1 người đang xem
675 1
Đề bài: Viết bài văn NLVH phân tích tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai trong tình huống khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc

- Bài làm -

53742887409_0b7df0c3f6_o.jpg

Trong bài tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi có viết: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh." Có thể thấy tác giả đã có nhìn nhận sâu sắc về chức năng phản ánh của một tác phẩm nghệ thuật đích thực, đó là khả năng kết hợp giữa thực tại khách quan và tư tưởng, tình cảm chủ quan của người nghệ sĩ. Vì thế mà trong mỗi một giai đoạn, văn học lại mang một màu sắc khác nhau. Đó có thể là sự hào hùng, quyết liệt của cuộc chiến chống quân Thanh trong Hoàng Lê nhất thống chí; sự ảm đạm, tối tăm của cuộc đời cơ cực, bế tắc mà chị Dậu hay bất cứ người dân nào phải gánh lấy trước Cách mạng tháng Tám - hiện thực trong tác phẩm Tắt đèn; hay là sự náo nức, vui tươi của cuộc sống xây dựng xã hội chủ nghĩa khi hòa bình lặp lại trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Không là ngoại lệ, bối cảnh thời đại cũng chi phối sâu sắc đến chủ đề trong các trang văn của Kim Lân - một nhà văn vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Đến với truyện ngắn Làng, bạn đọc càng thêm thấm thía những rung động thiết tha về tình yêu làng, yêu nước của người nông dân trong kháng chiến chống Pháp. Điều đó đã được thể hiện chân thực và sinh động qua nhân vật ông Hai trong tình huống khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 tại Từ Sơn, Bắc Ninh. Sự nghiệp văn chương của ông không đồ sộ, chủ yếu là truyện ngắn. Nhưng "quý hồ tinh bất quý hồ đa" (Hữu Thỉnh), nhà văn này đã để lại trong tâm trí người đọc những ấn tượng khó quên về phong cách của một ngòi bút bình dị mà đặc sắc, khó trộn lẫn và ít phôi pha theo thời gian. Văn nghiệp Kim Lân không thể đong đo bằng lượng, mà phải cảm nhận bằng tinh hoa văn hóa Kinh Bắc chưng cất nên những tác phẩm có giá trị bền bỉ, độc đáo trên hai phương diện văn học và nghệ thuật. Ông đã dành cả đời mình để khám phá cuộc sống của những người thôn quê nghèo khổ với nếp sống thanh bạch và nhân nghĩa truyền lại từ nghìn đời. Trong văn của Kim Lân, cái đặc sắc nhất, xúc động nhất là hồn cốt của tình người chứ không phải là những kịch tính hay xung đột dữ dằn. Đọc những trang viết của ông, có thể cảm nhận chúng được chắt lọc ra từ cuộc đời ông, từ cội nguồn quê hương - ngôi làng Chợ Dầu, Phù Lưu giàu truyền thống văn hiến lịch sử với những con người bé nhỏ, lam lũ, khốn khó nhưng rất mực nhân hậu, yêu quê hương, chăm chỉ lao động.

Bên cạnh tác phẩm tiêu biểu Nên vợ nên chồng và Vợ nhặt, truyện ngắn Làng của Kim Lân cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Làng được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Trong thời kỳ này, văn học đã được xây dựng để phục vụ cho cuộc chiến đấu của người dân Việt Nam và có phong cách hiện thực, đại chúng, hướng đến xã hội chủ nghĩa.

53742888024_9b660ee7d2_o.jpg

Để khắc họa rõ nét, tỉ mỉ tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, tác giả đã đặt nhân vật vào hai tình huống. Trong đó chi tiết ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu lập tề theo giặc nằm ở tình huống một - tình huống gay cấn, thắt nút - lấy bối cảnh ông Hai cùng gia đình đi tản cư theo lệnh kháng chiến. Tại nơi tản cư, ông Hai lúc nào cũng nhớ da diết và tự hào về làng Chợ Dầu của mình thì bỗng nghe tin làng mình đã lập tề theo giặc. Mở nút cho câu chuyện là tình huống hai, khi ông Hai nghe tin cải chính và múa tay lên khoe làng bị đốt, nhà bị cháy.

Ngay phần mở đầu tác phẩm, trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tình yêu quê hương của ông Hai đã bộc lộ khá sâu sắc. Đúng như "Thân cư hải ngoại/ Tâm tại cố hương", ban ngày tham gia lao động sản xuất, ổn định cuộc sống "vỡ một vạt đất rậm ngoài bờ suối từ sáng đến giờ", "tính để trồng thêm vài trăm gốc sắn ăn vào những tháng đói sang năm", đến buổi tối, ông lại sang nhà hàng xóm giãi bày nỗi nhớ quê của mình. Ông luôn miệng kể cho sướng miệng từng điều hay, cái đẹp của quê hương, đến cả đường làng, cổng làng hay cái "sinh phần" - lăng mộ của viên tổng đốc người làng, chứng tích một phần đau khổ của dân - cũng được ông Hai khoe hết lời để vơi bớt nỗi hoài niệm về làng. Câu cảm thán, câu hỏi tu từ kết hợp hình thức độc thoại nội tâm và phép liệt kê đã cho thấy nỗi nhớ quay quắt và khao khát về làng của ông. Không chỉ có "tật" khen làng Chợ Dầu của mình đẹp nhất nhì thiên hạ, người lão nông ấy còn hãnh diện và tự hào về quê hương những ngày đầu được giải phóng. Tình cảm của ông dành cho quê là thứ tình cảm hồn nhiên và thuần phác, được bồi đắp từ những kỉ niệm trong cuộc sống hàng ngày, từ con người và sự vật mà ông gắn bó trong hơn nửa đời qua. Đáng quý hơn, tấm lòng trong sáng đó còn gắn liền với tình yêu Tổ quốc. Ông Hai tin tưởng và tự nguyện đi theo kháng chiến, gắn bó với cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ông luôn hồi tưởng về những tháng ngày "cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá", lo nghĩ "không biết cái chòi gác đã dựng xong chưa", "những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm" và quan tâm đến tin tức kháng chiến, đến chính sự "vào phòng thông tin nghe đọc báo.. chẳng sót một câu nào". Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta. Ông vui khi nghe được các thành quả của Cách mạng, bởi như vậy cho thấy đất nước sắp được độc lập và ông sắp được về làng. Cách kể của Kim Lân rất nhẹ nhàng, trong sáng, cho ta thấy rõ những nhận thức tiến bộ của người nông dân. Họ không chỉ nhìn thấy chái bếp của nhà mình, lũy tre của làng mình, mà còn nhìn rộng ra non sông, đồng bào, đất nước. Có lẽ vì vậy mà cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đến với ông một cách rất tự nhiên, trùng hợp, khi ông đang hồn hậu hỏi han một người bà con và tình cờ nghe được giặc càn quét "ở Bắc Ninh về qua Chợ Dầu".

