năm, uy danh các Vua Hùng lừng lẫy, xem thường phương Bắt chúng ta. Từ thời Nghiêu, Thuấn nhà Hạ, đến đời nhà Thương ông cha ta. Có trên dưới nghìn năm. Đều kiêng dè Nam Ban Văn Lang. Có lẽ vì thế Nam Ban Văn Lang coi thường phương Bắc chúng ta. Đời tiền nhân kiên dè, nhưng đời ÂN THỌ VƯƠNG ta thì không. Ta phải làm cho chúng biết thế nào là sức mạnh phương Bắc ta. Không những đất phương Nam, mà ngay cả đất Băc chúng ta. Những nước không tùng phục, thời ta cũng phải xóa sổ chúng làm bá chủ thiên hạ.

    Càng nói Trụ Vương càng đắc ý:

    Trẫm nghe đâu thời hậu Hùng Vương, chỉ là những vị Vua tầm thường, chẳng tài cán chi. Trẩm còn nghe nói nước Văn Lang giàu có, không những sơn hào hải vị, món ngon vật lạ, ngọc ngà châu báu như núi như non. Lại thêm văn minh nông nghiệp lúa nước, hạt ngọc ấm no, khai thác đồng thau, sắt thép vượt bật. Nhất là thép quí hiếm vô cùng.

    Vua Trụ càng kể càng nổi lên thèm khát tột độ. Không những Vua mà ngay cả Quan cũng nổi lên sự thèm khát như vậy. Nếu thu phục được nước Văn Lang, gồm thâu Thiên Hạ Nam Bắc về một mối. Lập lên kỳ tích mà từ xưa tới nay chưa ai làm nỗi. Nhà Ân sáng chói có một không hai, trong lịch sử nhân loại. Có lẽ lòng háo chiến, háo thắng, dã tâm, tham vọng quá lớn. Nên đã làm lu mờ lý trí Vua Trụ. Lượm lặt thông tin không chính xác. Dẫn đến đánh giá thấp nhân tài, thực lực của nước Văn Lang.

    Thừa Tướng Thương Dung thấy Trụ Vương xem thường nước Văn Lang thời than thầm rằng: Có lẽ cơ nghiệp nhà Thương sắp hủy diệt, nên bệ hạ mới nổi lên lòng háo chiến, ngạo mạng xem thường Nam phương Văn Lang.

    Liền khuyên can Vua Trụ rằng:

    Muôn tâu bệ hạ. Nam Ban Văn Lang không phải tự nhiên mà giàu có, Độc Lập kéo dài như thế, điều có cái gốc rễ nguyên nhân của nó. Đó chính là nền Quốc Đạo dân tộc. Hiến Pháp của nước Văn Lang, Hiến Pháp nền Quốc Đạo. Mới thật là Vua của nước Văn Lang. Các Vua Hùng nối nhau phò trì nền Quốc Đạo nầy. Đánh bại Vua Hùng thời có thể làm được. Nhưng đánh bại nền Quốc Đạo Tiên Rồng thì..

    Thừa Tướng Thương Dung không dám nói nữa. Vua Trụ nổi nóng quát:

    Thì sao Thừa Tướng không nói tiếp.

    Thương Dung ấp a.. ấp úm..

    Vua Trụ nói:

    Thừa Tướng cứ nói ta không bắt tội.

    Thương Dung thưa:

    Muôn tâu bệ hạ. Thắng người thời dễ, nhưng thắng Đạo, thời từ xưa tới nay chưa có ai làm nỗi. Huống chi là nền Quốc Đạo Tiên Rồng Hiến Pháp khai dựng lập lên nước Văn Lang.

    Muôn tâu bệ hạ. Nam Ban Văn Lang là một cường quốc vô cùng lợi hại. Lợi hại cả hai mặt, về tinh thần lẫn vật chất. Đất đai rộng lớn, rừng núi hiểm trở, sông ngòi, kinh rạch chằng chịt. Đúng là nơi Hổ ẩn, Rồng nằm vô cùng bí hiểm. Nên gần 2000 năm Độc Lập giữ vững chủ quyền. Không phải là không có lý do.

    Vua Trụ nghe cũng có lý thời thừ người. Nét mặt buồn thảm vô hạn.

    Vưu Hồn, Bí Trọng thấy Vua Trụ mất vui, liền tâu rằng:

    Muôn tâu bệ hạ: Nước Văn Lang thế nầy thế nọ. Chẳng qua là lời đồn, còn thực tế ra sao thời chưa tỏ rõ. Hùng Tiên Lang chỉ là vị Vua tầm thường. Chỉ lo an hưởng thái bình vui thú núi non. Các thân Vương, hầu Vương cũng vậy, bất tài vô dụng, béo mập chẳng nên tích sự gì. Có lẽ đây là cơ hội lập lên nhà Ân rộng lớn uy danh chúng ta, thống nhất thiên hạ Nam Bắc mở ra trang sử mới, trang sử hào hùng thời Ân.

    Trụ Vương đang u sầu, nghe Vưu Hồn, Bí Trọng nói có lý, tân bốc sướng tai khoái chí vô cùng. Thấy Trụ Vương đắc ý nghe lời sàm tấu của loài nịnh hót Hồ tinh.

    Mai Bá tâu rằng:

    Ở đời Thái Hậu, đất Ba Thục có hai vị Chúa Vương là Hồ Xương, Hồ Quảng. Thần thông Pháp thuật vô biên. Có dã tâm lớn muốn nuốt nước Văn Lang. Nhưng đều thất bại bỏ mạng tại sa trường. Sau đó thời tới giặc Hung Di Mũ Đỏ là thứ giặc hung hiểm vô cùng, bước chân lên đất Văn Lang liền bỏ mạng không có ngày về.

    Triệu Khải tâu thêm:

    Muôn tâu bệ hạ. Hạ Thần lâu nay vẫn nghe nói nước Văn Lang có bảy thanh Bảo Kiếm vô cùng lợi hại. Báu vật trấn Quốc, do Quốc Tổ Vua Hùng truyền lại. Nhờ thế nước Văn Lang vững bền Độc Lập, quân Văn Lang bất khả chiến bại.

    Vua Trụ nghe Triệu Khải tâu thế mặt liền biến sắc, thấy Triệu Khải đề cao nước Văn Lang nhân tài báu vật thái quá.

    Sùng Hầu Hổ liền lên tiếng. Sùng Hầu Hổ tính tình mười phần giống Vua Trụ tám chín phần. Háo sắc, hung dữ, tham lam, xưng hùng xưng bá, luôn coi thiên hạ ở dưới chân. Nghe Thương Dung, Mai Bá, Triệu Khải đề cao đất Nam. Nhân tài, vật báu, Quốc Đạo thái quá. Làm giảm uy phong đất Bắc thời đại bành trướng nhà Ân.

    Thời liền tâu lên Vua Trụ rằng:

    Muôn tâu bệ hạ. Đời Ân ta so với các đời trước thời thế lực, vật lực, binh khí, nhân tài mạnh lên gấp hàng chục lần. Có thể nói là tột đỉnh. Nếu đem so với nước Văn Lang về mặt nào chỉ có hơn chứ không kém. Nhân sự, quân sự, chính trị, binh lính, đều hơn hẳn nước Văn Lang, gấp đôi, gấp ba, gấp bốn lần. Hơn nữa đất Ba Thục là do đời Ân ta cai quản. Hồ yêu, Hồ ma là con cháu của Hồ Xương, Hồ Quảng, từ thời nhà Hạ di cư xuống. Nên có mối tình giao hảo thời Ân Thương chúng ta. Sức mạnh đất Bắc chúng ta dời núi lấp sông. Chưa giao chiến sao biết là không thắng. Theo tôi nghỉ nước Văn Lang chỉ là con cọp đất nắn nặn lên mà thôi.

    Trụ Vương thấy Sùng Hầu Hổ gãi đúng chỗ ngứa, khoái chí cười lên ha hả:

    Ta cũng muốn xem Nam Ban lợi hại như thế nào.

    Thấy Vua Trụ đã Quyết, các Quan các Tướng chẳng dám hớ môi.

