Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi ThaoTalay, 16 Tháng tám 2024.

  1. ThaoTalay

    Bài viết:
    2
    Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của văn nhân Nguyễn Dữ đã luôn in ấn trong thế hệ học sinh của chương trình học SGK mới. Để chia sẻ và cung cấp phần kiến thức này cho các bạn học sinh chương trình SGK mới, bài viết này ra đời

    Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ


    Trong truyện ngắn "Đời thừa", Nam Cao đã để cho văn sĩ Hộ bộc bạch: "Một tác phẩm thật có giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình.. Nó làm cho người gần người hơn.". Một tác phẩm văn học chân chính là áng văn thấm nhuần tinh thần nhân đạo, nhà văn phải là người "lắng nghe tiếng đời", góp nhặt nên chữ của đời mà viết nên trang văn, mà phấn đấu cho tiếng lòng nhân đạo, phải làm sao mà áng văn mang những "nỗi đau nhân tình', mang khát vọng và niềm tin của con người trong công cuộc hướng tới một cuộc sống nhân ái, công bằng và bình đẳng. Văn nhân Nguyễn Dữ đã trọn vẹn thực thi nên một tác phẩm như thế, để rồi một áng văn về kiếp người khổ đau, về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nam quyền -" Chuyện người con gái Nam Xương "ra đời, thể hiện qua nhân vật người phụ nữ mang tên Vũ Nương.

    Nguyễn Dữ, không rõ năm sinh năm mất, quê tại huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống vặn học và từ nhỏ, Nguyễn Dữ đã ham học, học giỏi, đọc rộng, nhớ nhiều. Ông đi thi Hương, đỗ cử nhân; rồi đi thi Hội, đạt trúng trường và được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền, nay là huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhưng chỉ được một năm, Nguyễn Dữ từ quan về quê phụng dưỡng mẹ, ẩn cư nơi thôn dã, rồi mất tại Thanh Hóa. Trong những năm" rải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành ", Nguyễn Du tác tạo nên áng văn" Truyền kỳ mạn lục "(Ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền). Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả. Sang thế kỷ XVIII, Vũ Khâm Lân, một tác gia lớn, đã đánh giá Truyền kỳ mạn lục là" Thiên cổ kỳ bút ", chính tác phẩm đã làm nên tên tuổi của văn sĩ Nguyễn Dữ, để rồi khiến cho nhà nghiên cứu văn học trung đại Nguyễn Đăng Na phải nhận định đầy khảng khái về nhà văn:" Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam ", là người" phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật ".

    Song, đặc sắc nhất phải kể đến" Chuyện người con gái Nam Xương ", thiên truyện thứ mười sáu trong tổng số hai mươi thiên truyện của" Truyền kì mạn lục ". Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là một người phụ nữ quê ở Nam Xương, tên Vũ Thị Thiết, tính tình đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Được gả cưới cho Trương Sinh, phận làm vợ nàng luôn là người giữ lử, rất khéo léo giữ hòa khí giữa hai vợ chồng. Chồng đi chinh chiến, nàng ở hậu phương chăm sóc mẹ già, con thơ. Xót thay cho con chưa được biết mặt cha, Vũ Nương mới trỏ bóng mình, mà bảo con bóng mình là cha. Để rồi lúc Trương Sinh trở về, buồn vì mẹ mất, lại nghe lời con thơ ngây dại về người đàn ông lạ, chàng vu oan cho Vũ Nương và đuổi đánh nàng, mặc cho Vũ Nương có nói lời lẽ thấu tình biết mấy. Đau đớn vì bị gắn mác" vợ hư ", nàng tắm gội chay sạch rồi gieo mình xuống bến Hoàng Giang, và được Linh Phi thương tình, ban cho cuộc sống bất tử dưới thủy cung. Song, gặp được Phan Lang - người cùng làng kể về chồng con, nàng rơi lệ, đành nhờ Phan Lang gửi gắm cho Trương Sinh. Chàng lập đàn giải oan ba ngày ba đêm, rồi thấy xuất hiện giữa dòng là Vũ Nương, cùng với cờ tán võng lọng, nàng nói lời đa tạ với chàng, bày tỏ với chàng rằng mình chẳng thể quay về trần thế vì mang ơn Linh Phi, rồi từ từ biến mất.

    Ngay từ những dòng văn đầu tiên, Nguyễn Dữ trực tiếp khái quát về vẻ đẹp phẩm chất và dung mạo của nàng Vũ Nương:" Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp ". Ngòi bút của nhà văn họ Nguyễn đã dành sức nặng vào sự" nết na, thùy mị ", như ngợi ca nét đẹp của Vũ Nương, như khẳng định tính tình đáng để yêu, đáng trân quý của nàng. Câu giới thiệu tuy ngắn gọn nhưng lại gây trong tâm trí độc giả những xúc cảm đẹp đẽ, trân quý người phụ nữ ấy. Bút pháp của Nguyễn Dữ chân thật, khách quan, thể hiện được tình cảm chủ quan đối với nhân vật, đó là lối viết mang tính truyền thống của tác giả Nguyễn Dữ mà ta có thể dễ dàng bắt gặp trong tập" Truyền kì mạn lục ". Một nàng Vũ Nương" tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp ", một người phụ nữ mang vẻ đẹp trọn hoàn hảo trong xã hội xưa:

    " Thân em vừa trắng lại vừa tròn

    Bảy nổi ba chìm với nước non

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

    Mà em vẫn giữ tấm lòng son "

    (" Bánh trôi nước "- Hồ Xuân Hương)

    Chính bởi vẻ đẹp ấy, mà chàng Trương Sinh cũng phải say, phải mến, mới dám xin mẹ hơn một trăm lạng vàng gả cưới nàng.

    Những thớ từ qua ngòi bút Nguyễn Dữ hiện lên và khắc họa rõ nét nhân vật Vũ Nương, một người vợ hiền thục với cách xử sự đầy khéo léo, đúng mực và mang trong mình tấm lòng thủy chung, son sắt với chồng, luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình. Hiểu chồng có tính đa nghi," đối với vợ phòng ngừa quá sức ", Vũ Nương biết giữ mình, khéo léo mà" giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa ". Vũ Nương cũng hiểu cho phận mình, thân là người vợ, là người giữ lửa cho gia đình, nàng đã xử sự rất đúng mực, rất khôn khéo khi luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình đầm ấm, yên vui. Song, chi tiết kể về Trương Sinh, một kẻ sĩ Ngô Tử Văn - một kẻ hay đanghi, phòng ngừa ẩn chứa đầy tính dự báo, như một sự khởi đầu nhẹ về số phận đày đọa bi thương của Vũ Nương sau này. Ta cũng bắt gặp tính dự báo về số phận xuất hiện trong thơ của Nguyễn Du về người phụ nữ mang trọn sắc lẫn tài - Thúy Kiều:

    " Làn thuy thủy, nét xuân sơn

    Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh "

    (" Truyện Kiều "- Nguyễn Du)

    Chỉ là về chi tiết nhỏ, về" hoa ghen "," liễu hờn "mà gợi phận má hồng đầy bi kịch.

    Đáng buồn thay, hạnh phúc mà Vũ Nương vun vén cũng chẳng thể dài lâu, đất nước loạn lạc binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, nàng rót chén rượu đầy, bày tỏ những lời lẽ thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng, chân tình khôn xiết:" Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi ". Ước mong của người phụ nữ ấy đơn thuần chỉ là mong chờ ngày về, thấy được chồng vẫn bình yên, mong sao gia đình vẫn đủ đầy, hạnh phúc. Ước mong ấy bình dị khôn cùng, Vũ Nương không tha thiết ham muốn danh lợi, phú quý, cũng chẳng dám mong được" đeo ấn hầu "," mặc áo gấm ", hơn tất cả vẫn là Trương Sinh, là sự yên ấm của gia đình. Tấm lòng nàng đáng trân quý, nào có giống với tâm trạng của người chinh phụ bị nỗi danh vọng phù phiếm bao chiếm ;

    " Xa xa chợt thấy màu dương liễu

    Hối để chàng đi kiếm tước hầu "

    (" Nỗi oán của người phòng khuê "- Vương Xương Linh)

    Nàng còn xót thương, cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng nơi tiền tuyến:" Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. "Và nàng cũng bày tỏ nỗi nhớ khắc khoải về chồng đi xa:" Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng ". Đó là trái tim của một người vợ đầy yêu thương, nồng thắm nỗi son sắt, nhưng cũng rất mạnh mẽ bởi sự sẵn sàng chịu đựng biến cố, thử thách, biết nhẫn lại để yên lòng người đi xa, đó là trái tim khiến" mọi người đều ứa hai hàng lệ ". Trương Sinh ra trận, Vũ Nương ở nhà thoắt đã nửa năm, cùng vỡi nỗi canh cánh, ngóng trông chồng đến nỗi" thổn thức tâm tình, thương người đất thú ". Tuổi xuân của người phụ nữ nhanh chóng lụi tàn, vẫn bâng khuâng mà mong ngóng, dẫu rằng" Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi "(" Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về đâu? "), nhưng nào có buông nỗi nhớ, nàng vẫn nuôi hi vọn, nỗi buồn thương dai dẳng theo năm thắng, để cho thời gian giờ đây lại là thước đo cho sự thủy chung, son sắt:" Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vường, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được ". Cũng vì quá thương nhớ chồng mà dỗ dành con, răn dạy con, chỉ vào bóng, bảo là cha con. Ví nàng với chồng như hình với bóng, dù có ở nơi hậu phương hay nơi sa trường đổ máu, vẫn quấn quýt không rời.

    [​IMG]

    Song, nàng cũng là tự thương cho chính phận mình, thương cho nỗi cô đơn vò võ, thương cho nỗi mong mỏi về ngày trùng phùng, ngày chồng trở về:

    " Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.. "

    (" Chinh phụ ngâm "- Đặng Trần Côn)

    Hay đến với thế kỉ trăm năm sau, những tháng ngày chiến đấu vì miền Nam, vì nước nhà được độc lập, người chị" chinh phụ "đợi chồng, với tuổi xuân cứ lặng lẽ đi theo nỗi nhớ:

    Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền

    Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế

    Và chị buồn như bông điệp xé đôi

    (Trường ca" Đường tới thành phố "- Hữu Thỉnh)

    Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, với phận người chinh phụ đợi chờ chồng chinh chiến, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, son sắt đợi chờ chồng của nàng.

    Văn sĩ Nguyễn Dữ còn tô đậm trong tâm khảm độc giả về sự tháo vát, đảm đang, về tấm lòng hiếu thảo, chăm lo cho mẹ già và về tình yêu thương, sự khôn khéo trong khi dạy con của nàng Vũ Nương. Trước mắt là cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà như chồng chất, đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Người phụ nữ ấy hiếu thảo, thương thay cho mẹ chồng vì lo cho con mà sinh bệnh, nàng" hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn ". Nhưng sự việc đã" dầu cạn đèn tắt ", mẹ đã lìa xa trần thế, nàng lại" hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đểm mình ". Tấm lòng của người làm trong đạo hiếu ấy được thấu cảm qua những lời trăng trối của mẹ già trước khi mất:" Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giốngdòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ ". Nàng đã làm trọn đạo làm dâu, tình cảm và tấm lòng ấy làm cho mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu chẳng còn xa cách, yêu thương nhau vô bờ. Khác xa với mối quan hệ mẹ chồng con dâu nghiệt ngã thuở xưa:

    " Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi

    Biết rằng có được ở đời với nhau

    Hay là vào trước ra sau

    Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng "

    (Ca dao)

    Hay:

    " Trời mưa ướt lá đài bi

    Con mẹ mẹ xót, xót gì con đâu "

    (Ca dao)

    Trương Sinh ra trận, nàng lại đương có mang. Song, tuy chìm đắm trong nỗi thương nhớ chồng vò võ, trong khi phải chu đáo chăm sóc mẹ già, người phụ nữ vẫn chịu đựng nỗi mất mát khi phải hạ sinh những lúc thiếu vắng người phu quân, lẻ loi trải qua nỗi đau sinh đẻ:

    " Đàn ông đi biển có đôi

    Đàn bà vượt cạn mồ côi một mình "

    Để rồi đến lúc chăm chút con, canh cánh nỗi lòng con chưa được cảm nhận tình cha, nàng xót thương cho con mà trỏ bóng mình trên vach, bảo là cha Đản. Nàng không muốn con thiếu thốn bất kể điều gì, bởi vậy mà nàng dạy bảo con thực tinh tế, để con không phải buồn đau vì chưa được gặp cha. Những tưởng người phụ nữ ấy sẽ lung lay trước thế sự gia đình, với nỗi đau về tâm hồn, những tưởng nàng là người rõ là đau khổ nhất, ấy thế mà nàng như một đấng nam nhi thực sự, hi sinh cá nhân mình mà cứ mãi chăm lo, săn sóc cho những con người thân yêu, luôn chỉ hướng về gia đình hạnh phúc. Qua đó, Nguyễn Dữ ghi âm vào độc giả hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa không hề nhỏ bé, nhưng lại giàu ý chí, giàu đữ hi sinh cao cả, cho ta lại càng thêm trân quý, thêm yêu mến Vũ Nương, mong muốn nàng mai sau sẽ mãn nguyện được ước mong sum họp gia đình, được hưởng những gì xứng đáng với bao sóng gió trải qua.

    Nào có được êm đềm như mong tưởng, đến khi Trương Sinh trở về, hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ lại ập đến thực bất ngờ với người phụ nữ ấy . Giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc. Người phu quân năm nào giờ đã trở về. Song cũng vì nỗi đau mẹ mất, lại nghe con thơ ngây dại kể về người đàn ông lạ," tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được ". Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vốn giữ tiết trắng trong đợi chồng, nay bị gắn oan mối" vợ hư ", dẫu có dính phải nỗi oan khiên, nàng vẫn nhún nhường, khóc mà rằng:" Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. ". Nàng nói về phận mình, rằng xuất thân nàng vốn không cao quý, được sung sướng cũng đều vì nương tựa được nhà chồng. Nhà văn khéo léo sử dụng những câu văn biền ngẫu, gợi lời phân trần của nàng thực nhẹ, lưu luyến nghĩa tình vợ chồng:" Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót ". Thành đôi chưa được bao lâu đã bị chia lìa bởi việc quân, chưa thỏa nguyện tình nghĩa vợ chồng. Ba năm chàng đi, là ba năm nỗi nhớ, là ba năm giữ trọn vẹn tấm lòng trinh bạc. Vắng chàng, Vũ Nương còn thiết nghĩ gì đến phận gái khao khát tuổi xuân xanh, nghĩ gì đến chuyện trai gái sai trái, đến việc động lòng nơi người lạ:

    Mặt biếng tô miệng càng biếng nói

    Sớm lại chiều dòi dõi nương song

    Nương song luống ngẩn ngơ lòng

    Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai?

    Và rồi nàng khẳng định cớ sự này nào có phải sự thật:" Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói ". Nàng tha thiết được phân trần:" Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng mực nghi oan thiếp ". Lời phân trần của Vũ Nương thực tinh tế mà bộc bạch nỗi lòng thủy chung, trân quý với chồng, với gia đình nhà chồng, còn gợi nên đằm thắm tình vợ chồng son sắt, khéo léo mà hạ hỏa cho chồng. Nhưng chàng không tin, nàng hỏi chuyện thì chỉ nói bóng gió rồi mắng nhiếc, đánh đuổi nàng, đến cả hàng xóm biện bạch, chàng vẫn không nguôi nỗi đinh ninh là vợ hư, Vũ Nương cũng thể tự bảo vệ mình, tự khảng khái phản bác lại. Người phụ nữ rơi vào hoàn cảnh khốn cùng nhất, không thể cầm lòng mà bất đắc dĩ nói:" Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. "Phận gái này cũng tựa vào chàng âu cũng vì khao khát một mái âm, muốn có được hạnh phúc gia đình, nàng cũng chỉ muốn sớm hôm vì chồng vì con. Nay quyền được hạnh phúc gia đình, được nương tựa vào vào chồng con lại bị người mình yêu tước bỏ, vậy nàng còn có thể sống vì lẽ gì nữa, chàng gắn mối oan này cho Vũ Nương, là tước đi quyền được sống của nàng. Cơn sóng lòng của Vũ Nương đã đạt đến mức cao trào, giọng nàng quyết liệt mà tràn đầy đau đớn:" Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ". Trái tim người phụ nữ khắc khoải nỗi đau:" khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa ", chẳng thể có được nỗi chờ chồng của cổ nhân xưa. Nhà văn đã mượn thiên nhiên để biểu hiện tâm trạng con người theo phong cách ước lệ của văn chương trung đại. Không thể chịu đựng được, đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, nàng ra bến Hoàng Giang, không nói mà" than ", không than thở với chồng, với con người nữa mà" ngửa mặt lên trời ", than với trời, giãi bày tấm lòng và phẩm hạnh của mình với đấng trên. Vũ Nương đau đớn hiểu rằng cuộc hôn nhân, hạnh phúc gia đình của nàng không thể hàn gắn được. Thất vọng, chán chường đến tột cùng. Nhưng nàng vẫn" tắm gội chay sạch ", vẫn giữ gìn bảo vệ hình hài tư dung đẹp đẽ để gặp gỡ bến sông, để tâm sự với trời đất:" Kẻ bạc mệnh này.. thần sông có linh, xin ngài chứng giám ". Vũ Nương nêu lên hai giả định về kiếp sau của mình bằng những hình ảnh đối lập:" Ngọc Mị Nương "," cỏ Ngu mĩ "và" mồi cho cá tôm.. cơm cho diều quạ ". Tuy giả định hai khả năng về phẩm giá của mình, nhưng thực chất Vũ Nương khẳng định trước sau, khi sống cũng như khi chết mình vẫn luôn là một con người chân chính, một người vợ đoan trang chung thuỷ. Nói xong nàng gieo mình xuống sông, tự vẫn. Hành động này của Vũ Nương thật là quyết liệt, đẩy câu chuyện đến độ cao trào, đầy kịch tính. Vũ Nương tìm đến cái chết vừa để bảo toàn danh dự vừa để đấu tranh phê phán người chồng cả ghen, thiếu niềm tin trong quan hệ vợ chồng, phẩm tiết trắng trong còn hơn cả sự sống. Đó cũng là một hành động bế tắc, đau khổ của một kiếp người đơn độc theo cách ứng xử của người xưa. Và nếu ngẫm kĩ, chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu:" Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức ". Độc giả có thể dễ bỏ qua chi tiết này vì với phẩm hạnh của nàng, dẫu Trương Sinh có đa nghi đến đâu cũng khó có thể xảy ra chuyện gì được. Nhưng đó lại là một chi tiết rất quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi tiết nhỏ được cài rất khéo, đó lại là sợi dây nối giữa phần trước và phần sau, xâu chuỗi các yếu tố trong truyện, và dẫn đến cớ sự hàm oan của nàng Vũ Nương. Tính đa nghi ấy trong xã hội coi thường phận phụ nữ chính là nguyên nhân khiến cho Trương Sinh được quyền lấy lời bóng gió từ con thơ mà sỉ nhục vợ, mắng nhiếc vợ ngay cả khi có hàng xóm biện bạch, dung túng cho chàng ta đẩy người vợ hiền thục của mình vào nỗi nhơ nhuốc tột cùng, khổ đau trong mối oan ức không thể gỡ bỏ.

    Sống ở thủy cung, khát khao về hạnh phúc gia đình vẫn chưa nguôi ngoai ở Vũ Nương, và lối sống ân nghĩa, thủy chung với Linh Phi -người đã cưu mang nàng cũng được bộc bạch. Nguyễn Dữ thực hiện ước nguyện của nhân dân về quan niệm" Ở hiền gặp lành ", và cũng thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của mình, Nguyễn Dữ để cho người phụ nữ ấy quyên sinh, nhưng lại được các nàng tiên trong cung nước thương vô tội, rẽ một đường nước cho nàng thoát chết, được Linh Phi ban cho cuộc sống bất tử ở dưới thủy cung. Bởi thế mà nhà văn Lâm Ngữ Đường ngẫm:" Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ ". Nay gặp được Phan Lang-người cùng làng, nghe ông kể về tình cảnh gia đình trên dương thế, Vũ Nương ứa nước mắt xót thương và nàng quả quyết:" Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi ". Rõ rằng nỗi khao khát hạnh phúc gia đình mình, nỗi thương nhớ chồng con của Vũ Nương vẫn luôn in đậm trong tâm khảm nàng. Và cũng rõ rằng đứng trước nỗi vu oan thất tiết của chàng Trương đối với mình, Vũ Nương vẫn không gợn lấy một chút thù hận, nàng vẫn yêu nhớ, nghĩ về chàng và con, một người phụ nữ quả là vị tha khôn cùng. Nàng vẫn gửi gắm Phan Lang, đưa cho ông chiếc hoa vàng, dặn dò ông nói hộ với chàng Trương. Chàng bèn làm theo lời Phan Lang, lập một đàn tràng ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Trương Sinh vội gọi nàng vẫn ở giữa dòng àm nói vọng vào:" Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa ". Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Và bấy giờ, mối oan khiên đã được cởi bỏ, nàng được thanh minh lại về tấm lòng mình, nhung than ôi, sao nàng có thể được làm mẹ nữa, nào có thể quay lại với chàng, và cũng đâu thể chạm đến hạnh phúc gia đình luôn khao khát kia? Song, cũng vì nguyện thề sẽ mãi bên cạnh Linh Phi, giữ mãi lời hứa ân nghĩa, thủy chung mà người phụ nữ ấy cũng chẳng thể trở về:" Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ ". Sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ," lúc ẩn lúc hiện "và" chỉ trong phút chốc ". Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương" chẳng thể trở về nhân gian được nữa ", nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi." Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đóa phù dung sớm nở, tối tàn "(Đồng Thị Sáo). Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.

    Trong tác phẩm" Chuyện người con gái Nam Xương ", văn sĩ Nguyễn Dữ đã dùng với thể loại truyện truyền kì, sự khéo léo khi tạo được tình huống đơn giản mà đặc sắc làm nổi bật được tính chất éo le, bi kịch trong cuộc đời người phụ nữ thời xưa; làm rõ được cái trớ trêu với hạnh phúc của con người, vận dụng linh hoạt các loại hình ngôn ngữ: Đối thoại, độc thoại cùng sự kết hợp nhuần nguyễn giữa yếu tố thực và kỳ ảo tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Ngoài ra, văn nhân còn sử dụng các yếu tố kì ảo, thi pháp ước lệ với những câu văn biền ngẫu, sử dụng điền tích, điền cố. Đặc biệt với tinh thần nhân đạo, Nguyễn Dữ còn vượt ra khỏi sự gò bó, khắt khe, đầy hạn chế của ý thức hệ đương thời. Vì vậy, văn chương của ông trở nên khoáng đạt, rộng rãi. Còn nói về sự sáng tạo của Nguyễn Dữ, ngòi bút của ông khiến" Chuyện người con gái Nam Xương "có giá trị rất riêng, khác so với cốt truyện gốc" Vợ chầng Trương ". Cụ thể, ở Nguyễn Dữ, ông sử dụng những chi tiết hoang đường kì ảo, con người còn có thể tồn tại lẫn cả dương gian lẫn trần thế, còn có thể tái sinh, tác phẩm còn mang lại kết thúc có hậu, ôm ấp quan niệm" Ở hiền gặp lành ". Cốt truyện gốc lại thiếu mất đi những chi tiết ấy, kết thúc lại thật đau đớn khi nàng Vũ Nương chẳng thể sống lại mà được minh oan.

    Tựu trung lại, qua tác phẩm" Chuyện người con gái Nam Xương", văn nhân Nguyễn Dữ cùng với những nghệ thuật đặc sắc, với tấm lòng, ngòi bút tài hoa của mình đã khắc họa rõ nét nhân vật Vũ Nương với vẻ đẹp nết na, thùy mị, với sự son sắt, thủy chung với chồng của một người vợ, với cách xử sự đầy khéo léo và tấm lòng luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình, rất mực hiếu thảo, yêu thương con chu đáo, rất mực vị tha, bao dung và sống thật nghĩa tình. Qua đó, Nguyễn Dữ đã thể hiện lăng kính hiện thực về những bất công, những nghịch cảnh, nghịch lí đối với con người, với người phận nữ. Ông bộc bạch tinh thần nhân đạo sâu sắc, niềm thương cảm khôn cùng đối với những kiếp người phụ nữ phải chịu đau khổ, thiệt thòi, đanh thép phản pháo xã hội phong kiến nam quyền, chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa. Văn nhân cũng đề cao ước về hạnh phúc, về ước nguyện công lý. Đồng thời cũng biểu lộ cho ta sự mong manh vô cùng của hạnh phúc, hạnh phúc mong manh đến nỗi mất đi rồi sẽ không bao giờ có lại được, thân là ruột thịt, cá nhân trong gia đình nên yêu và hiểu, bao dung với nhau nhiều hơn.
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...