Khung cảnh đêm tĩnh mịch đến rợn người, chỉ còn tiếng gió rít qua khe cửa, hòa cùng tiếng lách tách dầu sôi trong ngọn đèn leo lét. Bóng của Chủ nhân Thanh Long Sơn đổ dài trên vách, như phản chiếu nội tâm u uất và đầy toan tính.
Gã ngước nhìn tấm bản đồ trải rộng trước mặt, ánh mắt sâu như giếng cạn. "Đánh bại Tam tướng Gia Định tại Bình Thuận trong vài ngày.." - giọng hắn khàn đặc, như tự nói với mình mà cũng như muốn truyền lệnh cho những kẻ vô hình quanh đó. "Nam Bình Vương.. kẻ này không đơn giản. Chỉ e hắn đang nắm trong tay quá khứ - nơi chôn giấu bí mật của ta."
"Phải ra tay trước khi quá muộn" Chủ nhân Thanh Long Sơn khẽ khàng đứng dậy, bước ra ngoài hiên, nơi gió thốc từng cơn lạnh buốt. Xa xa, dưới chân núi, đèn trại lác đác như sao tàn.
Sau chiến thắng mùa xuân Kỷ Dậu, đại thắng Bình Thuận - Khởi đầu kỷ nguyên Việt Nam hùng cường dưới thời Quang Trung Đại Đế
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), dưới ngọn cờ đại nghĩa, vua Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, cứu nguy non sông, khôi phục giang sơn, mở đầu một thời đại huy hoàng. Ngay sau đó, cùng với đại thắng Bình Thuận - nơi Nam Bình Vương lập công hiển hách, đánh tan thế lực Nguyễn Ánh ở miền Nam, triều đại Tây Sơn hiên ngang bước vào giai đoạn kiến quốc. Và chính trong thời khắc đất nước vừa ngưng tiếng súng, vua Quang Trung - vị thiên tài kiệt xuất – đã chứng minh rằng ngài không chỉ là bậc kỳ tài quân sự, mà còn là nhà chính trị lỗi lạc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Với tầm nhìn xa trông rộng, nhà vua bắt tay ngay vào công cuộc cải tổ quốc gia. Ngài chia lại hành chính Bắc Hà, tổ chức thành các đơn vị quản lý hiệu quả. Ngài tiến hành cải cách thuế khóa, điều chỉnh lại chế độ ruộng đất, khuyến khích sản xuất, phục hồi kinh tế. Nhà vua thực thi nền giáo dục phổ thông. Trường học được mở khắp thôn xã; nơi nào không đủ điều kiện, ngài cho tận dụng đình chùa làm lớp học. Đặc biệt, Nhà vua đã khởi xướng cuộc cách mạng ngôn ngữ khi ra lệnh dùng chữ Nôm trong toàn bộ chiếu biểu, văn thư hành chính. Đây là cuộc khẳng định hùng hồn về bản sắc dân tộc, đưa tiếng Việt thoát khỏi ách Hán văn, đặt nền móng cho quốc ngữ sau này.
Quân đội Tây Sơn được tổ chức bài bản thành 05 đạo quân chủ lực. Trang bị đầy đủ vũ khí, tinh thần gan dạ và khả năng thiện chiến đặc biệt nhất là trong việc dùng vũ khí mới, hỏa hổ và phục binh. Nhà vua không thân chinh đi đón sắc phong, hủy bỏ hủ tục cống người vàng từ thời Lê..
Cuối đông năm Kỷ Hợi (1791), khi sắc trời phương Nam nhuộm vàng như ánh tà dương sau một ngày rực lửa, cũng là lúc ánh sáng chói lọi của một đế vương vĩ đại bắt đầu nhạt dần trong lặng lẽ. Giữa chốn Phú Xuân lộng gió, người anh hùng từng khiến thiên triều run rẩy, từng nhuộm đỏ cờ vàng giữa bão lửa Thăng Long và Bình Thuận, nay bắt đầu bước vào một trận chiến thầm lặng - cuộc chiến với chính thời gian và thân thể mỏi mòn.
Quang Trung - vị thiên tử áo vải của dân tộc - dẫu mang trong mình những dấu hiệu bệnh tật, vẫn chưa từng một lần để lộ trước triều thần. Từng cánh tay đã vung gươm bạt núi, từng bàn chân vượt trùng thiên hiểm địa, nay vẫn miệt mài lật bản đồ trong bóng đêm, tính từng nước cờ dựng đô, chuẩn bị thế trận Bình Nam, chinh Bắc đoạt lại Lưỡng Quảng. Trong mắt ngài, chí lớn vẫn cháy hừng hực. Trên điện Cần Chính, lửa trong lư trầm đã tàn, mà bóng người vẫn bất động bên án thư. Nam Bình Vương và nội giám thân cận của Nhà vua quỳ xuống nghẹn ngào:
"Phụ hoàng.. xin Người giữ gìn long thể. Thiên hạ đã yên, cõi bờ đã vững, nhân dân đang từng ngày ấm no dưới trời mới.. Xin người hãy nghỉ ngơi, dưỡng sức cho nghiệp lớn trường tồn."
Nhà vua không ngoảnh mặt, tay vẫn lần theo cuộn bản đồ đang mở dở. Ngón trỏ gầy gò run nhẹ, nhưng vẫn kiên định di theo đường núi Trường Sơn, băng qua sông Hồng, tới tận biên viễn Lưỡng Quảng.
Một hồi lâu sau, tiếng người như vọng từ đáy vực của lịch sử:
"Trẫm không mỏi.. Chỉ là đất nước chưa thể dừng. Phương Nam còn nhiều nỗi lo. Lưỡng Quảng chưa quy cố quốc. Một ngày trẫm còn thở, thì một ngày còn phải lo cho giang sơn, cho muôn dân"
Nam Bình Vương và Nội giám dập đầu sát đất, không dám nói thêm. Đôi vai run rẩy, Nguyễn Minh hiểu rõ: "Người trước mặt không chỉ là một Hoàng đế, mà là linh hồn của cả một dân tộc đang vươn mình trong cơn chuyển vận"
Đầu hạ Nhâm Tý (1792)
Trời đất Phú Xuân như rùng mình trước tin giặc Nguyễn Ánh bất ngờ xuất quân đánh úp Thị Nại. Tin báo từ Điệp ảnh quân truyền về dồn dập: Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân đã dẫn đại quân và hạm đội từ cửa Cần Giờ, lợi gió nam tấn công thủy trại Tây Sơn.
Trên điện Kính Thiên,
Quang Trung Đại đế đứng lặng trước tấm bản đồ trải rộng. Mắt ngài không còn sáng như xưa, ho từng cơn kéo dài. Nhưng trong trái tim, ngọn lửa Tây Sơn vẫn chưa tắt.
Bên cạnh,
Nam Bình Vương - vị hoàng tử yêu quý của Nhà vua, mặc chiến bào đen, đeo
kiếm tổ Bình Nam, cúi mình chờ lệnh. Trên người Minh còn có chiếc
túi da nhỏ - bên trong là
những nghiên cứu dở dang về y học, mang theo tâm huyết suốt ba năm trời trong mật thất của Ngài.
Nhà vua trao cho Nguyễn Minh
Kim bài lệnh tướng, đôi tay run khẽ nhưng ánh mắt vẫn uy nghi như thần linh:
"Minh nhi, ta biết Thị Nại là trận sống còn. Lần này hoàng nhi xuất chinh, không chỉ vì giang sơn, mà còn để thay Trẫm gióng trống giữ thành. Trẫm.. có thể không còn đủ sức để cưỡi ngựa xông pha như xưa nữa."
Nam Bình Vương siết tay, quỳ gối, dập đầu ba cái, nhận kiếm quỳ lạy:
"Tâu Bệ hạ, nhi thần thề đội trời đạp sóng, nhuộm đỏ biển Thị Nại bằng máu nghịch thần! Chiến thắng lần này, không chỉ giữ bờ cõi, mà còn ghi danh Đại Việt ngàn thu!"
Nam Bình vương ôm chặt nhà Vua giữa đại điện. Lần đầu tiên, những giọt nước mắt rơi trên má Nguyễn Minh - không phải vì sợ, mà vì biết: Đây có thể là lần chia tay định mệnh.
Đầm Thị Nại - Hải Hạc Đàm, một đầm nước mặn nằm phía
Đông Bắc Bình Định, có diện tích khoảng 5.000
ha, chạy dài hơn 10
cây số, bề rộng khoảng 4
cây số . Thị Nại là đầm lớn nhất của Bình Định, sông Côn, sông Hà Thanh đều chảy về đây. Sa bồi tụ dần theo năm tháng khiến cho đầm mỗi ngày một đầy thêm. Khi nước
triều lên thì mặt đầm nước mênh mông, vào những hôm trời gió, sóng dập dờn như mặt
biển . Những lúc triều xuống, nước rút cạn để trơ lòng đầm, sình lầy lai láng.. Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên là cửa Giã.
Sáng mờ sương trên đỉnh Ngọc Hồi Sơn nhìn xuống đầm Thị Nại, sóng biển vỗ bờ như tiếng trống thúc quân từ lòng đất vọng về. Giữa doanh trại Tây Sơn, mười vạn quân đứng chỉnh tề, áo giáp sáng rực dưới ánh dương đầu ngày. Cờ đào Tây Sơn bay cao trên vọng lâu trung tâm, nơi Nam Bình Vương đứng sừng sững như một pho tượng đồng khắc từ khí phách trời Nam.
Người vận chiến bào đen thêu rồng bạc, mắt sáng như sao Hôm, tay đặt lên hộ tâm khiên - tấm giáp hộ mệnh đã từng chặn gươm đạn giặc không biết bao lần. Gió biển lồng lộng thổi tung áo choàng, làm rực lên hào quang chói lọi của vị tướng tài sinh ra giữa binh đao, lớn lên cùng phong vũ.
Nam Bình Vương cất giọng trầm hùng, vang dội cả núi rừng:
- "Tướng sĩ! Quân Nguyễn Ánh đã đem 100 trăm chiến thuyền, một vạn quân, lại có cả pháo Tây Dương, vọng tưởng chiếm Thị Nại, chiếm Quy Nhơn. Chúng quên mất rằng đây là đất của anh hùng! Hôm nay, Nam Bình Vương ta tuân lệnh Bệ hạ quyết cùng các khanh một trận sống còn, để sóng Thị Nại rửa sạch mộng xâm lăng của quân thù!"
Người chỉ về phía Tây Bắc:
- "Võ Văn Dũng! Trấn thủ trung quân! Ngươi lĩnh Định Quốc hạm đội, mũi đâm thẳng vào trung tâm địch, cắt làm hai cánh thủy sư Nguyễn!"
Võ Văn Dũng bước ra, giáp trụ sáng lóa, ôm quyền quát lớn:
- "Thần xin lĩnh mệnh! Nếu không phá được soái hạm địch, thề không trở về gặp Chủ soái!"
Nam Bình Vương gật đầu, chỉ sang tả dực:
- "Vũ Văn Thành! Lão tướng thủy trận, nhiều phen đại phá giặc sông Tiền, sông Hậu! Ngươi dẫn thuyền nhẹ, đánh tạt sườn trái, dùng biển làm mai phục, lấy sóng đánh thuyền!"
Vũ Văn Thành cười lớn:
- "Cho giặc biết tay lão già sông nước! Một trận này, ta cho chúng rụng tay chèo!"
Người quay sang hữu dực:
- "Nguyễn Văn Trà! Thuyền nhẹ, quân tinh, đánh nhanh rút lẹ. Ngươi áp dụng kế 'phiên thuyền du kích', quấy rối hậu địch, rồi vòng ngược cắt đường rút. Nhớ, không phải giết nhiều, mà phải khiến chúng tan hàng loạn trí!"
Nguyễn Văn Trà nắm tay gươm, ánh mắt sáng ngời:
- "Một mũi tên, một thuyền giặc, thần sẽ khiến chúng chẳng phân nổi đâu là biển, đâu là mồ!"
Người chỉ lên bờ:
- "Phạm Văn Định! Nguyễn Hoạch! Lập trận địa pháo từ núi Phúc Kiến tới chân Sa Kỳ! Mỗi thớ đất là một nòng đại bác! Khi hiệu lệnh tung lên, bắn giặc trước khi chúng cập bờ!"
Phạm Văn Định dõng dạc đáp:
- "Pháo trận sẵn sàng. Một viên pháo rơi, một tướng giặc chết!"
Hắc Ảnh đội đặc biệt tinh nhuệ - mang theo hỏa tiễn, súng liên thanh, thủy lôi tự chế chuẩn bị xuất trận. Cuối cùng, Nam Bình Vương đưa tay chỉ lên trời, tuyên bố:
- "Còn ta, Nam Bình Vương - giữ soái hạm Lôi Long, chỉ huy toàn quân! Nếu thuyền giặc vượt được Định Quốc hạm, ta sẽ nghênh chiến, một mình phá tan soái thuyền giặc Nguyễn!"
Sóng biển gầm gào như vạn mã cùng lúc phi nước đại. Trên cao, đàn hạc trắng vỗ cánh bay ngang trời, như điềm báo một trận đại chiến đang đến gần.
Trời tháng Hai, gió nồm rít qua đầm Thị Nại như những tiếng hú gọi hồn. Mặt biển mênh mông cuộn sóng, như linh khí đất trời cũng chuẩn bị nghênh đón cơn cuồng phong lịch sử.
Từ phía đông khơi xa, hàng trăm cánh buồm trắng như cánh hạc trải dài tới tận chân trời. Đó là đại quân Nguyễn Ánh - hơn ba trăm chiến thuyền lớn nhỏ, dàn trận uy nghi. Trên kỳ đài đầu thuyền chỉ huy, lá cờ thêu chữ "Minh Mệnh Chi Chinh" bay phần phật. Tiếng tù và, tiếng trống trận dồn dập từ thuyền đầu vọng về như sấm dậy.
Nguyễn Ánh thân chinh đứng giữa soái thuyền, mắt dõi theo từng dãy chiến hạm gầm gừ tiến vào đầm Thị Nại. Bên cạnh ông là các danh tướng: Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Tống Phước Lương và các sĩ quan Pháp như Chaigneau, Vannier, Forcanz.. người nào cũng mắt sáng như sao, chiến bào bay phần phật giữa khói sương.
Trước mặt họ là phòng tuyến vững chãi của quân Tây Sơn. Vào canh ba ngày 11/4/1792, khi sao trời còn khuất sau mây, Nguyễn Ánh hạ mật lệnh xuất quân. Bộ binh Tiền chi Hoàng Văn Khánh bí mật theo đường Vũng Dừa, đặt mai phục sau núi, chờ hiệu lửa Tiêu Cơ mà hãm thành. Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông, chặn đường cứu viện. Nguyễn Ánh thân chinh dẫn thủy quân, gươm sáng như sao băng, trống trận dậy đất. Võ Di Nguy đánh chính diện, Lê Văn Duyệt xuất quân tiếp ứng, khí thế như nước triều dâng.
Trời vừa hửng sáng ngày 13/4/1792, hạm đội Nguyễn Ánh với hơn 100 chiến thuyền, phất cao cờ, ồ ạt tiến vào đầm Thị Nại. Trên soái thuyền Long Phi, Nguyễn Ánh mặc giáp bào sáng loáng, mắt lạnh lẽo dõi về phía trước. Bên cạnh hắn, các tướng lĩnh trung thành như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, cùng lũ cố vấn Tây Dương đắc ý cười khẩy:
"Tây Sơn chỉ còn là xác không hồn! Một trận này, ta sẽ quét sạch chúng!"
Trên tàu soái hạm Lôi Long, Nguyễn Minh dùng bản đồ số hóa phác thảo để dựng lại bố trận. Các pháo đài được dựng bí mật trong vịnh, gắn đầy thuốc súng phản lực và hệ thống bắn chéo - khiến quân địch không thể tránh. Ngay khi đến Thị Nại, Nguyễn Minh lập tổng hành doanh trên đảo Cù Lao Xanh, cho người đắp mô hình địa hình, dựng một trung tâm chỉ huy bằng kính lăng trụ có thể quan sát toàn trận địa bằng ống nhòm và máy ảnh phóng đại. Nam Bình Vương lệnh cho các tướng phối hợp tạo thành ba tầng thế trận:
Trận giả ngoài khơi - Dụ địch quân xông vào
Cho một số chiến thuyền cũ được ngụy trang như đang vội vã tháo chạy, chỉ mang quân tượng gỗ và phướn hiệu Tây Sơn. Đặc biệt, Nam Bình Vương cho thả truyền đơn vẽ tay (dạng đơn sơ bằng giấy dầu) để "vô tình" rơi vào tay địch, vẽ sơ đồ "giả" bố trí phòng thủ mục tiêu khiến quân Nguyễn tin rằng: Tây Sơn đang yếu thế, hoảng loạn, có thể tiêu diệt trong một đòn! Trên các "chiến thuyền mồi nhử", Minh còn gài các thiết bị kích nổ từ xa – chỉ cần địch tiếp cận quá gần, toàn bộ đội hình tiên phong sẽ bị phá hủy.
Ngoài tra, Nguyễn Minh cho gài "hỏa châm thủy lôi" (loại bom tự chế có kíp nổ hẹn giờ hoặc chạm nổ) quanh đầm Thị Nại, sắp xếp thành hình móng ngựa, giữa để trống như thể mời gọi quân địch tiến vào "khe an toàn". Các vị trí đá ngầm được lắp thêm chông sắt dưới nước, để thuyền địch mắc cạn sẽ bị thủng đáy. Đồng thời, hai bên bờ vịnh được giấu các giàn hỏa pháo cổ điển, pha lẫn súng máy quay tay mà Minh đã cho triển khai lắp ráp được bằng kỹ thuật hiện đại.
Nam Bình Vương cho buộc diều lớn hình chim ưng, gắn gương phản chiếu và ống ngắm quan trắc từ xa – tạo thành hệ thống quan sát toàn trận địa từ trên cao.
Nhờ đó, khi quân địch vào vịnh, từng bước di chuyển đều được cập nhật liên tục, cho phép Vương chỉ huy pháo binh và thủy quân tấn công chính xác từng đợt xung kích.
Khi quân Nguyễn vượt sóng tràn vào, thấy vài chiến thuyền Tây Sơn "bị bỏ lại", chúng lập tức đánh thẳng vào giữa lòng vịnh - khe giữa hình móng ngựa, nơi tưởng như sơ hở, nhưng thực chất là họng súng địa ngục.
Ngay khi chiến thuyền của Nguyễn Văn Trương tiến sâu vào trung tâm, hạm đội Nguyễn tiến sâu vào lòng vịnh, đột nhiên, từ hai bên bờ, hàng trăm hỏa tiễn phóng lên như rồng lửa, đốt cháy cả một góc trời. Những chiếc thuyền mồi nhử của Tây Sơn bỗng nổ tung, kéo theo hàng chục thuyền địch chìm nghỉm.
"Bắn! Bắn hết!" – Lê Văn Duyệt gào thét
Minh ra lệnh kích nổ các chiến thuyền mồi - sóng xung kích làm lật 10 thuyền địch, lửa cháy đỏ cả mặt biển. Hai bên bờ vịnh đồng loạt khai hỏa – hỏa tiễn, hỏa hổ, súng máy cùng lúc trút bão lửa xuống đội hình địch, không để kẻ nào kịp rút lui. Dưới nước, các thủy lôi nổ tung, giết hàng ngàn quân địch ngay trong làn sóng biển đỏ máu. Nguyễn Minh trên soái hạm Lôi Long, bình thản nâng khẩu súng ngắm, nhắm thẳng vào khoang chỉ huy của thuyền Nguyễn Văn Thành - một phát xuyên vai khiến Thành gục xuống, thuyền loạn đội hình.
Ngày 13/4/1792, thuyền chiến Tây Sơn do Nguyễn Minh dẫn đầu cùng các danh tướng dàn quân trong đội hình "Bàn Long Xuất Hải".
Thủy quân đóng hình vòng cung trong vịnh, các pháo đài được ngụy trang dưới giàn cây, các chiến thuyền chở tượng gỗ làm mồi nhử. Trên không, diều quan sát của Minh bay lượn, mang gương phản quang và dây dẫn thông tin, lần đầu tiên trời Nam có "mắt rồng" theo dõi toàn trận. Lúc quân Nguyễn tiến vào, lửa được châm từ bờ đông - hỏa hổ và đại bác cùng khai hỏa từ cả hai cánh, biển lập tức cháy như lò luyện. Tiếng trống trận của Võ Văn Dũng vang lên 3 hồi, đội thuyền Tây Sơn từ hậu phương phóng ra như đàn cá kiếm phá vỡ vòng vây, đánh úp từ hai sườn. Nguyễn Minh cưỡi soái hạm Thiên Long, tay cầm súng ngắm, tay chỉ huy giàn hỏa lực. Một phát súng, nguyễn Văn Trương trúng đạn ở cổ, thuyền loạn.
Lệnh truyền đặc biệt được phát ra từ Minh:
"Khóa đuôi! Mở bụng! Lôi thần diệt sạch!"
Tức thì hàng loạt mìn nước và súng liên thanh quay tay được kích hoạt - tiếng nổ long trời lở đất, xác thuyền trôi nổi như rác biển, máu đỏ trôi cả vào bờ cát.
Ngay khi hạm đội Nguyễn vừa tiến vào đầm, sương mù nhân tạo từ thuốc nổ lạnh Minh chế tạo bao phủ toàn bộ khu vực, khiến tàu Nguyễn mất phương hướng. Khi vừa phát hiện, bè mìn kích nổ, pháo binh Tây Sơn trên bờ và đảo nổ như sấm. Trận địa ba tầng, năm lớp từ bờ đến lòng đầm, khiến quân Nguyễn như rơi vào địa ngục biển.
Từ giờ Dần đến giờ Ngọ, súng nổ rung trời, khói lửa mịt mùng, đạn đồng bay như châu sa trút xuống. Lê Văn Duyệt kẻ mới mấy ngày trước còn ngạo nghễ nhìn ra cửa biển, cười lớn: - "Thị Nại hôm nay là huyết lộ, ta đem đầu giặc Tây Sơn về tế cờ!" Ngờ đâu, tất cả chỉ là kế "dụ hổ vào rừng sâu". Nam Bình Vương cố tình lùi quân, để doanh trại trống không, thuyền bè neo rải rác, như muốn bỏ chạy..
Chính khi ba đạo thuyền Gia Định tiến sâu vào vịnh, từ sau những hòn đá vôi và rặng núi ven biển, pháo Tây Sơn đồng loạt khai hỏa. Biển nổi sóng, đất rung chuyển. Hai bên sườn vịnh, thuyền mai phục từ lòng vũng trồi lên như cá kình quẫy lưới. Hỏa hổ, hỏa tiễn, pháo sấm liên tiếp giáng xuống. Cả một khúc vịnh biến thành lò luyện binh. Gió biển thốc ngược, đẩy lửa bén vào thuyền quân Nguyễn.
Quân Tây Sơn như từ lòng đất chui ra, như từ bụng sóng dậy lên, xung thiên quyết tử. Thuyền Gia Định rối loạn, kẻ trước cắm đầu, người sau đạp xác mà chạy. Nguyễn Văn Thành bị mảnh pháo xé toạc giáp ngực, máu ứa ra mà vẫn gào lớn:
- "Trúng kế rồi! Mau rút! Mau rút!"
Lê Văn Duyệt mặt trắng bệch, hai mắt đỏ hoe, giáng mạnh chuỳ vào cột buồm hét: - "Thuyền nào dám lui, ta chém trước!"
Nhưng chẳng kịp nữa. Cánh trái bị thiêu rụi, cánh phải bị cắt rời, đường rút bị mai phục khóa chặt. Lê Văn Duyệt đành phải bỏ chiến hạm, chui xuống ghe nhỏ, che mặt trốn giữa đoàn dân binh, lấm lét thoát thân, chạy thục mạng về Nam. Nguyễn Văn Thành mình dính đầy máu, được vài tàn binh kéo lên chiếc thuyền nhỏ, vừa chèo vừa khóc:
- "Một đời danh tướng của ta!"
Giữa biển Thị Nại đỏ lửa, giữa khói thuốc nổ và sóng nước dập dờn, Nam Bình Vương đứng sừng sững trên đầu thuyền, ánh mắt như thép, không một chút dao động. Từng bước tiến lên như một con sư tử đang vẫy gọi chiến trường. Nam Bình Kiếm trong tay ông tỏa sáng, phản chiếu ánh mặt trời như ánh sao băng rực rỡ giữa biển khơi. Mái tóc dài của Nguyễn Minh bay trong gió, trang phục võ sĩ lấp lánh dưới ánh nắng. Cả quân Tây Sơn đứng phía sau, rầm rầm hô vang tên ông: "Nam Bình Vương, thần tướng của Đại Việt!"
Ngay lúc ấy, từ phía đối diện, Nguyễn Ánh, với sắc mặt tái nhợt, đứng trên chiếc thuyền Long Phi của mình, cố nén nỗi lo sợ đang dâng trào trong lòng. Chúa Nguyễn gầm lên lệnh cho quân sĩ nhưng tiếng của ông bị lấn át bởi tiếng sóng vỗ, gió rít, và tiếng la hét của quân Tây Sơn xung quanh. Ánh mắt của Nguyễn Ánh đầy sự hoang mang. Mỗi khi nhìn về phía Nguyễn Minh, nỗi khiếp sợ lại bùng lên trong tim hắn.
Biển lửa hừng hực, sóng vỗ đập vào bờ như thét gào, gió biển rít lên từng cơn, thổi đi mùi khói thuốc súng nồng nặc, bao phủ cả một vùng trời. Trên chiến trường, quân Tây Sơn lừng lững như sóng thần, hùng dũng lao vào trận đánh quyết liệt, làm biển khơi như bốc cháy. Trái ngược hoàn toàn, Nguyễn Ánh, với đôi mắt hoang mang, đứng trên chiếc thuyền Long Phi, thoáng chốc đã nhận ra sự thất thế của mình. Dưới chân hắn, cả một hạm đội lớn của quân Gia Định dần dần bị đánh tan tác, thuyền bốc cháy, quân sĩ hoảng loạn.
Nguyễn Ánh không thể đứng yên. Ngay khi ông nhìn thấy bóng dáng của Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh - người con trai tài ba của Quang Trung - đang dẫn quân Tây Sơn với khí thế áp đảo, nỗi sợ hãi không thể kìm nén bùng lên trong lòng ông. Nguyễn Minh đang đứng trên đầu thuyền, vung thanh Bình Nam kiếm, ánh mắt sắc lạnh nhìn vào đội quân Nguyễn Ánh. Giữa trận chiến hỗn loạn, Nguyễn Ánh không còn dũng khí để đối đầu với Nguyễn Minh. Hắn quay sang các tướng dưới quyền, ra lệnh:
"Rút lui! Rút lui ngay lập tức!"
"Nguyễn Ánh! Ngươi là kẻ bán nước, là quân phản loạn! Ngươi có tư cách gì đối diện với Đại Việt, đối diện với tổ tiên Lạc Hồng, đối diện với Quang Trung Đại đế và quân Tây Sơn ta?"
Trong trận chiến Thị Nại, một cảnh tượng hỗn loạn và kinh hoàng diễn ra trên biển, khiến những người chứng kiến không khỏi rùng mình. Sau lệnh rút lui của Nguyễn Ánh, những chiếc thuyền chiến của quân Nguyễn hoảng hốt tháo chạy, tán loạn trên mặt biển mịt mờ khói lửa. Cùng với đó, các tướng dưới quyền của Nguyễn Ánh cũng không thể thoát khỏi số phận bi thảm.
Các danh tướng lừng lẫy Gia Định không thể vãn hồi tình thế, với những vết thương khắp người, họ chỉ còn biết cắm đầu chạy trốn, để lại đằng sau một đội quân tan tác và bại trận. Những tướng lĩnh từng là niềm tự hào của quân Nguyễn nay trở thành những người thương tích đầy mình, bỏ chạy khỏi tay Nguyễn Minh và quân Tây Sơn.
Nguyễn Ánh, chứng kiến cảnh tượng bi thảm đó, không thể không cảm thấy sợ hãi tận xương tủy. Hắn đã hiểu rằng, dù có rút lui, quân Tây Sơn sẽ không bao giờ để hắn yên. Đằng sau hắn là Nguyễn Minh, thần tướng với ánh mắt lạnh lùng như hổ đói, tàn nhẫn và quyết liệt. Chính Minh đã dồn quân Nguyễn vào bước đường cùng, khiến họ phải chạy tán loạn, để lại những tướng quân thương tích đầy mình, mặt mày tái mét, hoảng loạn trong đau đớn. Minh bật cười nhạo một cách tự nhiên:
"Trốn như lươn, Nguyễn Ánh. Có lẽ ngươi sẽ luôn phải sống trong sự khiếp sợ này suốt đời."
Chỉ trong ba ngày, nửa vạn quân Nguyễn, 80 chiến thuyền bị tiêu diệt hoàn toàn, danh tướng tướng Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương biệt tích. Biển Thị Nại từ xanh trong đã chuyển sang đỏ thẫm. Nguyễn Ánh phải cắt tóc giả dân thường, lén lút trốn trên chiếc ghe nhỏ bỏ chạy, trốn chui trốn nhủi gần nửa tháng mới về tới Gia Định. Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, cố vấn người Pháp cùng tàn binh ước chừng 2.000 chạy thục mạng về Nam. Từ tàu chỉ huy, Nguyễn Minh ngẩng lên nhìn trời:
"Anh linh tiên tổ Lạc Hồng hiển minh, Rạch Gầm - Xoài Mút của Phụ hoàng, Thị Nại hôm nay là của Nam Bình Vương"
Mùa hạ tháng 4/1792, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh đại thắng quân Nguyễn tại đầm Thị Nại, đánh bại hoàn toàn hạm đội của Nguyễn Ánh. Cảnh tượng chiến thắng oanh liệt, ngọn lửa bùng lên từ thuyền chiến, mặt biển đỏ lửa, lấp lánh dưới ánh nắng mùa xuân. Quân Tây Sơn tiến vào, khí thế hừng hực, lòng người nức nở ca ngợi.
Từng đoàn người ùa ra khỏi làng mạc, cờ đào Tây Sơn rợp trời Quy Nhơn. Tiếng trống, tiếng chiêng rền vang khắp phố phường, hòa cùng điệu hát "Nam Bình Vương diệt giặc!". Trẻ con cầm hoa phượng đỏ chạy theo đoàn quân thắng trận, đôi mắt sáng ngời niềm kiêu hãnh. Các cụ già rưng rưng nước mắt, bưng mâm cơm cúng tổ tiên báo tin đại thắng. Phụ nữ Quy Nhơn xếp hàng dâng lên Nam Bình Vương những giỏ trái cây thơm ngọt, tiếng nói nghẹn ngào: "Xin tạ ơn Nam Bình Vương điện hạ đã giữ yên sơn hà!" Trên bến cảng, thuyền chài giăng đèn lồng đỏ rực, ánh lửa phản chiếu xuống mặt nước như muôn ngàn sao sa. Khắp các ngả đường, người người nhảy múa quanh đống lửa trại, ném những lá cờ Nguyễn Ánh vào ngọn lửa bập bùng. Tiếng hô "Đại Việt thiên thu!" vang xa tới tận chân trời, khiến cả vùng trời Thị Nại như rung chuyển. Trong khoảnh khắc ấy, niềm vui chiến thắng hòa làm một với lòng biết ơn vô hạn dành cho vị tướng trẻ - người đã viết nên khúc tráng ca bất diệt giữa biển máu Thị Nại.
Trong khung cảnh muôn dân đang tưng bừng ăn mừng chiến thắng, Nam Bình Vương đứng trước bản đồ chiến sự, tay nâng bức
"Thị Nại chiến thắng" viết trên lụa vàng. Ngài nghiêm trang truyền lệnh:
Điệp ảnh quân nghe lệnh: Lập tức mang tin chiến thắng bẩm báo Hoàng thượng: Thị Nại đã thành mồ chôn quân thù! Mười vạn quân Gia Định mạng vong, hai trăm chiến thuyền bị đốt cháy! Nguyễn Ánh cắt tóc trốn chạy.
Khi tin thắng trận tới Phú Xuân, Quang Trung đang bàn việc nước bỗng đứng phắt dậy, tay run run cầm bức tiệp báo. Giọng Người vang lên đầy xúc động:
"Thị Nại toàn thắng, Hoàng Nhi của Trẫm đã viết tiếp trang sử vàng Rạch Gầm - Xoài Mút!"
Cả điện Cần Chính vang lên tiếng hô:
"Hoàng thượng vạn tuế, Nam Bình Vương điện hạ thiên tuế!"
Gió biển cuồn cuộn thổi vào cửa Thị Nại, mang theo mùi tanh nồng của máu, thuốc súng và khí khái ngút trời của một trận đại chiến vừa khép lại. Trên mặt nước đầm đỏ rực ánh bình minh, xác thuyền vỡ trôi lềnh bềnh, cờ xí nhà Nguyễn bị thiêu rụi cháy đen từng mảnh. Những gì còn lại chỉ là tiếng hò reo vang dội của quân Tây Sơn, lẫn với tiếng tù và khải hoàn. Sau khi ổn định tình hình Quy Nhơn, ban lệnh sửa chữa khắc phục hậu quả Thuỷ trại Thị Nại, Nam Bình Vương ban sư hồi triều.
Tháng tư năm Nhâm Tý (1792), khi những cánh phượng đầu mùa bắt đầu nhuộm đỏ bầu trời Phú Xuân, đoàn quân Tây Sơn oai hùng tiến về kinh thành giữa tiếng reo hò vang dội. Nắng đầu hạ vàng rực trải thảm trên con đường quân về, từng tia nắng như dát vàng lên những chiếc giáp sắt còn vương mùi khói thuốc súng
Thành Phú Xuân rực rỡ cờ hoa chào đón đoàn quân thắng trận. Từ xa, tiếng trống đồng vang dội như sấm rền, xen lẫn tiếng reo hò vang dậy đất trời. Nam Bình Vương dẫn đầu đoàn quân áo giáp lấp lánh, trên ngực mỗi binh sĩ đều đeo đóa hoa đỏ thắm - biểu tượng máu quân thù đã đổ xuống Thị Nại. Quang Trung Đại đế thân chinh ra tận cửa Ngọ Môn đón đoàn quân. Nhà vua mặc long bào màu vàng chói, tay nâng chén rượu mừng, giọng sang sảng: "Trẫm đón chào những người con dũng liệt của Đại Việt!"
"Minh nhi, chiến công hôm nay không chỉ là của con, mà còn là của tổ tông. Hoàng nhi đã bảo vệ đất nước, bảo vệ giang sơn này. Ngươi sẽ mãi là niềm tự hào của dòng tộc Tây Sơn ta"
Cả kinh thành như vỡ òa: Các lão tướng Tây Sơn rưng rưng nước mắt, ôm chầm lấy những binh sĩ trở về, thiếu nữ Phú Xuân tung hoa sen trắng lên đường, điệu hò mái nhì ngân nga khúc khải hoàn, trẻ con nô đùa quanh vó ngựa chiến, tay cầm những lá cờ đào nhỏ xíu. Nam Bình Vương quỳ xuống trước mặt vua cha, dâng lên: Long bào rách tả tơi của Nguyễn Ánh, Thanh kiếm bạc của tướng Nguyễn Văn Thành; Lá cờ hiệu rách tả tơi của quân Gia Định, Chiếc mũ giáp nhuốm máu Lê Văn Duyệt..
"Tâu Phụ hoàng, Nhi thần xin dâng lên Người chiến công này!" - Giọng Nguyễn Minh vang lên đầy xúc động. Quang Trung bước xuống ngai, tự tay đỡ Nam Bình Vương dậy, đôi mắt ngời sáng niềm tự hào: "Hoàng nhi đã viết nên trang sử mới cho Tây Sơn ta!"
Suốt ba ngày đêm, kinh thành rực rỡ đèn hoa. Trên sông Hương, hàng trăm thuyền rồng thắp đèn lồng đỏ. Khi đoàn quân đi qua cầu Trường Tiền, bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ quỳ xuống đường, run run giơ bát nước chè xanh: "Xin các anh hùng uống cho thỏa lòng dân!", các cụ già đồng thanh ngâm thơ tặng đoàn quân chiến thắng:
"Thị Nại một trận kinh thiên
Máu loang đỏ biển, lửa nghiêng ngút trời
Nam Bình kiếm sáng chói ngời
Dẹp quân xâm lược, rạng lời núi sông!"
Khi những cánh phượng đỏ như nhuộm thắm thêm vinh quang và nắng tháng tư như dát vàng lên từng trang sử vẻ vang của dân tộc, mùa hạ huy hoàng - mùa hạ của chiến thắng, của lòng trung nghĩa, và của một Đại Việt kiêu hãnh dưới bóng cờ đào Tây Sơn. Lễ mừng công được tổ chức trọng thể, Nam Bình Vương được nhân dân phong danh hiệu "Thần tướng hộ quốc". Đêm ấy, trong điện Cần Chính, ánh trăng rằm chiếu sáng cả hoàng cung. Quang Trung và Nam Bình Vương cùng nâng chén rượu mừng, bóng hai vị hùng chủ in lên bức bình phong "Sơn Hà Xã Tắc", như khắc vào lịch sử hình ảnh bất diệt của triều đại huy hoàng.