53742975280_13849e603f_o.jpg

Trái ngược với sự thong thả, ung dung khi ông Hai nghe những tin vui từ kháng chiến "hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, ông chóp chép cái miệng ngẫm nghĩ", lần này tin dữ như sét đánh ngang tai, khiến ông đang gật gù rít thuốc lào cũng phải "quay phắt lại". Ông sững sờ hỏi lại trong sự lắp bắp "Nó.. Nó vào làng Chợ Dầu hở bác?". Ông tin vào ý thức cách mạng của người dân làng ông cũng như thắng lợi tất yếu nếu giặc đến làng nên câu sau thì ông hỏi ngay "ta giết được bao nhiêu thằng?". Tiếp theo đó, tin ác "Việt gian từ thằng chủ tịch" đến với ông thật bất ngờ và đột ngột, như dội một gáo nước lạnh xuống quả tim nóng hổi của ông, bóp nghẹt trái tim ông, khiến ông Hai choáng váng, thảng thốt, bàng hoàng: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ..". Câu hỏi nghẹn ngào trong tiếng giọng lạc "Liệu có thật không hở bác? Hay là chỉ lại.." cho thấy ông Hai ngỡ ngàng đến không thể tin và mong đó chỉ là tin đồn thất thiệt. Khi ông trấn tĩnh được phần nào, còn bán tín bán nghi về tin vừa nghe được, thì tác giả lại khéo léo lồng ghép lời kể rành rọt của người đàn bà ẵm con và lời bình luận của những nhân vật khác, lại khẳng định họ "vừa ở dưới ấy lên", làm ông Hai không thể nào không tin, tạo áp lực khiến ông thêm day dứt, khổ tâm, cho thấy tin dữ đã hoàn toàn gây chấn động thể xác và choán lấy tâm hồn của người lão nông tội nghiệp.

Tuy không phải những tiếng chửi hướng về mình, nhưng những từ "Việt gian", "thằng", "đổ đốn" cũng đủ xát muối vào lòng ông Hai, khiến ông nhục nhã và sợ hãi. Hàng loạt các hành động máy móc, gường gượng, không tự nhiên, kết hợp lời độc thoại "Hà, nắng gớm, về nào.." và tư thế "cúi gằm mặt xuống mà đi" đã nhấn mạnh việc ông Hai đánh trống lảng và muốn chạy trốn khỏi câu chuyện đau lòng. Bạn đọc dễ dàng bắt được từng thay đổi nhỏ trong tâm trạng của ông Hai phải chăng là do Kim Lân đã bắt được cái hồn của một cuộc đối thoại chân thật ngoài đời cùng những phản ứng của người trong cuộc, hay do nhà văn đã trải chính lòng mình lên trang viết?

Sự thấp thỏm, xấu hổ và ê chề đã đeo bám ông Hai về đến tận nhà. Ông như bị rút cạn phần lớn sinh lực, mệt mỏi "nằm vật ra giường". Tuy người lão nông ấy đã qua tuổi tứ tuần, nhưng ông vẫn không thể kìm nén mà khóc đầm đìa cả cằm cả mặt "nước mắt ông lão cứ giàn ra." Ông tủi thân và dằn vặt, muôn vàn nỗi lo ùa về trong tâm trí ông. Ông xót xa và lo lắng cho số phận của những đứa con "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?", lo cho những người tản cư làng ông sẽ bị tẩy chay, ghẻ lạnh, cho tương lai của gia đình "Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao?". Một loạt những câu hỏi độc thoại nội tâm đã gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối rắm, không có lối thoát của ông Hai. Trong trạng thái giận dữ, ông nắm chặt hai tay mà rít lên đầy đau đớn: "Chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Vừa tin tưởng vừa ngờ vực, ông bắt đầu "kiểm điểm từng người trong óc", phủ định họ "có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy", cuối cùng lại ngậm ngùi thừa nhận "Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian". Tối ngày hôm đó, ông buồn bã, chán chường và tuyệt vọng. Ông giận cá chém thớt, vô cớ gắt gỏng, bực dọc. Trái ngược với khung cảnh ồn ào huyên náo của buổi sáng "tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, cùng với tiếng cười nói của cánh đi phá đường về râm ran một góc đường", cảnh vật buổi tối ảm đạm, ngột ngạt và lặng như tờ. Quả là "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", Kim Lân đã miêu tả rất cụ thể, sống động những biến chuyển dữ dội trong nội tâm nhân vật ông Hai gắn với bầu không khí ngày một nặng nề trong gian nhà nhỏ "Trong nhà có cái im lặng thật là khó chịu, không ai dám cất tiếng lên nói". Yếu tố miêu tả cũng được đưa vào đoạn truyện một cách tự nhiên, khéo léo "gian nhà lặng đi, hiu hắt. Ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão".

