Đề bài: Phân tích Phú sông Bạch Đằng - Trương Hán Siêu Bài làm Sông Bạch Đằng vốn là địa danh gắn liền với nhiều chiến công lịch sử của dân tộc ta. Phải kể đến như trận đánh của Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán năm 938 hay cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược lần thứ 3 của Trần Quốc Tuấn năm 1288. Không chỉ vậy, sông Bạch Đằng còn nào nguồn cảm hứng dồi dào của văn chương. Có rất nhiều tác giả đã viết về sông Bạch Đằng nổi bật như Trương Hán Siêu với bài Phú sông Bạch Đằng. Tác phẩm được coi như một áng "thiên cổ hùng văn" tiêu biểu về thời Lý-Trần. Trương Hán Siêu chưa rõ năm sinh mất năm 1354, tự là Thăng Phủ. Quê ở Yên Ninh (thuộc Ninh Bình ngày nay). Ông vốn là người cương trực, thẳng thắn từng là môn khách của Hưng Đạo Vương-Trần Quốc Tuấn có học vấn uyên thâm được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng. Tác phẩm của ông hiện còn lại không nhiều trong đó có Bạch Đằng Giang phú. Tác phẩm được viết bằng phú cổ thể. Phú vốn là một thể loại được viết bằng văn vần hoặc văn vần xen lẫn văn xuôi và văn biển ngẫu dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc hoặc bàn chuyện đời. Phú cổ thể có trước thời Đường dùng hình thức đối đáp chủ-khách gồm 4 đoạn mở, giải thích, bình luận, kết. Trong đó, đoạn mở tác phẩm nói về tráng chí cảm xúc của nhân vật khách trước cảnh sắc sông Bạch Đằng qua đoạn thơ: "Khách có kẻ: Giương buồm giong gió chơi vơi, Lướt bể chơi trăng mải miết. Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt. Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết. Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều, Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết. Bèn giữa dòng chừ buông chèo, Học Tử Trường chừ thú tiêu dao. Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều, Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trời một sắc, phong cảnh: Ba thu. Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu." Nhân vật khách có thể là do tác giả tự xưng đã đi thăm nhiều địa danh như sông Nguyên, sông Tương, hồ Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng. Đây đều là những địa danh đẹp nổi tiếng ở Trung Quốc. Tác giả thăm thú những thắng cảnh này qua kiến thức sách vở trí tưởng tượng. Tác giả lại đi đến cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng. Những địa danh ghi dấu ấn lịch sử của đất nước. Nhân vật khách vừa là một người yêu thiên nhiên tâm hồn phóng khoáng, tự do lại là một nghệ sĩ nặng lòng với lịch sử dân tộc. Tác giả lặng ngắm cảnh sắc sông Bạch Đằng. Cảnh hùng vĩ, hoành tráng, trong sáng, nên thơ, nhộn nhịp thuyền buồm quan lại. Nước trời hài hòa, màu sắc phong cảnh ba thi (bước sang tháng thứ 3 của mùa thu). Khung cảnh trước kia vốn đẹp như vậy mà giờ lại trở nên hoang vu, đìu hiu, ảm đạm. Các bờ lau san sát, bến lách đìu hiu, sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô. Nhìn cảnh thảm tác giả không khỏi thương xót, tiếc nối. Tâm thế của nhân vật khách: Giươm buồn, giong gió, lướt bể, trôi trăng. Mục đích là để dạo chơi, thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh trí đất nước. Lòng tự hào trước bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, cũng như sự buồn thương, tiếc rồi trước vẻ đẹp ảm đạm, hiu hắt khi thời gian xóa nhòa. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh. Biện pháp nghệ thuật liệt kê hàng loạt các địa danh khách đi qua trong không gian rộng lớn, thời gian chuyển biến nhanh chóng để kể về những cuộc dạo chơi của nhân vật khách. Tác giả đã sử dụng thể phú tự do không gò bó về hình thức kết hợp tài tình giữa tự sự và trữ tình tăng khả năng biểu cảm phong phú, đa dạng về hình ảnh. Ngôn ngữ trang trọng, sâu lắng. Trong đó, đoạn tiếp theo của tác phẩm cũng là đoạn giải thích lời kể của các bô lão về những chiến tích trên sông Bạch Đằng: "Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá, Tiếc thay dấu vết luống còn lưu! Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu? Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau. Vái ta mà thưa rằng: Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao. Đương khi ấy: Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới. Hùng hổ sáu quân, Giáo gươm sáng chói. Trận đánh được thua chửa phân, Chiến luỹ bắc nam chống đối. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi. Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối, Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi." Các bô lão có thể là nhân vật có thật cũng có thể là nhân vật hư cấu do tác giả nghĩ ra nhằm tạo lên hình thức đối đáp chủ-khách theo phú cổ thể. Các nhân vật bô lão có vai trò chứng kiến kể lại cho khách nghe. Họ vừa gặp đã chuyện trò, thăm hỏi thái độ nhiệt tình hiếu khách tôn trọng khách: "Bên sông bô lão hỏi, hỏi ý ta sở cầu? Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau. Vái ta mà thưa rằng:" Họ kể về 2 chiến tích Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã và Ngô Chúa phá Hoằng Thao: "Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao" Từng việc, từng cảnh qua lợi kể vắn tắc như hiện ra trước mắt người đọc đầy chân thật, sinh động: "Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới. Hùng hổ sáu quân," Ta thấy được lực lượng hùng hậu khí thế quyết liệt sẵn sàng xung trận. Thế trận giằng co quyết liệt cuộc đọ sức long trời lở đất sánh tầm vũ trụ làm mờ cả ánh mặt trăng, mặt trời: "Giáo gươm sáng chói. Trận đánh được thua chửa phân, Chiến luỹ bắc nam chống đối. Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, Bầu trời đất chừ sắp đổi." Thái độ của giặc hóng hách, huênh hoang, kiêu căng, ngạo mạn coi thường kẻ thù là quân đội ta. Trương Hán Siêu đã liên tưởng, so sánh trận đánh của ta với địch giống như trận đánh trước kia của Tào Tháo, Bồ Kiên do khinh địch lên đại bại các trận Xích Bích, Hợp Phì: "Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối, Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi." Sự nhục nhã của giặc đã tự lưu truyền đời đời kiếp kiếp để nước sông có chảy mãi cũng không rửa sạch được. Đồng thời ca ngợi công lao của các vị vua Trần đã một lần nữa lập thêm chiến công trên sông Bạch Đằng lưu danh muôn thuở. Thái độ, giọng điệu tự hào, nhiệt huyết mang cảm hứng của người trong cuộc. Đoạn phú đan xen các câu văn ngắn dài, câu dài dõng dạc tạo không khí trang nghiêm, câu ngắn sắc bén gợi lại khung khí khẩn trương, gấp gáp của chiến trường. Ngôn ngữ vừa súc tích, khái quát vừa gợi lại không khí diễn biến trận đánh. Ta thấy được lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta. Đoạn bình luận trong bài cũng là đoạn nói về những suy ngẫm của các bô lão. Các bô lão nói về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến đó là thời thế thuận lợi, trời cũng chiều lòng người. Việc xâm lược của quân giặc là trái với lòng người, lòng trời lên bị thất bại. Việc kháng chiến giành quyền tự do của ta thuận lòng người, lòng trời nên giành được thắng lợi. Đã vậy nước ta còn có địa hình thuận lợi: "Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san. Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở," Nước ta có địa hình núi sông hiểm trở thuận lợi cho việc bày binh bố trận tạo nên nhiều trận đánh bất ngờ. Quân giặc không quen địa thế nên không thể lường trước được. Nhưng quan trọng nhất là ta có những vị tướng vô cùng tài giỏi vừa giỏi chiến thuật vừa giỏi mưu lược: "Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an! Hội nào bằng hội Mạnh Tân: Như vương sư họ Lã, Trận nào bằng trận Duy Thuỷ: Như quốc sĩ họ Hàn. Khi trận Bạch Đằng mà đại thắng, Bởi đại vương coi thế giặc nhàn." Câu phú nhắc đến vương sư họ Lã tức Lã Vọng đã giúp Vũ Vương hội quân ở bên Mạnh Tân như Trần Quốc Tuấn hội quân ở Bình Than. Hàn Tín là một tướng giỏi của cao tổ dùng mẹo tháo nước đánh thắng trận Tề với việc Ngô Quyền lợi dụng thủy triều đánh tan quân Nam Hán. Trận Bạch Đằng đại thánh là do đại tướng tức Hưng Đạo đại vương đã coi thế giặc nhàn. Được biết năm đó khi quân Mông Nguyên xâm lược được vua Trần hỏi "Giặc đến làm thế nào?". Ông đã tâu năm nay thế giặc nhàn. Đoạn phú không chỉ nói về nguyên nhân thắng lợi của quân ta mà còn đặc biệt ca ngợi con người giữ vai trò quan trọng quyết định đó là cảm hứng nhân văn mang tầm triết lý lớn. Những con người luôn được lưu truyển tiếng thơm được khắc cả bia đá dù thời gian trôi qua vẫn không làm mòn. Mỗi lần nhớ lại lệ chan: "Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn. Đến chơi sông chừ ủ mặt, Nhớ người xưa chừ lệ chan." Lời kể của các bô lão xuyên suốt đoạn phú trang trọng, hào sảng, sâu lắng và gợi cảm. Nhắc đến nhiều điển tích, điển cố oai hùng. Phần cuối bài cũng tương ứng với phần kết bài phú khẳng định vai trò, vị trí, đức độ con người: "Những người bất nghĩa tiêu vong, Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh. Khách cũng nối tiếp mà ca rằng: Anh minh hai vị thánh quân, Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh. Giặc tan muôn thuở thanh bình, Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao." Các câu chuyện là lời ca của các bô lão nói về những người bất nghĩa sẽ diệt vong. Những vị anh hùng được lưu danh thiên cổ. Lời ca của khách (theo lối liên ngâm) cũng tiếp lối niềm tự hào ấy và thể hiện quan niệm vững chắc vai trò của con người trong việc "giữ nước điện an". Đây là quan niệm tiến bộ và hết sức nhân văn. Lời ca của các bô lão ca ngợi sự anh minh của hai vị Thánh Tông đồng thời ca ngợi chiến tích trên sông Bạch Đằng. Con người giữ vai trò quan trọng và quyết định trong mối quan hệ tương quan giữa con người và địa hình hiểm trở. Lời ca bài phú vừa thể hiện niềm tự hào dân tộc vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sử dụng thể thơ lục bát theo giọng điệu trữ tình phù hợp với lời ca ngợi thể hiện niềm tự hào dân tộc. Xuyên suốt bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc giàu sức gợi mà tập trung chính nhất vẫn là hình ảnh con sông Bạch Đằng "hai dải dài ghề" và quân đội nhà Trần vua anh minh, tướng tài giỏi. Trương Hán Siêu đã sử dụng rất thuần thục cũng như tài tình phú cổ thể khi viết phú sông Bạch Đằng. Tác phẩm đúng là đỉnh cao nghệ thuật của văn học trung đại. Không chỉ vậy, tác phẩm còn thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng bất khuất và lý tưởng nhân nghĩa cao đẹp của dân tộc ta. Đồng thời thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc khi ca ngợi, đề cao vị trí vai trò quan trọng của con người.