21. TRẦN KIM THOA – NIỀM KHẮC KHOẢI CỦA NGƯỜI CON XA XỨ
"Quê hương là gì hở mẹ/ mà cô giáo bảo phải yêu/quê hương là gì hở mẹ/ ai đi xa cũng nhớ nhiều" đọc những câu thơ trên của một nhà thơ Việt Nam tôi lại trạnh lòng nhớ tới hình ảnh của người con xa xứ - Nữ sĩ Việt Kiều Trần Kim Thoa.
Được quen biết và được giao lưu thơ phú với chị trong khoảng thời gian không dài trên các trang thơ Facebook, nhưng hình ảnh của Kim Thoa với vẻ đẹp trong tâm hồn, vẻ đẹp trong thơ chị rất đỗi lắng sâu dung dị đã làm tôi cảm thấy kính quý và trân trọng chị vô cùng. Đọc thơ chị ta luôn bắt gặp những nỗi niềm, những tâm tư tình cảm của người con nơi xứ xa luôn hướng về quê hương với một niềm khắc khoải đến nao lòng.
Hình ảnh quê hương trong thơ Kim Thoa hiện lên thật đẹp thật trong sáng và bình dị. Trong mắt chị quê hương là những gì thân thuộc nhất, gần gũi và bình dị nhất. Đó là "Hàng trúc đầu làng, là cây đa phố cổ, là mái trường thân yêu, là bạn bè thương mến, là mái trường cổ kính rêu phong, là tà áo dài quê hương, là Miền Trung đầy nắng gió và cả thiên tai nữa.. Tất cả những hình ảnh đó gắn liền với tuổi thơ êm đềm, với thời hoa niên mơ mộng và một thời thiếu nữ đầy mê say.
" Tàu đưa về lại quê hương
Bao lâu xa vắng nhớ thương quê nhà
Nhiều năm em sống rất xa
Nhớ từng hàng trúc cây đa đầu làng.
(Tàu Về Quê Hương)
"Tạt qua thăm những bạn hiền
Mặt mừng tay bắt nối liền thương yêu
Ngồi quanh dùng bữa cơm chiều
Thức ăn đồng nội đượm nhiều tình quê."
(Áo Dài Quê Hương)
Qua đây ta mới thấy được tình yêu quê hương và tấm lòng luôn hướng về quê hương nơi "chôn nhau cắt rốn" của Kim Thoa lớn đến nhường nào!
Bên cạnh hình ảnh về quê hương Kim Thoa còn rất thành công với những bài thơ viết về tình yêu đôi lưa. Tình yêu trong thơ chị nồng nàn say đắm bao cảm xúc, bao cung bậc khác nhau từ nồng nàn say đắm đầy mê li đến bâng khuâng tiếc nuối khi tình không trọn vẹn. Tình yêu ấy có lúc mộng mơ với bao si mê của nàng thiếu nữ mới lớn, có lúc lại đầy trắc ẩn của một trái tim đã trải qua nhưng va vấp những luến tiếc của một người đã từng đi qua tình yêu đầu đời với bao kỉ niệm đẹp cũng có mà dang dở cũng có.
"Tình yêu không tuổi có hồn
Bao nhiêu thương nhớ cứ dồn vào tim"
(Tuổi Yêu)
"Vẫn biết yêu anh tình không trọn vẹn
Mới chớm thương sao lệ nghẹn đôi mi
Anh ra đi không một tiếng giã từ
Để em nhớ, em thương và chờ đợi"
(Tình Không Trọn Vẹn)
Có thể nói những cung bậc, những sắc màu tình yêu trong thơ Chị thực sự rất đẹp rất ấn tượng và rất đáng để thưởng thức.
Bên cạnh những đề tài quen thuộc ta còn thấy mảng thơ trữ tình thế sự cũng được chị Kim thể hiện rất thành công. Ở mảng thơ này ta bắt gặp những hình ảnh thơ mang tính triết lí sâu sắc và nó như những chân lí được rút ra qua những trải nghiệm của cuộc sống mà nhà thơ đã từng đi qua. Những bài thơ "Đời Là Cát Bụi, Hạnh Phúc Đau Thương, Lạc Bước Về Đêm.." là những bài thơ để lại dấu ấn lớn trong lòng độc giả.
"Biết trước đừng đưa sang đây
Để rồi chuốt lấy đắng cay như vầy
Buồn tình số phận đọa đày
Đau thương hạnh phúc lệ cay mỗi ngày."
(Hạnh Phúc Đau Thương)
Nội dung trong thơ chị là vậy còn nghệ thuật thì sao? Xin được dùng những lời bình của nhà thơ Đỗ Hàn hiện là chánh văn phòng hội nhà văn Việt Nam để nói về nghệ thuật trong thơ chị: "Một người xa quê, đang sống ở Hoa Kỳ, luôn cồn cào, thổn thức nỗi nhớ quê, nỗi nhớ về mối tình đã qua nhưng giờ vẫn khắc khoải trong tim người xa xứ. Lạ kỳ là ở nước ngoài từ nhỏ, thế mà Kim Thoa lại say với thơ Lục Bát, thể thơ đặc trưng của người Việt. Phải chăng đó cũng là một" Mùa say đắm "của riêng Kim Thoa chăng? Vậy thì cái mùa say đắm ấy đã ra thành những con chữ, ngay từ những trang đầu tiên rồi.. Nghe câu:
" Tôi xin trả mối tình khờ
Người gieo năm tháng, đợi chờ trong tôi.. "
(Thay lòng- Kim Thoa)
Đã thấy một sự dỗi hờn đầy nữ tính của của một người đã từng yêu say đắm! Và, giờ đây đâu đã tắt lửa lòng? Chúng ta có thể tin với Kim Thoa lúc nào chị cũng say đắm, say đắm thường trực chứ không chỉ dào dạt theo mùa hay theo từng đợt cảm xúc." (Lời tựa tập I tập thơ MÙA SAY ĐẮM). Quả thật ta thấy Kim Thoa đã rất thành công trong thể loại thơ lục bát truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Để kết thúc bài viết này tôi xin được trích dẫn toàn bộ lời tự bạch của chị trong tập thơ MÙA SAY ĐẮM để giúp độc giả hiểu được một tâm hồn phụ nữ vô cùng nhân hậu vô cùng dịu dàng và rất đắm say lãng mạn. "Ai có xa quê hương mới hiểu hết nỗi niềm của người xa sứ. Nhất là khi hoàng hôn buông xuống hoặc khi tết đến xuân về.. Kim Thoa xa quê từ khi lên tám tuổi, quê hương trong ký ức tuổi thơ thật đẹp, thật rực rỡ.. Xuyên suốt thơ tác giả, là nỗi nhớ niềm thương về những bóng hình thân yêu, là cha, là mẹ, là lũy tre làng.. gắn liền với quê hương.. Là tấm lòng của người con xa sứ xót xa trước cảnh miền trung bão lũ. Luôn quan tâm và mong ngóng về quê hương.. Thơ Kim Thoa ngọt ngào nhẹ nhàng, đằm thắm duyên dáng như tính cách của tác giả vậy, tựa tà áo dài dân tộc và một nụ cười tủm thật dễ thương.. Xa quê từ nhỏ vậy mà hồn thơ dân tộc đã ngấm vào tác giả từ bao giờ không biết nữa.. Những vần thơ lục bát thật ngọt ngào, quyến rũ và mượt mà.. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một nhà thơ nữ Việt kiều ngụ cư tại Mỹ - Kim Thoa.. Rất mong quý vị đón nhận những tình cảm tha thiết của người con xa sứ với quê hương đất nước mình."
Có thể nói bên cạnh những vần thơ tuyệt vời của mình nữ sĩ Kim Thoa còn là một con người có tấm lòng hết sức nhân văn, đầy yêu thương và chia sẻ. Cảm ơn chị và gia đình đã tài trợ cho Trang Thơ Văn - Mùa Say Đắm nguồn kinh phí để thực hiện được việc xuất bản tập thơ đầu tay của trang thơ văn này. Xin được biết ơn chị và gia đình rất nhiều!
Trang Thơ Văn – Mùa Say Đắm xin trân trọng giới thiệu 25 bài thơ của nữ sĩ Kim Thoa đã được in trong tập MÙA SAY ĐẮM tập I do NXB Hội Nhà Văn Việt Nam ấn hành trong tháng 07/2017. Kính mong các độc giả cùng thưởng thức và góp ý về thơ của nhà thơ Trần Kim Thoa.
"Trường Sơn mây núi nâng chân bước/ Chiến trường oanh liệt giục lòng trai" . Hai câu thơ mang đậm hào khí oanh liệt của những chàng trai đất Việt trong bài thơ "Tự nhủ", mở đầu tập nhật ký bằng thơ "Kỷ niệm chiến trường" của tác giả Đặng Trường An người xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh phúc như khái quát tất cả vẻ đẹp của hình tượng người lính với tinh thần yêu nước mãnh liệt, lòng cũng cảm vô biên và tình đồng chí đồng đội sâu sắc được thể hiện trong thời kỳ lịch sử đặc biệt này của dân tộc.
Tuyển thơ "Kỷ niệm chiến trường" với 70 bài thơ nhỏ xinh; được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành đầu năm 2025; ghi lại những cảm xúc của tác giả trong suốt quá trình rèn luyện và chiến đấu trong quân ngũ; khoảng hơn 20 năm từ 1968 đến 1989. Những kỷ niệm trong tuyển thơ được viết lên giống như những trang nhật ký "đậm màu hiện thực" của một người lính có tâm hồn của một thi sĩ từng trải qua toàn bộ những "trạng huống" khốc liệt nhất của chiến tranh trải dài từ Nam ra Bắc.
Đây không chỉ là tâm tư của người lính từ khi bắt đầu tham gia cuộc chiến với nhiều bỡ ngỡ mà còn là những rung động từ sâu thẳm tâm hồn của một người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu và chỉ huy đồng đội chiến đấu. Những "Đêm máu lửa kinh hoàng", "Đêm tử thần", "Hạt gạo, hạt máu" hay "Kỷ niệm về sốt rét".. là những bài thơ có sức ám ảnh rất lớn bởi nó đã lột tả rất chân thật sự khốc liệt đến "khủng khiếp" của cuộc chiến giữa ta và địch. Bên cạnh những bài thơ hiện thực khốc liệt ấy chúng ta cũng bắt gặp nhiều hình ảnh những chiến sĩ, những cô giao liên, những đồng bào gan dạ, anh hùng, tình cảm, sẵn sàng tham gia vào các nhiệm vụ và dành chiến thắng vẻ vang. Đó là chiến sĩ Phan Hồng Phú "Xông lên phá ách cầm tù/ Đạp bằng nô lệ, phất cờ vàng sao/ Bình minh rực rỡ đón chào/ Kho tàng, đồn giặc, lửa cao ngút trời" (Tưởng nhớ Phan Hồng Phú) ; là 6 cô giao liên xinh đẹp đầy lòng yêu nước "Sáu cô gái đảm đang việc nước/Đồng đội qua đây chẳng kịp hỏi tên/ Sáu bông hoa giữa rừng xanh, núi biếc/ Thành" Trạm Sáu Cô "- địa chỉ khó quên" (Chạm sáu cô) ; là dũng sĩ 700 gan dạ kiên cường và quyết tâm dành chiến thắng "Đánh ngày thất bại, địch đánh đêm/ Chiến thuật đổi thay, chúng xông lên/ C1 kiên cường giữ vững chốt/ " Dũng sỹ 700 "- sáng ngời tên" (Dũng sĩ 700) ; đặc biệt là chiến thắng Cấm Dơi – Quế Sơn vô cùng hào sảng, tràn đầy vẻ vang ".. Sau ba ngày quyết chiến/ Ta giải phóng Cấm – Dơi/ Căn cứ" Roos "tả tơi/ Ôi phút giây hạnh phúc!".. Sẽ khó có thể liệt kê hết hình ảnh những chiến thắng oanh liệt, những con người anh hùng mang trong mình vẻ đẹp của "thời đại Hồ Chí Minh" trong tuyển tập.
Ngoài những bài thơ kể về sự khốc liệt của cuộc chiến tuyển tập "Kỷ niệm chiến trường" còn là những bài thơ hết sức trữ tình, lãng mạn thể hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn của người lính luôn hết mình với sự nghiệp giải phóng quê hương đất nước Đặng Trường An. Có những cảnh thiên nhiên Trường Sơn thật lãng mạn "Rừng già về đêm tỏa sáng lòa/ Lân tinh lấp lánh dưới chân ta/ Quân đi nhẹ bước trong rừng thẳm/ Tưởng đâu lạc giữa dải Ngân Hà" (Đêm hành quân trong rừng lân tinh). Có những nỗi nhớ quê thật đằm sâu "Nhớ đất quê hương mát phù sa/ Bốn mùa thơm mía, ngọt lời ca/ Ngõ xóm reo vui bầy em nhỏ/ Khói lam chiều tỏa khắp mọi nhà" (Nhớ quê). Có những ân tình suốt đời chẳng thể nào quên "Ôi hạt gạo Quảng Nam/ Trong những năm đánh Mỹ/ Đẫm máu đào chiến sỹ/ Nặng nghĩa tình quân dân" (Hạt gạo ở Quảng Nam).. Những kỷ niệm thân thương, tươi đẹp và đáng trân trọng quá!
"Kỷ niệm chiến trường" là tập hợp của những cảm xúc mang dấu ấn cá nhân của tác giả Đặng Trường An nên có nhiều chi tiết, nhiều hình ảnh thơ rất cụ thể, nên cả cuốn sách giống như một bộ phim tài liệu về lịch sử chiến đấu và chiến thắng quân địch của Nhân dân ta trên chiến trường. Chính vì vậy có nhiều chú thích sau mỗi ý thơ, bài thơ. Đó cũng là nguồn "tài liệu đặc biệt" của tác giả với mong muốn bạn đọc, hiểu và thấu cảm cho sự ra đời của "những kỷ niệm" vô cùng ý nghĩa và thiêng liêng ấy của tập thơ.
Chiến tranh đã qua đi nhưng những "Kỷ niệm chiến trường" còn sống mãi trong lòng người lính năm xưa. Những vần thơ hào sảng về một thời đã qua sẽ là nguồn động lực to lớn để những "người lính già" tiếp tục có thêm những nguồn sống mới đẹp hơn, vĩ đại hơn với cuộc đời. "Ngày ấy chúng tôi nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc/ Tuổi mười tám – đôi mươi, lên đường đi cứu nước/ Chẳng sợ chi gian khổ, hiểm nguy/ Chân lý cuộc đời dẫn dắt chúng tôi đi.. / Cùng đồng đội đánh cho quân thù bạt vía, kinh hồn/ Biết bao đồng chí đã anh dũng hy sinh/ Cho Tổ quốc Việt Nam/ Độc lập, Tự do, Thống nhất, Hòa bình".. Xin lấy những câu thơ cuối của bài thơ "Kỷ niệm chiến trường" cũng là tên của tuyển tập để khép lại bài viết với lời cảm ơn sâu sắc thế hệ cha anh đã làm nên hòa bình cho đất nước hôm nay; gửi lời chúc bình an và nhiều sáng tạo tới những "cựu chiến binh" như tác giả Đặng Trường An – Tác giả của tuyển thơ "Kỷ niệm chiến trường" đặc biệt này!
[COLOR=rgb(0, 0, 255) ]23. HƯƠNG SẮC TƯƠI MỚI TRONG "ĐƯỜNG VỀ MÙA XUÂN"[/COLOR]
[COLOR=rgb(0, 0, 255) ]CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN HỮU NGHIỆP[/COLOR]
Ấn phẩm thơ - văn "Đường về mùa Xuân" của nhà thơ Nguyễn Hữu Nghiệp được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành quý II năm 2025 là kết quả của quá trình thai nghén, tạo dựng và hoàn thiện các tác phẩm thơ, văn trong nhiều năm của ông. Mỗi bài thơ, bài văn trong ấn phẩm ra mắt lần này đều lấp lánh vẻ đẹp của cuộc đời bởi trên hành trình tìm kiếm vẻ đẹp của con chữ nhà thơ đã thấu hiểu quan điểm "Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi" (Puskin). Chính vì vậy nhà thơ đã gặt hái được nhiều hương sắc tươi mới, mang đến nhiều trải nghiệm thú vị cho độc giả trong "Đường về mùa Xuân" xuất bản lần này.
Trong tuyển tập, có những bài thơ ông viết từ khá lâu rồi. Đó là những bài thơ được hoàn thành trong những chuyến đi thực tế sáng tác hoặc những chuyến đi du lịch cùng cơ quan, cùng những người thân trong gia đình. Chính vì vậy nhiều bài thơ ông viết về những địa danh, những miền quê tươi đẹp, trù phú với nhiều nét độc đáo mang bản sắc riêng biệt không nơi đâu có trên khắp mọi miền đất nước. Đến Quảng Nam ông có (Huyện toàn T) với "Tiên Hà, Tiên Hiệp, Tiên Sơn/ Tiên Lãnh, Tiên Lập, gần hơn Tiên Kỳ/ Tiên An, Tiên Cẩm cùng quê.. /Mười lăm xã thuộc một miền Quảng Nam". Khi đến với Sơn La ông đã gửi lòng về với (Ngã ba Cò Nòi) bằng những vần thơ chan chứa tình cảm "Ai ơi có về Sơn La/ Sống lại kỷ niệm ngã ba Cò Nòi/ Cùng đếm cây mọc trên đồi/ Mà đem so với bom rơi thuở nào..". Đến Quảng Bình ông đã phác thảo (Sự tích hang Tám Cô) với một câu chuyện lịch sử có thật hết sức cảm động "Ca trực ngày định mệnh 14/11/1972/ Có 4 nam – 4 nữ/ Đường 20 bị gần 200 quả bom băm nát/ Tảng đá trăm tấn lấp cửa hang/ Từ đó hang 8 cô trở nên linh thiêng bất tử". Về (Bà Rịa) ông đã gửi tâm tình của mình về đất và người nơi đây bằng những lời thơ đầy cảm khái "Đã ba trăm năm qua rồi/ Bà là Bà Rịa ở nơi Long Điền.. / Tên Bà thành tên quê hương/ Sáng trong mãi một tấm gương cần cù".. Có thể thấy mỗi miền quê, mỗi địa danh mà bước chân ông đi qua trên đường đời đều được nhà thơ Nguyễn Hữu Nghiệp dành một tình cảm rất đỗi thân thương trìu mến, qua đó thể hiện một tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong ông.
