Hồi Đáo Lê Triều Tác giả: Dạ Du Thể loại: Xuyên không Link thảo luận góp ý: [Thảo Luận - Góp Ý] Tác Phẩm Của Dạ Du Văn án: Nữ chính Trà My vô tình lạc vào triều đại nhà Hậu Lê do chạm vào cổ vật lâu năm được thờ cúng tại chùa. Tại đây, Trà My sống lại với thân phận tiểu thư Thu Đào - con gái của quan đại thần Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung. Trong quá trình tìm cách trở về năm 2022, cô được gặp gỡ tiền kiếp của người yêu, vô tình chứng kiến sự mở đầu của triều đại cực thịnh nhất nhà Hậu Lê dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông. Bị rơi vào cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Lê Nhân Tông - Lê Nghi Dân - Lê Thánh Tông, trở thành người có liên quan đến huyết án Lệ Chi Viên, Trà My đã dùng kiến thức lịch sử mình học được và áp dụng những quan điểm của các sử gia thời hiện đại để vượt qua bao lần nguy khốn. Dần dần, Trà My ý thức được bản thân mình là ai, là Trà My hay Thu Đào? Bên cạnh những đấu tranh quyền lực, tác giả đã kể thêm về chuyện tình của các bậc đế vương, nhiều hạnh phúc cũng không thiếu vị xót xa khi phải lựa chọn giữa mỹ nhân và giang sơn. Kết cục nào cho vị vua tài đức Lê Nhân Tông? Chọn mỹ nhân có đúng, chọn giang sơn có sai? Nội dung tiểu thuyết mang màu sắc cá nhân của tác giả, tình tiết về nhân vật chính hoàn toàn hư cấu, chỉ mượn bối cảnh thật để kể ngoại truyện theo trí tưởng tượng. Tuy nhiên tác phẩm vẫn mang tinh thần tôn trọng lịch sử tối đa, khi kể các sự kiện lớn đều đã nghiên cứu cẩn thận để đảm bảo đúng với các tài liệu sử học hiện hành, vì vậy mong các sử gia và độc giả không quá khắt khe với tác phẩm. Bên cạnh mục đích giải trí, tác giả muốn dùng tác phẩm này để khơi gợi hứng thú cho các bạn trẻ chủ động tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, đáp ứng nhu cầu vừa học vừa chơi, khiến lịch sử không còn là bộ môn nhàm chán nữa!
Chương 1: Ảo Mộng Hay Ký Ức Bấm để xem * * * Lê Triều, hoàng cung đại nội, âm lịch ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459).. Một đôi nam nữ dìu dắt nhau hết giấu mình trong các bụi cây, đến nấp sau các bức tường hoàng cung, cùng nhau gấp rút trốn chạy dưới cơn mưa như trút nước. Phía sau lưng, đội cấm vệ quân đang quyết chiến hộ giá. Vị vua đáng thương vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn những bầy tôi trung thành, nước mắt tuôn rơi.. Cô gái níu tay chàng hối thúc: - Bệ hạ chạy mau, giữ lại tính mạng mai này sẽ có cơ hội phục thù! Bỗng từ bốn phía quân phản loạn kéo đến vây quanh hai người. Vua cầm bảo kiếm trong tay tả xung hữu đột, vừa bảo vệ bản thân vừa che chắn cho cô gái. Đột nhiên một mũi kiếm từ phía sau bất thình lình lao tới, nhắm thẳng vào lưng vua. Lưỡi kiếm sắc bén cứa vào không khí nghe vun vút, ánh sáng của nó dội vào mắt làm cô gáiphát hiện ra kẻ tập kích và nhanh như cắt lao ra dùng thân mình chống đỡ. Xoạt! Cô gái khựng lại, chầm chậm nhìn xuống bả vai lúc này đang bị thanh kiếm cắm vào sâu quá nửa. Máu tươi nóng ấm rịn ra thấm dần qua ba lớp áo. Lê Nghi Dân – kẻ đã ra tay đánh lén thấy đã đâm nhầm người nên vội rút thanh kiếm ra khỏi ngực nàng, dòng máu theo lưỡi kiếm mà phun ra văng khắp mặt hắn. Cảm nhận được sự bất lành, vua quay đầu lại nhìn thì cô gái đã ngã gục xuống đất. Tiếng hét thất thanh của chàng lạc lõng trong mưa bão: - Thu Đào! Chàng lập tức đỡ nàng dậy, quân lính nhân cơ hội lao đến hòng chém đầu vị vua sa cơ đểnhận thưởng. Cô gái tên Thu Đào dốc hết sức tàn ôm lấy vua, mong thay chàng gánh hết tất cả những gươm đao bổ xuống. Vốn không muốn giết Thu Đào, Lê Nghi Dân khẽ nhíu mày ra lệnh tất cả quân lính dừng tay để tránh làm tổn thương đến nàng. Vua Lê Nhân Tông căm phẫn nhìn Nghi Dân mắng: - Uổng cho ta luôn xem ngươi huynh trưởng, nay ngươi lại muốn giết em ruột của mình để cướp ngôi. Tội ác này người đời sẽ mãi mãi khinh miệt ngươi! Lê Nghi Dân cười khẩy: - Huynh trưởng? Em ruột? Đến tận bây giờ ngươi vẫn còn nghĩ mình là huyết thống hoàng tộc? Ta thấy ngươi là giả vờ không biết thôi, ta lấy lại giang sơn của Thái Tổ từ tay nghiệt chủng như ngươi có gì là sai? Lê Nghi Dân nhìn Thu Đào thuyết phục: - Niệm tình nàng từng cứu ta một mạng, nàng có thể đi, nhưng hãy để hắn lại đây! Đào quỳ xuống, nước mắt giàn giụa cầu xin Nghi Dân: - Lạng Sơn Vương, nếu người còn nghĩ chút ơn cứu mạng, xin trăm lạy nghìn lạy người tha cho chàng! Đại cục đã định, người nhất định lên ngôi kế vị, xin hãy tích phúc đức để hưởng thiên niên vạn tuế! Nếu người chịu tha cho chàng, tiện nữ đảm bảo từ đây Lê Nhân Tông hoàng đế đã chết, trên đời chỉ còn thường dân Lê Tuấn, trọn đời trọn kiếp không xuất hiện trước mặt người! Kiếp sau tiện nữ xin làm thân trâu ngựa báo đáp! Lê Nhân Tông tức giận hét lớn: - Ta thà chết cũng không cầu xin hắn! Nghi Dân nheo mắt nhìn Nhân Tông: - Là do ngươi tự tìm cái chết, đừng trách ta không niệm tình xưa! Nói xong liền khoát tay ra hiệu quân lính tiến lên và hô lớn: - Giết! Thu Đào bất lực ôm lấy chàng van xin: - Đừng! * * * Thành phố Hồ Chí Minh một đêm tháng 8 năm 2022. Hai người đứng dưới gốc cây Hoàng Yến, trên phố đi bộ Nguyễn Huệ, tuy là buổi tối cuối tuần nhưng không đông đúc như mọi khi. Trà My chăm chú lắng nghe từng lời từng chữ người con trai trước mặt đang nói. - Thật ra anh muốn nói với em từ lâu rồi, nhưng lại sợ em buồn! Trà My đỡ lời để Sỹ Thành yên tâm nói tiếp: - Ừ! Em hiểu mà! Sau vài giây im lặng, Sỹ Thành lại tiếp tục ấp úng: - Anh.. nghĩ rằng hiện tại không thể có đủ thời gian lo lắng cho em như người ta, anh! Trà My ra chiều hiểu chuyện nói giúp cái lời mà Sỹ Thành loay hoay mãi vẫn không thể nào thốt ra được: - Em hiểu mà! Chúc công ty của anh ngày càng phát triển, anh đừng ngại gì với em, cảm ơn anh đã nói ra chứ không để em phải đánh vật với câu hỏi rằng ta là gì của nhau nữa! Rồi như muốn xoa dịu nổi trái tim của Trà My, Sỹ Thành định nói tiếp một câu "văn mẫu" của các chàng trai khi muốn chia tay mà không làm người con gái tổn thương: - Em thật sự là cô gái rất tốt! - Nhưng mà anh rất tiếc! Đúng không? Trà My lần nữa nói thay Sỹ Thành bằng giọng hóm hỉnh. Cô muốn trêu đùa để không khí bớt căng thẳng, và hơn hết là cô không muốn để lại hình ảnh yếu đuối uỷ mị trong lòng anh. Rồi như muốn cứu vớt lại chút gì mối quan hệ của hai người, anh lại hỏi một câu mà biết chắc chắn rằng câu trả lời sẽ là "không!" : - Anh, sau này anh vẫn có thể là người bạn tốt của em được không? - Không! Trà My nửa đùa nửa thật trả lời ngay không do dự. Gần một năm bên nhau, anh biết ánh mắt ấy đang chất chứa niềm đau khổ, giận hờn, trách móc.. và anh cũng rất hiểu tính cách của Trà My, cô nói "Không" thì tức là "Không" thật sự. Sau đôi lời tạm biệt gượng gạo, hai người quay lưng về phía nhau, ai đi đường nấy. Giữa chừng, Sỹ Thành lén quay đầu lại nhìn. Bóng dáng người con gái tóc dài thướt tha đang bỏ chạy thật nhanh, cố lẫn vào dòng người đông đúc khiến anh bỗng thấy lòng đau nhói. Lúc nãy Sỹ Thành đã ngỏ ý đưa Trà My về nhưng bị cô từ chối, anh cũng hết cách chỉ đành chiều theo. - Em trước giờ vẫn vậy, cứ cãi nhau là không bao giờ cho phép anh được làm bất cứ điều gì cho em! Xin lỗi Trà My, nếu kiếp này còn cơ hội làm khác đi, anh nhất định không bao giờ buông tay em! Lời tự nói với bản thân, cũng là lời Sỹ Thành muốn gửi đến người con gái anh hết lòng yêu thương. Nhưng cuộc sống là thế! Đôi lúc con người ta buộc phải đưa ra lựa chọn, dù là chọn cái nào đi nữa thì cũng không thể nào tránh khỏi mất mát, tổn thương! Thôi thì đành phải tự vấn bản thân mình, rốt cuộc điều gì với mình là quan trọng nhất? Bởi.. Ông trời sẽ không bao giờ cho ai tất cả! * * * Một tháng trở lại đây Trà My không đêm nào ngon giấc, muốn chợp mắt cô phải uống thuốc an thần. Có lẽ do suy nghĩ quá nhiều nên Trà My cứ liên tục mơ thấy mình phải chia ly với một người rất yêu và không biết bao giờ mới gặp lại. Tuy là mộng mị nhưng cái cảm giác "đau lòng thấu tận tâm can" đó lại rất chân thực, và khi tỉnh dậy nước mắt cô thấm ướt cả gối. Theo lời bác sĩ thì có thể Trà My bị trầm cảm nhẹ do áp lực cuộc sống, nên hạn chế uống thuốc an thần và thường xuyên ra ngoài để giải tỏa căng thẳng. Nếu có điều kiện thì nên tìm đến bác sĩ tâm lý để được hướng dẫn cũng là một việc tốt. Trà My quyết định tạm xa thành phố này một thời gian để đi du lịch, tạm gác lại mọi chuyện để tận hưởng cuộc sống, sau đó phải lấy lại thăng bằng mà bước tiếp nữa chứ. Vốn thích văn hóa cổ xưa và những không gian lãng mạn cổ kính, Trà My đã chọn Hà Nội và buổi triển lãm cổ vật thời phong kiến tổ chức tại chùa Thánh Chúa. Cô đến quán cà phê sách quen thuộc để đọc vài dòng, chờ đến giờ ra sân bay. Ngồi gục đầu trên quyển sách, Trà My nhắm mắt lại, cố để hơi thở không trượt dài. Vốn là một văn thư quản lý thư viện của trường đại học, Trà My rất thích đọc sách nên thường chọn nơi có không gian yên tĩnh để đắm chìm vào những dòng chữ. Nhưng hôm nay, cô không thể tập trung đọc được chút gì. Thế đấy, bên nhau một năm, tuy chưa lâu nhưng mối tình đầu lúc nào cũng vô cùng hoài niệm và day dứt! Trà My chỉ là một cô gái bình thường, tuy xinh đẹp nhưng rất mộc mạc, sở thích khi rãnh rỗi lại đúng chuẩn "good girl", chỉ biết vùi đầu vào những trang sách, chính vì thế mà tận hai mươi lăm cái xuân xanh mới biết yêu là gì. Trong khi Sỹ Thành rất năng động tài ba, chí hướng cao xa, luôn tập trung phát triển sự nghiệp, mới hai mươi lăm tuổi đã tự thành lập công ty riêng. Từ ngày anh thành đạt, Trà My vốn đã nhỏ bé bên cạnh vẻ phong lưu đa tài của anh, thì nay lại càng chẳng xứng đôi hơn nữa. Thôi thì ta phải mạnh mẽ sống tiếp cuộc đời của ta, hoa dại cũng có giá trị riêng, nhất định không được yếu đuối để người ta thương hại! – Trà My tự cổ vũ bản thân mình. Bỗng màn hình điện thoại sáng lên, tin nhắn từ Thu Hằng, bạn thân của Trà My: - Thu Hằng: Nè, mày đi Hà Nội khi nào về, đi bất ngờ không nói tao giận lắm! - Trà My: Tao chỉ đi xem hội thảo về các cổ vật về hoàng thành Thăng Long mới khai quật được gần đây, hai ngày là về! - Thu Hằng: Tưởng mày thất tình ra đó du lịch một mình không rủ tao chứ! - Trà My: Tao làm gì mà yếu đuối vậy, mới một năm có sâu đậm gì mà thất với bát, thôi tao ra sân bay đây! Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay mưa như trút nước, tiếng sét ầm ầm liên tiếp hai ba hồi vang lên như muốn xé toạt bầu trời. Buổi chiều hôm ấy mây từ đâu kéo đến dày đặc cuộn thành từng khối, ánh mặt trời lúc hoàng hôn sau cơn mưa có màu đỏ chói chiếu thẳng vào những đám mây, nhìn từ phía xa trông như một ngọn lửa trời đang cháy ngùn ngụt làm bốc lên làn khói xám đen dữ dội. Trà My ngồi ghế chờ lên máy bay, sân bay quốc nội Tân Sơn Nhất hôm nay sao vắng vẻ đến lạ. Cô gục đầu tựa trên va li, cơn buồn ngủ ở đâu kéo đến không thể nào cưỡng lại.. * * * Trước mắt Trà My là một khung cửa sổ, cửa sơn son thiếp vàng, bên ngoài có một vị hoàng tử cầm ô chầm chậm tiến đến, chàng chìa một tay về phía Trà My tươi cười nói: - Ta đợi nàng đủ lâu rồi đấy! Bỗng sét nổ vang trời, bóng chàng cũng tan biến ngay tức khắc, chỉ còn vườn hoa trống không và cơn mưa ngoài cửa sổ. Trà My thấy lòng đau quặn thắt, gọi tên chàng thật to.. Một bàn tay vỗ nhẹ lên vai khiến Trà My giật mình tỉnh giấc. Nhân viên mặt đất của AB Airline: - Có phải chị bay chuyến HN246 khởi hành 18: 30 không, sắp đến giờ rồi đấy! Trà My nhìn xung quanh quả thật chẳng còn ai trong phòng chờ. Cô vội vàng rảo bước lên máy bay, trong đầu cố nhớ ra cái tên mình đã gọi trong mơ và không ngừng lẩm bẩm: - Lúc nãy mình gọi tên người đó là gì vậy ta? * * * Một chiếc máy bay vút lên bầu trời đêm, giữa cơn mưa tầm tã.. * * * Giữa pháp trường, vài trăm phạm nhân bị trói tay chờ hành quyết. Tuy là buổi trưa nhưng mây đen u ám, không một tia nắng nào lọt qua, cũng giống như tiếng kêu gào oan ức của những kẻ bị gông cùm trên pháp trường lúc này không cách nào thấu đến trời xanh. Trà My không biết tại sao mình lại đứng ở đây, ngay lúc này, trước mắt là một khung cảnh xa lạ và quỷ dị, mà bầu trời lúc này tại sao lại giống với cảnh tượng lúc chiều ở sân bay quá! Cô cảm thấy cơ thể nhẹ tênh như thể nếu có một cơn gió mạnh nào đi qua mình sẽ bị thổi bay ngay tức khắc. Rồi bất giác Trà My phát hiện dường như không ai nhìn thấy hoặc nghe thấy mình, cô cố gắng chạm thử vào một người bên cạnh, lay gọi ông ta, nhưng ông ta hết nhìn đứa bé đang bế trên tay, rồi lại nhìn lên pháp trường, hoàn toàn không nhận biết được sự có mặt của Trà My. Vị quan già đầu tóc rủ rượi, hai tay bị cùm trong xích sắt, đôi mắt tuyệt vọng nhìn vợ con, anh, em, họ hàng thân quyến kẻ khóc, người cười như điên như dại. Thật không ngờ một đời trung quân ái quốc lại đổi lấy kết cục bi thảm thế này đây! Ông uất nghẹn nấc lên, giọt nước mắt tủi hận rơi xuống. Dân chúng khắp nơi nghe tin dữ cũng đổ về chứng kiến buổi hành quyết, ai nấy đều khóc thương cho gia tộc vị đại thần tài hoa bạc mệnh. Lẫn khuất trong dòng người hiếu kỳ xung quanh pháp trường, một người đàn ông bế trên tay đứa bé gái mặt mũi lem luốt bùn đất, ông ta nhìn về phía vị quan già tội nghiệp, rồi vô tình ánh mắt hai người gặp được nhau. Nhìn đứa bé gái một lần xong, ông ta lại nhìn vị quan khẽ gật đầu ám chỉ. Hiểu ý, vị quan già cười sầu não, hai hàng nước mắt tuôn trào như suối đổ. Trước khi bị hành hình, ông bi phẫn mắng: - Ta là công thần khai quốc, chúng bây sẽ bị quả báo, ta hối hận lắm, hối hận không nghe lời đồng liêu.. Một nhát đao chém xuống, máu tươi bắn khắp mặt đất, tiếng hét kêu oan cầu cứu vang vọng rợn người: - Oan, oan lắm! Thêm một nhát đao nữa chém xuống, vệt máu lạnh ngắt hắt thẳng vào mặt Trà My khiến cô giật mình hét lên: - Á! Trà My mở choàng mắt ngồi bật dậy sau cơn ác mộng dị thường, cô thở dài nhẹ nhõm khi biết đó chỉ là giấc mơ. Cô tự hỏi bản thân: - Mệt quá, mình có đang gặp triệu chứng của bệnh hoang tưởng không vậy? Phòng khách sạn im lặng tĩnh mịch, ánh đèn ngủ mờ ảo soi xuống nền gạch lạnh ngắt. Quyển sách đang đọc dở dang bị cô đánh rơi nằm đó từ lúc nào. Cô cảm thấy lạnh nhưng mồ hôi lại ướt cả áo. Từ cửa sổ ùa vào một cơn gió nhẹ nhàng mang theo hương hoa sứ ngọt lịm. Thì ra Trà My đã quên đóng cửa sổ. Cô nhìn ra ngoài, trăng tròn sáng vằng vặc in xuống mặt nước hồ bơi như một cái đĩa to màu vàng óng ả. Ánh trăng đẹp đẽ làm cô nổi hứng pha một ly cà phê, hướng ra hồ bơi ngồi ngắm cảnh. Nhớ khi còn bên nhau, Sỹ Thành cũng rất chiều chuộng cô, anh thường xuyên cùng cô thức suốt đêm, cô đọc sách hoặc xem phim, trong khi anh cắm cúi với những kế hoạch tài chính, nhân sự, đơn hàng vv.. Trong mắt cô anh là người con trai ưu tú và thanh lịch nhất, anh quá xuất sắc đến nỗi cô cảm thấy mình quá nhỏ nhoi bên cạnh người thương, đôi lúc chẳng dám nghĩ đến tương lai xa, bởi.. cổ tích chẳng khi nào có thật! Mười sáu âm lịch trăng thật đẹp, cô bật đèn lên, đồng hồ điểm một giờ khuya. Nhìn tấm vé mời tham dự triển lãm cổ vật, Trà My thấy phấn khích mong đến hai giờ chiều mai để đi xem cho thõa mắt. Ngoài sách, Trà My có sở thích là học tiếng Hoa và chữ Hán, tìm hiểu văn hóa lịch sử. Đặc biệt là nhìn ngắm cổ vật của người xưa. Cũng không hiểu vì đâu mỗi lần nhìn thấy cổ vật cô lại có cảm giác bồi hồi khó tả, các cổ vật trông vừa quen vừa lạ, vừa gần gũi lại vừa xa xăm. Và cô thích cảm giác cố truy tìm miền ký ức bị chôn sâu ở nơi nào trong tiềm thức, biết là nó ở đấy nhưng mãi không thể chạm đến được. Gió khuya bỗng thổi mạnh, mây lại che kín bầu trời. - Lại mưa! Trà My mất hứng nhún vai, cô đành kéo rèm lại rồi lên giường đắp chăn. * * * Ngày 7 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), tại điện Tường Quang trong Hoàng Thành Thăng Long, Lệ Đức Hầu Lê Nghi Dân (*) đăng cơ hoàng đế Đại Việt. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Đại Việt Thông Sử có ghi chép chiếu chỉ tuyên cáo đăng cơ của Lê Nghi Dân như sau: "Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn Hoàng Đế (*), trước đây đã được phong là Hoàng thái tử, giữ ngôi chính ở Đông cung. Chẳng may tiên đế đi tuần miền Đông, bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái hậu (*) muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ lên làm đế, bắt trẫm làm phiên vương xứ Lạng Sơn. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái uý Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc (*) Phục, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt khẩu. Cho nên từ đó đến giờ, hạn hán sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện, đói kém tràn lan, trăm họ cùng khốn. Diên Ninh (*) tự biết mình không phải là con của tiên đế, hơn nữa lòng người ly tán, nên ngày mồng 3, tháng 10 năm nay, đã ra lệnh cho Trẫm lên thay ngôi báu. Trẫm nhờ người trông xuống, tổ tông phù hộ, cùng các vương, đại thần, các quan văn võ trong ngoài đồng lòng suy tôn, xin Trẫm nên nối ngôi đại thống, hai ba lần khuyên mời, Trẫm bất đắc dĩ đã lên ngôi vào ngày mồng 7 tháng 10 năm nay, đổi niên hiệu là Thiên Hưng." * * * Hết chương 1---- Chú thích: 1. Thái Văn Tông Hoàng Đế: Lê Thái Tông, tên huý là Lê Nguyên Long, vị hoàng đế thứ hai của triều Hậu Lê. 2. Nguyễn Thái hậu: Tuyên Từ Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh, mẹ ruột của Lê Nhân Tông. 3. Trịnh Khả: Tể tướng Đại Việt thời Lê Sơ, được xem là một trong những công thần khai quốc của Lê Triều. 4. Trịnh Khắc Phục: Công thần khai quốc nhà Lê Sơ, có công giúp Thái Tổ đánh đuổi nhà Minh, được phong hai tước vị là Thượng Trí Tự và Trước Phục Hầu, được ban họ Lê nên còn gọi là Lê Khắc Phục. 5. Diên Ninh: Diên Ninh là niên hiệu thứ hai dưới thời trị vì của Lê Nhân Tông (hay còn gọi là Lê Bang Cơ). Ông lên ngôi năm 1442 lúc mới một tuổi, thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính, niên hiệu là Thái Hòa. Đến nằm 1453 ông đích thân chấp chính, đổi niên hiệu lại là Diên Ninh. Từ "Diên Ninh" ở đây ý nói về Lê Nhân Tông.
Chương 2: Hồi Đáo Lê Triều Bấm để xem Một ngày đầu hạ năm 1456, Lê Nhân Tông sai thái giám Đào Biểu đến phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung để truyền khẩu dụ. Nghe xong thánh ý của Nhân Tông về việc trực tiếp nạp đại tiểu thư Thu Đào làm lục giai Mỹ Nhân, đầu Thu tiến cung, quan đại thần Nguyễn Đức Trung rất đổi vui mừng quỳ bái tạ long ân. Bên ngoài cửa sổ, người con gái thứ hai của Nguyễn Đức Trung tên là Thu Hằng sau khi nghe lén biết được toàn bộ sự việc liền vội vàng rời đi để tránh bị phát hiện. * * * Bên bờ hồ cẩm lý thuộc khuôn viên Huy Văn Tự (*) Thu Đào nhìn vào mắt Lê Hạo hỏi: - Chàng có vì ta mà đi cầu xin Hoàng Thượng rút lại thánh ý không? Lúc biết tin đại tiểu thư Thu Đào của đại thần Nguyễn Đức Trung đã lọt vào mắt Nhân Tôngtrong đợt tuyển tú sắp tới, Lê Hạo vốn định đi tìm vua cầu xin, hi vọng bệ hạ sẽ vì tình anh em mà thay đổi ý định. Nhưng lúc vừa định ra khỏi cửa chàng đã bị mẹ là Ngô Tiệp Dư (*) của Lê Thái Tông ngăn cản. Vì nếu dám tranh chấp nữ nhi với Nhân Tông, hai mẹ con bà sẽ nảy sinh mâu thuẫn với triều đình, trong khi mối họa bị ám sát để tranh đoạt ngôi vị vẫn còn treo trên đầu, bà không thể vì chuyện này mà gây thêm mâu thuẫn với Thái Hậu. Ngô phu nhân lấy mạng sống ra uy hiếp con trai, buộc Lê Hạo phải đoạn tuyệt tình cảm với Thu Đào. Lê Hạo phần vì chữ hiếu, phần vì lòng mang chí lớn nên sau khi nghe mẹ can gián, chàng cảm thấy thật sự không thể vì nữ nhi thường tình mà hỏng đại sự, đành chấp nhận hi sinh tình yêu của mình. Nghe xong câu hỏi của Thu Đào, Lê Hạo quay mặt đi để tránh bị ánh mắt của nàng nhìn thẳng, chàng đáp: - Hoàng Thượng là bậc minh quân hiếm có, nàng sẽ được bình an hạnh phúc cả đời! Nếu có kiếp sau.. Nghe đến đây Thu Đào gào lên: - Ta không biết việc của kiếp sau, nhưng kiếp này thà chết cũng không muốn gả cho người mình không yêu! Lê Hạo nhắm chặt đôi mắt, giọt lệ nam nhi rơi xuống. Chàng hạ quyết tâm: - Là ta có lỗi với nàng! Lệnh vua khó cải, mong nàng hiểu cho ta! Thu Đào tức giận rút chiếc trâm bạc trên tóc xuống đưa lên mặt nói: - Chẳng qua Hoàng Thượng yêu thích gương mặt này thôi, nếu ta huỷ đi nó, người chắc chắn chê bai không cần ta nữa. Vậy còn chàng, dù ta có xấu xí chàng vẫn không thay lòng chứ! Thấy Thu Đào sắp làm điều dại dột, Lê Hạo chạy đến muốn giằng lấy chiếc trâm và nói: - Nàng thôi trẻ con đi! Đây là việc lớn ảnh hưởng đến tiền đồ của Nguyễn Đại Nhân, đến an nguy của ta và mẫu thân.. - Ta không cần biết! Thu Đào gào lên và toang dùng trâm bạc rạch mặt. Lê Hạo hoảng hốt cố chụp lấy tay nàng, nhưng do Thu Đào có võ công nên chàng rất vất vả vẫn chưa đoạt được chiếc trâm nhọn. Một người cố tự làm hại bản thân, một người cố ngăn cản, hai bên giằng co gần mươi hiệp chưa phân thắng bại. Cuối cùng trong lúc bất cẩn Lê Hạo trót ra đòn hiểm, Thu Đào vì né tránh mà sảy chân rơi xuống hồ cẩm lý. Chàng vừa gọi tên vừa đưa tay ra muốn kéo nàng lại nhưng không kịp nữa! - Cẩn thận! * * * Hà Nội, một ngày hè tháng tám năm 2022. Triển lãm cổ vật lần này Trà My tham dự được tổ chức tại chùa Thánh Chúa, nằm trong khuôn viên trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội. Đây là ngôi chùa có lịch sử gần sáu trăm năm, gắn liền với giai thoại về hai vị vua Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông (*). Vốn yêu thích văn hóa lịch sử, Trà My không khỏi hiếu kỳ mà đi thăm thú khắp nơi trong chùa. Từ cổng chính và cổng phụ phía mặt đường Xuân Thủy (phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy), đi qua các giảng đường của trường chừng hơn một trăm mét là bắt gặp không gian thiền môn, phía trước là tấm biển lớn bằng đá hoa cương đặt ngoài cổng chùa: Chùa Thánh Chúa - Di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng. Từ bên ngoài nhìn vào chùa nổi bật với thiết kế cổng tam quan (*), giữa sân là hai cây Muỗm hơn 500 tuổi cành lá sum suê, làm tăng thêm nét trầm mặc cổ kính cho ngôi chùa. Trà My vô cùng thích thú ngắm những bức hoành phi trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, nhiều tượng Phật uy nghi mang phong cách văn hóa thế kỷ mười bảy, mười tám. Vào đến nơi thờ Phật ở thượng điện sâu năm gian, nhìn thẳng vào chính điện, làn khói hương nghi ngút mang mùi trầm thoang thoảng, Trà My bất giác thấy quen thuộc vô cùng, bồi hồi nôn nao khó tả. Tiến vào gần hơn, sau làn khói hương, cô thấy một giá nến hình hoa đào bằng đồng, trông khá lâu đời nhưng được lau chùi sạch sẽ. Bỗng dưng không kiềm nổi hiếu kỳ nên nhìn quanh dò xét, nhân lúc không ai chú ý cô cầm lên xem. Có lẽ do là cổ vật vài trăm năm nên màu đồng không còn sáng nữa, nhưng họa tiết trên đóa hoa vẫn còn rõ nét. Trà My xem mặt dưới của giá nến có khắc chữ Hán "桃" (Đào). Một vệt nắng chiều chiếu thẳng vào đóa hoa bằng đồng, tia sáng bị giá nến phản chiếu lại hắt vào mắt bất ngờ khiến Trà My bị chói nên xoay mặt tránh đi. Trong phút chốc cô thấy đầu óc quay cuồng như sắp ngất, thầm nghĩ có lẽ do tối qua thiếu ngủ. Lúc mở mắt cô hốt hoảng thấy một vị mặc áo mão màu vàng đứng ngay trước mắt, nhưng lạ lùng thay chỉ là một cái bóng nhạt nhòa xuyên thấu. Cô chết lặng đứng quan sát, bóng dáng ấy sao quá đỗi thân thuộc, đang chấp hai tay khấn nguyện trước bàn thờ Phật, và có vẻ như vị ấy không nhận thức được ánh nhìn của Trà My cũng như sự tồn tại của cô. Khoảng một phút trôi qua, đủ lâu để Trà My xác định rằng mình không phải đang mơ như bao lần cô tỉnh dậy sau ác mộng. Sau khi thắp hương xong vị ấy xoay người đi ra phía cây Muỗm giữa sân chùa. Trà My lập tức nối gót theo sau, kỳ lạ thay! Cô đang nhìn thấy một chiếc bóng tuy nhạt nhòa nhưng rất chân thực, và xem biểu hiện của những người xung quanh thì chắc chắn chỉ có cô đang nhìn thấy điều thần diệu này. Trà My đuổi theo vị ấy ra đến tận cây Muỗm, quên mất vẫn còn cầm chiếc giá nến hoa đào trong tay. Ngài dừng lại dưới gốc cây, rồi bỗng nhiên giá nến sáng lên một cách kỳ dị dù không bị ánh nắng nào chiếu vào, trong khoảnh khắc Trà My thấy vị ấy quay lại nhìn cô như thể bị theo dõi từ nãy đến giờ nhưng chỉ vừa mới phát hiện ra. Một tiếng sấm vang trời giữa trưa hè nắng gắt. Trà My ngã xuống ngất lịm dưới gốc cây Muỗm. Không biết đã trãi qua bao nhiêu thời gian.. Mùi của những nén hương lúc sáng vẫn thoang thoảng trong không khí. Trà My từ từ mở mắt, trời đã tối, xung quanh chỉ có ánh nến lập loè không đủ thắp sáng bất cứ vật gì. Sau vài phút nằm yên để suy nghĩ xem chuyện gì đã xảy ra, và mình đang ở đâu. Trà My biết mình đã bị ngất lúc sáng khi chưa kịp tham gia buỗi triển lãm. Cô bần thần tự hỏi: - Đây là đâu? Hôm nay bị cúp điện à? Khi mắt đã quen dần với bóng tối, Trà My nhìn xung quanh một lượt, cô vừa ngạc nhiên vừa có chút sợ hãi. Vật dụng trong phòng đa số bằng một loại gỗ màu đen, trạm trổ cầu kỳ, rèm treo bằng một loại vải mềm có lẽ là màu xám và rất thủ công, chỉ bằng dây vải, chẳng hề thấy móc treo kim loại như ở khách sạn. Màn chắn muỗi cô đang nằm cũng là loại vải mỏng mà cô chưa từng thấy qua, khác hẳn lại vải lưới hay voan vẫn thường dùng ở quê. Trà My mở to mắt, thử cử động tay chân thì thấy toàn thân ê ẩm, cố hết sức mới nâng được cánh tay lên. Chưa kịp nghĩ tiếp theo sẽ làm gì, thì từ cửa phòng một cô gái hai tay bưng chậu gì đấy bước vào, nhìn thấy Trà My đang cử động, cô gái lao đến phía Trà My và nói to: - A! Đại tiểu thư tỉnh rồi! Ông bà ơi tiểu thư tỉnh rồi! Đặt cái chậu màu vàng xuống chân giường, cô gái đó vội nắm lấy tay Trà My hỏi: - Tiểu thư đã tỉnh, cô thấy trong người thế nào? Trà My nhìn kiểu dáng cái chậu mà không khỏi hoang mang, trông nó giống hệt những cái chậu đồng mà cô từng thấy qua tại các bảo tàng cổ vật thời phong kiến, chỉ là cái này thì mới tinh, sáng bóng, khác hẳn những cổ vật bị rỉ, xỉn màu. Mãi quan sát và suy nghĩ Trà My đã không trả lời cô tì nữ. Lúc đó, có hai người một nam một nữ trung niên, ăn mặc rườm rà áo mũ như người bước ra từ phim cổ trang nhưng hoàn toàn khác với các bộ phim cô vẫn xem. Người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi nét mặt phương phi, mặc loại áo vạt dài quá gối, có thắt lưng ngang hông, quần ống rộng dài tóc búi gọn trên đỉnh đầu. Người phụ nữ cũng khoảng bốn mươi, gươngmặt tròn phúc hậu vẫn còn nét tươi tắn, chưa nhiều nếp nhăn. Bà mặc loại áo vải lụa mềm màu trắng đục, cũng dài quá mông, quần rộng màu trắng, tóc vấn vội thành bím dài kéo sang một bên, có vẻ bà ta đang ngủ và vội vàng chạy đến theo tiếng gọi của cô gái. Phút chốc cả ba người đều đã đến bên cạnh Trà My, người đàn ông đặt tay lên trán cô và hỏi: - Con thấy sao rồi? Người phụ nữ cũng ngồi xuống bên cạnh nắm lấy tay cô rơi nước mắt: - Tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho con khoẻ lại! Quá hốt hoảng với những gì đang xảy ra, Trà My cố gượng dậy, cô tựa lưng lên gối với sự giúp sức của cô hầu gái, muốn hỏi thật to nhưng sức lực như biến đi đâu hết cả, chỉ có thể thều thào: - Đây là đâu? Hai người là cha mẹ tôi? Người phụ nữ nhìn sắc mặt và ánh mắt của Trà My, bà tỏ vẻ hoảng hốt và nắm chặt tay cô khóc nấc: - Con làm sao vậy, đừng dọa mẹ con ơi! Cô gái và người đàn ông cũng tròn mắt nhìn Trà My ngạc nhiên tột cùng. Người đàn ông tiến ngay đến gần và hỏi giọng đầy hoang mang: - Con làm sao vậy, đến cha mẹ cũng không nhận ra? Trà My lúc này bối rối tột cùng, đầu óc cứ mơ hồ không phân biệt thực hay mộng, cô ngơ ngác nhìn quanh, chớp mắt nhiều lần, thở sâu, tự nói với bản thân rằng "Hãy tỉnh lại, tỉnh lại", cô đang cố đánh thức bản thân thoát khỏi giấc mộng kỳ quái như bao lần trước. Trà My một lần nữa thều thào: - Đây là đâu? Ông bà là ai? Tôi đã bị làm sao? Sao tôi lại ở đây? Người đàn ông ra lệnh cho cô tì nữ: - Con mau mời thầy lang sang đây ngay cho ta, nói là tiểu thư đã tỉnh, nhờ thầy sang thăm giúp! Cô gái chạy đi ngay sau tiếng "Dạ", người phụ nữ ôm chầm lấy Trà My nức nở: - Con sao vậy con ơi? * * * - Boong.. Boong.. Boong! - Ba tiếng chuông chùa vang lên báo đã đúng ngọ. Lê Hạo ngồi cạnh cửa sổ, chàng mặc áo nâu giản dị, dáng vóc cao lớn, dung mạo uy nghiêm đỉnh đạc. Chàng đặt quyển sách xuống bàn, gác bút lên nghiên mực rồi rót một tách trà, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào vô định. Ngô phu nhân vào phòng sách, bà cũng như Lê Hạo, tuy ăn mặc đơn giản nhưng khó lòng che giấu khí chất sang trọng cao quý của hoàng tộc. Phu nhân nhìn chàng rồi lắc đầu ra chiều tiếc rẻ: - Mẹ biết con đã rất khó khăn khi lựa chọn rời bỏ Thu Đào! Cũng may ông trời còn thương xót hồng nhan! Chàng cúi mặt không nói gì, nhưng chỉ một lúc sau không kiềm lòng được lại hỏi: - Đào thế nào rồi mẹ? Ngô phu nhân ngồi xuống nâng tách trà lên uống, chậm rãi đáp: - Sau khi tỉnh lại nó đột nhiên chẳng còn nhận ra ai. Đến bản thân mình là ai cũng không biết! Chàng lộ vẻ ngạc nhiên: - Là sao hả mẹ? Ngô phu nhân lắc đầu thở dài.. * * * Ở phủ đệ đương kim Điện Tiền Chỉ Huy Sứ (*). Trà My ngồi trên giường tựa lưng vào gối, tay cầm miếng bánh đậu xanh, trên mặt bánh có in chữ Hán phồn thể nhưng do vốn phồn thể cũng "khiêm tốn" nên cô chẳng biết là chữ gì. Chỉ ngắm cho vui thôi chứ hiện tại cô chẳng còn lòng dạ gì mà ăn với uống. Qua lời thuật của cô tì nữ Xuân Mai đã chăm sóc cho Trà My từ đêm qua đến giờ, hiện tại Trà My có tên là Thu Đào, con gái lớn của một vị Điện Tiền Chỉ Huy Sứ trong triều đình, còn có một người em gái song sinh là Thu Hằng. Nghe đến hai chữ "triều đình", Trà My liền ngờ vực hỏi Xuân Mai: - Hiện giờ nước ta đang là triều của vua nào? Xuân Mai biết rõ tình trạng như "vừa mới sinh ra hôm qua" của Trà My nên kiên nhẫn giảng giải: - Đại Việt ta đang là năm Diên Ninh (*) thứ tư, đương kiêm thánh thượng là đời thứ ba của triều ta. Tuy Trà My là nhân viên quản lý một thư viện lớn của trường đại học, cũng gọi là có một chút kiến thức lịch sử, nhưng mà chỉ bằng niên hiệu thì khó mà nhớ nổi là vị vua triều nào, cô vừa nhai miếng bánh trong miệng vừa hỏi thêm: - Vua Triều ta họ gì? - Đang là thiên hạ của họ Lê đấy thưa tiểu thư! – Xuân Mai rót tách trà cho Trà My và trả lời. Đời thứ ba, triều Lê.. Đôi mắt Trà My sáng lên như định thốt ra lời gì, nhưng dường như lại có điều thắc mắc thêm, bèn nhìn Xuân Mai hỏi tỉnh rụi: - Họ Lê, đời thứ ba hả? Mà tiền Lê hay hậu Lê? Giờ đang là triều đại của Lê Long Đĩnh hay Lê Bang Cơ vậy? Nghe xong câu nói của Trà My, Xuân Mai mặt xanh như tàu lá hốt hoảng nhào tới đưa tay bịt miệng vị tiểu thư to gan rồi nói khẽ: - Trời ơi sao cô lại dám gọi tên huý của bệ hạ nếu ai nghe thấy là mắc phải tội chết đấy! Bây giờ là thiên hạ do Lê Thái Tổ Lê Lợi lập nên.. Nghe thấy hai chữ "Lê Lợi" thì Trà My liền reo lên: - À! Đời thứ ba nhà hậu Lê, Lê Bang Cơ đúng không? Xuân Mai đến là bất lực với lá gan to bằng trời của Trà My, cô bé khổ sở xua tay lắc đầu nguầy nguậy: - Trời ơi, đại tiểu thư ơi cô chán sống rồi sao? Xin cô đừng gọi húy danh của bệ hạ nữa! Trà My rụt đầu thè lưỡi, im lặng được một lúc thì lại trêu chọc Xuân Mai: - Thì em cũng vừa gọi tên húy của Lê Thái Tổ đấy thôi! Cái tên thôi mà căng dữ vậy sao? Xuân Mai tất nhiên không hiểu được người hiện đại không hề sợ vua chúa, nàng ta nghe Trà My nhắc thì liền lấy tay bịt miệng mình, mắt liếc ngang dọc như sợ ai nghe thấy. Trà My thấy vẻ mặt sợ hãi của cô bé nên tội nghiệp và tha cho, đoạn cười xòa ra chiều ngoan ngoãn: - Rồi ô kê không nói tên của thánh thượng nữa! Nhưng mà.. vị đại nhân tối qua ấy, à.. "cha" ta ấy, người tên là gì thì có nói ra được không? Tiếng "cha" thốt ra từ miệng mình mà Trà My còn thấy hơi sống sượng nên nói xong liền tằng hắng mấy cái cho đỡ ngại, cô đang hướng mắt về phía Xuân Mai chờ đợi câu trả lời, thì một giọng nói nhẹ nhàng từ ngoài cửa phòng vọng đến: - Là Điện Tiền Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung đại nhân, thưa đại tiểu thư của tôi! Một người con gái dáng vẻ mảnh mai bước vào, nàng có dung mạo đoan trang sáng sủa, lại ăn mặc trên người lụa là gấm vóc, thoạt nhìn Trà My đoán đó chính là nhị tiểu thư Thu Hằng mà Xuân Mai đã nhắc đến. Nàng bước đến ngồi xuống bên cạnh Trà My, đưa tay lên trán cô sờ thử rồi than thở: - Đại tiểu thư của ta, đang yên đang lành sao lại ra nông nỗi này! Trà My nhìn nàng một lúc rồi quay sang Xuân Mai hỏi: - Nếu ta đoán không lầm thì đây là em gái song sinh của ta, Thu Hằng có đúng không? Xuân Mai gật đầu xác nhận. Thu Hằng nhìn Trà My với ánh mắt ngờ vực, như không tin rằng một người đang bình thường sao có thể mất đi hết ký ức được. Nàng ta bèn hỏi một câu để thử chị gái: - Là chàng đã cứu chị đưa về đây, khi khoẻ lại chúng ta sẽ cùng đến đa tạ chàng! Trà My ngơ ngác: - Chàng nào? Thu Hằng hết sức bất ngờ trước câu trả lời của chị. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu khiếnnàng thầm mong cho Thu Đào đúng thật là đã vì bạo bệnh mà mất đi ký ức, mãi mãi cũng đừng nhớ lại chuyện cũ. Vì vậy, Thu Hằng chỉ kể một cách sơ sài: - À, chúng ta có một người bằng hữu cùng nhau lớn lên, chàng và chị em ta học cùng một thầy, có lẽ vài hôm nữa chị sẽ có dịp gặp chàng! Trà My gật đầu thay lời đáp, nhưng trong lòng lúc này đang nghĩ về đại thần Nguyễn Đức Trung. Phút chốc Trà My nhận ra mình đang có cơ duyên kỳ ngộ, bằng một cách thần kỳ nào đó lại đường đường là vị tiểu thư con của một đại thần nổi tiếng trong lịch sử. Nếu tiếp cận được đại thần Nguyễn Đức Trung, cô sẽ có cơ hội tìm hiểu lễ nghi cung đình và vô số điều hay ho khác của thời phong kiến, thậm chí sẽ tìm ra đáp án cho những bí ẩn lịch sử mà đến sáu trăm năm sau - thời đại của Trà My- các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn chưa tìm ra đáp án. Cô phấn khởi nghĩ thầm: - Phải nhanh chóng lên kế hoạch tiếp cận "cha" nhanh thôi, chỉ cần xin được chữ do chính tay ông viết thì ở năm 2022 nó sẽ là cổ vật vô giá, không khéo mình sẽ giàu to! Còn về Thu Hằng, nàng nhìn người chị mới mẻ đang ngồi trước mắt mà không khỏi ngờ vực: - Chị đã thật sự quên chàng sao? Phải chăng đây là cơ hội để mình tranh thủ chiếm lại tình cảm của chàng? * * *Hết chương 2---- Chú thích: (*) Chùa Thánh Chúa là nơi vua Lý Thánh Tông cầu tự sinh được Lý Nhân Tông. Vào triều hậu Lê thì vua Lê Thánh Tông ở để tu hành và lánh nạn trong cuộc chiến tranh đoạt ngôi vua. (*) Huy Văn Tự: Tên của Chùa Thánh Chúa dưới thời Lê (*) Ngô Tiệp Dư: Bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Dao của Lê Thái Tông, từng được Nguyễn Trãi giúp đỡ thoát khỏi mưu hại của bà Thần Phi Nguyễn Thị Anh (Tức Tuyên Từ Thái Hậu), sau được sắp xếp sống tại chùa Huy Văn để lánh nạn và hạ sinh hoàng tử Lê Tư Thành (Tức Lê Thánh Tông sau này) tại đây. (*) Cổng tam quan: Kiểu thiết kế cổng có ba cửa, cửa lớn nhất ở giữa, hai cổng phụ nhỏ ở hai bên. (*) Điện Tiền Chỉ Huy Sứ: Chức tổng chỉ huy quân vệ binh của nhà vua. Lúc bấy giờ do đại thần Nguyễn Đức Trung đảm nhiệm.
Chương 3: Tương Ngộ Bấm để xem Quan đại thần Nguyễn Đức Trung trở về phủ sau buổi chầu sáng. Thay y phục xong ngài ngồi uống trà tại thư phòng. Thu Đào đứng nấp ngoài cửa, trộm nhìn vị quan đại thần có công lớn với đất nước được sử sách lưu danh, cô bồi hồi xúc động, làm sao cô dám tin ở nơi đây, vào lúc này, con người ấy lại chính là cha ruột của mình. Nghe ngoài cửa có tiếng động, Nguyễn Đức Trung nhìn ra cười hiền từ: - Thu Đào, con vào đây cho cha xem! Con đã khoẻ chưa? Thu Đào rụt rè bước vào, tim đánh trống trong lồng ngực. Nguyễn đại nhân nhìn con gái ánh mắt chất chứa nỗi lo lắng: - Con vẫn không nhớ ra gì sao? Sao con lại sợ cha như người xa lạ vậy? Thu Đào cảm động trước người cha hiền từ. Nàng ái ngại lắm vì mình vốn không phải là Thu Đào, biết nói sao đây để ông chấp nhận con gái mình đã chết, Thu Đào bây giờ thật ra là Trần Trà My đến từ năm 2022. Ôi thật điên rồ làm sao? Nhưng trước mắt, nàng chỉ biết sống cuộc đời tiếp theo của Thu Đào, mọi chuyện đành tuỳ cơ ứng biến. Thu Đào nhìn cha trấn an: - Cha đừng lo, con vẫn đang khoẻ mạnh đây. Có thể một thời gian sau con sẽ từ từ nhớ lại! Nguyễn đại nhân xoa đầu đứa con gái tội nghiệp, ông chẳng còn biết nói gì. Lúc đó, bác Ký - lão quản gia trong phủ bước vào, chấp tay trước ngực vái chào Nguyễn Đại nhân rồi thưa: - Bẩm đại nhân, Ngô phu nhân và công tử đến, đang chờ ở phòng khách! Nói xong bác Ký có ghé sát vào tai Nguyễn đại nhân để nói nhỏ vài điều. Nghe xong, Nguyễn Đức Trung đại nhân đưa mắt sang nhìn Thu Đào một lần, rồi dặn dò bác quản gia: - Đi báo với Ngô phu nhân ta sẽ ra ngay! Bác quản gia vừa đi khỏi, Nguyễn đại nhân nói với Thu Đào: - Con cứ về phòng, nếu cần cha sẽ gọi ra để gặp Ngô phu nhân một lúc, cho nên con đừng đi đâu xa đấy! Thu Đào "dạ" một tiếng rồi về phòng theo lời cha dặn. Phủ đệ của một vị quan đại thần đúng là có khác, rộng lớn khoảng ba hecta nếu tính theo đơn vị đo lường thời hiện đại. Thu Đào vừa đi vừa ngắm nhìn không chán mắt. Quả đúng là văn hóa thời kỳ này ưa chuộng lối kiến trúc tứ hợp viện, xây theo hình chữ nhật, cổng vào ở phía trước, hai cạnh dài trái và phải của hình chữ nhật là hai dãy phòng ở của gia chủ, phòng sách, phòng của gia nhân, nhà kho vv.. Giữa lòng hình chữ nhật là một hồ nhỏ do gia chủ cố ý tạo ra để trồng sen, nuôi cá cảnh. Ven bờ hồ còn có ba gốc dương liễu to, cành liễu thướt tha rủ xuống như những bức rèm trên mặt nước. Phía sau khu nhà hình chữ nhật còn có một vườn hoa nhỏ và đình hóng mát, vài ngày trước Thu Đào và Thu Hằng đã ngồi đó trò chuyện. Trời nắng dịu, đứng dưới gốc dương liễu ngắm hoa sen đang nở thật không có gì thích thú bằng. Nhìn quanh không có ai, Thu Đào hít một hơi sâu và vươn vai một cái thật dài, cô nhắm mắt, ngửa mặt lên trời, hai tay dang rộng ra như muốn ôm lấy cảnh vật xinh tươi trước mặt. Gió mát ở đâu thổi đến mang theo hương hoa hồng thoang thoảng, cái mùi hương tuy lạ mà quen cứ vấn vương bên mũi buộc Thu Đào phải mở mắt ra để tìm nguồn gốc của nó. Ở bờ bên kia bờ hồ, một chàng trai trong chiếc áo giao lĩnh màu xanh da trời, dây đai màu xanh đậm hơn một tí quấn ngang thắt lưng, ống tay áo rộng vừa phải gặp cơn gió luồng vào nên căng phồng lên mà lả lướt quanh cánh tay, quán kích (*) trên búi tóc cũng màu xanh nhạt trông rất hài hòa. Nụ cười của chàng rất đẹp, vừa đẹp vừa thân thuộc đến nao lòng làm Thu Đào phải cố lục tìm trong trí nhớ xem đã gặp chàng ở đâu. Thu Đào cứ thế đứng ngây ngốc mà nhìn. Từ phía xa, chàng trai cũng cảm nhận được mình đang bị ánh mắt ai đó xoáy vào nên hướng về phía Thu Đào mà nhìn lại. Từng bước, từng bước, chàng tiến về phía Thu Đào, hương hoa hồng và gương mặt sáng ngời cứ thế mỗi lúc một rõ dần, rồi hiện ra ngay trước mắt Thu Đào. Chàng trai cất giọng bắt chuyện: - Chào tiểu thư, xin hỏi sảnh điện của phủ Điện Tiền ở đâu? Thu Đào mãi mê ngắm nghía đôi mắt to hút hồn và cái sóng mũi cao thẳng tắp nên bị câu hỏi làm giật mình, nàng nhìn người con trai lạ mặt từ đầu tới chân một lượt rồi ngập ngừng hỏi: - Người là ai, đến phủ nhà ta mà không biết đường đến sảnh điện à? Chàng trai bị hỏi ngược lại thì ánh mắt khẽ động, suy nghĩ vài giây rồi trả lời: - À, ta là Lê Tuấn, em họ của Lê Hạo công tử ở chùa Huy Văn, cũng là thị vệ bên cạnh bệ hạ. Hôm nay được lệnh đến thăm phủ Điện Tiền cùng anh họ. Lúc bước vào thấy phủ đệ khang trang nên định đi dạo một vòng rồi mới đến sảnh điện, không may bị lạc nên chưa đến sảnh điện gặp Nguyễn đại nhân được, thất lễ với quý phủ rồi! Nói xong, chàng trai mím môi đưa mắt nhìn chỗ khác như thể đang cố để không bật cười. Thu Đào thấy biểu cảm lạ lùng nên giật thót tự nhìn lại mình. Ôi cha mẹ ơi, con gái con đứa đứng giữa đường giữa sá mà hai thì chống nạnh, chân thì không thể nào dạng rộng hơn được nữa, lại còn trơ trơ mắt ra mà nói chuyện với con trai nhà người ta nãy giờ. Thu Đào hơi ngượng nên vội chấn chỉnh lại tư thế, xong còn xếp hai tay trước bụng nghiêng nhẹ người một góc bốn mươi lắm độ cuối chào, theo cái cách mấy hôm nay nàng thấy những người ở đây hay làm, nhưng nó vụn về đến buồn cười, xong bèn khom người đưa tay hướng về sảnh điện nói: - À, à, không cần khách khí. Sảnh điện bên này! Chàng trai gật đầu cười hiền, chàng lướt nhẹ ánh mắt lên trang phục trên người Thu Đào, vừa đi bên cạnh nàng vừa hỏi thăm bắt chuyện: - Xin hỏi, nàng có phải là đại tiểu thư Thu Đào của Nguyễn đại nhân không? Thu Đào hơi khựng lại một chút vì vẫn chưa quen với thân phận mới của mình, nàng chớp chớp mắt để nhớ lại rồi trả lời: - Đúng rồi! Trong khoảnh khắc chợt nghĩ ra điều gì đó, Thu Đào cười híp đôi mắt hí hửng hỏi: - Ngươi là thị vệ của vua đó hả? Là kiểu trong phim hay gọi là "ngự tiền thị vệ" đó đúng không? Lê Tuấn nghe xong thì bước chân chậm lại, chàng nhẹ nhàng gật đầu đáp: - Ngự tiền thị vệ thì đúng rồi. Còn "phi.. im" là.. Không để chàng kịp nói hết câu, Thu Đào đã vỗ tay đôm đốp nói như reo: - Ngự tiền thị vệ! Oai phong ghê ta, như vậy thì ngươi chắc giỏi võ lắm. Ta muốn xem ngươi đánh vài chiêu. Rồi như sợ Lê Tuấn không đồng ý, Thu Đào huých chỏ vào cánh tay chàng ra oai: - Ta là đại tiểu thư của Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, ngươi là thị vệ, vậy ai lớn chức hơn ai? Lê Tuấn nghe xong khóe môi hơi cong lên một chút, trong cổ họng phát ra tiếng cười nho nhỏ: - Hà hà, ừ thì tiểu thư con nhà quan vai vế phải lớn hơn thị vệ rồi! Thu Đào lúc này yên tâm về thân phận vượt trội của mình nên vỗ vỗ vào vai Lê Tuấn nói tiếp: - Vậy thì ngươi làm theo lệnh đánh thử vài chiêu cho ta xem võ nghệ của người Việt cổ với, xong việc ta xin tiền cha thưởng thật hậu hĩnh, chịu không? Lê Tuấn ngẩng người, nụ cười méo xệch hiển hiện trên gương mặt. Chàng chưa biết phải trả lời thế nào thì có tiếng bước chân hấp tấp bước tới làm cả hai phải ngoái nhìn. Nguyễn Đức Trung cùng hai ba người nữa đang vội vã chạy đến chỗ Lê Tuấn và Thu Đào đang đứng trò chuyện. Trong thoáng chốc, Lê Tuấn liếc mắt sang thì thấy Thu Đào đang mãi nhìn về hướng cha, chàng chớp thời cơ đưa ngón tay lên miệng ra hiệu "suỵt" cho những người trước mặt. Còn Thu Đào, lúc thấy cha mình cùng hai người nữa đi đến thì nàng liền đứng yên như trời trồng, da gà da vịt nổi khắp người vì cảm thấy chấn động trong lòng. Bên cạnh Nguyễn Đức Trung lúc này chính là dáng hình yêu thương ấy, chính là gương mặt khiến trái tim nàng khôn nguôi đau đớn suốt thời gian qua. Vẫn là anh, vẫn là nét lạnh lùng kiêu hãnh của một chàng trai phong độ tài năng. Chỉ có điều, với trang phục cổ trên người, nhìn anh có thêm cả khí chất uy nghi cao quý nữa. - Cái quái quỷ gì đây trời? – Thu Đào tự hỏi. Kỳ lạ hơn nữa là chàng trai ấy cũng đang nhìn Thu Đào với ánh mắt chứa đựng thâm tình, như thể chính là.. anh, như thể anh đã cùng Trà My lạc về thời không này! Người đứng giữa Nguyễn Đức Trung và một người phụ nữ ăn mặt chỉn chu sang trọng, là một người con trai.. nếu xét về ngoại hình thì đó là Sỹ Thành, người bạn trai mới chia tay với Trà My một tháng trước. Chàng trai giống Sỹ Thành như đúc cất tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ của Thu Đào: - Nàng đã khoẻ chưa? Như đang đứng trước mối tình đầu đầy chua xót, Thu Đào bị cảm giác bất ngờ cộng với nghẹn ngào u uất bủa vây nên cứ đứng yên như tượng. Mãi một lúc sau mới lấy lại bĩnh tĩnh, hành lễ chào rồi thưa: - Ta vẫn khoẻ mạnh, đa tạ công tử có lời hỏi thăm! Chàng lại nói tiếp: - Nàng hãy điều dưỡng cho tốt để còn cùng chúng ta học cưỡi ngựa bắn cung, nàng đâu dễ dàng chịu thua chúng ta đúng không? Tạm bỏ qua điều kỳ lạ rằng tại sao chàng trai này lại giống Sỹ Thành như đúc, Thu Đào bị câu nói của chàng làm cho ngạc nhiên tiếp lần thứ hai, nàng tự hỏi: - Cái cô tiểu thư Thu Đào này sao thích toàn những trò đàn ông vậy ta? Rồi ngập ngừng trả lời: - Ta.. không biết mấy cái này, sao mà so tài gì được? Chàng tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn Nguyễn Đức Trung như cần một lời giải thích. Nguyễn Đức Trung cũng chỉ đành thở dài xác nhận: - Quả thật sau khi tỉnh lại Thu Đào đã không còn nhớ gì, cứ như một người khác vậy! Nói xong, Nguyễn Đức Trung mặt mày lấm lét nhìn Lê Tuấn một lần rồi hỏi con gái: - Thu Đào, từ nãy đến giờ con không có thất lễ với.. với công tử đây đó chứ? Nghe cha hỏi, Thu Đào cong môi phân trần: - Đâu có! Con còn đang chỉ đường cho thị vệ này vào tìm cha nữa đó. Nguyễn Đức Trung mặt tái như xác chết, lắp bắp: - Cái gì, thị vệ? Lê Tuấn nhanh chóng chen vào: - Phải! Mạt tướng là Lê Tuấn, thị vệ của bệ hạ, Nguyễn đại nhân chưa gặp mạt tướng nên chưa biết. Nói xong chàng liền nháy mắt ra hiệu cho chàng trai có gương mặt giống Sỹ Thành. Hiểu ý anh, chàng ta bèn giải thích thêm: - Đây là Lê Tuấn, em họ của ta. Mãi hôm nay mới có dịp ra mắt Nguyễn đại nhân. Nguyễn Đức Trung lau mồ hôi đang rịn ra trên trán, ấp úng chấp tay vái chào Lê Tuấn bằng giọng sượng sùng: - Xin.. xin chào Lê công tử! Lê Tuấn theo lễ nghĩa giữa quan lại với nhau cũng khóm người vái chào lại, Nguyễn Đức Trung nhận xong cái "vái chào" đó thì cả loạng choạng đứng không vững, mặt mày trắng bệch như gặp ma. Thu Đào đỡ cha rồi hỏi: - Cha có sao không? Sao tự nhiên lại té lên té xuống như vậy? Cha bị chứng tăng huyết áp của người già hả? Nguyễn Đức Trung vì sợ thất lễ nên hai tai cứ ù ù cạc cạc, không còn hơi sức mà nghe những lời quái đản của Thu Đào. Ông chỉ nhíu mày nhắc nhở con: - Con gái nhà quan, gặp người ngoài con nên hành xử cho đoan trang, biết chưa? Lê Tuấn biết Nguyễn Đức Trung đang lo lắng điều gì, chàng mỉm cười kín đáo rồi trấn an: - Tiểu thư còn nhỏ tuổi lại ít gặp quan lại triều đình, Nguyễn Đại Nhân cứ yên tâm, mạt tướng không hề gì! Nguyễn Đức Trung lại chấp tay vái lấy vái để, nói: - Con gái ta có điều gì chưa phải phép mong công tử bỏ quá cho! Thu Đào chép miệng liếc nhìn cha vẻ bất mãn. Không hiểu sao mà mấy người thời phong kiến này lại quá quan trọng lễ nghĩa tới như vậy. Hở chút là quỳ, hở chút là bái, nhìn thôi cũng muốn rối loạn tiền đình rồi. Đang làu bàu trong lòng vì cảm thấy phiền hà với những lễ nghi quá mức trang trọng này, Thu Đào chợt nghe mặt nóng hừng hừng vì cảm nhận được ánh nhìn ai đó đang dán chặt trên người mình. Nàng theo linh cảm ngẩng đầu lên thì đúng là chàng trai có gương mặt giống Sỹ Thành đúng là đang nhìn nàng chầm chập. Hệt như cảm giác bị Sỹ Thành nhìn, Thu Đào nhanh chóng nhìn qua chỗ khác để tránh va chạm ánh mắt với chàng. Gió mùa hè lướt qua làm mấy sợi tóc mai nghịch ngợm bám riết vào khuôn mặt bầu bĩnh, Thu Đào đưa tay vuốt lấy vuốt để hòng che giấu vẻ ngượng ngùng. Lúc ấy, người đó tự dưng lại dời bước hướng về phía Thu Đào mà đi làm trống ngực nàng cứ vỗ thình thịch liên hồi. Nàng không ngừng tự hỏi: - Chết rồi, muốn làm gì đây trời? Nhìn thì giống lắm nhưng mà hình như không phải là Sỹ Thành! Làm sao đây, làm sao đây? Đang hoang mang không biết phải làm gì tiếp theo thì người phụ nữ nãy giờ vẫn đứng yên bèn vỗ vào vai chàng trai ấy và cất lời: - Hôm nay Lê thị vệ đến tìm Nguyễn đại nhân chắc là có việc cần. Ta mau đến sảnh điện đi thôi! Chàng nhìn mẹ, đôi môi mấp máy như muốn nói thêm điều gì nhưng đã bị cái lắc đầu của bà ngăn lại. Đúng lúc, Lê Tuấn rút trong ống tay áo ra một cái hộp hình trụ như ống tre, bọc xung quanh bằng loại vải màu vàng thêu rồng kim tuyến lấp lánh, chàng nói: - Phải, bệ hạ có chiếu thư muốn ta giao tận tay cho Nguyễn Đại Nhân! Nguyễn Đức Trung vội vàng đỡ lấy chiếu thư, đoạn ông dặn dò Thu Đào ngoan ngoãn trở về phòng rồi cùng Lê Tuấn cùng hai người kia đi đến sảnh điện. Thu Đào lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy chiếu thư của vua nên rất tò mò, hai mắt cứ dán chặt vào đó, trong đầu thì nghĩ mọi cách để "mượn xem cho biết". Sau khi vái chào cha và khách, Thu Đào đứng lại nhìn bóng lưng họ bước dần về phía xa. Đi được một lúc, chàng trai giống Sỹ Thành quay đầu lại nhìn nàng, khoảnh khắc bốn mắt chạm nhau ấy làm Thu Đào nhớ ra một việc, nàng réo thầm trong tâm tưởng: - Úi trời, sao mình lại quên hỏi tên người đó mất rồi! * * * Lại nói về duyên cớ vì sao Lê Tuấn lại chú ý đến đại tiểu thư Thu Đào - Con gái của Điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung. Mùa Xuân năm 1456, nhận thấy Bang Cơ đã mười sáu tuổi, cũng là lúc nên lập hậu phi, sớm có hoàng tôn để Đông cung có chủ, tránh được những tranh đấu đẫm máu như thời Lê Thái Tông, Tuyên Từ thái hậu hối thúc nhà vua sớm lập hoàng hậu, hay ít nhất cũng là nạp vài cung tần. Lúc đó, các quan lại và hoàng thân quốc thích tranh nhau tiến cử khuê nữ của mình cho hoàng đế. Nguyễn Đức Trung đại nhân cũng không ngoại lệ, ngài luôn rất tự hào có hai vị tiểu thư xinh đẹp tài năng, nay có cơ hội giúp con gái bay lên cao thành phượng hoàng, lại rất có lợi cho quan lộ, vì vậy đã cho vẽ chân dung của Thu Hằng và Thu Đào mang đến Nội Phủ Giám (*) ứng tuyển. Lê Nhân Tông lúc đó nổi tiếng là vị vua cần chính (*), lại chưa phải lòng nữ nhi nào nên không quá để tâm việc tuyển tú, chỉ mặc cho thái hậu sắp đặt. Thái giám thân cận Đào Biểu cũng mong hoàng đế sớm có cung phi hầu hạ nên hết lòng thúc giục. Một đêm nọ, Đào Biểu ôm hơn mười bức tranh chân dung các tiểu thư con nhà quan lại đến, khẩn khoản mong nhà vua dành chút thời gian xem qua. Nhưng trong lúc bận rộn phê duyệt tấu chương, Nhân Tông đã quên mất, bỏ mặc Đào Biểu đứng ngủ gật bên cạnh, trong lúc mơ màng Đào Biểu đã đánh rơi một bức tranh trúng ngay đầu vua, bèn hốt hoảng quỳ xuống xin tội. Vốn là vị vua nhân từ luôn xem thái giám thân cận là bậc cha anh, chàng chỉ cười hiền từ, nhặt bức tranh lên thuận tay để lên bàn, xong lệnh cho Đào Biểu: - Đào công công, Trẫm biết ngươi muốn tốt cho Trẫm, nhưng đã khuya rồi, cho phép ngươi về nghỉ ngơi, cứ để các bức họa lại đây. Trẫm hứa với ngươi sẽ xem hết trong vòng ba ngày! Đào Biểu vui mừng lạy tạ: - Đạ hoàng thượng ân điển, chỉ cần người mau chóng lập cung tần là thái hậu và thần sẽ hết sức vui mừng! Đào Biểu khấu đầu rồi lui ra. Nhân Tông lắc đầu cười thay cho thái hậu và Đào Biểu, lúc nào cũng nghĩ việc mau chóng có hoàng tôn. Khoảng giờ Sửu (*), nến sắp tàn chỉ còn ánh sáng yếu ớt. Một cơn gió lạnh thổi vào làm tắt đi vài ngọn nến. Căn phòng chìm vào bóng tối mờ ảo. Lê Nhân Tông thấy mình đang đứng trong một vườn hoa nhỏ, tay cầm chiếc ô đứng nhìn về cửa sổ của một căn phòng. Một mỹ nhân đang ngồi trong đó, ánh mắt hướng về chàng mỉm cười, bất giác chàng nhận ra đây chính là nữ tử kiếp này mình sẽ hết lòng thương yêu, bèn vui mừng nói: - Ta đợi nàng đủ lâu rồi đấy! Bổng nhiên Đào Biểu xuất hiện sau lưng, vỗ vào vai chàng nói: - Hoàng thượng, đã đến giờ Dần (*), mời hoàng thượng tỉnh dậy chuẩn bị thượng triều! Nhân Tông mở choàng mắt tỉnh dậy, hóa ra là một giấc mơ.. Nhưng lạ thay, thấy Đào Biểu mỉm cười nhìn xuống bàn nên chàng mới nhìn lại. Bức tranh vẽ Thu Đào - Người con gái trong giấc mơ của chàng - đang mở ra đặt ngay ngắn trên bàn, và có lẽ chàng đã gục đầu ngủ trên bức tranh ấy cả đêm qua. * * *Hết chương 3---- Chú thích: 1. (*) Quán kích: Chiếc mũ nhỏ dùng đội trên búi tóc của nam giới thời nhà Lê. 2. (*) Tư nghiệp: Chức vụ như hiệu phó của một trường học. 3. (*) Cần chính: Chỉ một vị vua chăm lo việc nước. 4. (*) Giờ Sửu: 1h đến 3h sáng. 5. (*) Giờ Dần: 3h đến 5h sáng. 6. (*) Biểu huynh, biểu đệ: Anh em họ /BOOK]
Chương 4: Lệnh Tiến Cung Bấm để xem Thu Đào ngồi trong phòng sách cùng Thu Hằng và Nguyễn đại nhân, nàng lật hết trang này đến đến trang khác nhưng chỉ đọc được bập bẹ vài chữ làm cha và chị gái vừa ngạc nhiên vừa tiếc nuối cho văn tài trước đây. Thu Đào cũng "bất lực" tự trách bản thân lúc trước học tiếng Hoa không chịu học chữ phồn thể, để bây giờ trở thành kẻ "mù chữ". Cô đấm ngực tự nghĩ: - Thời này làm gì đã có chữ giản thể (*), biết trước thì mình đã chăm chỉ học chữ phồn (*) hơn rồi! Thu Đào thở dài nhìn cha: - Trước đây con giỏi chữ lắm sao? Nguyễn đại nhân gật đầu: - Nữ nhi của các quan đại thần chỉ có hai chị em con được cho học cùng với ba vị hoàng tử, con lúc trước tài học không kém nam nhi đâu! Thu Đào nhìn sang em gái: - Lợi hại dữ vậy sao? Thu Hằng cũng gật đầu: - Em cũng nhờ chị mới được học ở Quốc Tử Giám, chị rất được Tư Nghiệp đại nhân khen ngợi, nên đã xin Hoàng Thượng và Thái Hậu đặc cách cho chị em ta đó! Thu Đào chớp mắt tò mò: - Ngô Tư Nghiệp là ai? Thu Hằng đáp: - Là người thầy đã dạy chữ cho chúng ta từ nhỏ, Ngô Sĩ Liên đại nhân chứ còn ai? Nghe đến Ngô Sĩ Liên thì Thu Đào há hốc mồm không nói nên lời. Cô tiểu thư Thu Đào này đúng là quá lợi hại, bậc danh nhân như sử gia Ngô Sĩ Liên lại là thầy dạy chữ của cô ta! Thu Đào thích thú tự nhủ: - Vậy là từ đây ta chính là học trò của Ngô Sĩ Liên sao? Trời ơi, quá ngầu! Trà My ơi mày thật là "không phải dạng vừa!" Nguyễn Đức Trung vuốt râu gật gù như vẫn còn chìm đắm trong niềm tự hào về đứa con gái tài giỏi. Nhưng thực tại lại kéo ông về ngay, ông nhìn Thu Đào tiếc nuối: - Phận nữ nhi mà lại có văn tài võ lược, triều ta chỉ có con, vậy mà bây giờ con lại quên hết chữ nghĩa, võ nghệ lại càng không biết! Thật sự là đáng tiếc! Chưa vui được bao lâu, Thu Đào đã phải cuối đầu hổ thẹn: - Con xin lỗi! Nguyễn đại nhân thông cảm xoa đầu con gái: - Con vẫn bình an là cha vui rồi, nữ nhi không có tài thì trau dồi đức hạnh, không sao đâu con! Xong ông nhìn sang Thu Hằng: - Bệ hạ có chỉ gọi chị con đến học tiếp, thôi thì con cố gắng chỉ dẫn thêm cho Đào! Thu Hằng gật đầu: - Dạ, thưa cha! Nguyễn Đức Trung quay lưng bước ra khỏi phòng. Thu Hằng nhìn chị gái lật giở từng trang sách mà bật cười. Nàng biết vui mừng vì chị mình mất hết ký ức và tài năng là điều không tốt, nhưng bản tính con người vốn ích kỷ, từ nhỏ Thu Đào luôn vượt trội hơn nàng về nhan sắc, học vấn, Thu Đào còn thông minh khéo léo làm cho cha mẹ và ân sư là Tư Nghiệp Ngô Sĩ Liên yêu quý hơn. Thu Hằng tự cảm thấy mình chỉ luôn là cái bóng của chị gái. Bất kỳ nơi nào nàng xuất hiện một mình thì đều bị mọi người hỏi: Thu Đào đâu rồi? Thu Hằng đã lớn lên trong sự so sánh như thế, vì vậy nàng luôn siêng năng hơn, rèn giũa lễ nghi để có phong cách đoan trang hiền thục, mong sẽ phần nào bù đắp lại, để không quá lu mờ trước Thu Đào. Nhưng dù sao chuyện mất hết ký ức sau trọng bệnh vẫn thật kỳ lạ, Thu Hằng đã nhiều lần cố ý thử, nhưng Thu Đào quả thật không nhớ gì, nàng luôn tự hỏi: - Chị thật sự không còn nhớ chàng sao? Nếu gặp lại nhau thì hai người có tiếp tục phải lòng nhau không? Về phần Thu Đào, từ lúc gặp Lê Hạo bên hồ thì không thôi suy nghĩ về chàng, về Sỹ Thành trong lòng nàng. Họ là hai người hay một người? Hay Lê Hạo chính là kiếp trước của Sỹ Thành giống như những câu chuyện luân hồi nàng đã đọc trong sách, hay họ vốn không liên quan gì nhau? Sao ánh mắt và thần thái của chàng cứ như chính là Sỹ Thành đã bị lạc về thời đại này cùng nàng vậy? Bao nhiêu câu hỏi không ngừng ám ảnh Thu Đào. Về "em gái" Thu Hằng thì lại là một sự ngạc nhiên khác, em gái ruột của nàng ở thời đại này lại có tên giống hệt với người bạn thân nhất tại thời hiện đại. Mọi chuyện cứ như có một bàn tay vô hình nào đó sắp đặt sẵn. Đúng vậy, dù sao cũng không biết cách trở về năm 2022, nên trước mắt cứ xem như Thu Đào chính là tiền kiếp của Trà My, may mắn được quay về để sống lại kiếp này, nàng quyết định sống thật tốt để Trà My của sau này có hậu phúc. Còn nếu đây là một giấc mơ, khi tỉnh lại ít ra cũng đã có một giấc mơ thật tuyệt vời! Đấy là còn chưa nhắc đến việc Trà My lại được tiếp cận với những nhân vật lịch sử tiếng tăm lẫy lừng, đối với nàng thì chẳng còn gì hấp dẫn hơn được nữa! Hai cô gái đang mãi mê theo đuổi ý nghĩ riêng của mình thì bỗng Nguyễn Đức Trung quay trở lại thư phòng, trên tay cầm thánh chỉ. Ông nhìn Thu Đào nói: - Lúc trước cha đã định nói cho con biết, nhưng chưa biết bắt đầu thế nào thì đột nhiên con lại không may ngã xuống hồ Cẩm Lý rồi bệnh nặng. Thu Hằng thấy thánh chỉ trên tay cha nên nóng lòng hỏi: - Có thánh chỉ từ triều đình sao cha? Nguyễn Đức Trung chậm rãi nhìn Thu Đào nói: - Mùa thu năm nay bệ hạ tuyển tú, trước đây người có hỏi cha về Đào và tỏ ý muốn nạp làm cung tần. Quả nhiên hôm nay đã có thánh chỉ, con được tấn phong trực tiếp làm Lục Giai Mỹ Nhân, không cần phải bắt đầu từ cung nhân. Ân sủng này không phải ai cũng có, là phúc hay họa, sau này là tuỳ vào bản lĩnh của con đó! Thu Đào vừa nghe xong thì đứng phắt dậy lên tiếng phản đối: - Không, con không chịu đâu, con có quen biết gì bệ hạ đâu, tại sao chọn trúng con! Cha ơi con chưa muốn lấy chồng! Nguyễn đại nhân mắt tròn xoe lập lại lời của Thu Đào, vì nàng trót dùng từ hiện đại: - Lấy chồng? Thu Đào chắt lưỡi giải thích: - À là "thành thân, gả đi" đó cha, mà quan trọng là con không muốn, xin cha cứu con! Nguyễn đại nhân tỏ ý không đồng tình, dạy dỗ con gái: - Xưa nay việc chung thân đại sự nữ nhi làm sao có quyền quyết định, huống chi con được bậc minh quân chọn, là người khác thì đã mừng còn không kịp, con lại từ chối là thế nào? Ý cha đã quyết, con liệu mà cẩn trọng ngôn hành, không khéo cả họ ta mang đại tội khi quân! Nói xong Nguyễn đại nhân bỏ đi, mặc cho Thu Đào gọi với theo: - Cha ơi, cha! * * * Lê Hạo đứng chấp tay trước bàn thờ Phật tại chính điện của Huy Văn Tự. Ngô phu nhân đứng sau lưng chàng, chờ con trai lễ Phật xong mới mở lời: - Con nghĩ sao về lời đề nghị hồi cung của hoàng thượng? Chàng nhìn mẹ như muốn xem ý của bà thế nào. Ngô phu nhân nói tiếp: - Mẹ con ta đã chọn ẩn thân cầu bình an, cả gia tộc của Nguyễn đại nhân bị liên luỵ mà mất cả mạng sống, chẳng lẽ nay con lại muốn dấn thân vào hang hổ, phụ công người đã khuất sao? Chàng trầm ngâm một chút rồi trả lời mẹ bằng ánh mắt cương nghị: - Thưa mẹ, Nguyễn đại nhân cứu mẹ con ta khỏi tay kẻ gian, không đơn giản là để giữ lại mạng sống. Bậc khai quốc công thần như Nguyễn đại nhân chắc chắn lòng mang nghĩa lớn, tất cả đều suy nghĩ cho đại cuộc. Con nghĩ trong lúc kẻ gian có ý đồ mưu phản, muốn khuấy động thái bình của giang sơn phụ hoàng để lại, con thân là hoàng tử sao có thể khoanh tay đứng nhìn. Huống hồ tam ca đối đãi thật lòng với con, nếu tham sống sợ chết làm con rùa rụt cổ, kiếp này con sẽ phụ ơn cứu mạng của Nguyễn đại nhân, hổ thẹn là con cháu hoàng tộc! Ngô phu nhân chưa hết lo lắng: - Mẹ biết ý con đã quyết không thể thay đổi được, chỉ mong con cương nhu đúng lúc, không nên sớm tỏ rõ chính kiến mà đắt tội với thế lực nào, mẹ chẳng mong vinh hoa phú quý, chỉ mong con một đời bình an! Lê Hạo nắm tay mẹ nói thêm: - Xin mẹ hãy yên tâm, con sẽ biết cân nhắc. Con hứa với mẹ mọi việc đều sẽ nghĩ cho tâm trạng của mẹ mà hành động. Ngô phu nhân ôm con trai vào lòng: - Nếu đã vậy, con đi đâu mẹ cũng đi theo! Con của mẹ không thẹn là con cháu của Thái Tổ Hoàng Đế! * * * Tại đình hóng mát bên hồ sen phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Nguyễn phu nhân ngồi cùng hai con gái, bà khuyên giải Thu Đào: - Được hoàng thượng chọn tiến cung, lại còn được phúc lớn phong làm Mỹ Nhân, không cần bắt đầu từ một cung nhân bé nhỏ, tại sao con không đồng ý? Thu Đào phân trần: - Mẹ à, con biết nói ra suy nghĩ của mình thì cha mẹ khó lòng chấp nhận, nhưng con còn quá trẻ để thành thân, càng không muốn phải chung một phu quân với người khác. Hơn nữa con chưa từng quen biết hoàng thượng, làm sao có thể lấy người được? Nguyễn phu nhân nghe con gái nói đến đâu thì há hốc miệng, mắt tròn mắt dẹt đến đấy, bà không hiểu nổi đứa con gái bà dốc lòng dạy dỗ mười lăm năm nay, thông hiểu lễ giáo con nhà quan lại có những suy nghĩ quái lạ như vậy. Bà cũng như Nguyễn đại nhân, rất phật lòng vì đứa con gái mang ý nghĩ kỳ lạ: - Con nói gì lạ vậy, xưa nay chung thân đại sự đều do cha mẹ sắp đặt, không nhất thiết phải biết mặt phu quân trước. Phận nữ nhi thì chung một phu quân có gì là lạ, sao con dám nghĩ sẽ được một nam nhi nào chỉ cưới duy nhất một mình con? Ngày trước mẹ năm mười sáu tuổi đã sinh ra hai đứa, con năm nay đã mười lăm thì sao lại còn quá trẻ? Thôi, ý cha mẹ đã quyết, hơn nữa việc này còn liên quan đến con đường thăng quan tiến chức của cha con, con liệu mà suy nghĩ cho kỹ. Mẹ rất thương con, lẽ nào đẩy con vào chỗ không tốt? Nguyễn phu nhân nhìn sang Thu Hằng đang lắng nghe nãy giờ, bà nói: - Con hãy khuyên bảo cho chị thêm giúp mẹ! Nói xong Nguyễn phu nhân đứng dậy rời đi. Thu Đào đứng lên nói với theo: - Nhưng mẹ ơi! Thu Hằng cầm tay chị khẽ lắc đầu ra hiệu đừng phí công vô ích. Thu Đào ngồi phịch xuống, ngửa mặt lên trời khẽ than: - Trời ơi cứu con! Sao tự nhiên con lại ở đây, rồi tự nhiên phải đi lấy ông vua, trong cung ba nghìn giai lệ, chẳng lẽ con lạc đến đây để rồi chết già trong cung hả trời? Trong lòng Thu Đào thật sự bế tắc, vì nàng biết rõ Nhân Tông Lê Bang Cơ sẽ bị ám sát khi còn rất trẻ, số phận cung nhân mỹ nữ của ông ta chắc chắn rất bi thảm, không bị giết cũng sẽ bị bắt làm thê thiếp cho quân làm đảo chính. Nghĩ đến đây nàng chỉ còn biết thở dài, làm sao thoát khỏi cục diện này đây! Thu Hằng nhìn vẻ mặt chán nản của chị gái cũng thấy tội nghiệp nên nắm tay khuyên nhủ: - Hoàng Thượng hiện chưa có cung tần mỹ nữ nào bên cạnh, nếu chị vào cung cơ hội độc sủng xem như nằm trong tay, rạng danh gia tộc, chị nên vui mới phải chứ! Thu Đào trợn tròn mắt: - Trời ơi rạng danh đâu không thấy, chỉ thấy sẽ bị ở giá sớm, có nói em cũng không hiểu! Xong Thu Đào ôm đầu gục xuống bất lực. Thu Hằng ngạc nhiên: - Ở.. giá! Thu Đào ngẩng mặt lên trời ngán ngẩm than: - Chán thật, bây giờ thì một câu nói đơn giản của mình cũng không ai hiểu! Thu Hằng ra vẻ nghi ngờ: - Hay là tuy chị quên hết mọi người nhưng vẫn nhớ chàng? Cho nên mới không muốn hầu hạ Hoàng Thượng? - Chàng nào? Thu Hằng nhíu mày một lúc rồi nói tiếp: - Là người đã lớn lên cùng chị em ta, Lê Hạo! Là người hôm qua cùng Ngô phu nhân đến gặp cha đó! Thu Đào nghe cái tên rất quen tai, dường như cô đã đọc được ở đâu đó, miệng lẩm bẩm: - Lê Hạo.. nghe tên quen quen! Xong lại nhìn em gái rồi e dè hỏi: - Lúc trước chị đã thích người đó à? Người hôm qua đến nhà mình ấy? Thu Hằng gật đầu rồi chậm rãi kể lại.. Từ nhỏ Lê Hạo đã cùng mẹ là Ngô phu nhân sinh sống tại chùa Huy Văn. Mặc dù là hoàng tử và Tiệp Dư của Thái Tông hoàng đế, nhưng hai mẹ con chàng đã chọn cách sống thanh nhàn nơi cửa Phật, tránh xa tranh đấu quyền lực chốn cung đình. Nguyễn Quốc Trung đại nhân lúc đó đã nhận uỷ thác của đại thần Nguyễn Trãi rằng hãy chăm sóc cho mẹ con Ngô Tiệp Dư, vì vậy từ nhỏ hai chị em cô rất thường xuyên theo cha tới lui chùa Huy Văn. Năm mười hai tuổi, có một lần Thu Đào được theo Nguyễn Đức Trung đến Quốc Tử Giám gặp Tiến Sĩ - Tư Nghiệp Ngô Sỉ Liên xử lý công vụ. Lúc đó Ngô Tư Nghiệp đang dạy học cho ba vị hoàng tử: Nghi Dân, Khắc Xương, Lê Hạo, và có ra một câu đố chữ: "Đất thì là đất bùn ao, Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay. Con ai mà đứng ở đây, Đứng thì chẳng đứng vịn ngay cây sào!" Thu Đào đứng ở bên ngoài chờ cùng với cha cũng nghe được câu đố, tuổi nhỏ chưa hiểu chuyện nên khi nghĩ ra đáp án, tiểu cô nương chạy ngay đến bên cạnh Ngô Tư Nghiệp hớn hở thưa: - Thu Đào biết, đó là chữ Hiếu (孝), Hiếu trong "Hiếu thuận"! Ngô Tư Nghiệp ngạc nhiên thích thú xoa đầu Thu Đào: - Con gái của Nguyễn Đức Trung đại nhân quả nhiên thông minh hơn người! Nguyễn đại nhân tuy có hơi ngại ngùng vì con gái chưa hiểu lễ nghĩa, nhưng cũng khó giấu được niềm tự hào trong ánh mắt: - Con trẻ tuổi nhỏ chưa biết khiêm nhường, xin ba vị điện hạ và Ngô Tư Nghiệp bỏ qua cho! Từ đó Ngô Tư Nghiệp rất chú ý đến Thu Đào, phần vì nàng là con gái của bằng hữu, phần vì cô bé thật sự thông minh lanh lợi, vì vậy đã xin phép triều đình đặt cách cho hai vị tiểu thư của Nguyễn Đức Trung đại nhân được đến Quốc Tử Giám học cùng ba vị hoàng tử. Lúc đó Tuyên Từ thái hậu vừa trao lại quyền lực cho Lê Nhân Tông, Nhân Tông vốn ưa chuộng nhân tài, tấm lòng lại độ lượng nhân đức nên chuẩn tấu cho hai chị em Thu Đào được đi học. Và cũng vì vậy hai chị em Thu Đào cùng Lê Hạo thường xuyên gặp gỡ, trao đổi văn chương chữ nghĩa, tình cảm giữa ba người cứ thế lớn dần theo năm tháng.. * * * Hết chương 4 ---- Chú thích: 1. (*) Chữ Hán phồn thể (繁體漢字/正體漢字) hay chữ Hán chính thể là một trong hai bộ chữ in tiêu chuẩn của tiếng Trung. Dạng chữ viết phồn thể hiện nay đã xuất hiện lần đầu cùng với các văn bản ghi chép thời nhà Hán và ổn định từ thế kỷ 5 trong thời Nam Bắc triều. (Tương đương cuối thời Văn Lang, đầu thời kỳ Âu Lạc của nước ta). Hiện nay, chữ Phồn thể được dùng nhiều ở Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao. 2. (*) Chữ Hán giản thể(简体字)cũng như tên gọi của nó là đơn giản hóa. Được xúc tiến từ sau Thế Chiến thứ II bởi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. So với chữ phồn thể thì chữ giản thể đã lược đi nhiều nét phức tạp tinh vi để chữ viết đơn giản dễ học hơn. Chữ giản thể được dùng phổ biến ở Trung Quốc đại lục, Singapore, Malaysia hay trong các ấn phẩm giáo dục cho người nước ngoài. /BOOK]
Chương 5: Chàng Là Ai Bấm để xem Trở về phòng sau cuộc nói chuyện với Thu Hằng, Thu Đào thấy đầu óc mơ hồ, nhất thời chưa tiếp nhận nỗi "thân thế" quá lớn của Sỹ Thành phiên bản Lê Hạo này! Hèn gì nghe hai chữ "Lê Hạo" đã có cảm giác ngờ ngợ rồi. Hoàng tử Lê triều phải cùng mẹ đến chùa sinh sống từ nhỏ còn ai khác hơn ngoài Lê Thánh Tông! Lúc này, Thu Đào triệt để tin tưởng rằng thật sự có luân hồi chuyển kiếp, chẳng trách Sỹ Thành của cô lại thành đạt khi tuổi đời còn rất trẻ, thần thái khí chất của anh cũng hơn hẳn người thường, và có lẽ Lê Hạo hiện tại chính là Sỹ Thành của sáu trăm năm sau. Và cũng vì cảm giác của nàng khi gặp Lê Hạo, trái tim cũng loạn nhịp như khi gặp Sỹ Thành vậy, vừa yêu vừa hận, nếu không phải cùng một người, không phải do nhân duyên truyền kiếp, thì lấy đâu ra linh cảm như thế này! - Sỹ Thành, có phải là anh đấy không? Giữa chúng ta còn có thể nào không? Thu Đào thiếp đi với bao nỗi niềm chất chứa. * * * Hôm nay là ngày đầu tiên Thu Đào trở lại lớp học sau khi khỏi bệnh. Đối với mọi người thì là "trở lại lớp học", nhưng với Thu Đào thì là "ngày đầu tiên đi học". Vốn rất háo hức xem lớp học của trường Quốc Tử Giám ra sao, trong lớp học thời tôn sùng nho giáo họ đã dạy các sĩ tử những gì vv, với Trà My - Thu Đào phiên bản lậu này thì đây là một việc vô cùng thú vị, có chết cũng phải đến xem thử. Nhớ ra việc trọng đại này, Thu Đào lập tức ngồi dậy, làm tì nữ Xuân Mai vốn đang đứng chuẩn bị khăn lau mặt giật nảy người: - Đại tiểu thư dậy rồi, cô làm em giật cả mình! Thu Đào hào hứng trả lời: - Tốt lắm! Thì ra osin ngày xưa chăm chỉ như vậy, mình không còn cần báo thức nữa! Mau, mang quần áo đến cho ta! Nói xong Thu Đào bước nhanh đến đón lấy chiếc khăn nhúng vào nước lau mặt, và khoái chí cười phá lên khi thấy vẻ mặt cô hầu gái ngẩn ngơ nhẩm lại mớ từ vựng "trên trời" lần đầu được nghe: - Ố sin.. báo thức gì? Cô hầu gái mang đến một bộ quần áo được xông hương thơm ngát, lễ phép mời Thu Đào đến thay như một tháng nay cô ta vẫn làm. Nhưng hôm nay đặc biệt có nhiều phụ kiện kèm theo, nào là thắt lưng, áo trong áo ngoài, Thu Đào lay hoay mãi vẫn không biết cái nào nên mặc trước, cái nào nên mặc sau. Cô hầu gái che miệng cười rồi đón lấy bộ quần áo vừa giúp Thu Đào mặc vừa giải thích: - Nói ra thì hôm nay là ngày đầu tiên cô ra khỏi phủ từ khi khỏi bệnh nhỉ, cô xem này, áo mặc trong thì mỏng và dài hơn, sắp vào Thu nên cô phải mặc thêm một lần áo lót cho ấm, rồi mới đến áo trong. Kiểu áo này thì cô thắt lưng xong mới đến mặc áo lụa bên ngoài.. Thu Đào thích thú lắm, cô chú ý nghe từng lời cô hầu gái hướng dẫn. Trang phục của quý tộc Hậu Lê hóa ra là thế này. Tuy hôm nay là đồng phục đi học, màu xanh da trời nhạt giản dị, nhưng chất liệu vãi rủ mềm, trông Thu Đào thật thướt tha tươi tắn. Thu Đào ngắm mình trong chiếc gương đồng và mỉm cười thầm nghĩ: - Thật ra nếu mình là con nhà tài phiệt ở thế kỷ 21 thì chắc mình cũng xếp vào hàng mỹ nhân như bây giờ cũng nên! Cô hầu gái đứng kế bên buộc miệng khen: - Đại tiểu thư nhà ta quả nhiên xinh đẹp! Từ lúc cô bệnh dậy em trông thần thái cô tuy có khác một chút, nhưng vẫn là cô trời sinh tướng mạo xinh đẹp! Thu Đào vui trong lòng vỗ vai trêu đùa cô hầu gái bằng một câu mà cô biết chắc nghe xong em ấy sẽ lại ngẩn tò te lẩm bẩm lại "từ vựng" tiếp: - Giỏi, để ta nói cha tăng lương cho! Và quả nhiên Thu Đào đã bước ra khỏi phòng với nụ cười khoái chí vì bộ mặt ngẩn ngơ của cô hầu gái: - Tăng.. lương? * * * Thu Hằng ngồi trước gương, cẩn thận căn dặn người hầu thắt chiếc nơ trên đầu ngay ngắn, kết bím tóc thật đều tay. Nàng còn tự tay kẻ mày lá liễu sao cho yểu điệu, dặm thêm phấn cho hai má ửng hồng. Hôm nay đối với nàng cũng là một ngày rất quan trọng, kể từ lúc Thu Đào ốm dậy thì xem như là lần đầu Thu Đào và nàng cùng xuất hiện trước mặt Lê Hạo. Nàng tự nhủ không được để thua kém Thu Đào lần nữa trong mắt chàng. Từ nhỏ tuy không được khen ngợi nhan sắc nhiều như Thu Đào, nhưng Thu Hằng cũng là một mỹ nhấn hiểu biết lễ nghĩa, đoan trang và có học vấn. Huống hồ Thu Đào của hiện tại cũng không còn văn võ song toàn như trước, Thu Hằng cũng vì vậy tự tin hơn trước rất nhiều. Nàng hài lòng ngắm mình trong gương lần nữa rồi cũng ra khỏi phòng. * * * Trong tẩm điện của Lê Nhân Tông hoàng đế. Lê Tuấn đang vội vàng thay bộ đồng phục xanh lam của trường Quốc Tử Giám, thái giám thân cận Đào Biểu chỉnh sửa thắt lưng cho chàng và than: - Hoàng thượng lo việc nước vất vả nhiều rồi, sao không tranh thủ nghỉ ngơi mà đến Quốc Tử Giám thị sát làm gì nữa? Lê Tuấn thân mật như đang trả lời với người thân trong gia đình: - Ta biết ngươi lo cho ta còn hơn cả mẫu hậu, nhưng ta cũng là vì tìm kiếm nhân tài cho triều đình thôi.. Từ ngoài cửa, giọng nói của Tuyên Từ thái hậu vang lên cắt ngang lời của Lê Tuấn: - Tìm kiếm nhân tài hay tìm kiếm mỹ nhân về lập làm cung tần? Thái Giám Đào Biểu chấp hay tay ngang đầu cúi chào: - Đức Thái Hậu vạn phúc! Nói xong bèn ý tứ cáo lui. Lê Tuấn cúi chào mẹ: - Mẫu hậu vạn phúc! Tuyên Từ thái hậu hỏi Lê Tuấn: - Gần đây hoàng thượng hay đến Huy Văn Tự gặp mẹ con Ngô Tiệp Dư đúng không, nếu tình cảm anh em đã tốt như vậy chi bằng đón hẳn về cung, dù sao cũng đường đường là hoàng tử và thái cung tần (*), ở bên ngoài lâu không tốt cho danh tiếng hoàng tộc. Lê Tuấn vui mừng vì sau bao năm rốt cuộc thái hậu đã chấp nhận quên đi hiềm khích cũ, đồng ý đón hai mẹ con Ngô Tiệp Dư về cung, chàng chấp tay ngang đầu cảm tạ mẹ: - Đa tạ mẫu hậu, nhi thần biết người vốn nhân từ, sẽ không nhớ chuyện cũ, ngày mai con lập tức truyền chỉ đón Ngô Tiệp Dư và tứ đệ về cung. Tuyên Từ thái hậu xoa đầu Lê Tuấn: - Con trai của ta lòng dạ lương thiện, nhưng con phải luôn có lòng đề phòng các huynh đệ, không phải ai cũng như con, hoàn toàn không mưu tính tranh đoạt ngôi vị! Lê Tuấn nắm tay mẹ đảm bảo: - Hiện nay đại cục đã định, ai muốn thay đổi cũng khó lòng phục chúng, huống hồ tứ đệ với con có tình thủ túc, tứ đệ nhất định không có lòng riêng, mẫu hậu cứ yên tâm! Tuyên Từ thái hậu cười cho qua, rồi hỏi tiếp: - Vậy còn vị mỹ nhân con định tấn phong thì sao? Khi nào cho mẹ gặp mặt đây! - Mẫu hậu nhất định sẽ rất thích nàng, chính là đại tiểu thư của Nguyễn Đức Trung đại nhân, nhi thần tình cờ xem tranh vẽ nàng, nhưng dung nhan thật của nàng còn xinh đẹp hơn nhiều! Thái hậu nhắc nhở con trai: - Xưa nay hồng nhan họa thuỷ, con chớ nên quá si mê nhan sắc! - Nhi thần cẩn tuân mẫu hậu giáo huấn! Lê Tuấn chấp tay ngang đầu cuối chào Tuyên Từ thái hậu. Lê Tuấn trong lòng phấn khởi, chàng bước thật nhanh chỉ mong mau chóng đến báo tin vui cho Lê Hạo. Tuyên Từ thái hậu nhìn theo Lê Tuấn đến khi bóng chàng khuất sau tầng tầng lớp lớp những cánh cửa hoàng cung. Bà thầm nghĩ: - Ở gần bên cũng tốt, ta dễ dàng đoán được tâm tư của mẹ con ả! Vì hoàng vị của con, mẹ bằng lòng đánh đổi tất cả! * * * Thu Đào và Thu Hằng cùng nhau bước vào cánh cổng ngôi trường nổi tiếng dưới thời Hậu Lê - "Quốc Tử Giám". Vừa bước vào cổng trường, Thu Đào cảm thấy lồng ngực như muốn vỡ tung ra vì phấn khích và hạnh phúc. Ai có thể ngờ một con người của năm 2022 lại có thể bước vào nơi đây, ngôi trường nổi tiếng đào tạo ra một thế hệ văn nhân tài năng của đất nước, những con người đã dựng nên trang sử vàng của dân tộc. Ôi, cuộc sống này thật vi diệu làm sao! Một tháng nay Thu Đào gần như không còn muốn quay về thời đại của mình bởi nơi này đã quá sức hấp dẫn, cô như con chim bé nhỏ trong lồng nhìn ra thế giới bên ngoài rộng lớn, vừa khát khao trãi nghiệm, vừa sợ sệt dè chừng. Khuôn viên trường rộng lớn gấp đôi phủ đệ, gồm hai dãy phòng học hình chữ U lồng vào nhau theo thứ tự trong cùng là chữ U nhỏ, chữ U lớn ở ngoài và cuối cùng là lớp tường bằng gạch nung đỏ, sơn son thiếp vàng đúng theo phong cách triều đình thời đại này. Giữa sân trường có một cái trống da trâu rất to được sơn màu đỏ, nó được đặt dưới gốc cột cờ. Thu Đào vui mừng liền ngẫng đầu lên để chiêm ngưỡng ngay lá cờ của triều đại rực rỡ nhất lịch sử phong kiến Việt Nam. Lá cờ được may viền hình vây lưng rồng màu đỏ xung quanh hình chữ nhật màu vàng. Ở giữa lá cờ là một vòng tròn nền trắng viền đỏ có ghi chữ Hán tự 黎 (Lê). Thật may mắn làm sao, dù không biết nhiều chữ Hán phồn thể nhưng với khả năng tiếng Hoa trung cấp Thu Đào cũng nhìn ra chữ "Lê", thì ra chữ Hán tự phồn thể dù đã cách gần sáu trăm năm vẫn không khác biệt là mấy - Thu Đào thầm nghĩ và cười thõa mãn! Sân trường đã bắt đầu đông đúc hẳn lên, trang phục học trò màu xanh lam phấp phới nơi nơi.. trời xanh, mây trắng, nắng vàng.. lá cờ Lê Triều tung bay trong gió! Cảm xúc hoài cổ dâng trào, Thu Đào có cảm giác mình đang trở về nơi thân thuộc sau rất rất rất nhiều năm, nàng chẳng thể hình dung cảm giác ấy là gì, chỉ biết reo thầm cho thõa niềm vui sướng: - Tuyệt! Tuyệt diệu! Bỗng một giọng nói quen thuộc, ấm áp phát ra ngay bên cạnh: - Nhìn thần sắc nàng phấn khởi như vậy, được quay lại học chắc vui lắm đúng không? Thu Đào quay lại nhìn, Lê Hạo nở nụ cười hiền hậu