Chương 30: Những xác chết hồi dương – Phần hai
Đêm hôm qua ngủ tạm ở một ghế đá. Sáng hôm nay, An bước đi trên bản làng với cái hai cánh tay có vài vết muỗi đốt. May là có lọ dầu gió để bôi đuổi muỗi, không thì có khi đã nhiều vết đốt hơn rồi. Cứ tưởng người ở vùng quê sẽ hiếu khách như miệng thiên hạ thường nói, nhưng An đã đi hơn mười ngôi nhà để xin ở nhờ mà không có ai cho. có lẽ một phần cũng do khuôn mặt cậu sau khi cắt phần tóc mái trông hơi nham hiểm nên người ta hay đề phòng.
Đang chán nản dưới cái oi bức của mùa hè, An bỗng hơi dựng tóc gáy khi có cảm nhận lạ.
Nếu đi ngoài đường mà cảm nhận được âm khí là một chuyện thường, thế nhưng An đi ngang qua một ngôi nhà, cậu cảm nhận được có âm khí hiện diện một cách rõ rệt trong đó. An quay lên nhìn Mai đang bay cách mình nửa mét, cậu hỏi để xác định:
"Cô cũng thấy lạ đúng không?"
Mai cũng đang cảm nhận như vậy, cô phân vân xem điều này có phải bất thường hay không.
Nếu như thường lệ, một ngôi nhà có thể có âm khí khi người trong nhà cúng bàn thờ để gọi hồn người thân về nhân dịp ăn giỗ, cúng mùng một hay những ngày lễ tết hoặc ngày rằm. Bởi theo như Mai đã tìm hiểu qua nhiều năm tháng, cô biết được rằng quỷ quan dưới âm phủ thường coi bàn thờ của mọi căn nhà như một chiếc điện thoại để người trần gọi xuống âm phủ, xin phép cho người chết là họ hàng hay người thân dùng tấm "Gương nghiệp chướng" Để dịch chuyển về nhà. Mỗi khi người chết về nhà ăn cỗ thì cũng là lúc trong nhà có âm khí hiện diện, nhưng lượng âm khí không quá lớn và chỉ ngụ trong căn nhà ấy trong một thời gian nhất định. Nhưng ở trường hợp căn nhà mà An đang nói đến đây, cô cảm nhận được âm khí cao hơn bình thường và có xu hướng bị dồn nén vào trong một phần của căn nhà, có thể là một căn phòng nào đó chăng?.
Ngôi nhà này nằm ở cuối một lối ngõ to, ngay bên cạnh là những hàng cây che khuất bờ sông chứa nguồn nước sinh hoạt của cả Bản Sẳng này. Tính từ căn nhà, nếu đi theo lối sông hướng lên phía đông - bắc thì sẽ đi được đến cuối bản làng, còn đi về hướng tây – nam sẽ đến được cánh ruộng hoang có khu nhà sàn mà Mai và An đang nghi ngờ. Mai thấy vị trí này thuận tiện cho việc di chuyển.
Vừa ngó xuống để nói cho An biết điều này, Mai đã thấy cậu ấy tiến vào, đứng trước cửa nhà từ bao giờ.
An nhìn quanh không thấy nút chuông, đành gõ cửa mấy lần. Đáp lại cậu là tiếng một người đàn ông khoảng 40 đến 50 tuổi đi ra mở cửa.
"Cháu tìm ai à?" Người đàn ông hỏi với vẻ mặt lạ lùng vì chưa thấy An bao giờ.
An nuốt nước bọt, hồi hộp hỏi:
"Cháu chào bác ạ, bác khỏe không ạ?" Cậu tự cảm thấy hơi kì cục với câu hỏi này.
Người đàn ông đần mặt, tự nhiên có thằng thanh niên vào hỏi thăm sức khỏe thì hơi lạ thật. Bác đáp:
"...À ừ! Bác khỏe, sao thế cháu?"
An gãi đầu, gãi tai. Cậu quay sau nhìn Mai rồi cúi đầu nhìn đất, chần chừ mãi mới nói:
"Cháu người ở xa tới ạ, cháu đi quanh đây không thấy có chỗ nào cho thuê trọ, bác có thể cho cháu trú tạm ở đây được không ạ? Một đêm thôi cũng được ạ?"
Một người phụ nữ cũng tầm tuổi ấy, nghe thấy được liền đi ra đứng cạnh chồng mình. Bác gái lắc đầu:
"Không được đâu cháu ơi, nhà bác trật kín người rồi."
An thất vọng. Nhưng vừa lúc đó, cậu thoáng thấy bóng dáng một đứa bé trai đứng lấp ló sau lưng hai vợ chồng. Với cái cảm nhận âm khí của An về đứa bé này, khỏi cần nói cũng biết đây là một vong nhi. Hình như nó vẫn chưa biết cậu đang nhìn thấy nó.
An quay đầu phía sau nhìn Mai. Cô ấy gật đầu, ra hiệu rằng mình cũng thấy đứa trẻ ấy. Ngay từ đầu cô đã cảm thấy luồng âm khí của nó di chuyển dần từ trên tầng xuống đây.
Lấy đó làm cơ hội, An đứng gần cửa hơn, vẻ mặt thành khẩn, nói:
"Cháu có thể giúp hai bác giao tiếp với con của hai bác."
Hai vợ chồng không tin, bác trai đáp bằng giọng mỉa mai:
"Thằng cháu lại nghe người quanh đây xỉa xói gia đình bác đúng không? Quanh đây ai cũng biết nhà bác nuôi đứa con chết yểu, nhưng có ai tin đâu? Lại còn hay nói xấu với xa lánh nữa."
Bác gái cũng góp lời vợ:
"Thôi cháu ạ, đừng lợi dụng tâm linh xong rồi là nói dối bọn bác, cháu không tin thì bọn bác cũng không trách móc gì đâu, nhưng mà nhà bác không cho ở nhờ được, cháu thông cảm."
An bối rối:
"Ơ! Cháu nói thật mà...cháu nhìn thấy con hai bác thật."
Bác trai xua tay:
"Thôi! Thôi! Cháu tìm nhà khác đi."
Mai nghe qua đã hiểu vấn đề liền. Hai vợ chồng này bị kì thị trong bản làng này vì nuôi vong nhi nhưng không ai tin. Chắc hẳn họ đã bị nhiều người buông lời trêu ghẹo, chọc xoáy vào nỗi đau mất con của họ nên cả hai vợ chồng chẳng còn tin ai có lòng tốt nữa.
Giờ có đi đến đêm cũng chưa chắc tìm được nhà nào cho ở nhờ, Mai đành lộ diện. Cô bắn tia âm khí vào trong đầu hai vợ chồng, thao túng thể tùng quả cho họ có thể nhìn thấy cô, đồng thời nghe thấy giọng cô nói.
Hai vợ chồng đóng cửa lại, rồi bỗng có một cô gái mặc bộ đồ cổ xưa của thời nhà Lý – Trần xuất hiện ngay sau.
Khuôn mặt lạnh tanh, Mai lên tiếng:
"Thanh niên ngoài cửa nói thật đấy, ta là vong đi theo nó, ta đã tận tay khai mở mắt âm dương cho nó, nó nhìn được người chết."
Mai thoắt ẩn thoắt hiện, chớp mắt lại thấy cô đứng bên trái người chồng. Cô nói tiếp:
"Cho nó vào ở nhờ, nó giúp hai ngươi giao tiếp với thằng bé đứng ở kia, chả nhẽ không muốn à?"
Cô chỉ tay về phía góc tường, ở đó, vong hồn đứa trẻ vừa rồi đang sợ sệt lẩn trốn. Hai vợ chồng cứng đờ người, chỉ quay đầu nhìn ra đã thấy con mình đứng co ro trong góc.
Không để mất thời gian, Mai lại dịch chuyển sang phía sau người vợ, đi xuyên qua cả hai vợ chồng. Cô hỏi:
"Có tin không?"
An đang đứng ngoài cửa, buồn bã. Đứng một lúc, cậu quay lưng định bỏ đi, nhưng lại nghe tiếng cánh cửa mở ra, vội quay lại.
An cười mừng, hỏi:
"Hai bác suy nghĩ lại rồi ạ?"
Hai vợ chồng vẻ mặt xanh xao vì vừa mới nhìn thấy người chết, người vợ thì hơi xúc động bởi lâu lắm rồi mới thấy được mặt đứa con của mình dù chỉ trong giây lát.
Sợ là vậy, nhưng bác trai vẫn hỏi lại để xác định xem An có thật sự nhìn thất vong nhi trong nhà mình không:
"Giờ cháu chỉ xem con bác đang đứng chỗ nào trong nhà, để hai bác suy tính xem có nên cho cháu ở nhờ không."
An thản nhiên ngó đầu vào trong nhà, nhìn quanh một hồi. Cậu chỉ tay về phía phòng khách, đáp:
"Nó đang đứng chỗ góc tường, sau bộ bàn ghế bác ạ."
Bác gái không nhịn được, bỏ vào trong phòng khách, ngồi xuống ghế mà khóc một mình. Bác ấy có lẽ quá nhớ con.
Người chồng thờ dài, nói với An:
"Vừa hai bác bị bạn đồng hành của cháu dọa cho một trận, chắc cháu làm bạn với ma hả?"
"À! Hì hì! Cháu nợ cô đấy từ kiếp trước, giờ cháu giúp cô ấy coi như trả nợ." An cười, đáp.
Bác trai nghe vậy, đáp:
"Đúng là lưới trời lồng lộng, có nợ thì kiểu gì cũng phải trả, à mà cứ gọi bác với vợ bác là vợ chồng nhà Luyn nhé, tại bác tên Luyn nên vợ bác cũng được gọi là Luyn."
An cũng giới thiệu lại:
"Dạ cháu tên An, ơ thế có nghĩa là cháu được cho ở nhờ rồi hả bác?"
"Thì giới thiệu là cho rồi, hỏi lắm, vào trong uống nước, cháu." Ông Luyn vừa cười vừa gắt nhẹ.
Mai bây giờ đã rút lại chiêu thức gây ảo giác, vợ chồng Luyn không thể thấy cô nữa. Cô theo An và cặp vợ chồng vào trong phòng khách.
Vừa đặt chân vào gần bộ bàn ghế, Mai đã cảm thấy có gì đó quệt qua...mông...mình. Cô quay qua thì đó lại là vong hồn đứa trẻ lúc nãy. Nó thấy bố mẹ mình chào đón khách vào nên không còn sợ hãi, đâm ra trêu đùa Mai một cách vô tư...mà có phần hơi biến thái.
An vào nói chuyện xã giao một lúc cho biết thêm thông tin. Ông bà Luyn trước kia làm nghề nông trồng trọt ruộng lúa, giờ thì bán xôi ở chợ. Còn nói về vấn đề kì thị thì gần như cả Bản Sẳng này xa lánh hai vợ chồng chỉ bởi vì họ nuôi vong nhi, phần vị họ sợ tâm linh, nhưng đa số là họ cho rằng ông bà Luyn mê tín dị đoan.
An khuyên hai bác:
"Nếu là cháu thì cháu không nói cho ai biết về việc nuôi người âm, trừ khi họ tin vào tâm linh, bởi vì càng khoe thì họ càng xem mình như người lập dị."
Bà Luyn đồng tình:
"Cháu nói cũng phải, hồi trước hai bác có cái sai là hay ép người khác phải tin là con bác chưa siêu thoát, người ta ghét, người ta lại mang tin đồn kể ra, rồi chuyện cứ truyền qua miệng người khác thì thành ra bị nói quá lên."
Ông Luyn kể:
"Còn có vài ông bà ngoài chợ nói là nhà bác nuôi vong để hại người, đấy cháu thấy đấy, chuyện qua miệng người khác nó thành vấn đề khác rồi, nhà bác mà hại người thì giờ không yên phận mà buôn bán hàng xôi như thế."
An gật đầu:
"Vâng! Miệng thiên hạ cay độc lắm bác ạ."
Bà Luyn nóng lòng muốn nói chuyện với con, bà giục nhẹ An:
"Thế cháu thử hỏi con bác xem nó có cần gì không đi?"
"À vâng!" An sực nhớ, liền quay ra nhìn góc tường.
An ngó nghiêng, thắc mắc:
"Ô! Đâu rồi nhỉ? Cháu vừa thấy em nó ở đây mà."
Mai lên tiếng:
"Nó lên phòng rồi, vừa cứ bám vào mông tôi, đúng là vong nhi gan to."
An phì cười, nói với vợ chồng Luyn:
"Con hai bác nghịch thật, cứ trêu cô Mai bạn cháu, giờ em nó lên phòng rồi bác ạ."
Rồi mọi người cùng lên trên tầng hai.
An vừa đặt chân lên cuối bậc thang đã nhìn về phía căn phòng phía cuối gian, cậu cảm thấy có âm khí trong đó. An liền hỏi:
"Phòng kia đúng không hai bác?"
Cả hai vợ chồng bất ngờ:
"Đúng rồi, ở đấy cháu ạ."
"Kinh thật! Chưa ai nói mà cháu đã biết rồi."
An lại cười ngại, đáp:
"Thì cháu nhìn thấy vong, cũng cảm nhận được âm khí luôn mà."
Cánh cửa từ từ mở ra, đó là một căn phòng dành cho trẻ nhỏ. Vì nhà không có điều kiện nên phòng khá nhỏ, hai vợ chồng không sắm được nhiều đồ cho con. Phòng chỉ có một giường, vài con gấu và đặc biệt là chiếc bàn thờ nhỏ khoảng một mét rưỡi, thuộc dạng bàn thờ bệt sát đất. Tường phòng không có gì đặc biệt, chỉ là tường đá quét vôi trắng như bao nhà khác. Thêm cả một bóng đèn đấu dây điện vào công tắc là tất cả những gì có trong căn phòng.
Trên bàn thờ chỉ có bát hương, một bình hoa Chấm Bi trắng, một chiếc đèn dầu cổ và một đĩa bánh kẹo. An thấy ngay hình hải một đứa trẻ ngồi cạnh bàn thờ, đang ăn cái gì đó rất ngon mà cậu không thể nhìn thấy, có lẽ là bánh kẹo.
Cậu nghiêng đầu, nói:
"Em nó đang ăn bánh kẹo, hai bác ạ."
Hai vợ chồng cười dịu, hình dung ra đứa trẻ bé bỏng ngồi khoanh chân giữa phòng mà ăn kẹo.
Vừa thấy Mai ở ngoài, nó chỉ tay, nói mà An cũng nghe thấy:
"Cô mông to."
An cố kìm cơn buồn cười, ngoái ra sau nhìn Mai. Cô ấy cúi đầu, xoa mặt như đang bực mà không muốn dùng bạo lực vì không chấp trẻ con.
An tiến lại gần đứa trẻ, nó thì cứ ngây mặt nhìn An, miệng vẫn nhai nhồm nhoàm. Cậu ngồi xuống trước mặt nó, hỏi:
"Bố mẹ em muốn hỏi em có muốn gì không, có ăn uống hay cần đồ chơi gì không?"
Khuôn mặt đang ngây thơ, thằng bé bỗng buồn bã nhìn đĩa bánh kẹo. Nó lắc đầu:
"Em không cần gì nữa đâu."
Không cần gì nhưng với vẻ mặt buồn rười rượi kia là sao? An thắc mắc nhưng không đáp lại. Cậu quay ra nói với hai vợ chồng bác Luyn:
"Nó nói không cần gì, nhưng cháu thấy em nó vẫn muốn ăn bánh kẹo thì phải, để cháu chạy ra mua túi kẹo khác cho ạ."
"Ơ..." Vong hồn thằng bé bối rối.
Ông Luyn cản An lại:
"Thôi, để bác mua cho, với lại nó nói nó không cần gì mà, sao cháu biết em nó muốn ăn bánh kẹo?"
"Dạ nó..." An toan nói.
Nhưng cậu nhìn thằng bé lại gần, nó dơ tay ngón tay lên miệng, đầu lắc lia lịa cùng khuôn mặt nhăn nhó, ra hiệu cho An đừng nói.
Phân vân vài giây, An ngẩng lên, đáp:
"À! Cháu đoán thế thôi ạ."
Sau đó, hai vợ chồng thông qua An để trò chuyện với đứa con trai bé tuổi.
Thằng bé có thể nghe lời nói của bố mẹ, nhưng ông bà Luyn chỉ có thể nghe lời truyền đạt của An mỗi khi thằng bé nói gì đó. Con có lạnh không, có đói lắm không, nhớ bố mẹ không, cần đồ chơi gì thì bố mẹ mua cho. Từng câu hỏi của ông bà Luyn, vong hồn đứa trẻ mang hình hài sơ sinh đều đáp lại bằng những câu trả lời tích cực, không có dấu hiệu muốn hại chết người hay mong muốn được cúng máu động vật như trong những câu truyện ma mà An thường nghe trên mạng về những trường hợp nuôi vong nhi. Thỉnh thoảng, cậu nhìn Mai, cô ấy cũng khẳng định thằng bé này không có gì bất thường, nó chỉ là một vong nhi thông thường chứ không hiểm độc...chỉ có điều nó hơi chú ý vào phần mông Mai và cười thành tiếng, nghe có vẻ hơi dê xồm.
Nhưng có một điều mà An thắc mắc nhưng chưa dám hỏi vợ chồng bác Luyn. Đó là mỗi khi nhắc đến đồ chơi hay đồ ăn, thằng bé đều có vẻ mặt hơi đượm buồn hoặc quay mặt nhìn chỗ khác. An không dám hỏi bởi vì chưa thân thiết với người ta, sợ nếu hỏi sẽ thành vô duyên vì có thể đó là một chuyện tế nhị cũng chẳng ngờ được.
Xong xuôi, mọi người xuống dưới nhà tiếp tục uống nước chè mà trò chuyện. An vào thẳng vấn đề, giải thích với hai bác:
"Thật ra là cháu đến Bản Sẳng này để tìm hiểu về hủ tục luyện xác chết, tất nhiên là cái hủ tục này không còn phổ biến như thời chiến nữa, nhưng cháu tin là nó vẫn còn được sử dụng."
An nói đến đây, hai vợ chồng Luyn nhìn nhau bằng cặp mặt lo âu. Cậu nói tiếp:
"Cháu với cô Mai bạn cháu thấy khá là nghi cái khu nhà sàn chỗ ruộng..."
Ông Luyn cắt lời An:
"Không ổn đâu cháu ơi, đừng cố tìm hiểu cái khu của người giàu đấy nữa."
"Người giàu hả bác? Khu nhà sàn đấy toàn người giàu có ạ?" An vô cùng thắc mắc.
Mai cũng bắt đầu chú tâm vào câu chuyện, thay vì cứ đề phòng thằng bé có thể xông đến húc vào mông mình bất cứ lúc nào.
Bà Luyn phụ chồng kể chuyện:
"Cháu ạ, từ cái thời mà hai bác về chung một nhà đến giờ, bao nhiêu vụ mất tích do cái khu nhà sàn đấy rồi, mà cảnh sát vào làng điều tra xong thì cuối cùng cũng kết luận là bị đi lạc vào rừng."
Ông Luyn kể chi tiết:
"Khu đấy là có cả một cái gia phả, sống giàu sang phú quý truyền từ mấy đời kể từ thời Pháp thuộc đến giờ, nhờ vào nghề buôn bán nước mắm, có một lần bác bắt gặp người nhà đấy đưa mấy cục tiền cho bên cảnh sát, còn biếu nước mắm làm quà nữa, cháu hiểu ý bác không?"
An suy luận:
"Tức là người ở khu nhà sàn đấy đút lót cán bộ cảnh sát để không bị truy tố vì mấy vụ mất tích hả bác?"
Bà Luyn đáp:
"Khả năng cao là thế cháu ạ, có vài vụ thì tìm được người mất tích, nhưng mà mấy người được tìm thấy thì...đều thành điên thành rồ hết, mà có người thì về được nhà nhưng mấy hôm sau lại chết không rõ lý do, hoặc là cả gia đình của nạn nhân thì vài hộ chuyển đi sang làng khác chứ không ở lại."
Ông Luyn lại kể về chuyện quá khứ:
"Mà hồi bác còn là thanh niên ấy, hồi đấy nghịch lắm, bác cùng mấy đứa bạn đi rình gái đẹp trong làng, mà lại rình đúng cái khu nhà sàn...con gái trong đấy cũng đẹp nhưng cháu biết sao không?"
"Sao hả bác?" An tròn mắt hỏi.
Ông Luyn nói tiếp bằng giọng hơi run:
"Bác thấy có đứa con gái lạ lắm, cái đêm bác để ý cứ trăng lên càng cao thì da nó càng đẹp, hễ càng về đêm thì mặt nó càng xinh, bác thấy cũng sợ nên chạy về, may là không tán tỉnh gái nhà đấy nên mới với được cô vợ đảm đang này đây."
Bà Luyn véo nhẹ chồng:
"Ông này! Nói quá không."
"Nhưng mà cái vụ con gái khu nhà sàn càng đêm càng xinh là có thật đấy cháu ạ." Song bà Luyn cũng khẳng định câu chuyện mà chồng mình kể.
Mai nghe vậy, tiện thao túng thể tùng quả của hai vợ chồng cho họ nhìn thấy và nghe thấy cô. Ông bà Luyn bất chợt thấy Mai ngồi ghế cạnh An ngay khi cô lên tiếng: "Thế thì thế này". Họ hơi bàng hoàng nhưng vì là bạn của An nên có cảm giá an toàn. Cả nhà chăm chú nghe lời cô ấy sắp nói.
Mai giải thích:
"Bản chất của một cái xác được luyện để hồi sinh là chứa âm khí bên trong, càng hấp thụ được nhiều âm khí từ thiên nhiên, da vẻ bên ngoài sẽ càng đẹp, nhưng đánh đổi lại là nhu cầu về thức ăn càng cao hơn để lấy dinh dưỡng duy trì cho cơ thể không bị phân hủy."
An díu mắt, hỏi:
"Ý cô là cái xác tự đi kiếm ăn à? Thế nó ăn gì?"
Mai dựa theo kinh nghiệm của mình, đáp:
"Có thể là người luyện xác chủ động cho ăn, nhưng đa phần thì xác chết tự đi kiếm ăn, mà...thức ăn chủ yếu là máu."
Bà Luyn lễ phép với Mai vì cô ấy là người đã khuất:
"Dạ, tôi thấy hơi vô lý cô Mai ạ, thức ăn bình thường, gạo nấu chín cũng có chất dinh dưỡng mà."
Mai chống tay lên cằm, vắt chân lên gối. Cô trả lời bằng một câu hỏi:
"Ta hỏi ngươi, nếu không có hệ tuần hoàn, không có máu, thì dinh dưỡng đi khắp cơ thể kiểu gì?"
"Tôi...ừm...xác chết biết đi không tự sản xuất máu như người sống cô ạ?" Bà Luyn hỏi.
"Nhưng mà nó là xác chết mà bác, xác chết sao tự sản xuất máu được hả bác?" An đáp thay.
Mai gật đầu:
"Đúng! Vốn dĩ nó là một cái xác bị nhồi nhét vong hồn vào bên trong, khó có vong hồn nào mà khiến cho xác chết tự tuần hoàn như người thường, đến ta còn chưa chắc làm được."
Cô nhìn ra cửa sổ, nói tiếp:
"Máu vừa chứa dinh dưỡng, vừa giúp cung cấp hệ tuần hoàn cho xác chết, lợi cả đôi nên máu là ưu tiên hàng đầu của bọn Ma Cà Rồng này."
Cô quay nhìn thẳng vào mắt An, như để cảnh báo cho cậu cẩn thận với thứ mà An đang tìm hiểu. Mai nói:
"Một khi xác chết biết đi đã uống máu, nó sẽ trở nên nghiện máu, trở nên hung hăng, nó sẽ truy đuổi con mồi đến lúc giết cho bằng được, để thỏa mãn cơn nghiện."
Lời nói này thực sự khiến An có cảm giác "Chùn chân" Trong hành trình mà cậu đang đi. Cậu hình dung ra cái cảnh bị một xác chết truy đuổi trong đêm tối, giữa cái nơi toàn núi đồi thế này, chạy đi đâu cho thoát? Trốn đi đâu cho yên? An cúi đầu trầm ngâm.
Ông Luyn lên tiếng hỏi một câu đúng thắc mắc mà An định hỏi. Ông hồi hộp hỏi Mai:
"Cô Mai! Bọn xác chết này...có chạy nhanh không? Sức có mạnh không? Hay là...da có như thép không ạ?"
Mai trả lời từng câu hỏi:
"Tốc độ không quan trọng, bởi vì nếu truy đuổi một ai đó, bọn xác sẽ nhảy rất xa thay vì chạy, một bước nhảy của nó có thể đến trên mười mét, nó có thể bật nhảy bằng cách đẩy thật nhiều âm khí ra sau."
"Còn sức thì cũng khá khỏe đấy, nói thế nào nhỉ? Không phải khỏe như siêu nhân, mà là sức lực ngang với một đô vật, có thể nói là sức lực đỉnh cao của loài người."
"Độ cứng của da chắc phải tùy thuộc vào tuổi thọ của xác chết kể từ khi sống lại, tồn tại càng lâu thì da nó càng như lớp giáp đấy."
Nghe Mai nói vậy, An cảm thấy mình đang đối đầu với quái vật, có thể còn nguy hiểm hơn cả đối đầu với một vong hồn. Bởi nếu thật là khu nhà sàn có luyện xác chết, chắc chắn họ đã luyện sẵn một xác từ rất lâu rồi. Mà như Mai nói, tồn tại càng lâu thì da chúng càng cứng, nghe y hệt như mô tả cương thi trong phim của Đài Loan với Trung Quốc.
Đương nhiên một mình cậu chưa đủ trình độ để chạm trán với một "Ma cà rồng", và cũng tất nhiên cậu phải cần sự trợ giúp của Mai. Nhưng vấn đề quyết định rủi ro trong vụ lóe lên trong đầu An. Cậu chậm rãi hỏi Mai, tâm cứ mong sao cô ấy sẽ nói "Không":
"Mai này! Cô...có nghĩ bọn xác chết...đánh được vong hồn không? Kiểu như...chạm được vào các vong hồn như cô ấy."
Nhìn vẻ mắt như sợ điều gì đó của An, Mai nghiêm túc báo một tin buồn:
"Tiếc là...có, như tôi nói ban đầu ấy, bản chất của bọn nó là xác chết chứa âm khí, mà âm khí có thể đấu được với âm khí, chúng nó có thể đánh được cả tôi."
Đó thực sự là một câu trả lời khiến An bàng hoàng nhất. Nếu như vậy, thì chỉ có thể trông chờ vào khả năng ứng biến của Mai để né những đòn đánh của bọn xác chết ấy. Biết rằng cô ấy rất khôn trí, khéo võ, nhưng An luôn ở trong tâm thế sẵn sàng đối đầu với những tình huống xấu nhất mà thường xuyên xảy ra trong cuộc đời của cậu, chúng xảy ra nhiều đến mức An không có quá nhiều hy vọng cho điều tốt đẹp.
Bà Luyn thấy cái cách mà Mai và An nhìn nhau căng thẳng. Bà hỏi:
"Mà cháu với cô Mai định đến khu nhà sàn à?"
Chưa cần biết câu trả lời, ông Luyn lo lắng đưa ra lời khuyên:
"Đừng! Cháu ạ! Đừng! Vào đấy chẳng khác gì thiêu thân lao vào lửa đâu."
An rất muốn nghe theo lời khuyên của bác Luyn. Nhưng để mà nghĩ thật kĩ thì đây là một cơ hội để nâng cao thực lực tâm linh của bản thân. Đồng ý là nó nguy hiểm thật, nhưng chẳng phải cậu cũng từng lao vào nguy hiểm hồi ở Tam Đảo rồi hay sao? Chẳng phải bản thân cậu đã suýt chết mấy lần rồi hay chăng? Lần này, nếu thắng được một "Cương thi" Thì sau này cậu sẽ có được tinh thần để đối đầu với nhiều "Cương thi" hơn thế nữa. Mà đã đối đầu được với bọn chúng, tức là An có thể nâng cao kỹ năng chiến đấu hơn để chiến với những vong hồn mạnh mẽ, có khi...còn có thể ngang sức với Mai cũng chả biết chừng. Suy nghĩ này khiến An cảm nhận được ý trí chiến đấu trong nỗi sợ đang ngập ngừng của cậu.
An cương quyết đáp:
"Cháu phải tìm hiểu, bác ạ, cháu không muốn cứ phải dựa vào bạn cháu mãi."
Vậy là bước đầu của kế hoạch đã xong, tìm một nơi để trú tạm. An từng là sinh viên ở một mình vài năm nên cậu quán xuyến công việc nhà khá tốt, cứ rảnh là An lại quét và lau nhà, phơi quần áo, dọn dẹp nhà vệ sinh, rửa bát thừa, thậm chí là nấu bữa cơm chung với bà Luyn, phụ ông Luyn làm xôi. Có thể nói, An đến đây ở thì gánh nặng công việc của nhà giảm đi rất nhiều. Đến cả vong hồn đứa trẻ con còn phải bất ngờ với sự chăm chỉ của An, điều mà nó hằng mong ước được giúp bố mẹ.
Mai nhìn thằng bé ấy cũng thật sự lành, tính cách hơi dâm dê nhưng lại hiểu chuyện, không nghịch ngợm nên tạm chấp nhận được. Cô để ý rằng nó không biết cách để gián tiếp giúp cho bố mẹ kiếm thêm nhiều tiền hoặc nhiều khách mua xôi, hay người ta còn gọi là "Phù hộ". Đó thật sự phí phạm so với năng lực của một vong nhi, Mai thầm hứa để khi nào có dịp rảnh rỗi thì cô sẽ hướng dẫn vong hồn nhỏ tuổi này biết cách để phù hộ người nhà. Còn bây giờ, cô phải bay đi điều tra thêm về khu nhà sàn, dù thông tin cũng không được bao nhiêu nhưng cũng gọi là có sự cẩn thận trước thì vẫn hơn.
Đương nhiên thì thời gian rảnh ngắn ngủi trong ngày, Mai dành ra một chút âm khí để thao túng thể tùng quả của người qua đường trong thời gian ngắn, khiến họ nghĩ đến xôi. Bởi vậy, kể cả bán xôi ở nhà, ông bà Luyn cũng nhận được số lượng khách hàng mua nhiều hơn thường ngày. Hai vợ chồng hiểu biết kha khá về tâm linh dân gian nên biết rằng vong hồn cô Mai đang phù hộ cho nhà. Bà Luyn còn có lòng thành kính, cúng cho Mai một đĩa xôi đỗ kèm với bát chè bưởi và còn gọi cô ấy là "Thánh cô Mai".
Tạm thời nghỉ ngơi hết ngày hôm nay, cho đến đêm ngày hôm sau là ngày đầu tuần, An và Mai mới bắt đầu hành động.
Vũ khí mà An chuẩn bị là những lá bùa phần dương và bùa bát quái, bùa phần dương sẽ hỗ trợ đẩy triệt tiêu âm khí của những xác chết, còn bùa bát quái giúp hút âm khí của xác chết, từ đó có thể khiến âm khí của vong hồn bị loạn và làm chúng không thể điều khiển được xác chết, đặc biệt khi dán tờ bùa bát quái lên đầu chúng rồi kích hoạt. An phải dán thêm băng dính hai mặt lên mặt sau của những lá bùa ký tự bát quái. Còn nữa, cậu chuẩn bị thêm vài củ tỏi đã được bóc vỏ trong một cái túi nilon, mùi hắc của tỏi sẽ khiến những xác chết khó chịu khi thứ mùi ấy ăn mòn âm khí như hơi độc. Theo như lời Mai khuyên nhủ, An còn xin bà Luyn một túi gạo nếp...điều này là trái với mong muốn của An vì trong gạo nếp có chứa những hạt thần khí, mà bản thân cậu lại không thích phải mượn năng lượng của thần linh. Âu cũng do gạo nếp là một loại gạo gắn liền với người châu Á từ trước cả khi Lý Thanh Mai được sinh ra, bởi sự gắn kết ngàn năm ấy, thứ gạo tinh hoa này được thần linh thuộc Phật giáo ban tặng cho một lời nguyền tốt đẹp rằng bất cứ hạt gạo nếp nào nảy mầm thì đều sẽ chứa hạt thần khí bên trong.
Khoảng 10 giờ, dù Bản Sẳng thời này đã có đèn đường, nhưng cái cảm giác chìm trong bóng tối vẫn vây quanh bởi những dãy núi hai bên. Nhất là những khu ruộng, nguồn sáng duy nhất với được đến ruộng là ánh trăng. An không cầm theo đèn pin, cậu muốn mắt mình quen với bóng tối nhất có thể, dù sao thì những nơi như này không có quá nhiều cây cối che khuất.
Mất tới 15 phút sau, khi mắt đã quen tối, An mới dám tiến vào trong khu ruộng hoang gần đầu làng. Ngoài những dụng cụ hỗ trợ đã kể trên, cậu còn cầm theo một con gà mái và một túi đựng ếch nhái. Máu của hai loài vật này chứa âm khí, đặc biệt là ếch, con vật thích sống ở những nơi ẩm ướt lại càng chứa nhiều âm khí trong máu.
Cả An và Mai nấp sau một tảng đá phía xa, cách khu nhà sàn khoảng 150 mét. Những con gà, ếch nhái được thả giữa ruộng, là một cách nhử bọn xác chết ra đây. Trong đó, An đã thẳng tay chọc chết một con ếch rồi để máu của nó tóe lên người con gà mái. Bởi Mai nói rằng:
"Bọn cương thi thính mùi máu lắm" Cô nói bằng giọng coi thường chúng.
Thái độ của An cũng không quá coi trọng vấn đề này, cậu nghĩ rằng thời đại hiện nay thì thường có rất ít xác chết được luyện. Thế nên có khả năng đêm nay sẽ không gặp được bọn chúng ngay, có lẽ phải qua đêm sau hoặc cả mấy tuần nữa cũng nên. Cậu và Mai lúc đầu thì thận trọng, nhưng trải qua vài tiếng thì dửng dưng ngồi trên hòn tảng đá để ôn lại kiến thức tâm linh cũng như kiến thức về bùa ngải. Xong thì nằm ngắm trăng.
Mai phải công nhận rằng càng xa những khu đô thị, bầu trời càng quang mây. Trăng tháng 10 rất sáng và đẹp, trông hơi khuyết nhưng gợi lại cái thời khi mà bầu trời ở thành phố Hà Nội vẫn quang đãng. Nó chỉ gợi lại chừng đó thôi, vì mức độ ô nhiễm đang lên tới đỉnh điểm nên những nơi bản làng thế này cũng không thoát được, vậy nên Việt Nam gần như không bao giờ thấy được sao trên trời như xưa nữa. Giờ nằm đây ngắm, An mong sao có thời gian ít ỏi nhìn được nền trời đầy sao ấy sau ánh trăng khuyết kia, nhưng sao có cảm giác hơi tuyệt vọng đến vậy? Cậu nhớ bầu trời ấy.
An bỗng bật dậy, cậu dường như nhớ được một khung cảnh nào đó. Thấy vô cùng lạ, An hỏi Mai:
"Ê Mai! Sao tự nhiên tôi nhớ có lần nhìn được một cảnh trời đêm mà không có một chút mây nào che khuất, kiểu như nhìn rõ sao luôn ấy."
Mai vẫn nằm đó, hơi sững người. Cô suy nghĩ, nếu là ký ức còn nhỏ của An thì những năm 2002 đến 2010, bầu trời Việt Nam sạch sẽ thật, nhưng nó không đến mức độ nhìn rõ bầu trời như An miêu tả. Vậy có nghĩa là ký ức này đến từ trước khi An sinh ra, có lẽ nào? Mai cũng bật dậy, hỏi:
"Anh nói thật à? Không đùa đâu đấy."
"Thề!" An dơ tay, quả quyết.
Mai vội nhập vào trong người An, truy quét lại toàn bộ ký ức từ trước khi cậu ấy sinh ra. Và quả đúng như vậy, khung cảnh như lời An miêu tả là ký ức mới nhất mà cậu nhớ lại được. Nó cho thấy một bầu trời không hề có mây vào ban đêm, đầy sao, trăng sáng như một chiếc đèn, thậm chí nhìn được cả sao băng quệt ngang nền trời. Bầu trời này chỉ có thể là thời kỳ phong kiến tự trị xoay quanh những năm 1400 đến 1804. Đúng vậy, đây là ký ức mà An vô tình nhớ được từ kiếp trước.
An hơi rùng mình, cảm nhận được rõ âm khí trong người. Một lúc sau, Mai hiện ra trước mặt An, có vẻ cô ấy đã xem xong ký ức mới của An.
Hai người nhìn nhau, cười thích thú. Mai cười tươi như thiếu nữ mới lớn, nói:
"Cuối cùng cái giác quan thứ sáu của anh cũng giúp anh nhớ được kiếp trước, tác nhân phụ là do anh nhìn thấy cảnh có gợi ức quen, tuy là nó có xác suất nhỏ thôi nhưng phải may lắm mới vô tình nhớ được như vậy đấy."
An nhìn lên cao, đáp:
"Hên vãi...cơ mà hơi ngắn, tôi nhớ được mỗi cái cảnh trời đêm, không đáng kể lắm."
Mai lắc đầu:
"Không! Thế là có tiến triển rồi, trăm phần nhờ cái thể tùng quả của anh."
An gật gù, cười dịu.
Ký ức ngắn ngủi như một tia điện này thật sự là dấu mốc quan trọng trong hành trình tâm linh của cậu. Giờ đây, An càng tò mò hơn rất nhiều lần, cậu thật sự rất muốn cùng Mai khám phá ra ký ức của bản thân cậu.
Còn chưa vui được bao lâu, Mai cảm thấy âm khí quanh đây có gì đó không ổn. Cô dần cảm nhận được một luồng âm khí cứ lớn dần tới mức kinh khủng.
"An! Xác chết!" Mai kêu to.
Cô quay phắt ra sau, đồng thời bay ra sau lưng An để che chắn điều gì đó có thể xông thẳng về phía cậu. Luồng âm khí ấy xuất phát từ đằng sau hai người từ bao giờ. Nó lớn tới mức có thể coi là sát khí. An cũng giật mình, tay phải vội lôi tờ bùa phần dương trong túi ra, tay trái bốc một nắm gạo nếp.
Từ sau một cái cây nhỏ sát chân núi, cách An và Mai 15 mét, một cô gái trong bộ đồ dân tộc. Cô gái nở nụ cười đáng yêu, nhưng lại chứa sát khí, miệng cô ta nói vọng ra:
"Ơ! Bị trai phố phát hiện rồi! Anh định đến bắt vợ hả? Nhưng mà em có phải người H'mông đâu cơ chứ?"
Giọng nói trong trẻo của một đứa gái có thể dễ mến, nhưng nó phát ra trong đêm tối giữa ruộng hoang thì lại mang đầy tính ảo dị, sởn gai ốc.
Không chờ đối phương hành động, Mai lập tức lao tới cô ta với tốc độ cực nhanh. An thấy vậy, có phần nhẹ lòng vì trong tâm thế rằng Mai chắc chắn sẽ hạ được cô ta. Và cậu biết thứ ở đằng kia không phải người thường, cái cảm giác âm khí như sát khí kia không thể nào là người được.
Nhưng trong một giây, An tự trách bản thân rằng đã quá chủ quan. Cậu chứng kiến phía xa, Mai bị hất tung ra rất xa, chỉ bằng một cái hẩy cánh tay của cô ả mặc bộ đồ dân tộc kia.
"Chết!" Là suy nghĩ tiếp theo của An khi cậu xác định phải đối đầu với một xác chết ngay trong đêm nay, ngay bây giờ.
Tay cậu run bần bật, làm rơi vãi vài nhúm gạo nếp xuống bề mặt tảng đá.
-Còn tiếp-
Đang chán nản dưới cái oi bức của mùa hè, An bỗng hơi dựng tóc gáy khi có cảm nhận lạ.
Nếu đi ngoài đường mà cảm nhận được âm khí là một chuyện thường, thế nhưng An đi ngang qua một ngôi nhà, cậu cảm nhận được có âm khí hiện diện một cách rõ rệt trong đó. An quay lên nhìn Mai đang bay cách mình nửa mét, cậu hỏi để xác định:
"Cô cũng thấy lạ đúng không?"
Mai cũng đang cảm nhận như vậy, cô phân vân xem điều này có phải bất thường hay không.
Nếu như thường lệ, một ngôi nhà có thể có âm khí khi người trong nhà cúng bàn thờ để gọi hồn người thân về nhân dịp ăn giỗ, cúng mùng một hay những ngày lễ tết hoặc ngày rằm. Bởi theo như Mai đã tìm hiểu qua nhiều năm tháng, cô biết được rằng quỷ quan dưới âm phủ thường coi bàn thờ của mọi căn nhà như một chiếc điện thoại để người trần gọi xuống âm phủ, xin phép cho người chết là họ hàng hay người thân dùng tấm "Gương nghiệp chướng" Để dịch chuyển về nhà. Mỗi khi người chết về nhà ăn cỗ thì cũng là lúc trong nhà có âm khí hiện diện, nhưng lượng âm khí không quá lớn và chỉ ngụ trong căn nhà ấy trong một thời gian nhất định. Nhưng ở trường hợp căn nhà mà An đang nói đến đây, cô cảm nhận được âm khí cao hơn bình thường và có xu hướng bị dồn nén vào trong một phần của căn nhà, có thể là một căn phòng nào đó chăng?.
Ngôi nhà này nằm ở cuối một lối ngõ to, ngay bên cạnh là những hàng cây che khuất bờ sông chứa nguồn nước sinh hoạt của cả Bản Sẳng này. Tính từ căn nhà, nếu đi theo lối sông hướng lên phía đông - bắc thì sẽ đi được đến cuối bản làng, còn đi về hướng tây – nam sẽ đến được cánh ruộng hoang có khu nhà sàn mà Mai và An đang nghi ngờ. Mai thấy vị trí này thuận tiện cho việc di chuyển.
Vừa ngó xuống để nói cho An biết điều này, Mai đã thấy cậu ấy tiến vào, đứng trước cửa nhà từ bao giờ.
An nhìn quanh không thấy nút chuông, đành gõ cửa mấy lần. Đáp lại cậu là tiếng một người đàn ông khoảng 40 đến 50 tuổi đi ra mở cửa.
"Cháu tìm ai à?" Người đàn ông hỏi với vẻ mặt lạ lùng vì chưa thấy An bao giờ.
An nuốt nước bọt, hồi hộp hỏi:
"Cháu chào bác ạ, bác khỏe không ạ?" Cậu tự cảm thấy hơi kì cục với câu hỏi này.
Người đàn ông đần mặt, tự nhiên có thằng thanh niên vào hỏi thăm sức khỏe thì hơi lạ thật. Bác đáp:
"...À ừ! Bác khỏe, sao thế cháu?"
An gãi đầu, gãi tai. Cậu quay sau nhìn Mai rồi cúi đầu nhìn đất, chần chừ mãi mới nói:
"Cháu người ở xa tới ạ, cháu đi quanh đây không thấy có chỗ nào cho thuê trọ, bác có thể cho cháu trú tạm ở đây được không ạ? Một đêm thôi cũng được ạ?"
Một người phụ nữ cũng tầm tuổi ấy, nghe thấy được liền đi ra đứng cạnh chồng mình. Bác gái lắc đầu:
"Không được đâu cháu ơi, nhà bác trật kín người rồi."
An thất vọng. Nhưng vừa lúc đó, cậu thoáng thấy bóng dáng một đứa bé trai đứng lấp ló sau lưng hai vợ chồng. Với cái cảm nhận âm khí của An về đứa bé này, khỏi cần nói cũng biết đây là một vong nhi. Hình như nó vẫn chưa biết cậu đang nhìn thấy nó.
An quay đầu phía sau nhìn Mai. Cô ấy gật đầu, ra hiệu rằng mình cũng thấy đứa trẻ ấy. Ngay từ đầu cô đã cảm thấy luồng âm khí của nó di chuyển dần từ trên tầng xuống đây.
Lấy đó làm cơ hội, An đứng gần cửa hơn, vẻ mặt thành khẩn, nói:
"Cháu có thể giúp hai bác giao tiếp với con của hai bác."
Hai vợ chồng không tin, bác trai đáp bằng giọng mỉa mai:
"Thằng cháu lại nghe người quanh đây xỉa xói gia đình bác đúng không? Quanh đây ai cũng biết nhà bác nuôi đứa con chết yểu, nhưng có ai tin đâu? Lại còn hay nói xấu với xa lánh nữa."
Bác gái cũng góp lời vợ:
"Thôi cháu ạ, đừng lợi dụng tâm linh xong rồi là nói dối bọn bác, cháu không tin thì bọn bác cũng không trách móc gì đâu, nhưng mà nhà bác không cho ở nhờ được, cháu thông cảm."
An bối rối:
"Ơ! Cháu nói thật mà...cháu nhìn thấy con hai bác thật."
Bác trai xua tay:
"Thôi! Thôi! Cháu tìm nhà khác đi."
Mai nghe qua đã hiểu vấn đề liền. Hai vợ chồng này bị kì thị trong bản làng này vì nuôi vong nhi nhưng không ai tin. Chắc hẳn họ đã bị nhiều người buông lời trêu ghẹo, chọc xoáy vào nỗi đau mất con của họ nên cả hai vợ chồng chẳng còn tin ai có lòng tốt nữa.
Giờ có đi đến đêm cũng chưa chắc tìm được nhà nào cho ở nhờ, Mai đành lộ diện. Cô bắn tia âm khí vào trong đầu hai vợ chồng, thao túng thể tùng quả cho họ có thể nhìn thấy cô, đồng thời nghe thấy giọng cô nói.
Hai vợ chồng đóng cửa lại, rồi bỗng có một cô gái mặc bộ đồ cổ xưa của thời nhà Lý – Trần xuất hiện ngay sau.
Khuôn mặt lạnh tanh, Mai lên tiếng:
"Thanh niên ngoài cửa nói thật đấy, ta là vong đi theo nó, ta đã tận tay khai mở mắt âm dương cho nó, nó nhìn được người chết."
Mai thoắt ẩn thoắt hiện, chớp mắt lại thấy cô đứng bên trái người chồng. Cô nói tiếp:
"Cho nó vào ở nhờ, nó giúp hai ngươi giao tiếp với thằng bé đứng ở kia, chả nhẽ không muốn à?"
Cô chỉ tay về phía góc tường, ở đó, vong hồn đứa trẻ vừa rồi đang sợ sệt lẩn trốn. Hai vợ chồng cứng đờ người, chỉ quay đầu nhìn ra đã thấy con mình đứng co ro trong góc.
Không để mất thời gian, Mai lại dịch chuyển sang phía sau người vợ, đi xuyên qua cả hai vợ chồng. Cô hỏi:
"Có tin không?"
An đang đứng ngoài cửa, buồn bã. Đứng một lúc, cậu quay lưng định bỏ đi, nhưng lại nghe tiếng cánh cửa mở ra, vội quay lại.
An cười mừng, hỏi:
"Hai bác suy nghĩ lại rồi ạ?"
Hai vợ chồng vẻ mặt xanh xao vì vừa mới nhìn thấy người chết, người vợ thì hơi xúc động bởi lâu lắm rồi mới thấy được mặt đứa con của mình dù chỉ trong giây lát.
Sợ là vậy, nhưng bác trai vẫn hỏi lại để xác định xem An có thật sự nhìn thất vong nhi trong nhà mình không:
"Giờ cháu chỉ xem con bác đang đứng chỗ nào trong nhà, để hai bác suy tính xem có nên cho cháu ở nhờ không."
An thản nhiên ngó đầu vào trong nhà, nhìn quanh một hồi. Cậu chỉ tay về phía phòng khách, đáp:
"Nó đang đứng chỗ góc tường, sau bộ bàn ghế bác ạ."
Bác gái không nhịn được, bỏ vào trong phòng khách, ngồi xuống ghế mà khóc một mình. Bác ấy có lẽ quá nhớ con.
Người chồng thờ dài, nói với An:
"Vừa hai bác bị bạn đồng hành của cháu dọa cho một trận, chắc cháu làm bạn với ma hả?"
"À! Hì hì! Cháu nợ cô đấy từ kiếp trước, giờ cháu giúp cô ấy coi như trả nợ." An cười, đáp.
Bác trai nghe vậy, đáp:
"Đúng là lưới trời lồng lộng, có nợ thì kiểu gì cũng phải trả, à mà cứ gọi bác với vợ bác là vợ chồng nhà Luyn nhé, tại bác tên Luyn nên vợ bác cũng được gọi là Luyn."
An cũng giới thiệu lại:
"Dạ cháu tên An, ơ thế có nghĩa là cháu được cho ở nhờ rồi hả bác?"
"Thì giới thiệu là cho rồi, hỏi lắm, vào trong uống nước, cháu." Ông Luyn vừa cười vừa gắt nhẹ.
Mai bây giờ đã rút lại chiêu thức gây ảo giác, vợ chồng Luyn không thể thấy cô nữa. Cô theo An và cặp vợ chồng vào trong phòng khách.
Vừa đặt chân vào gần bộ bàn ghế, Mai đã cảm thấy có gì đó quệt qua...mông...mình. Cô quay qua thì đó lại là vong hồn đứa trẻ lúc nãy. Nó thấy bố mẹ mình chào đón khách vào nên không còn sợ hãi, đâm ra trêu đùa Mai một cách vô tư...mà có phần hơi biến thái.
An vào nói chuyện xã giao một lúc cho biết thêm thông tin. Ông bà Luyn trước kia làm nghề nông trồng trọt ruộng lúa, giờ thì bán xôi ở chợ. Còn nói về vấn đề kì thị thì gần như cả Bản Sẳng này xa lánh hai vợ chồng chỉ bởi vì họ nuôi vong nhi, phần vị họ sợ tâm linh, nhưng đa số là họ cho rằng ông bà Luyn mê tín dị đoan.
An khuyên hai bác:
"Nếu là cháu thì cháu không nói cho ai biết về việc nuôi người âm, trừ khi họ tin vào tâm linh, bởi vì càng khoe thì họ càng xem mình như người lập dị."
Bà Luyn đồng tình:
"Cháu nói cũng phải, hồi trước hai bác có cái sai là hay ép người khác phải tin là con bác chưa siêu thoát, người ta ghét, người ta lại mang tin đồn kể ra, rồi chuyện cứ truyền qua miệng người khác thì thành ra bị nói quá lên."
Ông Luyn kể:
"Còn có vài ông bà ngoài chợ nói là nhà bác nuôi vong để hại người, đấy cháu thấy đấy, chuyện qua miệng người khác nó thành vấn đề khác rồi, nhà bác mà hại người thì giờ không yên phận mà buôn bán hàng xôi như thế."
An gật đầu:
"Vâng! Miệng thiên hạ cay độc lắm bác ạ."
Bà Luyn nóng lòng muốn nói chuyện với con, bà giục nhẹ An:
"Thế cháu thử hỏi con bác xem nó có cần gì không đi?"
"À vâng!" An sực nhớ, liền quay ra nhìn góc tường.
An ngó nghiêng, thắc mắc:
"Ô! Đâu rồi nhỉ? Cháu vừa thấy em nó ở đây mà."
Mai lên tiếng:
"Nó lên phòng rồi, vừa cứ bám vào mông tôi, đúng là vong nhi gan to."
An phì cười, nói với vợ chồng Luyn:
"Con hai bác nghịch thật, cứ trêu cô Mai bạn cháu, giờ em nó lên phòng rồi bác ạ."
Rồi mọi người cùng lên trên tầng hai.
An vừa đặt chân lên cuối bậc thang đã nhìn về phía căn phòng phía cuối gian, cậu cảm thấy có âm khí trong đó. An liền hỏi:
"Phòng kia đúng không hai bác?"
Cả hai vợ chồng bất ngờ:
"Đúng rồi, ở đấy cháu ạ."
"Kinh thật! Chưa ai nói mà cháu đã biết rồi."
An lại cười ngại, đáp:
"Thì cháu nhìn thấy vong, cũng cảm nhận được âm khí luôn mà."
Cánh cửa từ từ mở ra, đó là một căn phòng dành cho trẻ nhỏ. Vì nhà không có điều kiện nên phòng khá nhỏ, hai vợ chồng không sắm được nhiều đồ cho con. Phòng chỉ có một giường, vài con gấu và đặc biệt là chiếc bàn thờ nhỏ khoảng một mét rưỡi, thuộc dạng bàn thờ bệt sát đất. Tường phòng không có gì đặc biệt, chỉ là tường đá quét vôi trắng như bao nhà khác. Thêm cả một bóng đèn đấu dây điện vào công tắc là tất cả những gì có trong căn phòng.
Trên bàn thờ chỉ có bát hương, một bình hoa Chấm Bi trắng, một chiếc đèn dầu cổ và một đĩa bánh kẹo. An thấy ngay hình hải một đứa trẻ ngồi cạnh bàn thờ, đang ăn cái gì đó rất ngon mà cậu không thể nhìn thấy, có lẽ là bánh kẹo.
Cậu nghiêng đầu, nói:
"Em nó đang ăn bánh kẹo, hai bác ạ."
Hai vợ chồng cười dịu, hình dung ra đứa trẻ bé bỏng ngồi khoanh chân giữa phòng mà ăn kẹo.
Vừa thấy Mai ở ngoài, nó chỉ tay, nói mà An cũng nghe thấy:
"Cô mông to."
An cố kìm cơn buồn cười, ngoái ra sau nhìn Mai. Cô ấy cúi đầu, xoa mặt như đang bực mà không muốn dùng bạo lực vì không chấp trẻ con.
An tiến lại gần đứa trẻ, nó thì cứ ngây mặt nhìn An, miệng vẫn nhai nhồm nhoàm. Cậu ngồi xuống trước mặt nó, hỏi:
"Bố mẹ em muốn hỏi em có muốn gì không, có ăn uống hay cần đồ chơi gì không?"
Khuôn mặt đang ngây thơ, thằng bé bỗng buồn bã nhìn đĩa bánh kẹo. Nó lắc đầu:
"Em không cần gì nữa đâu."
Không cần gì nhưng với vẻ mặt buồn rười rượi kia là sao? An thắc mắc nhưng không đáp lại. Cậu quay ra nói với hai vợ chồng bác Luyn:
"Nó nói không cần gì, nhưng cháu thấy em nó vẫn muốn ăn bánh kẹo thì phải, để cháu chạy ra mua túi kẹo khác cho ạ."
"Ơ..." Vong hồn thằng bé bối rối.
Ông Luyn cản An lại:
"Thôi, để bác mua cho, với lại nó nói nó không cần gì mà, sao cháu biết em nó muốn ăn bánh kẹo?"
"Dạ nó..." An toan nói.
Nhưng cậu nhìn thằng bé lại gần, nó dơ tay ngón tay lên miệng, đầu lắc lia lịa cùng khuôn mặt nhăn nhó, ra hiệu cho An đừng nói.
Phân vân vài giây, An ngẩng lên, đáp:
"À! Cháu đoán thế thôi ạ."
Sau đó, hai vợ chồng thông qua An để trò chuyện với đứa con trai bé tuổi.
Thằng bé có thể nghe lời nói của bố mẹ, nhưng ông bà Luyn chỉ có thể nghe lời truyền đạt của An mỗi khi thằng bé nói gì đó. Con có lạnh không, có đói lắm không, nhớ bố mẹ không, cần đồ chơi gì thì bố mẹ mua cho. Từng câu hỏi của ông bà Luyn, vong hồn đứa trẻ mang hình hài sơ sinh đều đáp lại bằng những câu trả lời tích cực, không có dấu hiệu muốn hại chết người hay mong muốn được cúng máu động vật như trong những câu truyện ma mà An thường nghe trên mạng về những trường hợp nuôi vong nhi. Thỉnh thoảng, cậu nhìn Mai, cô ấy cũng khẳng định thằng bé này không có gì bất thường, nó chỉ là một vong nhi thông thường chứ không hiểm độc...chỉ có điều nó hơi chú ý vào phần mông Mai và cười thành tiếng, nghe có vẻ hơi dê xồm.
Nhưng có một điều mà An thắc mắc nhưng chưa dám hỏi vợ chồng bác Luyn. Đó là mỗi khi nhắc đến đồ chơi hay đồ ăn, thằng bé đều có vẻ mặt hơi đượm buồn hoặc quay mặt nhìn chỗ khác. An không dám hỏi bởi vì chưa thân thiết với người ta, sợ nếu hỏi sẽ thành vô duyên vì có thể đó là một chuyện tế nhị cũng chẳng ngờ được.
Xong xuôi, mọi người xuống dưới nhà tiếp tục uống nước chè mà trò chuyện. An vào thẳng vấn đề, giải thích với hai bác:
"Thật ra là cháu đến Bản Sẳng này để tìm hiểu về hủ tục luyện xác chết, tất nhiên là cái hủ tục này không còn phổ biến như thời chiến nữa, nhưng cháu tin là nó vẫn còn được sử dụng."
An nói đến đây, hai vợ chồng Luyn nhìn nhau bằng cặp mặt lo âu. Cậu nói tiếp:
"Cháu với cô Mai bạn cháu thấy khá là nghi cái khu nhà sàn chỗ ruộng..."
Ông Luyn cắt lời An:
"Không ổn đâu cháu ơi, đừng cố tìm hiểu cái khu của người giàu đấy nữa."
"Người giàu hả bác? Khu nhà sàn đấy toàn người giàu có ạ?" An vô cùng thắc mắc.
Mai cũng bắt đầu chú tâm vào câu chuyện, thay vì cứ đề phòng thằng bé có thể xông đến húc vào mông mình bất cứ lúc nào.
Bà Luyn phụ chồng kể chuyện:
"Cháu ạ, từ cái thời mà hai bác về chung một nhà đến giờ, bao nhiêu vụ mất tích do cái khu nhà sàn đấy rồi, mà cảnh sát vào làng điều tra xong thì cuối cùng cũng kết luận là bị đi lạc vào rừng."
Ông Luyn kể chi tiết:
"Khu đấy là có cả một cái gia phả, sống giàu sang phú quý truyền từ mấy đời kể từ thời Pháp thuộc đến giờ, nhờ vào nghề buôn bán nước mắm, có một lần bác bắt gặp người nhà đấy đưa mấy cục tiền cho bên cảnh sát, còn biếu nước mắm làm quà nữa, cháu hiểu ý bác không?"
An suy luận:
"Tức là người ở khu nhà sàn đấy đút lót cán bộ cảnh sát để không bị truy tố vì mấy vụ mất tích hả bác?"
Bà Luyn đáp:
"Khả năng cao là thế cháu ạ, có vài vụ thì tìm được người mất tích, nhưng mà mấy người được tìm thấy thì...đều thành điên thành rồ hết, mà có người thì về được nhà nhưng mấy hôm sau lại chết không rõ lý do, hoặc là cả gia đình của nạn nhân thì vài hộ chuyển đi sang làng khác chứ không ở lại."
Ông Luyn lại kể về chuyện quá khứ:
"Mà hồi bác còn là thanh niên ấy, hồi đấy nghịch lắm, bác cùng mấy đứa bạn đi rình gái đẹp trong làng, mà lại rình đúng cái khu nhà sàn...con gái trong đấy cũng đẹp nhưng cháu biết sao không?"
"Sao hả bác?" An tròn mắt hỏi.
Ông Luyn nói tiếp bằng giọng hơi run:
"Bác thấy có đứa con gái lạ lắm, cái đêm bác để ý cứ trăng lên càng cao thì da nó càng đẹp, hễ càng về đêm thì mặt nó càng xinh, bác thấy cũng sợ nên chạy về, may là không tán tỉnh gái nhà đấy nên mới với được cô vợ đảm đang này đây."
Bà Luyn véo nhẹ chồng:
"Ông này! Nói quá không."
"Nhưng mà cái vụ con gái khu nhà sàn càng đêm càng xinh là có thật đấy cháu ạ." Song bà Luyn cũng khẳng định câu chuyện mà chồng mình kể.
Mai nghe vậy, tiện thao túng thể tùng quả của hai vợ chồng cho họ nhìn thấy và nghe thấy cô. Ông bà Luyn bất chợt thấy Mai ngồi ghế cạnh An ngay khi cô lên tiếng: "Thế thì thế này". Họ hơi bàng hoàng nhưng vì là bạn của An nên có cảm giá an toàn. Cả nhà chăm chú nghe lời cô ấy sắp nói.
Mai giải thích:
"Bản chất của một cái xác được luyện để hồi sinh là chứa âm khí bên trong, càng hấp thụ được nhiều âm khí từ thiên nhiên, da vẻ bên ngoài sẽ càng đẹp, nhưng đánh đổi lại là nhu cầu về thức ăn càng cao hơn để lấy dinh dưỡng duy trì cho cơ thể không bị phân hủy."
An díu mắt, hỏi:
"Ý cô là cái xác tự đi kiếm ăn à? Thế nó ăn gì?"
Mai dựa theo kinh nghiệm của mình, đáp:
"Có thể là người luyện xác chủ động cho ăn, nhưng đa phần thì xác chết tự đi kiếm ăn, mà...thức ăn chủ yếu là máu."
Bà Luyn lễ phép với Mai vì cô ấy là người đã khuất:
"Dạ, tôi thấy hơi vô lý cô Mai ạ, thức ăn bình thường, gạo nấu chín cũng có chất dinh dưỡng mà."
Mai chống tay lên cằm, vắt chân lên gối. Cô trả lời bằng một câu hỏi:
"Ta hỏi ngươi, nếu không có hệ tuần hoàn, không có máu, thì dinh dưỡng đi khắp cơ thể kiểu gì?"
"Tôi...ừm...xác chết biết đi không tự sản xuất máu như người sống cô ạ?" Bà Luyn hỏi.
"Nhưng mà nó là xác chết mà bác, xác chết sao tự sản xuất máu được hả bác?" An đáp thay.
Mai gật đầu:
"Đúng! Vốn dĩ nó là một cái xác bị nhồi nhét vong hồn vào bên trong, khó có vong hồn nào mà khiến cho xác chết tự tuần hoàn như người thường, đến ta còn chưa chắc làm được."
Cô nhìn ra cửa sổ, nói tiếp:
"Máu vừa chứa dinh dưỡng, vừa giúp cung cấp hệ tuần hoàn cho xác chết, lợi cả đôi nên máu là ưu tiên hàng đầu của bọn Ma Cà Rồng này."
Cô quay nhìn thẳng vào mắt An, như để cảnh báo cho cậu cẩn thận với thứ mà An đang tìm hiểu. Mai nói:
"Một khi xác chết biết đi đã uống máu, nó sẽ trở nên nghiện máu, trở nên hung hăng, nó sẽ truy đuổi con mồi đến lúc giết cho bằng được, để thỏa mãn cơn nghiện."
Lời nói này thực sự khiến An có cảm giác "Chùn chân" Trong hành trình mà cậu đang đi. Cậu hình dung ra cái cảnh bị một xác chết truy đuổi trong đêm tối, giữa cái nơi toàn núi đồi thế này, chạy đi đâu cho thoát? Trốn đi đâu cho yên? An cúi đầu trầm ngâm.
Ông Luyn lên tiếng hỏi một câu đúng thắc mắc mà An định hỏi. Ông hồi hộp hỏi Mai:
"Cô Mai! Bọn xác chết này...có chạy nhanh không? Sức có mạnh không? Hay là...da có như thép không ạ?"
Mai trả lời từng câu hỏi:
"Tốc độ không quan trọng, bởi vì nếu truy đuổi một ai đó, bọn xác sẽ nhảy rất xa thay vì chạy, một bước nhảy của nó có thể đến trên mười mét, nó có thể bật nhảy bằng cách đẩy thật nhiều âm khí ra sau."
"Còn sức thì cũng khá khỏe đấy, nói thế nào nhỉ? Không phải khỏe như siêu nhân, mà là sức lực ngang với một đô vật, có thể nói là sức lực đỉnh cao của loài người."
"Độ cứng của da chắc phải tùy thuộc vào tuổi thọ của xác chết kể từ khi sống lại, tồn tại càng lâu thì da nó càng như lớp giáp đấy."
Nghe Mai nói vậy, An cảm thấy mình đang đối đầu với quái vật, có thể còn nguy hiểm hơn cả đối đầu với một vong hồn. Bởi nếu thật là khu nhà sàn có luyện xác chết, chắc chắn họ đã luyện sẵn một xác từ rất lâu rồi. Mà như Mai nói, tồn tại càng lâu thì da chúng càng cứng, nghe y hệt như mô tả cương thi trong phim của Đài Loan với Trung Quốc.
Đương nhiên một mình cậu chưa đủ trình độ để chạm trán với một "Ma cà rồng", và cũng tất nhiên cậu phải cần sự trợ giúp của Mai. Nhưng vấn đề quyết định rủi ro trong vụ lóe lên trong đầu An. Cậu chậm rãi hỏi Mai, tâm cứ mong sao cô ấy sẽ nói "Không":
"Mai này! Cô...có nghĩ bọn xác chết...đánh được vong hồn không? Kiểu như...chạm được vào các vong hồn như cô ấy."
Nhìn vẻ mắt như sợ điều gì đó của An, Mai nghiêm túc báo một tin buồn:
"Tiếc là...có, như tôi nói ban đầu ấy, bản chất của bọn nó là xác chết chứa âm khí, mà âm khí có thể đấu được với âm khí, chúng nó có thể đánh được cả tôi."
Đó thực sự là một câu trả lời khiến An bàng hoàng nhất. Nếu như vậy, thì chỉ có thể trông chờ vào khả năng ứng biến của Mai để né những đòn đánh của bọn xác chết ấy. Biết rằng cô ấy rất khôn trí, khéo võ, nhưng An luôn ở trong tâm thế sẵn sàng đối đầu với những tình huống xấu nhất mà thường xuyên xảy ra trong cuộc đời của cậu, chúng xảy ra nhiều đến mức An không có quá nhiều hy vọng cho điều tốt đẹp.
Bà Luyn thấy cái cách mà Mai và An nhìn nhau căng thẳng. Bà hỏi:
"Mà cháu với cô Mai định đến khu nhà sàn à?"
Chưa cần biết câu trả lời, ông Luyn lo lắng đưa ra lời khuyên:
"Đừng! Cháu ạ! Đừng! Vào đấy chẳng khác gì thiêu thân lao vào lửa đâu."
An rất muốn nghe theo lời khuyên của bác Luyn. Nhưng để mà nghĩ thật kĩ thì đây là một cơ hội để nâng cao thực lực tâm linh của bản thân. Đồng ý là nó nguy hiểm thật, nhưng chẳng phải cậu cũng từng lao vào nguy hiểm hồi ở Tam Đảo rồi hay sao? Chẳng phải bản thân cậu đã suýt chết mấy lần rồi hay chăng? Lần này, nếu thắng được một "Cương thi" Thì sau này cậu sẽ có được tinh thần để đối đầu với nhiều "Cương thi" hơn thế nữa. Mà đã đối đầu được với bọn chúng, tức là An có thể nâng cao kỹ năng chiến đấu hơn để chiến với những vong hồn mạnh mẽ, có khi...còn có thể ngang sức với Mai cũng chả biết chừng. Suy nghĩ này khiến An cảm nhận được ý trí chiến đấu trong nỗi sợ đang ngập ngừng của cậu.
An cương quyết đáp:
"Cháu phải tìm hiểu, bác ạ, cháu không muốn cứ phải dựa vào bạn cháu mãi."
Vậy là bước đầu của kế hoạch đã xong, tìm một nơi để trú tạm. An từng là sinh viên ở một mình vài năm nên cậu quán xuyến công việc nhà khá tốt, cứ rảnh là An lại quét và lau nhà, phơi quần áo, dọn dẹp nhà vệ sinh, rửa bát thừa, thậm chí là nấu bữa cơm chung với bà Luyn, phụ ông Luyn làm xôi. Có thể nói, An đến đây ở thì gánh nặng công việc của nhà giảm đi rất nhiều. Đến cả vong hồn đứa trẻ con còn phải bất ngờ với sự chăm chỉ của An, điều mà nó hằng mong ước được giúp bố mẹ.
Mai nhìn thằng bé ấy cũng thật sự lành, tính cách hơi dâm dê nhưng lại hiểu chuyện, không nghịch ngợm nên tạm chấp nhận được. Cô để ý rằng nó không biết cách để gián tiếp giúp cho bố mẹ kiếm thêm nhiều tiền hoặc nhiều khách mua xôi, hay người ta còn gọi là "Phù hộ". Đó thật sự phí phạm so với năng lực của một vong nhi, Mai thầm hứa để khi nào có dịp rảnh rỗi thì cô sẽ hướng dẫn vong hồn nhỏ tuổi này biết cách để phù hộ người nhà. Còn bây giờ, cô phải bay đi điều tra thêm về khu nhà sàn, dù thông tin cũng không được bao nhiêu nhưng cũng gọi là có sự cẩn thận trước thì vẫn hơn.
Đương nhiên thì thời gian rảnh ngắn ngủi trong ngày, Mai dành ra một chút âm khí để thao túng thể tùng quả của người qua đường trong thời gian ngắn, khiến họ nghĩ đến xôi. Bởi vậy, kể cả bán xôi ở nhà, ông bà Luyn cũng nhận được số lượng khách hàng mua nhiều hơn thường ngày. Hai vợ chồng hiểu biết kha khá về tâm linh dân gian nên biết rằng vong hồn cô Mai đang phù hộ cho nhà. Bà Luyn còn có lòng thành kính, cúng cho Mai một đĩa xôi đỗ kèm với bát chè bưởi và còn gọi cô ấy là "Thánh cô Mai".
Tạm thời nghỉ ngơi hết ngày hôm nay, cho đến đêm ngày hôm sau là ngày đầu tuần, An và Mai mới bắt đầu hành động.
Vũ khí mà An chuẩn bị là những lá bùa phần dương và bùa bát quái, bùa phần dương sẽ hỗ trợ đẩy triệt tiêu âm khí của những xác chết, còn bùa bát quái giúp hút âm khí của xác chết, từ đó có thể khiến âm khí của vong hồn bị loạn và làm chúng không thể điều khiển được xác chết, đặc biệt khi dán tờ bùa bát quái lên đầu chúng rồi kích hoạt. An phải dán thêm băng dính hai mặt lên mặt sau của những lá bùa ký tự bát quái. Còn nữa, cậu chuẩn bị thêm vài củ tỏi đã được bóc vỏ trong một cái túi nilon, mùi hắc của tỏi sẽ khiến những xác chết khó chịu khi thứ mùi ấy ăn mòn âm khí như hơi độc. Theo như lời Mai khuyên nhủ, An còn xin bà Luyn một túi gạo nếp...điều này là trái với mong muốn của An vì trong gạo nếp có chứa những hạt thần khí, mà bản thân cậu lại không thích phải mượn năng lượng của thần linh. Âu cũng do gạo nếp là một loại gạo gắn liền với người châu Á từ trước cả khi Lý Thanh Mai được sinh ra, bởi sự gắn kết ngàn năm ấy, thứ gạo tinh hoa này được thần linh thuộc Phật giáo ban tặng cho một lời nguyền tốt đẹp rằng bất cứ hạt gạo nếp nào nảy mầm thì đều sẽ chứa hạt thần khí bên trong.
Khoảng 10 giờ, dù Bản Sẳng thời này đã có đèn đường, nhưng cái cảm giác chìm trong bóng tối vẫn vây quanh bởi những dãy núi hai bên. Nhất là những khu ruộng, nguồn sáng duy nhất với được đến ruộng là ánh trăng. An không cầm theo đèn pin, cậu muốn mắt mình quen với bóng tối nhất có thể, dù sao thì những nơi như này không có quá nhiều cây cối che khuất.
Mất tới 15 phút sau, khi mắt đã quen tối, An mới dám tiến vào trong khu ruộng hoang gần đầu làng. Ngoài những dụng cụ hỗ trợ đã kể trên, cậu còn cầm theo một con gà mái và một túi đựng ếch nhái. Máu của hai loài vật này chứa âm khí, đặc biệt là ếch, con vật thích sống ở những nơi ẩm ướt lại càng chứa nhiều âm khí trong máu.
Cả An và Mai nấp sau một tảng đá phía xa, cách khu nhà sàn khoảng 150 mét. Những con gà, ếch nhái được thả giữa ruộng, là một cách nhử bọn xác chết ra đây. Trong đó, An đã thẳng tay chọc chết một con ếch rồi để máu của nó tóe lên người con gà mái. Bởi Mai nói rằng:
"Bọn cương thi thính mùi máu lắm" Cô nói bằng giọng coi thường chúng.
Thái độ của An cũng không quá coi trọng vấn đề này, cậu nghĩ rằng thời đại hiện nay thì thường có rất ít xác chết được luyện. Thế nên có khả năng đêm nay sẽ không gặp được bọn chúng ngay, có lẽ phải qua đêm sau hoặc cả mấy tuần nữa cũng nên. Cậu và Mai lúc đầu thì thận trọng, nhưng trải qua vài tiếng thì dửng dưng ngồi trên hòn tảng đá để ôn lại kiến thức tâm linh cũng như kiến thức về bùa ngải. Xong thì nằm ngắm trăng.
Mai phải công nhận rằng càng xa những khu đô thị, bầu trời càng quang mây. Trăng tháng 10 rất sáng và đẹp, trông hơi khuyết nhưng gợi lại cái thời khi mà bầu trời ở thành phố Hà Nội vẫn quang đãng. Nó chỉ gợi lại chừng đó thôi, vì mức độ ô nhiễm đang lên tới đỉnh điểm nên những nơi bản làng thế này cũng không thoát được, vậy nên Việt Nam gần như không bao giờ thấy được sao trên trời như xưa nữa. Giờ nằm đây ngắm, An mong sao có thời gian ít ỏi nhìn được nền trời đầy sao ấy sau ánh trăng khuyết kia, nhưng sao có cảm giác hơi tuyệt vọng đến vậy? Cậu nhớ bầu trời ấy.
An bỗng bật dậy, cậu dường như nhớ được một khung cảnh nào đó. Thấy vô cùng lạ, An hỏi Mai:
"Ê Mai! Sao tự nhiên tôi nhớ có lần nhìn được một cảnh trời đêm mà không có một chút mây nào che khuất, kiểu như nhìn rõ sao luôn ấy."
Mai vẫn nằm đó, hơi sững người. Cô suy nghĩ, nếu là ký ức còn nhỏ của An thì những năm 2002 đến 2010, bầu trời Việt Nam sạch sẽ thật, nhưng nó không đến mức độ nhìn rõ bầu trời như An miêu tả. Vậy có nghĩa là ký ức này đến từ trước khi An sinh ra, có lẽ nào? Mai cũng bật dậy, hỏi:
"Anh nói thật à? Không đùa đâu đấy."
"Thề!" An dơ tay, quả quyết.
Mai vội nhập vào trong người An, truy quét lại toàn bộ ký ức từ trước khi cậu ấy sinh ra. Và quả đúng như vậy, khung cảnh như lời An miêu tả là ký ức mới nhất mà cậu nhớ lại được. Nó cho thấy một bầu trời không hề có mây vào ban đêm, đầy sao, trăng sáng như một chiếc đèn, thậm chí nhìn được cả sao băng quệt ngang nền trời. Bầu trời này chỉ có thể là thời kỳ phong kiến tự trị xoay quanh những năm 1400 đến 1804. Đúng vậy, đây là ký ức mà An vô tình nhớ được từ kiếp trước.
An hơi rùng mình, cảm nhận được rõ âm khí trong người. Một lúc sau, Mai hiện ra trước mặt An, có vẻ cô ấy đã xem xong ký ức mới của An.
Hai người nhìn nhau, cười thích thú. Mai cười tươi như thiếu nữ mới lớn, nói:
"Cuối cùng cái giác quan thứ sáu của anh cũng giúp anh nhớ được kiếp trước, tác nhân phụ là do anh nhìn thấy cảnh có gợi ức quen, tuy là nó có xác suất nhỏ thôi nhưng phải may lắm mới vô tình nhớ được như vậy đấy."
An nhìn lên cao, đáp:
"Hên vãi...cơ mà hơi ngắn, tôi nhớ được mỗi cái cảnh trời đêm, không đáng kể lắm."
Mai lắc đầu:
"Không! Thế là có tiến triển rồi, trăm phần nhờ cái thể tùng quả của anh."
An gật gù, cười dịu.
Ký ức ngắn ngủi như một tia điện này thật sự là dấu mốc quan trọng trong hành trình tâm linh của cậu. Giờ đây, An càng tò mò hơn rất nhiều lần, cậu thật sự rất muốn cùng Mai khám phá ra ký ức của bản thân cậu.
Còn chưa vui được bao lâu, Mai cảm thấy âm khí quanh đây có gì đó không ổn. Cô dần cảm nhận được một luồng âm khí cứ lớn dần tới mức kinh khủng.
"An! Xác chết!" Mai kêu to.
Cô quay phắt ra sau, đồng thời bay ra sau lưng An để che chắn điều gì đó có thể xông thẳng về phía cậu. Luồng âm khí ấy xuất phát từ đằng sau hai người từ bao giờ. Nó lớn tới mức có thể coi là sát khí. An cũng giật mình, tay phải vội lôi tờ bùa phần dương trong túi ra, tay trái bốc một nắm gạo nếp.
Từ sau một cái cây nhỏ sát chân núi, cách An và Mai 15 mét, một cô gái trong bộ đồ dân tộc. Cô gái nở nụ cười đáng yêu, nhưng lại chứa sát khí, miệng cô ta nói vọng ra:
"Ơ! Bị trai phố phát hiện rồi! Anh định đến bắt vợ hả? Nhưng mà em có phải người H'mông đâu cơ chứ?"
Giọng nói trong trẻo của một đứa gái có thể dễ mến, nhưng nó phát ra trong đêm tối giữa ruộng hoang thì lại mang đầy tính ảo dị, sởn gai ốc.
Không chờ đối phương hành động, Mai lập tức lao tới cô ta với tốc độ cực nhanh. An thấy vậy, có phần nhẹ lòng vì trong tâm thế rằng Mai chắc chắn sẽ hạ được cô ta. Và cậu biết thứ ở đằng kia không phải người thường, cái cảm giác âm khí như sát khí kia không thể nào là người được.
Nhưng trong một giây, An tự trách bản thân rằng đã quá chủ quan. Cậu chứng kiến phía xa, Mai bị hất tung ra rất xa, chỉ bằng một cái hẩy cánh tay của cô ả mặc bộ đồ dân tộc kia.
"Chết!" Là suy nghĩ tiếp theo của An khi cậu xác định phải đối đầu với một xác chết ngay trong đêm nay, ngay bây giờ.
Tay cậu run bần bật, làm rơi vãi vài nhúm gạo nếp xuống bề mặt tảng đá.
-Còn tiếp-
Chỉnh sửa cuối: