

Đề bài: Cảm nhận của anh/ chị về 9 câu thơ đầu trong đoạn trích Đất Nước.
Bài làm
Bài làm
MẪU SỐ 1:
Giống như một bản đàn ca sông núi vút lên giữa rừng đại ngàn, giống như những đòa quỳnh hương kiều diễm nở bung cho màu xanh tươi trẻ, những gì là nghệ thuật chân chính sẽ còn mãi với thời gian và tác phẩm "Đất Nước" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mang trong mình giá trị ấy. Tác phẩm không chỉ là một sự giao cảm đầy tinh tế mà còn là sự hóa thân, sự dâng hiến đến quên mình của cả một thời đại. Đặc biệt, nhà thơ có cho mình những lí giải tinh tế về hai tiếng Đất Nước thiêng liêng, trước hết là qua chín câu thơ đầu:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.
[..]
Đất Nước có từ ngày đó."
[..]
Đất Nước có từ ngày đó."
Với phong cách thơ mới lạ, suy tư, sâu lắng, cảm xúc nồng nàn và giàu tính chính luận, trữ tình, Nguyễn Khoa Điềm bừng sáng lên như một vì sao sáng chói của nền văn học cách mạng, là đại diện tiêu biểu cho lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, đem đến cho thơ ca dân tộc một cái nhìn mới mẻ căng đầy. Nguyễn Khoa Điềm sáng tác tác phẩm "Trường ca Mặt đường khát vọng" vào năm 1971 tại chiến khu Bình Trị Thiên và được in lần đầu vào năm 1974. Trường ca đã đề cập đến những sự kiện trọng đại của nhân dân, đất nước qua đó thức tỉnh tuổi trẻ Việt Nam phải biết rõ trách nhiệm và bổn phận của bản thân đối với quê hương đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca dân tộc Việt Nam, Đất Nước mới hiện lên đầy đủ và trọn vẹn ở chiều sâu văn hóa, chiều dài lịch sử và chiều rộng địa lý. Chương thơ chia làm hai phần để tìm rõ câu trả lời cho câu hỏi: "Đất Nước là gì?" và "Ai đã làm nên Đất Nước?"
Như một lẽ tự nhiên, một điệu hồn mềm mại vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương, Đất Nước thấm vào tâm hồn con người tự bao giờ. Trong bầu không khí văn hóa dân gian, trong âm hưởng Đất Nước của nhân dân nồng thắm ngọt ngào:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi."
Hai chữ Đất Nước vang lên trong trang thơ đầy tha thiết, trìu mến bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất, bình dị nhất trong đời sống vật chất và tâm hồn. Độc giả sẽ phát hiện một điều khác lạ đó là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn. Và với cách viết này cũng đồng thời bày tỏ sự trân trọng, những thành kính thiêng liêng của tác giả dành cho Đất Nước. Điệp từ "Đất Nước" vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết tha, gợi cảm đưa ta về một miền không gian nối từ quá khứ, gắn liền với biết bao phong tục. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của Đất Nước từ bao đời nay qua ba chữ "đã có rồi" khiến cho Đất Nước bỗng sừng sững hiện hữu trong lòng người đọc, một lời khẳng định chắc nịch, bộc lộ niềm tự hào về lịch sử hình thành và phát triển qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Với cách dẫn vào mạch thơ rất đỗi tự nhiên như một lời trò chuyện tâm tình, chân thành mà mộc mạc cất lên từ trái tim nhà thơ, tác giả khẳng định Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta ra đời và vì thế khi ta lớn lên, ta đã thấy "Đất Nước". Vì thế, Đất Nước xứng đáng được tôn kính như một sinh thể, ta dành một tấm lòng nghiêng mình trước non sông. Ta sinh ra lớn lên trong dòng sữa ấm nóng của mẹ, trong tiếng quê hương tha thiết gọi về.
Sự bình dị không chỉ được hiện lên qua cội nguồn Đất Nước mà còn phảng phất ở lời thơ như thủ thỉ tâm tình. Đất Nước chính là không gian sống nuôi dưỡng ta từ thủa ấu thơ trở về với cát bụi. Đất Nước như cái nôi chung ru đời ta xanh tươi mãi. Tiếp câu thơ trên, tác giả dần dần vén bức màn về nguồn dốc của Đất Nước một cách cụ thể hơn, chi tiết hơn:
"Đất Nước có trong những cái" ngày xửa ngày xưa.. "mẹ thường hay kể."
Ngay từ những câu đầu tiên, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa cội nguồn Đất Nước về con người ngay từ thủa nằm nôi:
"Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi
Hồn thiêng Đất Nước cũng ngồi bên con."
(Huy Cận)
Hồn thiêng Đất Nước cũng ngồi bên con."
(Huy Cận)
Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" được nhà thơ sử dụng thật tinh tế và giàu mĩ cảm. Bởi cụm từ ấy đã đi sâu vào văn hóa của mỗi người Việt Nam như con thuyền nhỏ xinh dẫn ta về những miền xưa cũ, một miền êm ru, đưa ta về chiếc nôi bé bỏng, chiếc võng kẽo cà, nơi có chiếc quạt nan thoăn thoắt từ tay bà, nụ cười hiền hậu từ khóe môi của mẹ. Ngày xửa ngày xưa ấy đã đi cùng con người trong khoảng trời thơ ấu, khi câu chuyện cổ dân gian đưa những đứa trẻ vào ranh giới thiện-ác để hiểu được bài học "ở hiền gặp lành", nơi có cô Tấm, có Sọ Dừa, Thạch Sanh và tiếng lòng xót xa của người con đất Việt. Nó gợi cho ta một niềm thích thú như ùa về một khoảng trời xanh ngát cùng hình ảnh "mẹ thường hay kể". Thân thuộc biết mấy, yêu thương biết chừng nào. Một bài thơ nói về Đất Nước mà khi đọc lên ta rưng rưng nhớ về mẹ, nhớ thủa nhỏ nằm nôi bi bô tập nói, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục. Câu thơ như gợi cả chiều dài lịch sử của Đất Nước vọng về. Niềm thương niềm nhớ ấy đã được Lâm Thị Mỹ Dạ viết:
"Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần."
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần."
Rồi thì:
"Đất Nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn."
Bằng cách gắn liền miếng trầu với sự ra đời của sinh linh Đất Nước, nhà thơ đã bộc lộ tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cội nguồn Đất Nước mà còn nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ. Cụm từ chỉ thời gian "bắt đầu" như một dấu mốc thiêng liêng gợi về buổi bình minh lịch sử của cha ông thủa khai thiên lập địa thì hình ảnh "miếng trầu" lại gợi sự tích Trầu Cau trong kho tàng truyện cổ, một câu chuyện mang tính nhân văn đậm đà về nghĩa vợ chồng, tình anh em. Nó là nét văn hóa ứng xử của người Việt, một dân tộc luôn coi trọng nghĩa tình hơn vật chất "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Nó còn gợi sự khéo léo, tinh tế của người phụ nữ Việt. Chỉ là một miếng trầu bình dị mà đã trở thành biểu tượng của truyền thống văn hóa.
Sau ba câu thơ nói về sự ra đời của Đất Nước, câu thơ thứ tư đưa ta về những ngày tháng Đất Nước bắt đầu "lớn lên" như một con người. Quá trình phát triển của Đất Nước cũng trải qua những giai đoạn đặc biệt:
"Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"
Câu thơ có sức gợi lớn đưa ta về với buổi bình minh của đất nước cùng huyền thoại chàng trai làng Gióng nhổ tre đánh giặc ra khỏi bờ cõi như Tố Hữu từng viết:
"Ta như thủa xưa thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đâu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi."
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đâu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi."
Tự bao giờ làng quê Việt Nam đã gắn với tre, với loài cây mộc mạc bình dị như tính cách của người Việt thật thà, chất phác, hiền hậu và kiên cường. Nói như nhà thơ Nguyễn Duy:
"Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa.. đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao lên lũy lên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu".
Chuyện ngày xưa.. đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao lên lũy lên thành tre ơi
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu".
Cây tre trở thành người bạn kiên cố cho nhưng mái nhà bình dị mà ấm áp, trở thành chiếc cầu tre vắt vẻo. Tre đã đi cùng người Việt cả chặng đường dài đủ để chứng kiến từng lớp người tre già măng mọc, nối tiếp nhau trưởng thành và lớn mạnh.
Ngân nga chỉ bốn câu thơ nhưng cả đất nước kì vĩ lớn lao đã được Nguyễn Khoa Điềm gói gọn trong từng câu chuyện, từng sự vật nhỏ bé, từng truyền thống văn hóa dân tộc. Đất Nước qua lời kể của tác giả là những gì gần gũi, bình dị ta hoàn toàn có thể bắt gặp ở mỗi gia đình, bữa cơm ấm cúng bà kể chuyện cháu nghe, khúc hát ru ầu ơ về truyền thống cha ông đánh giặc.. Và nhà thơ tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mĩ tục của người dân Việt với vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của mẹ nói riêng, của người phụ nữ Việt Nam nói chung qua câu thơ:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu"
Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim đem trắng ngắn ngủi: Bên hiên nhà mẹ đang ngồi búi tóc gọn gàng. Mái tóc đen tuyền, óng tả mượt như dòng thác đổ. Vẻ đẹp ấy được gợi nhắc trong những câu ca dao:
"Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh"
Để chi dài bối rối lòng anh"
Hình ảnh đó đã trở thành nét đặc trưng của văn học nước ta. Những cái búi ấy không có cài trâm đính ngọc nhưng vẫn sáng ngời vẻ đẹp của tình yêu, nét đẹp của người phụ nữ Việt.
Bên cạnh truyền thống, ở đó còn có đạo lí ân tình ngàn đời của cha mẹ, những con người cùng cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất hình chữ S mà trong họ đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp:
"Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"
Cha mẹ thương nhau – Câu thơ như một lời khẳng định nghe hạnh phúc tràn đầy trong lòng độc giả. Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ trầm tính nhưng ý tứ sâu xa. Dù cuộc sống có thiếu thốn, có gian nan nhưng cha mẹ vẫn thương nhau bằng cái cay của gừng, cái mặn của muối. Thành ngữ "gừng cay muối mặn" được sử dụng thật hữu ý. Đó là những gia vị đậm đà quen thuộc không thể thiếu trong ẩm thực Việt, nhưng nó cũng là ân nghĩa thủy chung của cha và mẹ. Câu thơ như một lời răn dạy về đạo lí trăm năm của vợ chồng, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, bởi dẫu có hết tình thì vẫn còn chữ "nghĩa". Một ngày nên duyên thì cả đời ân nặng nghĩa bền:
"Muối ba năm muối đương còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa."
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa."
Tác giả đã cảm nhận Đất Nước trong tình nghĩa, trong gian nan, cay đắng, trong thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Trong những câu thơ đầu, nhà thư đã sử dụng những từ ngữ xưng hô quen thuộc trong đời sống mỗi người: Từ "mẹ", đến "bà" rồi "cha mẹ". Ta như được sống trong một sợi dây máu thịt gắn bó bởi huyết thống, bởi chúng ta đều là "con rồng cháu tiên" cùng đoàn kết, thủy chung yêu thương nhau thành truyền thống và bản sắc dân tộc.
Nhưng ta gắn bó với Đất Nước không chỉ bởi những tình cảm thiêng liêng ấy mà còn ở quá trình cũng nhau phấn đấu từ thủa hàn vi đến khi đủ đầy:
"Cái kèo, cái cột thành tên"
Gợi nhắc một nét văn hóa của người Việt, ta nhớ về nhà tranh vách lá. Đó là truyền thống làm nhà – kèo, cột. Cái kèo có hình tam giác cân trong kiến trúc cổ Việt Nam là hệ thống gỗ nối các đầu cột để đỡ hai mái dốc. Cột đẩy mái nhà lên cao, kèo giữ cột lại để làm nên sự bền vững cho khung nhà. Chính biểu tượng ấy đã góp phần bồi đắp non sông từng ngày.
Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện. Mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng, thế nên không có lí gì mà nhà thơ lại bỏ quên truyền thống đã đi cùng cha ông từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp lên nền vững trãi để dân ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phất phới tung bay:
"Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng"
Khám phá đất nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt, nhà thơ đã phát biểu nhận thức của mình như một lối định nghĩa độc đáo, một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi, thuyết phục độc giả bằng những điều giản dị, trân thành gần gũi. Câu thơ cuối của khổ thơ đã láy lại ý của câu thơ mở đầu, điệp từ "Đất Nước" xuất hiện với mật độ dày đặc trong kết cấu tăng tiến: "Đất Nước có rồi", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên" và chốt lại là một lời khẳng định có ý nghĩa như một chân lí.
Có thể nói, với chín câu thơ mở đầu này, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cách nhìn mới mẻ về Đất Nước. Phải nói rằng Đất Nước đã trở thành đề tài quen thuộc trong dòng chảy văn học Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đến với Đất Nước lại có cách cảm nhận riêng. Xưa kia trong bài "Nam quốc sơn hà" mượn "thiên thư", "đế cư" để thiêng liêng hóa dáng hình đất nước, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" mượn hình ảnh "hai vầng nhật nguyệt chói lòa" để trang trọng hóa đất nước, thì đến với Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước vô hình đã trở lên hữu hình. Đặc biệt nhà thơ có công đưa Đất Nước từ trời cao "thiên thư", từ ngai vàng phong kiến xuống miếng miếng trầu của bà, mái tóc của mẹ, tình nghĩa mẹ cha, nền văn minh lúa nước. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa Việt Nam. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, lời thơ nhẹ nhàng lôi cuốn mang nồng hơi thở cuộc sống và hơn tính chính luận trữ tình đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Với thể thơ ngọt ngào, tâm tình, đằm thắm, trò chuyện giữa anh và em cùng vốn kiến thức phong phú sáng tạo đậm chất văn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng tỏ câu hỏi: "Đất Nước có từ bao giờ?" Đoạn thơ đã đưa ta về cuộc sống quá khứ, cội nguồn của Đất Nước với không gian gần gũi, ngọt ngào để rồi ta nhận ra Đất Nước ở quanh ta, gần ta. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã góp một tiếng nói cổ vũ khích lệ tuổi trẻ thấy rõ sứ mệnh hiến dâng cho tổ quốc để làm nên Đất Nước muôn đời.
THAM KHẢO: Mẫu số 2
Chỉnh sửa cuối: