Đắc Nhân Tâm Thuật ứng xử và thu phục lòng người - Chiêm Trúc

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi chiqudoll, 11 Tháng hai 2022.

  1. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    ĐAU KHỔ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Con người vốn cam chịu mọi thứ áp đặt của thiên nhiên và của con người. Một đứa bé vừa mới sinh ra đời cũng đã có sự tranh đấu gay go, tranh đấu để biết lật, biết ngồi, biết bò, biết đứng, biết đi, biết nói.. tranh đấu để thoát khỏi mọi chứng bệnh tật, tranh đấu mãi mãi để cho hòa hợp với cộng đồng loài người.

    Mọi tôn giáo, mọi triết thuyết, mọi vĩ nhân đều nói: "Con người sinh ra là để chịu những đau khổ."

    Điều ấy hiển nhiên như một công lý, như một định đề. Nhiều người im lặng mà chấp nhận, bởi vì có nói cũng bằng thừa! Nhưng.. cái đau khổ ấy mới là ý nghĩa của cuộc sống.

    Một đời hoạt động như Césa, Alexandre, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon.. họ không có tiếng rên siết, nhưng nỗi đau đã ẩn ước trong mỗi cử chỉ, trong cách nhìn, trong cách suy nghĩ, cách lo toan.

    Đồng tiền của Césa đúc ra không được người Israel thừa nhận. Quân đội của Alexandre đến phía Tây Ấn Độ gặp sự kháng cự mãnh liệt và sự biến động ở quê nhà đành phải rút về.

    Thành Cát Tư Hãn lúc còn trẻ bị các bộ lạc khác áp chế, người yêu bị cướp đoạt. Hoàng hậu Joséphine đã phản bội Napoléon dẫn đến cuộc thất bại liên tục, cuối cùng sống lưu vong cơ khổ trên đảo Sainte Héleine..

    Những con người có sức vá trời lấp biển càng gặp nhiều trở ngại và càng thấm thía. Sự đau khổ đeo đẳng con người như bóng với hình.

    Nhưng.. chả lý chúng ta khoanh tay bó gối để chấp nhận sự đau khổ giày vò? Chúng ta phải cố gắng vươn vượt.

    "Đời là một trường tranh đấu."

    "Chiến đấu không gian nan thành công không vinh quang."

    Từ người bình dân cho đến những vị quyền quý cao sang cũng đều phải đem hết tâm lực của mình ra để chiến đấu với nghịch cảnh.

    Sự đau khổ đối với tâm hồn mẫn cảm nó có một thú riêng, bởi vì họ đã đạt đến một nghệ thuật sống cao siêu, họ tuy quằn quại nhưng không rên siết, tuy xót xa bức xúc nhưng không chạy trốn.

    Chạy đâu và trốn đâu, trong khi đau khổ là nỗi tràm thống ở nội tâm?

    Họ đau khổ là nhận thấy kiếp nhân sinh có nhiều "trái tai gai mắt", có nhiều điều phiền ý.

    Có thể họ đau khổ vì tình yêu, đau đớn vì một cuộc nội chiến, đau xót vì thấy nhiều gia đình thiếu ăn thiếu mặc, đau thương vì thấy một xã hội bất công..

    Chúng ta là những người hẹp hòi hơn nhưng cũng vướng mắc những đau khổ bất thường: Trong gia đình có một đứa con hư hỏng, cảnh nhà sa sút khó khăn, có một số nợ không trả được đang bị người ta nhiếc móc, con cái học không đến nơi đến chốn, bệnh tật.. Vô số việc bất như ý.

    Nhà Phật gọi đau khổ là phiền não, sự ngu tối là vô minh, những gì thuộc bất hạnh tội lỗi là địa ngục. Nhà Phật chủ trương dùng trí tuệ để kiến giải những u uất đó, dùng việc làm nhân chánh để giải trừ nghiệp chướng. Dù sao đó cũng là phương pháp tranh đấu? Còn chúng ta?

    Phải chấp nhận rằng cuộc sống mà không nếm mùi vị của đau khổ thì vô vị biết bao?

    Người ta kể rằng một người Mỹ nào đó từ hồi nào sống trong cảnh dư dả sung túc, chuyện gì cũng được như ý nên không biết đau khổ là gì, anh ta liền gọi vài bạn thân đến cừu giùm anh khi anh thắt cổ tìm cảm giác chết!

    Một bức tranh mọi nét đều chân phương, đều chính xác thì những bức tranh ấy không còn có vẻ nghệ thuật nữa. Cho nên họ vẽ cái gì đó phải khiếm khuyết một chút: Mặt trời không tròn, mặt nước không có sóng, nhánh cây không khúc khuỷu.. suy ra đời sống con người cũng vậy.

    Bởi vậy có một triết gia nói: "Kẻ nào vượt qua được mọi trở lực trong đời là phi thường đã đành, kẻ nào giữ được sự bình thường trong đời cũng là bậc phi thường."

    Cái phi thường của loại người trên ta thấy rất nhiều, cái phi thường của loại người dưới tựa hồ như không ai.

    Ai trong đời không tao ngộ một vài khó khăn? Không có một vài biến cố trọng đại?

    Không chạy loạn thì cũng bị cướp đến nhà, không thì cũng gặp tai nạn. Đời này biết bao nhiêu là tai nạn? Gặp đau khổ chúng ta có dịp thử thách chính mình, mới thấy cái "phong vị của đau thương" mà có người cho đó là cái thú.

    Nhờ khổ đau mà con người được tôi luyện thêm dạn dày. Chính đau khổ đã tạo con người thêm tính cao thượng.

    Cao thượng là một trong những đức tính có giá trị, vừa có giá trị nghệ thuật, vừa có giá trị đạo đức. Tình yêu, tình bằng hữu được xây dựng trên tính cao thượng.

    Cụ Phan Bội Châu nói: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai."

    Hoặc nói: "Bốn mùa ví phỏng xuân đi hết, góc núi ai hay sức lão tùng."

    Biết bao gương danh nhân kim cổ từ trong cảnh khổ ải lầm than đã cố gắng đem hết sức mình ra chiến đấu với nghịch cảnh không một chút nản lòng cuối cùng cũng đạt đến cái đích như ý.

    Cái tinh lực vô cùng thượng thừa của con người là dám đương đầu với mọi trở ngại. Với thiên nhiên họ dám lấn từng tấc đất, với bờ biển, bờ sông, bìa rừng vách núi, họ dám tấn công với dã thú để tìm lấy một sự yên ổn.

    Hiện nay trên địa cầu chưa có một thước vuông đất nào mà con người chưa đặt chân đến. Sự thành tựu ấy là nhờ con người chiến thắng được đau khổ.

    Để kết luận bài này, chúng ta tâm niệm mấy điều:

     
  2. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    BẠN BÈ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Có ai trong đời mà không có bạn? Đoàn thể phải có hội viên, tôn giáo phải có tín đồ. Ngay trong gia đình còn có cha mẹ anh em giúp đỡ, nếu bạn ra ngoài xã hội bạn biết cậy nhờ ai nếu không có bạn bè?

    Theo Nho giáo, tình bằng hữu là một trong năm thứ tình để ràng buộc nhau (quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê, bằng hữu). Có tình bạn bè mới có sự đoàn kết. Trong hàng xóm đó là tình láng giềng. Đi nhiều nơi thỉnh thoảng ta bắt gặp một vài người bạn tâm đầu hợp ý, từ đó ta kết giao làm bạn bè với nhau.

    Bạn bè cũng có nhiều loại, có kẻ thì diệu giao, có kẻ thì tâm giao. Những người kỹ lưỡng hoặc khó tính họ chọn lấy một vài người bạn để làm của quý trong đời. Những người dễ tính hơn, họ trải lòng ra chơi với bạn bè một cách chân thành, do đó họ có nhiều bạn bè.

    Làm thế nào để chúng ta có được bạn bè tốt? Điều này tùy thuộc cơ duyên của mỗi người, nhưng trong đó ta đóng vai trò chủ động. Trước nhất chúng ta phải biết tin người, bỏ đi cái tính thường tình là nghi ngờ.

    Tục ngữ có câu: "Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn."

    Bạn hãy công bình một chút để thấy điều này: Có một người nào đó mà gia đình mình không nuôi họ, mình được kết bạn với họ không tốn một đồng nào, tại sao ta không dám đối xử với họ một cách chân tình và bình đẳng?

    Trên đời này hiếm có hạng người ở vào trạng thái cực đoan tức là ít có người cực xấu hoặc cực tốt, nếu có chăng nữa phần gặp đó chưa hẳn ta gặp và có gặp chăng nữa với tinh thần bình đẳng và cởi mở của ta vị tất người cực xấu đó đã đối xử xấu với ta?

    Huống chi, chúng ta đã có tính can đảm thì có sợ gì mấy chuyện vụn vặt kia?

    Chúng ta không mong gì có bạn nhiều, nhưng nếu có được nhiều bạn tốt thì càng hay. Đừng đòi hỏi sự tuyệt đích như đôi bạn Rimbeau và Verlain (hai đại thi hào Pháp), như Bá Nha và Tử Kỳ (người biết chơi đàn và người biết nghe đàn).

    Kinh Pháp Cú (Padasutra) dạy chúng ta: "Không nên kết bạn với một kẻ hơn mình", không phải đó là tư tưởng bất bình đẳng, đây chỉ là phần dè dặt. Những kẻ giàu có hơn, giỏi giang hơn, trí thức hơn chỉ sợ mình có mặc cảm và không được tự do.

    Nhà hiền triết Pythagore cũng nói như vậy: "Chọn bạn không nên chọn người cao hơn mình quá, thấp hơn mình quá."

    Mục đích sự chọn bạn là để gởi gắm những nỗi niềm cho nhau. Nếu gặp một nghịch cảnh nào đó thì bạn bè có thể giúp đỡ nhau.

    Tục ngữ có câu: "Buôn có bạn, bán có phường."

    Rất dỗi trong việc buôn bán còn có bạn bè thay. Nếu ta không có bạn rủi ra đường, gặp cơn hoạn nạn thì biết nhờ ai? Sự sinh hoạt ngày nay rất phức tạp, không phải có tiền là có tất cả đâu (mà chưa chắc chúng ta đã có sẵn một nguồn tài chính dồi dào).

    Người ta thường nói: "Giàu vì bạn sang vì vợ." Có một người bạn tốt, ta có thể noi theo đó để mà tiến lên hoặc nghe theo khuyên giải của bạn để làm việc có hiệu quả hơn.

    Xin tâm sự với các bạn một điều, những ngày tôi còn nhỏ mẹ tôi thường nhắc nhở rằng: "Ở đời có ba cái giàu: Giàu tiền bạc, giàu nhân nghĩa, giàu bạn bè. Giàu tiền bạc, các con không thể so với người được. Giàu nhân nghĩa các con không thể so với những bậc hiền đức được. Dẫu có nhiều nhân nghĩa cũng ít ai thấy. Các con nên giàu bạn bè. Có nhiều bạn bè tốt, tức là có nhân nghĩa vậy."

    Đức Khổng Tử tuy rằng ít có bạn đồng tuế, nhưng với đám 72 học trò hiền và 3000 đệ tử kia, Ngài quả là giàu bạn bè. Đừng nói theo kiểu bi quan:

    Vô nhân tín cao khiết

    Thùy vị biểu dư tâm

    (Đời này cao khiết ai tin

    Vì ai bộc bạch chân tình lòng ta)

    (Đường Thi, Trần Trọng San dịch)

    Hoặc:

    Khi vui thì vỗ tay vào

    Đến khi hoạn nạn thì nào có ai? (Ca dao)

    Việc này đời nào cũng có. Một ví dụ đơn giản và trước mắt, nhiều bạn thấy vui tính và khá giả, một chiều thứ bảy họ đề nghị mở tiệc ca hát và khiêu vũ. Bạn bè xúm lại đông, rượu chè trái phép, ca hát nửa chừng cảnh sát ập vào, bạn bè lén lén rút lui hết, anh X nai lưng ra chịu.

    Ai giàu bạn bằng Mạnh Thường Quân? Thực khách trong nhà luôn luôn có hơn 3000 người, đến khi Mạnh Thường Quân bị đuổi ra khỏi nước Tề không có một ai đi theo để chia sẻ nỗi buồn với ông, gánh vác hoạn nạn cùng ông. Sau Mạnh Thường Quân trở về lại cố quốc, đám thực khách hay tin rủ nhau kéo đến. Đàm Thật Tử ra tận ngoài cõi đón Mạnh Thường Quân hỏi:

    "Ngài có oán đám tân khách của ngài không?"

    "Oán!"

    "Có ý giết họ không?"

    "Giết!"

    Đàm Thập Tử nói: "Có những sự thể tất phải đến, có những tình lý tất nhiên bất biến, việc đó ngài có hiểu không?"

    "Không!"

    Đàm Thập Tử giảng: "Ai cũng phải chết, đó là sự thể tất nhiên phải đến. Mình giàu sang người ta bu lại, mình nghèo hèn người ta lảng ra, đó là một tình lý bất biến. Xin lấy ví dụ, chợ buổi sáng thì đông người, chiều tối thì vắng vẻ, không phải vì lẽ buổi sáng người ta yêu chợ, buổi chiều ghét chợ, chỉ vì có nhu cầu mua bán thì người ta còn tới chợ, hết nhu cầu thì người ta trở về. Xin ngài chớ oán."

    Mạnh Thường Quân bèn bỏ ý định giết những kẻ kia.

    Mạnh Thường Quân biết chơi mà không biết cách chọn bạn. Ông ta vì giàu có và sẵn lòng hảo tâm cứ bỏ tiền của ra đãi khách, trước nhất là để cầu vui, để được tiếp những người hào hiệp, sau nữa đó là đòn phép chính trị của ông.

    Trong ba ngàn thực khách chỉ chọn được vài người. Phùng Huyên là một trong những người hữu dụng đó.

    Thuở Huyên gia nhập không ai biết ông ta là người thế nào, ăn cơm không ăn cá, không có thịt ông cũng kêu nài, được cá thịt rồi nài đến chuyện đi không xe. Có xe rồi ông kêu nài đến việc không có đồ gửi về nhà. Những lời kêu nài ấy được Mạnh Thường Quân chu tất, từ ấy ông hết kêu nữa.

    Mạnh Thường Quân sai Phùng Huyên đến ấp Tiết thu tiền nợ, Huyên đến đó thu được một ít nợ của nhà giàu, còn bao nhiêu đốt sổ nợ và tha hết. Mạnh Thường Quân giận mà không dám nói ra. Nhưng Huyên nói: "Huyên này mua cái đức cho ông."

    Về sau Mạnh Thường Quân bị vua Tề đuổi, Phùng Huyên đưa Mạnh Thường Quân về ấp Tiết, dân ấp Tiết nghe vậy đi đón ông chật đường. Uy tín Mạnh Thường Quân vang dội. Vua Tần muốn dùng Mạnh Thường Quân, vua Tề hay được, sợ Tần dùng Mạnh Thường Quân bất lợi cho mình, nên dùng lại Mạnh Thường Quân. Đó là nhờ công Phùng Huyên.

    Kết bạn được một người như Phùng Huyên thì thật là thú vị.

    Trong lịch sử nước ta lẫn thế giới có nhiều mối tình tri âm tri kỷ thật cảm động. Chính vì có sự ảnh hưởng cao cả trong tình bạn đó nên người ta chỉ thích có một vài người bạn quý.

    Chúng ta cũng không lạ gì cái thói "giàu đổi bạn, sang đổi vợ". Thời nay vì không khó khăn như thời trước, nên việc phản bạn một cách trâng tráo cũng ít có vẻ nghiêm trọng. Xin kể ra đây vài câu chuyện về tình bằng hữu ở nước ta.

    Ngô Thời Nhiệm (1745-1803) là một nhà nho lỗi lạc ở Bắc Hà nhiều người rất kính trọng ông ta, trong đó có Đặng Trần Thường (1759-1819) là một người tài kiêm văn võ, tuy hai bên có số tuổi chênh nhau đến 15 tuổi, nhưng họ vẫn làm bạn với nhau rất thân. Khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất (1786) Ngô Thời Nhiệm sớm biết thời thế liền ra đầu Tây Sơn, được Nguyễn Huệ phong chức tả Thị lang.

    Khi Nguyễn Huệ trở về nam giao Ngô Thời Nhiệm ở lại làm việc ở miền Bắc, Đặng Trần Thường lâu nay mang tư tưởng "ngàn năm văn vật" không chịu theo Tây Sơn, nhưng thấy thanh thế Tây Sơn mỗi ngày một mạnh, Đặng Trần Thường liền đến phủ Ngô Thời Nhiệm xin làm việc.

    Ngô đem lẽ thiệt ra giảng cho Đặng, mong bạn tiến bộ trên đường tư tưởng. Đặng nghĩ rằng Ngô khinh mình liền trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh.

    Khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn (1801) Đặng Trần Thường được vua Gia Long phong làm Đô thống chế, Thường bắt Ngô Thời Nhiệm, sai quân lính đánh cho đến chết (1803). 16 năm sau Đặng Trần Thường cũng bị vua Gia Long giết về tội tham nhũng.

    Một chuyện khác, Cao Bá Quát nhỏ hơn Nguyễn Văn Siêu 9 tuổi, khi hai bên kết bạn với nhau Cao 16 tuổi, ông Nguyễn 25 tuổi, hai người từ đó thân thiết với nhau, giúp đỡ cho nhau để học tập. Cả hai đều thông chữ, người đời tôn là Thần Siêu, Thánh Quát. Từ đó đến năm 1854, Cao khởi binh chống lại nhà Nguyễn (lúc đó Cao 47 tuổi), Cao bị bắt và tử hình. Nguyễn Văn Siêu vẫn không sợ mình bị liên lụy, vẫn làm thơ văn, đối để ai điếu ông Cao.

    Có thể rằng, vấn đề đạo đức ta không theo kịp người xưa, nhưng hôm nay phương tiện dồi dào và gia cảnh của mỗi người cũng "thường thường bậc trung" nên đã làm bạn với nhau chắc không ai nỡ làm phiền nhau về tài chính nhiều lắm. Chúng ta hãy cố gắng giữ tình bạn cho được nguyên vẹn, khỏi uổng công rèn các đức kiên nhẫn, can đảm.. Các bạn hãy thực hiện các điều sau đây:

     
  3. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    THÀNH THẬT

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thành thật là gì?

    Thành thật là đóa hoa đầy hương sắc của đức tính, là bản chất tự nhiên của loài người từ thuở khai sinh lập địa.

    Nhờ đức thành thật con người mới có được xã hội, đoàn thể tôn giáo, từ đó nảy sinh sự tha thứ thương yêu..

    Theo kinh tế gia Malthus "dân số tăng theo cấp số nhân, thực phẩm tăng theo cấp số cộng", tuy những nước đông dân, các chính phủ lo kế hoạch hạn chế sinh sản nhưng vẫn không ngăn chặn được sự bùng nổ trên lĩnh vực dân số, và chính vì thế cuộc sống của con người càng lúc càng khó khăn.

    Không nói theo lời bi quan, ngày nay muốn sống dễ kiếm ăn người ta phải "tùy thời", có nghĩa là tạm quên đi sự thành thật cố hữu của mình, phải gật đầu theo xuôi để giữ vững địa vị hay thiện cảm của người đối với mình!

    Nhưng chúng ta hãy nhớ một điều, dù hoàn cảnh nào mặc lòng, không ai trong chúng ta thích kẻ khác thiếu thành thật với mình. Họ xem sự thiếu thành thật là sự lường gạt, là lừa dối. Khó xử thật! Cổ nhân có câu: "Vi nhân nan! Vi nhân nan!" (Làm người khó thay! Làm người khó thay)

    Ta giải quyết sao? Có người phỏng vấn ông giám đốc một công ty dệt nổi tiếng ở Việt Nam: "Ông có nghệ thuật gì mà công ty ông càng lúc càng thịnh đạt như vậy?"

    Vị giám đốc mỉm cười trả lời: "Ngay từ nhỏ bố tôi có dạy rằng, người càng lúc càng đông, thì những mánh khóe để lừa nhau càng nhiều. Con cần phải có tài và quan trọng nhất là trải lòng mình ra để thù tiếp người, thì không lo gì không có người đầu tư vào công sức lẫn của cải!"

    Quý hóa thay lời khuyên vàng đó!

    Hồi đầu thế kỷ này cụ Phan Tây Hồ thốt lên:

    "Bát canh nấu với máu gan

    Dâng trời cũng thấu lời than của mình

    Mũi tên dồn hết tâm thành

    Bắn vào đá cứng tan tành như chơi!"

    Về mặt đạo đức, lòng thành thật chính là sự nhân bản. Đứng về phương diện nghệ thuật lại càng không thể thiếu nó. Các nhà thôi miên nếu không có lòng chí thành làm sao điều khiển được đối tượng?

    Không ai có thể mạo hóa được sự thật, nên không ai có thể nhấn chìm hay phủ kín nó bằng sự ngụy trá; bởi vì "lấy thúng mà úp mình voi, có úp đằng trước nó lòi đằng sau".

    Người đi vào đời bằng lòng thành thật cũng giống như người đi qua sông qua biển bằng thuyền, đó là phương tiện duy nhất để cứu mình và giúp người.

    Cho nên: "Muốn được hưởng sự thành thật của người, trước tiên ta phải thành thật với người."

    Từ thành thật đến thành công chỉ cách nhau một chiếc cầu đã xây sẵn.

    SỰ HẠN CHẾ.

    Vì sự thành thật từ lương tâm và đạo đức mà ra, tất nhiên nó bị ràng buộc bởi lương tâm và đạo đức. Có những trường hợp vì sự thật mà không nên nói.

    Một bệnh nhân bị bệnh khá nặng hỏi bác sĩ: "Thưa bác sĩ, bệnh em có thể cứu được không?"

    Bác sĩ biết bệnh này khá nguy kịch, mười phần sự sống chỉ được đôi ba, nhưng bác sĩ đành phải an ủi: "Em hãy cố gắng tịnh dưỡng thì bệnh gì cũng qua cả. Vả lại bệnh này đâu có gì là nguy hiểm?"

    Bởi vì thầy thuốc nào cũng biết rằng, làm cho bệnh nhân bi quan, sợ sệt thì dẫu thuốc thánh cũng không chữa hết bệnh.

    Một người hàng xóm đến mách em bé về tội phá phách, nghịch ngợm nhưng ba má bé là người ít học, nóng nảy thô lỗ, khách không nên hài tội bé ra, mà chỉ nên nói rất khéo, với mục đích để ba má bé răn dạy bé cho nên người, chứ không phải để đánh bé cho hả lòng mình.

    Một kỷ niệm khó quên. Hồi nhỏ tôi là một đứa trẻ nghịch nhất ở xóm. Trong sân nhà ông B có cây xoài tượng trái đã vàng đít lại rất cao. Tôi và vài đứa bạn lối xóm rủ nhau trèo lên cây xoài ấy để hái trộm. Chủ nhà nghe thấy thì thầm trên cây (vào giữa trưa mọi người đang ngủ trưa) liền nhẹ nhàng hé cửa ra nhìn, chứ không xông ra đột ngột, vì ngại chúng tôi sợ mà nhảy ào xuống sân. Chúng tôi thấy động lật đật tuột xuống, chạy ra khỏi sân chủ nhà mới xuất hiện.

    Cha mẹ chúng tôi nghe được và hỏi thì ông ấy nói: "Trẻ con đứa nào không vậy? Chỉ răn cho chúng bớt nghịch, chứ không thể làm chúng hết nghịch."

    Những sự thật được coi là bí mật, thì không ai điên gì phải tiết lộ bí mật ấy ra để bị lương tâm, đạo đức, luật pháp lên án.

    Trong công việc giao tế, lòng thành thật cũng giống như nước mắm nguyên chất ai dùng cũng thấy ngon mà không cần phải thêm đồ gia vị.

    Giữa cuộc sống đầy phức tạp, ai cũng biết rằng, ngày nay "giả nhiều hơn thật", kẻ nào chuộng lấy sự thật, là chuốc lấy sự thất bại, bởi vậy mới có những câu rất bi quan: "Mua lầm chứ không bán lầm".

    Tại sao có việc lầm trong mua bán? Bởi vì trong mua bán ấy có điều không thành thật; câu "xanh vỏ đỏ lòng" tức là nói một đàng làm một nẻo, tức là sự thiếu thành thật.

    Các tôn giáo, các hội đoàn luôn luôn kêu gọi sự thành thật, thế nhưng chính họ - những bậc đạo đức ấy cũng có sự hạn chế bởi những lý do khách quan. Nhà văn Hoa Kỳ Mark Twain (1835-1910) đã kẻ một "mẫu chuyện tình thời trung cổ" A Mediaeval Romance:

    Ngày xưa dưới thời trung cổ, đông phương cũng như tây phương đều sống trong chế độ phong kiến. Các công khanh, đại thần, chia làm năm bậc: Công, hầu, bá, tử, nam.. vị công tước xứ Branden Burgh là Ulrich không có con trai. Bá tước Klugensten là em của vị công tước này rất biết điều lệ của triều đình: "Bất kỳ vị tước nào không có con trai nối dõi, thì khi lâm chung, lãnh địa của vị đó được giao cho con của anh hay em ruột mình; nếu những người kia cũng không có con trai, thì lãnh địa đó trả về cho triều đình."

    Các vị lãnh chúa ấy, theo đạo đức và tôn giáo phải là người thành thật, đối với quốc vương, họ lại càng phải thành thật hơn nữa.

    Bá tước Klugensten thấy ông anh già nua của mình chỉ có một mụn con gái là công nương Constance, trong khi đó ông cũng có một cô con gái ngay từ mới lọt lòng, ông đã nam trang cho bé gái đó, để chuẩn bị một âm mưu về sau. Klugensten ngầm sát hại sáu người trong nhà đã biết con ông là con gái! Ông đặt tên "cậu con trai" ông là Conrad. Conrad nghiễm nhiên sau này sẽ là công tước Branden Burgh. Nếu tội "khi quân" này vỡ lở ra cả giòng họ sẽ bị xử tử!

    Công chúa Constance đến tuổi yêu đương bị tên hiệp sĩ sở khanh lường gạt, chừng nào thức ngộ lại thì gặp ngay "công tước tập sự Conrad" (gái giả trai). Công chúa yêu ngay Conrad một cách tha thiết! Hỡi ơi! Conrad là con gái, mà cũng là chị em chú bác! 7, 8 tháng sau công chúa sinh con, ra tòa, công chúa chỉ Conrad đã ăn nằm với mình!

    Đến càng là ngõ cụt. Công chúa vẫn không biết Conrad là gái, công chúa thù Conrad không yêu mình nên mới khai bậy như vậy. Conrad nếu chứng minh mình là con gái thì chết cả dòng họ, còn chấp nhận sự vu khống cũng chết mà mang tiếng loạn luân. Đó là sự tai hại của sự lừa dối để chuộc lợi!

    Xem vậy đủ biết sự thiếu thành thật trở thành một sự lừa đảo tuy có lợi trong nhất thời nhưng lòng không ngớt lo sợ luôn luôn khổ tâm để đối phó, chừng ấy cũng là một hình phạt rồi, đến khi bị phát giác ra thì xấu hổ đến chết đi được. Đó là chưa nói sự làm việc của luật pháp, và những tai hại dây chuyền khác nữa.

    Lòng thành thật khiến con người can đảm, sáng suốt, yêu lao động, tôn trọng sự công bình, đóng góp cho xã hội một trật tự.

    Lòng thành thật chiến thắng mọi trở ngại, sẽ không bao giờ bị thiệt thòi.

    Tóm lại, lòng thành thật có những điều lợi sau:

     
  4. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    NGHE

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nghe là bản năng hằng hữu của mọi sinh vật. Ngay cả cỏ cây cũng có khuynh hướng vươn đến tiếng động và ánh sáng. Chức năng "nghe" còn cao thâm hơn nhiều.

    Đối với con người, sự nghe đến trước tiếng nói. Đối với một trẻ sơ sinh mà mất đi sự nghe, thì trẻ sẽ không bao giờ nói được. Nên có thể nói, có nghe là bậc thầy của nói.

    Các nhà tâm lý học phân tích cho thấy, tuyệt đại đa số nhân loại thích nói hơn là thích nghe. Sở dĩ như vậy là vì họ muốn chứng tỏ họ là nhân vật quan trọng, họ muốn phô cái hiểu biết của họ cho người ta khâm phục; nếu không thì họ muốn khoe của cải hay quyền lực gì đó. Nói tóm lại, đó là chứng bệnh về "chấp ngã", đề cao cái "ta" của mình lên.

    Nếu ta dứt ngang lời nói của họ trong lúc họ cao hứng thật là nguy hiểm và rồ dại. Người lịch sự không nên làm như vậy.

    Trước nhất chúng ta phải hiểu rằng "nghe tức là học".

    R. W Emerson nói: "Bất kỳ người nào cũng có một điểm gì đó hơn mình, nên ta có thể học ở họ được."

    A de Vigny cũng nói như vậy.

    Cách đây hăm lăm thế kỷ Liệt Tử đã nói: "Lời nói của một kẻ cuồng, thánh nhân còn nhìn được thay." (Cuồng phu chi ngôn thánh nhân trạch yêu).

    Nghe người đối diện nói chúng ta có được mấy điều lợi:

    Ta học khôn ở họ một điều gì.

    Chân thành nghe họ nói tức là giúp cho họ một niềm vui.

    Giúp cho ai được điều gì chúng ta cảm thấy có một niềm vui sướng.

    Và tuyệt hảo nhất là chúng ta đã gây được mối thiện cảm với họ. Đời này có gì quan trọng hơn là thiện cảm? Người ta hy sinh cho nhau, giúp đỡ nhau là nhờ ở thiện cảm đó.

    Sách vở kể một giai thoại khá thú vị. Năm 1773 Nữ hoàng Nga Catherine II mời Diderot (nhà văn, nhà khoa học cùng với Rond d'Alembert viết bộ Bách Khoa Toàn Thư Encyclopédie) qua Nga diễn thuyết. Nữ hoàng hội đàm với Diderot, bà lắng tai nghe Anghe Diderot nói, một cách say mê.

    Sự chăm chú của bà khiến Diderot càng cao hứng, những lúc như vậy ông chồm tới vỗ đùi bà "đét, đét". Sau buổi nói chuyện đó cặp đùi nõn nà của bà trở nên bầm tím! Năm năm sau nữ hoàng lại mời Diderot qua Nga lần nữa. Bà vẫn chịu trận như lần sơ kiến mà không hề than phiền. Bà viết thư cho một người bạn nói: "Vị thiên tài ấy thật lạ lùng! Mỗi khi nói chuyện ông ấy cứ vỗ vào đùi tôi sưng tím cả lên, lúc ấy tôi không hề biết đau."

    Địa vị của một hoàng đế nghiêm cẩn say mê nghe nhà văn nói chuyện như vậy, huống gì chúng ta.

    Thà ngay từ đầu chúng ta đã không có chuyện ngồi lại với nhau thì thôi. Biết cách nghe và gợi ý cho người ta nói là một nghệ thuật thu phục nhân tâm càng được nhiều người yêu mến, ta càng thấy cuộc sống có nhiều ý nghĩa, nhất là tránh được sự khổ tâm vì cách đối phó.

    Bậc thánh như Đức Khổng Tử còn phải thốt: "Chín mươi chín người thương vẫn chưa đủ, một người ghét đã là nhiều."

    Bớt lời để nghe nhiều, đó là những người có đức độ. Thiện chí và thiện cảm được nảy sinh từ đó.

    Người phương Tây nói: "Sự Thấy lên đường đã mười năm, sự Nghe nửa buổi đường đã theo kịp."

    Tin tức góp nhặt từ bốn phương là ở nghe chứ không phải thấy.

    News (tin tức) = N: North (Bắc), East (Đông), West (Tây), South (Nam).

    Câu chuyện Bá Nha, Tử Kỳ cũng nói về cái Nghe đó. Ngày xưa có một người chơi đàn đã đến mức tuyệt kỹ đó là Bá Nha. Bá Nha may mắn kết bạn với một người rất giỏi về nghe đàn đó là Chung Tử Kỳ. Qua tiếng đàn Tử Kỳ hiểu ý của Bá Nha trong lúc đó. Về sau Tử Kỳ qua đời, Bá Nha liền đập đàn, không hề gảy nữa, cho rằng thiên hạ không còn ai là chỗ tri âm (biết nghe tiếng đàn). Cứ cho rằng đây là huyền thoại, nhưng huyền thoại ấy dùng để nói lên điều gì? Đó là giá trị của sự Nghe hay Lắng Nghe.

    Trong Sử Ký của đại sử giá Tư Mã Thiên viết về nhân vật Thuần Vu Khôn được tóm tắt như sau:

    Thuần Vu Khôn là người nước Tề, nghe rộng nhớ nhiều, ông rất giỏi về việc du thuyết. Nhờ im lặng nhìn và lắng nghe mà đoán biết được ý của người đối diện. Ông vào gặp Lương Huệ Vương hai lần, chỉ nghe nhà vua nói mà không phát biểu gì cả. Cuối cùng nhà vua trách: "Quả nhân không đáng nói chuyện với khanh sao?"

    Bấy giờ Thuần Vu Khôn mới nói: "Lần trước tôi yết kiến nhà vua, nhà vua tuy đang bàn việc nước, nhưng óc lại nghĩ đến chuyện cưỡi ngựa rong ruổi. Lần sau tôi gặp nhà vua, nhà vua vẫn nói chuyện, nhưng óc lại nghĩ đến thanh âm. Vì thế tôi không dám nói gì cả."

    Nhà vua cả sợ nói: "Ôi, Thuần Vu tiên sinh thật là thánh nhân vậy! Lần trước có người cho ta một con ngựa hay, ta chưa kịp xem nó thì phải bận tiếp tiên sinh, lần này người ta cho ta một con hát rất hay chưa kịp thử cũng bận tiếp tiên sinh. Lúc ấy quả nhân thật đang nghĩ về những thứ đó."

    Sự lắng nghe mang đến sự thành công to lớn, làm phát triển thêm những đức tính tốt trong mọi lĩnh vực.

    Trong quyển Khoa Học Thực Nghiệm (Science Expérimentale) Claude Bernard nói: "Hãy lắng nghe thiên nhiên đọc cho viết."

    Một tác giả nổi tiếng trước nhất phải biết nghe "tiếng lòng" của mình, phải biết nghe tiếng thì thầm của tạo vật, và nghe được tiếng lòng của tha nhân.

    Cổ ngôn có câu: "Xưa nay thánh hiền đều tịch mịch." (Cổ giai Thánh Hiền giai tịch mịch).

    Không phải thánh hiền tịch mịch đâu, các vị ấy đang nghe đó! Sức nghe của họ rất sâu xa. Ta thấy đó, lòng không thành thì sức nghe chưa tới.

    Ở đây chúng ta không dám mong cầu có một sức nghe cao diệu như vậy, chỉ muốn xin bớt nói để chú nghe.

    Bạn chỉ cần nhịn năm phút thôi, chỉ năm phút thôi mà!

    Bạn nhịn nói trong năm phút là bạn toàn thắng. Có thể bạn không tin? Nhưng hãy thực hành mới thấy cái diệu dụng của nó.

    Các điều đáng nhớ:

     
  5. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    NÓI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngôn ngữ là phương tiện để diễn đạt ý nghĩ của mỗi người. Không người nào không dùng đến nó hàng ngày cả. Người câm không nói được thì dùng cử chỉ để thay cho lời nói. Nếu xét một cách thận trọng sẽ thấy ngôn ngữ là cái phát minh lớn nhất và sớm nhất của loài người. Về khoản này ngôn ngữ được coi là thứ tài sản riêng của mỗi người. Người ta dùng nó trong việc giao tiếp cẩn thận không kém gì trong việc sử dụng tiền bạc (Lichtenberg).

    Có hiểu như vậy mới thấy, ai biết tiết kiệm tiền bạc là biết tiết kiệm lời nói. Thế nhưng trên đời này vô số người vung vãi tiền bạc và lời nói một cách thả cửa! Dù sao đó cũng là cái quyền của họ.

    Thái độ của chúng ta sẽ như thế nào khi gặp những người ham nói đó?

    Như những bài trước đã nói, đa ngôn ngữ cũng là một trong những bản tính tự nhiên của con người. Đó là bản tính thô sơ chưa được rèn luyện kỹ, nên còn nhiều tính háo thắng. Đối diện với họ, chỉ cần bình tĩnh một chút ta sẽ thu nhiều kết quả. Có nghĩa là chúng ta quay lại vấn đề "nghe" và "nhìn" như đã trình bày ở đây.

    Đặt trường hợp chúng ta là người đang nói chuyện, tức là giao thiệp một cách thông thường, chứ không phải nói chuyện trước công chúng (vì đó là thuật hùng biện khác nữa).

    Sau đây là vài nguyên tắc cơ bản và rất đơn giản:

    1. Không nên tỏ ra mình là kẻ hiểu biết nhiều hơn tất cả mọi người. Nếu bạn thích trình bày một vấn đề gì đó mà không có sự yêu cầu của kẻ khác, thì đối với người nghe sẽ không có bổ ích gì cho họ, như vậy có phải nhàm chán cho đôi bên không? Giữa lúc đó bạn cứ thao thao bất tuyệt thì còn tệ hơn người hùng biện trước một bụi cây. Bởi vì trong số người nghe sẽ có người ghét bạn. Bạn tuy biết vậy nhưng cứ nghĩ rằng: "Ta giúp cho họ ý này biết đâu sau này họ sẽ có lợi."

    Không được!

    Sẽ không ai tin điều đó, vì bạn không phải nhà tiên tri. Không chừng đó là cái vạ nữa là khác. Chắc bạn không quên một chuyện khá đau lòng đã xảy ra.

    Cách đây hơn trăm năm, ông Bùi Hữu Nghĩa đang làm tri huyện Trà Vinh, dưới quyền Bố chánh Truyện. Bố chánh ăn của đút lót của bọn Hoa kiều, để cho bọn đó chiếm Láng Thé. Láng Thé là vùng đất đặc ân của triều đình miễn thuế cho dân ở đây. Nguyên trước đây Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) bị quân Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Vương đã chạy qua vùng này được dân địa phương giúp đỡ, nên sau mới được ân huệ đó. Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa nổi tiếng là thanh liêm, liền tập hợp dân vùng Láng Thé lại nói:

    "Nếu ai lớn hơn vua phê giấy tờ bán rạch Láng Thé cho người Hoa kiều thì các ngươi đành xuôi tay. Còn nếu ai nhỏ hơn vua mà ra lệnh ấy các ngươi chặt đầu nó cũng không sao!"

    Bọn Hoa kiều vẫn cậy thế làm ngang, bị dân Láng Thé giết đi mấy mạng. Thế là Tổng đốc và Bố chánh làm lệnh gửi ra triều đình Huế và Bùi Hữu Nghĩa bị kết tội tử hình!

    Một vị quan thanh liêm toàn quốc ai cũng biết tiếng, vì tấm lòng tốt mà phẫn uất nên có những lời tâm huyết và thiết thực như vậy, kết quả bị kết tội tử hình. Cũng may cho ông Nghĩa, án ấy đã bất thành.

    Tóm lại khi cần thiết phải nói (mặc dù không ai đề nghị) bạn nên nói vài câu tóm gọn là đủ, bởi vì không nói cũng không thiệt hại gì cho ai kia mà.

    2. Lời nói phải dịu dàng, cử chỉ khiêm tốn. Giọng nói của mỗi người biểu lộ được ý nghĩ thầm kín bên trong. Thông thường lúc giận thì giọng nói có vẻ hằn học gắt gỏng. Vì một nguyên cớ gì đó mà chúng ta cần nói chuyện trước tiên là giữ thái độ ôn hòa, dù lúc ấy có một sự trái lòng ghê gớm, nhưng hãy cố NHẪN.

    Cổ nhân nói: "Nhẫn là đại dũng."

    Chiết tự chữ "nhẫn", kẻ cầm đao muốn chém người khác mà dằn lại được, đó là nhẫn. Huống chi lời dịu dàng bao giờ cũng làm mềm lòng người khác hơn là sự phẫn nộ. Một bằng chứng hùng hồn của loài người bao giờ cũng thương mẹ hơn cha, vì mẹ bao giờ cũng có nét êm ái dịu dàng.

    Một thế kỷ rưỡi trước đây, một nhà thơ tài hoa là ông Cao Bá Quát, tính tình bất khuất, thường có ý khinh thị những người quyền chức mà bất tài, dẫu vua chúa ông cũng khinh ra mặt. Ông Cao chứng kiến hai vị quan triều đình ẩu đả với nhau, vua Tự Đức đòi ông vào khai rõ sự việc. Ông Cao miệng thuật, tay chỉ chỏ:

    "Bên này nói chó (chỉ tay về mình)

    Bên kia nói chó (chỉ tay về nhà vua)

    Hai bên đều chó (chỉ tay cả mình lẫn vua)

    Họ túm lấy họ (ra bộ)

    Thần thấy thế nguy, thần chạy!"

    Vua Tự Đức biết Cao chơi xỏ mình nhưng không thể bắt bẻ gì được. Những chi tiết nhỏ nhặt tuy không thấy đâu, nhưng tích tụ lâu ngày cũng đủ thành một án tử hình!

    Cho nên khiêm tốn nhã nhặn không phải là sự hèn hạ mà ngược lại.

    Nhà thơ Nga, Maiakovski cũng vì sự không tế nhị, ưa kích bác thiên hạ, cuối mình tự bỏ rơi mình. Những năm tiền cách mạng 17, nếu ai công kích chủ nghĩa xã hội thì ông vu cho người đó là ăn cắp, dù đối tượng là một phụ nữ, là một nông dân. Lúc nào ông cũng cho ông là hơn người. Một hôm có một người phê bình thơ ông, nói: "Thơ ngài mang nhiều chất thời sự quá nên khó để đời."

    Maia đốp chát liền: "Anh hãy cố sống đến ngàn năm, chúng ta lúc đó sẽ thảo luận."

    Một lần khác, có người chất vấn: "Maia! Ông cho chúng tôi là một lũ ngu sao?"

    Maia nói: "Tại sao lại lũ? Trước mặt tôi chỉ có một đứa thôi!"

    Có một người bất bình thái độ của Maia nên kêu ông ta nói: "Anh Maia! Napoléon nói rằng từ cái vĩ đại đến cái lố bịch cách nhau chỉ một bước!"

    Maia ướm đo giữa khoảng cách từ người ấy đến mình rồi nói: "Đúng! Từ cái vĩ đại (lấy tay chỉ về mình) đến cái lố bịch (chỉ về người kia) chỉ một bước thôi!"

    Trong y học người ta chứng minh người có tính khí hòa hoãn bao giờ vẫn thọ hơn người nóng nảy. Đức tính nhã nhặn khiêm tốn có lợi đủ mọi điều.

    4. Tránh sự cãi vã. Cãi vã khác với tranh luận. Cãi vã mang tính chất cục bộ, lố bịch, mạnh ai nấy nói không có kẻ nghe, luôn giành phần phải cho mình nhiều khi bất công trong ngôn ngữ.

    Có lẽ ai cũng chứng kiến một lần cãi vã vô ích. Cứ nhường cho họ thắng ta không thiệt thòi gì cả. Nếu lý của bạn càng đúng, bạn càng nên nhịn. Sau này người kia nhận ra cái sai của họ, thì lúc đó bạn càng thấy mình có giá trị hơn.

    Tranh luận là một sự "cãi vã" có "trí thức". Cả hai đối thoại trong một tinh thần hiểu biết. Tuy vậy, nhiều nhà tâm lý học phương tây cho rằng không nên tranh luận.

    Dale Carnegie trong quyển "How to win friends influence people" có nói một câu chuyện đại khái câu "mỗi chúng ta đều có một vị thần nắm vận mệnh" là của Shakespeare (trong Hamlet), thế mà một người nào đó nói, câu đó trong Thánh Kinh. Thế là hai bên cãi nhau. Sau này Dale Carnegie lấy làm ân hận, tại sao lại phải tranh luận? Theo ông, họ nói sao mặc họ, không nên đính chính!

    Xuyên qua câu chuyện đó, chúng ta có ý kiến thế nào?

    Dale Carnegie là nhà tâm lý lỗi lạc của thế kỷ này. Nhận xét sau cùng của ông có tính cách thực dụng hơn, vì có chút máu Ăng-lê. Đối với người Đông phương thì khác hơn.

    Cách đây mấy năm, trong buổi tiệc họp mặt bạn bè, một nhà thơ cao hứng đọc:

    "Cuộc phù sinh có bao lăm

    Nỡ đem ngày bạc mà lầm tuổi xanh."

    Và ông ta tuyên bố đó là hai câu trong Kiều. Nhưng ông thi sĩ ấy nhầm.

    Một anh bạn ngồi bên cạnh khều nhỏ ông, nói: "Anh hình như nhầm ấy. Hai câu đó trong Nhị Độ Mai."

    Nhà thơ nhún vai nói lại: "Vậy là anh nhầm đến bình phương."

    Anh bạn lặng thinh không nói nữa. Cuối bữa tiệc anh gặp riêng nhà thơ, nhỏ nhẹ nói: "Thưa anh, không phải tôi vô lễ dám sửa sai anh. Tôi biết anh là nhà thơ nổi tiếng lại có tính lãng đãng. Trong đám anh em có mặt đây ít ra cũng có vài người biết anh nhầm, nhưng họ ngại mếch lòng nên không chịu góp ý."

    Qua mấy ngày sau hai người đó lại gặp nhau, nhà thơ xuýt xoa cảm ơn ông bạn rối rít. Ông nói: "Quả hai câu đó trong" Nhị Độ Mai ", nếu anh không chỉ giáo, tôi lại tiếp tục làm trò cười cho thiên hạ."

    Ta biết đó! Nếu là Dale Carnegie thì ông không điên gì nhúng môi để đính chính việc này, cứ sẵn sàng cho là đúng, trước để lấy lòng, sau dễ kiếm việc làm.

    Nhưng với chúng ta, tất nhiên theo tinh thần Á Đông, với lòng vô vụ lợi, ta góp ý một cách tế nhị kín đáo, tránh giọng lên lớp hay giọng kẻ cả, và đó là lòng thành thật đối đãi với nhau.

    Nếu đối tượng thẳng thừng khước từ, thì ta đành nhận lỗi và làm thinh vậy. Chưa có gì thật hơn bằng "quả đất tròn", thế mà Galilée đành "rằng vâng thì cũng vâng lời rằng vuông".

    6. Trong khi nói phải biết mình nói gì. Vấn đề này mới nghe tưởng như nghịch lý. Thật ra việc đó rất thường xảy đến cho những người nói nhiều. Họ nói một hồi đi xa trọng tâm vấn đề, cũng bởi họ tìm nhiều câu chuyện để minh họa, và khi giật mình thì lại quên mất "thuở ban đầu".

    Cổ nhân thường nhắc chừng: "Hãy tự nghe mình trong khi nói", có ý khuyên ta nên kiểm soát trong lúc mình đang nói. Muốn làm được điều đó, ta phải nói chậm và nói ít.

    "Nên đề phòng lúc sướng miệng." (Uông Thụ Chi) Câu nói đơn giản đó không phải chỉ cho việc nói mà thôi, mà còn chỉ cho việc ăn uống nữa. (Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng ngôn xuất).

    Ai biết nghe được những lời mình đang nói, mới đáng gọi là người biết nói. Hiểu được lời người khác nói mới gọi là người biết nghe. Thậm chí người ta còn nghe được lời của người câm nói.

    Có lần nhà bác học lỗi lạc A. Einstein nói nhà kịch câm Chaplin Charlot: "Ngài! Tôi nói rất nhiều mà thiên hạ không nghe được, ngài không nói lời nào mà thiên hạ nghe đến khóc được!"

    Cho nên không phải nói nhiều người ta mới hiểu đâu.

    Câu nói không rắc rối, trong sáng và chân thành, nên tránh thái độ châm biếm cợt nhả, được như vậy bạn đã thành công hơn một nửa trong việc thuyết phục.

    Chúng ta để ý những câu tục ngữ mà ta thường gặp: "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe."

    Không ai sợ bạn hay trọng bạn về những lời đao to búa lớn cả. Thậm chí trong việc dùng mưu trí, lời nói đơn giản người ta càng dễ tin. Một chuyện trong sách xưa kể:

    Tôn Tẫn và Bàng Quyên cùng học thầy Quỷ Cốc. Tiên sinh muốn biết đức hạnh và mưu trí của học trò mình, liền bắc ghế ngồi trước cửa rồi nói: "Trò nào mời ta ra được ngoài cửa trò ấy sau này có khả năng làm đến tướng quốc."

    Bàng Quyên xin mời trước. Quyên nói: "Bạch tổ sư! Bên ngoài kia có rồng chầu phượng múa đẹp lắm!"

    Tiên sinh mỉm cười: "Hôm nay là hung nhật (ngày xấu), không có việc đó!"

    Quyên nói: "Có Bạch Hạc đồng tử đến mời thầy đi đánh cờ!"

    Tiên sinh nói: "Bạch Hạc đồng tử đã mời ta hôm qua rồi."

    Quyên lại nói: "Mời hoài thầy không ra, tôi phải nổi lửa đốt động, xem thầy có chịu ra không."

    Một câu đó chứng tỏ rằng Bàng Quyên có tâm địa bất nhân lại còn ngoa ngôn và khinh người.

    Đến lượt Tôn Tẫn mời tiên sinh, Tẫn quỳ xuống nói: "Bạch tổ sư! Đệ tử không có tài mời tổ sư từ trong ra ngoài được. Nhưng nếu tổ sư ở ngoài động, đệ tử sẽ mời được tổ sư vào trong."

    Tiên sinh nghe nói lấy làm lạ liền sai đem ghế ra xa để Tôn Tẫn mời vào. Khi tiên sinh an vị, Tôn Tẫn vỗ tay reo: "Đệ tử mời được thầy ra ngoài động rồi!"

    Tiên sinh phục Tôn Tẫn là cao kiến. Về sau Tôn Tẫn cầm quân nước Tề, bách chiến bách thắng.

    Lời nói đánh giá được con người. Nói càng khiêm tốn càng được việc. Có hai người xin việc làm vào buổi tối để kiếm tiền thêm. Một người là sinh viên trường Luật, còn một người nữa thường nhật không có việc làm.

    Ông chủ nhà hàng gọi một trong hai người đến hỏi: "Lâu nay cháu làm nghề gì?"

    "Cháu là sinh viên trường Luật!"

    "Cháu học năm thứ mấy?"

    "Năm cuối của bậc đại học."

    Ông chủ tán thưởng: "Vậy là cháu có tương lai lắm. Làm nghề chạy bàn ban đêm đâu kiếm được bao nhiêu tiền? Sao cháu không viết báo?"

    Cậu sinh viên trả lời: "Cháu có viết nhưng người ta không đăng. Đời bây giờ không quen khó mà đăng cho lọt."

    Ông chủ cười nhẹ nói: "Không phải vậy đâu cháu ạ. Điều cháu nói đó có thể có nhưng hiếm lắm. Ai cũng muốn báo mình bán chạy tất nhiên báo phải chọn đăng những bài hay. Ví dụ ở đây, đâu cần phải quen lớn, chỉ cần người thành thật, lễ phép, nhanh nhẹn."

    Vừa lúc ấy ở phòng trong có một cô gái chạy ra, hơi ngạc nhiên chào anh sinh viên: "Ủa, anh Dũng! Sao anh lại đến đây? Bộ anh uống la-de hả?"

    Cô quay sang giới thiệu với ông chủ: "Ba! Anh Dũng là bạn học một lớp với con!"

    Lúc ấy Dũng hơi ngượng nghịu, nói xã giao vài câu rồi ra về. Bạn có biết sao không? Là vì con gái ông chủ đang học năm thứ hai trường Luật.

    Không nói các bạn cũng biết, người thứ hai kia xin được việc.

    Qua việc này, nói năng càng khiêm tốn thì phẩm hạnh càng cao.

    Người xưa nói: "Năng lực của mình được mười, thì nên bớt lại vài phần."

    Trong việc chạy bàn cần gì phải khoe trí thức? Ở những nơi cần chữ nghĩa, bằng cấp to cũng nên nói thật trình độ của mình, còn những nơi không cần, tốt hơn hết không nên khoe chữ, có khi bị hố!

    Mấy nét chính nên nhớ:
     
  6. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    NÉT NHÌN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Người Trung Hoa nói: "Trong cái nhìn có cái nghe." (Mục trung hữu thính, mục trung hữu nhĩ), tưởng có lý lắm vậy.

    Một vị thầy giáo giảng bài cho học sinh, hôm nào mà các trò giữ im lặng, những ánh mắt đen lay láy, thiết tha chăm chú theo dõi từng lời của thầy, tưởng chừng như uống, như nuốt những lời đó thì thầy giảng rất hay.

    Ta nghe một người nói chuyện, nhất là người ấy thích nói chuyện, tuy ta giữ im lặng nghe, nhưng ánh mắt có vẻ lơ đãng, thì người nói không còn cao hứng nữa.

    Ánh mắt chăm chú thì sức nghe mới hội tụ. Nghe giả là một sự thiếu thành thật.

    Người đang nói về "đề phòng hỏa hoạn", người nghe lại nghĩ đến "sắp đến giờ coi trận bóng đá", tự nhiên ánh mắt khác đi. Sự chú tâm với người đối diện mới là cần thiết.

    Trong kinh Phật có ghi một chuyện gần như ngụ ngôn như thế này:

    Một pháp sư đang "tụng kinh phát chẩn cho cô hồn". Cô hồn đã về đông đủ. Pháp sư vẫn tụng đúng lời kinh, nhưng lúc đó pháp sư chợt nhớ đến chiếc chìa khóa ở đâu không rõ. Thế là cô hồn nuốt toàn chìa khóa không thôi!

    Cho nên nghe, nhìn với sự chú tâm phải gắn bó với nhau một cách nhất quán.

    Có lẽ ai trong chúng ta cũng có một vài lần "buổi hôm ấy mình nói chuyện rất hay". Nếu bạn hình dung lại buổi nói chuyện có duyên đó là do người nghe có cặp mắt say sưa, thán phục, chăm chú.

    Nên có thể nói, qua cách nhìn người ta có thể đánh giá được tâm hồn của bạn, ít ra cũng trong thời điểm đó.

    Người ta thường diễn tả "đôi mắt đẹp" là đôi mắt trong sáng, hay đôi mắt xanh với phần phụ là hàng lông mi dài, hoặc dài và cong vút, mày liễu, mày tằm mắt phụng.. rất nhiều mỹ từ cực tả trong việc này.

    Quả tình nếu bạn có cặp mắt đó thì cũng đáng mừng. Nhưng nếu một người bình thường với cặp mắt bình thường biết chăm chú lắng nghe người khác nói, tự khắc đôi mắt bình thường kia sẽ đẹp hẳn lên, đẹp hơn "đôi mắt đẹp" kia nhiều lắm.

    Ngày nay thuật hóa trang về "đôi mắt đẹp" đến chỗ tinh vi, gần như thật, nhưng trong mắt họ bật lên nét kiêu hãnh trong lúc nói chuyện với nhau, thì cuộc nói chuyện sẽ không đem lại kết quả gì.

    Nét nhìn cũng biểu lộ được tính thông minh nhiều khi có hiệu quả hơn lời nói. Nhìn một cách chăm chú có sức thuyết phục không khác gì thuật thôi miên (Hypnotism). Bạn hãy vui vẻ mà thực hiện sẽ thấy nhiều kết quả bất ngờ khiến bạn có nhiều hứng thú không khác gì đọc một tác phẩm hay.

    Như trên đã giới thiệu, khi ta nghe và nhìn một cách chăm chú ta sẽ được những kết quả bất ngờ. Những lời nói hay khiến ta mau thuộc và nhớ dai, người nói chuyện với ta dẫu là lần đầu, ta cũng khó quên tên, quên mặt họ. Việc gọi đúng tên một người trong trường hợp sơ ngộ khiến người khách cảm thấy sung sướng.

    Không gì bứt rứt bằng có một người gọi được tên mình trong khi mình không phải là một danh nhân, và người kia không phải kẻ vô lại, thế mà mình quên bẵng đi tên của người ấy. Trường hợp này rất nhiều. Nếu gặp trường hợp như vậy ta phải xử trí cách sao cho người kia khỏi buồn? Không gì hiệu nghiệm hơn là lòng thành thật.

    Ví dụ ta thử nói: "Thưa anh! Dường như chúng ta được gặp nhau ở đâu một lần rồi chứ?"

    "Đúng vậy! Hôm ấy tôi được tiếp chuyện anh ở trong tiệm sách."

    Nếu bạn vẫn chưa nhớ được tên thì nên nói: "Thật là tôi quả có lỗi! Có lẽ lúc đó vì quá bối rối hay bận rộn mà quên mất đi tên anh. Xin anh tha cho cái bệnh lãng đãng của tôi một lần. Nếu có dịp gặp lại, tôi sẽ gọi đúng tên anh."

    Nếu thành thật và cạn lời đến thế, chắc chắn người ta không nỡ trách.

    Sự chú ý nghe và có nét nhìn chăm chú, nếu bạn là sinh viên, học sinh, chắc chắn bạn rất mau thuộc bài. Nếu bạn là chủ cửa hàng, thì hàng hóa của bạn ngày càng dồi dào và tinh xảo thêm.

    Tóm lại, một người biết nghe, nhìn tự khắc rút được nhiều ý kiến hay, và người đối diện với bạn có càng nhiều thiện cảm về bạn.

    Có lẽ bạn cũng từng biết, một em bé chưa biết nói, nhưng ánh mắt của bé nói được rất nhiều đến nỗi khi bạn đi xa cũng sẽ nhớ thắt nó.

    Bởi đâu?

    Bởi vì ngôn ngữ của bé là tất cả mọi cử động, mà cử động quan trọng nhất của đứa bé là ánh mắt.

    Qua nét nhìn ta nhớ mấy điểm chính:
     
  7. chiqudoll

    Bài viết:
    1,623
    NỤ CƯỜI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Cười có nhiều thái độ. Điều muốn nói ở đây là nụ cười quan tâm, phải có tấm lòng ôn hòa độ lượng thì nụ cưới mới duyên dáng được.

    Người ta thường nói: "Người có nụ cười tươi chẳng khác nào có đóa hoa gắn trên môi."

    Biết cách cười cũng là một nghệ thuật.

    Hồi đầu thế kỷ này, nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh có viết bài: "Gì cũng cười", trong đó ông có phê phán những cái cười vô ý thức. Bài viết đó có phần khắt khe: "An Nam ta có một thói lạ, gì cũng cười.. Hì một tiếng mọi việc hết nghiêm trang!"

    Xét cho cùng, đất nước ta kinh qua không biết bao nhiêu nỗi đau đớn, mà vẫn tồn tại đến hôm nay, đó cũng là nhờ ở "nước lề quê thói". Và nụ cười có sức truyền cảm bí mật, có sức đoàn kết ngấm ngầm, có một nỗi thiết tha và độ lượng, khó nói đến cùng.

    Trong bài thơ "Ngồi từ Quảng Đông" có câu:

    "Mở miệng cười tan cuộc oán thù!"

    Cụ Phan Bội Châu đã tỏ ra là bậc đại nhân quân tử. Một tâm hồn độ lượng, khiến nụ cười phải rộn rã như tiếng pháo đầu xuân đuổi xua những hắc ám và u khí.

    Nụ cười và tiếng nói đều hiện trên môi, nhưng cử động của đôi môi rất khác nhau cho mỗi trường hợp. Nụ cười lắm khi không có tiếng, nhưng đối tượng thấy mát rượi hay ấm áp còn tùy theo hoàn cảnh lúc đó.

    Nụ cười có khi biến đổi một cảnh ngộ hiểm nghèo thành bình yên. Trong một chuyến tàu đêm từ Phú Quốc về Rạch Giá, hôm ấy nhằm lúc biển động mạnh. Sóng và gió mỗi lúc mỗi mạnh, thỉnh thoảng có vài đợt sóng phủ qua "sa quạ" (boong tàu), tàu chao đảo hành khách nhốn nháo, viên tài công không hiểu sao cũng mất bình tĩnh, biển tối đen. Đèn trên tàu không hiểu sao cũng tắt ngấm, chỉ còn một chút sáng yếu ớt của chiếc hải bàn phát ra. Bỗng một nữ hành khách nói:

    "Bác tài cứ bình tĩnh! Mấy lần trời bão là mấy chú hải âu thích lắm, vì nó có dịp đọ sức với gió. Tôi xin ra ngoài trấn an mấy người kia."

    Lúc đó anh thợ máy làm sáng lại mấy ngọn đèn. Thiếu nữ đi một hồi trở lại nói: "Bác tài giỏi quá, tàu mình sắp đến Hòn Tre rồi!"

    Sóng gió ầm ào như vậy, ai nấy đều xanh mặt, nhiều người đọc kinh cầu, riêng nữ khách ấy vẫn giữ trên môi một nụ cười an trường, khiến bác tài thêm phấn khởi tự tin. Vào tới bờ trời vừa sáng. Viên tài công nói với nữ khách gan dạ:

    "Bảo này rất lớn, các em bảo không chính xác nên mới" dương "vậy đó. Cảm ơn cô đã giúp sức cho chúng tôi."

    Anh cao hứng đọc hai câu thơ cũng khá hợp:

    "Dù đời ta còn đôi cành lá

    Xin vì người trổ hết mùa bông!"

    Trong sự xã giao một cách tự nhiên, thì nụ cười cũng phải tự nhiên để khỏi mất tính ban đầu của nó.

    Người ta nói: "Chỉ có con người mới có nụ cười."

    Trên vấn đề thân thiện nụ cười có ý nghĩa theo từng thời kỳ (hay giai đoạn) : Nụ cười cảm thông, nụ cười khích lệ, nụ cười tán đồng.. và cũng nên tránh những nụ cười có ý nghĩa tương phản: Cười mỉa mai, cười châm biếm, cười mát, cười gượng..

    Dễ hiểu, người đang đối diện với ta không phải kẻ đối đầu, không phải kẻ thù.

    Giả như bạn là người đi xin việc làm, đang nghe ông giám đốc nói chuyện, nếu thỉnh thoảng thì cứ nở một nụ cười tự nhiên, còn không cười được cũng phải cố gắng giữ nét mặt hòa hoãn, tránh những cái cười gượng, cười nịnh.

    Đối diện với người bạn gái, nếu cô bạn quá nghiêm trang, thì bạn không nên "nghiêm trang hơn", vì như vậy dễ trở thành một không khí cục bộ nặng nề, bạn phải tinh ý, tìm một vài câu nói hay cử chỉ vui nhộn, khôi hài tất cả đều cởi mở để không khí đó còn được sống động.

    Nếu cô bạn quá náo nhiệt, sôi nổi, còn bạn thì thầm lặng, dĩ nhiên bạn không thích cái quá trớn ấy phải làm sao?

    Bạn khoan lên tiếng phản đối, cũng đừng nhíu mày nhăn mặt, cố gắng giữ một thái độ thản nhiên. Vì nếu người đối diện là một bạn mới chắc chắn nàng không sôi nổi quá đáng. Nếu nàng là bạn cũ thì bạn đâu có lạ gì tính nết của nàng?

    Cả hai trường hợp trên bạn có cùng một cách xử sự để lấy lại sự quân bình cho không khí lúc đó: Nụ cười đằm thắm và ôn hòa!

    Không ngày nào ta không thấy nụ cười của người chung quanh, nhưng nụ cười hồn nhiên nhẹ nhàng chỉ có được ở những con người nhân hậu vô tư nên tránh những tiếng cười "hô hố", vì nó biểu lộ tính tự mãn, đắc thắng. Nụ cười ấy dành riêng cho các vị tướng quân thời cổ, hoặc dành cho những buổi tiệc của đám cường đạo, hải tặc..

    Bạn có thể khó tính, nhưng đừng tưởng kẻ khó tính không có nụ cười dễ dãi. Cần một nụ cười đó không khó đâu. Trước nhất bạn nên tạo một nụ cười trong gia đình. Mỗi buổi sáng trước khi bước xuống giường, bạn chịu khó suy nghĩ một câu nói vui (dù lúc đó gia đình không có tiền ăn điểm tâm) cho dù người thân như vợ con, hoặc cha mẹ hoặc anh, chị em.

    Làm hiền làm lành với người thân đâu có gì xấu hổ? Tại bạn chưa quen đó thôi.

    Không riêng gì người phương tây có câu chúc vào mỗi buổi sáng, mà từ ngàn xưa người Đông phương cũng có phong tục đó. Câu: "Thần tĩnh mộ khan" (sớm thăm tối viếng) không hẳn chỉ bổn phận con cái đối với cha mẹ, anh chị em trong gia đình cũng thăm hỏi được vậy. Đây, chúng ta tập lấy những nụ cười trong sáng, thư thái, hỉ xả.

    Nếu bạn hỏi: "Sao các nhà sư ít cười họ lại nhiều tín đồ?"

    Đó là một trường hợp khác. Đạo hạnh của những vị ấy trang nghiêm. Họ không cười ra tiếng, nhưng họ cười qua ánh mắt, qua thần thái, qua tấm lòng hoan hỉ. Sự ung dung và độ lượng là nụ cười của họ.

    Vui tính là một cách cười. Khôi hài là cách làm cho người khác vui và cười. Trong tuồng cải lương hay hát bội cũng có vai mấy anh hề. Vai trò của họ không liên hệ gì với tuồng, nhưng rất quan trọng đối với khán thính giả.

    Một nụ cười tươi nhiều khi đáng giá tỷ tiền. Đọc truyện cổ Trung Quốc, chúng ta không quên nụ cười của Bao Tự. Và những câu: "Nhất tiếu thiên kim", "nhất tiếu khuynh thành".. không phải nụ cười của người đẹp mới giá trị.

    Lại có một chuyện khó quên. Hồi ấy bạn tôi tham gia dự giải vô địch quyền tự do hạng nặng. Bạn tôi sở trường về môn Aikido-Aikido mà đi đấu với Vovinam, Thái cực đạo Thiếu Lâm.. cầm bằng "bầm giập như chơi".

    Buổi tối hôm ấy bạn tôi bị đối thủ đánh tơi bời. Đến hiệp thứ tư mắt bạn tôi sưng lên. Hồi lúc bắt đầu lên đài, tôi cố chen ngồi phía trước mục đích là cho bạn thấy sự có mặt của mình để cổ động tinh thần, nhưng có lẽ bạn tôi ngay từ đầu không thấy tôi.

    Khi lần "cho nước" thứ tư, bạn tôi thảm hại quá, tôi đứng gần đó, bạn tôi thấy kịp, tôi bật cười thật "ngon lành" vừa gật đầu vừa đưa ngón tay cái lên. Hai đứa thân với nhau, nghệ nghiệp cũng suýt soát, qua nụ cười "tin tưởng" ấy, bạn tôi như linh hoạt hẳn lên.

    "Một sức mạnh rất bí mật và một tuyệt chiêu bất ngờ." Đối thủ của bạn tôi bị đo ván, sau chín tiếng đếm! Đó là lời nói của bạn tôi. Nụ cười trong lúc này chẳng khác gì liều thuốc kích thích. Đừng nói chi con người, kể cả loài vật cũng vậy.

    Nhà bác Hai Ngữ thường gầy giống gà chọi, một dạo có một trứng gà sinh đôi. Cả hai cùng lớn theo thời gian, đặt tên chúng là Ô-Anh, Ô-Em. Bác Ngữ săn sóc chúng rất cẩn thẩn. Nếu so sức đấu thì Ô-Em đá chính xác và thế thần hơn Ô-Anh, Ô-Anh lấn xác và lấn sức hơn Ô-Em. So với gà trường, anh em Ô nhỏ xác hơn chúng. Tuy vậy anh em Ô chưa hề bại, mỗi con đã từng ăn hai ba độ đáng giá,

    Có một điều ít người chơi gà để ý, bác Ngữ ôm gà đi đá, không bao giờ ôm chặt một con. Vì vậy mà khi Anh hoặc Em vào vòng chiến, con còn lại đứng ngoài vòng nhảy nhót cổ động. Có người mở trường gà ở quận khác nghe tiếng liền mang gà đến thách bác Hai đấu.

    Cuộc đấu này cáp độ rất lớn. Ô Em ra trận, Ô Em lớn chỉ 8/10 so với đối thủ! Đến hiệp thứ sáu, Ô Em chịu đòn như hết nổi. Ô Anh ở ngoài muốn tung nhảy vào. Bất ngờ nó gáy lên một tiếng thật oai vệ, Ô Em như được hồi sinh! Ô Em trổ đòn đá dồn dập vài tuyệt chiêu nữa. Đối phương nằm gục xuống!

    Trận đó Ô Em thắng. Ô Em về đến nhà thì chết. Sau năm ngày Ô Anh buồn bã chết theo. Từ đó bác Hai Ngữ không nuôi gà chọi nữa.

    Nụ cười đẹp là giúp người một niềm vui, giúp mình một thiện cảm ở người. Nụ cười vốn dĩ hồn nhiên và vô vụ lợi. Dẫu có người hiểu mình qua nụ cười, mời mình hợp tác làm ăn và dĩ nhiên nếu bạn thích thì cứ làm ăn chân chính với họ. Có nhiều bạn trẻ đã đẹp trai, học khá, lại có nụ cười rất có duyên. Với sự hấp dẫn bên ngoài ấy, nếu như không có chút đạo đức dễ biến mình là.. kẻ bạc tình nước Sở.

    Dù sao ta cũng nên ghi nhớ mấy điều:
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...