53742975315_356fced863_o.jpg

Ba bốn ngày sau, nỗi ám ảnh, u uất đã chuyển sang trạng thái sợ hãi, hoang mang thường trực trong lòng ông Hai. Ông trở nên nhạy cảm hơn và nơm nớp lo sợ phải đối diện với mọi người xung quanh: Ông không dám đi đâu, cứ quanh quẩn ru rú trong nhà và nghe ngóng tình hình bên ngoài, "cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông.. là ông lủi ra một góc nhà, nín thít." Điều gì đã khiến một người quảng giao, thích khoe làng, quan tâm hết mình đến cộng đồng và cuộc sống chung của mọi người như ông Hai lại chịu trói chặt trong nhà? Có lẽ ông tự cảm thấy mình có lỗi trong việc làng theo Tây vì bản thân đã tản cư, không đồng hành cùng người làng để khiến dân làng thêm kiên trung hơn. Nhịp truyện trở nên dồn dập và gấp gáp, đẩy lên cao trào khi ông Hai nghe mụ chủ nhà đuổi khéo gia đình ông đi "Đành nhẽ là ông bà kiếm chỗ khác vậy". Ông Hai lúc này rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và dường như bế tắc hoàn toàn, "bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu ông lão."

Những giằng xé, dằn vặt, hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào tình thế phải đưa ra lựa chọn: Quay trở về hay bỏ làng. Câu nghi vấn "Hay là quay về làng?" tách ra thành một đoạn, cho thấy ông phân vân và thoáng có ý nghĩ trở về làng, nhưng khi ý nghĩ đó vừa chớm định hình thì ông đã vội gạt ngay. Bởi "làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến", ông không thể chấp nhận gạt bỏ lòng tự tôn dân tộc của mình để về làng được. Gọi dân làng là "chúng nó", ông đã bày tỏ thái độ thù hằn, xa cách, phân ranh giới rõ rệt giữa địch và ta. Ông nhớ lại những tháng ngày bị đô hộ, bóc lột "cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ ông." Cuối cùng, để "không chịu mất hết", để bảo toàn danh dự, niềm tin và lý tưởng sống cao cả được giác ngộ trong mình, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng cũng đầy quyết đoán, dứt khoát: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Tác giả đã để cho nhân vật của mình trải qua một xung đột nội tâm vô cùng gay gắt để rồi đi đến quyết định là phải từ bỏ làng quê, hy sinh tình cảm cá nhân vì tình yêu dành cho đất nước. Đó có thể chưa phải là một lựa chọn sinh tử nhưng cũng đủ khiến ông Hai giằng xé, day dứt và khổ tâm. Ta càng thêm cảm động và trân quý hơn hai thứ tình cảm cao đẹp trong ông Hai. Đối với ông Hai, làng Chợ Dầu là một nơi rất đỗi thiêng liêng, là mảnh đất nơi ông đã sinh ra, là nguồn cội tổ tiên, gia đình mà tưởng chừng như suốt cuộc đời không thể nào từ bỏ được. Nhưng khi đặt tình yêu làng và tình yêu nước lên để so sánh, ông Hai vẫn quyết tâm lựa chọn làm theo lý tưởng cách mạng, tuyệt đối không bao giờ ủng hộ cho Việt gian. Chính cái quyết định đầy đau đớn ấy đã khẳng định lòng dạ thuỷ chung với Cách mạng, với Bác Hồ của người nông dân trong kháng chiến. Nhưng dù lý trí ông đã vạch ra tư tưởng cho chính mình, trái tim ông vẫn không thể hoàn toàn dứt đi tình quê được. Vì vậy, sau khi ra quyết định bỏ làng, ông muốn được tâm sự, như một cách để ông phân bua, minh oan, cởi bỏ nỗi lòng, lý giải cho quyết định của mình.

53742975380_91fdbb584d_o.jpg

Tác giả đã khéo léo đưa vào truyện nhân vật cu Húc - đứa nhỏ hồn nhiên, đáng yêu, chưa nhận thức được đầy đủ về sự miệt thị của người khác và về tiền đồ đen tối của gia đình. Trò chuyện với con, ông có thể thoải mái bộc lộ tâm tư và gửi gắm nỗi lòng của mình. Đầu tiên, ông Hai hỏi con "Thế nhà con ở đâu?" để nhắc nhở con về quê hương - nơi ông từng rất yêu, rất tôn thờ và coi là lẽ sống. Câu hỏi thứ hai "Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?" cũng là câu vấn lòng đang quay quắt trong ông. Câu trả lời khe khẽ "Có" của cu Húc đã khiến ông nghẹn ngào không nói nên lời, "ông lão ôm khít thằng bé vào lòng", "một lúc lâu mới hỏi tiếp". Ông Hai vẫn yêu, vẫn nhớ quê hương nhưng vì chẳng thể về nên mới đau xót, ngậm ngùi như vậy. Có lẽ những ai đang bôn ba nơi xứ người, một lòng hướng về quê nhà nhưng ở trong hoàn cảnh éo le không đủ điều kiện trở về mới phần nào hiểu thấu nỗi niềm bất lực và day dứt của ông Hai lúc này. Giọng văn vẫn thủ thỉ, tâm tình, giúp ông lão tiếp tục mở lòng với con "À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?". Liên tiếp những câu hỏi tưởng chừng như rất vu vơ mà ông Hai hỏi cu út thực chất là minh chứng cho nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai dành cho quê hương, đất nước, cho Cách mạng và kháng chiến. Ông muốn khắc sâu vào trái tim bé bỏng của con tình yêu sâu nặng và tấm lòng thủy chung ấy, đồng thời cũng là tự nhắc mình "Nhà ta ở làng Chợ Dầu" và "Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!". Có thể thấy, tuy không phút nào nguôi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của toàn dân, trong thẳm sâu cõi lòng, ông vẫn cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, vẫn tin tưởng và hy vọng vào những điều tốt đẹp, vào Đảng và cụ Hồ. Hàng nước mắt "giàn ra, chảy ròng ròng trên má" cho thấy nỗi khổ tâm của ông Hai thật đáng trân trọng vì đó là nỗi đau của một con người trọng danh dự của làng như chính bản thân mình. Yếu tố miêu tả được đưa vào phần truyện tự sự để đặc tả chân dung ông Hai đã cực tả tâm trạng nhân vật. Nhưng đằng sau những giọt nước mắt đó cũng là sự hãnh diện, tự hào của ông với đứa con trai khi nghe câu trả lời của con hoàn toàn trùng khít với suy nghĩ và tình cảm của ông. Nhà văn đã thể hiện sự nhân văn của mình khi xây dựng nhân vật phụ cu Húc, giúp ông Hai trải lòng và có thêm niềm tin vào những điều ông đã chọn lựa. Câu độc thoại nội tâm "Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai" chính là lời xác nhận cuối cùng về tuyên ngôn sống của hai bố con ông. Qua đó, ta không chỉ thấy tình yêu làng tha thiết, tình yêu nước rộng lớn của nhân vật ông Hai khi tản cư mà còn tin tưởng người nông dân ấy sẽ dành cả đời trọn vẹn cho chính nghĩa, cho Tổ quốc thân thương.

