Phân tích nhân vật người đàn bà: Người đàn bà bỗng chép miệng.. Được ăn no - Chiếc thuyền ngoài xa

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Diệp Lam Lạc, 20 Tháng ba 2023.

  1. Diệp Lam Lạc

    Bài viết:
    111
    Đọc đoạn trích sau:

    "Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:

    - Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối..

    - Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

    - Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

    - Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.

    - Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!

    - Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.

    - Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu.. Giá mà lão uống rượu.. thì tôi còn đỡ khổ.. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão.. đưa tôi lên bờ mà đánh..

    - Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

    - Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông..

    - Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông.. dù hắng man rợ, tàn bạo?

    - Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú?

    Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:

    - Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rôi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

    - Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi?

    - Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.."


    (Trích "Chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn

    12, tập hai, NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).

    Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.

    Dàn ý chi tiết:

    I. MỞ BÀI

    - Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
    Tk mở bài chung

    - Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích "Người đàn bà chép miệng.. ăn no" đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong văn học.

    II. THÂN BÀI

    1. Khái quát

    - Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm "Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm". Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.

    Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án tòa án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh "đắt" trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như "một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ", một "vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích", mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã "khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.

    2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích

    2.1. Số phận bất hạnh:

    - Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: Khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị.. như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.

    Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: Xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ.. Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng.. Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở tòa án huyện.

    - Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị"từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối.."

    - Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó thì "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn" . Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu.. Giá mà lão uống rượu.. thì tôi còn đỡ khổ.. Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ, người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần quen thuộc của cuộc đời.

    - Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó "Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão.. đưa tôi lên bờ mà đánh..". Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.

    => Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

    2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích

    Ai đó đã từng nói "Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo". Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.

    * Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng

    Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏi"Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?" như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay "Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính". Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ"Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn""nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật". Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bịbắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.

    * Thương con:

    Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn"Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được". Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.

    * Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời

    Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: "đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba". Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ". Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và "ngộ" ra bao điều.

    * Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.

    Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc nhỏ bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến "lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười". Nụ cười hạnh phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị "Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?" thì câu trả lời của người đàn bà là "Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no..". Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì tình mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những bất hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi bay còn những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.

    3. Đánh giá

    3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

    Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc họa nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca.. Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.

    3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.

    Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương giành cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh của họ trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt.. và trở nên đầy ám ảnh trong "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp: Tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha, thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.

    3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn

    Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải có cái nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người. Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.. toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương".

    Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam.

    3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:

    Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: Nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách.. những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thông, chia sẻ và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của chị.

    3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:

    Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.

    Bài tham khảo

    "Mỗi câu văn là một lần lặn vào trang giấy

    Lặn vào cuộc đời

    Rồi lại ngoi lên."

    ( "Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ.." – Chế Lan Viên)

    Từ đâu mà con người tìm đến văn chương? Từ đâu văn chương lại đi vào cuộc sống của con người? Văn chương kì diệu lắm! Văn chương là nghệ thuật nhưng lại chân thực vô cùng. Người đọc tìm đến nó không phải là thứ cao siêu mà đơn giản ở đó, họ tìm thấy cuộc đời. Bằng ngòi bút của mình, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên câu chuyện cuộc đời qua tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" mà độc giả không thể nào quên. Đặc biệt, đoạn trích dưới đây đã khắc họa rõ nét nhân vật người đàn bà hàng chài, đồng thời thể hiện cách nhìn con người của Nguyễn Minh Châu: "Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình: [..] Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.."

    Nguyễn Minh Châu là nhà văn giàu tâm huyết, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với tầm vóc dân tộc và với sự kì vọng của nhân dân. Hai tập truyện ngắn "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" (1983) và "Bến quê" (1985) đã đưa nhà văn lên vị trí "người mở đường tinh anh và tài năng" (Nguyên Ngọc) của văn học nước nhà từ sau năm 1975.

    "Chiếc thuyền ngoài xa" thuộc kiểu truyện tư tưởng được viết vào năm 1983, in trong tập truyện "Bến quê" (1985) sau đó in lại trong tập truyện cùng tên năm 1987. Đây là tác phẩm đặc sắc cho những sáng tác sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu khi nhà văn chuyển sang cảm hứng thế sự - đời tư thể hiện mối quan hoài thường trực của nhà văn "những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống". Sự thật nghiệt ngã được mô tả trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh từ lâu trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo ban mai lên trên không gian xa rộng của biển cả.

    Đoạn văn bản tái hiện lại câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện sau khi bị Phùng chứng kiến trận đòn của chị. Trong cuộc nói chuyện ấy, ta thấy rõ nét vẻ đẹp của người đàn bà: Thấu hiểu lẽ đời, sâu sắc, nhân hậu, vị tha, hiểu chồng và thương con vô bờ. Qua đó, quan niệm nghệ thuật của tác giả được bộc lộ rõ nét.

    Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm "Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm". Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất.

    Truyện kể về hành trình đi tìm một bức ảnh đẹp cho bộ lịch của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh đã tìm thấy một "cảnh đắt trời cho". Nhưng ngay trong giây phút người nghệ sĩ ấy vừa "khám phá ra cái chân lí của sự hoàn thiện", vừa "bắt được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn", thì cũng là lúc Phùng chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình: Người đàn bà bị chồng đánh đập dã man. Chỉ trong ba hôm phải chứng kiến cảnh tượng ấy đến hai lần khiến Phùng không thể chịu đựng được, bản lĩnh và phẩm chất của một người chiến sĩ – nghệ sĩ đã thôi thúc anh phải dùng vũ lực buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Cũng vì thế mà anh bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Tại đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài và ngộ ra nhiều điều. Từ đó, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài được bộc lộ.

    Trong tác phẩm và đoạn trích, người đàn bà hàng chài hiện lên là hình ảnh của con người vô danh với số phận bất hạnh. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, người đọc không hề được biết đến tên riêng của chị, khi thì gọi là "người đàn bà hàng chài", lúc lại gọi là "mụ", rồi đến "chị ta".. Chị xuất hiện với vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch: "Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt". Cái dáng vẻ bề ngoài cũng gợi lên vẻ lam lũ, cam chịu của một người đàn bà vùng biển: "Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Bộ quần áo chị mặc với "tấm lưng áo bạc phếch" gợi ra sự nghèo đói, nhếch nhác. Những nét chân dung từ vẻ bề ngoài đã hé mở một cuộc đời nhiều khổ đau, bất trắc. Vượt lên trên số phận bi kịch, người phụ nữ vô danh ấy vẫn tỏa sáng cho đời bao vẻ đẹp lấp lánh. Bên ngoài chị giống như viên ngọc thô lấm láp nhưng trong chiều sâu nhân bản lại là viên ngọc quý ánh lên một tâm hồn cao thượng, đẹp đẽ.

    Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, trước hết, là vẻ đẹp của người vợ hiểu chồng, nhân hậu, bao dung, vị tha độ lượng.

    Nếu coi câu chuyện ở tòa án là một phiên tòa xét xử tội danh vũ phu của lão đàn ông, thì người đàn bà hàng chài chính là người luật sư bào chữa tội danh cho chồng một cách xuất sắc nhất với sự thấu hiểu, cảm thông. Trong mắt Phùng và Đẩu lúc này, lão đàn ông được xem như một tội nhân độc ác, chỉ biết đánh vợ. Nhưng người đàn bà hàng chài đã bào chữa cho chồng, và khẳng định chồng chị không phải là người xấu, không phải là tội nhân mà là ân nhân của cuộc đời chị. Hơn nữa, người đàn bà hàng chài đã thể hiện sự thấu hiểu của mình về nỗi vất vả, áp lực của chồng. Trước đây chồng chị không xấu, cũng không hề vũ phu mà: "Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi". Người đàn bà hàng chài khẳng định sự độc ác của chồng không phải là bản chất mà do cuộc đời "xô đẩy". Chính áp lực cuộc sống mưu sinh vất vả, gánh nặng của một người trụ cột trong gia đình đã biến lão đàn ông từ "một gã con trai hiền lành" trở thành một kẻ vũ phu, tàn độc. "Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh". Người đàn bà hàng chài nhìn chồng mình không phải là phạm nhân mà là nạn nhân. Hắn là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, cơ cực do hậu quả của chiến tranh để lại. Vì vậy, chị luôn nhẫn nhục, chịu đựng, chấp nhận bị chồng đánh thường xuyên và xem chuyện chịu đựng là một lẽ đương nhiên. Chị coi đây là một cách cảm thông, chia sẻ với người chồng bất hạnh. Đó cũng là giải pháp để chị vun vén cho hạnh phúc gia đình nhỏ của mình. Ta thấy được ở đó là một người phụ nữ thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với người chồng của mình như bao người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

    Viết về cuộc đời người đàn bà hàng chài trên chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã lia ngòi bút của mình đi sâu vào từng ngóc ngách, vắt kiệt bầu máu nóng trong trái tim để thể hiện nó. Người đàn bà hàng chài không chỉ là nạn nhân của cái nghèo, cái đói mà còn là nạn nhân của bạo lực gia đình, nhưng chị không coi đó là lỗi của số phận, mà nhận hết lỗi về mình: "Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn.. nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật". Con người ta khi đứng trước hoàn cảnh bất lợi, điều cố gắng đổ lỗi. Vậy mà, người đàn bà hàng chài này nhận hết lỗi về mình. Có lẽ, chỉ có những người thấu hiểu người khác, bao dung mà nhân hậu, vị tha lắm mới có thể nhận hết lỗi về mình như người đàn bà hàng chài lúc này.

    Vẻ đẹp đó của chị, làm ta nhớ đến cái giây phút lặng lẽ của bà cụ Tứ khi nhận hết lỗi về mình mà hờn tủi! "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt say này. Còn mình thì..". Người phụ nữ Việt Nam là thế! Bao giờ cũng nhận hết nỗi đau về mình, nhận hết những ngang trái, đắng cay của cuộc đời về mình để được hi sinh cho chồng cho con.

    Với người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã nhìn thấy phía sau sự thất học, lam lũ là người phụ nữ thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời:

    Sau khi lấy lại được sự bình tĩnh, người đàn bà hàng chài đột ngột thay đổi cách xưng hô: "Chị" và "các chú". Sự thay đổi này thể hiện tâm thế chủ động, sự bản lĩnh, sự từng trải ở người đàn bà miền biển. Chi tiết "con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình" cho thấy người đàn bà hàng chài có vốn sống, hiểu biết cuộc đời sâu sắc. Trải qua hơn nửa cuộc đời gắn bó với vùng biển, với nghề lưới vó, chị còn điều gì mà không hiểu về công việc cũng như cuộc đời?

    Vậy nên, khi được Phùng và Đẩu giúp đỡ, người đàn bà hàng chài "cảm ơn lòng tốt của các chú" nhưng rồi chị cũng thẳng thắn chỉ ra bất cập trong chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước: "Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!". Không chỉ vậy, chị còn nhấn mạnh: "Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông..". Với Phùng và Đẩu, lòng tốt của các anh là muốn người đàn bà hàng chài bỏ chồng để không phải chịu cảnh đòn roi nữa.

    Nhưng người đàn bà trải đời kia đã lý giải cho họ: "Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa". Người đàn bà hàng chài hiểu hơn ai hết hoàn cảnh của chính mình: Gia đình làm nghề thuyền lưới vó, công việc phụ thuộc vào trời yên biển lặng, tính chất nặng nhọc, sức vóc một người đàn bà sao có thể đỡ nâng chống chịu, đặc biệt mỗi lúc giông gió mưa sa! Hoàn cảnh ấy cần một người đàn ông đưa vai gánh vác, cùng với người đàn bà, để chăm lo "sắp con trên dưới chục đứa". Như vậy, chị gồng mình để gánh chịu đòn roi của chồng cũng vì chị cần có một người đàn ông "dù hắn man rợ" như thế nào, chị cũng chấp nhận. Bởi chị và "sắp con" của chị sẽ sống thế nào khi không có "người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão tố". Giả sử, chị có bỏ được người chồng vũ phu thì phận làm mẹ như chị làm sao xứng đáng được các con gọi là "mẹ", khi vì bản thân mà vô tình đẩy những đứa con đến chỗ thê thảm của cuộc sống. Bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì người buồn đau nhất chính là những đứa con. Đứa có bố thì không có mẹ, đứa có mẹ thì không có bố, chia đàn xẻ nghé. Một gia đình muốn hạnh phúc, trước tiên phải là một gia đình đầy đủ các thành viên.

    Hình tượng người đàn bà hàng chài lấp lánh bao vẻ đẹp, nhưng điều ta ấn tượng nhất, một vẻ đẹp để lại bao dư âm trong độc giả phải kể đến là tình mẫu tử thiêng liêng.

    Như lời chị nói: "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được", lời nói mới thấm thía làm sao! Người mẹ ấy đối diện với sắp con trên dưới chục đứa chui rúc trên chiếc thuyền chật hẹp, đã từng phải trải qua hàng tháng trời biển động, "cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối..", quả thực là một tình cảnh túng quẫn! Còn gì đau xót hơn với một người mẹ khi phải nhìn những đứa con dứt ruột đẻ ra phải chịu cảnh đói khát, khổ sở! Đó là nỗi lòng bứt dứt, đặc biệt với người mẹ, bởi họ luôn là người sẵn lòng hi sinh tất cả vì con, kể cả phải chịu sự vũ phu, chà đạp! Chính vì yêu con, nên chị xin với chồng điều kì cục, là đưa mình lên bờ hãy đánh, để con trẻ không nhìn thấy, chị càng không nỡ để chúng phải chịu thêm tổn thương về tâm hồn! Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải thoát cho mình. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.

    Qua hình tượng người đàn bà, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, giàu đức hi sinh và thương con vô điều kiện:

    "Đêm chong đèn ngồi nhớ lại

    Từng câu chuyện ngày xưa.

    Mẹ về đứng dưới mưa

    Che đàn con nằm ngủ

    Canh từng bước chân thù.

    Mẹ ngồi dưới cơn mưa."

    ( "Huyền thoại mẹ" – Trịnh Cộng Sơn)

    Hay như trong tác phẩm Những người khốn khổ của V. Hugo, người mẹ trẻ Phăngtin trong giây phút túng quẫn khó khăn, đã bán tóc bán răng, thậm chí bán mình để có tiền nuôi con gái Codet bé bỏng. Nhân gian này có biết bao người mẹ đã sẵn lòng hi sinh như thế!

    Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, tác giả đã thể hiện tấm lòng cảm thông, chia sẻ với con người, những cảnh đời bất hạnh do nạn bạo hành gia đình gây ra mà nguyên nhân sâu xa là đói nghèo và thất học. Đồng thời, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp lao động của người dân vùng biển. Tuy họ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng họ có vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, có lòng thương con sâu sắc, tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả và sự thấu hiểu sâu sắc về lẽ đời. Hơn nữa, nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích minh chứng cảm hứng thế sự, đời tư, đi sâu vào số phận con người trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.

    Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo; cách khắc họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ sử dụng rất linh hoạt; giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức.. tất thảy góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đó chính là vấn đề tiếp cận cuộc sống: Cuộc sống muôn hình muôn vẻ nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ đánh giả lệch lạc phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản "Nghệ thuật vị nhân sinh". Đồng thời cũng làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của nhà văn.

    Qua đoạn trích trên, ta thấy được cách nhìn con người của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải có cái nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người. Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết: "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.. toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương". Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam.

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    "Thời gian qua kẽ tay

    Làm khô những chiếc lá

    * * *Riêng những câu thơ còn xanh

    Riêng những bài hát còn xanh"

    (Thời gian – Văn Cao)
     
    huy tran1245, Thai2666, TTQuynh6 người khác thích bài này.
    Last edited by a moderator: 4 Tháng năm 2023
Trả lời qua Facebook
Đang tải...