Phân tích nhân vật người vợ nhặt Kim Lân đúng như nhà văn Nguyên Hồng nhận xét, là nhà văn một lòng đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn. Nhận xét này dường như rất đúng với "Vợ nhặt". Tác phẩm được viết sau khi hòa bình lập lại, dựa vào trí nhớ của mình từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" đã bị mất bản thảo trước đó, in trong tập "Con chó xấu xí" (1962). Viết "Vợ nhặt", Kim Lân đã thể hiện niềm thương cảm trước số phận của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đầy đọa đến đường cùng. Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của ông trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu. Nhân vật vợ Tràng là một trong những nhân vật chính được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm. Ngay từ nhan đề "Vợ nhặt", nhà văn đã thành công gợi lên tình huống eo le, oái ăm, kích thích trí tò mò của của người đọc, gợi nên những suy ngẫm của người đọc. Hành động "nhặt" thường gắn với những thứ nhỏ bé, không ra gì. Thông thường, người ta có thể nhặt được thứ này, thứ khác, chứ không ai "nhặt" vợ. Bởi "vợ" là một người cần được nâng niu và trân trọng. Vì thế dựng vợ gả chồng là việc thiêng liêng với mỗi con người. Vậy mà Tràng lại "nhặt" được vợ thật chỉ bằng vài câu bông đùa. Bản thân nhan đề từ đây đã gợi lên được sự rẻ rúng với giá trị của con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên được tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Nhưng đồng thời tiêu đề ấy cũng gợi mở trong óc người đọc sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng sống, khát khao hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong hoàn cảnh khốn cùng. Về cảnh ngộ, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: Không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp.. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là "cô ả", "thị", "người đàn bà", "nàng dâu mới", "nhà tôi". Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: Đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn. Trước khi trở thành vợ Tràng, phải chăng chính sức tàn phá của nạn đói không chỉ tàn hại dung nhan của Thị mà còn tàn hại tới tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà Thị trở nên chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, Thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và "liếc mắt cười tít" với Tràng. Lần gặp thứ hai, Thị "sầm sập chạy tới", "sưng sỉa nói" và lại còn "đứng cong cớn" trước mặt Tràng. Đã vậy, Thị còn chủ động đòi ăn. Được cho ăn, thì "sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì". Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon.. Trong đói khát cùng cực, Thị gần như quên đi ý tứ, sự e thẹn, bản chất dịu dàng, lòng tự trọng của người con gái. Thị đồng ý theo Tràng là vì để sống chứ không phải loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hò đùa: "có muốn theo tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về", Thị không trả lời mà lặng lẽ theo anh về, không băn khoăn hay phân vân gì, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên rẻ rúng hơn bao giờ hết, chỉ còn là bốn cái bánh đúc, hai hào dầu, một cái thúng con con. Bằng cách kể, cách tả đôn hậu, bao dung, thương cảm của nhà văn, độc giả thấy được bản chất của người con gái không rõ tên họ này không phải là xấu, vì từ cận kề cái chết, cô không hề buông xuôi cho sự sống. Tinh thần ấy quả là đáng quý, đó là nét mới nét khác mà nhà văn mong muốn trong tập truyện của mình - khi mà viết về nạn đói, người ta chỉ thường nghĩ đến cái chết. Người vợ nhặt cũng chính là nhân vật được Kim Lân gửi gắm niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi bị đẩy xuống vực sâu của cái đói. Khi trở thành vợ Tràng, Thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Thị ngượng ngùng đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, "rón rén, e thẹn, ngượng nghịu", "chân nọ bước díu cả vào chân kia".. Lúc này, trông thị thật tội nghiệp, cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: Một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương.. Hành trang bước đến với hạnh phúc của thị là cả cuộc đời đen tối và nỗi lo sợ không thể nói nên lời. Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả tâm lí, tính cách của Thị, ông như lọt cả vào nỗi tâm tư tình cảm sâu thẳm ấy của người phụ nữ năm đói. Để thấy được cả nỗi tủi hờn, xấu hổ của cả kiếp người trong những bước chân liêu xiêu hay đến cả chi tiết Thị "nén tiếng thở dài" cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là khi Thị nhìn thấy "ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại", ai ngờ cái phao mà Thị vừa bám vào lại là một cái phao rách. Tiếng thở dài đầy ngao ngán ấy vừa có sự lo lắng cho nay mai, vừa có những lo toan và trách nhiệm của Thị về gia cảnh nhà chồng. Quả thật là Thị không thể tìm thấy nơi Tràng chỗ dựa về vật chất nhưng chính Tràng đã là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho Thị. Người phụ nữ ấy dù trong cảnh nghèo đói vẫn khát khao sự sống, khát khao hạnh phúc như những người đàn bà may mắn khác. Vào trong nhà, Thị e thẹn, dè dặt, "ngồi mớm" vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng với tâm trạng lo lắng, hồi hộp. Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Phải chăng Thị đã hoàn toàn được hồi sinh và lột xác trở lại với những bản tính vốn có của người phụ nữ vì giờ đây cô đã tìm thấy được sự đầm ấm của gia đình? Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Thị đã mang đến một làn gió mát lành, một sinh khí mới và những ước vọng về một tương lai đẹp đẽ cho gia đình nhỏ bé của Tràng. Dù bữa ăn chỉ có "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn", lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình nhà Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, vào cả khuôn mặt "bủng beo u ám" của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà "rạng rỡ hẳn lên". Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho gia đình nhà chồng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc Nhật để chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết của Thị đã giúp Tràng giác ngộ về con đường mà sau này anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy được vai trò của "nàng dâu mới" này cũng là một người truyền tin cách mạng. Có thể nói, nhân vật người vợ nhặt tuy được miêu tả ít, song lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu Thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong nỗi đau khổ vất vả, cùng cực. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của Thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn cũng được thể hiện ở đây. Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật rất thành công qua từng hành động, cử chỉ, nét mặt để người đọc có thể hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò quan trọng làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm cũng như có vai trò đóng góp quyết định tạo nên tình huống truyện. Trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống đúng với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị, nhà văn như phanh phui, lột trần bộ mặt thối nát của bọn cường quyền thống trị, thực dân, vì chính tội ác của chúng đã làm thân phận con người trở nên rẻ rúng, hủy hoại tương lai, sinh mệnh của biết bao người. Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất kì hoàn cảnh nào. Có tổng hợp và chỉnh sửa JenAndJin 12/05/2023