Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩmVợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Legolas Maldives, 14 Tháng tám 2022.

  1. Legolas Maldives

    Bài viết:
    13
    Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói rằng: "Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực". Quả thực, Tô Hoài đã trở thành "kẻ nâng giấc" cho những số phận khổ đau thê thảm ấy. Điều đó được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" - linh hồn của tập "Truyện Tây Bắc".

    I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ TÁC PHẨM

    1. Đôi nét về tác giả Tô Hoài

    Nhắc đến Tô Hoài (1920 - 2014), là nhắc ngay đến một cây bút tên tuổi của nền văn học cận đại Việt Nam. Nhà báo Hà Thuý Anh đã từng nhắc đến Tô Hoài với những ca từ như thế này: "Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỷ XX. Ông là nhà văn thuộc thế hệ từ năm 1920 đổ về trước, đó là thế hệ vàng của văn chương Việt Nam hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỷ XX - mùa vàng 1930 - 1945 cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ vàng son ấy." Hơn 70 năm lao động nghệ thuật cần mẫn, Tô Hoài đã cho ra đời số lượng tác phẩm đồ sộ - hơn 150 đầu sách với nhiều thể loại: Truyện ngắn, truyện dài kỳ, bút ký, ký sự, tiểu thuyết, hồi ký.. với lối viết thông minh, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần khéo léo và tinh tế.

    Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.

    Trước 1945, ông thể hiện sức sáng tạo dồi dào của mình với hai chủ đề chính là truyện về loài vật và truyện về những cảnh đời lầm lũi nơi vùng quê nghèo ngoại thành, tiêu biểu là "Dế mèn phiêu lưu kí", "O chuột", "Đôi ri đá", "Mẹ già", "Khách nợ".. Sau 1945, ngòi bút của ông đã vượt thoát khỏi ngôi làng ven đô ấy để hướng đến cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, ông viết về những anh hùng người dân tộc thiểu số đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc trong "Kim Đồng", "Vừ A Dính", ngoài ra, ông còn viết những tác phẩm về miền Tây Bắc như "Núi cứu quốc", "Miền Tây".. mà trong đó tập "Truyện Tây Bắc" là một tác phẩm xuất sắc.

    "Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện: "Cứu đất cứu mường", "Mường Giơn" và "Vợ chồng A Phủ" được Tô Hoài viết năm 1952, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế lên Tây Bắc của tác giả. Với tập "Truyện Tây Bắc", Tô Hoài đã khắc họa một cách chân thật, sinh động những nỗi đau thương, tủi nhục của người dân miền núi dưới ách áp bức nặng nề của thực dân phong kiến, cũng là lần đầu tiên cuộc sống khổ cực của người dân miền núi hiện lên rõ nét trong văn chương Việt Nam lúc bấy giờ. "Truyện Tây Bắc" được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 - 1955.


    2. Tác phẩm

    a) Vị trí

    "Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập "Truyện Tây Bắc", cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Tô Hoài kể lại: "Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo:" Chéo lù! Chéo lù! "(Trở lại! Trở lại). Có lẽ chính vì vậy mà Tô Hoài đã viết" Vợ chồng A Phủ "bằng cả tấm lòng nhân đạo và yêu thương sâu sắc của mình. Tác phẩm là bức tranh chân thực về cuộc sống và số phận nghiệt ngã của người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của các thế lực phong kiến và thực dân, đồng thời lại là một bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do của con người.

    b) Hoàn cảnh sáng tác

    Cuối năm 1952, Tô Hoài có chuyến đi thực tế cùng bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung về tình hình ông quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi cao. Chuyến đi dài 8 tháng này đã để lại những ấn tượng sâu sắc và những tình cảm tốt đẹp của nhà văn với con người miền Tây. Tô Hoài tâm sự:" Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi 8 tháng ấy là đất nước và con người miến Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá. Tôi không bao giờ quên.. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng có trong tâm trí tôi. Vì thế, tôi viết Truyện Tây Bắc. "

    Truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ "được sáng tác năm 1952, in trong tập" Truyện Tây Bắc "(xuất bản năm 1953, nhận giải Nhất giải thưởng của hội văn nghệ

    Việt Nam 1954-1955) là kỉ niệm, là tấm lòng Tô Hoài dành tặng cho những người thương trên Tây Bắc. Tác phẩm rất tiêu biểu cho sở trường và phong cách nghệ thuật của nhà văn.

    Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra; phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm.


