Khái quát chung: Xã hội nguyên thủy được chia làm 3 giai đoạn: Thời kỳ đồ đá cũ, thời kỳ đồ đá mới, thời kỳ đồ đồng. Biểu hiện nguyên thủy nhất của những công trình nghệ thuật nhân tạo xuất hiện vào cuối thời kỳ đồ đá cũ (2, 5 vạn năm đến 1 vạn năm tr. CN), lúc đó con người sống trong các hang động có gia công và làm những công trình kết bằng cành cây. Mặc dù xã hội nguyên thủy ờ các nơi trên thế giới trải qua thời gian dài ngắn khác nhau nhưng tập trung nhiểu ở vùng ôn đới nên hình thức kiến trúc ớ các nơi đều có những nét giống nhau. Nói chung, ờ xã hội nguyên thủy, con người đã có những hình thức nhà thô sơ và dần dần đã có những kiến trúc thờ cúng bằng đá. Mặc dù những công trình kiến trúc đó còn đơn giản nhưng nó đã bắt đầu đáp ứng được nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của con người lúc bấy giờ, đổng thời nó cũng khắng định những bước đi đầu tiên của Kiến trúc - một ngành nghệ thuật quan trọng có tác dụng to lớn và gắn bó với cộng đồng. Đặc điểm kiến trúc Nguyên Thuỷ thời kì đồ đá cũ (2, 5 vạn - 1 vạn năm tr. CN) Đặc điểm chung kiến trúc của thời kì này là sự xuất hiện của các hang động, những công trình cư trú thô sơ. Những hình thức nhà ở thô sơ lúc bấy giờ như: Đào hầm trong lòng đất, khoét hang vào núi đá, lấy cây ghép thành liếp chắn gió, rồi dần dần cải tiến thành lều tròn có mái chóp nón, hoặc nhà vuông mái dốc hai bên, nhà sàn với vật liệu thường làm bằng cành cây và miết đất. Hiện nay còn tổn tại một số di chỉ như hang dộng Lascaux có hình vẽ khắc những con nai, con ngựa, hang động Font de Game ở Pháp, hang động Pech Merle ở Lot thuộc nước Pháp, một số di tích còn sót lại của các liếp chắn gió ở Alsace tại Pháp, ở Olduvai tại Tanzania.. Sau này trong suốt 4 thế kỷ từ thế kỷ XV, người ta đã gặp những bộ lạc người da đỏ ở Châu Mỹ vẫn sống trong thời kỳ đồ đá. Loại lều của họ được làm bằng vỏ cây hay bằng đất, có hình chóp nón hay hình vòm khum. Thời kì đồ đá mới (1 vạn năm - 3 nghìn năm tr. CN, hay còn gọi là thời kỳ đá mài) Do nhu cầu định cư nên trong giai đoạn này thôn xóm đã được hình thành, làng mạc tập trung hơn với những nhà ở có nhiều gian, mỗi gian có một bếp lò riêng. Nhà ở có thêm kho và chuồng súc vật chứng tỏ con người đã có sản phẩm dư thừa và chăn nuôi được chú trọng. Quy hoạch kiến trúc của con người ờ thời kỳ này cũng bắt đầu mang tính quy luật cao hơn. Nhà được đặt quanh sân, có nhà chính và nhà phụ, quanh làng có chướng ngại vật để bảo vệ, đó là hình thức phôi thai của các loại tường chắn và hàng rào ngày nay. Thời kỳ này nhà ở bớt thô sơ hơn, ngoài nhà đất còn có nhà sàn trên đất, nước. Vật liệu và kết cấu: Nhà có tường làm bằng cành cây trát đất, đá, có nơi có nền nhà làm bằng cả những tấm đất sét nung, mái nhà dốc. Thời kì đồ đồng (3 nghìn năm tr. CN) Về mặt kiến trúc trong thời kỳ này: Ngoài nhà ở là dạng nhu cầu thiết yếu, một số loại hình kiến trúc thờ cúng đầu tiên nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của người nguyên thủy đã ra đời. Đó là: - Phòng đá (Dolmen, còn gọi là thạch đài hay bàn đá) : Ngôi mộ nguyên thuỷ là nơi mai táng và thờ cúng các lãnh chủ và phù thúy lúc bấy giờ. Đó là những công trình làm bằng 2 cột đá lớn dựng đứng, bên trên đặt một tấm đá ngang. Ban đầu kích thước của phòng đá nhỏ (dài 2m và cao l, 5m), dẩn dần được xây bằng các khối đá lớn hơn đặt cách nhau tới 20m và tấm đá lợp nặng tới hàng chục tấn. - Cột đá (Menhir, hay Monolith) : Là những phiến đá dài có khi tới 20m và nặng 300 tấn được dựng làm cột độc lập, thân cột thường chạm khắc hình cây cối, người, vật. Có thể mỗi cột đá để kỉ niệm một người chết, cũng có thể tượng trưng cho lòng tin của con người đối với sức mạnh thiên nhiên. - Lan can đá (Cromlech, hay cờn gọi là thạch hoàn) : Là một vòng tròn hoặc những vòng tròn đồng tâm, dựng nên bời những cột đá. Trên lợp các tấm đá dài tạo thành vòng tròn khép kín. Lan can đá dùng để cúng ma thuật, ở giữa là một tấm đá dùng dể đặt vật hy sinh cho lễ cúng. - Xây dựng những phiến đá lớn: Gần đây một cuộc thử nghiệm đã được thực hiện để dựng lại những khối đá to lớn đồ sộ. Để hoàn thành công việc cần tới gần 150 người tham gia. Việc dựng những phiến đá đồ sộ này cũng không kém phần kỳ công so với việc vận chuyển chúng. Phương pháp được sử dụng ở đây là dùng bờ dốc và đối trọng, theo nguyên tắc đòn bẩy. - Hình thức sơ khởi của đền thờ: Người nguyên thuỷ đã xảy dựng những đền thờ kiểu sơ khai bằng đá, nó là mầm mống của những đền thờ sau này. Tiêu biểu là đền thờ Mnajdra - thờ nữ thần mùa màng ở Malta. Đó là những không gian tạo dựng bằng đá có hình Elip thô sơ nhưng kiên cố, đền chưa có hình dáng hình học rõ nét. Điều này phản ánh do bị hạn chế bời vật liệu và kết cấu cũng như công cụ chế tác nên tính chuẩn tắc của hình thức kiến trúc còn hạn chế. Tóm lại: Kiến trúc thời nguyên thủy, ngoài việc đáp ứng yêu cầu cơ bản là đảm bảo những yêu cầu về công năng, đã bắt đầu quan tâm đến sự trang trí, đến cái đẹp. Những vết tích nói trên tuy không còn nguyên vẹn nhưng đã đánh dấu những bước đi đầu tiên của buổi bình minh của nghệ thuật kiến trúc nhân loại.