chào nàng. Ôi cha mẹ ơi, đứng trước mặt mình bây giờ không chỉ là người thương, mà còn là vị vua nổi tiếng của triều hậu Lê, làm sao có thể giữ bình tĩnh được đây? – Thu Đào bối rối vô cùng, trong lúc chưa biết nên nói gì thì Thu Hằng đứng bên cạnh ánh mắt sáng lên khi thấy người thương, liền bước đến chào hỏi ngay: - Hôm nay chàng đến thật sớm, chắc hẳn chàng đã hoàn thành bức tranh Ngô Tư Nghiệp giao phó, có thể cho ta mượn xem không? Lê Hạo rút trong tay nải (*) ra một bức tranh trao cho Thu Hằng và đáp với thái độ rất giữ lễ nghĩa: - Mời nhị tiểu thư! Trái ngược với sự giữ kẽ dành cho Thu Hằng, chàng luôn nhìn Thu Đào bằng ánh mắt thân thương và lúc nào cũng chủ động bắt chuyện. Gặp lại chàng ở đây, trong thân phận "khủng" như thế này, Thu Đào không chỉ còn yêu, mà bây giờ còn bị "kính nể" Lê Hạo, và rồi quá bối rối nàng đã trả lời một câu "chẳng ra làm sao" : - Đúng là ta rất vui vì được đến đây.. Nàng bỏ lửng câu nói và vội vàng đưa mắt nhìn nơi khác, phần vì chẳng biết nên mô tả thế nào cảm xúc trong lòng lúc này, phần vì đứng trước mặt Lê Hạo thật sự câu cú ngôn từ cứ bay đi đâu mất hết. Thật may mắn, vào lúc khó xử ấy thì tiếng trống báo giờ Thìn vang lên. Thu Đào nhanh chóng nắm bắt cơ hội tự giải vây cho bản thân, nàng nhìn sang Thu Hằng hỏi: - Giờ học đã đến rồi đúng không? Mãi chú ý đến thái độ của Lê Hạo đối với Thu Đào nên khi bất chợt bị hỏi Thu Hằng mới ấp úng nói: - À, ờ đúng rồi, chúng ta đi thôi! Lê Hạo nhìn thái độ cố tình né tránh của Thu Đào mà lòng ngổn ngang trăm mối, ánh mắt ngập tràn ý tứ của nàng lúc trộm nhìn mình, chàng không thể tin được là Thu Đào đã quên hết mọi việc. Nếu không có tình, thì ý trong ánh mắt ở đâu ra? Nếu không có ký ức, thì sao lại ngại ngùng né tránh không dám nhìn thẳng vào ta? - Lê Hạo tự hỏi. * * * Tạm gác lại những ưu tư về người yêu, Thu Đào háo hức chờ được gặp Ngô Tư Nghiệp. Tiến bước chân ngoài cửa càng lúc càng gần, Thu Đào mãi miết nhìn ra cửa chờ đợi. Và rồi Ngô đại nhân đã xuất hiện, ngài tuổi ngoài 50, thân hình cao lớn, ít nhất cũng là 1m75 nếu tính theo thời hiện đại, gương mặt sáng, trán cao, bộ râu đen chỉ dài qua khỏi cằm không làm ngài già đi mà còn tô rõ nét chững chạc điềm tĩnh. Ngô đại nhân áo mũ chỉnh tề, tay cầm quyển sách và đoạn gỗ khoảng ba tấc, có lẽ dùng để gõ nhịp khi đọc thơ giống như Thu Đào thường thấy trong các bộ phim cổ trang. Thật đúng chuẩn văn nhân nho nhã! Thu Đào thầm khen và đang lên kế hoạch xin cho bằng được "chữ ký" của ngài, biết đâu khi trở lại năm 2022 đó sẽ là một báu vật vô giá! Ngô Sĩ Liên bước vào lớp, ngài chấp tay ngang đầu hành lễ chào xong, cả lớp định ngồi xuống thì Lê Tuấn cũng vừa bước chân vào cửa lớp. Như một thói quen, tất cả mọi người vừa định đứng dậy hành lễ với Lê Tuấn, nhưng chợt nhớ ra điều gì nên lại thôi. Lê Tuấn cất tiếng chào cả lớp: - Ta có công vụ nên đến hơi trễ, phiền Ngô Tư Nghiệp và các vị chờ lâu, thất lễ rồi! Ngô Tư Nghiệp đưa tay về phía vị trí cạnh Thu Đào để hướng dẫn cho Lê Tuấn, vui vẻ đáp lời: - Vẫn chưa muộn! Chỗ này, xin mời Lê công tử! Thu Đào tròn mắt nhìn sang chỗ ngồi trống bên cạnh mình rồi nhìn Lê Tuấn đang bước đến gần. Vừa ngồi xuống bên cạnh nàng, Lê Tuấn đã lém lỉnh bắt chuyện: - Xin thỉnh giáo văn tài của đại tiểu thư vang danh khắp Quốc Tử Giám vậy! Thu Đào ngượng ngùng trả lời: - Ta không biết vị Thu Đào tiểu thư trong lòng người trước kia tài giỏi thế nào, chỉ biết Thu Đào ta bây giờ một chữ bẻ đôi cũng không biết! Lê Tuấn rất thích thú với cách trò chuyện tự nhiên hóm hỉnh của nàng, khác xa với dáng điệu e thẹn lễ giáo của các tiểu thư nhà quan mà chàng từng gặp. Rồi chàng cười tươi nói: - Cho dù là vậy cũng không sao, có ta bên cạnh nàng sẽ mau chóng biết được nhiều chữ ngay thôi! Nhìn gương mặt và nụ cười này, Thu Đào thấy vô cùng quen thuộc và ấm áp, cảm giác giống hệt lần đầu tiên gặp chàng ở ao sen trong phủ đệ. Bất giác nàng buộc miệng nói một mình: - Mình đã gặp người này ở đâu rồi thì phải! Lời hỏi bài của Ngô Tư Nghiệp cắt ngang dòng suy nghĩ của Thu Đào. - Lần trước ta có ra đề làm một bài thơ thất ngôn bát cú về một loài hoa, chẳng hay các vị điện hạ, tiểu thư đã hoàn thành chưa? Nhìn khắp lớp một lượt không thấy ai trả lời, Ngô Tư Nghiệp nói tiếp: - Vậy ta xin được mời tứ điện hạ bắt đầu trước vậy! Lê Hạo đứng lên đọc bài thơ "Hoa Sen Non" như thể xác nhận với Thu Đào về thân thế của chàng: "Dìu dịu lam điền ngọc mới tương (1) * Hồ thanh, sắc ánh, mặt dường gương Ngọc in làm dáng tiền sơ đúc (2) *, Chàm nhuộm nên màu tán chửa giương. Lạt biếc mới khai mày Thái Mẫu (3) *, Thắm hồng còn kín má Vương Tường (4) *. Khách thơ hứng nghĩ hiềm (5) * chưa đủ, Mười trượng hoa thì mười trượng hương!" Đây chính là bài thơ "Hoa Sen Non" của Lê Thánh Tông mà Thu Đào - Trà My của thời hiện đại- đã dùng để thi vào trường cấp ba chuyên văn khi còn ở ghế nhà trường. * * * Hết chương 5 ---- Chú thích: 1. Thái cung tần: Chỉ các vị cung tần của đời vua trước. 2. Tay nải: Túi vải để đựng vật dụng mang theo bên mình của người xưa. 3. Giờ Thìn: 7 đến 9h sáng. 4. (1) *: Ngọc xứ Lam Điền vừa mới ra 5. (2) *: Lá sen non như hình đồng tiền vừa mới đúc ra. 6. (3) *Thái mẫu: Dương Quý Phi thời nhà Đường, một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc xưa. 7. (4) * Vương Tường: Vương Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế, một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc xưa. 8. (5) *Hiềm: E sợ
Chương 6: Tâm Tư Bấm để xem Trong khoảnh khắc nhìn thấy Lê Hạo bộc lộ văn tài, cùng với những lời khen có cánh của Ngô Tư Nghiệp dành cho chàng, Thu Đào càng cảm thấy ngưỡng mộ chàng hơn bao giờ hết. Nàng ngồi một mình ở hoa viên của Quốc Tử Giám, tay chống cằm đang mãi nghĩ về Lê Hạo và Sỹ Thành thì Lê Tuấn không biết từ đâu bước đến ngồi cạnh nàng, chàng hóm hỉnh buông lời trêu ghẹo nhưng cũng là để dọ ý: - Nàng thấy tứ đệ của ta khôi ngô tuấn lại tài hoa nên động lòng rồi đúng không? Thu Đào thẹn nên chối ngay lập tức: - Đừng có nói lung tung, ta ngồi đây chờ Thu Hằng, muội ấy đang trao đổi về bức họa lúc sáng với Lê Hạo công tử thôi! Nói xong câu này, Thu Đào liền đưa mắt đến chỗ Thu Hằng đang đứng cùng Lê Hạo cười cười nói nói, chợt nàng thấy chạnh lòng và ganh tỵ với Thu Hằng lúc này đang được kề cận cùng chàng. Nàng đang rất muốn có cơ hội tiếp cận Lê Hạo để được nhìn chàng, để tìm hiểu xem chàng và Sỹ Thành có điểm nào khác nhau không vv.. và rất nhiều lý do vụn vặt khác, nhưng chung quy là do nàng còn yêu Sỹ Thành, trong mắt nàng thì Lê Hạo chính là Sỹ Thành. Lê Tuấn thấy nàng nhìn Lê Hạo mà vẻ mặt đượm ưu tư, chàng lại tiếp: - Thấy ý trung nhân thân thiết với người khác nàng buồn à? Bị tấn công liên tục và nói trúng tim đen, Thu Đào bất chợt nhìn thẳng vào mắt Lê Tuấn hỏi một câu mà chính nàng cũng không hiểu tại sao bản thân lại dám hỏi: - Khi nhìn thấy ý trung nhân bên cạnh người khác, Lê công tử có buồn không? Lê Tuấn bị ánh mắt của Thu Đào nhìn thẳng, chàng thoáng chút bối rối, tim đập sai mất vài nhịp. Chàng cũng bóng gió trả lời: - Trước kia ta chưa từng phải lòng ai nên không biết! - Vậy còn bây giờ thì sao? – Thu Đào phản công, như để trả thù Lê Tuấn vì lúc nãy dám làm nàng phải thẹn đỏ mặt. Không ngờ Lê Tuấn lại có màn đáp trả hoàn toàn áp đảo, khiến cô gái vốn không quá táo bạo như Thu Đào phải chịu thua: - Người ta thích đang ngồi ngay cạnh ta, nên cũng chưa hiểu cảm giác đó như thế nào! Quá bất ngờ trước câu pha trò và tán tỉnh cực kỳ duyên dáng, Thu Đào bất giác bật ra một câu "mắng yêu" bằng tiếng Hoa mà lúc học trong lớp nàng vẫn hay sử dụng như một ngôn ngữ của gen Z: - 渣男! (Tra Nam *) Lê Tuấn nghe phải từ ngữ hiện đại có chút không hiểu, nhưng lại nhanh chóng đưa Thu Đào sang một bất ngờ khác khi đáp trả ngay bằng Hán văn: - 什么是 "渣男" 哦? 可是, 你也学过北方的语言呢? (Tra Nam là gì? Nhưng mà, nàng cũng học qua tiếng của người phương Bắc à) Thu Đào bật cười thành tiếng vì quá thích thú với chàng trai này. Tiện thể nàng hỏi thêm để biết về học vấn của các công tử nhà quan của Lê Triều: - Có phải các vị đại thần trong triều đình có rất nhiều biết tiếng Hán không? Người cũng từng học qua có phải là để trao đổi với sứ thần phương Bắc không? Lê Tuấn thấy hiếm có nữ nhi quan tâm vấn đề này nên cũng vui vẻ giải thích cho Thu Đào: - Đúng vậy, đương kiêm hoàng thượng có chỉ, những vị đại thần có chức vị cao đều cần phải giao tiếp được bằng tiếng Hán, không nói được thì ít nhất cũng phải thông thạo đọc và viết, nhưng quan trọng là phải giữ gìn tiếng nói của Đại Việt ta, tiếng nói của dân tộc còn thì dân tộc ta mãi mãi trường tồn! Thu Đào nghe đến đây liền nhớ đến câu nói "Tiếng ta còn, nước ta còn" trong bài diễn thuyết quốc văn về Truyện Kiều của tác giả Phạm Quỳnh. Bất giác nàng cảm thấy Lê Bang Cơ đúng là một vị vua tài đức, có tầm nhìn, chỉ tiếc số phận trái ngang khiến người phải ra đi sớm, liền chép miệng cảm than: - Đương kiêm hoàng thượng quả nhiên là bậc minh quân như lời các sử gia! Lê Tuấn nghe chưa rõ nên không hiểu lắm, bèn hỏi lại: - Nàng có nghe qua về đương kiêm hoàng thượng à, nghe như thế nào? Xong chàng còn đá lông nheo trêu ghẹo Thu Đào, háo hức muốn nghe suy nghĩ của nàng về bản thân mình. Nhắc đến nhà vua, Thu Đào chợt nhớ đến việc sắp phải tiến cung làm cung tần, nét mặt chùng hẳn xuống, nhưng cũng không quên châm chọc lại Lê Tuấn: - Lê công tử người cũng to gan lắm, dám trêu ghẹo người Hoàng Thượng để mắt! Vào cung rồi ta sẽ bẩm cáo với Hoàng Thượng xử tội người! Lê Tuấn nghe đến đây liền bật cười sảng khoái. Xong lại hỏi Thu Đào: - Nàng thấy Hoàng Thượng sẽ vì một nữ nhân mà "xử tội" thần tử trung thành bên cạnh người không? Nói cho nàng biết, ta là ngự tiền thị vệ của Hoàng Thượng đó! Nghe đến đây Thu Đào tin ngay, trong lòng nàng thì chức quan "ngự tiền thị vệ" chắc cũng to, vì được tiếp xúc với nhà vua, thấy bản thân yếu thế bèn giận dỗi: - Hoàng thượng đã ỷ vào quyền lực ức hiếp ta, nên có lẽ sẽ không bênh vực cho ta đâu! Thôi, tiểu nữ xin chịu thiệt thòi để Lê công tử trêu ghẹo vậy! Lê Tuấn rất ngạc nhiên, không hiểu sao tự nhiên lại bị cho là ức hiếp nữ nhi, đối với nam nhi thời cổ mà nói, hành động này là người quân tử không bao giờ làm. Chàng không muốn ấn tượng của mình trong mắt người thương bị xấu đi, bèn tìm hiểu ngọn nguồn: - Sao nàng lại nghĩ đương kiêm Hoàng Thượng ức hiếp nàng? Thu Đào bực bội kể lể: - Người không biết đấy thôi, ta và Hoàng Thượng chưa từng gặp mặt, người lại muốn nạp ta làm cung tần. Người hoàn toàn không để ý cảm nhận của ta, ta không muốn suốt đời chung sống với người mình không có chút tình cảm. Ở nơi ta sống như vậy gọi là "ép gả", nữ nhi ở đó có quyền chọn chồng, hơn nữa một người chỉ được lấy một người, không thể tam thê tứ thiếp như Hoàng Thượng được! Lê Tuấn nghe Thu Đào nói đến đâu thì há hốc mồm đến đó vì ngôn từ của nàng, hơn nữa chàng không ngờ trên đời lại có cô gái không thấy vui mừng khi được bậc đế vương để mắt. Cũng như những người khác, Lê Tuấn rất cần Thu Đào "chú thích từ vựng" : - Nàng nói sao? "Ép gả" là gì? Mỗi người chỉ được lấy một người à? Mà chẳng phải nàng đã lớn lên ở phủ đệ của Nguyễn đại nhân sao? "Nơi nàng sống" là ở đâu? Thu Đào phì cười trước vẻ mặt ngốc nghếch của chàng: - "Ép gả" tức là bắt ép phải thành thân với người mình không yêu thích. Còn về "nơi ta sống".. Nói đến đây Thu Đào lém lỉnh đưa tay ngoắc ngoắc, ra hiệu Lê Tuấn đến gần hơn để nói nhỏ vì sợ ai nghe thấy. Lê Tuấn có chút ngượng ngùng, vì ở thời đại của chàng, chàng chưa từng thấy qua cô gái nào lại dám chủ động tiếp cận nam nhi như vậy. Nhưng vì tò mò, chàng nhìn trước ngó sau một lượt rồi cũng đến gần, kê sát tai hơn một tí để nghe. - Nói cho người biết, ta không phải Thu Đào, ta đến từ một nơi so với chỗ này thì xứng đáng gọi là thiên đường, nơi đó không có ai bị "ép gả", cũng không cần chung lang quân với ai hết! - Nơi đó là lãnh thổ của vị quốc vương nào? Quốc hiệu là gì? – Lê Tuấn rất hứng thú với lời nói kỳ lạ của Thu Đào, chàng nghi hoặc hỏi. - Thành phố Hồ Chí Minh – Thu Đào trả lời xong liền bật cười thành tiếng vì thấy thật sự quá hài hước. Nàng đang nói về một nơi văn minh hiện đại cho người của sáu trăm năm trước nghe, chắc hẳn chàng sẽ chẳng hiểu gì cả, và cảm thấy nàng bị ấm đầu. Nhưng không sao, nàng giờ đây cảm thấy mình giống với những vĩ nhân như Nicolas Tesla hay Edison, người đi trước thời đại luôn bị cho là kẻ điên! Trái với dự đoán của Thu Đào, Lê Tuấn tỏ ra rất tôn trọng lời nói của nàng, không hề trêu ghẹo hay cho là nàng điên như bao người khác. Chàng trả lời với thái độ như rất tin tưởng và sẵn sàng nghe nàng kể tiếp: - À, thì ra trong ba ngày hôn mê bất tỉnh, nàng nói đã đến nơi khác, là chỗ thành phố Hồ Chí Minh đó à? Khá bất ngờ với phản ứng của Lê Tuấn: - Lê công tử tin ta? Không nghĩ ta điên hay là đang cố tình trêu ghẹo người sao? Lê Tuấn cười hiền, nói từng câu từng chữ lập luận chặc chẽ, nói đúng hết ý nghĩ của Thu Đào: - Ta tin nàng, thứ nhất là vì tư tưởng nữ nhi thành thân cần phải có tình cảm, lại được phép tự chọn lang quân thật sự rất mới lạ. Nam nhi ngao du tứ hải như ta cũng mới lần đầu được nghe, nếu như không phải nàng đến từ nơi khác, thì một tiểu thư khuê môn như nàng đã biết được điều đó từ đâu? Thứ hai, ta từng đọc trong sách Phật học của các thiền sư Tây Tạng, trên đời có đến ba vạn tám nghìn thế giới, tâm vào định tự khắc sẽ nhìn thấy hoặc thậm chí tiến nhập vào thế giới ấy được. Nàng trãi qua đại nạn không chết, chưa biết chừng nàng thật sự đến từ một nơi không phải thế gian này. Thứ ba là.. Lê Tuấn bỏ dở câu nói, nhìn Thu Đào mỉm cười với ánh mắt tinh nghịch, khác hẳn với gương mặt cảm thông nghiêm túc như từ nãy đến giờ. Thu Đào sốt ruột: - Thứ ba là gì? - Mỹ nhân như nàng chắc chắn là tiên nữ, sao có thể là người phàm được! – Lê Tuấn nhìn vào mắt nàng nói. Chạm vào ánh mắt chàng, mặt Thu Đào đỏ bừng lên vì thẹn. Nàng lại ném cho Lê Tuấn một câu đậm chất hiện đại: - Lại "thả thính" nữa! Lê Tuấn đang thể hiện mình là một chàng trai phong độ ngút trời, lại bỗng hóa "đần" vì ngôn ngữ hiện đại của Thu Đào: - Thả thính? Thu Đào đứng lên bỏ chạy: - Không nói cho người biết! Lê Tuấn đuổi theo xin xỏ: - Tiên nữ, nói cho biết đi mà, ta muốn học tiếng nói của thiên đình! Một người chạy, một người đuổi, tiếng cười đùa vang khắp một góc trời của Quốc Tử Giám. Nhìn Thu Đào nói cười tự nhiên, Lê Tuấn cảm thấy bản thân thật sáng suốt khi cố tình che giấu thân phận trước mặt Thu Đào, chỉ có như thế mới có thể tự nhiên tiếp cận, hiểu được con người thật nhất của nàng. Không biết Thu Đào tiểu thư trước kia là người như thế nào, nhưng Thu Đào ngôn hành kỳ quái, hoạt bát tinh nghịch lúc này đã chiếm trọn trái tim chàng! - Bên cạnh nàng ta chỉ muốn là Lê Tuấn, không phải hoàng đế gì cả! – Chàng tự nói với bản thân mình. * * * Cầm bức tranh vẻ đóa hoa sen trên tay, Thu Hằng tấm tắc khen tài hội họa của Lê Hạo. Đây là bức tranh chàng vốn định sẽ dùng để đề bài thơ "Hoa Sen Non" lên đấy - đúng như đề bài phải có tranh kèm theo bài thơ của Ngô Tư Nghiệp. - Đúng là tuyệt bút! Tranh thuỷ mặc (*) vẽ trên nền vải, màu sắc hài hòa, sau khi đề bài thơ tả hoa sen của chàng lên thì chắc chắn đây sẽ là tuyệt tác! Lê công tử quả nhiên.. - Thu Hằng đang nói thì ngước lên nhìn Lê Hạo, để rồi im lặng bỏ dở giữa chừng, vì nàng bắt gặp Lê Hạo đang mãi nhìn Thu Đào và Lê Tuấn chơi đùa cùng nhau, hoàn toàn không để ý đến lời nói của mình. - Lê công tử! – Thu Hằng gọi một tiếng để kéo chàng quay về câu chuyện của hai người. Lê Hạo bừng tỉnh, và vì ngại ngùng nên đã chữa thẹn bằng một câu trả lời vô thưởng vô phạt: - À, được, ta sẽ vẽ tặng nàng một bức! Thu Hằng ánh mắt hơi trách móc: - Ta đang nói rằng chàng quả nhiên có tài hội họa mà! Lê Hạo đành thú nhận rằng đã không chú ý đến lời nói của nàng và thành khẩn nhận lỗi: - Thật sự xin lỗi nhị tiểu thư, ta đúng là đang có chút chuyện bận lòng nên không tập trung trò chuyện cùng nàng, bức tranh này sau khi đề thơ xong ta sẽ tặng nàng để chuộc lỗi! Thu Hằng mừng rỡ: - Vậy tiểu nữ không khách sáo, đa tạ chàng! - Đừng khách khí – Lê Hạo dịu dàng trả lời nàng. Thu Hằng vui vẻ nhìn ngắm bức tranh thêm một lượt nữa rồi cẩn thận cuốn lại trao cho chàng mang về đề thơ. Lê Hạo nhìn Thu Hằng một lúc rồi ngập ngừng: - Nhị tiểu thư, nàng có nhắc với Thu Đào chuyện của ta và nàng ấy không? Nàng ấy thật sự không nhớ chuyện giữa chúng ta thật à? Thu Hằng hỏi lại chàng: - Vậy chàng muốn tỷ ấy quên hay nhớ? Lê Hạo không nói gì, chỉ cúi đầu vân vê bức tranh trên tay. Thu Hằng lại tiếp: - Ta biết từ đầu chàng chỉ dành tình cảm cho tỷ ấy, nhưng lẽ nào ta đối với chàng thế nào chàng quả thật không hề hay biết? - Nhị tiểu thư.. - Lê Hạo chỉ kịp nói ba chữ đã bị Thu Hằng cướp lời tiếp. - Sao chàng không thể gọi tên ta như vẫn gọi tên muội ấy, ta rất ghét ba chữ "nhị tiểu thư" này của chàng! - Tình cảm là không thể miễn cưỡng, xin nàng hiểu cho ta! – Lê Hạo phân trần. Câu nói của chàng như gươm đao cứa vào tim Thu Hằng, mắt nàng đỏ hoe, mặt nóng bừng lên vì ấm ức, thất vọng. Song nàng vốn là một người rất dõi điều chỉnh cảm xúc, hiếm khi bộc lộ tâm tư trước mặt người khác, nên đã nén cơn giận mà tiếp tục xây dựng hình ảnh một cô nương dịu dàng hiểu chuyện: - Không cần để ý đến ta đâu, nhưng có lẽ chàng đã biết việc Hoàng Thượng chọn muội ấy làm cung tần, về tình về lý chàng không nên tơ tưởng gì thêm nữa! Để tỷ ấy quên đi cũng tốt, ít ra tỷ ấy không chịu đau khổ cùng chàng, có đúng không? Lê Hạo không nói gì, chỉ thấy lời của Thu Hằng rất có lý, nên chàng chỉ lặng lẽ gật đầu rồi thở dài, ánh mắt lại lần nữa hướng về phía Thu Đào đang mãi trò chuyện cùng Lê Tuấn. * * * Thu Hằng ngồi trước gương đồng trong khuê phòng. Nàng cầm chiếc lược gỗ hờ hững chải mái tóc đen dài, mắt đăm chiêu nhìn ra ánh trăng ngoài cửa sổ. Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nàng quay sang tì nữ Xuân Hoa dặn dò: - Sáng mai ngươi giúp ta mang một bức thư đến Huy Văn Tự cho Lê Hạo công tử, nhớ là phải đi lúc ta và Thu Đào đá cầu buổi sáng, nếu đại tiểu thư có hỏi thì cứ nói là đi đưa thư cho chàng giúp ta! - Dạ, nhị tiểu thư! Xong, Thu Hằng mỉm cười thõa mãn, tự nghĩ: - Thu Đào đừng trách ta, kiếp này dù sao chị cũng là người của hoàng thượng, vinh hoa phú quý hưởng không hết, hà cớ gì chút tình cảm của chàng lại không thể nhường cho ta? * * * Trở về hoàng cung, Lê Tuấn đứng trước bức họa vẽ Thu Đào ngắm nhìn không chán mắt và tủm tỉm cười một mình, chàng không thể ngưng nhớ về khuôn mặt xinh đẹp và tính tình cởi mở phóng khoáng của nàng. Tuy ngôn hành có hơi cổ quái, nhưng lại rất thú vị! Là nữ nhi nhưng rất có chính kiến, lời ăn tiếng nói mạch lạc tự tin, khác hẳn các tiểu thư con nhà quan lại lúc nào cũng khách sáo cung kính, một dạ hai thưa, cố sức tỏ vẻ đoan trang đức hạnh khiến chàng nhàm chán vô cùng. Đặc biệt, cách nghĩ "mỗi một người chỉ được thành thân với một người" khiến chàng bật cười. To gan! Dám bắt Trẫm chỉ được yêu thương một mình nàng! – Chàng tự nói một mình. Đoạn, Lê Tuấn sai Đào Biểu mang đến cho chàng vải và bút mực vẽ tranh, sau đó tự tay treo mảnh vải trắng hoàn toàn chưa vẽ gì kế bên bức họa của Thu Đào, chàng cầm bút lên, suy nghĩ một chút rồi lại mỉm cười phát họa những nét đầu tiên. * * * Hết chương 6 ---- Chú thích: (*) Tranh thuỷ mặc: Hay còn gọi là thuỷ mạc, là một loại tranh xuất xứ từ Trung Quốc, thường là vẽ thiên nhiên, non nước kết hợp với nghệ thuật thư pháp.
Chương 7: Hé Lộ Thân Phận Bấm để xem Lại nói về Lê Hạo, từ lúc được Thu Hằng nhắc nhở rằng trước sau gì Thu Đào cũng là cung tần của hoàng thượng, chàng không ngừng nhớ đến tháng ngày bên nhau của hai người mà nghe đắng chát trong lòng, vừa muốn níu giữ, vừa cảm thấy quá muộn màng, quá xa vời. Giữa mùa hè oi ả, Quốc Tử Giám cho miễn đến trường bảy ngày để tránh nóng, mấy ngày không gặp Thu Đào, Lê Hạo cứ luôn canh cánh trong lòng hình ảnh nàng và Lê Tuấn vui đùa bên nhau. - Ta làm vậy có đúng không? Tam ca có giữ lời suốt đời đối xử tốt với nàng không? Chàng tự dằn vặt hỏi chính mình. Phút ngậm ngùi, Lê Hạo lấy trên giá sách xuống một quyển sách, trang cuối có bốn câu thơ: "Canh đã tàn, nhưng trăng non còn đó, Tiếc đêm trường đóa Quỳnh cố tỏa hương. Vết thương lòng ngưng kết lại thành sương, Trên cánh mỏng giọt sương hay giọt sầu!" Chàng vuốt ve từng dòng chữ và cả hình vẽ đóa hoa đào ở cuối bài thơ. Thật ra, sau khi Lê Tuấn biết người con gái trong bức họa là đại tiểu thư Thu Đào, chàng đã truyền cho Nguyễn Đức Trung vào yết kiến, tin tức cũng nhanh chóng đến tai Ngô phu nhân và Lê Hạo. Lúc đó, vì muốn ẩn mình tránh xung đột với triều đình, Ngô phu nhân đã hết sức khuyên giải Lê Tuấn nên lùi bước, đừng vì nữ nhi bé nhỏ ảnh hưởng đến đại sự. Vì vậy, mặc dù lòng đau lắm, nhưng chàng đành phải nói ra lời từ chối chân tình của Thu Đào, khiến nàng trong lúc tranh cãi mất bình tĩnh mà trượt chân rơi xuống hồ cẩm lý, khí lạnh nhập thể sinh ra bạo bệnh mà hôn mê hơn ba ngày, lúc tỉnh lại được thì ra cục diện như bây giờ! Đang mãi suy nghĩ thì Lê Hạo nhận được tin báo có tì nữ Xuân Hoa của Thu Hằng đến đưa thư, chàng ra gặp thì nhận được bức thư Thu Hằng hối thúc giao lại bức tranh đã được đề thơ, lý do là nàng muốn nhân bảy ngày không cần đến lớp ở nhà từ từ thưởng thức. Đọc thư xong Lê Hạo liền vào trong lấy bức tranh giao cho Xuân Hoa mang về phủ. Chàng vô tư chẳng nghĩ ngợi gì thêm, không biết rằng chính chàng đã góp phần vào mối hiểu lầm sâu sắc với Thu Đào trong những ngày tiếp theo. Cũng trong lúc đó, Ngô phu nhân nấp sau cánh cửa phòng khách, nhìn thấy tì nữ Xuân Hoa vui vẻ mang theo bức tranh ra về trong lòng cũng nhen nhóm hi vọng Lê Hạo sẽ mở lòng chấp nhận Thu Hằng. Tất nhiên nhìn bọn trẻ lớn lên cùng nhau bà đã sớm biết được ý tứ của từng người. Thấy Thu Hằng tiểu thư nhất mực chung tình với con trai, bà cũng cảm động nên luôn tìm các gán ghép, tiếc thay lòng chàng chỉ có Thu Đào, Ngô phu nhân cũng đành bó tay tạm gác lại ý định. Nhưng nay có lẽ ông trời hiểu được lòng người, nên ban cơ hội để bà hoàn thành tâm nguyện. Phần vì bí mật giữa bà và Nguyễn Đức Trung đại nhân, cả hai đều muốn báo đáp ơn cứu mạng, ơn tương trợ của Nguyễn Trãi (*), phần vì e sợ tâm tư của Tuyên Từ thái hậu, trước nay chưa một lần bà dám phản kháng, nay lại càng không muốn vì một Thu Đào mà nảy sinh mâu thuẫn với hai mẹ con thái hậu, bà đã chọn cách âm thầm giúp đỡ Thu Hằng – con gái duy nhất thoát chết của ân nhân - được toại nguyện, quyết định cắt đứt duyên phận của Lê Hạo và Thu Đào. * * * Cũng là buổi sáng ngày hôm ấy, tại hoa viên của phủ đệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Tì nữ thân cận của Thu Đào là Xuân Mai cầm quả cầu lông chim có ba màu vàng, xanh, trắng rất đẹp mắt đưa ra. Nàng vui mừng chụp lấy "nghiên cứu" ngay. Thì ra quả cầu của người xưa lại như thế này, đế cầu làm bằng một loại vãi mềm, chắc là đã độn nhiều lớp nên vừa mềm vừa đàn hồi. Trên đế là năm khoen đồng giống như đồng tiền có lỗ nhỏ ở giữa, cuối cùng là những chiếc lông chim màu sắc sặc sỡ được may chặt vào đế, khoen đồng bao quanh chân những chiếc lông vũ trông như một bụi cỏ nhỏ mọc ra từ đế và khoen vậy! Thu Đào tấm tắc khen: - Dễ thương quá! Ở đây ai cũng đá loại cầu đẹp như vậy à? Xuân Mai mỉm cười giải thích: - Đây là quả cầu của hoàng thượng tặng cho tiểu thư vào nửa năm trước, lúc người ngỏ ý muốn cô tiến cung đó. - Hả? – Thu Đào tròn mắt ngạc nhiên. Xuân Hoa lại tiếp: - Trước kia cô đá cầu giỏi lắm, hoàng thượng biết được nên mới tặng vật này để bày tỏ thành ý, mong sau này cô sẽ đá cho người xem đó! - Trước đây ta và hoàng thượng đã gặp nhau chưa? - Tất nhiên là chưa rồi, hoàng thượng chỉ xem qua tranh vẽ của tiểu thư thôi! Thu Đào nghe xong cảm thấy hoàng đế Nhân Tông thật là một kẻ si tình, chỉ được thấy tiểu thư Thu Đào của trước kia qua tranh vẽ mà đã ngày đêm tơ tưởng như vậy rồi. Tiếc rằng thời gian trị vì quá ngắn, sử sách không có nhiều tư liệu về người, nhưng đa số đều viết Lê Nhân Tông cần chính, không đam mê tửu sắc, bằng chứng là tại vị lúc tuổi trẻ nhưng hậu cung vắng vẻ, con cái của ngài cũng không có ghi chép gì. Nàng chợt thở dài, tự lo lắng cho bản thân: - Chẳng lẽ ta phải vào làm cung tần cho Nhân Tông, rồi lúc binh biến số phận ta sẽ ra sao? Xuân Hoa kéo tay Thu Đào lôi về phía vườn hoa ở hậu viện. - Đại tiểu thư đi thôi, nhị tiểu thư đang chờ kìa! * * * Hai mươi lăm, hai mươi sáu, hai mươi bảy.. quả cầu tung lên rồi rơi xuống đều đặn theo nhịp chân đá của Thu Hằng. Bốn mươi mốt, bốn mươi hai.. Thu Hằng trót dùng lực quá mạnh, quả cầu bay vút lên cao, nàng chạy theo nhắm hướng rơi xuống mà đón trong tiếng reo hò của Thu Đào và Xuân Mai. - Thu Hằng cố lên! - Nhị tiểu thư đừng để rơi! Thu Hằng cố hết sức vươn dài chân ra để đón lấy quả cầu, tiếc thay, chỉ còn một tí nữa là chạm được thì lại trượt mất. Quả cầu rơi xuống đánh "bộp" trong sự tiếc nuối của ba cô gái. Thu Hằng cúi xuống nhặt cầu lên, nàng cười nhưng vẫn không giấu được vẻ tiếc nuối: - Chán thật, ta rất ít khi đá được năm mươi lần! Xong, nàng đưa quả cầu cho Thu Đào: - Chị thử đi, trước kia chị từng đá hơn hai trăm lần đó! - Ghê vậy luôn? – Thu Đào thích thú khi nghe chiến tích của "Thu Đào phiên bản real" Nàng đón lấy quả cầu từ tay Thu Hằng rồi hớn hở tự nói như chỉ để bản thân mình nghe, ai hiểu hay không cũng mặc: - Để xem Thu Đào "bản supper pha ke (Supper fake)" này đá được bao nhiêu lần! Nàng nói xong liền ra giữa sân bắt đầu đá thử, bỏ mặc Thu Hằng và Xuân Mai mặt đần hẳn ra vì nghe phải "từ vựng mới" – cách mà Thu Đào vẫn dùng để nói về từ hiện đại của mình. * * * Một, hai, ba.. "Bộp." Quả cầu rơi xuống đất chóng vánh bất ngờ. Thu Hằng và Xuân Mai đồng loạt che miệng cười. Thu Hằng vừa nói vừa cố nhớ lại "từ vựng" : - Đúng là Thu Đào bây giờ là Thu Đào pha, pha cái gì đó! Xuân Mai nhanh nhảu nhắc: - Là "Pha ke"! Ba cô gái phá lên cười thích thú. Đá cầu tuy rất khó, nhưng quả cầu lông chim thật sự rất đẹp, hơn nữa nhìn Thu Hằng và Xuân Hoa thay phiên nhau đá, ai nấy đều được ít nhất hai mươi lần, làm Thu Đào cảm thấy thích thú và quyết tâm tập luyện. Vốn là nhân viên trong một thư viện của trường đại học, Trà My của trước kia từng đọc qua một quyển sách viết về các trò chơi dân gian Việt Nam, trong đó môn đá cầu có bắt nguồn từ rất lâu rồi. Tương truyền rằng năm Nhâm Tuất (722), Mai Hắc Đế lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Đường, ông là người đã khuyến khích và tổ chức cho nghĩa quân thường xuyên tập luyện, giải trí bằng trò chơi đá cầu, nhằm rèn luyện sức khoẻ cho binh sĩ. Từ đó nhân dân quanh vùng Vạn An (Nay là Nam Đàn - Nghệ An) dần dần cũng tập luyện đá cầu, phong trào ngày càng phát triển. Trò chơi này thường được tổ chức trong những ngày lễ lớn mừng chiến thắng của dân tộc. Đến thời Lý, Trần phát triển cực thịnh, phổ biến trong các tầng lớp quý tộc, binh sĩ quân đội, sánh ngang với các môn cưỡi ngựa bắn cung. Đến thời Hậu Lê – Thời điểm mà Trà My đang lạc vào - trò chơi đá cầu đã đạt tới mức tài nghệ điêu luyện, có nhiều người chơi đá cầu giỏi, có người còn dùng tài năng này để đá chúc thọ cho vua, đá hơn trăm lần sẽ được ban thưởng. Trong lúc Xuân Mai đang kiên nhẫn hướng dẫn Thu Đào, hai cô gái mãi miết hết nói lại cười, chốc chốc còn đá quả cầu văng tít đằng xa, phải chạy đi nhặt lại mỏi cả chân, thì Thu Hằng đứng ở một góc cố tình ra hiệu cho Xuân Hoa mang theo bức tranh của Lê Hạo gửi tặng chạy ra, cố tình gây hiểu lầm cho Thu Đào. Vừa đến nơi Xuân Hoa cố tình nói lớn: - Nhị tiểu thư, sáng nay em đã mang thư của cô đến Huy Văn Tự cho Lê công tử, công tử dặn dò em mang bức họa này về cho cô! Nghe đến tên Lê Hạo, Thu Đào bất giác quay đầu lại nhìn, nhưng rất nhanh lại làm ra vẻ không quan tâm rồi tiếp tục cố cười nói cùng Xuân Mai. Thu Hằng đón lấy bức tranh, lén nhìn phản ứng của Thu Đào, rồi lại cố ý nói tiếp: - A! Chàng quả nhiên mang bài thơ tâm đắc viết lên tranh cho ta! Nói xong lại giả vờ như tinh tế không muốn để chị gái buồn nên lệnh cho Xuân Hoa và Xuân Mai lui về chuẩn bị nước cho hai chị em tắm rửa, mục đích là tạo không gian riêng để nói chuyện với Thu Đào. Hai người sánh bước đi dạo quanh hồ sen, Thu Hằng bắt chuyện: - Tỷ nghe thấy tên chàng thì mặt biến sắc, có phải đã nhớ ra điều gì không? - Không! Chỉ là.. mà thôi, muội không hiểu đâu! Thu Đào không biết giải thích từ đâu, chỉ biết im lặng cúi đầu. Thu Hằng nhân cơ hội thực hiện viện ám chỉ cho Thu Đào rằng trước đây nàng chỉ là yêu đơn phương Lê Hạo. - Thật ra, người tài hoa anh tuấn như chàng, lại đường đường là hoàng tử đương triều, nên không chỉ riêng tỷ mà bất kỳ cô nương nào cũng sẽ động lòng thôi! Thu Đào chăm chú lắng nghe. Thu Hằng nhìn sắc mặt chị gái để phán đoán tình huống, rồi lại tiếp: - Ba chúng ta lớn lên cùng nhau, tỷ sớm đã phải lòng chàng.. muội cũng vậy! Muội biết rõ lòng tỷ, nhưng tình cảm là không thể miễn cưỡng! - Ta hiểu! Thu Đào trả lời nhưng nhìn sang hướng khác để che giấu cảm xúc trong ánh mắt. Thu Hằng kể: - Mọi việc vốn đang yên ổn, tỷ vẫn đang kiên trì với tình cảm của mình mặc dù chàng chưa từng đáp lại. Thì đột nhiên triều đình thông báo tuyển tú, tỷ muội ta đều phải có tranh chân dung dâng lên hoàng thượng. Sau đó hoàng thượng có khẩu dụ chỉ chọn được một mình tỷ. Lúc đó tuy cha chưa cho phép nhưng muội đã nghe lén được rồi báo cho tỷ. Biết tin xong tỷ đã chạy đến Huy Văn Tự tìm chàng, muội đoán là tỷ đến.. để bày tỏ chăng? Nghe câu chuyện của Thu Đào trước đây, Trà My – Thu Đào của hiện tại bắt đầu tin rằng thì ra dù là kiếp nào, chàng vẫn không yêu gương mặt này! Nàng cúi đầu cười buồn, rồi nhìn sang Thu Hằng như muốn nghe tiếp. - Và cũng có lẽ.. chàng đã nói rõ ý trung nhân trong lòng chàng là ai cho tỷ hiểu rồi! Thu Hằng giả vờ e thẹn để ám thị cho chị gái rằng Lê Hạo yêu thích mình. Quả đúng như Thu Hằng dự đoán, Thu Đào nghe đến đây thì như bất chợt được khai sáng, nàng hiểu ngay ẩn ý của em gái. Một chút đau, một chút chạnh lòng, một chút tuyệt vọng làm mắt nàng ngấn lệ. Rồi không kiềm được nữa, giọt nước mắt rơi xuống lúc nào không biết. Hai chị em lặng lẽ ngồi xuống bên bờ hồ, không ai nói thêm lời nào, như ngầm xác nhận với nhau rằng từ đây, người nào mới đúng là nữ chính ngôn tình, người nào chỉ là nữ phụ đơn phương. Cuối cùng, Thu Hằng muốn thực hiện mưu tính nên khuyên giải tiếp: - Tuy tỷ đã quên hết mọi việc, nhưng qua ánh mắt muội cảm nhận tỷ vẫn có tình cảm với chàng. Nhưng tỷ phải nhớ rõ, đã được hoàng thượng chọn trúng, thì kiếp này không có cách nào thoát được. Tỷ nên tận hưởng phúc đức làm hồng nhân bên cạnh long nhan. Huống hồ, người trong lòng chàng.. - Lại một lần nữa Thu Hằng cố tình bỏ lửng câu nói, nhắc nhở Thu Đào nên nhường hạnh phúc cho mình. Thu Đào thở dài ném một viên đá xuống hồ sen, rồi đáp: - Chuyện trước đây ta đã không còn nhớ gì, thì cũng như là chưa từng xảy ra thôi! Đoạn, nàng nắm tay Thu Hằng nói: - Một kiếp người khó tìm được người tâm đầu ý hợp. Mong muội sẽ được hạnh phúc, không bị "ép gả" như ta. Thu Hằng vỗ vào vai chị gái ra chiều thông cảm, cố nặng ra một nụ cười xóa tan đi bầu không khí nặng nề. * * * Ngay hôm sau, vừa hay còn ba ngày nữa là đến Trung Thu, Ngô phu nhân viện cớ muốn học tài nghệ bày trí cắm hoa của Thu Hằng nên gọi riêng nàng đến gặp tại Huy Văn Tự. Ngồi nhìn Thu Hằng đang mãi miết cắt tỉa, chăm chút từng cành hoa bách hợp cho vào bình, Ngô phu nhân đăm chiêu nét mặt, hoang mang rằng sau khi biết sự thật về thân thế của mình, nàng sẽ thế nào đây. Đoạn, bà bảo nàng ôm theo bình hoa cùng bà đến một căn phòng nhỏ bí mật ở phía sau hậu việc của Huy Văn Tự. Lúc nhỏ nàng và những đứa trẻ khác đều được dặn dò căn phòng nhỏ đó là nơi thờ các vị trụ trì đời trước, chỗ tôn nghiêm không được đến đó chơi đùa. Nhưng hôm nay Ngô phu nhân chủ động dắt nàng vào đây, Thu Hằng tuy lòng đầy nghi hoặc nhưng vẫn giữ nét ngây thơ như mọi khi, đối với nàng, việc giữ kín tâm tư thật sự của mình dù trong hoàn cảnh nào là nguyên tắc bất di bất dịch, chỉ như thế thì mọi tính toán về sau này mới thuận tiện. Thu Hằng đặt bình hoa lên bàn thờ các vị trụ trì đời trước, ở giữa là một tượng Phật bằng đồng to, hơn mười bài vị xếp thành ba hàng ngay ngắn dưới chân Phật. Ngô phu nhân bước đến bên nàng hỏi: - Nhị tiểu thư có biết vào tiết Trung Thu phận con cái nên làm gì nhất không? Thu Hằng lễ phép thưa: - Thưa phu nhân, tiểu nữ kiến thức nông cạn, chỉ biết Trung Thu là tết đoàn viên, nên bên cạnh phụ mẫu để bày tỏ hiếu thuận! Ngô phu nhân gật đầu mỉm cười, xong lặn lẽ đi vòng ra phía sau lưng tượng Phật, ở đó còn có một bàn thờ nhỏ treo trên tường, có rèm phủ xuống tận mặt đất, nhìn không kỹ còn tưởng là nơi thờ các vị thánh thần khác. Ngô phu nhân khẽ vén bức rèm lên, phía sau hiện ra một bài vị có ghi "黎朝大功臣阮廌和全家族之牌位" (Bài vị của Nguyễn Trãi đại công thần nhà Lê cùng gia quyến) - Muốn hiếu thuận với phụ mẫu, trước hết phải biết rõ cội rễ của mình! Thu Hằng tuy có chấn động trong lòng, nàng hết nhìn vào bài vị rồi lại nhìn sang Ngô phu nhân, nhưng nét mặt vẫn điềm tĩnh chờ đợi lời giải thích từ bà. * * * Hết chương 7 ---- Chú thích: (*) Nguyễn Trãi: Đại thần khai quốc nhà Lê, từng giúp đỡ cho Lê Thái Tổ chống giặc ngoại xâm, có công lớn với triều đình, sau này bị vu tội giết Lê Thái Tông nên chịu thảm án tru di tam tộc.
Chương 8: Bắt Đầu Những Âm Mưu Bấm để xem Quay ngược thời gian trở về lúc nhà Lê chưa lập quốc. Đại Việt sau khi nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, ở vùng Lam Sơn có gia tộc họ Lê mấy đời làm hào trưởng một vùng, gặp lúc đất nước bị xâm chiếm, Lê Lợi – hào trưởng đương nhiệm cũng được chiêu dụ ra làm quan cho giặc nhưng ông từ chối, lui về ẩn mình nơi núi rừng làm nghề cày cấy, tự học kinh sử, binh thư. Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, quân Minh đã thiết lập được sự cai trị trên đất Đại Việt. Lúc này, Lê Lợi cũng tự xưng Bình Định Vương, cùng hơn năm mươi quan cả văn lẫn võ phất cờ khởi nghĩa. Buổi đầu, nghĩa quân lực lượng còn non yếu, nhiều lần bị quân Minh vây hãm phải cố thủ ở núi Chí Linh, quân lương cạn kiệt, tình thế vô cùng nguy khốn.. Nguyễn Công Duẩn vốn là một trong hơn hai trăm dũng sĩ đầu quân từ lúc nghĩa quân mới thành lập, ông tuy đã có vợ con, gia đình thuộc hạng phú hộ ấm no nhưng đã dám bỏ lại cuộc sống an nhàn để đi dẹp giặc cứu nước. Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán nhà Trần. Khi nhà Trần bị Hồ Quý Ly lật đổ lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi tham gia dự thi, thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải về Trung Quốc. Biết được Nguyễn Trãi là người tài năng vượt trội, Nhà Minh nhiều lần buộc Nguyễn Phi Khanh viết thư chiêu dụ ông về làm quan nhưng Nguyễn Trãi thà mười năm phiêu dạt, lẫn trốn khắp nơi cũng không ra đầu hàng cho giặc. Trong dân gian có giai thoại rằng, trong lúc lưu lạc khắp nơi, lấy bốn bể là nhà, Nguyễn Trãi một lòng tìm kiếm và chờ đợi vị minh chủ cứu nước xuất hiện. Một đêm nằm mộng, ông gặp một vị thần đứng trước mặt nói "Thái Tổ họ Lê". Tỉnh dậy Nguyễn Trãi bèn tìm đến xin yết kiến Lê Lợi. Lại nói về Nguyễn Công Duẩn, lúc bấy giờ ông theo nghĩa quân được tròn bốn năm, lòng đầy nhiệt huyết nhưng chưa gặp cơ hội để chứng tỏ tài năng với Lê Lợi, thời gian đã dài nhưng vẫn là một dũng sĩ bình thường chưa có chiến công gì đáng kể. Gặp lúc nghĩa quân lương thảo cạn kiệt, quân giặc bủa vây tứ phía, lại nhớ nhung vợ con, ông nhất thời thoái chí, giữa đêm định đào ngũ trốn về nhà. Lúc bỏ trốn, Nguyễn Công Duẩn bị nghĩa quân phát hiện và truy bắt. Nguyễn Trãi lúc đó cũng đang cùng các tướng sĩ đào củ mài làm quân lương, tình cờ phát hiện ra Nguyễn Công Duẩn nấp ở hang đá, ông hết lời khuyên ngăn và hiến kế rằng: - Gặp lúc cơm áo không đủ, nhớ thương gia quyến, nản lòng thoái chí là chuyện thường tình. Nhưng là bậc nam tử sao có thể dễ dàng kết thúc sinh mạng một cách tầm thường như vậy. Cứ nói là ngươi đang dẫn đường cho ta về quê nhà để lấy quân lương do ngươi tự nguyện tiến cống. Trước mắt sẽ thoát tội giữ mạng, mai này sẽ có dịp hoàn thành chí nguyện. Nguyễn Công Duẩn nghe khuyên có lý, bèn thật sự làm theo. Ông về nhà tự nguyện mang hết gia sản, thóc gạo cống nạp cho nghĩa quân, lại nhờ Nguyễn Trãi hiến kế dùng uy tín của gia đình phú hộ vận động nhân dân hỗ trợ và nuôi giấu nghĩa quân. Cũng vì thế Nguyễn Công Duẩn lập được công lớn, sau này được Lê Lợi hết lòng trọng dụng. Từ đó, ông luôn xem Nguyễn Trãi là ân nhân có công tiến cử, nhất mực trung thành với Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Về sau, khi Lê Lợi dẹp yên giặc Minh lên ngôi vua, Nguyễn Công Duẫn được liệt vào hàng công thần khai quốc, con trai của ông là Nguyễn Đức Trung lúc đó cũng nối nghiệp cha làm quan cho triều đình. Sau khi Thái Tổ Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên ngôi và đột ngột qua đời khi mới hai mươi tuổi tại Lệ Chi Viên của Nguyễn Trãi. Sự việc chưa được điều tra rõ thì triều đình lúc ấy do Tuyên Từ thái hậu nắm quyền, đã khép cho ông tội giết vua (*), chịu án tru di tam tộc, nữ thì bắt làm nô dịch, nam thì chịu án tử hình, Nguyễn Đức Trung lúc đó đã nhớ lời dặn báo ơn của cha là Nguyễn Công Duẩn, nên âm thầm nửa đêm cho quân cướp ngục. Tiếc thay, do cấm vệ quân người đông thế mạnh, ông chỉ cứu được hai người thiếp thứ tư, thứ năm của Nguyễn Trãi, lúc đó cả hai bà đều đang mang thai. Một tháng sau, phu nhân của Nguyễn Đức Trung và người thiếp thứ năm của Nguyễn Trãi cùng sinh ra con gái. Nhưng bất hạnh là bà thiếp ấy sinh xong đã đèn cạn dầu khô mà qua đời. Nguyễn Đức Trung công bố với người đời rằng phu nhân của ông mang song thai, sinh được hai người con gái. Bà thiếp thứ tư lo sợ mình sẽ sinh ra con trai, khó thoát khỏi bị triều đình truy bắt nên đã theo sắp đặt của Nguyễn Đức Trung trốn về quê ở Thanh Hóa ở ẩn. Ngày Nguyễn Trãi bị hành hình, Nguyễn Đức Trung cải trang làm thường dân, bế theo Thu Hằng đến pháp trường, mong Nguyễn Trãi sẽ yên tâm mà về nơi chín suối.. * * * Thu Hằng rời khỏi Huy Văn Tự, bước đi vật vờ như một cái bóng. - Thu Đào! Tại sao? Tại Sao ta suốt đời đều phải thua kém tỷ? Những tưởng ta cũng có thân phận cao quý, cũng là trâm anh khuê các như tỷ? Tại sao tỷ thì được sinh ra trong gia tộc có đại công với triều đình, còn ta lại là đứa con gái của tội thần, phải che giấu thân phận sống chui rút dưới cái bóng gia tộc của nhà tỷ? Thu Hằng uất ức vừa đi vừa cúi mặt khóc. Tuy nàng rất không hài lòng về thân phận thật sự của mình, nhưng cũng chính vì điều này mà được Ngô phu nhân tác hợp với Lê Hạo, nàng lấy đó làm niềm an ủi và quyêt tâm phải giữ cho chặt những thứ thuộc về mình. - Kể từ đây, ta chỉ là Thu Hằng, tuyệt đối không cho phép ai được gọi ta bằng danh xưng "muội muội của Thu Đào" nữa. Sắp đến Trung Thu, theo lệ hằng năm cả gia đình Nguyễn Đức Trung sẽ đến Huy Văn Tự thắp hương cầu phúc, tiện thể ở lại dùng điểm tâm đến tối muộn mới về phủ. Thu Hằng theo đó mà nghĩ cách tiếp cận Lê Hạo, nhằm thắt chặt mối quan hệ của hai người hơn. Nàng từ chỗ Ngô phu nhân biết được Lê Hạo rất thích món bánh trôi của mẹ làm, mỗi dịp lễ tết chàng đều ăn bánh trôi hình tròn, ngụ ý viên mãn, rồi thắp hương cầu nguyện cho mẹ được khoẻ mạnh bình an. Về đến phủ, Thu Hằng bắt gặp tì nữ Xuân Mai đang ngồi vót nhẵn những thanh tre dài khoảng năm tất, vót xong thì bó lại từng bó gồm mười thanh. Thu Đào ngồi bên cạnh đang chấp nối những thanh tre lại thành một hình dạng rất thú vị. Thu Hằng tò mò bước đến xem thử. Thu Đào thấy em gái về thì hào hứng mời gọi: - Thu Hằng mau đến đây, ta và Xuân Mai đang làm lồng đèn ngôi sao, chắn chắn muội chưa thấy bao giờ đúng không? - Lồng đèn ngôi sao? Thu Hằng tròn mắt hỏi và tò mò cầm những thanh tre được ghép thành hình dạng một chiếc lồng có năm góc đều đặn lên xem. Thu Đào nhanh nhảu nói thêm: - Trung Thu năm nay ta sẽ làm lồng đèn hình dạng này để cả nhà cùng ngắm, chắc chắn phủ đệ nhà ta sẽ là ngôi nhà sáng nhất, đẹp nhất! Thu Hằng nhìn những chiếc đèn lồng lạ lẫm hỏi thêm: - Làm sao tỷ biết được những ngôi sao trên trời sẽ có hình dạng như thế này? Thu Đào cũng chẳng biết vì sao con người hiện đại lại chọn biểu tượng này để gọi là "ngôi sao", đành giải thích qua quýt: - Vì ta cảm thấy ghép thành hình dạng này đẹp thôi, khi để ngọn đèn vào trong, ánh sáng theo năm cánh đi ra ngoài nhìn lung linh rất thích mắt, muội nhìn nè! Có lấp lánh giống như những ngôi sao trên trời không? Thu Đào vừa nói vừa châm một ngọn nến nhỏ để vào một chiếc lồng đèn đã hoàn tất cho em gái xem. Quả thật món đồ chơi lạ mắt này làm Thu Hằng thấy thích thú vô cùng, ngọn nến bên trong được vây quanh bằng giấy dán màu đỏ, ánh sáng màu đỏ phát ra đúng là rất lung linh trong đêm tối. Không cầm lòng được nàng đã cầm chiếc lồng đèn ngắm nghía rất lâu. Xuân Mai cười tươi nhìn Thu Hằng nói thêm vào: - Đại tiểu thư tuy quên hết việc trước kia, nhưng tư chất thông minh thì vẫn như vậy, lại có thể nghĩ ra món đồ chơi đẹp như thế này, em thật bái phục sát đất! Thu Đào đưa ngón tay cái quẹt mũi rồi hất mặt lên khoe khoang thêm: - Đợi đấy, ta còn nhiều trò khác rất hay, từ từ sẽ cho em mở rộng tầm nhìn! Xuân Mai phấn khởi tán đồng: - Em rất thích những trò cô bày ra, chỉ mong cô đừng như lúc trước, làm cháy cả thư phòng của Lê công tử là được rồi! Thu Đào nghe đến đây liền ngạc nhiên hỏi: - Ta đã từng làm cháy thư phòng của chàng à? Xuân Mai nhanh nhảu: - Đúng rồi, năm ngoái có lần cô đánh cắp trầm hương của đại nhân mang cho Lê công tử dùng để tỉnh táo đọc sách. Em chẳng hiểu cô đốt trầm hương bằng cách nào mà lửa bén vào rèm, báo hại Lê công tử cháy mất cả bức tranh vừa vẽ.. Đang nói thì Xuân Mai im bặt do bắt gặp ánh mắt của Thu Hằng đăm đăm nhìn mình đầy tức giận, tỏ ý muốn Xuân Mai đừng kể nữa. Còn Thu Đào thì nghe đến đây đã cười lớn nhận xét về "Thu Đào" lúc đó bằng ngôn ngữ hiện đại: - Cái "nết na" của Thu Đào ấy chắc cũng sánh ngang với ta, sáng luộc khoai thì chiều cả nhà ăn khoai nướng! Ha ha ha Xuân Mai tuy đang sợ bị Thu Hằng trách mắng, nhưng nghe qua lối so sánh hóm hỉnh của Thu Đào thì không nhịn được đã phì cười. Thu Hằng thấy Xuân Mai hay nhắc đến chuyện của Thu Đào và Lê Hạo nên không được vui, khó khăn lắm ông trời mới ban cho cơ hội cắt đứt tình cảm của hai người để nàng có dịp chen vào, vì vậy không thể để họ lại một lần nữa phải lòng nhau được! Tuy vậy, nhưng nàng cũng không biết dùng lý do gì để trách phạt Xuân Mai nên đành hậm hực chịu đựng. Thu Đào mời mọc em gái cùng ngồi xuống làm lồng đèn cho vui, nhưng lúc này Thu Hằng tâm trạng không tốt nên đã từ chối rồi về phòng riêng. Thu Đào thấy dáng vẻ thất thểu ấy cũng lấy làm lạ, chờ Thu Hằng đi khuất, nàng nhìn sang Xuân Mai nói nhỏ: - Ngô phu nhân chắc là không có năng khiếu cắm hoa, làm Thu Hằng chỉ dẫn đến phát cáu à! Xuân Mai lắc đầu: - Ngô phu nhân là Tiệp Dư của tiên đế, nữ công chắc chắn phải thông thạo rồi! Em cũng không biết nhị tiểu thư sao lại không được vui! Thu Đào cũng không bận tâm lắm, nàng chỉ đang nghĩ trong lòng rằng sẽ dùng những chiếc lồng đèn này tặng cho Nguyễn Đức Trung và Tư Nghiệp Ngô Sĩ Liên, hi vọng sẽ được hai vị đại thần danh tiếng lẫy lừng cho "xin chữ". Có được thân bút của hai nhân vật này chắc chắn sẽ vang danh trong giới khảo cổ! Thu Đào thõa mãn nghĩ về tương lai tốt đẹp ấy và vui vẻ dán lồng đèn tiếp. * * * Sáng sớm, Thu Đào lệnh cho gia nhân trong phủ treo lồng đèn ngôi sao khắp nơi trong phủ đệ. Nguyễn đại nhân thấy sáng kiến của Thu Đào rất hay, ông cũng muốn đợi đến đêm thắp nến lên để xem vẻ đẹp của những ngôi sao giấy này, nếu quả thật có điều mới lạ thì bẩm tấu với triều đình cách làm này, giúp trang hoàng cho yến tiệc hoàng cung thêm lộng lẫy. Nguyễn Đức Trung đứng cạnh phu nhân và hai đứa con gái, ông nhìn gia nhân tấp nập kẻ bắt thang treo đèn, người đứng ở dưới nhận xét đã treo đúng vị trí hay chưa, từ cổng chính cho đến từng gốc cột, cửa phòng, nơi nơi đều có lồng đèn ngôi sao đong đưa theo chiều gió, chưa cần đến đêm để thắp nến lên cũng đã thấy rất vui mắt! Ông xoa đầu Thu Đào rồi vuốt râu gật đầu tỏ vẻ hài lòng: - Phủ đệ ta sẽ thử thắp đèn tối nay, nếu thật sự đẹp như lời con nói, ta sẽ nói với Nội Vụ Giám ý tưởng này, để yến tiệc của triều đình thêm phần đẹp mắt, lúc đó cha sẽ thưởng cho con một món quà! Sao! Con có mong muốn điều gì không? Trừ việc không tiến cung ra nhé! Nguyễn Đức Trung nói xong rồi đưa tay cốc vào đầu Thu Đào. Thu Đào nghe đến "tiến cung" liền xụ mặt xuống trách cha, nhưng cũng không quên ý đồ chính lần này: - Chỉ cần cha và Ngô Tư Nghiệp mỗi người thân bút tặng con một bài thơ là được. Sau này đừng nói là lồng đèn, con sẽ nghĩ thêm nhiều trò vui hơn để cả phủ đệ ta ngày nào cũng vui như Tết! - Được! Cha hứa sẽ cho con thân bút của ta và Ngô Tư Nghiệp! Nguyễn Đức Trung cười sảng khoái hứa với con gái. Thu Hằng nhìn cử chỉ thân mật của cha dành cho Thu Đào thì chỉ biết cúi đầu để giấu đi nụ cười buồn bã. Nàng cay đắng nhủ thầm: - Cha! Chắc người rất hài lòng vì trong hai tỷ muội, người thông minh nổi trội hơn trong chính là con gái ruột của cha! Trong lúc đó, Thu Hằng chỉ ước tất cả những việc Thu Đào làm đều sẽ biến thành tai họa, để cho không còn ai ca tụng sự thông minh của nàng ta nữa. Mãi theo đuổi ý nghĩ đó, thì Thu Hằng chợt nhớ đến câu chuyện Xuân Mai kể lại tối đêm qua, việc lúc trước đã có lần Thu Đào đốt trầm hương nhưng vụn về làm cháy cả một góc thư phòng của Lê Hạo. Sau đó là một nụ cười đầy mưu mô hướng về Thu Đào. Thu Hằng giả vờ hòa theo không khí vui vẻ rồi hỏi: - Tỷ đã làm đủ số lồng đèn chưa? Thu Đào trả lời: - Vẫn chưa, chị còn định làm thêm khoảng một trăm chiếc nữa để treo sao hậu viện và cả đình hóng mát! Thu Hằng ra vẻ hờn dỗi: - Muội xin được góp phần vào công trạng của tỷ, để cha mãi thương mỗi tỷ mà quên mất đứa con gái này! Nguyễn Đức Trung nghe thấy liền quay sang xoa đầu Thu Hằng vỗ về: - Làm gì có, cả hai con đều là hai viên ngọc quý của cha, một đứa hoạt bát đáng yêu, một đứa đoan trang hiền thục, cả hai cha đều yêu thương hết! Thu Hằng ra vẻ hiểu chuyện: - Con biết cha sẽ không quên phần của con, vậy nếu Thu Đào được thưởng, con cũng xin một phần là được vào ngự hoa viên của hoàng cung đi dạo một lần được không? Nguyễn Đức Trung nhìn Thu Hằng cười hiền lành: - Tất nhiên là được, lúc Thu Đào tiến cung, cha sẽ lấy cớ cho người thân đưa tiễn mà để con vào theo, có thể ở lại vài ba hôm tham quan khắp hoàng cung cũng được! Thu Hằng nghe đến đây liền vui vẻ nói: - Cảm ơn cha, con sẽ cố gắng giúp tỷ tỷ làm lồng đèn ngay! Thu Đào nghe thêm lần nữa chữ "tiến cung" thì thở dài nghĩ thầm: - Mình đã cố quên đi mà sao ai cũng nhắc mãi! Làm sao đây? Nếu tiến cung thì mười phần hết chín là tính mạng lâm nguy! Đang suy nghĩ thì Thu Hằng đã đến kéo tay làm nàng giật mình quay về với thực tại: - Đi thôi, muội sẽ làm hồ dán thêm nhé! - Ờ! Thu Đào trả lời như một phản xạ tự nhiên, vì tâm trạng còn mãi để ở chỗ "tiến cung". * * * Trong nhà bếp, Thu Hằng cùng với Xuân Mai đang khuấy hồ. Làm được một lúc, Thu Hằng giả vờ kêu nóng quá, muốn uống một tách trà, nên sai Xuân Mai đi lấy. Xuân Mai nhanh nhảu: - Nhị tiểu thư chờ em một tí, em sẽ mang trà và quạt nan đến để quạt hầu cô, cô ít khi vào bếp nên sẽ thấy nóng. Thu Hằng đồng ý ngay: - Đúng rồi, cảm ơn Xuân Mai, em thật chu đáo! Xuân Mai được khen rất thích nên nhanh chóng đi ngay. Thu Hằng nhìn theo đến khi Xuân Mai khuất bóng. Lúc đã chắc chắn không còn ai xung quanh, nàng bí mật lấy trong túi áo ra một chai nhỏ.. Ở hậu viện của phủ đệ, gia nhân trong nhà ai nấy đang tất bật làm theo lời Thu Đào hướng dẫn, người vót tre, kẻ cắt giấy, những người khéo tay thì vừa dán vừa vẽ, có kẻ giỏi viết chữ còn đề cả chữ 福 (Phúc) lên hình ngũ giác đều ở giữa chiếc lồng đèn. - Lồng đèn hình ông sao, mà ở giữa lại có viết chữ Hán, vừa hiện đại lại vừa cổ xưa, sao mà lạc quẻ ghê! Thu Đào bình luận về những chiếc lồng đèn được ghi chữ rồi cười một mình. Mãi đến lúc chập choạng tối thì hơn một trăm chiếc lồng đèn đã được làm xong. Thu Đào vươn vai uể oải đứng lên than: - Rụng rời cả tay chân, ta về tắm rửa thay xiêm y, xong lại đến cùng các em treo đèn. Xuân Mai cũng đứng dậy đi theo. Lúc đó Thu Hằng xung phong ở lại: - Vậy khi tỷ quay trở lại thì mới đến lượt muội về tắm gội vậy! Muội sẽ ở đây cùng làm với mọi người tiếp! Thu Đào vui vẻ đồng ý rồi cùng Xuân Mai trở về phòng. Nguyễn Đức Trung trở lại hậu viện để xem việc làm lồng đèn đã xong chưa, nhìn thấy Thu Hằng vẫn đang hì hục dán dán sửa sửa, hài lòng bảo con gái chọn giúp vài chiếc đem treo ở trước cửa thư phòng của ông một vài chiếc, số còn lại ông muốn ngày mai mang đến Huy Văn tự làm quà tặng. Nghe đến đây Thu Hằng mặt biến sắc, trong lúc vội vã bèn lấp liếm mượn cớ: - Những chiếc ở đây đa số có phần con làm, toàn xấu xí, để con sai gia nhân dùng những chiếc đẹp nhất tặng cha và Ngô phu nhân! Nguyễn Đức Trung tin lời nên vỗ vai con gái: - Của hai con làm thì chiếc nào cũng đẹp! Thôi con cứ chọn giúp cha nhé! Làm xong nhớ về nghỉ ngơi sớm đi! Thu Hằng thở phào: - Nữ nhi biết rồi! Cha mau quay về nghỉ sớm đi! Thấy cha vừa đi khuất, Thu Hằng chủ động sắp xếp việc treo đèn trong phủ, xong đâu đấy nàng cũng đích thân đi dọn dẹp tất cả dụng cụ dùng để khuấy hồ dán, phi tan mọi chứng cứ. * * * Hết chương 8 ---- Chú thích: 1. (*) Sơ lược vụ án Lệ Chi Viên: Sau khi Lê Thái Tổ Lê Lợi mất, thái tử Lê Nguyên Long nối ngôi trở thành vua Lê Thái Tông. Năm Lê Thái Tông hai mươi tuổi, trong một lần đi duyệt binh về nghỉ ngơi ở vườn vải nhà Nguyễn Trãi, một bà thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ hầu hạ cho vua suốt đêm, đến sáng thì vua đột ngột băng hà. Cả nhà Nguyễn Trãi bị ghép tội giết vua, xử tru di tam tộc. Đây là vụ án được nhận định là án oan bi thảm trong lịch sử triều Lê Sơ.
Chương 9: Đêm Trăng Bấm để xem Nguyễn Đức Trung đại nhân dắt theo vợ và hai vị tiểu thư đến Huy Văn Tự thắp hương nhân dịp Trung Thu, ngày mười bốn tháng tám âm lịch. Trong lúc chờ cha mẹ hàn huyên cùng Ngô phu nhân, Thu Đào có rủ rê Thu Hằng đi thăm thú một vòng, nhưng Thu Hằng đã quá quen với Huy Văn Tự từ nhỏ rồi, đâu có gì đáng để tham quan nữa nên đã từ chối. Hơn nữa, Thu Hằng và Ngô phu nhân giờ đây cùng chung một mục đích, nàng chỉ muốn kề cận Ngô phu nhân để biết thêm nhiều việc khác, cũng xem như là sẵn tiện lấy lòng mẹ chồng tương lai vậy! Huy Văn Tự này chỉ hấp dẫn với mỗi Thu Đào thôi! Còn nhớ hôm bị ngất xỉu ở chùa Thánh Chúa – tức là Huy Văn Tự của bây giờ, Thu Đào đã có ý định đến đây mong sẽ tìm được giá nến hoa đào, thông qua đó trở về năm 2022. Tuy ở đây rất nhiều thứ hấp dẫn cần khám phá, nhưng lâu ngày e là sẽ vướng phải rắc rối, chẳng hạn như gặp Lê Hạo để rồi động lòng với chàng nhưng biết trước sẽ chẳng đi đến đâu, rồi lại còn phải làm cung tần cho Lê Bang Cơ, nếu kéo dài để đến lúc thật sự tiến cung thì có lẽ phải chịu chung số phận với vị vua bất hạnh đó! Chi bằng sớm tìm cách trở về, ta lại tiếp tục là Trà My! – Thu Đào tự nhủ. Trãi qua gần sáu trăm năm, cách bày trí ở đây thật sự khác xa với chùa Thánh Chúa trong tương lai, cổng chùa bây giờ cũng chưa có ba cây muỗm to như ở năm 2022, nàng không còn nhận ra phòng nào là phòng nào cả, càng rắc rối hơn là nàng chỉ mới đến chùa Thánh Chúa duy nhất lần đó, đâu có thông thạo ngóc ngách, tìm ra căn phòng nơi có cái giá nến thật là như mò kim đáy bể! Hay là cứ đi từng phòng một, chỗ nào có nơi thờ Phật là ta lại đến đó tìm giá nến vậy! Nghĩ là làm, Thu Đào nhìn lên bàn thờ ở chính điện – nơi cha mẹ vừa thắp hương xong – thêm một lượt nữa, khi đã chắc chắn không có chiếc giá nến hình hoa đào nào trên đó, nàng xin phép cáo lui để đi tham quan Huy Văn Tự. Dạo quanh một vòng lớn khắp chùa xong, Thu Đào đứng trước cổng nhìn vào khoảng trống rộng hơn một trăm mét vuông trước mặt rồi hình dung lại khung cảnh chùa Thánh Chúa, hi vọng định vị được nơi mình muốn tìm: - Lẽ ra từ chỗ này là sẽ gặp ba cây Muỗm, rồi đến cánh cửa bước vào điện thờ chính của chùa, sau đó đi sâu vào năm gian phòng, rẽ phải sẽ gặp ngay căn phòng đó, tại sao bây giờ chỉ là một bãi đất trống, trơ trọi một hồ cá và đình hóng mát được xây trên mặt hồ? Nếu phỏng đoán theo vị trí căn phòng đó ở tương lai, thì là dãy phòng đằng kia à? Thu Đào nhìn thấy khuất sau đình hóng mát trên hồ cẩm lý có một dãy gồm bốn năm căn phòng nhỏ, nàng không biết đó là khu vực sinh hoạt của Lê Hạo và Ngô phu nhân nên muốn đến xem thử. * * * Sáng ngày mười bốn tháng tám âm lịch, Lê Nhân Tông thiết triều tại Thiên Hưng điện. Lê Khắc Xương tấu với Nhân Tông: - Tâu bệ hạ, thần nhận được tin cấp báo từ Bồn Man (*), dư đảng của vua Chiêm Thành Bí Cai mười năm trước bị Đại Việt ta đánh bại nay lại tập hợp lực lượng, tập trận khiển binh, lấy cớ giành lại lãnh thổ Chiêm Thành mà thường xuyên cướp phá dân chúng, mong Hoàng Thượng sớm có đối sách để dẹp yên loạn đảng! Nhân Tông nghe xong, bèn hỏi ý quần thần: - Dư đảng của Bí Cai bị đánh bại đã mười năm, một phần lãnh thổ cũng đã sát nhập vào Bồn Man của Đại Việt ta, nay lại bất ngờ gây chiến, chắc chắn cũng đã chuẩn bị kỹ lưỡng, ta không nên khinh địch. Vậy có vị ái khanh nào hiến kế cho Trẫm nghe không? Như đã thông đồng trước với Lê Khắc Xương, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân bèn cho ý kiến: - Tâu bệ hạ, đúng là không thể xem thường dư đảng quân Chiêm. Nhưng chúng vẫn chỉ là một lũ ô hợp căn cơ không vững, ta nên dùng uy thế triều đình, cho một vạn quân đến đánh một trận áp đảo, giết sạch không chừa một tên, bọn chúng ắt sẽ biết khó mà từ bỏ dã tâm từ đây! Nghe đến đây, quan Thái Bảo Đinh Liệt (*) vốn là vị tướng tài từ triều Lê Thái Tổ liền hừng hực khí thế muốn đánh giặc giúp vua, ông tâu với Nhân Tông: - Xin bệ hạ hãy để thần cầm quân diệt dư đảng Chiêm Thành lần này! Sợ mưu kế thất bại, Lê Nghi Dân can ngăn: - Đinh đại nhân, ngài là vị tướng quân dày dặn kinh nghiệm, Minh triều phương Bắc luôn dòm ngó Đại Việt ta, ngài chỉ nên tập trung đề phòng phía Bắc, quân Chiêm yếu ớt lần này không cần vì chúng mà phí sức. Nói xong, Nghi Dân im lặng vài giây ra chiều đắt ý tiếp tục hiến kế: - Thần có cách này, vừa có thể nêu cao uy danh của bệ hạ, vừa dễ dàng áp đảo khí thế quân Chiêm, khiến chúng chưa đánh đã sợ mà xin hàng, chỉ là trước khi bẩm tấu, dám xin bệ hạ tha tội nếu thần có điều mạo phạm! Nhân Tông liền đáp: - Trẫm miễn tội, Lạng Sơn Vương cứ nói! Lê Nghi Dân thưa: - Chỉ cần Hoàng Thượng thân chinh dẹp loạn, với thanh thế của đương kiêm thánh thượng, cộng thêm một vạn quân tinh nhuệ, thần cam đoan quân Chiêm ở Bồn Man chưa đánh đã khiếp vía xin hàng, việc hao binh tổn tướng sẽ giảm nhẹ rất nhiều. Hơn nữa lần này chỉ là trận đánh nhỏ không nguy hại đến long thể được. Việc này cũng giúp bệ hạ có thêm uy danh phục chúng, tuyệt đối chỉ có lợi không hại. Nghe đến việc vua thân chinh đánh giặc, nhiều vị văn võ bá quan có lời phản đối, vì không nhất thiết phải mạo hiểm đến long thể. Tuy nhiên Lê Nghi Dân và Lê Khắc Xương dùng uy tín và sức ảnh hưởng của mình liên tục đốc thúc khiến cuộc tranh luận kéo dài gần nửa canh giờ vẫn không có hồi kết. Nhân Tông vẫn ngồi trên ngai vàng giữ thái độ điềm nhiên nghe hết ý kiến của từng người. Cuối cùng hạ lệnh tạm gác việc này, ba hôm sau sẽ tuyên bố thánh ý cho quần thần được rõ. * * * Bãi triều, Lê Nghi Dân cố tình theo sau Lê Hạo thăm dò ý tứ: - Tứ đệ vẫn luôn im lặng, không biết đệ nghĩ thế nào? Lê Hạo khiêm nhường đáp: - Đệ đệ nông cạn, chưa hiểu hết đại cục nên không dám cho ý kiến, nhưng cách của đại ca xem ra cũng có lý! Lê Nghi Dân trước nay luôn vừa lòng với sự cung kính của Lê Hạo, nhưng mãi vẫn không dám chắc chắn chàng sẽ theo phe mình. Mượn việc lần này, Nghi Dân quyết tâm buộc Lê Hạo tỏ rõ chính kiến. Tuy Lê Hạo từ nhỏ bị tách khỏi cuộc tranh đấu vương quyền, nhìn bề ngoài thì không có thực lực trong triều đình, nhưng chàng là người tài hoa lỗi lạc, được lòng nhiều văn võ bá quan, nếu lôi kéo được Lê Hạo thì sẽ như hổ thêm cánh, lòng dân ắt sẽ thuận theo. Vì vậy Lê Nghi Dân ngầm ra tối hậu thư cho Lê Hạo: - Phàm là kẻ làm việc lớn phải biết điểm xuất phát của mình là ở đâu, dù có muốn lên tận trời xanh cũng phải bắt đầu từ nấc thang đầu tiên. Tứ đệ! Ta khuyên đệ từ bây nên chọn nấc thang của mình là vừa! Nói xong hai người im lặng đi cùng nhau ra đến tận cổng hoàng cung. Trước lúc tạm biệt, Nghi Dân không quên nhắc thêm: - Tứ đệ, Hàn Tín nhà Hán trước khi chọn đúng minh chủ cũng chỉ là tên vô danh tiểu tốt, tài hoa của hắn chỉ khi gặp Lưu Bang mới có dịp phát huy, lưu danh sử sách! Đệ phải noi theo cổ nhân mà làm! Nói xong vỗ vai Lê Hạo rồi quay lưng ra về. Lê Hạo vẫn thái độ cung kính, chấp hai tay ngang đầu bái biệt đại ca. Lê Hạo tất nhiên đã nhìn rõ tâm tư của Lê Nghi Dân từ lâu, chẳng qua đang buổi thái bình, Lê Tuấn tại vị lấy đức trị nước nên rất được lòng dân, hắn không có lý do gì lật đổ mới đành tạm hoãn việc tạo phản. Lần này muốn khích cho vua phải thân chinh đi đánh trận, chắc chắn có mưu đồ ám sát. Nếu Lê Tuấn không còn, hắn là đại hoàng tử, hơn nữa lại từng là chủ Đông cung, ngai vàng mười phần hết chín sẽ lọt vào tay hắn. Quả là mưu sâu kế hiểm! - Ta phải làm sao để vừa bảo vệ được tam ca, vừa bảo toàn cho bản thân thoát khỏi hiềm nghi của hắn đây! – Chàng âu sầu tự hỏi bản thân. Lê Hạo vừa rảo bước định trở về Huy Văn Tự thì nghe tiếng Lê Tuấn gọi phía sau: - Tứ đệ, chờ ta với! Lê Tuấn đã thay thường phục, vội vã đuổi theo Lê Hạo tận cổng cung, vừa thở vừa nói: - Ngày mai trong cung có yến tiệc mừng tiết Trung Thu, Trẫm muốn đích thân đưa thiếp mời cho đệ và Ngô Tiệp Dư, hai người nhớ đến dự. Sang thu Trẫm sẽ đón đệ và Tiệp Dư hồi cung cùng với Mỹ Nhân của Trẫm! Thế nào? Có đồng ý không? Cảm động trước tình cảm huynh đệ của Lê Tuấn dành cho mình, Lê Hạo không muốn từ chối, cung kính chấp hai tay ngang đầu thưa: - Thần đệ đa tạ Hoàng Thượng hậu ái! Lê Tuấn vỗ em trai rồi hóm hỉnh dùng thân phận giả là anh họ nói với Lê Hạo: - Biều đệ, tối nay trăng đẹp, ta muốn biểu đệ cùng Lê Tuấn ta thưởng trà ngắm trăng trong Huy Văn Tự! Lê Hạo vui vẻ nhận lời: - Hân hạnh tiếp đón biểu huynh! * * * Đã xế chiều, ánh nắng mặt trời không còn gay gắt, xung quanh vắng vẻ chỉ có mỗi Thu Đào đang thong dong dạo bước. Nàng băng qua chiếc cầu nhỏ bắt ngang hồ cẩm lý, nối liền khu đất từ chính điện sang dãy phòng của hai mẹ con Lê Hạo. Căn đầu tiên của dãy phòng này chính là nơi Lê Hạo viết chữ đọc sách. Cửa không đóng, Thu Đào nghiêng đầu nhìn vào quan sát. Bên trong bày trí đơn giản, chỉ có ba giá sách, bàn viết chữ có bày sẵn bút nghiên, một bàn trà với bộ ấm tách bằng gốm sứ hoa văn màu xanh da trời, khá giống với tưởng tượng của Thu Đào về nội thất thời cổ. Trông chẳng có vẻ gì là nơi riêng tư của ai, nàng đánh bạo bước vào, xem thử "thư viện" ở đây có khác gì với thư viện hiện đại không! Tò mò về những quyển sách trên giá, Thu Đào chui hẳn vào dãy giữa, hết cầm quyển này lên lại đặt quyển kia xuống, tuy chữ bên trong đọc không hiểu được bao nhiêu, nhưng việc được tận mắt xem, tận tay sờ vào những đồ vật thời phong kiến như thế này, đối với Thu Đào là một trãi nghiệm cực kỳ lý thú. Mãi lo xem sách, nàng quên mất phải đi tìm căn phòng và giá nến bí ẩn kia. Được một lúc, Thu Đào chú ý thấy trên bàn viết chữ có một quyển sách đang mở ra sẵn trang cuối, còn có một thanh gỗ nhỏ dằn lên để làm dấu trang. Nàng đến gần nhìn thì thấy cuối trang có vẽ đóa hoa đào hình dạng giống với đóa hoa đào của giá nến. Mừng rỡ và hiếu kỳ, Thu Đào cầm quyển sách lên để xem cho kỹ, biết đâu có chút manh mối gì chăng? Mặt trời sắp lặn, Lê Hạo dắt theo Lê Tuấn về gần đến cửa thư phòng, thấy có bóng dáng ai đó đang cầm quyển sách mình quý trọng nhất, Lê Hạo nóng lòng chạy nhanh vào làm Lê Tuấn ở sau lưng phải gấp rút đuổi theo xem có việc gì. Lê Hạo căng thẳng hỏi lớn: - Ai đó! Bị gọi lớn Thu Đào giật mình đánh rơi quyển sách. Khi đã nhìn rõ "kẻ đột nhập" là Thu Đào, Lê Hạo hơi ngạc nhiên hỏi: - Nàng đến đây từ khi nào? Lê Tuấn cũng vừa bước vào cửa: - Thì ra là Thu Đào tiểu thư, làm ta tưởng hôm nay tứ đệ xui xẻo bị kẻ trộm ghé thăm! Thu Đào lúc này hiểu ra đây là chỗ ở của Lê Hạo, biết mình đã thất lễ nên bối rối xin lỗi: - Ta.. ta cứ tưởng đây là thư viện của Huy Văn Tự, có thể vào thăm thú được.. nên là.. Nhìn nàng hoảng sợ Lê Tuấn cảm thấy thật đáng thương, không muốn làm Thu Đào hoang mang thêm bèn chuyển sang nói việc khác: - Nàng đến đây với ai? Chắc là thấy Huy Văn Tự đẹp nên tiện thể thăm thú một chút, đây cũng chỉ là thư phòng thôi, chắc tứ đệ không ngại đâu đúng không? Lê Hạo lúc này đang vội vàng nhặt quyển sách dưới chân Thu Đào lên, chàng nâng niu dùng vạt áo lau qua một lượt, rồi trả lời: - Tất nhiên không sao rồi! Nơi này trước kia nàng vẫn hay tới lui cùng chúng ta đọc sách viết chữ, chẳng khác gì nhà của nàng đâu! Thu Đào giải thích thêm: - Thật xin lỗi! Ta theo cha mẹ đến đây thắp hương, tiện thể muốn dạo chơi một chút.. Lê Hạo dịu dàng trấn an nàng lần nữa: - Không sao đâu! Gặp được Thu Đào ở đây Lê Tuấn vô cùng vui mừng, chàng có ý muốn mời nàng ở lại cùng uống trà ngắm trăng, bèn đưa mắt nhìn Lê Hạo, ý muốn nhờ em trai đi sắp xếp. Chàng nói: - Hẹn trước không bằng tình cờ gặp! Hôm nay trăng đẹp, nàng cùng huynh đệ ta ở lại uống trà nhé! Thu Đào tất nhiên là vui mừng đồng ý ngay, vừa được ở lại trò chuyện với Lê Hạo, vừa muốn nhân cơ hội hỏi về hình vẽ hoa đào và cái giá nến kia, một công đôi việc thật quá tốt rồi! Lê Hạo hiểu ý anh trai, liền đi chuẩn bị một bàn điểm tâm cùng trà ngon để mang ra đình hóng mát trên hồ cẩm lý. * * * Trong lúc chờ Lê Hạo đi chuẩn bị điểm tâm, Thu Đào theo sau Lê Tuấn cùng đến đình hóng mát giữa hồ. Nhìn Lê Tuấn từ sau lưng, nàng chợt nghĩ đến chàng trai cầm ô đứng giữa vườn hoa ngoài cửa sổ từng xuất hiện trong giấc mơ lúc trước. Trang phục, dáng đi, và cả khung cảnh trước mắt lúc này sao quen thuộc quá! Rồi như một sự sắp đặt của số mệnh, ngay lúc đó Lê Tuấn nhận ra Thu Đào đang tụt lại phía sau mình khá xa, chàng quay lại hóm hỉnh nói: - Tiên nữ! Sao đi chậm quá vậy, ta chờ nàng lâu rồi đấy! Vừa nghe giọng nói và câu từ quen thuộc xong, bỗng nàng cảm giác như có một mũi kiếm đâm sâu vào tim, Thu Đào thấy đau nhói nên đưa hai tay ôm lấy ngực, mặt xanh xao nhăn nhó, nàng loạng choạng như sắp ngã xuống. Lê Tuấn nhanh chóng nhận ra bất thường liền lao đến đỡ lấy nàng rồi hoang mang hỏi: - Thu Đào! Nàng sao vậy? Dần dần cơn đau tim qua đi, Thu Đào bình thường trở lại, nhưng chính nàng cũng ngơ ngác không hiểu chuyện gì vừa xảy ra với mình. Chẳng lẽ cái thân xác của Thu Đào này yếu ớt vậy, đi có vài bước đã mệt đến nỗi đau tim như vậy rồi sao? Nàng trả lời để Lê Tuấn yên tâm: - À, ta không sao rồi! Đa tạ chàng! Lê Tuấn hỏi lại, giọng vẫn chưa hết lo lắng: - Nàng vừa bị làm sao vậy? Không biết phải diễn tả cảm giác lúc nãy ra sao, Thu Đào đành nói cho qua chuyện: - Có lẽ ta vừa mới khỏi bệnh nên đi vài bước đã thấy hơi mệt thôi! Lê Tuấn nhìn nàng ân cần: - Nàng thật sự không sao chứ? Đêm nay tuy không lạnh nhưng giớ lớn, hay là ta đưa nàng về phủ? Sợ bị mất cơ hội dò hỏi tung tích hình vẽ hoa đào, nàng vội vàng vỗ tay lên ngực chứng minh: - Thật sự không sao mà, đừng nói cho cha mẹ ta biết, ta rất muốn ở lại ăn điểm tâm, ngắm trăng cùng nhị vị Lê công tử! Xem này ta khoẻ lắm! Lúc này Lê Tuấn mới yên tâm phần nào nhưng chàng không vượt lên đi trước nữa mà sánh đôi bên cạnh nàng, vừa đi vừa chốc chốc nhìn sang như để trông chừng báu vật của mình. Kể ra cũng thật lạ, mỗi khi bên cạnh Lê Tuấn nàng đều cảm thấy một cảm giác thân thuộc ấm áp, chàng không giống như những tên đào hoa háo sắc chút nào. Ta và chàng kiếp này cũng có duyên bằng hữu chăng? Đến đây, đột nhiên Thu Đào nhớ ra Lê Tuấn từng nói chàng là ngự tiền thị vệ bên cạnh Lê Nhân Tông nên nảy ra ý định nhờ chàng giúp đỡ thăm dò ý tứ nhà vua, thậm chí nói xấu về mình để Nhân Tông từ bỏ ý định nạp cung tần cũng hay! – Nàng tự nghĩ rồi quay sang nhìn Lê Tuấn bằng ánh mắt tinh nghịch. Nụ cười lạ lùng làm Lê Tuấn chột dạ hỏi: - Chuyện gì đây đại tiểu thư? Thu Đào đá lông nheo gợi ý: - Chàng có muốn nghe thêm về "thành phố Hồ Chí Minh" của tiên nữ ta sống không? Giúp ta một việc đi, ta sẽ kể cho chàng nghe! Lê Tuấn khoanh hai tay trước ngực đáp lại: - Muốn ra điều kiện với ta sao? - Đúng vậy, chàng là ngự tiền thị vệ, chắc chắn có cơ hội tiếp cận với Hoàng Thượng, ta muốn chàng nghĩ cách khiến Hoàng Thượng không còn muốn nạp ta làm cung tần nữa! Lê Tuấn nghe đến đây không nhịn được nữa nên phì cười. Chàng giả vờ từ chối: - Ta chỉ là một thị vệ nhỏ bé, làm sao lời nói lại đáng để Hoàng Thượng nghe được! Thôi, nàng chấp nhận số phận đi, vào cung làm mỹ nhân cho Hoàng Thượng vậy! Thu Đào lườm một cái rõ dài rồi mắng, mà quên mất Lê Tuấn cũng hiểu tiếng Hán: - 真是个渣男, 还敢说喜欢上了我! (Đúng là tên xấu xa, còn dám nói là thích ta) Lê Tuấn trêu ghẹo trả lời: - 那你说我能怎么帮哦! (Vậy nàng nói xem ta có thể làm được gì) Thu Đào ấm ức: - Nếu chàng thật sự thích ta lẽ ra phải thấy buồn khi ta phải làm cung tần cho Hoàng Thượng mới đúng chứ! - Ta buồn chứ, nhưng biết làm sao được? Dù sao nàng cũng không thích ta, chi bằng cho nàng vào cung làm mỹ nhân cho xong! Lê Tuấn nói xong khoái chí bậc cười thành tiếng. Thu Đào nghe đến đây cảm thấy không "nhờ vả" gì được tên thị vệ này nên nét mặt chùn hẳn xuống, nàng không nói gì nữa, tiến đến chiếc ghế trong đình hóng mát ngồi phịch xuống, chống tay lên cằm ngắm trăng chờ Lê Hạo mang điểm tâm đến. Lê Tuấn cũng nhận ra lời từ chối tuy là đùa đùa vui của chàng đã làm cho Thu Đào thất vọng, bèn an ủi bằng lời chân thành, nhưng mãi về sau này nàng mới hiểu ra: - Hoàng Thượng nhất định sẽ tốt với nàng mà! Thu Đào liếc mắt sang nhìn Lê Tuấn một lần, rồi bất lực ngẩng đầu lên trời mà thở dài. Lê Tuấn trộm nhìn nàng cố giấu nụ cười thích thú. Trời đã tối hẳn. Dưới mái đình, hai người ngồi cạnh nhau cùng ngắm ánh trăng thu vằng vặc. * * * Hết chương 9 --- Chú thích: 1. (*) Đinh Liệt: Danh tướng nhà Hậu Lê, là cháu gọi Lê Thái Tổ - Lê Lợi là cậu. Thời còn trẻ ông đã theo làm cận vệ cho Lê Lợi, làm quan qua bốn triều vua Lê là Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông. 2. (*) Bồn Man: Tên một quốc gia cổ, một phần nằm ở tỉnh Xiêng Khoảng phía Đông Lào, một phần nằm ở phía Tây các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam. Thời Lê Nhân Tông, Bồn Man thuộc lãnh thổ Đại Việt, gọi là tỉnh Trấn Ninh. 350 năm sau thì bị Nguyễn Ánh (Vua Gia Long nhà Nguyễn) cắt cho Lào.