    II. CẢM NHẬN NHÂN VẬT MỊ

    1. Nhân vật Mị

    Nhận định về nhân vật trong tác phẩm, nhà văn Tô Hoài đã viết:" Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác. "Nhân vật văn học chính là người chỉ đường, là hóa thân cho tinh thần và tiếng nói của người nghệ sĩ. Đọc xong một tác phẩm, khép lại trang sách cuối, cái đọng lại sâu nhất trong tâm hồn người đọc chính là những cảm xúc, những suy tư trăn trở về số phận, về cuộc đời của những con người được nhà văn thể hiện. Và Tô Hoài thực sự đã thành công trong việc tạo ra một nhân vật hội tụ đầy đủ các yếu tố để có thể rung lên sợi dây đồng điệu giữa người đọc và tác phẩm - nhân vật Mị trong truyện ngắn" Vợ chồng A Phủ ".

    Chính sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mãnh liệt của Mị đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả mà đồng thời qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấu tấm lòng nhân đạo sâu sắc của người nghệ sĩ Tô Hoài.

    a) Dưới ngòi bút Tô Hoài, Mị hiện lên toàn vẹn với những vẻ đẹp tài năng và phẩm chất

    Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời, là cô gái chăm chỉ, hiếu thảo, giàu lòng yêu đời, đang sống trong những ngày tháng tươi đẹp của tuổi xuân. Mị trông xinh đẹp tựa như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Mị yêu lao động" biết cuốc nương làm ngô ". Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già.

    Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng.


    Vẻ đẹp tâm hồn Mị còn được bộc lộ thông qua thái độ phản kháng và phản ứng của Mị khi biết mình phải về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có tiền đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - là ông của thằng A Sử 100 đồng bạc trắng, nhưng cho đến khi mẹ Mị đã mất, cha Mị đã già mà món nợ ấy vẫn chưa được trả hết. Thống lí bắt bố Mị phải gả con gái cho con trai hắn là A Sử về làm con dâu gạt nợ. Biết được tin này, Mị phản ứng ngay:" Con nay đã lớn, biết cuốc nương làm ngô, về nhà làm nương ngô trả nợ thay cho bố, bố đừng bán con cho nhà giàu ". Câu nói toát lên khí chất của cả một con người, một con người có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong câu nói của Mị là sự đánh tráo, đánh đổi, Mị thà làm việc cực nhọc chứ quyết không làm dâu gạt nợ, sống kiếp trâu ngựa nô lệ. Thể hiện sự mạnh mẽ, tự tin của tuổi trẻ, của một người không ham giàu sang, phú quý, biết quý trọng danh dự và nhân phẩm của mình. Mị quyết không chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu ấy.

    Đấy là một cô gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và sống những ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mị sống những giờ phút hồi hộp sung sướng chờ nghe những tiếng sáo quen thuộc của người yêu; và không ít những chàng trai Hmông đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy:" Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị ". Những tưởng cuộc đời Mị cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương, nào ngờ đâu bi kịch ập đến khiến tuổi xuân của người con gái ấy rơi vào bế tắc, khổ đau.

    b) Cuộc đời chát đắng của Mị bắt đầu từ khi cô bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ đây chỉ còn là hồi ức giữa những giọt nước mắt lăn dài. Mị xuất hiện lần đầu tiên ở phần đầu câu chuyện qua vài nét phác họa đơn sơ của Tô Hoài:" Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. ". Mị không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị hiện lên với cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nhục trong thân phận vợ của A Sử, con dâu nhà thống lý Pá Tra. Cuộc đời chát đắng của Mị bắt đầu từ khi cô bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ đây chỉ còn là hồi ức giữa những giọt nước mắt lăn dài." Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ


    Không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. "

    Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị – bằng lòng yêu tự do và ham sống mạnh mẽ – đã phản kháng quyết liệt. Hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị quyết tự tử. Nàng Kiều của Nguyễn Du khi bị dấn thân vào cuộc đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng không thoát được kiếp đọa đày đến mười lăm năm. Cô Mị ở đây còn gặp tình cảnh chua xót hơn: Cô có chết thì món nợ vẫn còn, bố già còn khổ hơn nữa! Thế là Mị không đành chết. Mị phải tiếp tục chịu đựng cuộc sống nô lệ.

    Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài những cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột và hành hạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ mà Mị phải chịu đựng:" Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày ".

    Trong địa ngục trần gian ấy, Mị còn bị áp chế về tinh thần. Mị bị ràng buộc trong một ý nghĩ: Bố con Pá Tra đã" trình ma "mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là một thứ" thuớc phiện của tinh thần "đối với người dân bị áp bức, như Mác đã nói.


    Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã không chỉ đứng ở chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, mà còn nói lên một sự thật đau xót này: Con người bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến một lúc nào đó thì dường như bị tê liệt cả tinh thần phản kháng." Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi "." Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa "," mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa ". Mị sống như một cái bóng, sống mà như chết. Suốt trong phần đầu của truyện, Tô Hoài gần như không để nhân vật Mị có một lời nói trực tiếp nào.

    Căn buồng Mị nằm có cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay" lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng ". Mị nghĩ rằng mình đành ngồi trong cái lỗi vuông ấy mà trông ra cho đến chết thì thôi". Thậm chí Mị cũng không buồn nghĩ đến cái chết nữa: "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết.

    Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa". Khi một nạn nhân đau khổ còn nghĩ đến cái chết để chấm dứt hoàn cảnh sống bi kịch của mình, thì phải chăng trong họ còn một chút sức phản kháng, còn tha thiết một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Nhưng Mị lúc này dường như đã phó mặc cuộc sống của mình cho định mệnh, không nghĩ gì về thân phận của mình nữa, thậm chí cũng không có ý thức về thời gian sống nữa. Cô không nhớ rằng mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Và ngồi trong căn buồng âm u nhìn qua cửa sổ, Mị không biết cái màu nhờ nhờ trăng trắng ngoài kia là sương hay là nắng. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối hay là năm tháng qua đi cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, không hiện tại và tương lai!


    Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng buộc của sưu cao thuế nặng, thì trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" thì nhân vật Mị cũng phải chịu sự chi phối ràng buộc của thần quyền hủ tục. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu với thân phận đàn bà, lại đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị không còn cách nào khác chỉ biết sống tiếp "nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi" và từ đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất là thân phận nô lệ. Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn phản ảnh sự thật đau xót: Người dân lao động nghèo khổ bị chúng đẩy đến bước đường cùng, chà đạp đến mức tê liệt về cảm xúc, cuộc sống xung quanh, mất dần ý niệm về cuộc đời. Chúng đang cai trị theo cách "ngu dân". Từ những người có lòng ham sống mãnh liệt, giờ đây chỉ như cái bóng cái xác không hồn, không ước ao. Một sự hủy diệt về ý thức sống thật đáng sợ. Cuộc sống của Mị tiêu biểu cho số phận bi thảm, bất hạnh của những người dân nghèo miền núi.

    Cô gái trẻ trung, yêu đời của quá khứ nay đã bị thực tại nhấn chìm. Mị sống mà như đã chết, ý thức làm người vốn có của cô đã bị giai cấp phong kiến làm cho tê liệt. Dường như số phận đã cột chặt Mị vào gian nhà tăm tối của thống lý Pá Tra mặc cho cô gái trẻ có van lơn, có vẫy vùng. Ngòi bút của Tô Hoài đã rất thành công trong việc miêu tả tinh thần đang chết dần chết mòn đi từng ngày của nhân vật Mị. Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đọa đày dai dẳng, nặng nề của ách thống trị phong kiến trung cổ đối với những người lao động bị đẩy vào thân phận nô lệ. Ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác chính sự đè nén càng phũ phàng tàn bạo, thì sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị.

    Những tưởng cuộc đời Mị từ đây đã bị chôn vùi trong những gông xiềng của hủ tục lạc hậu và nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng không, trong sâu thẳm tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói một khát khao sống, khát khao tự do luôn âm ỉ cháy chỉ chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị được ngòi bút tài năng của Tô Hoài thể hiện qua nhiều phương diện, nhiều chi tiết thấm đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ngòi bút của người nghệ sĩ không chỉ nhằm phơi bày sự thật đen tối mà còn đưa người đọc hướng tới ánh sáng của niềm tin, của cái thiện ở đời.


    c) Sức sống tiềm tàng của Mị trong "Vợ chồng A Phủ", hay ánh sáng nhân đạo Tô Hoài thắp lên giữa những đêm dài nô lệ tăm tối?

    Nếu như truyện ngắn chỉ dừng lại ở việc khắc họa số phận bi thương của những con người bị dồn đường cùng thì đã là một thành công rất lớn. Nhưng tác phẩm của Tô Hoài được ra đời vào những năm sau Cách mạng, một thời đại mới, một trang sử mới, bởi vậy tác giả không hề để cho nhân vật của mình lao vào bóng tối như chị Dậu, cũng chẳng để nhân vật giết người, rồi giết mình trong một tiếng kêu đầy ai oán như Chí Phèo. Ông đã để cho nhân vật Mị thực sự trỗi dậy, sống với một sức mạnh phản kháng tiềm tàng, mãnh liệt.

