Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương.. nhưng sâu trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ảnh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên. Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta.. Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta.. và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế. Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng. Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, che chở của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi.. có bà. Một trong những minh chứng tiêu biểu đó chính là bài thơ "Bếp lửa" được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật ở Liên Xô cũ in trong tập "Hương cây bếp lửa". Bài thơ đã gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về bà và tình bà cháu vừa gần gũi, vừa thân quen. Tiêu biểu là đoạn thơ: "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa * * * Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?" Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, Bằng Việt đã đưa người đọc đến với những kỉ niệm của ông trong những năm tháng sống bên bà để từ đó bộc lộ tình cảm yêu thương, thấu hiểu cho những vất vả nhọc nhằn mà bà phải trải qua đồng thời bộc lộ lòng biết ơn bởi những gì mà bà đã làm cho cháu. Và tình cảm ấy tiếp tục được bộc lộ ở khổ thơ thứ 6 khi nhà thơ bộc bạch những suy ngẫm về cuộc đời của bà. Từ những suy nghĩ về bà, cháu bộc lộ tình yêu thương và biết ơn bà vô hạn "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm" Cháu bộc lộ suy ngẫm về cuộc đời bà qua hình ảnh: "Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa" câu thơ sử dụng từ láy gợi hình với hai thanh trắc "lận đận" phép đảo ngữ kết hợp với hình ảnh ẩn dụ biết "mấy nắng mưa" đã diễn tả chân thực cảm xúc của cháu và hình ảnh khó khăn, vất vả, lam lũ của cuộc đời bà. Để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng tô đậm thêm sự hy sinh cần mẫn của bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thách thức ấy, hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách rời với hình ảnh bếp lửa. Quả thật cuộc đời bà đã đi cùng đất nước qua những năm tháng gian lao vất vả nhất nạn đói năm 1945, đi cùng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cháu bộc lộ suy ngẫm về công việc hàng ngày của bà. Cháu suy nghĩ ở cuộc sống hiện tại đã đỡ phần khó khăn xong bà vẫn "Giữ thói quen dậy sớm". "Mấy chục năm rồi", lời thơ kể mà như đếm, gợi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một đời bà thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Ấy vậy mà trong "thói quen dậy sớm" ta cảm nhận được sự tần tảo, đức hy sinh vẫn nguyên vẹn như thuở nào. Cháu cũng thấm thía và nhận ra bà là người nhân hậu, giàu tình yêu thương, đức hi sinh của bà qua công việc bà làm thường ngày. Cảm xúc của nhà thơ càng dâng trào khi nghĩ về việc bà nhóm lửa: "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt Nhóm Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ." Điệp ngữ "nhóm" được lặp đi, lặp lại 4 lần ở đầu mỗi câu thơ trong đoạn thơ, kết hợp với biện pháp liệt kê đã lan tỏa và khơi dậy biết bao yêu thương, biết bao rung cảm và xúc động trong lòng người đọc khẳng định công việc nhóm bếp luôn gắn liền với bà, đồng thời gợi ra ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng bà, bà là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên "lửa ấp iu nồng đượm", bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê "khoai sắn ngọt bùi", bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. "Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui", bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh. Và cũng từ đó, bà cũng nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã cùng trải qua. Những năm tháng mà hai bà cháu sống trong sự đùm bọc, san sẻ cùng xóm làng với "nồi xôi gạo mới sẻ chung vui". Câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan hòa và biết nghĩ đến mọi người, đừng ích kỷ cho riêng mình. Chính những bài học thầm lặng và gắn liền với cuộc sống ấy đã rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ, khát vọng. Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Bà thực sự là bà tiên luôn tỏa sáng tâm hồn cháu, bà đồng hành cùng cháu trong suốt những năm tháng cơ cực nhất để bao bọc, yêu thương che chở. Với cháu bà chính là gia đình quê hương nhờ có bà cháu mới khôn lớn trưởng thành. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng. Chính vì vậy mà tác giả đã thốt lên "Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ". Bà không chỉ thấu hiểu cháu mà còn là tấm gương cho cháu noi theo. Ký ức tuổi thơ tuy không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể "khoai sắn", "xôi gạo" và tượng trưng "yêu thương", "tâm tình" đan xen, quấn quýt vào nhau giữa cuộc sống đời thường và giá trị tinh thần. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một sức mạnh kì diệu. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà – người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh. Cháu bộc lộ trực tiếp tình cảm cũng như sự biết ơn sâu sắc đối với bà. Để rồi từ đó nhà thơ thốt lên trong bao nhung nhớ và trân trọng: "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!" Câu thơ với từ cảm thán "ôi" như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Kết hợp với hình ảnh ẩn dụ bếp lửa kì lạ và thiêng liêng khẳng định tấm lòng của bà ấm áp như bếp lửa, nhờ có bếp lửa mà cháu được nuôi dưỡng khôn lớn. Trong đó là sức mạnh "kì lạ" đã nhóm dậy cả một chân trời kỷ niệm, cả một tuổi thơ. Trong đó là sự "thiêng liêng" nhà thơ đã trân trọng gìn giữ trong tim nơi đất khách quê người. Ngay cả dấu gạch ngang cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật, là sự im lặng rất lạ, rất riêng giữa các từ, chứa đựng bao cảm xúc không thể diễn tả hết. Hãy lắng nghe sự im lặng đó để cảm nhận một lần nữa sự "kì lạ và thiêng liêng" kia, để thấu được tiếng lòng thi sĩ dội lại trong đó. Dấu gạch ấy như khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng "bếp lửa" ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà. Đến đây, ta mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh "bếp lửa". Hình ảnh ấy cùng chất trữ tình kết hợp với bình luận đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả lẫn độc giả về cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà. Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bà yêu thương: "Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này nhóm bếp lửa lên chưa?" Dấu chấm xuất hiện ở giữa dòng thơ tạo thành một sự ngắt nhịp dài giống như quá khứ đã trôi đi quá xa so với hiện tại. Bút pháp liệt kê, kết hợp với điệp từ "trăm" mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng có "khói trăm tàu", "lửa trăm nhà", "niềm vui trăm ngả". Tuy thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Mỗi ngày cháu đều tự hỏi "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?" Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Ở nước Nga xa xôi lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi nhem nhuốc khói, thế nhưng cuộc sống hiện đại ấy vẫn không thể làm cháu nguôi đi nỗi nhớ đau đáu, thường trực về bà. Để mỗi ngày, mỗi giờ lòng cháu đều vang lên một câu hỏi: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?" Bếp lửa đã trở thành niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Bếp lửa đã nâng cao để trở thành biểu tượng cho tình nghĩa gia đình, tình yêu quê hương, đất nước. Câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng khép lại bài thơ đã tạo ra một kết thúc mở với nỗi nhớ khôn nguôi và niềm hoài vọng thiết tha, đau đáu. Như vậy, bằng thể thơ tự do chủ yếu là thơ 8 chữ, giọng điệu tâm tình trầm lắng, giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu suy tư triết luận, kết hợp nhuần nhuyễn biểu cảm, tự sự, miêu tả và bình luận. Sáng tạo ra hình ảnh bếp lửa khơi nguồn kỷ niệm. Sử dụng các bptt như điệp ngữ, ẩn dụ, từ láy độc đáo. Với "Bếp lửa", Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng "bếp lửa", thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một "bếp lửa" soi sáng trong tim..