    Đây nói về Vi Tử Khải, Vi Tử Điển là anh của Vua Trụ. Không được chọn lập lên ngôi Hoàng Đế. Tuy không phản đối nhưng lòng lúc nào cũng buồn rười rượi. Nghĩ đây là cơ hội ngàn vàng. Nếu chiếm được nước Văn Lang thời ta xưng Vương ở đó. Mặc sức tha hồ mà hưởng.

    Liền tâu lên Vua Trụ rằng:

    Hạ Vương cũng muốn tham gia cuộc chiến lập công góp sức cùng Bệ Hạ.

    Vua Trụ lấy làm ngạc nhiên, không nghi ngờ gì phê chuẩn cho đi Thế là:

    Lòng tham bùng dậy đá sắt tiêu

    Bất chấp lời khuyên chết cũng liều

    Binh hùng tướng mạnh rền đất Bắc

    Hung tin nghìn dặm sấm vang kêu

    Bầu trời u ám sa bão táp

    Beo gầm sói hụ hiện quỹ yêu

    Cuồn cuộn mây đen bay cùng khắp

    Trời Nam dân chúng khổ lên nhiều.

    * * *
     
  10. shopoga

    Bài viết:
    515
    PHẦN 4

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tiên Lang đang niệm Cha Trời

    Bỗng đâu ngọn gió lạnh người bay qua

    Hiện đầy quỷ dữ yêu ma

    Gươm đao giáo mác bay ra mịt mù

    Máu xương đầy khắp hoang vu

    Quê hương lửa dậy âm u đen ngòm

    Tiên Lang lo lắng bồn chồn

    Hợp liền quan tướng, kế bàn chuyển xây.

    1141 trước công nguyên Hùng Tiên Lang lên ngôi Quốc Vương. Non sông đất nước thái bình an lạc, ngô, lúa, sắn, khoai. Nông, lâm, ngư, nghiệp luôn luôn được mùa lớn. Biển lặng sóng êm, giao thương thuyền bè buôn bán tấp nập. Ao hồ sông rạch tôm cá đầy ghe. Danh lam thắng cảnh. Ca, múa, chiên, trống, hội hè. Người chen sắc áo, hoa thắm đua khoe. Ấm tình non nước, ấm nghĩa bạn bè. Hè già nắng dịu, nẫy đọt non thu.

    Nơi đền thờ. Hùng Tiên Lang đang thành tâm niệm Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ. Thời bỗng có một cơn gió dữ nổi lên. Làm đèn nến tắc sạch. Hiện lên đầy Cáo Sói, Ma Quỷ hung tợn. Hùng Tiên Lang giật mình lo sợ. Không hiểu điều gì sắp xảy ra. Lại thấy binh lửa dậy trời, người chết như rạ. Máu xương đầy khắp Giao Chỉ. Hùng Tiên Lang liền cho người thông báo khẩn cấp, các bộ các châu về họp.

    Thường thường hàng năm hai lần họp. Đều ở Cung Hạ Trị Quốc Hội. Nhưng nay cuộc họp bất thường lại khác hẳn cuộc họp ở Cung Thượng Trị Quốc Đạo, nên các quan tướng cũng đánh giá được phần nào tầm quan trọng của cuộc hộp bất thường nầy.

    Có thể nói là tối quan trọng, liên quan đến sự an nguy Tổ Quốc. Nên sắc mặt các vị quan tướng người nào, người nấy tỏ vẻ hết sức căng thẳng. Nơi Cung Thượng Trị Quốc Đạo. Thái Thượng Hoàng Hùng Yên Lang cùng Hùng Tiên Lang ở đó đợi các vương, các quan, các tướng đến họp. Hương trầm nghi ngút trước Tiên Linh 24 vị Quốc Vương đã về trời, ngôi cao nhất chính giữa ngôi Quốc Tổ Hùng Vương: Trên Quốc Tổ là hai Đấng Tiên Rồng, Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Còn hai bên tả hữu dưới ngôi Quốc Tổ. Một bên là Thượng Hùng vương. Một bên là Hạ Hùng Vương.

    Thượng Hùng Vương: 23 Linh Vị từ cao xuống thấp

    Hạ Hùng Vương: 1 Linh Vị ở trên cao cánh hữu. Linh Vị Hùng Vân Lang, đời thứ nhất hạ Hùng Vương. Thứ 24 thời Hùng Vương.

    Ai bước vào Cung Thượng Trị Quốc Đạo cũng điều thấy khiếp sợ, trước tài năng uy Đức của các Quốc Vương Thánh Tổ. Lúc bấy giờ nơi Cung Thượng Trị Quốc Đạo. Bá quan văn võ đủ mặt chẳng thiếu một ai. Hùng Tiên Lang đi ngay vào ý chính. Kể lại câu chuyện cách đây bảy hôm. Trẫm đang niệm danh hiệu Đức Cha Trời. Thời một chuyện lạ lùng rùng rợn xảy ra. Hùng Tiên Lang kể lại không bỏ sót một chi tiết nào. Nghe xong các Vương, các Quan, các Tướng ai nấy cũng đều kinh hải. Trong số các Vương gia, có Cao Hầu Tể Vương Gia là con cháu lâu đời của Cao Tông, Cao Tổ là người giỏi về thiên văn, địa lý, dịch lý, tướng số, thuật số, đón mộng, Tiên liệu như Thần. Nghe Quốc Vương kể xong liền co tay bấm quẻ, mặt liền biến sắc. Các Vương, các Quan, các Tướng, không khỏi lo lắng đồng nghỉ việc gì sắp xảy ra.

    Cao Hầu Tể Vương tâu với Quốc Vương rằng:

    Muôn tâu Quốc Vương, hạ quan thấy những ngày gần đây, trên bầu trời các chòm sao sáng lên một cách kỳ lạ, hạ quan nghỉ mãi. Bỗng một hôm hạ quan thấy mình bay lên trời, tới những vì sao sáng ấy, đó là những chòm sao gần miền hạ giới, hạ hạ Thiên Vũ Trụ, những chòm sao sáng ấy chưa có ngôi chủ quản, nên đã phát ra hung tinh, thiện tinh xung phá lẫn nhau, mỗi ngày một thêm dữ dội. Không lẽ Huyền Cơ Vũ Trụ đã chuyển đến giai đoạn phong thần, ý Trời chọn người chủ quản cho đủ số bộ máy huyền vi Vũ Trụ. Nếu thế thời cuộc phong thần sắp xảy ra.

    Thái Thượng Hoàng, Hùng Yên Lang nói:

    Không lẻ cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc lại rơi vào cuộc phong thần?

    Cao Hầu Tể vương nói:

    Muôn tâu Thái Thượng, chúng ta là con cháu Tiên Rồng, giai cấp cao quí Vũ Trụ, giai cấp phật Thánh Tiên. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là cuộc chiến tranh chính nghĩa, không phải là cuộc chiến tranh xưng hùng, xưng bá, mà cuộc chiến tranh tự vệ theo Thiên luật hành trì, giữ vững cán cân công lý, bảo vệ độc lập tự do, nhân quyền, bình đẳng công bằng theo thiên luật tôn trọng lẫn nhau. Vì vậy hi sinh bảo vệ Tổ quốc giữ vững chủ quyền độc lập là sự hi sinh cao cả, nếu Trời có phong cũng chỉ phong Thánh mà thôi.

    Thái Thượng Hoàng nói:

    Ta cũng nghỉ như vậy và ta cũng đã nhớ lại, các thời Tiên Vương truyền xuống giai đoạn phong Thánh sau phong Thần ba nghìn năm Hội Long Hoa khai mở. Đó là thời kỳ Quốc Tổ lâm phàm trở lại, mở ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng toàn thế giới. Đó là việc xa xôi vì phong Thần chưa xảy ra chúng ta không nên bàn tới nữa, mà hãy bàn về chuyện sắp xảy ra đối với non sông Tổ quốc chúng ta. Cao Tể Vương cho biết việc Kiết – Hung của toán quẻ vừa rồi.

    Xin tuân lệnh Cao Hầu Tề Vương nói:

    Muôn tâu Quốc Vương có lẽ nước Văn Lang chúng ta đi vào cuộc chiến chưa từng có ở thời ông cha ta. Quân Bắc giặc Ân đang dốc toàn lực lượng xâm lược nước ta với quy mô lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nhân loại, thế mạnh dời non lấp biển. Thời ông cha ta dựng nước Xích Quỷ, dựng nước Văn Lang. Đã chém không biết bao nhiêu là chúa Yêu, chúa Quỷ, thuồng luồng, chồn, cáo, sói, rắn, hổ, báo. Nhất là Hồ Tinh – Ngư Tinh – Mộc Tinh lợi hại vô cùng. Nay chúng đã đầu thai làm người phần đông đều ở phương Bắc. Dọc theo các con sông lớn từ thượng nguồn cho đến hạ nguồn, như sông Hoàng Hà, Trường Giang, v. V.. và các con sông phụ lưu khác. Có cơ hội là chúng trả thù tiêu diệt chúng ta ngay và cơ hội thời cơ đó đã đến. Chúng đã hội tụ đủ nhân quyền tạo dựng được binh hùng tướng mạnh và đã bắt đầu di chuyển lực lượng xâm lược thôn tính nước Văn Lang ta, yêu khí, hung khí xông lên làm cho Trời Đất u ám đến kinh người. Muôn tâu Quốc Vương. Chúng ta khẩn cấp cho cuộc chiến, dốc toàn lực lượng chống trả một còn, một mất nầy.

    Tây Thục Hầu nói:

    Ta sợ gì chúng, loài ăn cướp chồn, cáo Yêu Tinh. Tuy nước Văn Lang ta sóng yên, biển lặng, thái bình độc lập đã lâu, nhưng nhờ vào nền Quốc Đạo, nên con cháu Tiên Rồng lúc nào cũng bền vững ý chí. Muôn người như một nhứt hô bá ứng. Ta hãy cho chúng biết thế nào là truyền thống anh hùng dân tộc. Đã dẫm chân lên đất Văn Lang, thời không có ngày về, thây phơi chật đất, làm phân cho cỏ cho cây.

    Hùng Tiên Lang nói:

    Văn Lang chúng ta xưa nay nhân tài mọc lên như nấm, địa hình phức tạp, núi non hiểm trở, sông lạch chằng chịt, rừng đồi cùng khắp với địa hình này ta không bao giờ sợ chúng.

    Thục Vương nói:

    Muôn tâu Quốc Vương, đúng vậy đúng vậy. Đất Tây Bắc Văn Lang sẽ là nơi vùi xác chúng.

    Hùng Cao Lang nói:

    Nam Kinh Xích Quỷ, Giao Chỉ là vùng đất Tổ của ông cha ta có bề dày lịch sử hơn ba nghìn năm. Đã từng đánh tan quân xâm lược Bắc giữ yên bờ cõi, là vựa lúa lớn nhất của nước Văn Lang ta, cũng là nguồn thủy sản lớn nhất cung cấp cho cả nước. Bắc Giao Chỉ là sông Nam Trường Giang. Nam Giang chỉ là sông Tây Giang. Quân xâm lược sẽ vùi chôn nơi đây, không còn một mạng sống sót trở về.

    Cao Lạc Hầu vương thưa:

    Muôn tâu Quốc vương. Đông Hải Văn Lang xưa nay là thế mạnh của thủy chiến, không những mạnh về thủy chiến mà còn mạnh cả về bộ chiến rừng, lạch chằng chịt âm u. Quân xâm lược sẻ bỏ mạng, thân xác làm mồi cho tôm cho cá. Trị cái tội xâm lược ngông cuồng của chúng.

    Thấy khí phách hào hùng của các bật Vương, Quan, Tướng. Hùng Tiên Lang lấy làm vừa lòng nói:

    Chúng ta là con cháu Rồng Tiên thời không có gì phải tham sống sợ chết. Tức thời hàng loạt kế sách, sách lược, chiến lược, chiến thuật được nêu ra bàn bạc thảo luận nắm lấy mọi chủ động, mọi cơ hội, mọi thời cơ ứng biến tiêu diệt địch.

    * * *
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...