    [​IMG]

    Những giọt nước mắt chát đắng của Mị là biểu hiện đầu tiên của sự phản kháng, không chấp nhận cuộc sống tù đày.

    Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy, trước tiên và đơn giản nhất được bộc lộ trong những phản ứng ngầm tỏ rõ việc Mị phủ định cuộc sống nơi mình đang chết dần chết mòn đi từng ngày. Khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, "Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc" - những giọt nước mắt ấy là sự phản kháng yếu ớt của Mị đối với giai cấp cầm quyền bóc lột tàn bạo sức lao động của người dân miền núi. Cuộc sống đối với Mị giờ đây đã chẳng còn ý nghĩa khi tất cả khát vọng, niềm tin, lòng tự tôn bị chà đạp, rẻ rúng, để rồi cuối cùng Mị phải tìm đến lá ngón, chọn cái chết để giải thoát bản thân khỏi gông xiềng hủ tục. Phải chăng với cô gái trẻ, cái chết chính là lời tố cáo đanh thép nhất đối với giai cấp cầm quyền, thể hiện sự phủ nhận quyết liệt với cuộc sống "địa ngục trần gian" mà cô đang trải qua? Chi tiết này cho thấy sự phản kháng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị, bản thân Mị tìm đến lá ngón ở đây lại là một biểu hiện rất rõ ràng của lòng khao khát hạnh phúc, cuộc sống tươi đẹp. Ngòi bút của Tô Hoài đã đào sâu vào trong tận cùng ý thức của nhân vật để khơi dậy chút ánh sáng của niềm ham sống và khát vọng tự do mãnh liệt.

    Sự thức tỉnh trong ý thức của Mị được nhà văn đặt vào trong một hoàn cảnh "điển hình" - ấy là khi mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc.

    Mùa xuân là mùa của sự sống và khát vọng, chính vì vậy mà cái không khí ngày xuân ở Hồng Ngài đã tác động mạnh mẽ vào tâm hồn vốn đang chết dần đi từng ngày của cô gái trẻ, kéo cô trở lại với cuộc đời tươi đẹp cô đáng sống, để ngọn lửa ham sống trong lòng Mị bừng lên.

    Đọc tác phẩm ta thấy có ngọn núi quanh năm đọng trong tuyết, nơi có sương mù bao phủ, những cánh rừng bát ngát bạt ngàn nương rẫy, khi thì xanh mướt lúa ngô, khi thì sặc sỡ ẩn hiện. Nơi có làng bản tụ quanh nguồn nước, chiều về cảnh vật hiện ra trong hơi sương, tối đến lại bập bùng quanh ánh lửa. Ở Hồng Ngài, bao giờ cũng thế, cứ gặt hái xong là người ta chuẩn bị ăn Tết. Nhà văn Tô Hoài đã khéo léo kết hợp tính trữ tình đậm chất thơ vào trong tác phẩm, thể hiện vốn hiểu biết phong phú, những bản sắc riêng của người dân tộc vùng cao để người đọc có thể hình dung rõ hơn về cuộc sống của họ, về đề tài mà ít ai từng chạm đến trên diễn đàn văn chương lúc ấy. Nhà văn đã lấy việc miêu tả tâm lý nhân vật làm nền tảng, khi mùa xuân đến nhà văn để nhân vật của mình vùng dậy, sức sống tiềm tàng trỗi dậy trước hết là nhờ những đổi thay bên ngoài. Trên bản của những người Mèo đỏ, trai gái đem váy áo ra phơi trên những mỏm đá, nhìn xa xa như những chú bướm sặc sỡ khổng lồ đầy màu sắc. Mùa xuân cũng làm thay đổi những đóa hoa thuốc phiện khiến chúng trở nên sặc sỡ hơn. Trai gái rủ nhau ném pao, tung còn, hát những câu hát giao duyên quen thuộc:


    "Mày có con trai con gái

    Mày đi làm nương Ngô

    Tao không có con trai con gái

    Tao đi tìm người yêu"

    Tất cả làm cho người đàn bà đã từng chịu nhiều khổ đau phải lay động, có sự vận động. Tiếp đó là "tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi" – tiếng sáo gọi bạn tình vọng vào tâm hồn Mị "thiết tha bồi hồi" Nhà văn lách sâu vào đêm tình mùa xuân để khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân vật này. Thiên nhiên của Hồng Ngài, không khí của mùa xuân năm ấy khiến cho Mị không khỏi xao động, khiến cho lòng Mị không thể lặng yên mà cứ mãi xao xuyến, xốn xang.


    "Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới." Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: "Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa.. Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng.. Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ.. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.." Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết và âm thanh cuộc sống bên ngoài đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ, khơi dậy trong tiềm thức của cô gái trẻ những kỷ niệm khi xưa. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang thổi.. Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.

    Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo giỏi.. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng như thổi sáo", "Tay Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"..

    Sự phản kháng âm thầm diễn ra trong tâm thức và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân là tiền đề vững chắc cho cuộc nổi dậy đấu tranh chống lại cường quyền.

    Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mị bùng lên đã đến, đấy là một "đêm tình mùa xuân". Và chúng ta cũng hồi hộp theo ngọn đèn của tác giả "từng bước rọi sâu vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật".

    Trong không khí mùa xuân tưng bừng và nô nức ấy, tiếng sáo chính là âm thanh tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị như đã nguội tắt. Tác giả đã dụng công miêu tả chi tiết tiếng sáo rất nhiều lần. Âm thanh ấy khiến Mị nhớ lại những bài hát ngày xưa. Mị đâu còn là con người "chết dần chết mòn về nhân tính" như Chí Phèo. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Tiếng sáo ấy chính là tiếng sáo của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để đánh thức miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị. Đánh thức sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng thiếu nữ Tây Bắc này. Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã, "chiêng đánh ầm ĩ" và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa, trong cái nồng nàn của bữa rượu, Mị nhẩm lại bài hát của người đang thổi, Mị dần có khái niệm về thời gian, về cuộc sống. Những suy nghĩ trong tâm trí bỗng chốc bật ra thành hành động, rồi "Mị cũng uống rượu". Để ý kĩ ta sẽ thấy rằng, Mị uống rượu "ực từng bát", đó đâu phải là cách người ta vẫn thường hay thưởng rượu. Mị uống rượu như nuốt bao cay đắng tủi hờn, như để quên, quên đi hiện tại để nhớ về quá khứ và sống trong quá khứ ấy, lấy cái đắng cay của men rượu để mà quên đi cái đắng cay của đời. Men rượu chính là tác nhân cuối cùng để Mị trở lại với chính con người mình, để trở lại

    Với sự sống: "Thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước" Mị cảm thấy mình vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi. Mị thấy cái vô nghĩa của cuộc sống hiện tại: "Nếu có nắm là ngón trên tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa". Niềm khao khát được sống như đang nhảy múa trong lòng Mị. Đối với cô gái người Mèo ấy, cái chết lúc ấy thật sự là một sự giải thoát chứ


    Không phải là sự hèn nhát. Mị muốn vượt thoát ra khỏi căn buồng nhưng chẳng khác nào cái phòng gia, giam hãm tâm hồn và tuổi trẻ của mình. Biết bao năm trời tưởng như sức sống và khao khát được sống trong Mị đã bị vùi lấp mất, tưởng Mị đã an phận trong cái kiếp nô lệ đày đọa nhưng không phải vậy. Mị đã ý thức được về sự bất công phi lí, "không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau", ý thức về quyền sống và hạnh phúc của chính mình. Người con gái ấy đã thực sự vượt thoát ra khỏi trạng thành chai lì vô cảm của một "con rùa nơi xó cửa".

    Quá trình hồi sinh của Mị không được nói đến một cách dễ dãi, hời hợt. Tâm trạng nhân vật được miêu tả theo trình tự rất logic, nếu có hoàn cảnh làm nó tha hóa thì ắt sẽ có hoàn cảnh làm nó thức tỉnh. Con người tưởng như đã chết từng bước được hồi sinh, Mị như một đóa hoa ban Tây Bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài mỏng manh, yếu đuối nhưng bên trong sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ và mãnh liệt. Tô Hoài đã thực hiện một cuộc giải phẫu tâm lí đê tìm ra một sự vận động biện chứng trong tâm hồn Mị. Nghe thấy tiếng sáo, tất cả cứ đang bồi hồi rộn ràng trong Mị. Hạnh phúc như đang ở ngay trước mắt, Mị vào trong căn buồng tối tăm của mình, xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho thêm sáng. Đây là một chi tiết có chiều sâu về nghệ thuật, Mị đang tự tay thắp lên ngọn lửa trong tim mình, ngọn lửa của tình yêu cuộc sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc. Trong đầu Mị vẫn rập rờn những tiếng sáo. Tiếng sáo như thôi thúc Mị quấn lại tóc, "với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách" để đi chơi hội. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị chính là sức sống tiềm tàng mãnh liệt bấy lâu bị vùi lấp. Nó đang chuyển hóa thành hành động và kéo theo những hành động tiếp theo.

    Nhưng giữa lúc lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh mẽ thì ngay sau đó nó lại bị vùi dập phũ phàng không thương tiếc: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà như trói cả khát vọng và ước mơ của cô gái trẻ vào bóng đêm thăm thẳm của sự tuyệt vọng, hiện thực nghiệt ngã lại trở về với Mị.

    Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, không trói được tinh thần Mị, cô vẫn sống trong những tiếng sáo thổn thức ngoài kia. A Sử hỏi nhưng Mị không nói. Trong khi ấy thì tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ. Nó là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do, mà bấy lâu nay Mị dường như đã quên rồi, nay đang trở lại. Tiếng sáo theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài nhân vật ( "tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường"), đã xâm nhập thế giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong ( "trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo"). Hành động không nói ấy chắc hẳn là vì Mị đang sống trong quá khứ, cả tâm trí đang nghe tiếng gọi của tiếng sáo.


    Mị dường như đã quên hết thực tại, quên đi cả nỗi sợ cố hữu của mình. Rõ ràng, khát vọng sống trong Mị vẫn đang được bảo lưu ở đâu đó. Nó giống như hòn than đang cháy âm ỉ dưới lớp tàn nguội lạnh và chỉ cần trận gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh làm nên cuộc nổi loạn trong Mị là không nhỏ. Nhưng sức mạnh tiềm ẩn không thể nào dập tắt mới là mấu chốt quyết định sức sống của mỗi cá nhân. Tô Hoài đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình khi dành cho nhân vật sự ưu ái. Ông thương cảm, đồng cảm xót xa với những số phận bị chà đạp về phẩm chất, tâm hồn, những con người là nạn nhân của chế độ phong kiến.

    Tưởng rằng sức sống mãnh liệt của Mị sẽ bị vùi dập lần nữa, nhưng trong bóng tối, Mị mơ màng theo tiếng sáo, Tiếng sáo có lần đã đưa Mị theo những cuộc chơi, đám chơi. Nhưng rồi quá khứ ra đi, hiện tại ở trước mắt. Mị chỉ thấy xung quanh toàn bóng tối, không một tiếng động, "Cô vùng bước đi" nhưng chân tay đau không cựa được, Mị không nghe tiếng sáo nữa. Nỗi đau thể xác đã kéo Mị trở về thực tại.

    Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn sống trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, với những đám chơi Tết ngoài kia. "Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Mị như quên mình là đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộc sống mãnh liệt. Mị đã vùng bước đi! "Nhưng thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu ước mong mãnh liệt đến mấy, Mị không vượt qua nó được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan!" Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa ". Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể giải thoát khỏi tình cảnh bị giam hãm đày đọa, không thể giải phóng thực sự cho những ước vọng hạnh phúc.


    Cuộc trỗi dậy tinh thần của Mị như một đợt sóng ngầm lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mạnh mẽ hơn lúc nào hết, bằng chứng là hành động cởi dây trói cho A Phủ đã đặt bút viết lên một chương mới cho cuộc đời Mị, mở ra những tháng ngày tươi đẹp sau này, thể hiện rõ nét nhất sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn người con gái Tây Bắc.

    Ở đây, Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thật căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp qui luật. Nếu không có A Phủ đánh A Sử để người ta cởi trói cho Mị đi kiếm lá thuốc cho chồng thì có lẽ Mị cũng phải chịu chết như một người đàn bà ngày trước trong nhà này. Vì thế sự xuất hiện của A Phủ như một định mệnh trong cuộc đời của Mị, nói đúng hơn là của cả hai người.

    Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, cô lại trở về là cái xác không hồn. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khao khao sống mãnh liệt không thể nào dập tắt. Sức sống tiềm tàng của Mị không chỉ được khắc họa trong đêm tình mùa xuân mà còn dữ dội và mãnh liệt trong chính đêm đông cứu A Phủ. Mị đã gặp được một người mà không ngờ tới rằng đó là người sẽ giải phóng cuộc đời mình, đó là A Phủ. Đó cũng là lí do tại sao tác phẩm có nhan đề" Vợ chồng A Phủ ". Thời gian cũng trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc gỗ giữa mùa đông lạnh giá vì để hổ bắt mất bò. A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, phóng khoáng, vì đánh lại con quan mà bị phạt vạ hết sức vô lí và trở thành nô lệ không công cho nhà thống lí, còn Mị thì làm dâu gạt nợ. Hai con người này đang cùng chung hoàn cảnh, số phận. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng không nói gì." Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. "Bởi người con gái ấy đã chai sạn, chai lì cảm xúc, sự thản nhiên đến lạnh lùng ấy xét đến cùng cũng là bởi đã chịu quá nhiều đắng cay và khổ đau. Cái chế độ ấy đã bóp nghẹt sự sống của con người, khiến cho con người ta trơ lì và vô cảm đến tột cùng, khiến cho con người ta dửng dưng trước mọi nỗi đau và sự nhức nhối. Nào đâu Mị phải là người nhẫn tâm, chẳng qua khi ấy nỗi đau đã ngấm vào tâm thức Mị, khiến trái tim cả cô gần như tê liệt sức sống. Tội ác trong nhà tù thống lý Pá Tra vẫn diễn ra hằng ngày, việc A Phủ bị trói đứng cũng chỉ như phác thêm một nét chì lên bức họa tăm tối mà thôi. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.

    Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa" bởi tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi ý chính dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ đã làm tan chảy sự vô cảm trong lòng Mị, Mị bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. "Ngọn lửa vừa bập bùng lóe sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm". Mị chợt nhớ cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Nhưng vào đêm ấy, Mị đã trở dậy thổi lửa và trông thấy "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ.


    Dòng nước mắt của một người con trai ương bướng, gan góc, tưởng chẳng hề sợ hãi bất cứ điều gì ở đời. Dòng nước mắt như hình ảnh của sự uất ức trước một nỗ lực bất thành trong một quá trình chống trọi lại thực tại cay đắng. Và cũng chính dòng nước mắt ấy cũng đã kéo Mị về quá khứ, và rồi một nỗi cảm thương vô hạn dâng ngập lên trong lòng của người con gái ấy. Mị thương mình, rồi thương cả người đàn bà bị nó trói ba ngày, trói đến chết. Và vì thế, cảm giác dửng dưng dường như đã biến mất hoàn toàn, Mị đã có cảm giác rất rõ về sự đồng cảm và đồng cảnh. Sức phản kháng trỗi dậy mạnh đến mức đã chi phối toàn bộ cả suy nghĩ. Mị đã nghĩ một cách rành rọt là Mị sẽ chết nếu cởi dây trói cứu A Phủ, rồi phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng "Mị làm sao cũng không thấy sợ", đó chính là sức mạnh của tình thương. Mị đã không sợ chết, nhất là cái chết ấy có gắn với sự giải thoát, dám chết để cho người khác được sống.

    Cảnh ngộ, tình thương và lòng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị. Qua "ngọn lửa bập bùng", Mị "lé mắt trông sang" Mị xúc động khi nhìn thấy "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt đô xám đen lại" của A Phủ. Mị nhớ lại đêm năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế. Mị khẽ thốt lên lời than: "Trời ơi!.." Mị nguyền rủa cha con thống lí: "Chúng nó thật độc ác". Bao cảnh thương tâm đồng hiện trong tâm hồn Mị: Bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này ". Mị tự

    Thương cảnh ngộ mình, thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa:" Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết ". Mị nghĩ đến thân phận mình, tưởng như là cam chịu:" Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta để trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.. ". Mị ý thức được, A Phủ không thể chết," việc gì mà phải chết thế ". Con đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lúc ngập ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cùng thế,

    Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát, Mị sẽ bị thế mạng trên cái cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho Mị sức mạnh," trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ.. ".


    Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén tưởng đã tắt lịm đi, nay bỗng bật dậy trào dâng mạnh mẽ. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Mặc dù đây là hành động tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị.

    Từ suy nghĩ đó đã dẫn đến hành động của Mị. Có một điều thú vị ở đây là Mị đã hành động trong bóng tối, khi" đám than đã vạc hẳn lửa "và tối như bưng. Lần này, sức sống trong Mị mãnh liệt đến mức chẳng cần men rượu, chẳng cần những cơn say để bùng lên. Lần này cũng chẳng cần ngọn lửa hơ tay bởi ngọn lửa của sức sống, của khao khát được tự do và hạnh phúc trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Mị" rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây ". Một câu văn ngắn với dấu phẩy khiến hành động của Mị dứt khoát và cảm giác rõ nét hơn về tốc độ nhanh thoăn thoắt. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong mạch chảy của nội tâm nhân vật. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã cát dây trói tinh thần trói buộc mình bấy lâu nay. Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị.

    Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi," Mị nghẹn lại "," đứng lặng trong bóng tối ", một sự im lặng đầy giông bão. Đó chính là sự giằng xé đấu tranh âm thầm nhưng dữ dội. Ở lại hay chạy đi, sự sống hay cái chết? Và khi đứng trước cái chết. Mị đã" vụt chạy "theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng chưa bao giờ lòng Mị sáng như thế, chưa bao giờ ngọn lửa của khát vọng sống trong Mị lại cháy mãnh liệt đến thế. Mị băng đi với tất cả sức sống trẻ trung của mình, sức sống bị kìm hãm bấy lâu nay được bung ra, được tuôn chảy. Mị đã vượt qua nỗi sợ cố hữu với thần quyền và cường quyền để chọn con đường sống. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? Và" hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi ".

