Free Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích Sáng hôm sau... làm ăn có cơ khấm khá hơn

Thảo luận trong 'Bài Sưu Tầm' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 19 Tháng mười một 2022.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đề 1: Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích "Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy[..] Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Từ đó, nhận xét giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    Bài làm

    Thi sĩ Bàng Bá Lân đã ghi lại nạn đói khủng khiếp năm 1945 qua bài thơ "Đói" :

    "Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi

    Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!

    Những thây ma thất thểu đầy đường

    Rồi ngã gục không đứng lên vì.. đói!"

    Cảnh đói kinh hoàng ấy đã in hằn trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực, "con đẻ của đồng quê Bắc Bộ". Ông đã khắc họa số phận của những người nông dân – nạn nhân của cái đói, cái nghèo, qua tác phẩm "Vợ nhặt" bằng một lòng thương cảm sâu sắc. Lật từng trang văn, độc giả không khỏi ấn tượng bởi diễn biến tâm lí nhân vật Tràng, từ đó thấy được giá trị nhân đạo của tác phẩm qua đoạn trích:

    "Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy[..] Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn".

    Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về người nông dân và làng quê Việt Nam – mảng hiện thực mà từ lâu ông đã có sự hiểu biết sâu sắc. Ông viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của dồng ruộng. Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung trong khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Qua tác phẩm "Vợ nhặt", ông đã thể hiện không khí nông thôn Việt Nam và đời sống nhân dân, tuy còn nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, tài hoa, tha thiết gắn bó với quê hương cách mạng. Nguyên Hồng nhận xét: Kim Lân là nhà văn "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy".

    Tác phẩm được viết vào năm 1954 theo "đơn đặt hàng" của Báo Văn nhân dịp kỉ niệm 10 năm cách mạng tháng Tám thành công. Tác giả đã dựa vào cốt truyện "Xóm ngụ cư" để viết thành "Vợ nhặt". Truyện được bắt nguồn từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là những con người trong nạn đói ấy. Thông qua truyện, Kim Lân muốn khẳng định: "Trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng".

    Truyện kể trong nạn đói năm 1945, một anh tên là Tràng nhà nghèo, dân ngụ cư, không lấy được vợ. Một lần, anh kéo xe thóc lên tỉnh, một người phụ nữ đã theo anh về nhà và họ đã trở thành vợ chồng – anh "nhặt" được vợ một cách dễ dàng chỉ với vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Anh đưa vợ về ra mắt người mẹ già trong sự ngạc nhiên của mọi người vì thêm một miệng ăn trong cảnh đói khát, người chết khắp nơi. Đêm tân hôn của đôi vợ chồng trẻ diễn ra trong không gian đặc quánh mùi chết chóc và tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người chết đói. Hôm sau, Tràng nhận ra sự thay đổi to lớn trong cuộc sống khi mọi thứ bừa bộn đều trở nên tươm tất.

    Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ, Tràng sung sướng đắm chìm trong men say của tình yêu, hạnh phúc chờ đến khi "mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy". Dường như, anh cố ý nằm thêm, kéo dài thêm để tận hưởng dư vị ngọt ngào của niềm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được cảm nhận trong buổi sáng mùa hè chói lóa ánh mặt trời. Ta thấy như các nhà văn, thường lấy buổi sáng để miêu tả sự thay đổi, sự hồi sinh của các nhân vật. Chí phèo tỉnh dậy sau một cơn say dài giữa lúc mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc cũng rực rỡ. Chính thời điểm này đánh dấu sự hồi sinh trở lại của chí từ một con quỷ dữ của làng Vũ Đại trở về là con người lương thiện. Tràng cũng vậy, buổi sáng mùa hè chói lóa đã đánh dấu bước ngoặt cuộc đời Tràng khi sang trang mới, bằng niềm vui, niềm hạnh phúc. Chất men say ấy khiến cho Tràng cảm thấy "êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.. Có lẽ trong lòng hắn vẫn dấy lên bao câu hỏi: Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ? Không lẽ mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Niềm hạnh phúc đó đến với chàng quá bất ngờ mà ngay đối với anh nó như là một giấc mơ. Một cảm giác mới lạ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt hình thức) giờ đã trở thành chuyện hoàn toàn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa vợ chồng. Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội dung thật đẹp, thật cảm động. Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản năng của con người. Trong khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc ấy, hắn dường như quên tất cả, quên cả đói rét đang đeo bám, quên cả những tháng ngày tủi cực đã qua. Hạnh phúc của Tràng khiến ta nhớ đến những vần thơ đậm chất lãng mạn của thi sĩ Xuân Diệu

    "Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi

    Trong vườn thơm ngát của hồn tôi."

    Niềm hạnh phúc có được đến từ sự hào phóng, niềm khao khát hạnh phúc đến cháy bỏng của chàng và tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Phải chăng khi khát vọng đủ lớn, tình thương đủ ấm áp thì hạnh phúc cũng trào dâng? Quả thực "tình thương là hạnh phúc".

    Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm. Sự ngạc nhiên, xúc động của Tràng khi chứng kiến giang sơn thay đổi. Hắn chớp mắt liên tục hồi mấy cái và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì đó thay đổi mới mẻ, khác lạ. "Nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô công ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ấm áp. Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch". Với việc sử dụng phép liệt kê, nhà văn Kim Lân đã diễn tả cụ thể, chi tiết sự thay đổi "giang sơn" của nhà Tràng. Nếu như đêm trước, "giang sơn" nhà Tràng còn như ngôi nhà hoang, thiếu sinh khí, thiếu sự sống thì chỉ sau một đêm nó đã khoác lên mình một diện mạo mới, một sức sống mới và ngập tràn sinh khí. Dấu hiệu của sự sống, của sự hồi sinh đã hiện diện ở mọi nơi từ sân vườn cho đến nhà cửa. Qua một đêm, Tràng đã hoàn toàn thay đổi nó như là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, như một phép nhiệm màu xảy ra ngay trong tâm bão của nạn đói năm 1945. Phép nhiệm màu đó đã đến từ đôi tay, tấm lòng của người đàn bà xa lạ, có thân phận rất rẻ rúng vừa hôm qua theo không mình về làm vợ nhặt. Điều này khiến cho câu chuyện lại càng bất ngờ và xúc động biết bao nhiêu. Những cảm nhận về sự thay đổi xung quanh cho thấy Tràng đâu còn vô tâm, ngờ nghệch nữa. Hắn đã có những quan sát, nhận thức về cuộc sống, về thế giới xung quanh rất riêng và cũng rất tinh tế. Phải chăng tình yêu còn khiến cho anh dần trưởng thành?

    Trong Tràng còn xuất hiện những trạng thái cảm xúc vô cùng mới mẻ. Dường như đây là lần đầu tiên Tràng cảm nhận được lòng mình đang rung lên niềm xúc động chân thành, thấm thía khi chứng kiến những sinh hoạt hết sức đời thường, bình dị. Được sống trong niềm hạnh phúc, cho nên chỉ cần chứng kiến "người mẹ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ mọc nham nhở", chỉ cần nghe thấy "tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía và cảm động. Hắn thấy hắn yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng". "Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Miêu tả tâm lý tinh tế, sắc sảo, những trang viết thật chân thực và vô cùng xúc động. Tràng đã nhận thực sự hồi sinh về tâm hồn, đó là một tâm hồn rất nhạy cảm, biết rung động từ những điều giản dị, bình thường. Hắn đã có độ chín trong suy nghĩ, độ trưởng thành trong nhận thức về trách nhiệm của một người chồng, một trụ cột trong gia đình. Đó là biểu hiện của một người đàn ông trưởng thành nên người. Như vậy tình thương, niềm hạnh phúc đã giúp con người ta nên người hơn. Hay nói cách khác, con người ta thực sự nên người khi được sống trong niềm hạnh phúc. Đây là một tư tưởng nhân văn rất sâu sắc!

    Khi niềm hạnh phúc đã trào dâng, có lẽ đôi mắt và tâm hồn của Tràng như đã sáng hơn và tinh hơn. Chính nhờ vậy, Tràng nhận ra sự thay đổi của thị và niềm hạnh phúc của mẹ. Khi tình yêu thương đã đánh thức, niềm hạnh phúc đã trào dâng, đôi mắt và tâm hồn của Tràng như đã sáng hơn và tinh hơn. Tràng đang nhìn bằng cặp mắt "xanh non, biếc rờn" nên đâu đâu cũng thấy đẹp, thấy cảm động và ý nghĩa. Người ta lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu; nhưng với Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng. Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.. Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì không phải như vậy. Thị đã thay đổi là do được sống trong tình yêu thương, niềm hạnh phúc hay là do thị đã tu chí? Mẹ Tràng, cũng chút bỏ được khuôn mặt bùng beo u ám mà thay vào đó là sự nhẹ nhõm, tươi tỉnh và rạng rỡ hẳn lên. Tràng đã nhìn bằng đôi mắt tích cực, đôi mắt của tình yêu thương, sự trân quý những gì anh đang có, đang được hưởng.

    Đoạn văn khá đặc sắc đã diễn tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Tràng trong niềm hạnh phúc trào dâng. Góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của truyện: Thông qua số phận con người trong nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân khẳng định trong cái đói, cái khát, cái chết cận kề con người ta vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, vẫn hướng đến sự sống khao khát hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình.

    Để tạo nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, tác giả đã tạo nên một tình huống truyện độc đáo, éo le, xây dựng đối thoại sinh động, hấp dẫn, ngôn ngữ quê kiểng nhưng sử dụng rất đắc địa, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Điều đặc sắc nhất của đoạn trích là tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế bằng sự hiểu biết của một con người vốn là con đẻ của đồng ruộng, bằng tấm lòng của một nhà văn "một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy".

    Nét đặc sắc của đoạn trích chính là việc tác giả đã miêu tả tâm trạng của Tràng rất tinh tế, sâu sắc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, những con người trong nạn đói cũng không bao giờ từ bỏ khát vọng sống, vẫn luôn tìm được lý do để vươn lên cái đói, cái khát, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng. Đây là điểm sáng trong cách tiếp cận những người nông dân trong nạn đói của nhà văn Kim Lân. Chính điều này tạo lên điểm sáng nhân văn, thứ ánh sáng đủ sức nâng giấc những con người cùng đường tuyệt lộ.

    Nhà văn Sê – khốp từng khẳng định: Nhà văn chân chính là phải nhân đạo từ trong cốt tủy. Quả đúng như vậy, văn là người, cho nên con người như thế nào thì văn chương cũng vậy. Nhà văn chân chính phải đứng trong lao khổ để đón những vang vọng cuộc đời. Chính vì thế, văn học phải hướng tới cuộc sống, phải khơi gợi được những tình cảm, nhân văn cao đẹp, đánh thức được lòng trắc ẩn đang ngủ sâu trong trái tim mỗi người đọc. Từ những điều trên, ta có thể khẳng định nhà văn Kim Lân đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính khi tạo ra những trang viết chan chứa giá trị nhân đạo.

    Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với những nỗi đau của con người và cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời thể hiện sự nâng niu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn và niềm tin vào khả năng vươn dậy của con người. Thể hiện ở tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận của con người trong nạn đói. Lên án, tố cáo thực dân Pháp và phát xít Nhậtn đã đẩy con người vào nạn đói thảm khốc. Trân trọng, trân trọng và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân đang đứng bên bờ vực cái chết. Nhà văn đã hé mở con đường đổi đời tươi sáng, tích cực cho người dân khốn cùng. Đó là giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, góp phần làm nên thành công cho tác phẩm. Qua đó, ta thấy được tấm lòng đôn hậu, yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đúng như báo online Tuổi trẻ đã khẳng định: "Từ trong bóng tối của hoàn cảnh, Kim Lân muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là một phép đòn bẩy cho mảng sáng của tình người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn thiết tha, cảm động" (Báo online Tuổi trẻ - chuyên đề 4 Văn xuôi kháng chiến). Chính giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc và cao cả đã tạo nên sức sống mãnh liệt của truyện ngắn Vợ nhặt, tác phẩm đã chạm đến trái tim bạn đọc nhiều thế hệ, đã làm hồi sinh những tâm hồn chai sạn trước sương gió cuộc đời.

    Đoạn văn đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn Tràng rất tinh tế, nhân văn, cùng với đó cũng hiện lên hình ảnh của những nạn nhân xấu số của nạn đói năm 1945: Ngay trên bờ vực cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau như Kim Lân đã tâm sự: "Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống".
     
  2. qtrammm

    Bài viết:
    0
    Dạ cho em xin thêm các đoạn khác trong bài vợ nhănt và đất nước được kh ạh, em thấy 2 tác phẩm này chị ra hơi ít ạh
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...