Với những bài thơ khắc họa hình ảnh con người Việt Nam lại là một dấu ấn mới trong cách thể hiện của Nguyễn Hữu Nghiệp. Có những nhân vật trữ tình hiện lên là những vĩ nhân nhưng có những nhân vật chỉ là những con người bình thường ta có thể bắt gặp ở bất kể đâu trong cuộc đời này. Tuy nhiên tất cả những con người ấy đều mang một vẻ đẹp rất đặc trưng của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Nếu hình ảnh Bí thư Kim Ngọc hiện lên với sự cao cả, vĩ đại cùng sự nghiệp lớn lao "Chín năm đánh giặc/ Cầm quân/ Ngày về ước nguyện giúp dân làm giàu" thì hình ảnh chiến sĩ Lăng Sỹ Thủy lại là hiện thân của tinh thần kiên cường, bất khuất, anh dũng đầy máu lửa của người dân Việt Nam trong chiến đấu chống lại quân thù "Để lại xe - Nhắn lại lời/ Bộ hành anh quyết vào nơi chiến trường"; Bùi Ngọc Đủ ".. 7 chiến sỹ hy sinh/ Nhưng đã diệt 40 lính Mỹ/ Bùi Ngọc Đủ thành anh hùng lực lượng vũ trang.."; Mai Quốc Ca "Gửi lại thanh xuân ở tuổi đôi mươi"; Trần Kim Xuân "Phá 1452 quả/ Trong đó có 73 bom từ trường"; Anh Tư Tờ "Tự hiến đất lập miếu thờ".. Thật khó có thể liệt kê hết những hình ảnh, những con người "Sống tốt đời, hy sinh đầy oanh liệt" qua tuyển tập thơ văn ra đời lần này của nhà thơ Nguyễn Hữu Nghiệp; chỉ biết rằng tất cả ở họ hiện lên qua những vần thơ gan ruột của ông đều rất đẹp, vẻ đẹp lung linh như huyền thoại.
Bên cạnh những bài thơ đầy cảm xúc về đất và người quê hương Việt Nam chúng ta còn bắt gặp những trang văn xuôi mang đậm chất kí trong "Đường về mùa Xuân" được nhà thơ chắt lọc, tinh chế thành những tác phẩm văn chương mang đậm dấu ấn lịch sử, dấu ấn văn hóa quê hương Việt Nam qua sự biến thiên của thời gian và thời cuộc. Những bài kí trong tuyển thơ văn xuất bản lần này giống như những trang "tư liệu" quý giá giúp bạn đọc khám phá những nét riêng biệt, độc đáo của mỗi địa danh, mỗi hình ảnh, mỗi con người mà ta có thể chưa biết đến ngoài đời thực.
Nếu bài ghi chép "Cái rét Thái Nguyên" là "ấn tượng" sâu sắc về giáo dục ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên những ngày đất nước còn sống trong thời kỳ bao cấp với biết bao khó khăn gia khổ; ở đó có những thầy cô giáo hết mình yêu nghề, yêu học trò; tạo nên những thành tích giáo dục "phi thường" làm dày thêm truyền thống dạy và học cho nền giáo dục Thái Nguyên sau này. Thì với bài kí "Nhất nó" kể về giảng viên Học viện kỹ thuật quân sự Việt Nam – Nguyễn Hữu Nội lại là hình ảnh một nhân vật cụ thể được nhà thơ khắc họa như một tấm gương tiêu biểu cho thế hệ thanh niên Việt Nam đương đại. Bên cạnh đó là những bài nghiên cứu về lịc sử, văn hóa cũng được nhà thơ bỏ công tìm hiểu khá chi tiết, sâu sắc mang đến nhiều thông tin hữu ích, mới lạ cho người đọc như: "Nơi ấy là điểm hẹn", "Sự tích hang Tám Cô", "Hoành Sơn quan", "Võ Thắng quan", "Vũng Rô", "Đồi Tức Dụp".. Hơn thế nữa, trong phần văn xuôi còn có những bài phản ánh khá kỳ công về câu lạc bộ thơ Vĩnh Phúc hay những câu chuyện mang tính chất "giai thoại" như "Chuyện chưa kể".. Dù mỗi bài văn xuôi trong tuyển tập chỉ như những lát cắt không liền mạch về những gì nhà thơ được thấy, được trải nghiệm trên đường đời nhưng có thể khẳng định rằng đó là những bài văn thể hiện một sự nhìn nhận, đánh giá rất sâu sắc và "có tâm, có tầm" của một tâm hồn thơ luôn gắn bó mật thiết với mạch nguồn cuộc sống.
Có thể thấy hương sắc tươi mới mang đến nhiều cảm hứng cho người đọc trong tuyển tập "Đường về mùa Xuân" được thể hiện khá rõ nét trong cách thức thể hiện tứ thơ, cốt văn của tác giả. Có nhiều bài thơ tác giả không chú ý nhiều đến nhịp, vần, thể mà chú ý nhiều đến cấu tứ làm nên sự hoàn chỉnh cho ý tưởng cần gửi gắm. Chính vì vậy nhà thơ Nguyễn Hữu Nghiệp sử dụng khá nhiều và khá thành công với thể thơ tự do. Yếu tố kể, tả, cảm, gợi, chốt.. được sử dụng đan xen, nhuần nhuyễn tạo nên những bài thơ mang âm hưởng "chiêm nghiệm" làm thành một "bài triết lí" có tác dụng giáo dục rất cao. Bên cạnh đó là những bài kí, ghi chép với văn phong sâu sắc, hóm hỉnh gợi nhiều hứng thú cho bạn đọc.
Xin chúc mừng nhà thơ Nguyễn Hữu Nghiệp đã cho ra đời một tuyển tập thơ văn chất lượng cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Có thể coi đây là vườn quả chín cuối mùa nhưng đầy hương sắc tươi mới của nhà thơ Nguyễn Hữu Nghiệp với vườn thơ văn Vĩnh Phúc trong một phần tư đầu thế kỷ XXI.
"Nhặt thơ trên mọi nẻo đường/Gom vào trang sách khai trương với đời.." Hai câu thơ mở đầu bài thơ "Thơ nhặt" và cũng là tên tập thơ mà tác giả Nguyễn Duy -Hiệu Ngọctrình làng năm 2024 đã khái quát khá đầy đủ tư duy cũng như quan điểm viết thơ của ông trong toàn bộ tuyển tập mà các bạn đang cầm trên tay.
Hơn 60 bài thơ được Nhà xuất bản Hội nhà văn cấp phép xuất bản lần này là hơn 60 lần tác giả "nhặt" được những sợi vàng lấp lánh từ "mỏ quặng" phong phú trong cuộc đời mình. Từng là chuyên gia cao cấp của Việt Nam sang giúp đỡ nước bạn Lào một thời gian khá dài nên ông có điều kiện đi nhiều, biết lắm, được tiếp xúc với nhiều người, nhiều phong tục tập quán khác nhau ở cả Lào và Việt Nam. Chính vì thế Nguyễn Duy có nhiều kiến thức và vốn sống thực tế làm chất liệu rồi từ đó chắt lọc, mài dũa tình cảm, cảm xúc của mình để làm nên những bài thơ rất ngọt ngào và được nhiều người yêu thích.
Như bao người Việt Nam trên dải đất hình chữ S thân yêu, tác giả luôn có những xúc cảm yêu thương dồi dào với vẻ đẹp của quê hương đất nước mình để từ đó ông cảm thấy tự hào với "Biển trời của ta"; thấy hạnh phúc biết bao với "Đảo Hoàng Sa, Trường Sa niềm kiêu hãnh nước non nhà"; thấy tâm hồn phấn chấn khi "Vĩnh Yên khởi sắc quê nhà.."; mà lòng đâu khỏi bâng khuâng với "Giữa miền Tam Đảo vấn vương tơ lòng"; để nhớ thêm, yêu thêm miền quê ngoại hữu tình "Xa xa Yên Tử ửng hồng.. / Hồn quê rung động tâm tình người xa.."; thấy kiêu hãnh biết vô cùng với chiến công oanh liệt của Nhân dân ta trong chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu "Đã sáu mươi năm lớp cha, anh/ Nữ nam, dép lốp bước quân hành/ Từ khắp vùng quê đến thị thành/ Về miền Tây Bắc quyết ghi danh..".. Tất cả những hình ảnh trên đã được Nguyễn Duy "nhặt" về từ nhịp đập trái tim mình khi được chiêm ngưỡng, được sống, được thả hồn vào vẻ đẹp non nước hữu tình và đầy chất hùng ca ấy.
Đi vào thơ Nguyễn Duy không chỉ là những hình ảnh thiên nhiên kỳ vĩ, lớn lao, những sự việc, sự kiện hoành tráng oanh liệt mang tầm thời đại.. mà còn là hình ảnh của những điều hết sức nhỏ bé, bình dị, thân thuộc và rất gần gũi với đời sống quanh ta. Đó có thể chỉ là một món ăn bình dị mang đậm phong vị quê hương "Tép Dầu đón sóng sinh tình/ Món ăn dân giã quê mình dâng hương" (Tép Dầu Đầm Vạc) ; hay chỉ là hình ảnh chùa Hà Tiên âm trầm sâu lắng với "Sân chùa bóng khách còn vương nắng vàng.." (Chùa Hà Tiên) ; cũng có thể chỉ là hình ảnh cây thông với ngôi cổ tự trên đất Phật gợi nhiều cảm xúc "Vỏ thân xù mốc bụi thời gian/ Cành lá vươn cao giữa đại ngàn/ Tỏa bóng chở che ngôi Cổ tự/ Ngàn năm còn đó với nhân gian." (Cây thông) ; hoặc có thể chỉ là đôi mắt cửa ở mỗi ngôi nhà Hội An đã nói lên nhiều điều đáng suy ngẫm "Lời chào non tơ/ Trời xanh ước mơ/ Qua đôi Mắt Cửa.." (Mắt cửa).. Dù là hình ảnh rất bình dị nhưng đó là những hình ảnh mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc được tác giả "nhặt" ra từ những xúc cảm lắng sâu trong tâm hồn mình để từ đó cất lên thành những vần thơ hay dâng tặng cuộc đời.
Đã là người viết thơ chắc hẳn ai cũng dành cho đề tài tình yêu lứa đôi một sự quan tâm đặc biệt. Nguyễn Duy cũng vậy, ông viết về tình yêu thời trai trẻ đời mình với những cung bậc cảm xúc hết sức thăng hoa. Đó là mối tình đầu tiên và cũng là duy nhất đời ông với người thiếu nữ họ Đồng sinh ra tại quê hương Bắc Giang tươi đẹp. Họ đến với nhau bằng những cánh thư lại qua giữa hậu phương – chiến trường & chiến trường - hậu phương. Họ yêu nhau vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua những thử thách khó khăn thời chiến. Họ mang đến trao nhau một tình yêu vô cùng cao thượng: "Châu từ Hà Bắc xa xôi/ Đã thăm hỏi đến một người phương xa.. / Thư ư thế cũng đủ mà/ Sau này gặp mặt hẳn là vui hơn." (Cảm tác). Khi yêu nhau, họ đã trao nhau tất cả niềm tin, niềm thương, niềm yêu để rồi lúc chia xa, em vào nhà máy, anh trở lại chiến trường: "Tầu chuyển bánh/ Anh lui về chuyện cũ/ Bâng khuâng với những lá thư.. / Xuân về giữa đất thánh rồi/ Mà hồn nhung nhớ đất trời trung du.." (Chia tay thời chiến). Với bài thơ (Ở hai đầu nỗi nhớ) là khi họ nghĩ đến nhau, thầm thấy không thể thiếu nhau trong cuộc đời này và họ đã nguyện: "Cháy hai đầu nhớ thương/ Điều giản dị bình thường/ Vì trong ta quả ngọt/ Đã chín từ yêu thương." Hòa bình trở lại họ nên duyên vợ chồng, cuộc sống gia đình viên mãn hạnh phúc: "Vần thơ anh viết/ Tha thiết yêu thương/ Mình ơi mấy chục năm trường/ Tình yêu cháy bỏng yêu thương vô bờ." (Tặng vợ). Tuy nhiên cuộc đời thật vô thường. Trong một cơn bạo bệnh, bà đã rời cõi tạm bỏ lại mình ông với nỗi cô đơn vời vợ nơi trần thế.. Nhớ bà, ông đã viết: "Tiễn biệt mình về cõi Phật xa/ Vợ đi thương nhớ đớn đau mà.. Minh chứng tình yêu là tất cả/ Châu dời cõi tạm hưởng hương hoa.." (Tiễn vợ Đồng Minh Châu yêu dấu). Quả phúc đời người thật khó nói hết bằng lời. Tình yêu của Nguyễn Duy với Minh Châu thực sự đã là "tình yêu vĩnh cửu đời người" thật đáng trân trọng biết bao.
Trong tuyển tập "Thơ nhặt" còn có một số bài thơ của phu nhân Minh Châu - người tình trăm năm thơ ông, chủ yếu là những bài thơ tình bà viết khi hai người mới yêu nhau. Những bài thơ ấy là minh chứng rõ ràng cho tình yêu tuyệt đẹp của họ trong cuộc đời. Đó là những vần thơ nồng nàn da diết, cháy bỏng nhớ thương: "Đêm nay em trực ca/ Anh cũng đi ra ga/ Trời sao và trăng vẫn sáng/ Anh ơi thế lại xa/ Anh ơi! Em thức mà/ Vì anh đã đi xa/ Nhớ anh em không ngủ.." Thật đáng ngưỡng mộ, đáng để chúng ta chiêm ngưỡng.
Trong quá trình sáng tác thơ, Nguyễn Duy đã sử dụng thành thạo, nhuần nhị các thể thơ truyền thống của Việt Nam, đặc biệt là thể thơ lục bát và song thất lục bát trường thiên. Ông lập tứ gieo vần khá chuẩn chỉnh, khá "chuyên nghiệp". Dung lượng phản ánh trong mỗi bài thơ, có bài dài như một (tiểu trường ca) có bài ngắn chỉ 4 câu. Đặc biệt cách ông "chơi thơ" cũng là một điểm nhấn tạo sự khác biệt cho hình ảnh thơ mình. Nguyễn Duy vịnh cảnh, tả tình bằng Haiku (một thể thơ cổ Nhật Bản) ; chơi chữ, gò câu bằng phương pháp khoán thủ (một kiểu chơi thơ mới của các nhà thơ Việt Nam đương đại) ; hơn thế nữa, nhà thơ còn rất "chỉnh" với các bài thơ được viết theo thể thơ Đường luật, ngắn gọn hàm súc, ý tại ngôn ngoại, nói được nhiều vấn đề ngoài con chữ..
Từ cuộc sống yêu thương đã giúp tác giả Nguyễn Duy "nhặt" được ở ven đời những vần thơ đầy xúc cảm, mang đến cho người đọc nhiều hứng khởi, nhiều niềm yêu thương như chính ông đã yêu thương cuộc đời này. Lời tâm sự tha thiết, chân tình, đầy sự cầu thị cuối bài thơ "Thơ nhặt" cũng là tâm niệm mà tác giả muốn gửi gắm lòng mình tới bạn đọc. Rất mong những ai có trên tay tập thơ hãy đồng cảm cùng tâm ý của tác giả, đó là phương cách tốt nhất giúp ông có nhiều hứng khởi để tiếp tục "nhặt về" những câu thơ, bài thơ đẹp dâng đời: "Thơ in đâu để khoe gì/ Âu là một chút tình si gửi đời/ Khen chê xin một tiếng cười/ Vui trong tâm thức cho tươi cuộc tình.".
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng cộng sản Việt Nam, vị cha già kính yêu của toàn thể Nhân dân Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới đã luôn và mãi là nguồn sống, nguồn sáng tạo quý giá cho mỗi tâm hồn người dân Việt Nam. Viết về Bác dù là ai, ở đâu thì mỗi tác giả đều có những "cảm thức" rất đặc biệt bởi tên Người mãi là nguồn sáng tạo vô tận cho mỗi trái tim văn nghệ sĩ biết rung lên hướng về vẻ đẹp thiêng liêng của cuộc đời.
Nhân kỷ niệm 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025) Trung tâm Văn hóa tỉnh kết hợp với Câu lạc bộ thơ Vĩnh Phúc tổ chức phát động sáng tác, xuất bản tập thơ "Bác Hồ trong trái tim ta" nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tôn vinh những cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam; cổ vũ, động viên cán bộ, Đảng viên và Nhân dân quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó là nhiệm vụ tuyên truyền về giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Cũng thông qua những sáng tác thơ ca trong tuyển tập lần này để người dân Vĩnh Phúc thể hiện lòng thành kính tưởng nhớ, tri ân sâu sắc với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như đề cao trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong việc thực hiện Di chúc của Người.
Tuyển thơ "Bác Hồ trong trái tim ta" gồm 81 tác phẩm của 62 tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp cao cả vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện niềm kính yêu vô hạn với công lao, trời biển của Người cũng như quyết tâm xây dựng quê hương Vĩnh Phúc ngày càng trở nên giàu đẹp như lời Người đã từng nhắc nhớ hơn sáu mươi năm trước khi Người về thăm Vĩnh Phúc.
Vẻ đẹp của hình tượng Bác hiện lên trong mỗi vần thơ đâu chỉ là vẻ đẹp dung nhan thuần túy "Thu nay nắng ấm Ba Đình/Dáng hình của Bác lung linh giữa trời/ Giơ tay mắt sáng nụ cười/ Vẫn còn đầm ấm tiếng Người năm nao" (Mùa thu Hà Nội – Nguyễn Trưng Dụng) mà còn là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh cao thuần khiết luôn thường trực tình yêu thương vô hạn với Nhân dân "Tình cảm Bác luôn ngập tràn/ Đậm đà thắm thiết mênh mang biển trời" (Người là ánh sáng niềm tin – Phạm Đông). Sự vĩ đại của Người không chỉ là trí tuệ siêu việt làm khiếp đảm quân thù "Đánh cho tan giấc mộng quân xâm lược/ Đến hôm nay chúng chưa hết bàng hoàng" (Viết tiếp bản hùng ca – Bùi Thúy Mùi) mà còn là một lối sống thanh cao, giản dị, khiêm nhường đến vô thường "Áo Ka ki bạc đã sờn/ Đôi dép của Bác có phần mòn thêm" (Nhớ ngày sinh nhật Bác – Phan Thị Hồng Minh).
Cũng chính từ vẻ đẹp cao cả vĩ đại ấy của Người mà các tác giả trong tuyển thơ "Bác Hồ trong trái tim ta" đã luôn thể hiện lòng kính yêu, niềm biết ơn vô hạn với vị cha già của dân tộc Việt Nam. Trước hết là tấm lòng biết ơn làng Sen, ơn mẹ Hoàng Thị Loan, ơn quê hương đã sinh ra Người để Người hồi sinh quê hương từ "đêm trường nô lệ" "Quê hương sen nở thầm thì/ Ơn Người mãi mãi khắc ghi muôn đời/ Tấm lòng Bác rộng biển khơi/ Trọn đời vì nước, rạng ngời niềm tin" (Nhớ ngày sinh nhật Bác – Lê Thị Minh Huệ). Hơn thế là lòng biết ơn những công lao vĩ đại của Người trong công cuộc lãnh đạo Nhân dân chiến đấu chống lại kẻ thù, mang về nền hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Việt Nam "Đánh pháp rồi đánh Mỹ/ Đã thành công Bác ơi/ Đất nước hòa bình rồi/ Dân tự do hạnh phúc/ Con nghẹn ngào nước mắt" (Về quê Bác – Nguyễn Tiến Thung). Với mỗi người dân Vĩnh Phúc thì lòng biết ơn Người được thể hiện qua việc biết ơn những tình cảm thiêng liêng, lớn lao mà Người dành cho Nhân dân Vĩnh Phúc trong tám lần Người về thăm. Thế nên mỗi khi nhìn thấy những thành tựu của quê hương nhà thơ Lưu Thế Quyền lại thấy như được gặp Bác "Giữa bao la trời đất/ Một áng mây trôi/ Cánh đồng xanh ngút mắt/ Dòng sông lững lờ/ Cánh cò trắng chao nghiêng" (Con gặp Bác).
Thật khó có thể liệt kê hết những tình cảm yêu quý mà mỗi người dân Vĩnh Phúc dành cho vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Chỉ biết rằng từ niềm kính yêu vô hạn ấy mỗi cá nhân đã tự "nguyện" với Bác, tự "nguyện" với lòng là sẽ sống, học tập và làm theo Bác suốt đời để xứng đáng với danh xưng con người thời đại Hồ Chí Minh như lúc sinh thời Người hằng mong muốn "Tấm gương đạo đức của Người/ Muôn năm còn để cho đời soi chung.. /Tấm gương đạo đức sáng trong/ Toàn dân toàn Đảng muôn lòng làm theo" . (Tấm gương – Nguyễn Thảo). Với mong ước truyền đến ngọn lửa yêu thương kính trọng lãnh tụ Hồ Chí Minh tới mọi người, nhà thơ Thúy Căn trong bài thơ "Bác Hồ trong trái tim ta" đã khẳng định "Trọn đời vì nước hy sinh/ Tim ta có Bác nguyên lành mai sau" . Đây không chỉ là mong ước mà còn là thông điệp giúp chúng ta thấy được sự bất tử của hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh trong lòng dân tộc Việt Nam.
Có thể thấy tuyển thơ "Bác Hồ trong trái tim ta" có vài bài thơ, ý thơ tuy "không mới" nhưng với sự nỗ lực không ngừng của người sáng tác thì mỗi bài thơ như một thông điệp sáng lấp lánh tấm lòng, tình cảm của người dân Vĩnh Phúc với lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại. Bên cạnh đó không thể phủ nhận ấn phẩm đã để lại một "dư vang" khá sâu đậm, một "dư vị" khá ấn tượng trong lòng người yêu thơ bởi những hiệu ứng tích cực từ tình yêu lãnh tụ, tình yêu quê hương đất nước mà trái tim các văn nghệ sĩ mang lại. Cảm ơn các tác giả đã không ngừng sáng tạo và đóng góp tích cự vào thành công chung của thi tuyển "Bác Hồ trong trái tim ta" được Trung tâm Văn hóa tỉnh Vĩnh Phúc ấn hành lần này!
Yên Lạc là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Vĩnh Phúc. Từ xưa, miền đất địa linh nhân kiệt này được hình thành trong cái nôi của nền văn hóa Đồng Đậu, nền văn minh lúa nước sông Hồng có từ thời Hùng Vương dựng nước. Là vùng đất có truyền thống văn hóa đặc sắc, được bảo tồn, gìn giữ và phát huy trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước và của tỉnh Vĩnh Phúc. Yên Lạc có một hệ thống công trình kiến trúc văn hóa dân gian phong phú gồm đình, đền, chùa, miếu rất nổi tiếng không chỉ trong tỉnh mà còn trên cả nước. Một trong các công trình đó phải kể đến đền Thính, đền Tranh thờ Tản Viên Sơn Thánh, đền Gia Loan thờ Nguyễn Khoan, chùa Biện Sơn bề thế nguy nga ở thị trấn Yên Lạc, đền thờ Lý Phật Tử, đền thờ Bố Cái Đại Vương ở Phương Nha.. Đời sống tinh thần của người dân Yên Lạc phong phú với những làn điệu hát xoan, hát chèo, hát trống quân trong các lễ hội, đình đám hay trong các buổi sinh hoạt tập thể tại các khu dân cư.
Con người Yên Lạc được hun đúc, tôi rèn trong một nền văn hóa đặc sắc có tự lâu đời nên rất thông minh, hiếu học, cần cù sáng tạo, chịu thương chịu khó. Nơi đây nổi tiếng là đất học với danh nho, trạng nguyên Phạm Công Bình được tôn vinh là vị khai khoa cho truyền thống khoa bảng ở Vĩnh Phúc. Đến nay Yên Lạc luôn đứng tốp đầu trong công tác giáo dục đào tạo của tỉnh nhà với nhiều danh hiệu, nhiều giải thưởng từ cấp tỉnh đến cấp quốc gia.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và Nhân dân huyện Yên Lạc đang làm tốt công tác phát triển kinh tế xã hội đặc biệt công tác: Xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao; Xây dựng làng Văn hóa kiểu mẫu.. đưa đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng tăng cao.
Nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần; nâng cao nhận thức, lòng tự hào của Nhân dân về Đất và Người Yên Lạc; được sự nhất trí của Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện Yên Lạc tổ chức Cuộc thi sáng tác tác phẩm nghệ thuật chủ đề "Đất và Người Yên Lạc" ở ba thể loại gồm: Thơ, ca khúc và ảnh nghệ thuật. Cuộc thi diễn ra từ tháng 10/2023 đến hết tháng 04/2024. Sau khi phát động, cuộc thi đã được đông đảo các Văn nghệ sĩ trong huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc và các Hội viên chuyên ngành thơ, nhạc, nhiếp ảnh của Trung ương dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và đi thâm nhập thực tế, từ đó có những sáng tác mới mẻ, thiết thực, bám sát hơi thở cuộc sống đang diễn ra tại địa phương. Đó là những tác phẩm không chỉ tái hiện, làm đẹp hình ảnh Đất và Người Yên Lạc xưa mà còn phản ánh sâu sắc những thành tựu của Đảng bộ và Nhân dân huyện Yên Lạc qua 30 năm tái lập và phát triển; quảng bá hình ảnh thiên nhiên, văn hóa, con người Yên Lạc trong thời kỳ phát triển mới. Đã có 133 bài thơ của 61 nhà thơ; 18 ca khúc của 14 nhạc sĩ; 155 bức ảnh của 8 nhà nhiếp ảnh tham gia cuộc thi.
Ban giám khảo, Ban tổ chức cuộc thi đã chọn ra 60 bài thơ của 52 nhà thơ, 16 bản nhạc của 14 nhạc sĩ, 30 bức ảnh của 6 nhà nhiếp ảnh là các tác phẩm tiêu biểu để in sách. Đây là các sáng tác có chất lượng tốt, tập trung phản ánh đúng chủ đề của cuộc thi, có sức lan tỏa lớn tới cộng đồng và những độc giả yêu quý miền quê Yên Lạc. Các tác phẩm đã tạo sự hấp dẫn, mong muốn được trải nghiệm, khám phá Yên Lạc với du khách trong và ngoài tỉnh; trong nước và quốc tế.
Trong quá trình biên tập để cuốn sách ra đời, có thể còn có những khiếm khuyết khó tránh phải, rất mong nhận được sự góp ý chân thành và mang tính xây dựng của các Văn nghệ sĩ và độc giả.
Khi tâm hồn của người nghệ sĩ rung lên, đồng điệu cùng những đổi thay ngoài đời sống, ấy là khi tác phẩm văn chương ra đời. Một tác phẩm hay mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc là tác phẩm hội đủ các yếu tố vừa hài hòa về hình thức nghệ thuật, vừa lắng đọng, lan tỏa những giá trị tốt đẹp về nội dung. Nội dung phản ánh càng đa chiều, sâu sắc về hiện thực đời sống càng mang lại giá trị nhân văn cao đẹp. Với cảm quan nhạy bén, khả năng cảm nhận tinh tế và ý thức sáng tạo nghệ thuật hết sức nghiêm túc, nhà thơ Phùng Quang Ngọc - Hội viên Hội văn học nghệ thuật Vĩnh Phúc đã cho ra đời đứa con tinh thần thứ tư của mình với một phong cách rất riêng, rất đáng để thưởng thức.
Với hơn 70 thi phẩm trong tập thơ có cái tên rất dễ thương "Dịu dàng ơi.." nhà thơ đã gợi ra cho người đọc một sự tò mò, một ý tưởng muốn khám phá và muốn được đi vào thế giới của cuốn sách ngay khi cầm trên tay tập thơ này. Như chúng ta đã biết, khoảng thời gian từ cuối năm 2019 đến nay (đầu năm 201), đại dịc SARS- CoV2 bắt đầu từ Vũ Hán, Trung Quốc đã làm cả thế giới rơi vào thảm họa. Diễn biến của dịch bệnh ngày càng phức tạp và khó lường. Đất nước Việt Nam của chúng ta thật tự hào là quốc gia có khả năng kiểm soát dịch bệnh vào loại tốt nhất thế giới. Để có được những kỳ tích như vậy thì công lao của đội ngũ y, bác sỹ là vô cùng to lớn. Hình ảnh những y, bác sĩ với tấm áo Bluse trắng "Chiến sĩ áo trắng" không quản ngại gian lao vất vả, ngày đêm căng hết sức mình để mang lại bình yên cho nhân dân nơi tuyến đầu chống dịch đã là nguồn cảm hứng vô tận để nhà thơ Phùng Quang Ngọc viết lên những câu thơ thật "dịu dàng", ngợi ca vẻ đẹp vô cùng thanh khiết và cao cả của những người mà một thời ông gọi là "đồng nghiệp thân yêu" của mình. Thật xúc động biết bao với hình ảnh một nữ bác sĩ giống như một "chiến binh" lao vào tâm dịch: "Ở dịch đang nguy hiểm/Phải đánh chặn, bao vây/Là" chiến binh "chiến thắng/Em sẵn sàng xung phong" . (Dịu dàng ơi) Nhưng em lại là một chiến binh dịu dàng với tâm hồn đẹp như một câu quan họ làm say đắm lòng người: "Dịu dàng ơi Vĩnh Phúc/Giặc đến đánh chặn ngay/Giặc tanlàm nghĩa tình/Quan họ lưu luyến mãi". Vẻ đẹp tâm hồn của những con người nơi tuyến đầu chống Covid ở Vĩnh Phúc qua thơ của Phùng Quang Ngọc tuyệt vời và đáng ngợi ca như thế đó.
Ngoài đề tài rất thời sự ở trên ta còn thấy trong "Dịu dàng ơi" các bài thơ viết về, viết cho thiếu nhi rất ngộ nghĩnh và đáng yêu của nhà thơ. Ở mảng đề tài này ta bắt gặp một Phùng Quang Ngọc tuy đã ngoại thất tuần nhưng ông đã để tâm hồn mình quay trở về với những rung cảm không thể ngây thơ hơn được nữa. Những "Phần bé", "Hoa tay", "Gấu đi nhà trẻ", "Gáu xem rối nước", "Thời trang của bé" hay "Sáo không học vẹt".. là những bài thơ đầy ắp vẻ trong trẻo, hồn nhiên, ngày thơ, tinh nghịch của thế giới tuổi thơ. Nếu không phải là một người yêu trẻ thơ và có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế cao độ thì nhà thơ đã không thể nói hay về thế giới tuổi thơ như vậy.
Đánh dấu những thành công của "Dịu dàng ơi" không chỉ là nội dung phản ánh mà còn là hình thức nghệ thuật được thể hiện trong mỗi tác phẩm. Nhà thơ Phùng Quang Ngọc đã rất thành công với các thể thơ 4 chữ, 5 chữ và lục bát. Có thể nói thơ 4 chữ, 5 chữ là những thể thơ với số âm tiết ngắn, nhịp thơ nhanh tạo những cung bậc cảm xúc khỏe, mạnh, rứt khoát và nhịp điệu rồn rập. Thể thơ này phù hợp với mảng thơ thiếu nhi Một trong những sở trường của ông. Hệ thống hình ảnh trong tập thơ được tác giả chắt lọc, chọn lựa khổ kỹ nên đó là những hình ảnh hết sức tiêu biểu mang lại khả năng gợi mở tương đối sâu sắc cho độc giả. Hình ảnh chiếc khẩu trang là vật dụng hàng ngày rất quen thuộc với mọi người, nhưng khi đi vào thơ của ông ta thấy nó giống như một vũ khí quan trọng để chúng ta có thể chiến thắng Covid: "Người người cùng đeo khẩu trang/Để con Covid khỏi truyền sang nhau/Khẩu trang trào/Không đeo, xử phạt đừng kêu oan đâu phải phong tiền" (Khẩu trang là mốt). Hay như hình ảnh "ngọn lửa" là một hình ảnh quen thuộc nhưng lại được nhà thơ gọi là "Chú nhốt" vì ngọn lửa này khi không được quản lý tốt, xổng ra mang lại điều không tốt đẹp cho cuộc sống của con người: "Các chủ công an/Xông vào dập tắt/Bởi thế cho nên/Chú thường phải" nhốt "
Bên cạnh những thành công về việc sử dụng hình ảnh, nhà thơ còn có khả năng sử dụng từ ngữ khá trau chuốt mượt mà. Các từ ngữ chuyên ngành, mà cụ thể là trong ngành y đã được ông đan cài, chêm xen một cách khéo léo trong các bài thơ làm cho những thuật ngữ của ngành y trở nên mềm mại và dễ tiếp nhận hơn rất nhiều. Cũng giống như những vần thơ viết về ngành y, các bài thơ viết cho thiếu nhi ông cũng thường sử dụng những từ ngữ rất trong sáng, mang đậm sắc thái biểu cảm của lứa tuổi này. Trong bài thơ" Ở nhà "tác giả đã làm cho người đọc cảm thấy hết sức bất ngờ với các từ ngữ thật ngộ nghĩnh đáng yêu khi nhà thơ diễn tả tình cảm xúc của bé" Gấu "khi phải ở nhà cùng ông bà cha mẹ tránh dịch Covid. Gấu tự nguyện, xung làm những việc rất là ý nghĩa như: Vẽ, đá bóng, rửa tay, học tập, vui hát.. Có lẽ phải có một tâm hồn rất nhân hậu, một cảm quan nghệ sĩ hết sức nhạy cảm thì nhà thơ mới có những lời thơ đẹp và dung dị đến vậy.
Hãy đọc, hãy cảm nhận và chiêm nghiệm những vần thơ vừa mang tính thể sự, vừa mang tính nghệ thuật trong tập" Dịu dàng ơi "của nhà thơ Phùng Quang Ngọc để thấy được một tâm hồn nghệ sĩ rất đỗi nhạy cảm với cuộc đời, với tình người trong cuộc sống này. Chúng ta cùng chúc cho tầm hồn nghệ sĩ của nhà thơ Phùng Quang Ngọc ngày càng thăng hoa để có thêm nhiều tác phẩm hay hơn nữa, làm đẹp thêm cho vườn thơ đầy hương sắc không chỉ của hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phúc trong tương lai.
28. TRẮNG ĐÊM CỦA VŨ THẾ ĐƯỜNG – NHỮNG VẦN THƠ GIỮA HỒI ỨC VÀ ÁNH SÁNG
Giữa những giao thoa không ngừng của thơ ca đương đại, nơi những tiếng nói cá nhân đang vươn mình tìm vị thế trong một thế giới rộng lớn, thì thơ của Vũ Thế Đường – với tập Trắng Đêm – lại là một hiện diện khác: Trầm mặc, không ồn ào, nhưng thăm thẳm. Đó là tiếng vọng từ một tâm hồn từng trải, từ những năm tháng khói lửa, từ những trang giáo án, và cuối cùng, là từ những đêm trắng thao thức trong tâm thế người thi sĩ cuối mùa.
1. Gió từ chiến trường xưa thổi về trang giấy
Vũ Thế Đường không che giấu gì về xuất thân của mình: Người lính – người thầy – và người làm thơ. Ba vai đó hòa làm một trong thơ ông. Ngay bài mở đầu tập thơ – "Đôi dòng buồn vui" – ông đã như một người kể chuyện chân thực, mộc mạc mà đầy tự trọng:
"Ơn nhờ Giời, Phật, tổ tiên
Ơn nhờ đồng đội còn nguyên thân này"
(tr. 1 )
Không cần tô son điểm phấn, thơ ông giản dị mà lay động. Người đọc như nghe được tiếng thở dài của một người sống sót, không phải vì may mắn, mà vì phải tiếp tục mang ký ức của đồng đội:
"Giặc tan cây súng rời tay
Đất nghèo khát chữ nhận ngay tôi về"
Từ chiến trường, ông bước vào lớp học. Từ khẩu súng, ông cầm lấy phấn trắng. Từ bom đạn, ông chuyển mình sang gieo chữ. Và hành trình đó trở thành chất liệu của thơ – không cần vĩ đại hóa, chỉ cần chân thành.