Nhờ tình yêu cao đẹp ấy, ông Hai đã cho con được nhiều hơn những gì mà người dân nghèo thời kỳ trước có thể làm. Ta nhớ lại chị Dậu và lão Hạc cũng rất mực yêu con. Nhưng chị Dậu thương con mà không bảo vệ được con, phải bán con lấy tiền nộp sưu cứu chồng; lão Hạc thì phải tìm đến cái chết để giữ mảnh vườn cho con. Còn ông Hai nghe tin quê mình theo giặc đã lo cho con, hiểu danh dự của mỗi con người – dù còn ít tuổi – cũng gắn với danh dự của làng, gắn với vận mệnh của đất nước, và gieo vào lòng con những tư tưởng đúng đắn, tiến bộ: Tình yêu làng là cơ sở của tình yêu nước, yêu Cách mạng song tình yêu nước vẫn bao trùm lên tất cả và là định hướng sống của con người. Có một người bố như ông Hai, chắc hẳn mai sau cu Húc sẽ lớn khôn, trưởng thành, là người con kiên trung và đáng tự hào của Tổ quốc.

Qua tình huống nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai đã ý thức sâu sắc được niềm hãnh diện về quê hương phải bắt nguồn từ ý chí quyết tâm chiến đấu của mọi người trong cuộc chiến đấu chung của cả nước. Đến đây, ta thêm tự hào và khắc ghi truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc ta. Mỗi lời thoại của hai bố con ông Hai đều rất cảm động, kết hợp lối kể chuyện tự nhiên, giản dị, gần gũi của tác giả cho bạn đọc hiểu rõ hơn rằng dù có điều gì xảy ra thì quê hương vẫn là cội nguồn thiêng liêng của mỗi con người. Điều này vô hình lóe lên trong bạn đọc một niềm tin mỏng manh rằng quê hương của những con người có phẩm chất cao đẹp như ông Hai chắc hẳn sẽ thuần hậu và sâu sắc vô cùng.

53741634817_6c9a2ac9e3_o.jpg

Tình yêu làng và lòng yêu nước chân thành của ông Hai nói riêng và toàn thể nhân dân Việt Nam được giác ngộ Cách mạng nói chung là một "bức tường thành" vững chắc mà không súng đạn nào có thể công phá, thiêu cháy được. Tầm quan trọng của cuộc kháng chiến đã thực sự đi sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, biến nó trở thành cuộc kháng chiến toàn dân chống giặc. Không khí sôi nổi của bà con nhân dân miền Bắc chung tay xây dựng xã hội chủ nghĩa đã minh chứng cho sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Thành quả đáng tự hào mà nhân dân ta gặt hái được khi vượt qua trùng điệp những khó khăn sau ngày độc lập chính là nhờ một phần lớn ở lòng dân, bắt nguồn từ những con người yêu làng, yêu nước, trọng danh dự như ông Hai. Qua đó cũng cho ta thấy, truyện ngắn Làng của Kim Lân là một tác phẩm vị nhân sinh, khi nó hướng đến cuộc sống con người và phục vụ chính trị, xã hội. Bạn đọc càng thấm thía hơn lời nhận xét của Nguyên Hồng: Kim Lân là nhà văn "một lòng đi với đất, với người, với thuần hậu và nguyên thủy của cuộc sống."

Có thể thấy, tình huống ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc mà Kim Lân chú tâm xây dựng là loại tình huống tâm trạng, đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật và thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nó diễn ra trong thời gian ngắn, ít đối tượng, ít hành động, nhưng khơi những nét rất sâu trong thế giới nội tâm nhân vật với những diễn biến phong phú và phức tạp, bộc lộ phần tâm can ẩn náu sâu kín nhất trong tâm hồn, từ đó khiến bạn đọc thấm thía lý tưởng sống của một đời người, một lớp người, một thế hệ, một dân tộc. Điều đó tựa như quan điểm của một nhà phê bình văn học nào đó "Tình huống là một khoảnh khắc của dòng chảy đời sống mà qua khoảnh khắc ấy thấy được vĩnh viễn, qua giọt nước thấy được đại dương.. Nhưng thật kỳ diệu, từ những khoảnh khắc nhỏ ấy, người đọc khám phá được cái vĩnh viễn, cái chân lý của cuộc sống mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm".

Hay cũng chính trong "khoảnh khắc" này, ta thấy được tình yêu nước nồng thắm của bao quần chúng nông dân khác, thể hiện ở nhiều giai cấp qua hệ thống các nhân vật phụ. Đầu tiên là người đàn bà mới lên tản cư. "Với cái giọng chua lanh lảnh", người đàn bà ấy thể hiện rõ sự thù hằn, khinh bỉ và miệt thị lũ bán nước qua câu la chửi "Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!". Thứ hai là nhân vật bà Hai. Cũng giống như ông Hai, khi nghe tin những người dân làng mình theo giặc, bà cũng buồn khổ và đau đớn: "Bà bước từng bước uể oải, cái mặt cúi xuống bần thần.. lẳng lặng ra bậc cửa ôm má nghĩ ngợi". Đặc biệt, nhân vật mụ chủ nhà nổi tiếng là người gian, người tham cũng sẵn sàng chịu thiệt hại về kinh tế để đuổi gia đình ông Hai đi. Đó chính là biểu hiện của lòng yêu nước. Không chỉ nở rộ trong những người lớn đã giác ngộ lý tưởng Cách mạng, tình yêu đó còn lấp đầy trái tim nhỏ nhắn của những em bé, đại diện là cu Húc ngây thơ. Tuy còn nhỏ nhưng em đã nhận thức rõ về cội nguồn quê hương mình và có niềm tin bất diệt vào Cách mạng. Qua lối viết chân thực giản dị, câu chữ gọn mà tinh và nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật, những nhân vật phụ đều mang dáng nét của những người nông dân thời đại mới trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp: Yêu, gắn bó máu thịt với làng quê và tin tưởng mạnh mẽ vào tiền đồ của Cách mạng. Đến đây, ta càng thêm hiểu vì sao tác giả không đặt nhan đề là Làng Chợ Dầu thay cho Làng. Bởi lẽ, trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, có bao ông Hai, bao ngôi làng Chợ Dầu đã đứng dậy đấu tranh để thể hiện lòng trung trung thành với Cách mạng. Tác giả đặt nhan đề khái quát như vậy chính là để ca ngợi tinh thần yêu nước của toàn dân tộc lúc bấy giờ và gửi gắm chủ đề tác phẩm.

53742748203_462cb9ceef_o.jpg

Sinh thời, Kim Lân từng phát biểu: "Khi viết, tôi chuẩn bị kỹ càng những nhân vật, những chi tiết, cốt truyện cũng như những tính cách, những hoàn cảnh, những tâm trạng.. Mỗi truyện, điều tôi chú ý trước tiên là nhân vật". Dưới ngòi bút của Kim Lân, những nhân vật phụ đã giúp mạch truyện phát triển tự nhiên, khiến tình yêu làng, yêu nước của ông Hai trong tình huống nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc càng được khắc họa đầy đủ, chân thực và cảm động.

Nhà nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai có viết: "Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy là cuộc sống – trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu bực bội tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại". Với ngôn ngữ mộc mạc, đậm tính khẩu ngữ và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật hết sức tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khiến bạn đọc cùng vui với cái vui của ông Hai, buồn cái buồn của ông Hai và đánh thức, khơi dậy, làm nồng thắm hơn tình yêu quê hương trong mỗi một con người. Chính qua tình huống truyện đầy dụng công, bạn đọc còn nhận ra được tâm hồn sâu lắng mà thuần túy của Kim Lân. Nó thấm nhuần vào các trang văn của ông, trở thành "cái hơi thở, cái sức sống" mãnh liệt cho tác phẩm. Như Nguyễn Minh Châu đã từng nói: "Chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc", có lẽ "trăm năm sau", bạn đọc cũng không thôi ấn tượng về tình yêu làng và yêu nước nồng nàn của nhân vật ông Hai - thứ "thảo mộc" tự nhiên thơm thảo mà lặng lẽ, ẩn náu qua "khoanh gỗ" quý "Làng".

53741634892_888cc37238_o.jpg
 

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back