    Nhìn bề ngoài ta tưởng hành động của Mị là sự liều lĩnh. Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ xuất phát từ yếu tố bên trong, là logic tâm lí hoàn toàn hợp lí, là một quá trình tự nhận thức: Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức" người "cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng" mình". Mị không hềbồng bột, không hề ngẫu hứng, Mị đã cảm nhận được sự đồng điệu trong tâm hồn của Mị và A Phủ. Hai mảnh ghép khổ đau và cùng cực tựa vào nhau để vượt lên sự nghiệt ngã của số phận. Mị đã tự vùng lên, tự giải phóng cho chính cuộc đời mình khỏi áp bức và bất công. Tô Hoài đã để nhân vật mình được con đường sáng ngay trong đêm đông tối tăm trên núi cao, tự cứu lấy đời mình, sống với cuộc sống xứng đáng với con người. Ấy chính là giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ mà nhà văn muốn gửi gắm. Đó cũng là khẳng định và khao khát của nhân dân Tây Bắc về khát vọng tự do cháy bỏng. Tác giả Tô Hoài đã lách sâu ngòi bút nhân đạo của mình để tìm ra cho nhân vật con đường đúng đắn nhất, để nhân vật đi theo ánh sáng của cách mạng cũng chính là để cho nhân vật làm chủ cuộc đời mình, tự mình thoát ra khỏi xiềng xích, đồng thời đây cũng là giá trị hiện thực mới mẻ khi tác giả đề cao vai trò của Đảng trong việc giải phóng nhân dân.

    Tình huống truyện diễn ra thật bất ngờ, tự nhiên nhưng vẫn rất lôgic, phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật mà trước đó đã từng có khát vọng mãnh liệt trong đêm mùa xuân năm trước. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau cho cả hai người. Như chim xổ lồng, họ băng xuống dốc núi, bay về phía tự do.


    Đây là đoạn văn bản lề khép mở hai cuộc đời. Đóng lại một kiếp khổ nhục, nô lệ để đi vào một cuộc đời chồng vợ chủ động xây dựng cuộc sống mới. Tô Hoài đã làm cho mạch truyện chuyển biến hợp lí, khiến cho tác phẩm không có những vết cắt, và những chỗ ghép giả tạo. Cũng cần lưu ý giọng văn ở đoạn này rất đa dạng. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật của và giọng nhân vật.. Những giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng Mị khá thành công, khá sinh động và có sức thuyết phục người đọc.

    Bằng cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên, cách dẫn dắt câu chuyện chặt chẽ và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế bậc thầy thì Tô Hoài đã vẽ nên bức chân dung cô Mị tĩnh lặng nhưng ẩn chứa sau bức tranh ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch ngầm trong mắt. Làm ta yêu thêm hình ảnh về một cô Mị ở Hồng Ngài thoát khỏi cảnh đọa đầy để vươn đến tương lai hạnh phúc. Môt cô Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt để có thể làm du kích ở Phiềng Sa sau này.

    Như vậy, có thể nói, nhân vật Mị là kết tinh đặc sắc nhất của ngòi bút Tô Hoài khi viết về cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc .


    Qua việc phát hiện, miêu tả sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị, Tô Hoài không chỉ ngợi ca đó là vẻ đẹp trong tâm hồn của người lao động miền núi bị áp bức mà còn khẳng định sức sống tiềm tàng ấy chính là sức mạnh là vũ khí giúp họ vùng

    Lên giả phóng cuộc đời bất hạnh của mình để đến với tự do, hạnh phúc. Cách nhìn này mang giá trị nhân sinh sâu sắc.

    Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống của người phụ nữ miền núi thật tù đọng và đầy bất hạnh. Nhà văn còn khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất, khát vọng tự do hạnh phúc cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn người lao động. Mị thực sự đổi đời khi cùng A Phủ đến với khu du kích Phiềng Sa. Nhân vặt Mị đã đi từ hình tượng con người nô lệ sang hình tượng con người khởi nghĩa. Điều này thể hiện tư tưởng nhân đạo chưa từng có trong văn học truyền thống. Đó là chủ nghĩa nhân đạo cách mạng gắn với đấu tranh, gắn niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người.
     
    Last edited by a moderator: 28 Tháng mười 2023
Trả lời qua Facebook
Đang tải...