

1. MỞ BÀI
Giới thiệu tác phẩm "Mạn thuật 4" của Nguyễn Trãi. Khái quát được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trước thiên nhiên và trăn trở với thói đen bạc của lòng người. Trích thơ:
"Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,
Trong thế giới phút chim bay.
Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay.
Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay.
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui một lòng người cực hiểm thay."
Trong thế giới phút chim bay.
Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay.
Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay.
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui một lòng người cực hiểm thay."
2. THÂN BÀI
a. Niềm vui dạo chơi với thiên nhiên trong tâm thế ung dung, nhàn hạ của người ẩn sĩ:
"Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,
Trong thế giới phút chim bay."
Trong thế giới phút chim bay."
- Bắt đầu thơ bằng 2 câu lục ngôn với nhịp thơ 4/2 và 3/3
- Đảo ngữ từ láy 'đủng đỉnh' (đủng đỉnh chỉ sự nhàn rỗi, ung dung, thảnh thơi)
=> Nhấn mạnh tâm thế ung dung, thảnh thơ khi dạo bước giữa trời đất, 'thế giới phút chim bay'.
=> 2 câu thơ mang đậm chất trữ tình mà qua đó ta thấy được Nguyễn Trãi không chỉ là một vĩ nhân mà còn là một con người, yêu tình yêu của con người, cụ thể là thiên nhiên.
b. Trong cuộc dạo chơi ấy, Nguyễn Trãi tìm thấy những chiêm nghiệm về tự nhiên rất sâu sắc:
"Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay."
Cây cứng cây mềm gió hay."
- Núi cao, núi thấp là chuyện mà mây luôn quen thuộc, hiểu rõ
- Cây cứng hay mềm gió đều cảm nhận được
=> Dùng chuyện của thiên nhiên để ám chỉ ông là một con người thông thái khi tường tận sự vật, hiện tượng trên đời. Tác giả là một người tự tin, dám khẳng định mình.
c. Không phải tự nhiên mà ông lại tự tin như thế bởi Nguyễn Trãi đi từ hiểu sự vật, hiện tượng đến hiểu cả số phận đời người trước vạn vật:
"Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay."
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay."
- Nước trải qua mấy trăm năm vẫn là nước:
- Nước được con người sử dụng trong sinh hoạt
- Đất nước đi qua bao thăng trầm cũng vẫn là đất nước của dân tộc
- Nước được con người sử dụng trong sinh hoạt
- Và trăng đã chứng kiến tất cả hình ảnh đó bởi trăng luôn trường tồn theo thời gian, qua bao kiếp người => Vạn vật vĩnh hằng, bất biến duy chỉ có đời người vô thường, ngắn ngủi.
=> Triết lý sâu sắc đậm tính nhân văn được Nguyễn Trãi diễn giải chỉ trong 2 câu thơ, càng làm cho ta thêm ngưỡng mộ, khâm phục tài văn thơ của tác giả.
d. Song, sang 2 câu thơ cuối ông lại cho ta thấy một tâm trạng chán chường:
"Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui một lòng người cực hiểm thay."
Bui một lòng người cực hiểm thay."
- Thay đổi cấu trúc thơ từ lục ngôn sang thất ngôn để thể hiện sự thất vọng với bản thân và cả lòng người khi vốn dĩ mọi sự ông đều hiểu thấu cớ sao lòng người lại không cảm được?
- Lòng người hiểm độc thể nào mà Nguyễn Trãi lại ngao ngán như thế?
- Vì ông đã trải nghiệm cuộc sống rất nhiều, đi qua bao cuộc bể dâu
- Ông cảm thấy đời người ganh đua, mưu tính lẫn nhau chỉ mang lại tổn hại cho mình
- Vì ông đã trải nghiệm cuộc sống rất nhiều, đi qua bao cuộc bể dâu
=> Với Nguyễn Trãi, sống như thế rất vô nghĩa vì vốn dĩ chỉ có vạn vật trên đời là bất biến còn đời người thì chỉ có duy nhất, vì lý gì mà ta lại không trân trọng mà chỉ biết tổn hại nhau
- Chất trữ tình tiếp tục được thể hiện ở sự đau, sự ngán trước lòng người, đồng thời cho thấy tác giả cũng là một con người trần thế, không hoàn hảo mà từ đó thất vọng, buồn chán và khát khao sự hoàn hảo đó.
e. Đánh giá nghệ thuật:
- Đan xen giữa chất triết lý và trữ tình nhưng vẫn có sự chặt chẽ, phù hợp tạo sự hài hòa cho thơ và thể hiện vẻ đẹp thanh cao, giản dị của nhà thơ.
- Sử dụng thể thơ Nôm Đường luật thất ngôn xen lục ngôn, mở đường cho thể thơ mới của dân tộc
- Ngôn ngữ trong sáng, bình dị, một đặc trưng ở thơ Nguyễn Trãi
3. KẾT BÀI
Khẳng định nội dung của "Mạn thuật 4" từ đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi, liên hệ bài học cho bản thân.
Các bạn có thể đọc bài phân tích bên dưới
Last edited by a moderator: