CHUYÊN ĐỀ 1: TRUYỆN THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ĐỀ 1: "Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ". Phân tích nhân vật Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ nhận định trên. I. Mở bài Cách 1. Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng của văn học Trung đại, sống ở thế kỷ XVI, là người học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ già và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời. "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm thành công nhất của ông. Tác phẩm là một trong 20 truyện của "Truyền kỳ mạn lục", được viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian và truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính – Vũ Nương- người phụ nữ đức hạnh, khao khát cuộc sống bình yên, hạnh phúc, nhưng các thế lực tàn bạo cùng lễ giáo phong kiến khắc nghiệt lại xô đẩy nàng vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất và bất hạnh. Vậy nên có ý kiến cho rằng "Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ". Cách 2. Số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn là đề tài mà được nhiều tác giả chọn để đưa vào tác phẩm của mình. Trong đó, "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ đã thể hiện rõ nét được số phận của họ và đồng thời là sự cảm thương với những người phụ nữ đó. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương- "Chuyện người con gái Nam Xương" thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. II. Thân bài 1. Khái quát chung: "Chuyện người con gái Nam Xương" có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của "Truyền kì mạn lục". Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết nên đã phải nhảy sông tự vẫn. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Đó là bi kịch của rất nhiều những người phụ nữ bất hạnh khi mà hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói, mất đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào bi kịch và cái chết là con đường giải thoát duy nhất để họ kết thúc bi kịch của chính mình. Vì thế, truyện không đơn thuần dừng lại ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, dóng lên niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh. 2. Phân tích nhân vật Vũ Nương để làm sáng tỏ nhận định Luận điểm 1: Số phận oan nghiệt của Vũ Nương (Tình duyên ngang trái) =>Thật vậy, câu chuyện trước hết thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến mà điển hình là Vũ Nương. - Ngay từ đầu tác phẩm Nguyễn Dữ đã cảm thương cho Vũ Nương- người phụ nữ nhan sắc và đức hạnh- lại phải lấy Trương Sinh- một kẻ vô học hồ đồ vũ phu. Thương tâm hơn nữa, người chồng còn "có tính đa nghi" nên đối với vợ đã "phòng ngừa quá sức". (Mòn mỏi đợi chờ, vất vả gian lao) => Đọc tác phẩm, ta thấy được nỗi niềm đau đớn của nhà văn với Vũ Nương – người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là sự xót xa cho hoàn cảnh éo le của người phụ nữ: Lấy chồng chưa được bao lâu, "chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh", nàng đã phải tiễn biệt chồng lên đường đi đánh giặc Chiêm. - Cảnh tiễn đưa chồng của Vũ Nương mới ái ngại xiết bao. Nàng rót chén rượu đầy ứa hai hàng lệ: "Chàng đi chuyến này.. mẹ hiền lo lắng". Thật buồn thương cho Vũ Nương, trong những ngày vò võ một mình ngóng trông tin chồng với bao nhớ thương vời vợi: "Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Hẳn rằng Nguyễn Dữ vô cùng đau đớn cho Vũ Nương nên chỉ cần một câu văn ấy cũng đủ làm người đọc cảm thấy xót xa với người mệnh bạc có chồng chia xa. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong thời phong kiến loạn lạc. Trương Sinh đi, để lại gánh nặng gia đình, để lại gánh nặng cho người vợ trẻ. Vũ Nương thay chồng vất vả nuôi mẹ, nuôi con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con Vũ Nương trong căn nhà trống vắng cô đơn. Đọc đến những dòng tả cảnh đêm, người vợ trẻ chỉ biết san sẻ buồn vui với đứa con thơ dại, chúng ta không khỏi chạnh lòng thương xót cho mẹ con nàng. (Cái chết thương tâm) (Nỗi oan khuất của Vũ Nương) =>. Thế rồi, "Việc quân kết thúc", Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về, nhưng Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói mà Trương Sinh lại đinh ninh rằng vợ mình hư hỏng nên "mắng nhiếc" và "đánh đuổi đi". Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin đến rớm máu của vợ, mọi sự "biện bạch" của họ hàng làng xóm. Vũ Nương bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là vợ mất nết hư thân: "Nay đã bình rơi.. Vọng Phu kia nữa". - Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa". Lúc bấy giờ Trương Sinh "mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi". Người đọc xưa cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. (Nỗi oan cách trở) =>Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.. là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ "bạc mệnh" duyên phận hẩm hiu, có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của hồn ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: "Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa" làm cho nỗi đau của nhà văn thêm phần bi thiết. Nỗi oan tình của Vũ Nương được minh oan và giải tỏa, nhưng âm – dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại nhân gian và cũng không bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ. Luận điểm 2: Vẻ đẹp truyền thống của Vũ Nương - Bên cạnh truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến thì truyện còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ tiêu biểu là Vũ Nương. Người con gái "thuỳ mị, nết na" và "tư dung tốt đẹp" => Ngay từ đầu truyện tác giả đã giới thiệu về Vũ Nương với một chi tiết thật ngắn gọn, khái quát "Tính đã thùy mị, nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp". Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú "mến vì dung hạnh" đã "xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về". ( Người vợ thuỷ chung) =>Những ngày sau đó, Vũ Nương hiện lên là một người phụ nữ khéo léo, đôn hậu, biết chồng có tính "đa nghi" nàng đã "giữ gìn khuôn phép" không để xảy ra cảnh vợ chồng phải "thất hòa". Khi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy chúc chồng "được hai chữ bình yên" . Nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ. Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. - Vũ Nương còn thể hiện niềm cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà chồng phải chịu đựng và nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng" . Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ chồng chất dài theo năm tháng ".. mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được" . Khi bị chồng nghi oan, nàng đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng còn nói đến thân phận mình và nghĩa tình vợ chồng để khẳng định tấm lòng thuỷ chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là đã hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nhưng rồi mọi cố gắng của nàng cũng không lay động người đa nghi như Trương Sinh. - Để minh oan cho mình là người phụ nữ "đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn son", mãi mãi soi tỏ với đời "vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mì" nàng đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử kết thúc cuộc sống đau khổ ở trần thế. Rồi sao, ở dưới thuỷ cung, tuy Vũ Nương có oán trách Trương Sinh, nhưng nàng vẫn thương nhớ chồng con, quê hương và khao khát được trả lại danh dự: "Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày". (Người mẹ hiền, dâu thảo) => Vũ Nương là người phụ nữ đảm đang và giàu tình thương mến. - Chồng ra trận mới được một tuần, nàng đã sinh con. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng "hết sức thuốc thang", "ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã "hết lời thương xót", việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo. Nhà văn Nguyễn Dữ rất già dặn khi ông để bà mẹ chồng nhận xét về Vũ Nương. - Lời nhận xét ấy cũng là lời ghi nhận công ơn của nàng với gia đình nhà chồng: "Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Đó là cách đánh giá thật xác đáng và khách quan. Từ xưa đến nay cũng hiếm có lời xác nhận tốt đẹp của mẹ chồng đối với nàng dâu. Điều đó chứng tỏ Vũ Nương là một nhân vật có phẩm hạnh hoàn hảo, trọng đạo nghĩa làm vợ, làm dâu và làm mẹ. Tác giả khẳng định một lần nữa trong lời kể: "Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình". (Người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến) => Qua hình tượng Vũ Nương, người đọc thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện ba con người tốt đẹp: Nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang, chung thủy, người mẹ hiền đôn hậu. Ở nàng, mọi cái đều sáng tỏ và hoàn hảo đến mức tuyệt vời. Đó là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa. 3. Đánh giá, mở rông - Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo đanh thép với xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của những kẻ giàu có và những người đàn ông trong gia đình. Những người phụ nữ đức hạnh ở đây không được bênh vực, chở che mà còn bị đối xử bất công, vô lí. Những vẻ đẹp của Vũ Nương rất tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Câu chuyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của Vũ Nương và khẳng định vẻ đẹp truyền thống của nàng và cũng chính vì thế mà tác phẩm đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. - Liên hệ so sánh với những tác phẩm viết về nỗi bất hạnh của người phụ nữ và ca ngợi vẻ đẹp của họ: Văn học dân gian, "Truyện Kiều" – Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, "Chinh phụ ngâm" – Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" – Nguyễn Gia Thiều.. III. Kết bài Khẳng định thành công của tác phẩm=> Tóm lại, hình tượng Vũ Nương là điển hình nghệ thuật cho "phận đàn bà" tư dung tốt đẹp, chung thủy sắt son mà bất hạnh tột cùng. Câu chuyện "thể hiện niềm cảm thương sâu sắc với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ". Chuyện người con gái Nam Xương do đó thấm đượm giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Cho đến hôm nay câu chuyện vẫn như một hồi chuông nhắc nhở mọi người phải bênh vực, bảo vệ người phụ nữ để họ được hưởng những niềm hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Gấp trang sách lại, lòng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?