2. Ký ức không tắt – tình người không phai
Rất nhiều bài thơ trong Trắng Đêm là sự tái hiện – không phải tái hiện cảnh, mà là hồi tưởng tâm cảm. Trong "Chạm chén cạn chai" (tr. 4), bài thơ như một bài tế sống dành cho những đồng đội đã hy sinh, bằng giọng rượu cay đắng:
"Tao biết chúng mày mãi trẻ
Nhìn nhau.. nước mắt vơi đầy"
Có một thứ chân thành đến mức người đọc không cần chia sẻ cùng một ký ức vẫn thấy đau. Đó là cảm xúc được chưng cất qua năm tháng, là nước mắt lặn sâu dưới dáng thơ không trang trí.
3. Bản lĩnh của người lính – nhịp đập của người thầy
Cái hay trong thơ Vũ Thế Đường là sự giao hòa giữa những thế giới tưởng như rất xa nhau. Trong "Dáng đi ngày ấy" (tr. 2), người lính trở thành người thầy, và bước đi trở thành biểu tượng sống của lý tưởng giáo dục:
"Chẳng biết tự khi nào cả lớp chăm ngoan
Cuộc sống bộn bề bao nỗi lo toan
Em vẫn đến với thầy mỗi khi tháng bẩy"
Thơ ông không ngợi ca bản thân – mà lại làm cho độc giả ngợi ca ông. Cái lý tưởng "trồng người" trong thơ không sáo rỗng, mà có gốc gác từ chiến trường, có bóng dáng của người thầy cụ thể, và có tác động thực sự đến học trò. Thơ từ trải nghiệm mà ra, không từ lý thuyết mà có.
4. Ngôn ngữ bình dị – cảm xúc sâu lắng
Không phải thi sĩ nào cũng làm chủ được chất "giản dị" trong thơ. Vũ Thế Đường làm được điều đó. Những câu thơ của ông, như lời tâm sự của một người cha trong đêm, nhẹ nhàng mà lắng sâu:
"Túi thơ bầu rượu đầy vơi vẫn nồng
Tìm hoa làm mật thân Ong
Phận Tằm rút ruột cho nong Kén vàng"
Đây là hình ảnh của một người từng trải, hiểu đời, hiểu mình. Thơ ông không cần hình ảnh xa vời hay kỹ thuật cầu kỳ – ông chắt lọc hình ảnh từ cuộc sống hằng ngày, từ nỗi nhọc nhằn đến niềm vui nhỏ bé, từ trái tim người lính đến đôi mắt người thầy.
5. Giấc mộng về đất nước – tình yêu lặng thầm với biển đảo
"Thương nhớ Trường Sa" (tr. 5) là một bài thơ rất đặc biệt. Không phô trương khẩu hiệu, không làm thơ như một tuyên ngôn, Vũ Thế Đường chọn lối diễn đạt của nỗi nhớ âm thầm:
"Mẹ đất liền thương nhớ lắm Trường Sa.."
Chỉ một câu mở đầu, đã làm người đọc thấy trĩu lòng. Trong thời đại mà thơ yêu nước đôi khi rơi vào lối mòn ngợi ca sáo rỗng, thì bài thơ này là một lời thủ thỉ thực sự – một nỗi nhớ, một niềm thương, một khát khao giữ gìn không lời.
6. "Trắng đêm" – một tập thơ sáng ngời bóng tối
Nhan đề Trắng Đêm là một sáng tạo giàu sức gợi. Đó không chỉ là thời gian – đêm – mà còn là trạng thái – trắng. Trắng không phải vì sáng, mà vì thao thức, vì tỉnh thức, vì sống trọn vẹn với ký ức và hiện tại.
Tập thơ này là tập hợp những đêm trắng trong đời Vũ Thế Đường: Đêm giữa rừng Trường Sơn, đêm bên bàn giáo án, đêm bên mộ đồng đội, đêm giữa trái tim người già thao thức. Và những đêm đó, ông không ngủ – ông viết.
Kết luận: Vũ Thế Đường – nhà thơ của ký ức hóa thành ánh sáng
Tập thơ Trắng Đêm không phải là một đỉnh cao nghệ thuật theo kiểu kỹ thuật thi ca hiện đại. Nhưng đó là một đỉnh cao cảm xúc, một kho báu ký ức, một nén tâm hương cho những điều thiêng liêng mà đời sống thường ngày đã lãng quên.
Trong nền thơ ca đương đại, nơi cái mới thường được ưu tiên hơn cái sâu, nơi kỹ thuật đôi khi làm lu mờ cảm xúc, thì Vũ Thế Đường – với Trắng Đêm – nhắc ta về một điều đơn giản: Thơ là để sống cùng, nhớ lại, và thương lấy.
Ông không cần ẩn dụ lớn, vì chính cuộc đời đã là hình ảnh thơ. Ông không cần kỹ xảo ngôn từ, vì chính sự im lặng của đêm trắng đã là nhạc tính.
Trắng Đêm là tập thơ không dành để đọc lướt qua – mà để gấp lại rồi nghĩ. Như người lính xưa, sau trận đánh, nhìn lại đồng đội đã khuất và khẽ nhủ lòng: "Tao sẽ viết, thay chúng mày kể lại.."
29. "Những Miền Trăng" – Vầng trăng nội cảm trong thi giới Nguyễn Cảnh Tuấn
Trong hành trình tìm kiếm biểu tượng thi ca, có lẽ "trăng" là một trong những hình ảnh vừa phổ quát, vừa riêng tư nhất của thi sĩ. Trăng là ánh sáng – cũng là bóng tối; là cái đẹp bất tận – cũng là nỗi buồn vô hạn; là thứ ánh sáng rót vào lòng người, để soi chiếu cõi thẳm sâu nhất của tâm hồn. Ở tập thơ "Những Miền Trăng", Nguyễn Cảnh Tuấn không chỉ ngợi ca vẻ đẹp tự nhiên của vầng trăng mà còn biến trăng thành bản đồ cảm xúc, nơi ghi lại những vùng ký ức, miền suy tưởng, những đoạn đời đi qua không thể quên.
1. Một thi sĩ của cảm thức nội giới
Nguyễn Cảnh Tuấn là nhà thơ của "cái bên trong". Ông không mạo hiểm với những tuyên ngôn lớn lao, không chạy theo trào lưu, cũng không nệ cổ để làm sang cho lời thơ. Thơ ông lặng, mà sâu. Mộc mạc, mà ám ảnh. Giản dị, mà chất chứa bao lớp tầng ẩn dụ. Ở đó, người đọc thấy được một tâm hồn luôn chuyển động, luôn thao thức với thời gian, với thân phận, với cuộc đời.
"Những Miền Trăng" là tuyển lựa những rung cảm tinh tế nhất, là những lần ông đối thoại với chính mình, và với vũ trụ bao la. Có thể nói,đây là một tập thơ chiêm niệm, nhưng không khô khan. Nó vẫn mang đầy chất trữ tình, với âm hưởng cổ điển được làm mới bằng một tinh thần nhân văn hiện đại.
2. Vầng trăng như một địa tầng biểu tượng
Ngay từ nhan đề, "Những Miền Trăng" đã gợi mở một thế giới thi ca đa lớp, nơi trăng không chỉ là một thực thể, mà là một không gian – một miền cư trú của ký ức, một vùng địa lý của cảm xúc. Có "trăng đầu nguồn", có "trăng lưng chừng", có "trăng cuối bãi", có trăng cũ người xưa, có trăng lẻ loi giữa bến đời.
Trăng hiện lên khi "chiều bảng lảng", khi "biển trôi hoài một vầng sương mờ", hay "vầng trăng treo giữa vô cùng". Mỗi bài thơ là một lát cắt không gian – thời gian, nơi trăng trở thành nhân vật trung tâm đối thoại với cái tôi trữ tình. Không phải ánh trăng thiên nhiên, mà là ánh trăng tâm lý, ánh trăng triết học, ánh trăng của người từng trải.
3. Thơ như một dòng chảy của ký ức và sự sống
Một trong những điểm nổi bật của tập thơ này là tính hồi cố và nội quan . Rất nhiều bài là những cuộc trở về: Trở về tuổi thơ, trở về quê mẹ, trở về bến nước xưa, trở về miền xa lắc đã bị thời gian vùi lấp. Trăng – vì thế – trở thành người chứng nhân im lặng của những đoạn đời:
"Trăng còn đứng ở bên sông / Còn tôi đứng giữa mênh mông phận người.."
Ánh trăng là thứ duy nhất không thay đổi, trong khi con người đổi thay. Nhưng chính vì thế, nó trở thành biểu tượng cho sự vĩnh cửu của cái đẹp, cái nghĩa tình, cái nhân sinh sâu thẳm trong đời sống Việt.
Trong một số bài khác, trăng gắn với nỗi cô đơn hiện sinh:
"Đêm nay trăng trắng không lời / Ta ngồi như chiếc bóng rơi trong mình.."
Ở đây, thơ Nguyễn Cảnh Tuấn không còn chỉ là ký ức, mà là hiện hữu. Một hiện hữu mong manh, mỏi mòn, ngẫm ngợi. Thơ ông không gào thét, mà thấm dần, như ánh trăng ngấm vào da thịt, ngấm vào tim gan, lâu rồi mới thấy xót.
4. Ngôn ngữ thơ: Trong sáng, lắng dịu và tinh luyện
Ngôn ngữ của Nguyễn Cảnh Tuấn tránh mọi cầu kỳ, mỹ miều không cần thiết . Ông không dùng những ngôn từ thời thượng hay phức tạp, mà lựa chọn một giọng điệu rất gần với lời nói – nhưng luôn mang tính biểu tượng. Mỗi bài thơ như một lời thủ thỉ, một tiếng gọi vọng, một câu tâm sự nói ra trong đêm.
Ở nhiều bài, nhịp thơ rất nhẹ, gần như không có sự "gồng", không có lực đẩy mạnh – nhưng chính sự nhẹ đó lại làm cho thơ ông có chiều sâu. Nó giống như tiếng bước chân ai đi trong đêm, rất nhỏ, nhưng khiến ta giật mình khi lắng nghe.
Có thể thấy sự ảnh hưởng sâu đậm của dòng thơ truyền thống Việt – với sự tiết chế, ngụ ý, lặng lẽ – được Nguyễn Cảnh Tuấn chuyển hóa vào thơ hiện đại, không gượng gạo, không nhái cổ, mà đầy sáng tạo.
5. Những bài thơ hay như những ngọn đèn trong đêm
Trong số các bài thơ của tập, có thể kể đến một số bài nổi bật như:
"Trăng trong giếng cũ": Nơi hồi tưởng tuổi thơ và mẹ hiện về như ánh trăng soi đáy lòng.
"Miền trăng xa lắc": Một khúc hát của người lưu lạc, không quên gốc rễ.
"Gió và trăng": Bài thơ có tính triết lý nhẹ nhàng về sự sống, thời gian, vô thường.
"Trăng cuối mùa": Nơi ông nhận ra trăng vẫn còn, nhưng mùa đã vơi. Ẩn dụ về tuổi già, thời gian và cái đẹp đang rời xa.
Tất cả các bài đềukhông dài dòng, không phô trương – nhưng lại có sức chạm sâu vào người đọc, như ánh trăng len lỏi qua từng kẽ lá, từng mạch máu cảm xúc.
6. Một tập thơ của người từng trải, dành cho những ai đã sống
Nguyễn Cảnh Tuấn không phải là thi sĩ trẻ, và thơ ông cũng không phải viết cho những ai chỉ muốn đọc thơ để "thích". Thơ ông là thơ đểlắng nghe và suy nghiệm, để gấp lại vẫn còn một dư vị. Những ai đã trải qua những mất mát, những hồi sinh, những chuyến đi và cả những lần muốn quay về – sẽ thấy mình trong thơ ông.
"Những Miền Trăng" vì vậy không chỉ là một tập thơ, mà làmột chặng đường tâm linh. Đọc nó là để đi cùng ông qua những miền đất, những miền trăng đã in dấu lòng người, in cả vào thi ca.
Thay lời kết
Giữa nhịp sống gấp gáp hôm nay, thơ đôi khi bị xem là thứ xa xỉ. Nhưng "Những Miền Trăng" nhắc nhở ta rằng: Thơ không chết – chỉ là nó đang lặng đi, chờ một người biết lắng nghe. Tập thơ của Nguyễn Cảnh Tuấn chính là lời gọi về sự lắng nghe đó – một ánh trăng cho lòng ta neo lại, giữa bao biến động của đời sống.
Lê Gia Hoài
NHỮNG MIỀN TRĂNG
Tuyển thơ của Nguyễn Cảnh Tuấn
LỜI ĐẦU SÁCH
"Về miền trăng" gồm 80 bài thơ được lấy từ 250 bài thơ đã được in thành sách, chưa đưa vào sách (đã đăng báo, tạp chí về văn học). Trọng tâm chủ đề như tên tập thơ, món quà mừng tuổi 80 của tác giả.
"Về miền trăng" được hoàn thiện có sự động viên của các nhà thơ, nhà báo, bạn bè văn chương, đặc biệt sự giúp đỡ của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc.
Nội dung tập thơ khó tránh khỏi trùng lặp, sai sót, mong bạn đọc nhất là các thi hữu có dịp đã đọc các tập thơ của tác giả đón nhận lời động viên góp ý.
Nguyễn Cảnh Tuấn
NGÕ TRĂNG
(Nxb. Văn học, tháng 5 - 2000)
NGÕ TRĂNG
(Nhớ Hoàng Hữu)
Ngõ trăng (*) đặt giữa làng trăng
Tỏ mờ màu sắc dối dăng điều gì
Nếp khăn mỏ quạ nhu mì
Thoảng thơm hương cỏ hay vị rạ vương
Ngõ trăng tĩnh lặng trên tường
Làng trăng chao đảo lần đường vượt qua
Ngõ trăng tim ấm cõi xa
Tôi từ bùn đất nhận ra hồn làng.
5/12/1981
* Tên một ký họa của H. H (tác giả mất vì bệnh đau tim).
ĐỒI
Gió bấc lùa sỏi lạnh
Đồi rám màu hoàng hôn
Đến phân bò cũng hiếm
Tiếng cuốc mài vẹt mòn
Thoảng hương gì.. rân rân
Chao ôi! Mầm cỏ biếc
Mới hay đồi trẻ trung
E lòng vội tê buốt.
Tháng 10 - 1886
BÔNG LAU
Vườn đồi biêng biếc màu cây lá
Trời thu buông lửng một bông lau
Tri âm tạo ngõ. Lòng run rẩy
Sợ cánh hoa rơi buốt mái đầu.
CHIỀU
Đến ngay cả đại ngàn
Giờ cũng không còn thực
Sau màn mây lưu lạc
Tiếng đa đa vẹt mòn
Và mênh mông cánh đồng
Sương giăng mờ loang loáng
Đòn gánh mòn mưa nắng
Thoảng lại chút bùn tươi
Hoàng hôn ngỡ sông trôi
Cánh buồm lạc màu nắng
Lá quãng quờ trời xám
Hồn tôi cứ bồng bềnh
Trụ neo buổi hoàng hôn
Dáng mẹ tay cời lửa
Gương mặt điềm đạm quá
Chừng.. tan biến bão giông
Ôi ngọn lửa rạ rơm
Nối hai bờ dòng nắng.
11/ 1994
THÁC
Sóng bện thừng
mài mòn vách đá
hơi bung trắng lóa
nhớ mùa hoa lau
Chốn hoang sơ
thác gào!
Tôi như con thuyền độc mộc
cuốn theo cơn lốc trời mây
rừng cây
và ngôi sao không trọn ven
Ngày con thuyền cô đơn cập bến
bên mi cát mịn màng
sóng vỗ miên man
chợt nhận ra vết phù sa pha tạp
phủ lên vân hoang sơ mãnh liệt
Trái tim rừng thổn thức
nỗi nhớ trắng ngang trời
Thác!
Thác!
Tam Đảo mùa mưa 7/ 1979
PHỦ ĐOAN
Cây tựa vào đồi, mây tựa trời cao
Sóng tựa bãi non sáng màu ráng đỏ
Liu riu khói sương, thu vàng mờ tỏ
Tôi tựa vào..
Nỗi thương nhớ Phủ Đoan.
Đoan Hùng 3/ 1995
CHỀU
Đến ngay cả đại ngàn
Giờ cũng khôg còn thực
Sau màn mây lưu lạc
Tiếng đa đa vẹt mòn
Và mênh mông cánh buồm
Sương giăng mờ loang loáng
Đón áng mây mưa nắng
Thoảng lại chút bùn tươi
Hoàng hôn ngỡ sông trôi
Cánh buồm lạc màu nắng
Lá quãng quờ trời xám
Hồn tôi cứ bồng bềnh
Trụ leo buổi hoàng hôn
Dáng mẹ tay cời lửa
Chừng tan biến bão giông
Ôi ngọn lửa rạ thơm
Nối hai bờ dòng nắng.
CAO BẰNG
Nhớ Anh Nguyễn Thái Vận
Ai thở phào xe qua bốn đèo
Cao Bằng núi: Thu mờ gương cửa kính
Cao bằng hương: Đèo mồ côi nấm mộ
Cao Bằng chim: Tiếng hót lượn trong lồng
Rượu chỉ nửa ly, em mời chiều đông
Đủ say điều bâng quơ tràn nhịp thở
Dấu chân nai bơ vơ mùa lá đỏ
Bước chân em sấp ngửa trước hoàng hôn
Đã mười năm, đèo Khau Cút sương giăng
Đồi thì lặng, gió lùa cây thổn thức
Chất miền xuôi hòa men rừng cổ tích
Ngẩn ngơ buồn lớp lá, trẻ ngồi thưa
Anh ào qua như bóng nắng trước hiên nhà
Đủ gom nhặt những sắc màu thổ cẩm
Đủ thao thức tiếng khèn ai tìm bạn
Rất gần em.. là lạ ánh mắt em
Có một Cao Băng anh the thắt nhịp tim
Rươu tiễn đưa em ép nài chi nữa
Anh chếnh choáng mang về phần đông giá
Để Cao Bằng ấm áp một phần em.
Cao Bằng 7/ 1997
NHỚ LONG
Giờ này Long ở nơi đâu
với đàn ong đi tìm mật
sông Vàng ngập ngụa con nước
hẳn đôi nạng ướt suốt ngày
mắt bão chuyển ngược hướng Tây
dây tăng néo chiều gió xoáy
củi trôi đầy sông Phó Đáy
lại tin gió chuyển hướng Tây
thương ong thương Long đêm ngày..
Sân trường lưa thưa tiếng trẻ
ca du trút lá vàng thềm
trẻ con lên đồi nhặt củi
bao tải vắt dài sống lưng
chúng đến nơi đặt đõ ong
nơi Long thường hay quây mật
mình nghe chúng khe khẽ hát
bài hát Long dạy hôm nào
rù rì tiếng ong thấp cao
trong đêm khoan vào nỗi nhớ
Mình trở lại căn phòng nhỏ
chiếu một vắt hờ dây phơi
sốt rừng bạn đường dẳng dai
vết thương Nam Lào để lại
chăn chiên Long chùm kín đầu
liếp thưa gió lùa tê tái
đôi nạng in miền đất mới
Long đưa ong đến mùa hoa
đồi cao sỏi thấm gan gà
trảng cát chang chang nắng lửa
nạng gỗ bám vào vách đá
vị ngọt cho đời êm ả
từ hoa đâu dễ bình yên!
Dáng Long lặng lẽ bao miền
nhập nhòa đời thường cát bụi
mùa hoa bạch đàn năm mới
Mình còn có dịp gặp Long?
10/ 1980
MỘT THOÁNG YÊN LẬP
Đại ngàn chợt hóa hư vô
Trường lưng vách núi, quãng quờ lau reo
Học trò thấp thoáng qua đèo
Lung linh vòng bạc, xanh veo trăng ngàn
Đốt hương xua muỗi bâu màn
Vơi vơi cơn sốt rẽ ngang chuyện đời
Đồng lương toan tính chia bơi
Lần trang giáo án khơi vơi bấc đèn
Lớp mà đông tiếng trẻ em
Mái tranh cửa liếp yên yên lốc đèo
Bản cao ấm khói lam chiều
Câu văn có cớ cắm neo hồn người
Mắt nhòa theo hạt sương rơi
Mắt nhòa hơi ấm sắn lùi trao nhau
Táu, lim.. trôi dạt về đâu
Thương cây, gót trẻ rát đau sỏi đồi
Lặng thầm đón sợi tóc rơi
Nửa đen, nửa trắng buồn vui tháng ngày
Rừng Yên tay ấm bàn tay
Sẻ chia sương lạnh, thoảng gầy mắt em.
Yên Lập, 11/1994
BONG BÓNG TRONG CÔNG VIÊN
Nhiều trò chơi của trẻ con trong công viên
Tôi xa lạ chưa một lần được biết
Chợt nhớ lại hình hài tuổi thơ gầy đét
Với trò chơi thổi bong bóng xà phòng
Ống thổi hình như hay dùng để hút nước cam
Mảnh lon bia đựng xà phòng màu hồng nhạt
Mắt đứa trẻ đong đầy hồi hộp
Bóng bay lúc đỏ, lúc xanh
Những quả bóng bất ngờ bay, cũng bất ngờ vỡ tan
Và đứa trẻ cứ đê mê thổi
Vũ trụ trong mắt em lộng lẫy
Dung dăng những quả bóng bay
Những quả bóng đã tan vào cỏ cây
Gương mặt trẻ đỏ bừng ráng thổi
Ánh mắt chợt buồn rười rưỡi
Soi vào ống nhựa trong
Tôi đã từng thất vọng như em
Trước nghịch cảnh xà phòng đã cạn
Ngưỡng cửa tuổi thơ mang nỗi buồn đi qua
Và gặp điều may mắn
Trở thành thày giáo dạy các em
Đứa trẻ bất thần tựa gốc cây đồi mắt lim dim
Em đã ngủ hay mơ hình bong bóng
Nỗi khát khao được một lần trách mắng
Em thổi bong bóng xà phòng
Trong giờ lên lớp của tôi.
10/ 1993
VÔ ĐỀ
Chưa đưa ông Táo về trời
Gẫy tre chạm cửa ngỏ lời ban ơn
Thôi đừng bày tỏ nguồn cơn
Bão giông quê bạn tôi còn lạ đâu
Lá rách đùm lá rách nhàu
Dương, âm ngày Tết..
Bạn mau nẻo về.
Giáp Tết, 1996
NHỚ
Chợ tan, người khuất rừng xa
Trên tay nồng ấm bông hoa hải đường
Gió đông bảng lảng hơi sương
Sắc hoa thương núi, mùi hương nhớ người.
BỨC KÝ HỌA VÀ MÙA SIM
Giá vẽ gầy gió nắng chênh vênh
Suối say lả, đồi quang hun hút
Tờ giấy nhỏ, gam màu hẫng hụt
Đồi và tôi ram rám sống lưng
Chợt từ đâu đàn trẻ đến quây quần
Tóc rễ tre, lưng trần rỉ đất
Mắt nhìn tôi vô tư đề đạt
Chú vẽ tranh cháu biếu sim rừng
Chú nhớ vẽ hầm mỏ, phố phường
Nơi bọn cháu chưa lần được biết
Bơ sim chín - bức tranh - quy ước
Lòng già thêm sòng phẳng trẻ thơ
Trẻ tản xa bói quả cuối mùa
Tôi trễ nải đường mòn quen thuộc
Tranh xếp đầy trẻ thơ lẩn khuất
Đồi nắng chang thưa bóng sim già
Trẻ ùa về áo dính thịt da
Đứa tập tễnh, đầy bơ sim chín
Cuộc đổi trao trẻ con âu yếm
Quả cuối mùa ran rát tay tôi
Trẻ nhận tranh, thúc trâu đùa chơi
Các thiên thần ánh mắt rạng rỡ
Khoảng bóng râm hiếm hoi tán cọ
Đủ dịu tôi - giá vẽ trưa nồng
Giá nghệ thuật ai thiệt ai hơn
Lòng quặn thắt bức tranh vẽ dở
Bụi sim già ôm đất khắc khổ
Mai trẻ còn tìm đến thăm cây?
10/ 1994
Ở BẢN SÁN DÌU
Mõ trâu gõ căng dốc nắng
Thông reo nở trắng mây ngàn
Nhà sàn tựa gùi treo núi
Êm đềm khói bếp mỏng tang
Hỏi trẻ - đang học ở trường
Người già lên đồi trồng vải
Hỏi em.. thoảng mùi hoa bưởi
Đại ngàn lắm nẻo tìm đâu?
Thác Bạc dội trắng suối sâu
Chợt gặp cầu vồng qua núi
Màu nào lẫn vào thớ vải
Vòng bạc tròn ngực long lanh
Màu nào kết nên chỉ đỏ
Xa nhau nhớ vị trám thơm
Rung rinh bông hoa hải đường
Gió núi hay tay em với
Nửa nhớ, nửa e hờn dỗi
(Chỉ thắm em có mang theo)
Giã từ bản làng xanh veo
Cháy đỏ một bông hoa núi
12/ 1999
RƯỢU CẦN
Rượu cần có dịp mời nhau
Uốn cong cần trúc nên câu ngỏ lời
Chẳng lo bình cạn rượu vơi
Chỉ e lòng chẳng say nơi suối đàn
Uống cho nghiêng ngả trăng ngàn
Uống quên tiếng mọt xiên ngang vách nhà
Rượu suông ta lại ép ta
Quên đi cơn sốt nước da ngả màu
Ở đây báo cũ chuyền nhau
Lũ dâng vơi bát canh rau, sắn mài
Cô, trò lam lũ chung vai
Mái tranh rộn tiếng học bài sớm hôm
Trời sao mờ tỏ hoàng hôn
Đại ngàn còm cõi, lửa nương đỏ bầm
Ở đây nặng nghĩa tri âm
Mong chi cái chữ nở mầm đơm hoa.
Mường Lống (miền Tây Nghệ An), 7/ 1997
VÔ ĐỀ
Giá mà tuổi ngựa kìm cương
Vó in đậm nét nắng sương quê đồi
Giá mà chẳng vụng tỏ lời
Rộng trang giáo án chia vui đèn dầu
Gặp nhau bụi phấn mái đầu
Nhớ về kỷ niệm, chẳng đâu.. giá mà!
11/ 2004
CHỢ VINH
Rất nhiều hoa giấy đào ăn quả
Tranh tết dân gian lợn với gà
Chợ Vinh bừng sáng màu cao áp
Chừng gió giêng hai chợt thoảng qua.
Vinh, 11/ 1980
NHỮNG ĐỨA TRẺ Ở ĐÈO NGANG
Khoảnh khắc đỉnh Đèo Ngang
Chừng vợi tan mỏi mệt
Đồng cảm với thiên nhiên
Mây ngàn lồng biển biếc
Chú mua cháu bơ sim
Ổi rừng giờ thơm ngọt
Lời rao chuỗi lưng trần
Gió lào căng bỏng rộp
Những đứa trẻ gầy đét
Sống nhờ núi, bám đường
Lời rao hòa cát bụi
Đồng tiền cũ nhẹ tênh
Một đỉnh đèo tự vượt
Sức lực tuổi năm mươi
Dốc đời.. chưa lường được
Cây non mọc chơi vơi.
Đồng Hới, ngày 5/6/1993
TRONG MƠ
Xoa đầu gỡ tóc dỗ con
Mẹ sang bên ngoại vài hôm giỗ bà
Tay cha phẩy quạt mo già
Nước mắt đòi mẹ.. mặn mà đến nay
Chợt về dáng mẹ mảnh mai
- Con tôi già sớm, còn dài đường lo
Tan mơ bóng mẹ xa mờ
Bên con - cháu nhỏ tay quờ lần hơi
Nỗi đau biệt cách đôi nơi
Bến Lường cha nghỉ - Đồng Nai mẹ nằm
Hai dòng sữa mát cõi âm
Mong chi đều đặn vỗ thầm hồn con.
10/ 1993
ĐÊM NGỦ NHỜ
Con vẫn nhớ căn nhà tứ trụ
Bốn cột lim, gỗ mít làm xà
Mọt kéo gỗ mù mờ đèn dầu lạc
Nơi mẹ nắm cửa liếp phên che
Con nhớ ngày đón mẹ về Vinh
Người thắp hương xin cha tạ lỗi
Nhà tươi cành cháu đông nội ngoại
Thương phận cha cảnh vắng lúc đi xa
Đêm ngủ nhờ nhà của chính ta
Kỷ niệm quen hơi người thì lạ
Hòa tiếng mọt đếm niềm thương nhớ
Mắt thâm quầng kỷ niệm tuổi thơ
Ngọn gió Lào lùa mái ngói ta
Cây nhãn lồng đàn dơi đập cánh
Gà gáy chuyền mẹ ngồi thầm lặng
Ngọn lửa rơm nồng vị ngô bung
Kỷ niệm như sông suối tụ dồn
Con mong đỗ bến thương yên ả
(Nơi căn nhà chở che bão tố)
Hồn bồng bềnh hơi thở mẹ cha.
Đông Sơn, 10/ 1998
BẾN LƯỜNG
Liu riu hoa cải ven sông
Bến Lường cữ nước lặng trong đôi bờ
Lăn hoài viên cuội tuổi thơ
Sương buông mái tóc lại chờ đò sang
Ơi đò, níu lại hoàng hôn
Cấm Sơn mờ tỏ sương dồn mộ cha
Khói lam bảng lảng mái nhà
Nắng mưa che chở.. giờ qua tay người
Đò ơi.. thầm gọi đò ơi..
Bến xưa thuyền đậu để tôi muộn màng
Giọng pha con nước bao làng
Chiều đông ai có bàng hoàng nhận ra
Mái chèo quẫy sóng bờ xa
Hương trầu nồng đượm vắt qua Bến Lường.
10/ 1993
CHIM CU ĐẤT
Chim cu đất con của ruộng đồng
Mình mặc áo nâu màu hoa đất
Đội chân mảnh màu trái cây mọng mật
Mắt long lanh tựa hạt sương mai
Tuổi ăn - tuổi chơi đã biết chim rồi
Dáng nhỏ nhắn nghĩa tình thân thiết quá
Vụ cấy gặt chim bạn cùng sương giá
Vọng tiếng gù ấm áp khoảng trời đông
Cha đi cày ánh sao mai vừa lên
Chim sà cánh đón đường cày mới lật
Cấy chạy hạn bóng mẹ gầy tất bật
Quanh quẩn hoài, mắt chim nói điều chi
Ta thương nhau từ công việc tuổi thơ
Tôi nhặt bông lúa rơi, chim tìm hạt vãi
Giúp đỡ mẹ cha tôi lên đồi kiếm củi
Giúp đỡ tôi chim bầu bạn cùng trâu
Nơi chim ở bóng gạo hút cao
Cọng rơm khô quây tròn tổ ấm
Giá buốt tháng Giêng mưa dầm tháng Bảy
Thương cây lúa quê mình, thương cuộc sống chim ơi!
Tôi xa quê hơn chục năm trời
Ngày trở lại ngỡ ngàng ngõ nhỏ
Mẹ cha không còn anh em muôn ngả
Mảnh vườn xưa, con đê mới lặng thầm
Tóc thưa màu mây, pha giọng nói sông Hồng
Người già tần ngần trẻ con xa lạ
Nỗi hao khuyết tôi lặng thầm lối cỏ
Trông bóng gạo già, tìm lại bạn tri âm
Chim cu đất ơi!
Có nhận ra mình không?
9/ 1979
CUỐI THU
Lá vàng thưa nhạt vòm cây
Mây lưng lửng núi, ao đầy khói sương
Cuối thu tìm lại cố hương
Bao năm dâu bể nhớ thương dặm trường
Bạn nghèo muôn ngả tha phương
Vườn xưa - nhà cũ - con đường heo may
Chợt đâu hương ổi ngất ngây
Chào mào vọng tiếng ắp đầy tuổi thơ
Trưa quê nửa tỉnh nửa mơ
Nửa gan ruột.. nửa bơ vơ kiếm tìm
Thu gầy bọc tiếng ve kim
Tôi gầy sưởi tiếng lặng im thu nhà.
Đô Lương, 7/ 1997
CÂY BÀNG
Em nền nã dáng cây bàng cửa lớp
Cảnh bình yên tiếng trẻ học vui chơi
Buổi lên lớp - chăm khóm hoa, na, táo
Nuôi dạy con, lo chớp giật chân trời..
Ở nơi ấy dáng vụng về, cuồng nhiệt
Làm cánh buồm chấp nhận cảnh phong ba
Sợi dây mảnh neo sắc màu thêu dệt
Biển quá xanh khuất nẻo búp bàng tơ
Dòng đối lưu - gió trở mùa gáo thét
Cánh buồm quê vơi với giữa trùng khơi
Chợt hụt hẫng chốn trời cao biển rộng
Sợi tóc thưa thấm lạnh hạt sương rơi
Sức mỏi mệt sóng đẩy về bến cũ
Nơi cây bàng lặng lẽ níu dìu anh
Phần xanh thẳm phung phí hoài chưa đủ
Gặp lá đỏ tươi sưởi ấm cho mình.
Biển Sa Huỳnh, 7/ 1994
TRĂNG CHÂU THỔ
(Nxb. Hội Nhà văn, tháng 2007)
TÌM
Thời gian tìm lá trong cây
Tìm mây trong gió tìm ngày trong đêm
Thời gian tìm nhớ trong quên
Tìm mưa trong mắt tìm duyên ngang chiều
Ngẫm ra tìm được bao nhiêu
Để giờ nhận lại cái điều của ta.
8/ 1/ 2002
NẮNG HUẾ
Những mong mưa đón mình về
Bây chừ gặp Huế bốn bề nắng loang
Thơ mưa làm nón khô rang
Nỗi buồn Bến Ngự lan sang CấmThành
Giọt chuông Thiên Mụ mỏng manh
Rỏ lên mặt nước tím xanh đợi chờ
Nắng vàng đủ rạng gì xưa
Thời gian rêu phủ e lừa thế gian
Cán cân đạo lý đa đoan
Nhẹ công nặng tội nỗi oan để đời
Phù du ngắn lắm phận người
Mãi còn một Huế đẹp thời vàng son.
Huế 20/ 6/ 2003
Ở VĂN MIẾU
Trạng Nguyên, Hoàng Giáp bao người
Cửa quan thì hẹp, cửa đời khắt khe
Ai vua dụng - Ai dân chê
Đội bia Rùa thấu ê chề nỗi đau
Lưỡng long chầu nguyệt dãi dầu
Ngàn năm văn hiến xanh mầu cỏ cây
Nối đời lều chõng đắm say
Khiêm nhường văn hiến đất này cùng dân
Nén nhang tôn kính tiền nhân
Áo the khăn xếp bút thần dâng thơ.
Văn Miến Bắc Ninh
Tiết đông năm Nhâm Ngọ
NHỚ VỀ QUAN HỌ
Hẳn là liền chị liền anh
Xưa xa như thể trầu xanh, vôi nồng
Áo the bên nón ba tầm
Mạn thuyền lúng liếng trăng rằm vàng in
Trước tôi ai đến Hội Lim
Mai sau lành lặn mũ xiêm, yếm hồng
Tuổi mình duyên cạn đứng trông
Một thời quan họ đèo bòng vấn vương
Câu vui gửi vội trầu thơm
Câu buồn thì cứ chờn vờn phận ta
Chùa Dâu, Tháp Bút còn xa
Nhớ ơi màu áo sim già ni cô
Bồng bềnh tỉnh thực đâu mơ
Hội Lim duyên đợi nẻo xưa.. kịp về
01/ 2000
PHÓ ĐÁY
Lòng sông
phả trắng viên sỏi
dòng hẹp
qua sông người lội
không nỡ mang đi ngấn phù sa
Những giọt nước
tích hợp đại ngàn xa
nuôi bãi ngô
nương sắn
cây đồi cao màu đá ong nâu sẫm
làm mái che sông
người đôi bờ
khen khoai ngọt tháng Năm
sắn bung tiết Chạp
quen nỗi lam lũ
Lòng sông âm thầm
lắc đầy tầng văn hóa cổ
luyến láy điệu trống quân
tiếng khèn ấm đỉnh mờ sương
ngả nghiêng vòng bạc trắng
các quan võ quan văn
đình làng
hướng nhìn ra sông
Tôi ngược dòng
không nỡ
mang hạt phù sa
Mang hồn Phó Đáy!
11/ 7/ 2006
HAI MIỀN CHÂU THỔ
Nối hai miền châu thổ
Nắm cơm nếp dẻo thơm
Sáng nay mẹ tiễn con
Ở sân bay Hà Nội
Giá rét giờ đọng lại
Chiếc áo len em đan
Gặp màu nắng phương Nam
Lòng anh là mùa hạ
Ôi hai miền châu thổ
Tha thiết với đời tôi
Nơi tuổi để bồi hồi
Tiếng trống chèo dìu dặt
Nơi sau trận thắng giặc
Nghe câu Lý ngựa ô
Đất giàu những lời ca
Hồn tôi nâng mơ ước
Tay cầm lên nắm đất
Sông Hồng hay Cửu Long
Mà lòng cứ rưng rưng
Nhớ bao đời giữ nước
Nơi gió bấc lạnh buốt
Nơi mùa khô nóng rang
Bầm sông Hồng lam làm
Má Cửu Long cần mẫn
Gieo tôi niềm khát vọng
Một tình yêu đằm thắm
Hai phương trời nhớ mong
Em ở ngoài sông Hồng
Vào mùa chiêm bảy tấn
Đồng đội anh xuống ruộng
Cắt dây kẽm gỡ mìn
Đêm gió chướng Cửu Long
Thao thức mầm lúa thở
Hai tấm lòng châu thổ
Mở ra một tình yêu
TP. Hồ Chí Minh, mùa khô 1979
TƯỞNG NIỆM
Cửa Ngăn ở đâu
đến giờ tôi chưa hề biết
câu thơ vĩnh biệt
"Ở đây không gỗ ván
vùi anh trong tấm chăn"
theo thời gian
tôi cùng các em
"Khóc anh không nước mắt"
Nỗi bất ngờ
đồi Quế Trạo
chiều nay
gặp mộ bia Hoàng Lộc
Tôi hỏi trời
hỏi đất
tuổi ba mươi
ông nằm ở nơi đâu?
Xuân Trạch
Bến Then
mây Sáng Sơn buông giải trắng mềm
Dòng Lô Giang ứa lên màu đỏ
Chở che ngôi sao đỏ
cây vải thiều Hải Dương quê anh
ngọn cỏ mùa xuân
bông hải đường đỏ ấm ngày xuân
khói hương người núi Sáng
Từ cửa trường
tôi hình dung vóc dáng
trẻ măng
"Hôm qua còn theo anh.."
25/ 5/ 2005
ÔNG ĐỒ
Những người muôn năm cũ*
Gặp lại buổi hôm nay
Sân đình hoa đại trắng
Đường phố mát hàng cây
Ông áo the khăn xếp
Ông cà vạt com-lê
Bút lông thảo những nét
Như phựợng múa rồng bay
Người xin đôi câu đối
Người chữ Thọ, chữ Nhân
Mực Tàu bền giấy đỏ
Tìm vui vợi lo toan
Những người muôn nămcũ
Về hòa cùng đời vui
Chữ thầy như nụ thắm
Tri âm với tình người.
Tết Nhâm Ngọ
(*) Thơ Vũ Đình Liên
TRẺ H, MÔNG
Những đứa trẻ - vành nấm khô gầy đét
Bám lên lung - vòng ngực mẹ H, Mông
Giỏ đào tơ nép lặng lẽ dưới chân
Trộn mưa nắng tai tái màu vân quả
Đứa mút tay, đứa day day vú mẹ
Người mua đào nếm thử trái căng tươi
Giỏ ken quả lăn vòng rồi dựng ngược
Vị cuối mùa, chiều vãn.. xót lòng ai
Hơi sương lạnh, chợ tình khèn giục gọi
Lưng gùi đào, ngực gùi cháu bé thơ
Dáng lẫn vào bóng hoàng hôn mái phố
Tiếng chuông chùa loang loáng phía đồi thưa.
Sa Pa, 20/ 7/ 2001
MỘC CHÂU NGÀY MÂY VẮNG
Mộc Châu trưa ấy mây đâu vắng
Nắng đến kiêu sa rạng rỡ vàng
Đất trời thăm thẳm xanh độc thoại
Lòng mình đa cảm, lại đa mang
Rẫy mới non xa tươi tươi đỏ
Cây ơi người hẹn thắm mùa hoa
Cành la, cành bổng đan mơ mận
Đào chín tay em phấn mịn da
Thảo nguyên sương tuyết màu chè biếc
Em ở nơi nào hái búp non
Ước chi có bướm về lượn múa*
Để anh có cớ gặp lăm vông
Mộc Châu nỗi nhớ chưa trọn vẹn
Suối mát đồi xanh giữ hộ mình
Vầng mây trắng muốt bay bảng lảng
Cùng múa lăm vông, vít rượu cần.
Mộc Châu, trưa 16/4/2002
(*) Điệu múa hái chè bắt bướm nổi tiếng
TÌM VỀ CÂU HÁT
Em tươi trẻ áo chàm vòng bạc trắng
Vành nón nghiêng má ửng phớt hồng
Câu hát đối.. mang về phiên chợ Tết
Giữa phố đông, gợi tôi khoảng nhớ mong
Ngược câu hát tôi về miền sơn cước
Núi rừng xanh mây trắng thả bồng bềnh
Tìm cội nguồn lời trao tình tứ
Như từng gieo mùa lúa mộ trên nương
Mang câu hát ngược dòng con suối mát
Rừng thẫm xanh ngô lúa trĩu vàng thung
Hết cảnh du cư theo mùa đốt rẫy
Lửa ấm nhà sàn, tên bản yêu thương
Câu hát tiết giêng cây rừng nẩy lộc
Người thương nhau vòng chỉ đỏ tròn tay
Người xa bản mang theo lòng câu hát
Từng vượt Trường Sơn, khu công nghiệp mới xây
Người từng hát.. như cây rừng nối bóng
Người về cõi xưa, người lên bậc ông bà
Chỉ câu hát mãi như dòng suối mát
Và đượm nồng chỉ đỏ buộc tay ta
Tôi về lại vùng cội nguồn câu hát
Gặp người xưa tim rộn rịp lời ca
Cái khoảng nhớ lặng im phiên chợ Tết
Nỗi nhớ xưa.. niềm vui trẻ giao hòa.
Tháng 01/ 2002
TRUNG DU ĐÊM
Đêm xuống muộn, ban mai đến sớm
Tôi thức cùng vị chát chè tươi
Nét hoang sơ ngấm vào chầm chậm
Nhịp thở nghiêng theo sóng triền đồi
Tán cọ tắm ánh trăng bàng bạc
Bẹ cau rơi tươi mát làn hương
Tiếng gàu va đong đầy hương sả
Cô gái nào gội tóc trong đêm
Tiếng chim vạc vắt ngang thanh vắng
Giục tiếng gà gáy vội sang canh
Bếp ủ qua đêm bằng vỏ trấu
Đậm bùi ngô đỏ, đỗ tơi bung
Đêm khép vội quê đồi thơ ấu
Kỷ niệm xanh cây lá vườn nhà
Chân chạm sỏi nồng nàn màu lửa
Môi ngọt thơm vải chín mọng da.
4/ 2002
GỌI TRĂNG
Mồng Một vắng trăng em gọi trăng*
Sàn hoa xe sợi, dệt tơ hồng
Ước chi hóa được chim trói cột
Từ tấm khăn piêu em dệt xong.
(*) Tên một điệu múa ở Sơn La
BÌNH MINH
Tiếng chuông ngân đánh thức bình minh*
Đẹp chăm pa nhịp nhàng tay múa
Mặt trời mọc sương mềm giải lụa
Chăm pa ơi gieo hạt trên nương.
(*) Tên điệu múa ở Sơn La
SẬP GỖ
Sập vuông
đặt giữa nhà thờ họ
gỗ lim ánh màu gương
Gặp lại tuổi thơ
mon men sập gỗ
châm điếu thuốc lào
nhận lộc ông trưởng họ
Nghĩa trang
dày những ngôi mộ
vào đời
tôi biền biệt xa quê
có dịp về
ít đúng ngày giỗ tổ
Tuổi sáu mươi
được mời lên sập gỗ
len vào niềm vui
nỗi lo xa
Tôi vin vào
người xưa.
Làng Nghiêm Thắng
Đêm Nguyên tiêu năm Ngọ
VỀ LÀNG
Lâu rồi mới dịp về làng
Tay dắt con nhỏ vai mang nỗi già
Sông Lam mùa nặng phù sa
Cây đa, ghềnh đá tuổi thơ đợi người
Vào làng con cứ hỏi hoài
Điều cha từng kể với thời ngóng mong
Cổng làng, chợ Huyện, chùa Thanh
Đâu bóng cây táo tán cành kín sân
Cô bác về cõi xa xăm
Lối xưa lớp trẻ cận lân lạ dần
Mộ ông tận núi Bàu Sen
Mộ bà thì mãi tận miền Đồng Nai
Tuổi già nghĩa nặng dồn vai
Đưa con nhận họ, quen ngày khói hương
Mai sau.. con tự tìm đường
Thay cha trọn nghĩa quê hương ông bà..
Làng Nghiêm Thăng 5/ 1996
NHÀ NGANG
(Viết cho Liên, Tú, Thủy)
Gian nhà ngang vẻn vẹn mười sáu mét vuông
Nơi ngồi học với bàn gỗ mộc
Nhà đã cũ mẹ cha đâu nỡ đập
Dọi mái, vá tường lưu nét tuổi thơ
San khó khăn, sách giáo khoa bọc bìa
Chị lớn học, em út dùng còn mới
Nơi ngồi học thơm ngô bung, dưa muối
Lợn đòi ăn, bố mẹ dạy tiết năm
Đèn nê ông giờ ít sáng nhà ngang
Cha lại nhớ ánh đèn tròn đỏ sẫm
Điện mất luôn đèn dầu nhập nhoạng
Tiếng quạt nan xua muỗi canh khuya
Cửa ngách lên trường mòn lối đi về
Bóng nhãn, giếng đồi mỏi tay kéo nước
Nhà tập thể mái lượn oằn rêu mọc
Lam lũ cô, thầy.. con biết chăm ngoan
Cửa đại học lần lượt đón ba con
(Cha phân vân không cùng nghề bố, mẹ)
Niềm vui muộn mới lên ông bà ngoại
Việc cơ quan ba con ít về thăm
Căn nhà ngang vắng hơi ấm cháu con
Trống trường vọng cha lặng nhìn giá sách
Tay lần giở nét chữ con thân thuộc
Giáo án chồng cao vơi nỗi nhớ trường
Căn nhà ngang lam lũ với thời gian
Tổ ấm gia đình - thầy trò trọn vẹn
Chốn đô thành nhớ quê đồi thương mến
Căn nhà ngang rộng trang sách vào đời.
Tháng 10/ 2008
CỐ HƯƠNG
Chim trong lồng - lồng nhốt trong nhà ống
Cháu, con đi làm cửa khóa rèm buông
Chim còn non tơ ta thì già cả
Chim hót nhớ trời - người nhớ cố hương.
6/ 2015
HAI ĐÂÙ NỖI NHỚ
Tim anh ấm một miền quê
Đồng xanh, cỏ mịn bờ đê, bến đò
Dáng hình nuôi bởi gạo ngô
Bỗng dưng hóa cõi hư vô đất này
Bảng vàng tên họ ở đây
Đã bao mùa rẫy đong đầy nhớ thương
Chung màu cờ đỏ rưng rưng
Vầng mây Pú Huổi, suối rừng lặng soi
Nối hai nỗi nhớ.. à ơi
Mường Thanh đêm ấy giọt rơi trăng rằm.
Mường Thanh, đêm 20/ 4/ 2002
TRĂNG NHÂN THẾ
(Nxb. Phụ Nữ, tháng 8 năm 2013)
LIỀM TRĂNG
Con chào đời đầu tháng
một mẩu liềm trăng níu lại hoàng hôn
mẩu kia đậu lên ngực mẹ
Gia cảnh
con thành kẻ
lẩn tránh quê nhà
Mẹ ôm bóng con vơi với trời xa
nơi chập chững tuổi thơ
đón nẻo gềnh thác la
Ngày đón mẹ
về quê
liềm trăng
hóa vòng tròn vơi nỗi che khuất
trên mộ
nhưng nhức
sỏi chín hoàng hôn
Khói hương
bồng bềnh
liềm trăng
mãi như dấu hỏi.
Hồng Sơn, 16/ 8/ 2010
ĐÌNH LÀNG
Làng nay ngõ lắm, ngách nhiều
Mái đình lưu lại những điều xa xăm
Bia mòn, chữ lạc.. trầm luân
Đình làng trẩy hội tri âm lòng người.
TRĂNG Ở TIỀN ĐƯỜNG
"Vầng trăng ai xẻ làm đôi"
Tiền Đường tôi đến trăng soi bồi hồi
Yên chưa con sóng hận đời
Khum tay đón nước, cảm lời của trăng.
Thượng Hải, 20/ 6/ 2013
GẶP Ở ĐỀN HÙNG
Lần đầu lên Đền Hùng
Gặp màu mây truyền thuyết
Công chúa soi giếng Ngọc
Đám cưới nàng Ngọc Hoa
Gần gũi câu chuyện xưa
Vua tôi cùng cày cấy
Hạt thóc gieo thuở ấy
Dẻo nắm cơm chiến hào
Thương mẹ cha giáp hạt
Khoai sắn nhường nhịn nhau
Đá thề nhắn người sau
Gươm bao đời tuốt vỏ
Dấu binh đao khói lửa
Trong sắc màu đất tươi
Lên Đền Thượng bồi hồi
Thắm sâu lời Bác dặn
Cha anh từng chiến trận
Núi sông dồn hai vai
Chiến dịch rồi chiến dịch
Không áo giáp, bia hài
Bao cánh rừng đuổi giặc
Đều gửi gió về đây
Màu ngói lẫn màu mây
Thoảng hương trầm cầu phú
Nhớ rừng xa bão táp
Nơi đồng đội hy sinh
Hồn thiêng màu cờ đỏ
Trên đỉnh cao Hy Cương
Ôi mây sao quá gần
Linh thiêng ngôi mộ Tổ
Điều quen và chuyện lạ
Cứ xao xuyến trong lòng
Lần đâu viếng Đền Hùng
Như gặp mình ở đó
Hoành phi mang ráng đỏ
Với thông xanh bạt ngàn
Thế đứng cùng Tổ Tiên
Đưa tôi đi giữ đất.
Tháng 5/ 1969
HÌNH NHƯ
Màn sương loang loãng
ai như ông
bước rõ nhanh
phố hẹp
dài bốn trăm mét
Gạo ngô tràn thúng mẹt
giường tủ quan tài
chim trong lồng xòe cánh bay
người hành khất
ông còn nhớ chăng
Phố hẹp
người ghi số đề cầu vận đỏ
trẻ lên mạng kiếm điều lạ tứ phương
ông chừng
xa lạ
Tôi nhận ra
chàng trai hai bảy tuổi
vầng trán cao ánh mắt tự tin
xoải dài bước chân
nơi bắt đầu
phố Ngô Quyền
điểm cuối phố Nguyễn Viết Xuân
lịch sử tôn vinh
khi trái tim vừa ngừng đập
Trên phố mới
mang tên Nguyễn Thái Học
muốn níu lại thời gian
gần hơn
tháng 6 năm 1930
vọng lời:
"máu nhỏ tốt tươi mầm cách mạng"
Hình như
lời ông
đến muộn
với đời chăng?
7/ 2010
ĐỒNG HÀNH
Đồng hành vầng nguyệt qua ô cửa
Hà Nội - Bắc kinh cưỡi gió mây
Đại ngàn, biển cả.. chung trời thẳm
Vơi nỗi nhân gian.. Ánh trăng đầy.
HỎI
- Cha ơi
Hiền như Tấm sao nỡ giết Cám
- Ác thua rồi
Thiện còn ác hơn
- Cha ơi
Giặc Minh thua tan tác:
Sao Vua Lê vẫn cấp lương, thuyền
Cho chúng về nước
- Con ơi
Đời có mấy
Cáo Bình Ngô.
15/ 8/ 2010
HÁT RONG
Trẻ thì bán giọt mồ hôi
Còn ta thưa gửi điều vui của làng
Đất nuôi ông Nghè hiền sang
Đã vào câu hát dân gian soi người
Xẩm xoan cung bậc còn vui..
Nhẹ đồng tiền nạng nghĩa đời cảm thương
Nét quê tai tái phố phường
Quê ông Nghè - cánh đồng đương đợi người.
11/ 7/ 2011
GIAO THỪA
Giao thừa chầm chậm đi qua ngõ
Giọt xuân năm mới đượm hương trời
Người đi tựa lộc non bỡ ngỡ
Hoa đào thắp sáng đợi người ơi!
VỎ SÒ
Chiếc vỏ sò hắt ra từ biển
trắng màu vôi nát tan
người, người..
luễnh loãng âm thanh
cát lún
Ai nhận ra
những vỏ sò
tách ra khỏi biển
thời gian
mài trắng
nát tan
lại vo tròn
âm thanh trinh nguyên
Gió - Sóng!
Biển Cửa Đại, 07/ 07/ 2010
BẬC THANG
Bậc thang ruộng, bậc thang đồi
Vin mây mở bậc gần trời chạm sao
"Mây hồng, mây tím, mây nào"..
Chắp ta đôi cánh bay vào cõi mơ
Trời xannh - xanh thuở hoang sơ
Hương rừng nguyên thủy như vừa hôm qua
Bất ngờ gió lộng nắng sa
Cõi Tiên gần lắm cõi nhà chênh chao
Rảnh lúa von đói đất nâu
Đá xây nên luống nên màu rau tươi
Thung lũng hẹp nẻo ngược xuôi
Lầu cao mái thấp chơi vơi bóng đè
Bậc thang quanh quẩn hiên hè
Lối quen rêu phủ người về chốn nao?
Từ điểm cao muốn bay cao
Bậc thang rồng rắn, níu vào lòng thung!
Trại sáng tác Tam Đảo, 5/ 6/ 2011
VẾT CHÉM
Vết chém vào nước
Sóng liền màu da trời
Vết chém vào đất
Hé ra mầm cỏ tươi
Vết chém vào cây
Tạo dáng hình mới lạ
Vết chém tâm hồn
Ai tỏ?
07/ 11/ 2007
TÓC
Soi gương
gặp muối trắng phủ nặng đầu
màu đen thương nhớ
đến nơi đâu nằm lại nơi đâu
Ta đã tới Lũng Cú, Cà Mau
ngược lên rừng xuống biển
dẫu đã muộn
đủ ta kịp nhận
chốn bãi rác, bần hàn
thành lầu cao phố xá
chốn huy hoàng tráng lệ
âm thầm hoang phế
Ta nghiệm ra
vòng đời nhân thế
có cái sai hôm qua
thành lẽ sống hôm nay
điều ngỡ bền vững
nay lung lay, chếnh choáng
Mọi sự..
đều có thể
tóc ơi đâu còn đen?
06/ 06/ 2006
CÂY TÙNG PHƯƠNG BẮC
Những cây tùng La Hán
ở tận tỉnh Chiết Giang
nơi có mùa hoa tuyết
chim ca mây trắng bồng bềnh
tiếng suối reo hòa bản nhạc bồng bềnh
Sao ngươi về đây
sống nhờ trên mặt sàn xi-măng bỏng rát
quen chưa tiếng động cơ gầm rú
suốt ngày đêm
quen chưa tiếng béc-giê tru tréo
những bóng người cầm dùi cui nhứ nhứ
những tấm lưới cao vượt mặt
bao quanh
- Người có bất ngờ chăng
cái giá của chính mình
từ lời rao bán
bốn tỷ, năm tỷ đồng tiền Việt
tỉnh ra Đô, Nhân dân tệ
được bao nhiêu
- Cái giá ấy
Nếu ông đến mua
hiểu hơn ai hết
Riêng tôi
mất đi triền núi Chiết Giang
chao ôi suối reo tuyết trắng
sống hờ trên lời tôn vinh phù phiếm
Đau lắm ông ơi!
ĐỐI ẨM
Gái đẹp Hàng Châu pha trà Long Tỉnh
Hương lan dịu thơm mịn tóc mát da
Lạ đất khách mời chị Hằng đối ẩm
Hương theo trăng về tận quê nhà.
BỐN MÙA
Chim én không đậu nơi đây
Bởi ngày xuân vắng hơi ấm lúa non
Cánh chim xanh không qua đây
Tìm đâu ra tăm cá
Cánh cò không phơi nắng thu đất này
Còn đâu mùi hương cỏ mật
Tiếng chim gáy lạc từng không
Khát mùa lúa chín
Bốn mùa chồng chéo
dấu chân thợ cày, thợ cấy
từ làng ra phố
bán giọt mồ hôi!
đây là đẳng điền
bờ xôi, ruộng mật
bỗng nhấp nhô
đất đồi sỏi ruồi bạc phếch
cắm lên những tấm biển
tiếng Anh, tiếng Việt bồi
nước sơn phai màu
tên nghe lạ hoắc
trừng mắt nhìn nhau
Điệp khúc giàu nghèo
Cao xanh có thấu?
NGHỊCH LÝ
Nghiến, lim ở đâu
gió lồng rát mặt
suối trong chảy đâu
màu váng cua lóa mắt
chim rừng lạc đâu
cây nhọn mũi mác
kia! Vòm trời quá thấp
nước xối ào ào
nhà chơi vơi sóng chao
người dạt về đâu
lưỡi tầm sét
lóa sáng trên đầu.
Tháng 10/2003
KÝ ỨC LÀNG ĐỒI
Những chiếc bát úp khổng lồ
nắng mưa bào nhẵn
trơ lại sỏi ruồi đen thẫm
đủ níu lại bàn chân sằn chai
níu lại búi cây cọc còi
làng đồi hình thành từ đó
Âm thanh dồn nén
tiếng cuốc chim bật lên tia lửa
tiếng đa đa vỡ loang hốc đá
tiếng gió hú xoắn căng bện thừng
tiếng mưa sầm sập
xói chằng chịt đường sống trâu
những nếp khăn nâu thắt ngang bát úp!
Đo thời gian cha tính từng mắt tán cọ
mẹ tính mùa cắt chấu lưỡi hái, lưỡi liềm
chị nhớ hương hoa bưởi cài lên mái tóc đen
tôi bâng khuâng màu hoa sim tím rưng rưng
có lần vô tình để xước..
Nuôi chúng tôi có sắn lùi tơi bùi
khoai lang om mọng mật
trám đen ngây, quả sung thì chátt
nuôi chúng tôi tỏ mờ câu hát
người làng mang về từ những miền đất cổ xưa
làng chưa có đình cũng chưa xây chùa
thương nhớ cả làng hướng về nghĩa trang Liệt sỹ
nơi những trai, gái của làng trẻ mãi tuổi đôi mươi!
Làng đồi nuôi chúng tôi lớn khôn
người xa quê lập nghiệp
ký ức làng trong nhịp tim thổn thức
vết nhói sỏi ruồi
cơn giông rát mặt..
đã dựng nên cơ nghiệp
bát úp khổng lồ xanh mướt màu cây..
CỎ
Để rồi
có ngày
cỏ che ấm thân xác rã rời
phần hồn
cỏ xanh nâng cánh
để vượt qua nỗi kinh khủng
nắng hạn
cuồng phong
và những điều
trong đục đời thường
để bồng bềnh giữa trời xanh
sám hối
Một thời lầm lỗi
với cỏ nhỏ nhoi
buồn - vui
ta quên
dưới chân
là cỏ
Ôi mái nhà xanh
vẹn nguyên dù bão tố
hồn ta còn cơ
thuở làm người!
Ngày nằm bệnh viện tỉnh 06/ 2009
LẠI VIẾT VỀ TÓC
Ngày ba lần uống sữa En-sure
bữa ăn đủ chất đạm
da đã căng
bước chân dài thẳng
ai cũng mừng
sau một tháng ra viện
Riêng ta có nỗi buồn dai dẳng
mỗi ngày
tóc rụng nhiều hơn
69 năm đi qua
tóc đen tóc trắng
vượt lam lũ
che mái đầu cầm tinh con ngựa
Số tử vi
ta còn 16 năm nữa
sao tóc vội ra đi
Đến ngày..
tóc ơi có gặp ta?
10/ 2009
LÀNG
Đường
ngõ,
ngách
số nhà chẵn lẻ
nhìn nhau lạ hoắc
chạm ánh mắt vào làng
Những ô cửa
sin sít hướng ra đường
nhà cao tầng
tường xây bao kín
cây rau cải, rau răm
sống nhờ tầng thượng
thứ về trời thứ ở lại đơn côi!
Người làm ruộng
người bươn trải ngược xuôi
người vào nhà máy
bữa ăn tối chung lời khen vồi vội
canh ngọt dẻo cơm
thêm một ngày bình yên!
Đô thị hóa
làng cổ đổi tên
khu Hai, khu Một..
người vui
người nhớ
người bỡ ngỡ
nết ở
nết ăn
ngơ ngơ đường làng
tìm nơi bến đỗ..
Trầm hương đình làng
thoảng thơm
ngách ngõ
TRÔNG
Trông trời trông đất trông mây
Trông trời, nay với tầm tay
Trông mây giờ vượt cầu mây bảy màu
Trông đất, mưa nắng dãi dầu
"Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa"
Băn khoăn câu hát người xưa
Lúa còn bông cỏ đồng thừa trâu ăn
Quê giờ đồng hẹp nẻo sang
Cọng rơm khan hiếm cỏ non đâu còn
Ta già nương tựa cháu con
Phận đầu cơ nghiệp.. ta buồn nỗi xa.
Trên chuyến bay Hà Nội - Liên Khương
Chiều 6/ 4/ 2011
NHÀ BÀ
Nhà bà
bến đợi
con cháu ào qua
Nhà bà
mèo hoa duỗi mình thềm nắng
cún bông nguẩy đuôi
liếm gót sần chai
cau thả bóng tròn
hương ổi hương nhài
ca dao, tục ngữ
bến vui đời bà
Giờ người..
đã xa!
LÀNG CHÍN TẦNG MÂY
Vấn khăn, tay nải vắt vai
Nhớ con, thương cháu cưỡi mây chín tầng
Mặc vương đai thắt an toàn
Chuyện vô tư kể như đang ở nhà
Trông trời mưa thuận, gió hòa
Hình mây là lạ, cầu qua yên hàn
Cõi Tiên, cửa Phật nương nhàn
Vơi phần cái nỗi nhọc nhằn gạo khoai
Làng trên mây chạm da trời
Giọng quê nằng nặng nồng tươi cau trầu
Nếp hoa vàng chè móc câu
Hương quê thơm thảo giữa bầu trời cao
Người tứ phương về chốn nao
Nghe chuyện các mẹ.. nhớ sao quê mình!
Trên chuyến bay Hà Nội - Đà Nẵng
Chiều tháng 7/ 2011
VỀ NGUỒN
Đêm bùng nhùng cao ốc
giữa loạn mơ
may chợt gặp
luồng gió mát rừng xa
Còn không
tiếng đập trái tim ta
con suối xanh, cá chày mắt đỏ
dốc mòn sống trâu mùa hoa lau nở
mẹ già lũi cũi lên nương
nhặt nhánh lá khô
ngọn khói no mùi sắn nướng
tất cả vẹn nguyên!
Kìa mấy đứa trẻ con
chân bám đất
sách vở
áo quần
xộc xệch
mắt lạ nhìn tôi
cười toe toét
50 năm cảnh thực
Cần chi mơ! "
THƠ CHƯA ĐƯA VÀO TẬP
CHUYỆN Ở NHÀ MẸ
Xóm đô thị hóa
san sát nhà cao tầng
lọt giữa bê tông, cửa gương
ngôi nhà nghĩa tình của mẹ
Năm mươi năm thắp nhang, cắm bông hoa huệ
khấn vọng con ở chiến trường xa..
hai mươi năm cha con mang theo nỗi mong chờ
mong gặp con từ hương trầm mẹ thắp
Nhà mẹ hiếm hơi người
canh khuya hiu hắt
sum vầy ký ức
đàn chim sẻ trên sân
nhớ bước chân con tung tăng
tiếng tắc kè chẵn lẻ góc vườn
cha con tính trời mưa nắng
Ngôi nhà tình nghĩa
Mẹ sống cùng kỷ niệm
đã qua tuổi chín mươi
ánh mắt mẹ vui
ngắm đàn sẻ tha cọng rơm về làm tổ.
TỜ LỊCH ĐẦU NĂM
Tay chạm vào tờ lịch đầu năm
Màu hoa đào ánh lên trang nhã
Chạm trong suốt hạt sương trên lá
Chạm tiếng chim mờ tỏ vườn non
Phía sau ta hay dở lẫn vui buồn
Cứ cộng hưởng để vị đời đa sắc
Ngày tháng dồn toa, đưa ta tới đích
Gặp tờ lịch đầu năm!
Ngày khởi đầu
Những dự cảm đã rành mạch hơn
Bởi bên ta
Có búp non màu tuyết
Có nụ hoa hương thơm tinh khiết
Có ánh mắt tin cậy, mến thương
Vũ trụ quanh ta
Hiển hiện trinh nguyên
Dự cảm vui
Lời chúc tốt lành
Trước tờ lịch mới!
CÂU HÁT
Giận thì giận.. thương thì thương
Còn bao câu nữa.. vấn vương đất này
Miền Trung sông ngắn núi dài
Bão giông, nắng hạn quắt quay đất cằn
Địa hình nhân kiệt, nhân văn
Nuôi ta dòng sữa nhọc nhằn sắn khoai
Miền Trung trĩu nặng hai vai
Lối đi mở đất đàng ngoài, đàng trong
Truyền đời chống giặc xâm lăng
Chủ quyền lãnh hải khắc lòng lo xa
Miền Trung thèm nỗi giao hòa
Sông Gianh, Bến Hải ruột rà nhói đau
Đội bom đạn, nối nhịp cầu
Vào Nam lên Bắc nặng sâu nghĩa tình
Cội nguồn văn hóa tâm linh
Làm nên bản sắc quê mình xa xưa
Miền Trung thương mấy cho vừa
Bao đời câu hát đò đưa cháy lòng.
HANG BÀ
Để cứu lấy ngai vàng
Gia Long đầy mưu kế
Vợ đem nhốt vào hang
Con trai dìm xuống biển
Thăm Hang Bà.. nghe kể
Tội ác một vương triều
Sao gọi đỉnh tình yêu
Có dịu đau cốt nhục?
Côn Đảo tháng 12/ 2014
Hang Bà thuộc Hòn Bà còn gọi đỉnh Tình yêu
VỚI NÀNG THƠ
Ta vẫn say nàng
nhưng đâu dám tỏ tình
bằng thứ ngôn từ riêng biệt
Sự sáo mòn
sợ nàng lánh mặt
để ta khoảng trống..
day dứt nỗi lòng
Ta vẫn say đắm trinh nguyên
như thuở đôi mươi tìm đến
Nhưng!
Ngày 11/ 4/ 2015
ĐỈNH
Vượt núi cao
bằng đôi chân trần
mồ hôi, hơi thở..
Có người bạn đồng hành
miên man mây bay, hoa lá
dữ dằn nắng táp mưa sa
thiên nhiên hào phóng bao la
cho ta dư nguồn sinh lực
Có thứ đỉnh
lẫn trong tiềm thức
lẫn trong ngõ ngách viển vông
tháng, năm
chuỗi dài dè xẻn
đâu nhắc nổi bước chân cao thêm
Hai độ cao
thực ảo
đồng hành.
Tháng 02/ 2015
ĐƯỜNG ĐÔI
Đoạn đường Đạo Đức - Hương Canh
Dài mấy cây số gom thành tứ thơ
Cà Lồ, sông Cánh đôi bờ
Cổ xưa cung sóng non tơ bãi bồi
Lò Cang hàng gốm vân tươi
Xe ngược Tuyên, Thái hay xuôi đồng bằng
Mê chèo Mỗ Đạo tìm sang
Giỏi thâm canh lúa, mỡ màng bãi dâu
Đường đôi ánh mắt tìm nhau
Bên vàng bông lúa, rau màu tươi xanh
Bên vọng tiếng máy chuyền vang
Lửa hàn lấp lóa dệt ngang bầu trời
Lối xưa.. nỗi nhớ nhân đôi
Vào khu công nghiệp tìm người ta thương
Từng quen bùn đất mùa, chiêm
Giờ bên guồng máy đã yên nỗi niềm
Ai lên Vĩnh Phúc đừng quên
Đương dài muôn nẻo xe êm.. chớ nhầm.
5/ 2014
MÙA CA DU ĐỔI LÁ
Tháng Năm mưa xối xả
đường em đi trụt trơn
mùa ca du đổi lá
giữ được bàn chân em
ủ được bàn chân em
lòng anh vơi nỗi nhớ
nhãn nắng mài mịn vỏ
quả chanh mọng trên cành
vải thiều thơm hương mật
tu hú vọng trời xanh
Anh trở lại con đường
tìm dấu chân ở lại
hạt phù sa mềm mại
mương nước chảy hiền lành
đồi Phú Hộ trải xanh
đàn ong say hương mật
ước câu thơ mình viết
dịu được bàn chân xa
Em trở về Phù Khê
nơi lòng anh sâu nặng
mái tăng rơi đầy nắng
lấm tấm hoa bạch đàn
các em đến trường làng
con đường im bóng mát
giờ đồi cây đốn trọc
biết trách ai lỗi lầm
để lòng em nhức nhối
đất hóa thành đá ong
Em về với mầm xanh
mẹ cha hằng mong mỏi
cành hồng đan cành vải
cam ghép bưởi táo lê
tuổi già như nắng xế
mong mùa quả mau về
Tháng Tám mưa dầm dề
vùng đất đồi lầy sụt
chè vè sắc mũi mác
buốt bàn chân em qua
cơn bão cứ thập thò
lại gió bấc, sương muối
nắng mưa đến vô tình
mầm non thì mềm mãi
Lá ca du nóng hổi
Bồn chồn bước em đi.
Tháng 8/ 1980
KỶ NIỆM
Hoa chuối đỏ mây lau trắng lóa
Rừng lim thăm thẳm, gió thầm thào
Hậu cứ ven đại ngàn Tam Đảo
Bộ đội, dân công chung ánh trăng sao
Những giọng nói khu Ba, khu Bốn
Áo vải, mũ nan thấm sương rừng
Điếu thuốc làng Chanh chuyền hơi ấm
Sắn luộc, nước chè đất Hồ Sơn
Ta chặn giặc mạn Hương Canh tới
Vĩnh Yên vào, Bạch Hạc mò sang
Lưới quân dân, giặc chui túi lửa
Thế đứng Núi Đanh, XuânTrạch hiệp đồng
Chiến dịch mang tên Trần Hưng Đạo
Thời gian lùi xa.. kỷ niệm gần
Người du kích già lời cảm động
Dẫn tôi thăm nghĩa trang Hương Sơn
Ông kể từng tiễn con tiễn cháu
Xẻ dọcTrường Sơn, ngược sông Hồng
Ba thế hệ cựu chiến binh đứng vững
Trên vùng đồi đỏ thắm chiến công
Tôi hình dung hồi ức kỷ niệm
Cảnh khác xưa vợi bớt thâm u
Đường chiến dịch, mịn bằng rải nhựa
Nhà máy về làng, ánh điện ngỡ sao sa
Tôi thầm gọi làng Chanh, làng Mã
Hậu cứ ơi.. che chở đoàn quân
Tôi thầm ước có thêm lần rong ruổi
Cùng người lính già dọc đại ngàn xanh.
Thu đông, 2005
LÊN VĨNH YÊN - NHỚ VĨNH MAI
Mùa thu dừng lại ở Long Biên
Để một mình tôi lên Vĩnh Yên
V. M
Người đã xa rồi
Một mình thơ
" Lên Vĩnh Yên "
Giữa ngày thu nắng tãi màu hoa mướp
nửa thế kỷ tình thơ tha thiết
ngấm men say
Thơ ơi rẽ lối này
Tìm về một thời khắc khổ
" hết đồi sắn lại thêm đôi sắn "
" Nắng trút nắng trào "
Mài nhẵn sỏi ruồi đen
Đọc thơ ông dưới chân núi Trống
Quen lạ đan xen đồi nhấp nhô
Nâng tầm cao nhà máy
Thơ gặp lại
Con cháu của những cô gái năm xưa
Chăn cừu ven núi tâm tình bổi hổi
" Có phải mẫu đơn trong thần thoại "
Giờ tan ca tiếng cười nói mát trong
Ngỡ" Dòng nước Quan Hà lấp lánh xanh "
Đâu rồi
" Tường vôi ngói mới đuôi nối đuôi "
Tôi ngỡ ngàng theo đường đôi ngang dọc
Vượt hàng cây xanh
Những tòa nhà ngang dọc
Soi bóng trật hồ Đầm Vạc xanh trong
Thu vàng -" Lên Vĩnh Yên "
Vắng người cõi nhớ
Câu thơ lung linh sắc màu hoài cổ
Tôn thêm vẻ đẹp
Vĩnh Yên - vào thu!
NÚI ĐANH
Núi Đanh đá sắc như mũi đinh
Cửa ngõ đứng canh trời Tam Đảo
Tấm áo giáp bốn mùa ngăn giông bão
Xưa yêu núi Đanh cánh bướm trải vàng
Chùm sim chín tím trời hè thương nhớ
Khi đủ hiểu những điều mẹ kể
Núi Đanh ơi lòng quyện muôn lòng
Những trai làng quần cộc, tay không
Lòng căm thù hóa mũi chông bén sắc
Lời mẹ gọi vang hồ kèn thúc giục
Trận công đồn gió ngân vọng lời ca
Ta lớn lên giữa lòng mẹ hiền hòa
Cộng cái gan góc của cha ngày trước
Ngẩng cao đầu mũ đính sao đỏ rực
Đường hành quân tự nhủ quê làng Đanh
Làng núi Đanh xưa đất bạc cây cằn
Nay rừng xanh gọi về muôn đợt gió
Mùa thuốc lá đài hoa trắng nở
Trái dứa thơm óng ả sắc vàng
Hốc đá xanh tuổi nhỏ chơi trốn tìm
Nay đặt khẩu trung liên em trực chiến
Thư viết chiến hào gửi ra tiền tuyến
Hòa chiến công thắm trang sử Núi Đanh.
9/ 1968
MA-RA-TÔNG
Gom dòng chảy nổi chìm chốn đại ngàn
hóa vó ngựa bạch bất kham
có nước phi thần tốc
đá núi nhẵn mòn
con đê phập phồng nghẹn sóng
phút chùng dây cương
hạt phù sa lắng xuống..
Những đợt cuồng phong
cây già cỗi ngả nghiêng
đánh thức mầm non
đón bầu trời cao rộng
lá trinh xanh
hoa tươi, quả mọng
chim chuyền cành
gom nên ngọn gió mát lành
Ta có thời
ngỡ là ngựa thẳng dây cương
ngỡ là gió..
qua mọi nẻo đường
suốt chiều dài Đất nước
nhuộm trắng mái tóc gần 30 năm.
Tuổi Nhâm Ngọ
chạy ma ra tông trong sân nhà mình
cảm nhận vơi với đích..
Ngày 27/ 10/ 2014
ĐỒNG CẢM
Người con của đất quê hương Nghệ An
trên quê hương Vĩnh Phúc
Nhà thơ TRẦN KHOÁI
Sáu mươi nhăm tuổi, Nguyễn cảnh Tuấn và những người quen biết ông, đủ để có cái quyền nhìn lại hành trình ông đã đi qua.
Tốt nghiệp Đại học sư phạm Toán, dĩ nhiên nghề chính của ông là dạy học. Ai cũng biết ông có lớp lớp học trò khắp các miền quê. Chẳng hiểu sao ông giáo Toán ấy lại lang bạt sang cánh đồng văn chương. Có người cho ông là" lãng tử ", việc ông viết văn, làm thơ, biên soạn sách văn học là nghề tay trái. Trái hay phải đến nay ông đã có hai tập bút ký, hai tập thơ và bảy tập thơ tuyển nhiều tác giả.. Ngoài ra ông cũng là người" có duyên "với giải thưởng văn chương: Giải nhất thơ Vĩnh Phú (1968 - 1969). Tập" Ngõ Trăng "đoạt giải A - giải thưởng về Văn học nghệ thuật của UBND tỉnh Vĩnh Phúc (1995 - 2000). Giải Nhất thi viết bút ký của tỉnh (1991 - 1999). Giả Khuyến khích thi viết về đề tài nông thôn do Báo Văn Nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Nông Nghiệp đồng tổ chức năm 1989. Huy chương Vàng kịch bản và lời bình phim truyền hình" Đi tìm Thành Hoàng "-Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức - Đài PTTH Vĩnh Phú thực hiện, năm 1992.
Quả thật những điều ông có là cả một bề dày sự nghiệp ở phương diện thi ca, với hai tập thơ Mùa Phù sa (1976) và Ngõ Trăng (2000) là sự hội tụ bao tháng năm trăn trở của một hồn thơ đa mang nhiều nẻo cuộc đời. Thơ ông chân thật như lời ông thổ lộ:" Với tôi, Thơ là một sân chơi không cầu kỳ nhưng phải sáng cái tâm. Tôi sinh ra ở làng quê, dạy học cũng ở làng quê. Tuổi xế chiều vẫn đa mang khát vọng: "Tôi từ bùn đất nhận ra hồn làng". Xin trân trọng bùn đất ngát hương sen của ông.
Cảm ơn vạt bờ sông Lam - Đô Lương - Nghệ An đã mang đến quê hương Vĩnh Phúc một Nguyễn Cảnh Tuấn cần mẫn nhiệt tình và tâm thức hiến dâng.
(Văn nghệ Vĩnh Phúc tháng 5+6/ 2006)
Với nhà thơ "Ngõ trăng"
(Tặng nhà thơ Nguyễn Cảnh Tuấn)
NGUYỄN NGỌC TUNG
Nhà Dốc Láp trông sang núi Đanh
"Núi nhọn như đinh" * vươn trời xanh
Ông từ Ngõ trăng** nhìn "Trăng nhân thế" **
Buồn vui dâu bể phong tình
Thày dạy toán lại hay thơ đến thế
Yêu đất lành thành thương nhớ hai nơi
Trìu tượng lắm, mộng mơ nhiều cay đắng
Thơ chắt ra nước mắt cõi người
Giải bài toán duy đáp số mà thôi
Câu thơ tỏa muôn màu lấp lánh
Toán đưa ra tận cùng chân lý
Thơ nâng hồn đến với thanh tao
Tuổi tám mươi bút lực vẫn sóng trào
Cưỡi xe máy trên tầng cây số
Ông tìm đến những điều trăn trở
"Nhà máy Tây trên đất làng ta" **
Sông cần cù chở nặng phù sa
Câu thơ đẫm nhân tình thế thái
"Đường tôi đi người tôi gặp" nhân ái
Cây bút miệt mài sáng nhân văn
* Ý thơ NCT
** Tên các tập thơ văn
Nhà thơ Nguyễn Cảnh Tuấn
NGUYỄN XUÂN HÙNG
Ngay từ những năm giữa thập kỷ 60 thế kỷ trước (XX) bạn đọc trong và ngoài tỉnh đã biết đến Nguyễn Cảnh Tuấn - một cử nhân Toán (bút danh Nguyến Đông Sơn) với những bài thơ đằm thắm thiết tha về quê hương, đất nước, con người. Hơn 50 năm qua với nhà báo "nghiệp dư" vừa dạy học, vừa làm báo viết văn, Nguyễn Cảnh Tuấn đã để lại nhiều ấn tượng cho bạn đọc trong tỉnh. Riêng những người làm báo của tỉnh nhà coi ông là một "Cộng tác viên ruột" một "phóng viên" không mang thẻ nhà báo. Ông rất chịu đi cơ sở, bám sát thực tiễn, đồng cảm sâu sắc với những nỗi đời còn nhiều cay cực với người nông dân chân lấm tay bùn, từ đó tác nghiệp khá nhanh, nhạy và kịp thời các sự kiện mang tính thời sự của tỉnh để động viên phong trào thi đua lao động sản xuất giỏi, góp phần nhân rộng điển hình tiên tiến.. Hơn 55 qua, nhiều bút ký, ghi chép, phóng sự giàu tính phát hiện của ông được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương và địa phương được bạn đọc tiếp nhận, yêu mến. Ông đã nhiều lần được trao giải thưởng về báo chí và Văn học nghệ thuật của tỉnh. Ngoài khả năng viết báo, viết sách, ông còn là người làm thơ rất tích cực. Ông đã xuất bản được 3 tập thơ riêng, ông biên soạn nhiều tuyển tập thơ hay do Nxb. Hội nhà văn, Văn hóa.. ấn hành. Thơ ông không trau chuốt, câu kỳ về câu chữ nhưng thuyết phục người đọc bằng ý tứ và sự chiêm nghiệm cuộc đời. Với cách lập ý thơ chặt chẽ, sử dụng ngôn ngữ thuần Việt làm cho người đọc tiếp nhận một cách rất tự nhiên. Tâm sự về nghề thơ, ông viết: Thơ là một sân chơi không cầu kỳ nhưng phải sáng "cái tôi" sinh ra ở làng quê. Và chính cái nôi làng quê làm cho ông nhận ra "hồn làng" để gửi gắm hồn thơ. Vì thế mà "Tuổi xế chiều vẫn đa mang khát vọng". Hy vọng những khát vọng tuổi xế chiều của ông sẽ tiếp tục được đơm hoa kết trái, đầy hương thơm và trái ngọt trong những thi phẩm tới đây của ông.
Báo Vĩnh Phúc cuối tuần trân trọng giới thiệu thi phẩm của nhà thơ Nguyễn Cảnh Tuấn
30. HƯƠNG CHIỀU – DÒNG THƠ NỐI NHỊP QUÊ HƯƠNG VÀ TÂM HỒN
I. Mở đầu: Một nhịp thơ đời thường nhưng thanh nhã
Trong bức tranh thơ đương đại Việt Nam, giữa biết bao tiếng nói cách tân, phản tư hay khốc liệt hiện sinh, thơ Nguyễn Văn Hùng hiện lên như một mạch suối nhỏ – trong lành, thủ thỉ, tựa lời quê. Hương Chiều – thi tập được xuất bản bởi Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phúc năm 2021 – chính là một minh chứng tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không quá phức tạp về kết cấu hay thâm u về triết luận, thơ ông giản dị mà không đơn sơ, giàu nhạc tính mà không lả lướt, nghiêng về những chiêm nghiệm nhẹ nhàng mà ám ảnh lâu dài.
"Hương chiều" – một hình ảnh gợi hương, gợi sắc, gợi bóng – như khơi mở cả một không gian tâm linh và tâm cảm. Buổi chiều không chỉ là thời khắc trong ngày mà còn là dấu mốc đời người, là lúc lòng người dịu lại để lắng nghe chính mình. "Chút hương chiều.. mênh mang", như ông tự viết, không chỉ là dư vị của một ngày qua, mà còn là dấu yêu của bao tháng năm gom góp, chắt chiu.
II. Thơ Nguyễn Văn Hùng – một ngôn ngữ của hồi tưởng, yêu thương và dưỡng nuôi đạo sống
1. Giọng thơ trầm tĩnh và chín muồi
Ở Hương Chiều, người đọc sẽ không thấy những tuyên ngôn thi ca hay các bút pháp hình thức cầu kỳ. Thay vào đó là một tiếng nói thành thật – của một người từng trải, sống và quan sát cuộc đời bằng đôi mắt dung dị nhưng thẳm sâu. Bài thơ "Chiều đông" như một hồi ức ngược dòng đầy cảm xúc:
"Chiều đông ngồi ngắm chiều đông
Lại chơi trò tập tầm vông thuở nào
Cháu cười, ông cũng hùa vào.."
Cái "tập tầm vông" ấy không chỉ là một trò chơi, mà còn là chiếc cầu nối thời gian, kết dính ký ức và hiện tại. Có tiếng cười trẻ thơ, có ánh mắt ông lão, có chiều đông gợi nhớ và cũng gợi yêu.
2. Thi vị hóa đời sống bằng thơ
Thơ Nguyễn Văn Hùng không đứng ngoài cuộc sống, không trốn vào tháp ngà hay vườn ngôn ngữ siêu hình. Ngược lại, ông làm thơ để sống, để "ghi chép" tâm hồn mình vào những chi tiết nhỏ nhặt, đời thường nhất – cành hoa bưởi, buổi chiều làng, dáng người phụ nữ tuổi xế chiều.. Trong bài thơ "Mừng xuân sang", ông viết:
"Vườn nhà có chùm hoa bưởi
Ngào ngạt hương mừng xuân sang.."
Không cần sự kỳ vĩ của thiên nhiên đại ngàn, chỉ cần một vườn nhà nhỏ, một mùi hoa quen, cũng đủ để vẽ nên một mùa xuân trọn vẹn. Thơ ông nhắc ta rằng: Có những vẻ đẹp nằm ngay trong đời sống bình dị, chỉ chờ người thơ nâng niu và ghi lại.
3. Nét đạo vị nhẹ nhàng và ẩn mật
Một phần đặc sắc trong Hương Chiều là những bài thơ mang hơi thở nhà Phật, như "Cõi Phật", "Giữ phận cho mình mãi mãi xuân".. Nhưng điều đáng quý là ông không làm thơ như một bài kinh tụng, mà làm thơ như một hành vi sống, sống trong tĩnh tại, sống với biết ơn và chiêm nghiệm.
"Cầu đức một lòng xây tháp đức
Tu nhân trọn kiếp dựng thi nhân.."
Đó là quan niệm sống thi ca hóa: Thơ là tu, sống là đạo, mà đạo cũng là một cách yêu thương đời. Phật không ở nơi xa lạ mà "phật tại tâm". Ngôn từ không giáo điều, mà hóa thành tiếng thở, tiếng lòng.
III. Thế giới thi ảnh trong Hương Chiều: Giản dị mà tinh tế
1. Người phụ nữ trong thơ – duyên dáng và thanh cao
Nhiều bài thơ dành cho người bạn đời, hoặc hình tượng người nữ nói chung, xuất hiện trong Hương Chiều với giọng điệu ân tình, kính trọng, pha chút lãng mạn cổ điển. Trong bài "Mãi bên đời", ông viết:
"Nàng đẹp bên đời bảy chục xuân
Đoan trang hiền thục mãi thêm gần.."
Không hoa mỹ lộng lẫy, nhưng đầy trân quý. Bảy chục xuân không làm phai nhạt hình ảnh "tà lụa còn duyên thắm", bởi người thơ yêu cái đẹp không chỉ bằng mắt, mà bằng cả trái tim đã đi qua thăng trầm.
2. Những bài thơ về quê hương – tình yêu lặng lẽ nhưng sâu xa
Hơi thở quê hương thấm đẫm trong nhiều bài: Từ "Chiều hòa bình" với "mây khói mờ sương lạnh", đến "Biển đêm" nơi trăng, biển, và lòng người đối thoại. Ông không tạo dựng không gian bằng bút pháp mô tả trực tiếp, mà qua cảm xúc chảy tràn, thơ như một cuộc trở về không dứt.
"Nghe biển hát ngân nga bờ sóng vỗ
Môi ấm lạnh hòa trong hơi gió.."
Chất "lạnh" và "ấm" ấy chính là sự giao cảm giữa người và cảnh, giữa hiện tại và ký ức, giữa cái hữu hình và cái khôn lường.
3. Ngôn ngữ thơ: Tinh luyện và nhạc tính
Thơ Nguyễn Văn Hùng thường ngắn, câu thơ gọn và âm vang. Không dùng nhiều thủ pháp tu từ rối rắm, nhưng lại khéo léo gieo vào câu thơ một nhịp điệu êm đềm, dễ đọc, dễ ngấm. Nhiều bài thơ như thể được viết ra để.. thủ thỉ, như một tiếng nói nội tâm hơn là lời trình diễn.
IV. Vị trí và giá trị của tập thơ Hương Chiều trong dòng chảy thơ địa phương và đương đại
Trong dòng chảy văn học đương đại, nơi thơ ca đang mang nhiều khuynh hướng biến đổi, hiện đại hóa hay thậm chí cực đoan hóa thi pháp, thơ Nguyễn Văn Hùng vẫn giữ được một giọng riêng, giản dị và bản sắc. Hương Chiều không có tham vọng lớn lao, nhưng lại đóng góp một điều quan trọng: Nó gìn giữ chất quê, chất người và tâm hồn trung du Bắc Bộ bằng thi ca.
Đối với thơ địa phương – đặc biệt là Vĩnh Phúc – Hương Chiều có thể xem như một nốt lặng quý giá: Lặng để nghe, để nghĩ, và để giữ lấy một giọng quê nguyên bản. Đây là dòng thơ làm nhiệm vụ "gìn vàng giữ ngọc" cho văn hóa tinh thần, trong một thời đại mà nhiều giá trị truyền thống đang dần mai một.
V. Kết luận: "Hương chiều" – một niềm thơ mộc mạc mà sâu xa
Nếu cần một cụm từ để gọi tên Hương Chiều, thì có thể gọi đó là "thơ của sự chậm rãi". Không ồn ào, không gấp gáp, không tìm cách gây ấn tượng bằng hình thức. Nhưng càng đọc, càng thấy thơ ông có độ lắng, có chiều sâu và có sức gợi ngẫm lớn.
"Hương" là thứ không nhìn thấy nhưng ngấm lâu. "Chiều" là buổi của hồi tưởng và của lòng người lắng lại. Thơ Nguyễn Văn Hùng – cũng như chính tập thơ này – là sự kết tinh của cả hai điều ấy.
Và có lẽ, giữa một thế giới nhiều biến động, chúng ta càng cần đến những tiếng thơ như vậy – để giữ mình, để giữ quê, để giữ những phần người tử tế nhất trong chính ta.