48 Nguyên Tắc Chủ Chốt Của Quyền Lực - Robert Greene

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Vân Mây, 24 Tháng sáu 2018.

  1. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 9: Chiến Thắng Bằng Hành Động, Chứ Không Bằng Lí Luận

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bất kỳ vinh quang tạm bợ nào mà bạn đạt được qua lý luận cũng chỉ là thứ chiến thắng chẳng phải trả bằng cái giá quá đắt. Sự oán giận và ác tâm mà bạn đã khuấy lên sẽ dai dẳng hơn việc đối phương tạm thời thay đổi ý kiến. Muốn người khác nhất trí với mình, bạn hãy hành động cụ thể mà không cần nói lời nào, như vậy bạn mới thực sự mạnh mẽ. Hãy chứng minh, đừng giải thích.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Vào năm 131 TCN, quan chấp chính La Mã là Publius Crassus Cives Mucianus vây hãm thị trấn Pergamus của Hy Lạp. Ông cần có một thân cây lớn để làm đòn húc sập cửa thành. Trước đó vài hôm, Mucianus trông thấy một số cột buồn của chiến thuyền to trong xưởng đóng tàu ở Athens, nên ông liền ra lệnh sung công ngay cây cột to nhất. Viên kỹ sư quân sự ở Athens nhận được lệnh, nhưng biết chắc rằng cây cột to nhất chưa phải là tốt nhất. Anh ta bảo đám binh sĩ rằng có cây nhỏ hơn, nhưng thích hợp hơn cho việc phá thành.

    Binh sĩ cảnh báo rằng quan chấp chính không phải người thích lý luận, song viên kỹ sư vẫn khăng khăng rằng vây cột nhỏ sẽ là thứ duy nhất thích hợp với cái thiết bị mà anh ta đã thiết kế để phá thành. Anh vẽ hết sơ đồ này đến sơ đồ khác, thậm chí bảo với quân lính rằng anh ta là chuyên gia, rằng họ không biết ất giáp gì về những điều anh ta nói. Tuy nhiên quân lính biết rõ vị chỉ huy của họ, và cuối cùng thuyết phục viên kỹ sư rằng tốt hơn anh ta nên ngậm miệng và chấp hành.

    Sau khi quân lính đi khỏi, viên kỹ sư suy nghĩ tiếp và tự hỏi liệu ích lợi gì khi tuân theo một cái lệnh trước sau gì cũng dẫn đến thất bại? Do đó anh ta cho chuyển đi cây cột nhỏ, tự tin rằng quan chấp chính sẽ thấy nó hữu hiệu hơn nhiều, từ đó sẽ khen thưởng anh xứng đáng.

    Khi cây cột tới nơi, Mucianus bảo quân lính báo cáo. Họ kể lại chuyện anh kỹ sư dài dòng thuyết giảng và khuyên dùng cây cột nhỏ, nhưng cuối cùng cũng hứa là sẽ chuyển cây lớn. Mucianus nổi trận lôi đình, không còn bình tĩnh để nghĩ đến việc bao vây thị trấn, hoặc đến phá thành trước khi viện quân Hy Lạp đến. Mục tiêu duy nhất trong đầu ông ta bây giờ là viên kỹ sư hỗn xược kia.

    Vài ngày sau khi bị triệu tập tới, anh ta vẫn một lần nữa hồ hởi giải thích cho Mucianus nghe tại sao phải dùng cây cột nhỏ. Anh ta cứ huyên thuyên mãi, đưa ra những lý lẽ mà anh ta đã nói với toán quân hôm trước. Với những chuyên môn hữu quan, anh ta khuyên Mucianus nên nghe theo ý kiến chuyên gia, và phải chi ông ta đã sử dụng cây cột được gửi tới để phá thành thì kết quả sẽ mỹ mãn. Mucianus để anh ta nói xong rồi ra lệnh lột hết quần áo trước toàn quân, cho lính dùng roi và gậy đánh cho đến chết.

    Diễn giải

    Viên kỹ sư, mà tên tuổi không được lịch sử ghi lại, đã bỏ cả đời ra để thiết kế cột nhà lẫn cột buồm. Thị trấn Pergamus nổi tiếng về sản xuất những cây cột tuyệt hảo, và viên kỹ sư kia là người giỏi giang nhất thị trấn. Chính vì vậy mà anh ta biết mình có lý. Cây cột nhỏ sẽ dễ khiêng hơn, cho tốc độ tiến công lớn hơn, do đó xung lực cũng cao hơn. Cột to không hẳn đã tốt hơn. Tất nhiên là Mucianus cũng thấy được lẽ đó và cuối cùng hiểu ra rằng khoa học rất trung lập, và lý trí sẽ chiến thắng. Vậy lẽ nào ông ta lại cứ mãi mê muội, một khi viên kỹ sư hết lời giải thích, kèm với sơ đồ minh họa?

    Viên kỹ sư quân sự kia điển hình của loại Người Lý Sự, loại người trong xã hội chúng ta nhìn đâu đâu cũng có. Người Lý Sự không hiểu rằng chữ nghĩa không bao giờ trung lập, và khi cãi lý với cấp trên, anh ta đã thách thức trí thông minh của kẻ có nhiều quyền lực hơn mình. Anh ta cũng không biết người đối thoại với mình thực sự là ai. Vì mỗi người trong chúng ta đều luôn cho rằng mình đúng, và ít khi nào lời lẽ người khác thuyết phục được ta, nên những lập luận của Người Lý Sự rơi vào tai kẻ điếc. Cho dù hết đường cãi thì hắn vẫn cố cãi mà không biết rằng mình tự đào mồ chôn. Một khi đã làm cho cấp trên cảm thấy mất tự tin và kém hơn về tri thức, thì cho dù có được sự hùng biện của Socrates cũng không cứu vãn được tình hình.

    Vấn đề không chỉ đơn giản là tránh tranh luận với cấp trên. Ai trong chúng ta cũng cho rằng ý kiến và lý luận của mình là đúng nhất. Vì vậy bạn nên cẩn thận: Hãy học cách chứng minh sự đúng đắn của ý tưởng mình một cách gián tiếp.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Năm 1502 tại thành phố Florence nước Italia, một khối cẩm thạch to đùng đứng sừng sững giữa khu nhà thi công nhà thờ Santa Maria del Fiore. Trước kia, nó từng là khối cẩm thạch nguyên liệu tuyệt vời, song có một thợ điêu khắc non tay nghề đã vô tình làm thủng một lỗ to ở vị trí lẽ ra phải là cặp chân của pho tượng sắp hình thành, nên sau đó không còn chỗ để tạc cặp chân. Thị trưởng Florence là Piero Soderini đã cố cứu vãn tình thế bằng cách mời cả Leonardo da Vinci và những bậc thầy khác tận dụng khối cẩm thạch, song cuối cùng ai cũng nhìn nhận rằng không còn cách nào cứu vãn được. Vì vậy cho dù đã tốn nhiều tiền mua về, nhưng khối đá đành đứng hứng bụi trong bóng tối.

    Ngày kia một nhóm bạn bè của nghệ nhân Michelangelo quyết định viết thư lên Rome để mời ông xem xét. Họ tin là chỉ mình ông mới có thể tận dụng khối cẩm thạch tuyệt vời đó. Nghệ nhân bằng lòng đến xem và cho biết ông có thể tận dụng để tạc một bức tượng khác, khéo léo tránh né cái lỗi trong khối đá. Soderini bảo chỉ tổ mất thời gian, rằng không ai có thể cứu vãn tai họa đó, song cuối cùng ông cũng bằng lòng để cho nghệ nhân thử nghiệm. Michelangelo quyết định tạc tượng David tay đang thủ dàn ná.

    Vài tuần sau, khi Michelangelo đang chấm phá những nét sau cùng thì Soderini bước vào xưởng. Tự ra vẻ mình cũng là tay thưởng lãm, viên thị trưởng ngắm nghía công trình một lúc rồi bảo Michelangelo rằng bức tượng rất đẹp, nhưng tiếc là cái mũi hơi to. Nghệ nhân biết rằng Soderini đang đứng ngay phía dưới bức tượng khổng lồ nên không thể có phối cảnh thích hợp. Không nói một lời, Michelangelo ra dấu cho thị trưởng theo ông ta lên dàn giáo, chỗ gần cái mũi. Sau đó Michelangelo nhặt búa đục và một ít bụi cẩm thạch vương vãi trên sàn, rồi leo lên độ dàn cao hơn một chút, khuất mắt Soderini. Vừa khua đục, Michelangelo vừa buông tay cho rơi dần ít bụi cẩm thạch, làm cho Soderini lầm tưởng là ông có đục đẽo thực sự. Vài phút sau Michelangelo leo xuống tầng dàn giáo nơi Soderini đứng và mời ông ta ngắm lại lần nữa. “Đẹp hơn rồi đó,” Soderini gật gù, “anh làm cho bức tượng sống động hẳn lên.”

    Diễn giải

    Michelangelo biết chắc rằng nếu sửa cái mũi thì xem như toàn bộ pho tượng sẽ đi toong. Nhưng Soderini lại là chủ thầu, tự đắc về mỹ quan của mình. Lý luận với một người như thế, Michelangelo sẽ không được gì cả, mà còn rủi ro mất đi nhiều đơn đặt hàng trong tương lai. Nghệ nhân đã khôn khéo im mồm. Giải pháp của ông ta là thay đổi vị trí và phối cảnh (đưa thị trưởng đến gần cái mũi hơn) mà không cần giải thích rằng chính phối cảnh đã làm Soderini đánh giá sai.

    May cho hậu thế, Michelagelo đã tìm được cách giữ nguyên bức tượng, đồng thời làm cho Soderini tin rằng nhờ mình mà bức tượng đẹp hơn. Đó là sức mạnh ta có được bằng hành động cụ thể chứ không qua lý luận: Không ai mất lòng và quan điểm của ta được minh chứng.

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Ở lĩnh vực quyền lực ta nên tìm cách đánh giá những động tác của mình về lâu về dài đối với người khác. Khi cố gắng chứng minh luận điểm hay chiến thắng bằng lý luận, cái khó là rốt cuộc ta không hề biết lời lẽ mình tác động đến người kia ra sao: Có thể họ bằng mặt nhưng không bằng lòng. Hoặc giả mình nói điều đó vô tình xúc phạm họ - chữ nghĩa quỷ quyệt ở chỗ có thể được hiểu theo tâm trạng người nghe. Ngay cả những lập luận tốt nhất cũng không có nền tảng vững chắc, bởi vì chúng ta thường nghi ngờ bản chất lươn lẹo của lời nó. Và chỉ vài ngày sau khi nhất trí với người khác, ta lại trở về với quan điểm của mình do thói quen.

    Bạn hãy nhớ rằng chữ nghĩa rẻ như bèo. Ai cũng biết rằng trong cơn phấn khích của tranh luận, chúng ta sẽ không thừa một chữ nào nhằm bênh vực lập trường của mình. Chúng ta sẵn sàng trích dẫn Kinh thánh, hoặc tham chiếu những thống kê không thể kiểm chứng. Ai lại đi tin những chiếc máy nổ như thế? Trong khi đó, nếu ta chứng minh bằng hành động thì sẽ mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn nhiều. Hành động thì cụ thể trước mắt đó, ai cũng thấy được – “Vâng, bây giờ thì cái mũi pho tượng trông đẹp hơn hẳn.” Không có lời lẽ nào dễ gây hiểu lầm, không có chữ nghĩa nào làm mất lòng nhau. Trước bằng chứng hiển nhiên, không ai có thể lý luận gì được nữa. Như Baltasar Grácian đã nhận xét, “Nhìn chung, mọi người chịu nhìn chứ hiếm khi chịu nghe sự thật.”

    Sir Christopher Wren là mẫu người thời Phục hưng của nước Anh. Ông am tường các khoa toán học, thiên văn, vật lý, và sinh lý học. Vậy mà trong suốt sự nghiệp dài đằng đẵng, với tư cách là vị kiến trúc sư được ca tụng nhất nước Anh, ông lại bị chủ thầu bảo là phải thực hiện những thay đổi trong thiết kế, những thay đổi hoàn toàn trong thực tế. Mỗi lần như vậy, Wren không bao giờ cãi lý hoặc làm mất lòng. Ông có cách khác để chứng minh luận điểm của mình.

    Năm 1688 Wren thiết kế tòa nhà thị chính cho đô thị Westminster. Kiến trúc hết sức lộng lẫy nhưng quan thị trưởng không hài lòng, mà nói đúng ra ông bị căng thẳng. Ông bảo Wren rằng tầng thứ hai có vẻ không chắc chắn, biết đâu nó sẽ sập xuống, đè bẹp phòng làm việc của ông ở tầng một. Ông yêu cầu Wren phải dựng thêm hai cột đá phụ trợ. Là một kỹ sư tinh tế, Wren biết rằng những cây cột đó sẽ không ích lợi gì, và nỗi lo sợ của thị trưởng là không có căn cứ. Nhưng ông vẫn cứ cho xây và quan thị trưởng rất hài lòng. Chỉ nhiều năm sau đó, toán thợ làm việc trên tầng cao mới nhận thấy là đầu hai cây cột không đụng trần nhà. Chúng chỉ được xây cho có, nhưng cả hai người trong cuộc đều được điều mình muốn. Quan thị trưởng được sự an tâm, và Wren cũng chắc chắn hậu thế sẽ hiểu ra rằng thiết kế ban đầu của mình thực sự hiệu quả, rằng hai cây cột kia rõ ràng chẳng cần thiết.

    Việc chứng minh ý tưởng của mình (bằng hành động) mạnh hơn ở chỗ đối phương không có tâm lý thủ thế, từ đó cởi mở hơn cho ta thuyết phục. Hãy làm cho họ thấy được điều mình muốn bày tỏ, thấy được sau nghĩa đen, theo nghĩa vật chất, như thế sẽ tốt hơn là ta chỉ đưa ra lý luận suông.

    Có lần Nikita Krushchev đang đọc một diễn văn kể tội Stalin thì có một người hỏi kiểu móc họng: “Lúc đó ông là đồng sự của Stalin, vậy tại sao không ngăn chặn ông ta lại?” Không nhìn thấy kẻ chất vấn giữa đám đông, Krushchev quát to “Ai hỏi vậy?”. Không cánh tay nào giơ lên. Không ai nhúc nhích. Sau vài giây im lặng căng thẳng, cuối cùng Krushchev điềm tĩnh nói: “Giờ thì các anh biết vì sao tôi không ngăn chặn rồi chứ?”. Thay vì giải thích rằng bất kỳ ai đứng trước mặt Stalin cũng đều sợ hãi, rằng chỉ cần một chút dấu hiệu kháng cự cũng đồng nghĩa với cái chết, Krushchev làm cho cử tọa có được cái cảm giác như thế nào khi đối mặt với Stalin – làm cho họ cảm được nỗi sợ khi phải lên tiếng, sự khủng khiếp khi đối đầu với lãnh tụ, và trong trường hợp này, lãnh tụ đó là Krushchev. Cách chứng minh này đánh thẳng vào trực giác cử tọa và mọi lý luận đều không cần thiết.

    Sự thuyết phục mạnh mẽ nhất vượt qua hành động để trở thành biểu tượng. Biểu tượng – một lá cờ, một truyền thuyết, một tượng đài kỷ niệm một sự kiện gây cảm xúc mạnh ở chỗ là ai ai cũng có thể hiểu mà không cần giải thích. Năm 1975 khi bắt đầu cuộc đàm phán nản lòng với Israel về việc trả lại một phần sa mạc Sinai, Henry Kissinger đột ngột đình chỉ một buổi họp căng thẳng và quyết định đi tham quan một vòng. Ông đến thăm tàn tích pháo đài Masada, nơi mà tất cả người Israel đều biết rằng bảy trăm chiến binh Do Thái đã đồng loạt tự sát vào năm 73, thay vì đầu hàng quân La Mã đang vây hãm. Có mặt với Kissinger tại pháo đài, người Israel hiểu ngay ý nghĩa chuyến viếng thăm của ông ta: Ông gián tiếp tố cáo họ đang tiến đến một cuộc tự sát tập thể. Mặc dù không làm họ thay đổi lập trường, nhưng bản thân chuyến viếng thăm đó cũng giúp họ suy nghĩ nghiêm túc hơn, nếu so với việc Kissinger trực tiếp cảnh báo. Một hành động biểu trưng như thế chuyển tải được nhiều hàm ý về mặt cảm xúc.

    Khi muốn đạt quyền lực, hoặc định duy trì quyền lực đó, bạn nên thử tìm con đường gián tiếp. Và cũng nên cẩn thận lựa chọn trận địa. Nếu về lâu về dài, người khác có nhất trí với ta hay không là không còn quan trọng – hoặc nếu với thời gian và kinh nghiệm họ sẽ hiểu ra điều ta muốn nói – thì tốt hơn ta không nên mất công chứng minh gì cả. Hãy tiết kiệm sinh lực và đi chỗ khác.

    Hình ảnh:

    Cầu bập bênh. Lên rồi xuống, xuống rồi lên, những người cãi lý không đạt được điều gì chắc chắn cả. Đừng ngồi trên đó nữa, hãy bước xuống và chứng minh cho họ thấy cái ý của bạn. Cứ để cho họ ngồi ở phía bập bênh cao, trọng lực sẽ từ từ đưa họ xuống.

    Ý kiến chuyên gia:

    Đừng bao giờ cãi lý. Trong đám đông, không điều gì cần bàn cãi, bạn chỉ nên trưng ra kết quả.

    (Benjamin Disraeli, 1804-1881)

    NGHỊCH ĐẢO

    Lời lẽ cũng có ích lợi sinh tử trong lĩnh vực quyền lực: Để làm đối phương xao lãng, để ngụy trang hành tung của ta, khi ta bịp bợm hoặc đang nói dối. Trong những trường hợp này, muốn được việc ta phải khua môi múa mỏ với tất cả… tấm lòng. Hãy lôi kéo đối phương vào cuộc tranh luận để hắn không thể phát hiện thực chất của chủ tâm ta. Muốn nói dối mà ít có vẻ nói dối, bạn nên tỏ vẻ hết sức thiết tha và trung thực.

    Kỹ thuật này từng cứu nguy cho nhiều tay lừa bịp, trong đó tiếng nổi như cồn là Bá tước Victor Lustig. Ngày kia ông ta bán cho nhiều người vùng thôn quê Mỹ những chiếc hộp dởm, mà ông ta quảng cáo là sao chép được tiền giấy. Khi khám phá mình bị lừa, các khổ chủ đành ngậm bồ hòn chứ không dám báo cảnh sát. Song cảnh sát trưởng Richards của hạt Remsen bang Oklahoma lại không phải là hạng người dễ dàng chấp nhận bị lừa mất 10.000 USD. Ông ta cố công đi tìm Lustig và ngày nọ phát hiện ra sư phụ trong một khách sạn tại Chicago.

    Nghe tiếng gõ, Lustig mở cửa phòng và nhìn thấy nòng súng chĩa vào bụng. “Hình như có vấn đề gì xảy ra?”, hắn ta bình tĩnh hỏi.

    “Đồ chó đẻ,” cảnh sát trưởng hét to, “tao sẽ giết mày. Mày lừa tao bằng cái hộp dởm!”

    “Ý ông là cái hộp không hoạt động sao?”, Lustig ra vẻ ngây thơ cụ.

    “Mày biết là nó dởm mà!”, cảnh sát trưởng hậm hực.

    “Không thể như thế được! Làm gì có chuyện nó không hoạt động. Ông có vận hành nó đúng cách không?”

    “Tao làm y hệt như lời mày dặn.”

    “Không, ông đã làm gì đó sai rồi”, Lustig nói.

    Sau đó cuộc tranh luận cứ xoay vòng vòng. Nòng súng từ từ hạ xuống.

    Lustig tiến sang giai đoạn hai của chiến thuật lý sự: Hắn tuôn ra từng tràng những kỹ thuật bá láp về cách vận hành chiếc hộp, đưa viên cảnh sát trưởng vào mê hồn trận. Đến lúc này cảnh sát trưởng có vẻ bớt tự tin và không còn cãi hăng nữa. Lustig nói: “Được rồi, tôi sẽ hoàn trả ông trọn số tiền ngay lập tức. Tôi cũng sẽ trao cho ông hồ sơ hướng dẫn sử dụng đúng cách, và tôi sẽ đến tận Oklahoma để tận mắt thấy cái máy hoạt động tốt. Bảo đảm ông không mất đồng xu nào.” Viên cảnh sát trưởng miễn cưỡng ưng thuận. Để trấn an, Lustig rút ra một xấp trăm tờ bạc trăm đô, đưa cho ông ta với lời chúc một kỳ cuối tuần vui vẻ ở Chicago. Đã bớt nóng bỏng và hơi lọng cọng, cuối cùng cảnh sát trưởng cũng ra đi. Những ngày sau đó, sáng nào Lustig cũng xăm xoi trang báo. Cuối cùng hắn cũng thấy được điều mình đang tìm: Một tin vắn về việc bắt giữ, xét xử, và buộc tội cảnh sát trưởng Richards tiêu thụ tiền giả. Lustig là người chiến thắng trong cuộc cãi vã; viên cảnh sát trưởng không bao giờ làm phiền Lustig nữa.
     
  2. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 10: Tránh Kẻ Xấu Số, Để Khỏi Xui Lây

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bạn có thể chết vì sự khốn khổ của kẻ khác – trạng thái xúc cảm cũng truyền nhiễm như bệnh tật vậy. Bạn tưởng mình cứu giúp người sắp chết đuối, nhưng thật ra bạn đang thò một chân vào tai họa. Kẻ xấu số đôi khi run rủi điều bất hạnh đến với họ; nhưng họ cũng run rủi bất hạnh đến với bạn. Bạn chỉ nên cộng tác với người hạnh phúc và may mắn.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Ra đời năm 1818 tại Ireland, Marie Gilbert đến Paris vào thập niên 1840 để thử vận may bằng nghề biểu diễn ca múa. Lấy nghệ danh là Lola Montez (mẹ cô ta có dòng máu Tây Ban Nha xa xôi), cô ta tuyên bố mình là vũ công flamenco đến từ Tây Ban Nha. Đến năm 1845 thì nghề nghiệp xuống dốc, Lola phải chuyển sang làm gái bao hạng sang, và chẳng bao lâu sau trở thành một trong những người thành đạt nhất Paris.

    Chỉ một người có thể cứu nguy cho sự nghiệp vũ công của Lola: Alexandre Dujarier, chủ tờ báo có số lượng phát hành cao nhất nước Pháp, đồng thời là người giữ nguyên mục bình luận sân khấu. Lola quyết chí gặp và chinh phục Dujarier. Quan sát thói quen mỗi ngày, cô thấy sáng nào anh ta cũng đi quần ngựa. Bản thân là kỵ sỹ giỏi, sáng ngày nọ Lola cũng cưỡi ngựa đi dạo và “tình cờ” va vào ngựa của Dujarier. Chẳng bao lâu sau hai người cùng cưỡi ngựa đi dạo mỗi sáng. Ít tuần sau nữa, Lola dọn vào ở chung với anh ta.

    Cả hai sống hạnh phúc được một thời gian. Với sự giúp đỡ của Dujarier, Lola bắt đầu hồi sinh sự nghiệp múa. Bất chấp những rủi ro đối với vị trí xã hội, Dujarier báo cho bạn bè biết sang xuân anh sẽ cưới nàng. (Lola chưa cho anh ta biết rằng năm lên 19 tuổi cô từng bỏ trốn gia đình để kết hôn với một người Anh, và do đó về mặt pháp lý Lola vẫn là vợ ông ta.) Dujarier yêu say đắm, nhưng cuộc đời anh bắt đầu xuống dốc.

    Trong kinh doanh anh gặp toàn rủi ro và bạn bè có thế lực bắt đầu xa lánh. Có lần Dujarier được mời dự đại tiệc, nơi quy tụ nhiều gương mặt trẻ giàu có nhất Paris. Lola đòi đi theo nhưng Dujarier không cho. Lần đầu tiên sau khi chung sống, hai người cãi vã nhau, và Dujarier đến buổi dạ tiệc trong tâm trạng nặng trĩu. Anh ta mượn rượu giải sầu rồi xúc phạm Jean-Baptiste Rosemond de Beauvallon, một nhà bình luận sân khấu nổi tiếng, có lẽ vì người này đã nói gì đó động chạm đến Lola. Beauvallon thách thức Dujarier đọ súng tay đôi ngay sáng hôm sau. Dujarier xin lỗi nhưng Beauvallon không chịu nên cuộc song đấu vẫn diễn ra. Vì Beauvallon thuộc nhóm xạ thủ hàng đầu ở Pháp nên Dujarier gục ngã. Như thế kết thúc cuộc đời của chàng trai trẻ triển vọng nhất Paris. Lola sụp đổ và giã biệt kinh thành.

    Năm 1846 Lola có mặt ở Munich, nơi cô ta quyết định ve vãn và chinh phục nhà vua Ludwig xứ Bavaria. Cô phát hiện ra cách tốt nhất tiếp cận Ludwig là thông qua sĩ quan tùy phái, Bá tước Otto von Rechberg, người nổi tiếng háo sắc. Ngày kia khi bá tước đang dùng bữa sáng ở quán cà phê lộ thiên, Lola cưỡi ngựa ngang qua và “rủi ro” ngã ngựa nên té sõng soài ngay dưới chân Rechberg. Bá tước lật đạt đỡ người đẹp dậy, sau đó hứa sẽ tiến dẫn nàng đến nhà vua.

    Rechberg sắp xếp buổi diện kiến, nhưng khi đứng ngoài tiền sảnh, Lola nghe vua bảo là ông quá bận nên không thể tiếp một người lạ đến xin ân huệ. Lola đột ngột chạy thẳng vào trong và xô đẩy với lính canh. Vạt áo trước cô ta rách toạc và trước sự ngỡ ngàng của mọi người, đặc biệt là nhà vua, để phô ra lồ lộ hai quả ngực trần. Lola được chấp nhận diện kiến. Năm mươi lăm giờ đồng hồ sau cô ta bắt đầu biểu diễn trên sân khấu Bavaria. Giới bình luận báo chí phê phán dữ dội, nhưng vua vẫn cho tổ chức biểu diễn tiếp.

    Theo chính lời của ông ta, thì Ludwig đã bị Lola “mê hoặc”. Ông bắt đầu xuất hiện trước công chúng với Lola ôm lấy cánh tay, rồi ông mua một căn hộ cho nàng ở đại lộ sang trọng nhất Munich. Mặc dù nổi tiếng hay là tay tằn tiện và không hề chơi ngông, nhưng bây giờ Ludwig lại xối xả mua quà cho Lola, rồi lại còn làm thơ tặng nàng. Trở thành đệ nhất ái phi, chỉ đầu hôm sáng mai Lola được phóng lên đài danh vọng.

    Cô nàng bắt đầu đánh mất ý niệm về chừng mực. Sáng hôm nọ đi cưỡi ngựa dạo chơi, Lola bực mình khi có một lão kỵ sĩ đi khá chậm trước mặt. Vì đường chật mãi không qua được, cô ta dùng cán roi quất ông. Lần khác Lola cho chó đi dạo nhưng không buộc dây nên chó cắn người đi đường. Thay vì mắng chó, cô ta còn dùng xây xích quất người ta. Tuy có tiếng tăm là lãnh đạm nhưng cư dân Bavaria vẫn phẫn nộ trước những hành động như thế và kiến nghị lên nhà vua. Tuy nhiên Ludwig một mực bênh vực tình nhân, thậm chí còn nhập tịch cho cô nàng. Các quan cận thần cố gắng thức tỉnh nhà vua, nhưng người nào chỉ trích Lola thì bị ngưng chức hết sức đơn giản.

    Nhân dân Bavaria từng yêu mến nhà vua song giờ đây lại công khai bất kính ông. Nhưng mặc, vua còn phong tước cho Lola và xây cho nàng một cung điện mới. Lola bắt đầu học đòi làm chính trị, cố vấn cho Ludwig về quốc sách, trở thành quyền lực hàng đầu trong vương quốc. Cô nàng ngày càng lấn sân vào nội các, và xem những bộ trưởng khác không ra gì. Hậu quả là nhiều cuộc nổi loạn bùng lên khắp nơi. Từng là vùng đất bình yên, giờ đây Bavaria đang trên bờ vực nội chiến, sinh viên xuống đường biểu tình hô to khẩu hiệu “Tống cổ Lola!”

    Đến tháng Hai năm 1848, cuối cùng Ludwig không còn chịu nổi áp lực nên cam lòng yêu cầu Lola rời khỏi Bavaria tức khắc. Cô ta ưng thuận với điều kiện khá nhiều tiền. Suốt năm tuần sau đó, nhân dân vẫn còn phẫn nộ với nhà vua, và sau tháng Ba, vua phải thoái vị.

    Lola Montez di trú sang Anh Quốc. Điều cô ta cần hơn hết là một tư cách đàng hoàng, và mặc dù là gái có chồng (Lola vẫn chưa thu xếp được vụ ly dị với ông chồng người Anh đã cưới nhiều năm trước đó), cô ta vẫn ngắm nghía George Trafford Heald, một sĩ quan quân đội đầy triển vọng, đồng thời là con trai một luật sư nổi tiếng. Tuy nhỏ hơn Lola đến mười tuổi, tuy có thể chọn vợ giữa những thiếu nữ xinh đẹp và giàu sang nhất nước Anh, Heald vẫn yêu Lola mê mệt. Họ làm đám cưới năm 1849. Bị cảnh sát truy lùng vì tình trạng song hôn, Lola rủ Heald bỏ trốn sang Tây Ban Nha. Sang bên đó mọi việc trở nên tồi tệ, họ cãi nhau dữ dội và có lần Lola gây thương tích cho Heald bằng dao. Cuối cùng cô đuổi anh chàng dại gái ra khỏi nhà. Trở về Anh Quốc, Heald đã mất vị trí cao quý trong quân đội. Bị cộng đồng người Anh tẩy chay, anh ta phải lưu lạc tận Bồ Đào Nha và sống thật nghèo khổ. Vài tháng sau đó anh qua đời trong tai nạn đường thủy.

    Biết cuộc đời sóng gió của Lola, có người tổ chức xuất bản quyển tự truyện của cô nàng, và vài năm sau đó anh ta phá sản.

    Năm 1853 Lola sang California, kết hôn với một thanh niên tên Pat Hull. Quan hệ mới này cũng bão táp không kém những quan hệ trước đó, và cô ta bỏ Pat đi lấy chồng khác. Pat thất vọng quay sang rượu chè, suy sụp tinh thần kéo dài bốn năm đến khi anh ta qua đời khi hãy còn trẻ.

    Đến năm 41 tuổi, Lola cho hết mọi quần áo trang sức sang trọng và hướng về đạo. Cô thường đi khắp nước Mỹ thuyết giảng những chủ đề tôn giáo, những dịp như thế cô mặc toàn đồ trắng, trên đầu có vật trùm trông giống vầng hào quang. Cô ta qua đời hai năm sau đó.

    Diễn giải

    Lola Montez dùng mưu mẹo để quyến rũ đàn ông, song quyền lực cô ta đối với họ còn vượt trên cả vấn đề thân xác. Chính sức mạnh cá tính cô ta đã giữ họ trong cơn mê muội. Đàn ông bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy mà cô ta khuấy quanh mình. Họ cảm thấy rối bời, chao đảo nhưng cường độ cảm xúc do cô tạo ra lại cũng khiến cho họ có sức sống mới.

    Như đối với trường hợp lây nhiễm, các vấn đề chỉ trầm trọng thêm theo thời gian. Cái nghiệp bất ổn của Lola dần dần hưởng sang những người tình. Họ cảm thấy mình bị sa lầy vào những vấn đề của cô ta, song vì tình cảm sâu đậm, họ lại muốn ra tay nghĩa hiệp. Đó chính là điểm sinh tử của căn bệnh – vì không ai có thể cứu rỗi cho Lola được cả. Nghiệp chướng của cô ta quá nặng nề. Người đàn ông nào nhúng tay vào xem như bị họa. Tự dưng hắn ta phải hứng chịu những tai họa từ trên trời rơi xuống. Cái cộng nghiệp đó còn lây sang cả gia đình và bạn bè hắn, hoặc, nhưng trong trường hợp Ludwig, còn lan ra cả quốc gia. Giải pháp duy nhất là phải đoạn nghiệp, nhanh chóng cắt đứt quan hệ càng sớm càng tốt, nếu không sẽ sụp đổ hoàn toàn.

    Không chỉ có phụ nữ mới lây nhiễm ác nghiệp cho người khác, vì sự lây nhiễm không phân biệt giới tính. Sức lây nhiễm này xuất phát tự sự bất ổn bên trong rồi phát tiết ra ngoài, chiêu tai giáng họa xuống chủ thể. Gần như đó là một ý nguyện phá rối và hủy diệt. Bạn không nên mất thì giờ để nghiên cứu bệnh lý của dạng người hay làm lây nhiễm ấy, bởi vì bạn sẽ phí phạm cả đời – chỉ nên rút kinh nghiệm thôi. Khi cảm thấy mình đang đối diện với dạng người như vậy, bạn đừng tốn nhiều lời, đừng thử cứu giúp họ, đừng giới thiệu họ với bạn bè, nếu không bạn sẽ sa lưới. Hoặc bạn tránh tiếp xúc với dạng người đó, hoặc bạn gánh mọi hậu quả.

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Quanh ta có những người bất hạnh vì hoàn cảnh đã vượt quá tầm kiểm soát của họ, họ xứng đáng được thông cảm và giúp đỡ. Nhưng ngoài ra còn có dạng người luôn chiêu điều xui xẻo và tai họa, có thể vì hành động của họ gây bất ổn và nguy hại đến người khác. Sẽ là quá tuyệt với nếu ta có thể nâng đỡ họ, thay đổi số phận họ, nhưng thường khi chính số phận họ lại cuối cùng lây nhiễm sang ta khiến ta phải vạ lây. Lý do thật đơn giản – con người rất nhạy cảm với những tâm trạng, cảm xúc, và thậm chí cách suy nghĩ của những người mà họ lân la.

    Những người đã có số phận bất hạnh và bất trắc có sức truyền lan rất mạnh, bởi vì tính cách và cảm xúc của họ rất mạnh. Họ thường ra vẻ mình là nạn nhân, khiến người đối diện thoạt tiên khó nhận ra chính họ mới tự gây tai họa. Bạn chưa kịp nhận chân ra vấn đề của họ thì đã bị vạ lây.

    Bạn nên tự hiểu thế này: Trong trò chơi quyền lực, việc ta hợp tác với ai cực kỳ quan trọng. Lỡ hợp tác với dạng người lây nhiễm kể trên, ta sẽ phí phạm thời gian và sinh lực quý báu để vùng vẫy thoát ra. Và một khi thoát được rồi, ta sẽ lại cảm thấy tội lỗi dưới mắt người khác. Đừng bao giờ đánh giá thấp những nguy hiểm của việc lây nhiễm.

    Có nhiều loại người hay gây tai họa cho kẻ khác, nhưng quái ác nhất là dạng cảm thấy bất mãn triền miên. Cassius, tên La Mã âm mưu chống lại hoàng đế Caesar, luôn bất bình vì lòng ganh tỵ sâu xa. Hắn không chịu được những ai giỏi hơn mình. Có lẽ đã nhận thức được nét cay cú không cùng của Cassius nên Caesar không giao chức pháp quan cho hắn mà giao cho Brutus. Cassius ấp ủ hận thù và ấp ủ, đến nỗi trở thành căn bệnh. Là người tôn thờ nguyên tắc cộng hòa, bản thân Brutus cũng không thích chế độ độc tài của Caesar. Phải chi kiên nhẫn chờ đợi thêm ít lâu, Brutus sẽ nắm quyền La Mã sau khi Caesar qua đời, từ đó tha hồ hóa giải những tai hại của chính thể độc tài. Nhưng Cassius lại thường xuyên lây nhiễm hiềm khích, ngày đêm rót vào tai Brutus những câu chuyện về tác hại của Caesar. Cuối cùng, hắn thuyết phục được Brutus tham gia âm mưu thích khách. Đó là bước đầu của bi kịch lớn. Sẽ tránh được biết bao tai họa nếu Brutus cảnh giác được sức mạnh của lây nhiễm.

    Với sự lây nhiễm, ta chỉ có giải pháp duy nhất là cách ly. Nhưng thường khi ta nhận ra được vấn đề thì đã quá trễ. Một Lola Montez sẽ trấn áp ta bằng tính cách mãnh liệt. Một Cassius sẽ dụ dỗ ta bằng tấm lòng bộc bạch và xúc cảm nhiệt thành. Ta tự vệ ra sao đối với những virus quỷ quyệt như thế? Bằng cách đánh giá thiên hạ qua tác động của họ đối với những người xung quanh, chứ không qua các lý do mà họ biện minh cho vấn đề của họ. Ta có thể phân biệt họ qua những tai họa mà họ tự chuốc lấy, qua quá khứ sóng gió của họ, qua sức mạnh của tính cách họ, cái tính cách cuốn hút ta mãnh liệt và làm ta mất hết tỉnh táo. Hãy cảnh giác đối với những triệu chứng lây nhiễm vừa kể, hãy học cách phát hiện điều gì đó bất ổn trong tia nhìn của họ. Và quan trọng hơn cả là bạn đừng thương xót. Đừng chìa tay cứu giúp rồi cùng chết chùm.

    Tác động của sự lây nhiễm cũng có thể xảy ra ở mặt khác, và có lẽ dễ nhận ra hơn: Có những người sờ đến đâu thành công đến đó, luôn gặp may vì tính tình vui vẻ, hăng hái tự nhiên, thông minh dĩnh ngộ. Họ là nguồn vui, và ta nên hợp tác với những người như thế để chia sẻ sự thịnh vượng mà họ lôi cuốn về mình.

    Điều vừa kể không chỉ đúng cho sự vui vẻ và thành công: Mọi thái độ tích cực đều tác động đến ta. Tính tình Talleyrand có nhiều nét lạ lùng và đáng sợ, nhưng hầu hết đều nhìn nhận rằng ông hơn hẳn mọi người về nét duyên dáng, sự hấp dẫn quý phái và tinh tế. Tất nhiên ông xuất thân từ một trong những dòng quý tộc lâu đời nhất nước Pháp, tuy nhiên ông dấn thân sâu xa vào con đường dân chủ đề đấu tranh cho chính thể cộng hòa, nhưng dù sao ông vẫn lưu giữ tác phong thượng lưu quý phái. Người đương thời Napoléon có nhiều nét ngược lại với ông – xuất thân từ gia đình nông dân đảo Corse, hoàng đế vốn lầm lì và khiếm nhã, thậm chí hung bạo.

    Napoléon không thán phục ai hơn Talleyrand. Hoàng đế ước ao được lòng mọi người như vị bộ trưởng của mình, được sự dí dỏm và khả năng quyến rũ phụ nữ như ông ta, và luôn tìm cách giữ ông ta quanh mình để thẩm thấu nét văn hóa mà mình khiếm khuyết. Nếu còn tiếp tục trị vì chắc con người Napoléon sẽ thay đổi. Mọi nét thô thiển sẽ dần dà mềm mại đi nhờ thường xuyên tiếp xúc với Talleyrand.

    Ta hãy tận dụng khía cạnh tích cực của sự thẩm thấu này. Nếu chẳng hạn bản thân đã lỡ keo kiệt thì ta không thể vượt qua giới hạn nào đó, vì chỉ có những tâm hồn cao thượng mới đạt đến sự vĩ đại mà thôi. Vậy ta nên hợp tác với những người bao dung, rồi họ sẽ truyền sự bao dung ấy cho ta, sẽ cởi mở những gì ke re cắc rắc trong ta. Nếu tính ta u uất thì hãy kết bạn với người vui vẻ. Nếu ta có khuynh hướng cô độc thì hãy ép mình chơi với những người thích giao du. Đừng bao giờ kết giao với những kẻ có cùng nhược điểm như mình – họ sẽ tăng cường những trở lực cản ngại ta. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Đó là quy luật của cuộc đời, sẽ đem đến cho ta còn nhiều lợi ích hơn là tất cả phương trị liệu trên toàn thế giới.

    Hình ảnh:

    Con virus: Bạn không thể thấy, nó chui vào lỗ chân lông hồi nào bạn không hề hay, âm thầm lây lan dần. Đến lúc phát hiện được thì nó đã ăn sâu trong cơ thể bạn.

    Ý kiến chuyên gia:

    Hãy tập cách phát hiện người có duyên may để có thể chọn lựa giao du, và người bị vận rủi để mà tránh né. Đó là loại bệnh hết sức truyền nhiễm. Đừng bao giờ mở cửa cho bất hạnh, dù là bất hạnh nhỏ nhất, nếu không nhiều bất hạnh khác sẽ được nước kéo vào theo… Đừng chết vì sự khốn khổ của người khác.

    (Baltasar Gracián, 1610-1658)

    NGHỊCH ĐẢO

    Nguyên tắc này không chấp nhận nghịch đảo nào cả. Nó đúng cho mọi lúc mọi nơi. Bạn sẽ không được gì khi liên đới với những người truyền cho bạn nỗi khổ của họ. Chỉ nên giao du với người vận đỏ để cùng hưởng may mắn và sức mạnh. Ai phớt lờ nguyên tắc này, khi tai họa xảy đến thì ráng chịu.
     
  3. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 11: Làm Cho Người Khác Phụ Thuộc Mình

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Muốn giữ vững độc lập, bạn phải là người được cần thiết, được yêu cầu. Mọi người càng dựa vào bạn thì bạn càng rộng đường thao tác. Mọi phụ thuộc vào bạn để được hạnh phúc ấm no và bạn không việc gì phải sợ. Đừng bao giờ dạy họ đến mức họ có thể tự lập mà không cần mình.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Vào thời Trung cổ, có một condottiero (tướng đánh thuê) cứu thị trấn Siena thoát khỏi móng vuốt ngoại bang. Vậy cư dân Siena làm gì để tưởng thưởng ông ta một cách xứng đáng? Không tiền bạc hay vinh dự nào có thể sánh với việc gìn giữ được tự do của một thị trấn. Có người đề nghị bầu ông ta làm thị trưởng, nhưng sau khi nghĩ lại thì mọi người bảo như thế hãy còn chưa đủ. Cuối cùng có một người đề nghị nên giết ông ta chết để tôn vinh và thờ phụng như một vị thần hộ mệnh. Mọi người đều đồng ý và thi hành.

    Bá tước Carmagnola là một trong những condottieri dũng cảm và năng lực nhất. Năm 1442 khi đã già, ông làm việc cho thành phố Venice, vốn đang lâm chiếm lâu dài với thành phố Florence. Đang ở trận mạc, ông được lệnh trở về Venice. Dân chúng đón tiếp ông thật long trọng và huy hoàng. Theo chương trình thì đêm hôm ấy Carmagnola sẽ ăn tối với quan tổng trấn tại tự dinh. Tuy nhiên trên đường đến dinh ông thấy quân lính đưa mình theo lối khác mọi khi. Vừa băng qua Cầu Than thở, ông đột nhiên nhận ra là họ đang áp tải mình – đến nhà giam. Ông bị vu cáo một tội gì đó và chỉ ngay sáng hôm sau tại quảng trường San Marco, trước đám đông kinh hãi không hiểu tại sao số phận ông thay đổi bi thảm như thế, ông bị chém đầu.

    Diễn giải

    Nhiều nhà condottieri thời Phục hưng ở Italia đều chịu chung số phận với thành hoàng Siena, cũng như Bá tước Carmagnola. Họ đánh trận nào thắng trận đó, đem vinh quang về cho chủ nhân, để rồi sau đó bị lưu đày, tống giam, hoặc hành quyết. Vấn đề không phải là sự vô ơn, mà là vào thời đó Italia có quá nhiều condottieri tài ba và dũng cảm như họ. Họ là những thành phần có thể thay thế. Nếu giết họ đi thì giới chủ nhân chẳng mất gì cả. Trong khi đó những condottieri trưởng lão ngày càng hùng mạnh, lại sinh thói vòi vĩnh thêm này nọ. Giới chủ quyết định thanh toán họ để mướn người rẻ hơn, trẻ khỏe hơn. Bá tước Carmagnola phải chịu số phận như vậy vì trước đó ông từng tỏ ra quá độc lập. Ông cho rằng quyền lực mình có là đương nhiên, mà không biết sắp xếp để mình thực sự trở thành không thể thiếu.

    Đó là số phận (hy vọng là ở cấp độ ít tàn bạo hơn) của những ai không làm cho người khác phụ thuộc mình. Không chóng thì chầy sẽ có ai đó ngang tài ngang sức anh – nhưng trẻ khỏe hơn, ít tốn kém hơn, và ít là mối đe dọa hơn.

    Hãy trở thành người duy nhất làm được việc đang làm, và sắp xếp sao cho chủ nhân bạn trở thành người đồng hội đồng thuyền, như thế họ không thể nào thiếu bạn được. Nếu không, sẽ có ngày bạn buộc lòng phải bước qua cây Cầu Than thở.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Khi trở thành thành viên nghị viện Phổ vào năm 1847, Otto von Bismarck mới có 32 tuổi, chưa có đồng minh hay bạn bè nào. Nhìn quanh, ông biết mình sẽ không liên minh với phe cải cách hay bảo thủ trong nghị viện, không kết bè với bất kỳ bộ trưởng nào, và chắc chắn không với nhân dân. Bismarck liên minh với vua Frederick William IV. Đây là sự chọn lựa kỳ quặc (nói như thế hãy còn nhẹ) bởi vì lúc ấy quyền lực nhà vua đang vào thời kỳ suy yếu nhất. Là người nhu nhược và không cả quyết, nhà vua thường nhượng bộ phe cải cách. Vua như người không có xương sống, và là điển hình của thứ mà Bismarck ghét nhất, cả về mặt con người lẫn chính trị. Vậy mà Bismarck ngày đêm lấy lòng vua. Khi các nghị viên phê phán những hành động ấm ớ của vua, chỉ mỗi Bismarck đứng ra bênh vực.

    Cuối cùng cuộc đầu tư đã sinh lợi: năm 1851 Bismarck được chức bộ trưởng trong nội các nhà vua, chẳng hạn như để củng cố quân đội, cưỡng lại áp lực của phe cải cách, nói chung là làm đúng như những gì ông ta muốn, Bismarck còn tác động vào tính thiếu tự tin của nhà vua, “khích tướng” để vua kiên quyết hơn và trị vì với lòng tự hào. Và dần dần ông ta phục hồi được uy quyền cho vua, cho đến khi chế độ quân chủ một lần nữa trở thành thế lực mạnh nhất nước Phổ.

    Vua Frederick băng hà năm 1861, ngai vàng về tay người em là William. Tân vương rất ghét Bismarck và muốn đẩy ông ta đi thật xa. Nhưng William cũng rơi vào tình huống trước kia của Frederick: kẻ thù đầy dẫy đang muốn bào mòn quyền lực tân vương. William đã muốn thoái vị cho rảnh nợ, cảm thấy mình không đủ sức mạnh để nắm giữ vị trí nguy hiểm và bấp bênh này. Nhưng một lần nữa Bismarck lại động viên vua. Ông ta ủng hộ và tạo thêm sức mạnh cho vua, thúc giục vua ra những quyết định cứng rắn và dứt khoát. Dần dần vua phụ thuộc vào các chiến thuật nặng tay của Bismarck để đẩy lùi kẻ thù, và phải ngậm bồ hòn phong Bismarck làm thủ tướng. Hai người thường tranh cãi về các chính sách – Bismarck bảo thủ hơn – nhưng nhà vua nhận thức sự lệ thuộc của mình. Mỗi khi bị thủ tướng hăm dọa từ chức thì vua lại phải gật đầu với những chính sách do ông ta đưa ra. Trên thực tế chính Bismarck là người thiết lập chính sách quốc gia.

    Những năm sau đó, với tư cách thủ tướng nước Phổ, Bismarck quy tụ nhiều bang người Đức hợp thành một quốc gia thống nhất. Đến thời điểm này, ông ta lại động viên nhà vua chấp nhận trở thành hoàng đế nước Đức. Nhưng thật ra chính Bismarck mới đạt đến điểm cao quyền lực. Là cánh tay phải của hoàng đế, là tướng quốc của đế chế và được phong tước cao quý nhất, Bismarck điều khiển tất cả mọi thứ trong triều.

    Diễn giải

    Hầu hết các chính khách trẻ và tham vọng vào thời nước Đức ở thập niên 1840 sẽ hợp tác xây dựng cơ sở quyền lực với những phe nào mạnh nhất. Nhưng Bismarck lại quan niệm khác. Hợp tác với kẻ nắm quyền chưa chắc đã khôn ngoan: Họ sẽ nuốt chửng ta, như quan tổng trấn Venice nuốt chửng Bá tước Carmagnola. Sẽ không ai đến dưới trướng ta nếu họ thực sự hùng mạnh sẵn. Nếu có nhiều tham vọng, bạn nên tìm đến những vua chúa hoặc chủ nhân đang yếu thế, miễn là bạn tạo được với họ một tương quan phụ thuộc. Bạn sẽ trở thành sức mạnh, trí khôn, và xương sống của họ. Bạn thật quyền lực biết bao! Vì nếu tống khứ bạn đi, nguyên cả cơ đồ sẽ sụp đổ.

    Chính hoàn cảnh mới buộc người ta phải chịu phép. Người ta chỉ phản ứng khi bị áp lực. Nếu bạn không đặt người khác vào thế phải cần đến bạn, thì bạn sẽ bị đào thải ngay cơ hội đầu tiên. Nếu ngược lại bạn nắm được quy luật của quyền năng và làm cho người khác phải lệ thuộc bạn để được lợi ích, thì bạn còn bền vững hơn cả chủ nhân của bạn, như trường hợp Bismarck. Bạn sẽ được tất cả mọi lợi thế đến cùng với quyền năng mà không phải canh cánh vì những lo âu đi kèm với vị trí ông chủ.

    Do đó một đấng quân vương khôn ngoan sẽ tìm mọi

    cách sao cho tất cả tầng lớp dân chúng, trong bất kỳ

    tình huống nào cũng phải phụ thuộc vào Nhà nước và

    phụ thuộc mình; chỉ như thế họ mới luôn trung thành.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Quyền lực tối thượng là loại quyền lực khiến mọi người phải tuân thủ ý ta. Khi nào ta thực hiện được điều đó mà không cần o ép dân chúng hay làm họ thiệt hại, khi nào họ tự nguyện làm theo ý nguyện của ta, thì lúc đó ta đạt được loại quyền lực bất khả xâm phạm. Cách tốt nhất để thành đạt vị trí đó là tạo ra tương quan phụ thuộc. Chủ nhân cần ta giúp đỡ; hắn yếu, hoặc không thể hành động mà không có ta; ta dấn thân vào công việc của hắn sâu đậm đến mức nếu sa thải ta hắn sẽ vô vàn khó khăn, hoặc ít ra cũng mất rất nhiều thời gian quý báu để đào tạo kẻ thay thế ta. Một khi tương quan này được thiết lập xong, ta sẽ ở thế thượng phong, sẽ giật dây cho chủ nhân làm theo ý ta muốn. Đó là trường hợp kinh điển của việc “buông rèm nhiếp chính”. Bismarck chẳng cần nặng tay để vua phải vâng lời. Ông ta chỉ đơn giản nhắn nhủ rằng mình sẽ ra đi nếu không đạt được điều mong muốn, lúc đó mặc vua quay cuồng trong cơn lốc xoáy. Quả nhiên sau đó vua phải khiêu vũ theo sự đánh nhịp của Bismarck.

    Đừng như hàng vạn người khác lầm tưởng rằng hình thức tối hậu của quyền lực chính là sự độc lập. Nói quyền lực là phải nói đến tương quan giữa người và người; bạn luôn cần có ai đó làm đồng minh, làm tốt thí, thậm chí làm một chủ nhân nhu nhược để mượn làm mặt tiền. Người hoàn toàn độc lập là người sống trong cái chòi giữa rừng – anh ta có quyền tới lui thoải mái, nhưng chắc là không có quyền lực. Điều tốt nhất mà bạn có thể hy vọng là những người khác lệ thuộc bạn đến mức bạn hưởng thụ một loại độc lập ngược: Vì họ cần có bạn nên bạn được tự tại.

    Vua Louis XI nước Pháp là người tin dị đoan và rất sủng ái một chiêm tinh gia. Vị này cho biết trong vòng tám ngày, trong triều đình nhà vua sẽ có một quý nương qua đời. Khi việc diễn ra đúng như tiên đoán, Louis hết sức sợ hãi, cho rằng hoặc nhà chiêm tinh đã ám sát quý nương để chứng minh mình đúng, hoặc tài năng ông ta quá xuất chúng và trở thành mối đe dọa đối với vương quyền. Nhưng dù rơi vào trường hợp nào thì ông ta cũng phải chết.

    Tối hôm nọ Louis dặn ông ta đến gặp tại một tháp cao trong tòa lâu đài. Cận vệ được dặn dò khi nào thấy vua ra dấu thì ập vào đền bắt nhà chiêm tinh và quăng ngay ra cửa sổ. Khi nhà chiêm tinh đến cúi chào xong, Louis vội ra dấu và hỏi: “Khanh bảo rằng mình biết chiêm tinh và đoán được số mạng người khác, vậy khanh nói trẫm nghe số phận của khanh và thọ mạng là bao?”

    “Muôn tâu, thần sẽ qua đời ba ngày trước khi bệ hạ băng hà,” nhà chiêm tinh đáp. Vua không bao giờ dám ra dấu nữa. Nhà chiêm tinh thoát chết. Louis XI không chỉ bảo vệ kỹ lưỡng sinh mạng ông ta, mà còn ban nhiều bổng lộc cùng với sự chăm sóc của những quan ngự y giỏi nhất triều đình.

    Sau khi Louis băng hà, nhà chiêm tinh vẫn còn sống tiếp nhiều năm, cho thấy ông kém tài tiên đoán nhưng lại nắm chắc quyền năng.

    Trường hợp kể trên là ví dụ điển hình: Hãy làm người khác phụ thuộc vào bạn. Không dám tống khứ bạn vì sợ tai họa, thậm chí sợ mất cả mạng sống, chủ nhân của bạn sẽ không dám thử thách định mệnh. Có nhiều cách để đạt đến vị trí ưu tiên đó, mà tốt nhất là nên có thực tài và kỹ năng sáng tạo không thể thay thế.

    Ở thời kỳ Phục hưng, một họa sĩ không thành đạt được vì gặp cản ngại chủ yếu là không tìm ra đúng người bảo trợ. Nhưng Michelangelo lại giỏi giang hơn đồng nghiệp ở mặt này: Người đỡ đầu ông chính là Đức giáo hoàng Julius II. Nhưng ngày kia hai người lại cãi nhau về việc xây dựng sinh phần bằng cẩm thạch cho giáo hoàng, và Michelangelo chán nản rời bỏ kinh thành La Mã. Trước sự ngạc nhiên của những người thân cận, giáo hoàng không những không sa thải Michelangelo, mà còn cho người tìm ông. Khi tìm được rồi, tuy bằng giọng điệu khá cao ngạo, nhưng quả thật giáo hoàng nài nỉ Michelangelo quay lại. Giáo hoàng biết rằng các nhà danh họa có thể tìm ra người bảo trợ khác, nhưng chính bản thân mình sẽ không bao giờ có một Michelangelo thứ hai.

    Bạn không nhất thiết phải tài năng như Michelangelo, chỉ cần có được một kỹ năng hơn hẳn những người khác. Bạn phải xây dựng được một hoàn cảnh, mà theo đó bạn luôn có thể đầu quân ở chỗ khác, nhưng ngược lại chủ nhân bạn lại không thể tìm người có tài như bạn. Và nếu bạn là kẻ không phải thực sự thiết yếu, thì bạn phải tìm cách để cho mọi người nhận thấy rằng không thể thiếu mình. Nếu tạo được cái vỏ bọc kỹ năng và tri thức chuyên môn, bạn sẽ rộng đường làm cho cấp trên tưởng là guồng máy không thể chạy tốt nếu không có bạn. Đối lại, nếu cấp trên thực sự phụ thuộc bạn, thì rõ ràng bạn càng dễ thao túng.

    Đó là ý nghĩa của việc đan chéo những số phận vào nhau: Giống như dây leo, bạn quấn lấy người nắm quyền lực, như thế nếu họ định dứt bỏ bạn thì bản thân họ sẽ bị thiệt hại. Nhiều khi bạn không cần phải quấn lấy chủ nhân, vì sẽ có người khác làm động tác này, trong chừng mực mà người ấy cũng thiết yếu cho hệ thống.

    Ngày kia Harry Cohn, chủ tịch hãng phim Columbia Pictures, được nhóm cán bộ thuộc quyền báo hung tin: Một nhân viên của hãng, nhà biên kịch John Howar Lawson, bị tố cáo là theo chủ nghĩa Cộng sản. Lúc ấy là vào năm 1951, khi phong trào bài cộng ở Hollywood đang ở đỉnh cao. Ban giám đốc phải sa thải ngay nhà biên kịch, nếu không sẽ bị chính phủ làm khó.

    Harry Cohn không phải là người có tư tưởng cởi mở phóng khoáng gì, trái lại ông là đảng viên Cộng hòa kiên định. Chính khách được ông ngưỡng mộ nhất là Benito Mussolini, người mà ông từng thăm viếng, và cho đóng khung ảnh treo trên tường văn phòng làm việc. Nếu ghét ai cay đắng, Cohn mắng hắn là “Thằng cộng sản khốn kiếp”.

    Song nhóm cán bộ rất ngạc nhiên khi Cohn khẳng định ông sẽ không sa thải Lawson. Nhà biên kịch được giữ lại không phải vì tài năng – Hollywood rất nhiều nhà biên kịch tài năng. Lawson không bị sa thải là nhờ phản ứng dây chuyền: Ông ta chuyên dựng kịch bản dành riêng cho Humphrey Bogart, mà Bogart lại là minh tinh của hãng Columbia. Nếu gây rắc rối với Lawson, Cohn sẽ mất đi mối quan hệ vô vàn sinh lãi. Tính đi tính lại, mối quan hệ này mang lại cho Cohn nhiều lợi ích, đủ để ông ta chịu tai tiếng là dám giỡn mặt chính quyền.

    Henry Kissinger được cái tài xoay sở để sống còn qua những cuộc thanh toán “máu đổ đầu rơi” trong nội bộ Nhà Trắng dưới thời tổng thống Nixon. Được như thế không phải vì ông là nhà ngoại giao lỗi lạc – còn nhiều nhà thương lượng tài ba khác – cũng không vì ông ăn cánh với tổng thống. Thật ra giữa hai người vẫn có trục trặc này nọ. Kissinger sống được qua bao bão táp là biết cách tự gắn mình sâu đậm vào nhiều lĩnh vực của cấu trúc chính trị, cho nên nếu vắng ông ta mọi thứ sẽ hỗn loạn ngay. Quyền lực của Michelangelo là thứ quyền lực tập trung, dựa vào tài năng một cá thể, còn quyền lực của Kissinger mang tính bao quát. Ông ta dính líu vào quá nhiều ban bệ và khía cạnh, đến nỗi sự dính líu này trở thành lá bài trong tay ông. Và vị trí này cũng giúp ông có nhiều đồng minh. Nếu bạn xoay xở tạo được cho mình một ưu thế như vậy, thì ai muốn sa thải bạn hẳn là người đó có rủi ro đùa với lửa – có khả năng làm cháy lan mọi tương quan khác. Tuy nhiên hình thức quyền lực tập trung lại tạo cho bạn sân chơi rộng lớn hơn, nhiều tự do hơn là quyền lực dàn trải, bởi vì người nắm được quyền lực ấy không dựa vào một chủ nhân nhất định, hoặc một vị trí quyền lực nhất định cho sự an nguy của mình.

    Trong số nhiều cách làm người khác phụ thuộc mình, có chiến thuật gọi là tình báo bí mật. Nắm được bí mật của người khác, biết được những điều họ muốn giấu giếm, xem như số phận họ gắn liền với số phận bạn. Sẽ ít ai dám động đến bạn. Ở thời đại nào cũng có những tay trùm mật vụ nắm được ví trí vừa kể. Họ có thể kiến tạo hoặc phế truất một ông vua, hoặc, như trường hợp J. Edgar Hoover, một vị tổng thống. Nhưng vai trò này quá nhiều bất trắc và khắc khoải âu lo nên cái quyền lực xuất phát từ đó cũng có thể tự triệt tiêu. Bạn không thể ngủ yên, thì quyền lực để làm gì nếu nó không làm bạn an tâm?

    Điều cảnh báo cuối cùng: Đừng tưởng hễ phụ thuộc vào bạn thì cấp trên sẽ yêu mến bạn. Hắn có thể vừa sợ vừa ghét bạn. Nhưng như Machiavelli từng nói, chẳng thà để người ta sợ mình còn hơn là người ta thương. Họ sợ, bạn còn có thể kiểm soát được, còn họ thương thì bạn bó tay. Lệ thuộc vào loại cảm xúc tinh tế và dễ thay đổi như tình yêu hay tình bạn, bạn chỉ tổ bất an mà thôi. Chẳng thà để người khác lệ thuộc vì sợ phải gánh chịu hậu quả khi mất mình, hơn là vì muốn thương yêu kề cận.

    Hình ảnh:

    Dây leo nhiều gai. Phía dưới thì rễ dây leo ăn sâu và lan rộng trong đất. Phía trên phát triển khắp những bụi cây khác, quấn quanh cây cối, trụ cột, cửa sổ… Muốn bứt phá đám dây leo đó thật tốn công mà nhiều khi còn trầy xước và chảy máu, chẳng thà để cho nó leo tự do.

    Ý kiến chuyên gia:

    Hãy khiến cho người khác phụ thuộc vào bạn. Sự phụ thuộc ấy nhiều lợi ích hơn là thái độ lịch sự với nhau. Thiên hạ hễ ăn xong thì quẹt mỏ. Một khi sự phụ thuộc không còn thì lễ nghĩa khuôn phép cũng mất theo, kể cả sự tôn trọng. Bài học đầu tiên mà kinh nghiệm cần dạy cho bạn là luôn hướng về phía trước và đừng bao giờ tự mãn, để cho ngay cả một kẻ vương giả phải luôn cần thiết đến mình.

    (Baltasar Gracián, 1601-1658)

    NGHỊCH ĐẢO

    Nhược điểm của việc khiến cho người khác phụ thuộc vào mình là trong chừng mực nào đó ta còn phụ thuộc vào họ. Nhưng nếu cố gắng vượt qua được tình huống đó có nghĩa là ta tống khứ họ - nghĩa là ta đứng một mình, không phụ thuộc ai cả. Đó chính là đường lối theo kiểu độc quyền của một J. P. Morgan hoặc John D. Rockefeller – loại trừ mọi nguồn cạnh tranh để có thể toàn quyền kiểm soát. Bạn thống lĩnh được thị trường thì càng tốt cho bạn.

    Nhưng không có độc lập nào mà không phải trả giá. Ta buộc lòng phải tự cô lập. Sức mạnh của độc quyền nhiều khi quay ngược vào trong, tự hủy diệt dưới sức ép nội bộ. Độc quyền cũng dấy lên oán giận, làm cho các địch thủ liên kết lại với nhau để chống lại độc quyền. Xu hướng toàn quyền kiểm soát nhiều khi gây ra đổ nát chứ không mấy lợi ích. Sự tương thuộc vẫn là quy luật chung, còn độc lập chỉ là ngoại lệ hiếm hoi và sinh tử. Vì vậy tốt hơn ta nên đặt mình vào vị trí phụ thuộc lẫn nhau. Như thế ta sẽ không bị sức ép mà kẻ ngồi trên đỉnh cao thường bị, và thực chất người ngồi trên bạn sẽ lệ thuộc bạn, bởi vì hắn cần đến bạn.
     
  4. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 12: Sử Dụng Nhân Nghĩa Có Lựa Chọn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Một nước cờ có vẻ trung thực và lương thiện sẽ che đậy hàng tá hành động bất lương. Những động tác tốt bụng và bao dung sẽ hạ thấp sự cảnh giác của những người đa nghi nhất. Một khi sự trung thực có lựa chọn của bạn đã tạo ra một chỗ hở trên giáp bị của đối phương, bạn sẽ tha hồ đánh lừa và thao túng họ. Một món quà đúng lúc – như con ngựa thành Troy – sẽ đáp ứng cho cùng một mục đích ấy.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Vào năm 1926, một người cao kều ăn mặc bảnh bao xin vào gặp Al Capone, tên găng-tơ được mọi người kính sợ nhất thời bấy giờ. Nói tiếng Anh giọng Âu châu, ông ta tự giới thiệu là Bá tước Victor Lustig. Ông nói nếu Capone cho mượn 50.000 USD thì ông sẽ làm một lời một. Số tiền đó rất lớn, nhưng không thấm vào đâu so với tài sản mênh mông của Capone. Tuy nhiên hắn không phải hạng người sẵn sàng mang món tiền lớn đầu tư vào người lạ. Hắn nhìn vị bá tước lại lần nữa: Vị này có điều gì đó khác người – phong cách quý phái, cử chỉ lịch lãm – và cuối cùng Capone chấp nhận chơi luôn. Hắn tự tay đếm tiền và trao cho Lustig: “OK, hai tháng sau ông đưa lại tôi gấp đôi.” Lustig nhận tiền xong ra về, đi ngay đến ngân hàng Chicago mướn ngăn két sắt cất hết tiền vào đấy, sau đó trực chỉ New York, nơi ông đang dàn dựng vài vụ hái ra tiền khác.

    Năm mươi ngàn đô-la nằm yên trong két sắt. Lustig cũng chẳng nhúc nhích ngón tay nào để làm cho chúng sinh lãi. Hai tháng sau ông ta trở về Chicago lấy tiền ra rồi đến xin gặp Al Capone. Nhìn thấy tên cận vệ mặt lạnh băng, Lustig mỉm cười biết lỗi rồi nói: “Xin ông vui lòng nhận cho sự tiếc nuối sâu sắc nhất của tôi, thưa ông Capone. Tôi rất tiếc khi phải báo cáo ông rằng kế hoạch đã thất bại… Tôi đã thất bại.”

    Capone từ từ đứng lên. Cặp mắt rực lửa, hắn nghĩ xem nên quẳng xác ngài bá tước ở đoạn sông nào đây. Nhưng đột nhiên bá tước cho tay vào túi áo khoác, rút ra 50.000 đô đặt lên bàn. “Thưa ông, đây là món tiền của ngài, không thiếu một xu nào. Một lần nữa, tôi thành thật xin lỗi. Quả tôi hết sức ngượng ngùng. Mọi việc đã không diễn ra theo ý. Tôi rất muốn làm cho món tiền này sinh lãi gấp đôi, cho ông và cho bản thân tôi – thề có trời là tôi cần kíp lắm – song kế hoạch đã không như ý định.”

    Capone bối rối ngồi phịch xuống ghế bành: “Tôi biết ông là tay lừa đảo, bá tước ạ. Biết ngay từ khi ông bước vào đây lần đầu. Tôi nghĩ hoặc mình sẽ được gấp đôi số tiền này, hoặc mất trọn gói. Nhưng giờ đây… mang trả lại nó cho tôi… thế đấy”. “Một lần nữa xin ông nhận cho tôi lời cáo lỗi chân thành, thưa ông Capone,” Lustig vừa chào vừa cầm nón bước đi. “Trời ơi, ông lương thiện thật!” Capone nói to. “Nếu ông đang kẹt tiền, thì đây cầm tạm năm ngàn đi.” Capone rút ra năm tờ một ngàn đô trong xấp năm chục ngàn. Bá tước có vẻ sững sờ, rồi cúi rạp mình lắp bắp cảm ơn, cầm tiền ra về.

    Năm ngàn đô là mục đích mà Lustig ngắm tới ngay từ đầu.

    Diễn giải

    Bá tước Lustig, kẻ nói được nhiều ngôn ngữ, kẻ tự hào về trình độ văn hóa và tao nhã, là một trong những ông trùm lừa đảo thời nay. Ông nổi tiếng bởi sự liều lĩnh, gan dạ, và quan trọng hơn cả, đó là sự hiểu biết tâm lý con người. Ông có thể đánh giá một người trong vài phút, khám phá những nhược điểm của người ấy, dường như ông có radar để phát hiện kẻ cả tin. Lustig biết rằng hầu hết ai ai cũng có tâm lý đề phòng bọn lừa đảo và phá đám. Công việc của tay đại bịp chính là làm xao lãng sự phòng thủ đó.

    Cách chắc ăn để làm nạn nhân bớt đề phòng chính là ra vẻ chân thành và lương thiện. Ai mà lại nỡ nghi ngờ một người bị “bắt quả tang” đang lương thiện cơ chứ? Lustig từng nhiều lần áp dụng sự lương thiện “có tuyển chọn”, nhưng với Capone thì ông ta dấn xa thêm một chút. Không có tay lừa đảo bình thường nào dám giở một trò lừa cỡ đó. Hắn ta sẽ chọn con mồi hiền hậu nhu mì, vì những con mồi như vậy sẽ ngậm bồ hòn mà không dám kêu đắng. Còn với Capone, thử lừa Capone đi, rồi từ nay đến cuối cuộc đời (hoặc những gì còn sót lại của cái gọi là cuộc đời đó) bạn sẽ trầm luân trong nỗi sợ hãi. Nhưng Lustig hiểu rằng một người như Capone không lúc nào mà không nghi ngờ người khác. Xung quanh ông ta không có ai là lương thiện hay hào hiệp, do đó phải sống giữa bày sói như thế thật căng thẳng thần kinh và tổn hao sinh lực. Một người như Capone muốn kẻ khác đối xử với mình thật hào hiệp và trung thực, muốn cảm thấy rằng không phải ai cũng rắp tâm vụ lợi hoặc lừa bịp mình.

    Lustig áp dụng sự lương thiện có lựa chọn và phỉnh được Capone vì hành động đó quá bất ngờ. Một bậc thầy lừa bịp luôn thích những cảm xúc trái ngược như vậy, bởi vì chủ thể cảm xúc dễ bị đánh lạc hướng và đánh lừa.

    Bạn đừng ngại áp dụng quy luật này đối với tất cả những Capone trên toàn thế giới. Chỉ cần bạn thể hiện hành động lương thiện hay hào hiệp đúng thời điểm, thì kẻ hung bạo và đa nghi nhất cũng sẽ bị bạn thao túng.

    Mọi thứ đều trở nên ủ rũ khi nhìn quanh mà tôi không

    phát hiện ra ít nhất một con mồi. Cuộc đời có vẻ trống rỗng

    và buồn nản. Tôi không hiểu nổi những người lương thiện.

    Họ sống một cuộc sống vô vị, đầy ắp những buồn chán.

    (Bá tước Victor Lustig, 1890-1947)

    >

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Cái cốt của việc lừa bịp là đánh lạc hướng. Muốn lừa ai đó trước hết bạn phải làm cho họ xao lãng, để được thiên thời địa lợi. Những hành động chứng tỏ sự tốt bụng, thanh lịch, hay lương thiện thường là hình thức đánh lạc hướng hiệu quả nhất bởi vì chúng đánh tan mối nghi của nạn nhân. Lúc ấy nạn nhân trở thành đứa trẻ, sẵn sàng tin vào bất kỳ cử chỉ tình cảm nào.

    Ở Trung Quốc xưa kia, hành động này được gọi là “dục thủ cô dữ” – “muốn lấy thì vờ cho”, vì khi được nhận, nạn nhân khó ý thức rằng mình đang bị tước đoạt. Kế này có rất nhiều ứng dụng thực tiễn. Nếu thẳng thừng tước đoạt người khác bạn sẽ lâm nguy, ngay cả khi bạn là người quyền lực. Nạn nhân sẽ tìm cách báo thù. Và nếu yêu cầu được thứ mình đang cần thì bạn cũng gặp rủi ro, cho dù có yêu cầu thật lịch sự: Trừ khi đối phương nhận thấy mình được lợi, nếu không hắn cũng bực mình với sự cần kíp của bạn. Hãy biết cách “dục thủ cô dữ”. Được như thế tình hình sẽ dịu bớt, khi bạn lấy thì người cho sẽ ít đau, hoặc đơn giản là hành động của bạn sẽ đánh lạc hướng. Và khi thả con tép, bạn có thể thả bằng nhiều hình thức: một món quà thực sự, một cử chỉ hào phóng, một sự chiếu cố, lời tự thú “lương thiện” – bất kỳ hình thức nào thuận lợi.

    Bạn nên áp dụng loại lương thiện có chọn lựa ấy khi lần đầu gặp gỡ ai đó. Chúng ta đều là sinh vật theo thói quen, do đó các ấn tượng đầu tiên thật khó phai. Nếu ở buổi sơ giao, người ta tin là bạn lương thiện thì sau này khó mà thuyết phục người ấy điều ngược lại. Như vậy bạn sẽ rộng đường thao túng.

    Cũng như Al Capone, Jay Gould nghi ngờ tất cả mọi người. Chỉ mới 33 tuổi hắn đã là triệu phú, chủ yếu nhờ lừa đảo và cưỡng bức. Vào cuối thập niên 1860, Gould đầu tư lớn vào Erie Railroad, để rồi khám phá ra rằng thị trường tràn ngập những cổ phiếu dởm của công ty. Hắn đang bị nguy cơ vừa mất cả gia tài vừa mang nỗi nhục.

    Trong cơn khủng hoảng đó có người tự xưng là Lord John Gordon-Gordon đến hiến kế. Là một quý tộc Scotland, Gordon-Gordon chừng như đã làm giàu khi đầu tư vào ngành đường sắt.

    Nhờ sự điều tra của chuyên gia về tuồng chữ, Gordon-Gordon cho Gould biết thủ phạm làm chứng khoán giả chính là những người trong ban giám đốc của Erie Railroad. Ông ta rủ Gould góp vốn để mua nhiều cổ phần, đủ để lọt vào hội đồng quản trị của công ty. Gould bằng lòng và thời gian sau đó mối cộng tác làm ăn này tỏ ra khấm khá. Hai người trở thành bạn thân, và mỗi lần đến hỏi Gould tiền để mua thêm chứng khoán thì Gordon-Gordon luôn được toại nguyện. Nhưng đến năm 1873 Gordon-Gordon đột ngột bán đổ bán tháo tất cả cổ phần của y, hốt được nhiều tiền, và làm giảm mạnh giá trị các cổ phần của Gould. Sau đó hắn biến mất.

    Sau khi điều tra Gould mới biết hắn tên thật là John Crowningsfield, là con hoang của gã lái buôn đường biển với cô hầu bàn ở London. Thật ra trước đó đã có dấu hiệu cho thấy Gordon-Gordon là tay lừa đảo, nhưng vì hành động thật thà giúp đỡ ban đầu của hắn đã làm mờ mắt Gould, nên chỉ sau khi mất bạc triệu anh này mới vỡ lẽ.

    Nhiều khi chỉ hành động thật thà thôi không đủ. Điều cần có là cái tiếng thơm lương thiện được xây dựng bằng một chuỗi hành động – có thể những hành động này chẳng đáng là bao. Một khi đã được tiếng, cũng như những ấn tượng ban đầu, thì tiếng thơm đó khó bị lay chuyển.

    Ở Trung Quốc xưa kia, Ngô công nước Trịnh muốn xâm lược nước Hu đang ngày càng hùng mạnh. Không hé môi cho ai biết ý định mình, Ngô gả con gái cho vua Hu. Sau đó ông triệu tập triều thần lại hỏi: “Ta muốn mở rộng bờ cõi, vậy nên tiến đánh nước nào trước?” Như Ngô đã tiên đoán, một quan liền tâu “Thưa, nước Hu.” Ngô ra sắc giận và quát: “Giờ Hu là nước anh em, sao người dám gợi ý xâm lăng?” Nói xong ra lệnh chém. Hành động hành quyết này, cùng với việc gả con gái và nhiều cử chỉ thân thiện khác đã ru ngủ vua Hu. Chỉ vài tuần sau, binh tướng nước Trịnh tiến chiếm nước Hu vĩnh viễn.

    Hành động nhân nghĩa là một cách hiệu quả để làm cho kẻ đa nghi phải mất cảnh giác, nhưng đó không phải là cách duy nhất. Bất kỳ cử chỉ có vẻ cao quý và vị tha nào cũng dùng được. Nhưng có lẽ cử chỉ tốt nhất là sự hào phóng. Ít ai có thể từ chối một món quà, ngay cả những địch thủ cứng cựa nhất. Một món quà sẽ đánh thức đứa trẻ trong ta, khiến ta tạm thời hạ thấp cảnh giác. Mặc dù ta thường soi xét kỹ lưỡng hành động của người khác, nhưng ít khi ta phát hiện sắc thái quỷ quyệt của một món quà. Món quà rất lý tưởng để che đậy một nước cờ lừa đảo.

    Cách đây hơn ba ngàn năm, những người Hy Lạp vượt biển nhằm chiếm lại nàng Helen xinh đẹp (trước đó bị tướng Paris cướp đi) và tiêu diệt đô thị Troy của Paris. Cuộc bao vây Troy kéo dài mười năm, nhiều vị anh hùng đã hy sinh, nhưng chiến thắng vẫn còn quá xa. Ngày kia vị tiên tri Calchas quy tụ các chiến binh Hy Lạp.

    “Thôi đừng đánh phá những bức tường này nữa. Các vị phải tìm ra phương thức khác, mưu chước khác. Chúng ta không thể chiếm Troy chỉ bằng mỗi sức mạnh. Ta phải tìm ra diệu kế.” Lãnh tụ thông minh của quân Hy Lạp là tướng Odysseus đề nghị tạo ra một con ngựa gỗ khổng lồ, giấu quân lính vào trong, rồi đem tặng cho thành Troy. Con của Achilles là Neoptolemus khinh thường kế này vì nó không xứng với đàn ông. Chẳng thà để hàng ngàn người chết nơi trận địa còn hơn là chiến thắng bằng cách lừa đảo. Nhưng khi được cho lựa chọn trước hai đường, một là mất thêm mười năm trận mạc để tỏ chí nam nhi, giương cao danh dự, rồi chết, và hai là nhanh chóng chiến thắng, binh sĩ Hy Lạp thích giải pháp con ngựa hơn. Kế sách con ngựa thành Troy thành công và lưu danh ngàn sau. Chỉ một món quà còn được nhiều việc hơn là mười năm chinh chiến.

    Sự tử tế có lựa chọn cũng nên có trong kho ngón nghề bịp bợm của bạn. Suốt nhiều năm liền lính La Mã bao vây đô thị của người Faliscan nhưng không chiếm được. Ngày kia khi đang thị sát doanh trại, tướng La Mã Camillus thấy có người đàn ông dẫn vài đứa trẻ đến gặp ông. Đó là một giáo viên Faliscan, và những đứa trẻ là con cái của những cư dân quý tộc và giàu có nhất đô thị. Lấy cớ là dẫn học trò đi chơi, ông thầy dẫn chúng đến cho người La Mã bắt làm con tin, mục đích là để lấy lòng Camillus.

    Vị tướng không thực hiện mục đích của ông thầy, trái lại còn sai quân lính lột trần và trói tay ông ta, giao cho mỗi đứa trẻ một cây roi, bảo vừa đánh vừa dẫn ông ta về. Cách xử sự của Camillus lập tức tác động đến dân Faliscan. Vị tướng đã suy tính đúng, vì sau đó đô thị Faliscan đã đầu hàng. Ông biết nếu giữ đám trẻ lại làm con tin chưa chắc chấm dứt được chiến tranh, ít ra cũng chưa chấm dứt được ngay. Nhưng khi ông thể hiện một hành động tử tế có suy tính, đối phương bị bất ngờ, rồi tin tưởng và tôn trọng ông hơn. Sự tử tế có lựa chọn như thế thường khi lừa được cả một địch thủ ương ngạnh nhất: Nếu đánh trúng tim địch thủ, hành động này sẽ xói mòn ý chí chiến đấu.

    Bạn hãy nhớ: Biết thao túng cảm xúc, biết suy tính cử chỉ tử tế, ta sẽ biến một Capone thành đứa trẻ cả tin. Và như với mọi tiếp cận khác bằng con đường cảm xúc, bạn nên thực hiện thật cẩn thận: Nếu bị kẻ khác phát hiện mưu đồ, thì lòng nhiệt thành và biết ơn của họ sẽ biến thành sự thù ghét và bất tin. Nếu không có khả năng thể hiện sự thành tâm và chân thật, tốt hơn bạn đừng đùa với lửa.

    Hình ảnh:

    Con ngựa thành Troy. Sự bịp bợm ẩn mình phía sau một món quà không chê vào đâu được, không thể cưỡng lại được. Thành trì đối phương sẽ mở cửa. Một khi đã đột nhập rồi, bạn tha hồ tàn phá.

    Ý kiến chuyên gia:

    Khi sắp tiến công nước Ngu, Hiến công nước Tần tặng cho Ngu ngọc ngà châu báu. Từ đó có câu: “Dục thủ cô dữ.”

    (Hàn Phi Tử, triết gia Trung Quốc,

    thế kỷ thứ III trước Công nguyên)

    NGHỊCH ĐẢO

    Khi đã nỡ nổi tiếng lừa đảo, cho dù bạn có thi thố bao nhiêu hành động lương thiện, nhân nghĩa, tử tế thì cũng không thể bịp bợm ai được nữa. Bạn thi thố chỉ tổ làm cho mọi người nghi ngờ thêm mà thôi. Trong trường hợp này bạn nên thấu cáy, nhập vai thủ ác.

    Bá tước Lustig sắp thực hiện cú lừa vĩ đại nhất sự nghiệp lừa đảo của mình bằng cách gọi bán ngọn tháp Eiffel cho một kỹ nghệ gia cả tin, tưởng rằng chính phủ định bán ngọn tháp này theo giá phế liệu. Ông sắp trao món tiền lớn cho Lustig, lúc ấy đang vào vai một quan chức cao cấp. Tuy nhiên vào giờ chót con mồi lại sinh nghi. Có điều gì đó ở Lustig làm ông do dự. Trong buổi gặp gỡ để nhận tiền, bản thân Lustig cũng phát hiện ra sự nghi ngại đó.

    Nhoài người sang kỹ nghệ gia, Lustig thì thầm giải thích rằng vì đồng lương công chức ba cọc ba đồng, rồi tình hình tài chính bế tắc, vân vân. Sau vài phút, Lustig xoay ngược tình hình, làm cho kỹ nghệ gia hiểu rằng ông ta chỉ vòi vĩnh chút tiền hối lộ. Nghe xong khách hàng bớt căng thẳng thấy rõ. Giờ thì khách nghĩ rằng Lustig không định lừa đảo mình lấy số tiền lớn (tiền bán tháp Eiffel), mà chỉ muốn ăn hoa hồng. Vì bất kỳ viên chức Nhà nước nào cũng tham nhũng, suy ra Lustig là công chức thật. Khách bằng lòng xùy tiền. Khi nhanh trí thấu cáy nhập vai kẻ bất lương, Lustig lại chứng tỏ mình là thứ thiệt. Trong trường hợp này nếu giả nhân giả nghĩa thì bạn thua đẹp.

    Khi nhà ngoại giao người Pháp Talleyrand về già, thì cái tiếng xấu về ông đã lan quá rộng, ai ai cũng biết ông nói láo và bịp bợm đệ nhất. Tại hội nghị Vienna (1814-1815), ông cố tình thêu dệt nhiều chuyện khó tin với những người biết tỏng là ông ta láo toét. Mục đích của ông là tung hỏa mù, sao cho người nghe không thể phân biệt lúc nào ông lừa lúc nào ông thật. Chẳng hạn như có lần giữa chỗ bạn bè, ông ra vẻ chân thành khuyên rằng “Trong kinh doanh, ta phải chơi bài ngửa.” Không ai có thể tin điều mình vừa nghe: Suốt cuộc đời mình, gã này chưa bao giờ tiết lộ con bài tẩy của mình, giờ lại lên lớp mọi người nên chơi bài ngửa. Những chiến thuật như thế sẽ làm cho mọi người hoang mang, không biết lúc nào Talleyrand bịp thật, lúc nào ông ta bịp… giả. Khi chấp nhận cái ô danh là kẻ lừa đảo, ông ta duy trì được khả năng lừa đảo.

    Ở lĩnh vực quyền lực, không có gì trăm năm bia đá cả. Hành động lừa đảo công khai nhiều lúc lại che đậy được mưu đồ của bạn, thậm chí làm cho mọi người thán phục, vì bạn đã bất lương một cách… trung thực.
     
  5. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 13: Nhử Bằng Tư Lợi, Đừng Kêu Gọi Lồng Thương, Không Đề Cập Ân Tình

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Khi cần đồng minh giúp đỡ, đừng nhắc nhở việc hắn thụ ân ta trong quá khứ. Hắn sẽ tìm cách phớt lờ. Ngược lại, hãy cho hắn thấy những lợi ích sẽ đạt được khi hai bên liên kết, và ta hãy phóng đại khoản lợi nhuận ấy nhiều lên. Hắn sẽ nhiệt tình trợ giúp khi biết rõ có lời.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Vào đầu thế kỷ XIV, chàng thanh niên Castruccio Castracani từ vị trí binh nhì trở thành người đứng đầu đô thị Lucca ở Italia. Họ Poggio, một trong những gia tộc thế lực nhất thời bấy giờ đã làm bệ phóng cho Castracani, nhưng họ cảm thấy sau khi đăng quang rồi thì anh ta quên mất tình xưa nghĩa cũ. Tham vọng ngất trời khiến chàng trai trở thành vô ơn. Năm 1325, trong khi Castracani dẫn quân chống lại địch thủ của Lucca là thành phố Florence, gia đình Poggio câu kết với các gia đình quý tộc khác để trừ khử Castracani.

    Dấy lên cuộc khởi nghĩa, họ cho người tấn công và sát hại quan thống đốc mà Castracani bổ nhiệm để cai quản Lucca. Nhiều vụ bạo loạn xảy ra, cả hai phe Castracani và Poggio sẵn sàng lâm chiến. Tuy nhiên ở đỉnh cao căng thẳng, trưởng lão gia tộc Poggio là Stefano can thiệp và khuyên hai bên nên hạ vũ khí.

    Là người yêu mến hòa bình, Stefano không tham gia và cuộc khởi nghĩa. Ông bảo tộc Poggio rằng máu chảy đầu rơi thật vô ích. Ông hứa sẽ đại diện cho cả gia tộc để thuyết phục Castracani lắng nghe ý kiến và thỏa mãn yêu cầu. Vì Stefano là người lớn tuổi nhất và thông thái nhất nên gia tộc Poggio bằng lòng đặt niềm tin của họ vào tài ngoại giao của ông, thay vì vào vũ khí.

    Khi nghe tin dấy loạn, Castracani lập tức trở về Lucca. Tuy nhiên khi anh ta về đến nơi thì nhờ sự dàn xếp của Stefano nên mọi việc đã lắng dịu, khiến Castracani rất ngạc nhiên trước cảnh an bình của đô thị. Cho rằng Castracani sẽ biết ơn mình đã vỗ an các bên, Stefano đến gặp anh ta. Ông ta nói về công trạng mình và xin Castracani thông cảm cho những thành viên trẻ tuổi và thiếu suy nghĩ của gia đình Poggio. Ông cũng nhắc lại công ơn của gia đình đối với Castracani. Do đó, theo ông, anh ta không nên chấp nhặt, mà ngược lại nên thỏa mãn những kiến nghị của gia đình.

    Castracani kiên nhẫn lắng nghe, không tỏ ra tức giận hay hằn thù chút nào. Ngược lại anh ta bảo Stefano nên tin rằng công lý sẽ là quy luật, đồng thời mời cả gia đình đến cung điện trình bày hết các yêu cầu để có thể thỏa thuận với nhau. Khi cả hai kiếu từ, Castracani nói anh ta cảm ơn trời đã tạo điều kiện để anh chứng tỏ sự bao dung cũng như lễ nghĩa của mình. Tối hôm đó trọn gia đình Poggio đến cung điện. Họ lập tức bị tống giam và vài ngày sau bị hành quyết, kể cả Stefano.

    Diễn giải

    Stefano di Poggio là hiện thân của loại người luôn tin rằng mình sẽ thuyết phục được người khác bằng sự công bằng và lẽ phải của chính nghĩa. Chắc chắn rằng trong quá khứ, thỉnh thoảng ta vẫn được việc khi nhân danh sự công bằng và lẽ phải, nhưng thường khi sự nhân danh ấy chỉ mang lại thương đau, đặc biệt khi đụng phải những Castracani trên thế gian này. Stefano dư biết rằng anh ta vươn lên đỉnh cao quyền lực là nhờ phản bội và bạo tàn. Trước đó anh ta từng cho sát hại người bạn thân tín và trung thành nhất. Khi có người phê phán là thật lỗi đạo khi giết bạn cũ như thế, Castracani trả lời rằng mình không giết bạn cũ, mà giết kẻ thù mới.

    Người như Castracani chỉ biết có sức mạnh và tư lợi. Tay trưởng lão Stefano đã sai lầm chí tử khi chấm dứt cuộc bạo loạn, và lại còn kêu gọi lòng nhân từ của con sói, trong khi ông ta vẫn còn những nước cờ khác: Có thể biếu xén tiền tài của cải cho Castracani, hứa hẹn nhiều phúc lợi tương lai, chỉ cho hắn thấy rằng gia đình Poggio vẫn có ích cho hắn – nhờ ảnh hưởng của họ đối với các gia đình thế lực ở La Mã, những liên kết quyền lực qua các cuộc hôn nhân v.v…

    Ngược lại Stefano lại nhắc về quá khứ, với những món nợ nghĩa tình mà người ta không muốn trả ơn. Người ta không buộc phải hàm ân, bởi sự tri ân thường là gánh nặng mà người ta vui lòng loại bỏ. Ở trường hợp trên, Castracani rũ bỏ sự mang ơn gia đình Poggio bằng cách loại bỏ gia đình Poggio.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Năm 433 TCN, đảo Corcyra (sau này gọi là Corfu) và thị quốc Corinth thuộc Hy Lạp đang trên bờ vực chiến tranh. Cả hai phe đều phái đại sứ đến Athens để lôi kéo thành phố này về phe mình. Athens về phe nào xem như phe đó nắm chắc phần thắng. Và ai chiến thắng sẽ tàn sát kẻ bại trận không nương tay.

    Phe Corcyra nói trước. Viên đại sứ bắt đầu bằng cách nhìn nhận rằng đảo này trước nay chưa hề giúp đỡ Athens, mà còn liên kết với những địch thủ của Athens. Giữa Corcyra và Athens chưa bao giờ có mối liên hệ hữu nghị hay nghĩa tình nào cả.

    Vâng, viên đại sứ nhìn nhận rằng lần này đến Athens vì lo cho sự an nguy của Corcyra. Điều duy nhất ông ta có thể hứa chỉ là sự liên minh với lợi ích song phương. So với tất cả thủy quân thời bấy giờ, hạm đội Corcyra chỉ thua kém mỗi Athens. Liên minh chiến lược này sẽ tạo ra sức mạnh ghê gớm, có khả năng uy hiếp thành phố đối phương Sparta. Rất tiếc đó là điều duy nhất mà Corcyra có thể chào mời.

    Đến phiên mình, người đại diện Corinth nói rất hùng biện và thiết tha, hoàn toàn tương phản với những lời khô cằn và không chút mắm muối của Corcyra. Ông ta nhắc rằng trong quá khứ Corinth đã từng giúp đỡ Athens bao lần. Ông ta hỏi liệu những đồng minh khác của Athens sẽ nghĩ như thế nào, một khi thành phố này lại đi bỏ rơi bạn bè mà liên minh với kẻ thù cũ: Biết đâu họ sẽ phá vỡ các hiệp ước với Athens khi thấy Athens đánh giá thấp sự trung nghĩa. Viên đại sứ còn viện dẫn luật lệ Hy Lạp cổ, yêu cầu Athens đền ơn đáp nghĩa cho Corinth.

    Sau đó các giới chức Athens họp bàn vấn đề này, và qua đến vòng hai, tất cả đều nhất trí liên minh với Corcyra và bỏ rơi Corinth.

    Diễn giải

    Đọc sử sách, chúng ta thường nghĩa về những thị dân Athens quân tử, nhưng thật ra họ thực tiễn nhất trong số các cư dân Hy Lạp cổ đại. Tất cả những lời kêu gọi hùng biện và xúc động nhất trên thế giới, với họ, cũng không bằng một lý lẽ thực tiễn, đặc biệt là lý lẽ nào mang thêm quyền lực cho họ.

    Điều mà viên sứ thần Corinth không hiểu ra, chính là việc tham chiếu đến sự tốt bụng mà Corinth dành cho Athens trước kia, chỉ tổ khiến dân Athens thêm bực bội mà thôi. Việc này không khác với nhắc khéo rằng các anh hàm ân tôi, bây giờ phải có nghĩa vụ báo đáp, nếu không sẽ cảm thấy tội lỗi. Ơn nghĩa những ngày qua? Tình thân hữu nghị? Mặc! Một Athens hùng mạnh tin chắc là nếu những đồng minh khác lên án họ bội nghĩa khi bỏ rơi Corinth, thì những đồng minh này cũng không dám phá vỡ liên kết. Lý do: Athens là sức mạnh hàng đầu ở Hy Lạp, họ cai trị lãnh thổ bằng sức mạnh, và bất kỳ đồng minh nào manh nha bỏ ngũ sẽ lập tức bị dẫn độ về mái nhà xưa ngay.

    Khi phải lựa chọn giữa việc nhắc nhở quá khứ với trù hoạch tương lai, người thực tiễn luôn chọn tương lai và rũ bỏ quá khứ. Và người Corcyra thức thời rằng mình phải nói chuyện thực tiễn với người thực tiễn. Suy cho cùng thì thật ra hầu hết chúng ta đều sống thực tế thôi – ít ai đi ngược lại quyền lợi của mình.

    Quy luật xưa nay là người yếu phải phục tùng

    kẻ mạnh; và hơn nữa, chúng tôi thấy đáng được tôn kính

    bởi quyền lực của mình. Cho đến thời điểm này, các vị cũng từng thấy như thế; nhưng hiện nay, sau khi cân nhắc lại tư lợi, các vị

    bắt đầu nói đến chuyện phải trái. Loại quan ngại như thế

    chưa bao giờ làm cho ai đó khước từ những cơ hội

    mở mang bờ cõi một khi họ hùng mạnh hơn.

    (Lời của đại diện thành phố Athens tại thành bang Sparta,

    trích dẫn trong tác phẩm Cuộc chiến Peloponnese

    của Thucydides, khoảng 465-395 TCN)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Trên đường mưu cầu quyền lực, bạn thường ở vào trường hợp phải nhờ vả sự giúp đỡ của những người mạnh hơn. Yêu cầu được giúp đỡ là cả một nghệ thuật, tùy thuộc vào khả năng bạn hiểu được đối tác là ai, và đừng nhầm lẫn quyền lợi mình với quyền lợi họ.

    Rất nhiều người không đạt được mục đích vừa kể, bởi vì họ hoàn toàn lúng túng với các mớ nhu cầu và mong ước của họ. Họ khởi sự từ việc lầm tưởng rằng phía đối tác, nghĩa là bên thi ân, sẽ thi ân bất cầu báo. Họ tưởng là phía đối tác sẽ quan tâm đến nhu cầu của họ. Thật ra xác suất lớn là nhu cầu ấy chẳng được màng. Nhiều khi họ liên hệ đến những vấn đề thật lớn lao: vì đại nghĩa, vì những tình cảm thiêng liêng như tình thương và ơn nghĩa. Họ chỉ đề cập đến cái chung chung, trong khi những thực tế đơn giản thường ngày lại hấp dẫn hơn. Họ không nhận thức được rằng ngay cả người quyền lực nhất cũng phải bận tâm với tư lợi, và nếu ta không hấp dẫn được mối tư lợi ấy, thì người quyền lực sẽ thấy ta chẳng bổ béo gì, chỉ làm mất thì giờ của hắn mà thôi.

    Hồi thế kỷ XVI, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha từng mất nhiều năm để cải đạo một số người Nhật sang Công giáo, lúc này Bồ Đào Nha được độc quyền mậu dịch giữa Nhật và châu Âu. Mặc dù ít nhiều thành công với dân thường nhưng họ chưa thuyết phục được giới lãnh đạo. Đến đầu thế kỷ thứ XVII, việc họ làm đã khiến Nhật hoàng Ieyasu căm giận. Ông ta thở dài nhẹ nhõm khi người Hà Lan đổ xô vào đất Nhật. Nhật hoàng cần nắm được công nghệ Âu châu về súng ống và hàng hải, và rất may cuối cùng nước Nhật cũng gặp được những người Âu châu không chỉ quan tâm đến việc truyền giáo – người Hà Lan chỉ đến để giao thương. Ieyasu nhanh chóng hất chân Bồ Đào Nha để chỉ làm ăn với người Hà Lan có đầu óc thực tế.

    Nhật và Hà Lan là hai nền văn hóa khác xa nhau, nhưng cả hai đều chia sẻ cùng mối quan tâm của muôn đời: tư lợi. Đối tác của bạn luôn có nền tảng văn hóa khác với bạn, họ giống như một đất nước xa lạ với quá khứ không giống như những gì bạn từng trải. Bạn có thể vượt qua những dị biệt đó bằng tư lợi. Bạn không cần phải tỏ ra nhỏ nhẹ tế nhị gì hết: Cứ chứng tỏ thẳng thắn rằng mình sẵn sàng chia sẻ nguồn trí thứ quý báu, giúp đối tác thu bạc đầy rương, làm cho anh ta được phước lộc thọ. Đó là thứ ngôn ngữ mà ai ai cũng nói được, hiểu được.

    Bước trọng yếu là phải hiểu được tâm lý đối tác. Hắn có tự kiêu không? Hắn có quan tâm đến tiếng tăm hay vị trí xã hội không? Hắn có kẻ thù nào mà ta có thể giúp tiêu diệt không? Hay đơn giản hắn chỉ ham mê quyền và lợi?

    Khi xâm lược Trung Quốc hồi thế kỷ XII, Mông Cổ đe dọa xóa sạch một nền văn hóa từng phát triển suốt nhiều ngàn năm. Với Thành Cát Tư Hãn, Trung Quốc chỉ là một vùng đất rộng lớn không đủ cỏ để nuôi bầy chiến mã của ông ta, vì vậy ông quyết định phá hủy toàn bộ, san bằng bình địa, bởi “chẳng thà tiêu diệt hết bọn Trung Quốc, để chỗ cho cỏ mọc.” Sau đó Trung Quốc thoát khỏi đại họa này, nhưng không phải nhờ quân lính, tướng lĩnh hoặc một vị vua nào, mà chỉ là một người mang tên Oa Khoát Đài.

    Bản thân cũng là người nước ngoài, Oa Khoát Đài đánh giá rất cao nền văn hóa Trung Hoa. Sau nhiều năm tháng xoay xở để đạt được đến vị trí cố vấn tin cẩn của Đại Hãn, Oa Khoát Đài thuyết phục ông ta đừng hủy diệt hết mọi thứ, mà chỉ nên thu hết chiến lợi phẩm, để yên cho dân sinh sống, rồi sau đó đánh thuế. Đại Hãn thấy được món lợi nên nghe theo Oa Khoát Đài.

    Đại Hãn chỉ chiếm được Khai Phong phủ sau một cuộc bao vây kéo dài nên quyết định giết hết dân chúng trong thành cho hả giận. Oa Khoát Đài liền tâu rằng tất cả những nghệ nhân cao tay nghề nhất của Trung Quốc đều trú ẩn tại Khai Phong, và Mông Cổ sẽ được lợi khi bắt họ sản xuất. Khai Phong thoát chết. Trước đây Đại Hãn chưa bao giờ rộng lượng như vậy, và cả Khai Phong thoát trên không phải nhờ từ tâm. Oa Khoát Đài[5] biết rất rõ Đại Hãn. Đại Hãn chỉ quan tâm đến chiến tranh và kết quả thực tiễn sau cùng. Oa Khoát Đài chọn đúng sợi dây cảm xúc của hắn để gảy: Lòng tham.

    Tư lợi là cái đòn có khả năng bẩy được hầu hết mọi người. Một khi thấy rằng ta giúp họ được việc, họ sẽ không còn do dự gì đối với yêu cầu của ta. Với từng bước trên con đường thủ đắc thế lực, bạn nên tập lồng mình vào vị trí đối tác để nắm rõ nhu cầu và lợi ích của họ, tạm dẹp qua một bên mọi cảm nghĩ của bạn để tránh suy đoán không chính xác.

    Hình ảnh:

    Sợi dây ràng buộc. Sợi dây từ tâm và ơn nghĩa đã mòn xơ xác rồi, và sẽ đứt ngay khi bị giằng giật. Đừng sử dụng nó. Sợi dây đôi bên cùng có lợi được bện từ nhiều thớ, rất khó đứt. Nó sẽ phục vụ bạn trong thời gian rất dài.

    Ý kiến chuyên gia:

    Cách nhanh nhất và hay nhất để có được cơ đồ là làm cho người khác thấy rõ ràng rằng hễ họ giúp bạn thì họ được lợi.

    (Jean de la Bruyère, 1645-1696)

    NGHỊCH ĐẢO

    Cũng có người xem tư lợi là không xứng với kẻ sĩ. Họ thực sự muốn áp dụng nhân nghĩa, đức độ, và sự công bằng, vốn là những phương tiện giúp họ cảm thấy hơn người: Khi xin họ cứu giúp tức là ta tôn họ lên. Đó là thứ men say làm họ mê mẩn. Họ khát khao trở thành mạnh thường quân của bạn, tiến cử bạn cho bậc quyền thế - tất nhiên với điều kiện là những hành động đó phải được nhiều người biết càng tốt, và thực hiện vì đại nghĩa. Như bạn thấy đó, ta không thể mang tư lợi ra dụ dỗ tất cả mọi người. Đối diện tư lợi, có người sẽ thoái lui vì không muốn để người khác thấy mình tham lam. Họ cần có cơ hội để phô bày đức hạnh.

    Bạn chớ ngại ngần. Hãy tạo cho cơ hội ấy. Việc này không giống khi bạn lợi dụng họ khi yêu cầu giúp đỡ - họ thực sự cảm thấy khoan khoái khi ban phát, và khi mọi người thấy họ ban phát. Bạn tập nhìn ra những điểm dị biệt giữa những kẻ quyền thế, để biết dò trúng đài. Khi lòng tham phát tiết ra ngoài thì bạn đừng kêu gọi từ tâm. Còn nếu họ muốn ra mặt nhân nghĩa thì bạn đừng mang tư lợi ra dụ dỗ.
     
  6. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 14: Bên Ngoài Làm Bạn, Bên Trong Rình Mò

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nắm bắt thông tin địch thủ là việc cực kỳ quan trọng. Hãy sử dụng thám báo để thu thập thông tin và có kế hoạch đón đầu. Hay hơn nữa là bạn tự mình do thám. Hãy tập luyện điều tra ở những cuộc gặp gỡ xã giao. Hãy hỏi những câu gián tiếp nhằm kích thích người khác nói về nhược điểm và chủ tâm họ. Không có cơ hội nào không là thời cơ cho bậc thầy do thám.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Joseph Duveen chắc chắn là người buôn tranh tài ba nhất thời ông ta – từ năm 1904 đến 1940, ông ta gần như độc quyền thâu tóm thị trường sưu tầm tranh của những tay triệu phú Mỹ. Chỉ trừ một mỏ vàng chưa khai thác được: kỹ nghệ gia Andrew Mellon. Duveen “quyết chí biến Mellon thành khách hàng, nếu không sẽ chết không nhắm mắt.

    Bạn bè bảo Duveen rằng đó là giấc mơ không tưởng. Mellon là tay cứng cỏi ít lời. Nhưng chuyện từng nghe về tay Duveen nào đó lắm mồm xởi lởi còn làm Mellon thêm bực – và tuyên bố rằng mình không muốn gặp tay đó. Vậy mà Duveen đảm bảo với bạn bè rằng “Mellon sẽ không những mua tranh của tôi, mà chỉ mua tranh của tôi mà thôi.” Suốt nhiều năm ông ta theo dõi con mồi, biết hết những thói quen, khẩu vị, và kiêng cữ. Để nắm được những thông tin đó, Duveen hối lộ nhiều nhân viên của Mellon. Đến thời điểm hành động, ông ta biết rõ Mellon không thua gì bà vợ của y.

    Năm 1921 Mellon đến London và ngụ ở tầng ba khách sạn Claridge’s. Duveen cũng đăng ký một loạt dãy phòng ở tầng hai, và sắp xếp cho người hầu trở thành bạn thân của người hầu cho Mellon. Đến ngày đã chọn ra tay, người hầu của Mellon nói với người hầu của Duveen rằng mình mới giúp chủ nhà mặc áo khoác, và ông ta đang bước ra hành lang thang máy.

    Chỉ vài giây sau Duveen bước vào buồng thang máy, và thật là tình cờ, Mellon đang đứng bên trong. “Thưa ông Mellon, ông khỏe chứ ạ?” Duveen chào và tự giới thiệu. “Tôi đang trên đường đến National Gallery để ngắm vài bức tranh.” Cũng thật tình cờ khi đó lại là điểm đến của Mellon. Và như thế Duveen có dịp hộ tống con mồi đến địa điểm hết sức thuận tiện cho thắng lợi của mình. Duveen tỏ tường sở thích của Mellon như lòng bàn tay, và trước khi hai người lang thang khắp nhà trưng bày, nhà buôn tranh đã làm kỹ nghệ gia lóa mắt vì tri thức chuyên môn. Và lại thật là tình cờ thêm một lần nữa, cả hai đều có sở thích hết sức giống nhau.

    Mellon ngạc nhiên thích thú: Duveen không phải như ông tưởng. Người này rất duyên dáng và dễ chịu, và rõ ràng là có khẩu vị thượng thặng. Khi trở về New York, Mellon đến xem phòng trưng bày độc đáo của Duveen và mê mệt bộ sưu tập. Lạ lùng thay, mọi thứ trong phòng đều đúng y hệt loại tranh mà ông ta muốn ở hữu. Từ đó đến cuối đời, Mellon trở thành khách hàng sộp nhất của Duveen.

    Diễn giải

    Với một người tham vọng và bon chen như Duveen thì chẳng có việc gì là tình cờ cả. Thật không mấy ích lợi khi phải ứng phó tình thế, hoặc giả hy vọng rằng mình sẽ hấp dẫn được khách hàng. Hành động như vậy chẳng khác gì bịt mắt bắt dê. Hãy tự trang bị thêm một tí hiểu biết, bạn sẽ thấy có tiến bộ.

    Tuy Mellon là phi vụ ngoạn mục nhất, song thật ra Duveen do thám cùng lúc nhiều nhà triệu phú. Ông ta lén mua chuộc tất cả gia nhân của con mồi để luôn nắm được những thông tin quý giá về đường đi lối về, thay đổi sở thích, và những mẩu tin nho nhỏ khác giúp ông ta đi trước một bước. Khi tìm cách chài mồi tay tài phiệt Henry Frick, một địch thủ cạnh tranh với Duveen lấy làm lạ là cứ mỗi lần mình đến viếng Frick thì Duveen luôn có mặt ở đó trước, chừng như ông ta có giác quan thứ sáu. Những mối cạnh tranh khác cũng nhìn nhận rằng hình như đi đâu cũng gặp Duveen, và ông ta luôn nắm thông tin trước họ. Khả năng phân thân đó khiến nhiều địch thủ phải nản lòng bỏ cuộc.

    Đó là sức mạnh của nghệ thuật tình báo: Nó giúp ta có vẻ toàn năng và toàn trí. Càng hiểu biết nhiều về con mồi thì ta càng đoán trước được ý nghĩ của hắn. Trong khi đó, các địch thủ khác không biết từ đâu ta có nguồn sức mạnh ấy, và nếu không biết thì họ không thể tiến công ta.

    Giới cầm quyền thấy hết là nhờ gián điệp, cũng như những

    con bò nhờ khứu giác, Bà La Môn nhờ kinh văn, và số

    đông còn lại là nhờ cặp mắt thông thường.

    (Kautilya, triết gia Ấn Độ, thế kỷ III TCN)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Muốn nắm quyền, bạn nên kiểm soát được ít nhiều những gì sắp xảy ra. Vì vậy một phần vấn đề của bạn là làm sao biết được những suy nghĩ, cảm xúc, và kế hoạch của đối tượng. Nếu làm chủ được những gì họ nói ra, các đối tượng sẽ che giấu điều quan trọng nhất của tính cách – những nhược điểm, chủ đích, đam mê. Hậu quả là bạn không thể tiên đoán được nước cờ của họ. Ngón nghề ở đây là bạn phải tìm ra cách điều tra để phát hiện những bí mật và chủ đích mà đừng để họ biết.

    Việc này không khó như bạn nghĩ. Nấp sau cái bình phong hữu nghị, bạn có cơ hội thu lượm thông tin ở cả phe ta lẫn phe địch. Mặc cho người khác đi bói bài hoặc đoán số tử vi, ta đã có biện pháp cụ thể để biết trước tương lai.

    Cách do thám thông thường nhất là lợi dụng người khác, như Duveen đã làm. Phương pháp này đơn giản và hữu hiệu nhưng có rủi ro: Chắc chắn bạn có được thông tin, nhưng lại khó kiểm soát đám mật thám ấy. Có khả năng họ sơ suất làm hỏng việc, hoặc giả cố ý phản phé. Vì vậy tốt hơn bạn nên tự thực hiện công việc, giả dạng làm đồng minh để tiến hành do thám.

    Chính khách người Pháp Talleyrand là một trong những bậc thầy do thám. Ông ta cực kỳ khéo léo trong việc moi bí mật của người khác qua những cuộc đàm đạo xã giao. Nam tước De Vitrolles, người đương thời của Talleyrand từng viết: “Ông ta nói chuyện rất duyên dáng và trí tuệ. Ông có nghệ thuật che giấu ý nghĩ hoặc ác tâm đằng sau tấm mạng trong suốt những từ ngữ bóng gió thật thâm trầm súc tích. Chỉ khi nào cần, ông ta mới đưa tính cách riêng của mình vào”. Mấu chốt ở đây chính là việc Talleyrand biết cách che mất cái tôi của mình trong câu chuyện, dụ cho đối phương huyên thuyên về họ, từ đó vô tình để lộ những gì ông ta muốn biết.

    Suốt cuộc đời Talleyrand, ai ai cũng bảo ông ta là người có tài nói chuyện – mặc dù thực tế ông rất ít nói. Talleyrand không bao giờ nói về những gì mình nghĩ, mà chỉ khích người khác nói. Ông hay tổ chức những buổi họp mặt, trong đó chuẩn bị phần đố vui cho các nhà ngoại giao, qua đó ông cân đong đo đếm cẩn thận từng lời của họ, rồi tạo điều kiện thân mật cho họ tâm sự, và moi nhiều thông tin quý giá cho nước Pháp, mà ông là vị bộ trưởng ngoại giao. Tại Hội nghị Vienna (1814-1815), Talleyrand lại do thám theo cách khác: Ông ta “lỡ lời” tiết lộ một bí mật (được ngụy tạo rất khéo từ trước) để xem xét phản ứng đối phương. Chẳng hạn trong buổi gặp gỡ họp thân mật các nhà ngoại giao, ông bảo có nguồn tin cậy cho biết là Nga hoàng định bắt giữ vị tướng quân hàng đầu vì tội phản nghịch. Quan sát phản ứng các đồng nghiệp khác, ông dò xem ai khoái chí khi quân đội Nga suy yếu – biết đâu chính phủ họ có ý đồ gì với nước Nga? Như Nam tước Von Stetten nói: “Monsieur Talleyrand bắn chỉ thiên để xem ai phóng mình ra ngoài cửa sổ.”

    Trong những cuộc gặp gỡ xã giao, họp mặt vô thưởng vô phạt, bạn hãy quan sát. Đó là lúc thiên hạ bất cẩn. Hãy giấu tính cách mình và tạo điều kiện cho họ bộc lộ. Cái độc đáo của chiêu này là làm sao cho đối phương cảm thấy những câu nói dẫn đường của ta là sự quan tâm hữu nghị, được như vậy ta không chỉ kiếm được thông tin, mà còn kiếm được đồng minh.

    Tuy nhiên bạn nhớ thi hành chiến thuật này thật cẩn trọng. Nếu thiên hạ phát hiện là bạn làm bộ nói chuyện để moi tin, họ sẽ lánh xa ngay. Hãy nhấn mạnh vào câu chuyện xã giao, đừng chăm bẵm vào thông tin quý giá. Tiến trình thu thập từng viên ngọc thông tin không được diễn ra quá lộ liễu, nếu không những câu hỏi điều tra của bạn sẽ để hở sườn, giúp đối phương phát hiện chủ đích và con người thật của bạn.

    Bạn có thể thử cái mánh từ điều La Rochefoucauld viết: “Thiên hạ ít ai trung thực, và thường khi trung thực là họ mưu mẹo khôn ngoan nhất – ta trung thực để moi những điều thầm kín và bí mật của người khác.” Làm bộ cởi mở cõi lòng ra cho người khác, thật ra bạn khiến hàng muốn thổ lộ tâm tình. Hãy kể cho họ nghe một lời thú nhận giả, và họ sẽ đáp lễ bằng một thú nhận thật.

    Arthur Schopenhauer đưa ra mánh khác: Cãi chày cãi cối thật kịch liệt để chọc tức đối phương, khuấy đảo họ mất phần nào kiểm soát đối với lời nói. Khi cảm xúc dâng cao, họ sẽ hé mở đủ loại sự thật về bản thân, những sự thật để bạn dành sau này chơi họ.

    Có một cách do thám gián tiếp là thử đối phương, đặt những chiếc bẫy nho nhỏ để cậy miệng họ. Chosroes II, vị vua nổi tiếng khôn ngoan của xứ sở Ba Tư hồi thế kỷ thứ VII, có nhiều cách dò xét quần thần mà họ không hề hay biết. Chẳng hạn nếu để ý thấy hai quan cận thần bỗng dưng quá thân thiệt, Chosroes sẽ nói với người thứ nhất rằng người kia rắp tâm tạo phản và sắp bị hành hình. Vua bảo rằng mình tin tưởng vị này nên mới cho biết và dặn đừng để tiết lộ. Sau đó vua quan sát cả hai. Nếu thấy thái độ quan cận thần thứ hai không có gì thay đổi, vua kết luận là người thứ nhất biết giữ bí mật, sẽ thăng chức cho y, rồi lại cho vời y đến để đính chính: “Ta định xử trảm bạn đồng liêu của ngươi vì một số thông tin bất lợi, nhưng sau khi ta cho điều tra lại mới thấy nguồn tin đó sai lạc.”

    Còn nếu thấy quan cận thần thứ hai có ý tránh né mình và bồn chồn lo lắng, Chosroes biết là bí mật đã bị lộ. Vua sẽ cho gọi y đến cho biết toàn bộ sự thật của cuộc thử nghiệm, rằng y không có lỗi gì, song vua vẫn không còn tin dùng và cho ra khỏi cung. Còn đối với cận thần thứ nhất, Chosroes ra lệnh đày biệt xứ vĩnh viễn.

    Cách vừa kể không chỉ có thể nắm bắt thông tin mà còn biết được tính cách con người. Tuy có vẻ kỳ cục nhưng thường lại là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề trước khi chúng trở nên trầm trọng.

    Cứ nhử người khác ra tay, bạn sẽ biết được những suy nghĩ, tính cách, lòng trung của hắn, cùng nhiều điều khác nữa. Và thường khi đó lại là thứ hiểu biết đáng giá nhất: có tri thức này rồi, bạn sẽ tiên đoán hành động tương lai của họ.

    Hình ảnh:

    Con mắt thứ ba của thám báo. Ở xứ sở của những người hai mắt, thì con mắt thứ ba sẽ giúp bạn được toàn tri như Thượng đế. Bạn nhìn xa hơn họ, và nhìn sâu vào bên trong họ.

    Ý kiến chuyên gia:

    Giờ đã rõ, lý do vì sao một vị vua thông minh và một tướng lãnh khôn ngoan luôn chiến thắng kẻ thù trong mọi đường đi nước bước, vì sao hành động của họ luôn hơn hẳn người thường, chính là nhờ họ tiên đoán tình hình của địch. Sự “tiên tri” này không nhờ đến thần thánh hay ma quỷ nào, không dự vào tử vi bói toán hoặc mọi hiện tượng tương tự trong quá khứ. Tiên tri ấy có được nhờ những người biết rõ tình thế của địch – nhờ điệp báo.

    (Tôn Tử, thế kỷ IV trước Công nguyên)

    NGHỊCH ĐẢO

    Thông tin là chỗ dựa của quyền lực, nhưng khi do thám người khác, bạn chuẩn bị tinh thần để bị người khác do thám lại. Vì vậy một trong những vũ khí hiệu quả nhất trong trận chiến thông tin chính là phát ra thông tin sai lạc. Như Winston Churchill từng nói, “Sự thật quý báu đến mức phải luôn được hộ tống bởi những lời nói dối.” Bạn phải có được sự hộ tống như vậy, nhằm ngăn chặn mọi xâm nhập. Tung được loại thông tin như ý, bạn sẽ làm chủ cuộc chơi.

    Năm 1944, Đức Quốc Xã bỗng dưng tăng cường tấn công London bằng bom bay. Hơn hai ngàn hỏa tiễn V-1 cắm xuống thành phố giết chết nhiều người. Tuy nhiên nhìn chung thì phần lớn những quả V-1 ấy đã không trúng đích. Nhiều quả nhắm vào khu đông dân cư như Tower Bridge hoặc Piccadilly lại rơi vào những chỗ thưa người. Nguyên nhân là vì lính Đức đã dựa vào tin tình báo của gián điệp trên đất Anh để bắn hỏa tiễn. Họ không ngờ rằng người Anh đã phát hiện bọn gián điệp đó nhưng cứ để yên, rồi tương kế tựu kế phát đi những thông tin sai lạc. Càng ngày những quả bom bay càng rớt xa mục tiêu, và đến cuối chiến dịch chúng chỉ gây thương vong cho lũ bò cái ngoài đồng.

    Bạn sẽ nắm được ưu thế khi cung cấp cho địch thủ loại thông tin lừa bịp. Nếu hành vi do thám giúp bạn có thêm con mắt thứ ba, thì loại thông tin đánh lạc hướng sẽ móc bớt mất một con mắt của địch thủ.
     
  7. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 15: Nhổ Cỏ Phải Nhổ Tận Gốc

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Từ thời Moses cho đến ngày nay, mọi lãnh tụ đều biết rằng hễ đánh địch là phải triệt tiêu. Nếu còn chút than hồng âm ỉ trong đống tro tàn, cho dù có yếu cách mấy thì sẽ có lúc ngọn lửa lại bùng lên. Chẳng thà diệt sạch còn hơn để dang dở: Địch thủ sẽ phục hồi và báo thù. Hãy tàn sát chúng, không chỉ về thể chất mà cả tinh thần.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Trong lịch sử Trung Hoa, không có sự kình địch nào làm tốn nhiều giấy mực hơn cuộc chiến giữa Hạng Vũ và Lưu Bang. Khởi đầu sự nghiệp, họ là bạn thân và là đồng đội. Là con nhà quan, Hạng Vũ to lớn vạm vỡ, tính tình nóng nảy hung bạo, tuy hơi tối dạ nhưng lại là chiến binh dũng cảm luôn đứng ở đầu sóng ngọn gió. Lưu Bang xuất thân nông dân, ít có tính khí của binh gia, thích rượu ngon gái đẹp hơn là đao kiếm. Thật ra ông ta ít nhiều là người du thủ du thực. Song Lưu Bang lại khôn ngoan, có khả năng phát hiện và thu phục hiền tài, biết nghe lời họ khuyên. Chính ưu điểm đó đã giúp ông tiến thân trong sự nghiệp.

    Năm 208 TCN, quân khởi nghĩa chia thành hai mũi dùi, rầm rộ tiến về Hàm Dương. Một đạo tiến về hướng Bắc dưới sự chỉ huy của chủ soái Tống Nghĩa, Hạng Vũ làm phó tướng. Lưu Bang dẫn đạo quân thứ hai trực chỉ kinh đô. Cả hai hẹn gặp tại Hàm Dương. Là người tính nóng và không kiên nhẫn, Hạng Vũ không thể để cho Lưu Bang đến trước và có cơ hội được thăng tiến thống lĩnh toàn quân.

    Ở mặt trận phía Bắc, Tống Nghĩa do dự chưa muốn cho quân lâm trận, Hạng Vũ nổi giận bước vào lều chỉ huy, điểm mặt Tống Nghĩa kết tội phản rồi rút gươm chém bay đầu, sau đó tự phong nguyên soái. Không chờ lệnh vua, Hạng Vũ xuất quân tiến thẳng về Hàm Dương. Tự tin vào tài điều quân, ông ta chắc chắn mình sẽ đến kinh đô của quân địch trước Lưu Bang. Nhưng đến nơi, Hạng Vũ mới té ngửa ra khi thấy Lưu Bang đã tiến chiếm Hàm Dương rồi, nhờ đạo quân tuy ít người hơn nhưng năng động hơn. Quân sư của Hạng Vũ là Phạm Tăng góp ý: “Tay trưởng thôn Lưu Bang này nổi tiếng là tham tài háo sắc, nhưng từ khi vào thành đô đến giờ vẫn chưa tơ tưởng tiền tài của cải hay tửu sắc gì cả. Điều đó chứng tỏ hắn còn nhắm xa.”

    Quân sư khuyên Hạng Vũ nên khử Lưu Bang trước khi quá muộn, bằng cách tổ chức tiệc rượu ở ngoại vi kinh đô, mời hắn đến rồi nhanh tay hạ thủ trong lúc binh sĩ biểu diễn màn múa kiếm. Thư mời gửi đi, Lưu Bang đến dự. Nhưng đã qua mấy tuần rượu mà Hạng Vũ vẫn do dự chưa ra lệnh bắt đầu màn múa kiếm. Đến khi quyết định ra dấu cho binh sĩ thì Lưu Bang đã đánh hơi thấy âm mưu nên nhanh chân tẩu thoát. Phạm Tăng thất vọng kêu trời: “Nếu không trừ khử được Lưu Bang, hắn sẽ thu tóm cả cơ đồ và thanh toán chúng ta.”

    Hạng Vũ liền ra lệnh tấn công Hàm Dương, lần này quyết bêu đầu địch thủ. Lưu Bang là người không bao giờ nghênh chiến khi sự tình bất lợi nên bỏ ngỏ kinh thành mà thoát thân. Hạng Vũ chiếm Hàm Dương, sát hại thái tử nhà Tần, phóng hỏa đốt sạch thành bình địa. Nhiều tháng tiếp theo, Hạng Vũ miệt mài truy đuổi, cuối cùng dồn được Lưu Bang vào một thị trấn nhỏ. Bị vây hãm, lương thực thiếu thốn, binh sĩ rối loạn, Lưu Bang phải đầu hàng.

    Phạm Tăng khuyên Hạng Vũ giết ngay địch thủ, nếu không sẽ ân hận sau này. Song Hạng Vũ lại muốn bắt sống Lưu Bang dẫn độ về Sở, tại đó buộc Lưu phải tôn vinh mình là chủ soái. Nhưng những gì Phạm Tăng e sợ đã diễn ra: Lợi dụng tiến trình đàm phán làm Hạng Vũ xao lãng, Lưu Bang bỏ trốn với toán quân trung thành. Hạng Vũ tức tốc đuổi theo, tưởng chừng đã mất trí vì cơn giận dữ ngất trời. Trong cơn hỗn loạn, Hạng Vũ bắt được cha của Lưu Bang, cho trói gô lại và bêu cao cho Lưu Bang thấy: “Nếu không đầu hàng, ta sẽ nấu cháo cha người!”. Lưu Bang bình tĩnh đáp lại: “Chúng ta là anh em kết nghĩa, vì vậy cha ta cũng là cha ngươi. Nhưng nếu ngươi can tâm nấu cháo, thì nhớ gửi cho ta một bát.” Hạng Vũ chùng tay, và cuộc chiến đấu tiếp diễn.

    Sau đó vì một số sai lầm chiến thuật nên Hạng Vũ thua nhiều trận đánh, binh đội mỏng dần. Trong một lần tiến công thần tốc, Lưu Bang vây doanh trại chính của Hạng Vũ. Gió đã đổi chiều, giờ đến lượt Hạng Vũ cầu hòa. Quân sư của Lưu Bang bảo nhất định phải hạ thủ Hạng Vũ chứ không nên thả hổ về rừng. Lưu Bang gật đầu.

    Tuy nhiên sau đó Hạng Vũ thoát thân được là nhờ đội cận vệ trung kiên liều mình cứu chúa. Thân cô thế cô và bị truy đuổi gắt gao, đến khi cùng đường, Hạng Vũ nói với tàn quân: “Nghe nói Lưu Bang treo giá cái đầu ta đến ngàn vàng và thái ấp vạn hộ. Vậy nay ta tưởng thưởng lòng trung của các ngươi.” Nói xong tự vẫn.[6]

    Diễn giải

    Hạng Vũ nổi tiếng hung bạo và ít khi chùng tay với kẻ thù. Song với Lưu Bang thì Hạng Vũ lại làm khác, muốn đánh bại địch thủ trên trận mạc để làm cho Lưu Bang tâm phục khẩu phục mà quy hàng. Bắt được Lưu Bang rồi Hạng Vũ vẫn do dự, vì dù sao đây vẫn là địch thủ đáng nể, từng là đồng đội và nghĩa đệ. Đến khi quyết chí tiêu diệt Lưu Bang thì quá trễ, xem như Hạng Vũ đã ký tên vào án tử. Trái lại khi gió đổi chiều, Lưu Bang không ngần ngại.

    Đó là số phận chờ đợi ta nếu ta nương tay với địch thủ, cho dù đó là vì thương hại hay dự định làm hòa. Như thế chúng sẽ thù hằn ta thêm mà thôi. Ta đã đánh bại và làm chúng mất mặt, thì không nên tiếp tục để những con rắn độc ấy sống thêm mà báo thù. Nói quyền lực thì không thể nói nhân nghĩa. Đã bắt được địch thì phải nghiền nát, đập tan, và triệt tiêu mọi cơ hội sau này báo oán. Điều này còn đúng hơn với trường hợp một đồng chí cũ giờ trở thành kẻ thù. Quy luật đối với nguyên tắc đối đầu sinh tử là không thể làm hòa. Nếu một bên khả thắng thì phải toàn thắng.

    Lưu Bang thấm nhuần quy luật ấy. Sau khi chiến thắng Hạng Vũ, gã nông dân tiếp tục tiến lên thống lĩnh toàn quân Sở. Nghiền nát đối thủ kế tiếp – vua Sở, tức là chủ cũ của mình – Lưu Bang tự phong hoàng đế, dẹp tan không nương tay một chướng ngại trên đường đi, trở thành một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất của Trung Quốc, Hán Cao Tổ, người sáng lập nhà Hán.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Ra đời năm 625, Võ Mỵ Nương là ái nữ một đại thần, nổi tiếng sắc hương, được nhập cung làm phi cho Đường Thái Tông hoàng đế.

    Hậu cung là nơi nguy hiểm, với đám cung phi luôn bày mưu lập kế để lấy lòng hoàng thượng. Hương sắc và tài trí đã giúp Võ sớm thắng cuộc chiến thầm lặng ấy, nhưng vì biết hoàng đế cũng như bao người quyền lực khác, sẽ mưa nắng bất thường và chẳng do dự gì sủng ái người khác, nên Võ lên kế hoạch tầm xa.

    Võ rắp tâm chinh phục Đường Cao Tông, đứa con phóng đãng của hoàng đế. Mỗi khi có dịp gặp riêng chàng, chẳng hạn như trong phòng vệ sinh của thái tử, Võ đều ra sức ve vãn mơn trớn. Ấy vậy mà khi hoàng đế băng hà, Võ phải chịu số phần đám phi tần truyền thống và luật lệ đã quy định: cạo đầu lui vào chùa cho đến cuối cuộc đời. Suốt bảy năm liền Võ luôn làm thân với hoàng hậu, Võ thuyết phục hoàng đế ban chỉ cho phép hồi cung. Sau đó, một mặt Võ liếm gót hoàng hậu trong khi vẫn lén lút thông dâm với hoàng đế. Tuy có hay biết nhưng hoàng hậu không ngăn cả - vẫn chưa sinh được rồng con nên vị trí rất bấp bênh, bà cần có Võ làm đồng minh tài chí.

    Năm 654 Võ Mỵ Nương sinh con. Khi hoàng hậu đến thăm và vừa ra khỏi, Võ liền giết con ruột của mình để mọi nghi kỵ đổ dồn vào hoàng hậu, vốn nổi tiếng ganh tỵ. Không lâu sau, hoàng hậu bị kết tội mưu sát và chịu án tử. Võ Mỵ Nương được phong hoàng hậu. Vị hoàng đế phóng đãng đã sẵn sàng giao việc triều chính cho nàng, và từ đó trở đi mọi người gọi là Võ hậu.

    Mặc dù ở vị trí quyền lực tột bực song Võ không yên tâm. Nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, hậu không hề hạ thấp cảnh giác. Năm 41 tuổi, hậu sợ cô cháu trẻ đẹp sẽ được lòng hoàng thượng nên sai người hạ độc. Đến năm 675 con đẻ của hậu vì được tôn làm thái tử nên cũng bị hạ độc luôn. Đứa tiếp theo, mặc dù là con hoang nhưng vẫn có tiềm năng kế vị, vì vậy sau đó bị vu cáo và lưu đày. Tám năm sau, khi hoàng đế băng hà, Võ lại sắp xếp để quần thần tuyên bố rằng đứa con áp út của bà không đủ điều kiện lên ngôi. Có nghĩa là đứa con út khờ khạo sẽ kế vị để hậu tiếp tục nhiếp chính.

    Những năm sau đó liên tiếp diễn ra nhiều vụ đảo chính không thành và tất cả bọn chủ mưu đều bị xử tử. Đến năm 688 thì không còn ai đủ sức mạnh và dũng cảm để đối đầu Võ hậu. Hai năm sau đó, hậu đạt được ước nguyện tột cùng: Tự cho là hậu duệ của đức Phật, bà tự xưng Đại Chu Thánh Võ hoàng đế, được mọi người gọi là Di Lặc tái thế.

    Võ lên ngôi hoàng đế không còn đối thủ. Nhờ vậy bà tiếp tục trị vì suốt hơn một thập niên.[7]

    Diễn giải

    Những ai đã biết Võ hậu đều thán phục sự tinh khôn và năng lực của bà. Vào thời đó, phụ nữ không còn niềm vinh quang nào khác là được tuyển vào hậu cung vài năm, nhưng sau đó nếu không may sẽ phải giam mình suốt đời trong tu viện. Suốt tiến trình chậm mà chắc để vươn lên đỉnh cao, chưa bao giờ Võ thực sự ngu ngơ cả. Nàng biết rằng bất kỳ do dự nào, cho dù chỉ mềm yếu trong chốc lát, cũng đồng nghĩa với kết liễu cuộc đời. Nếu một lần vừa thanh toán địch thủ này xong thì địch thủ khác xuất hiện, với nàng giải pháp thật đơn giản: Tàn sát, nếu không chính mình sẽ bị sát hại. Nhiều hoàng đế trước đó cũng hành động như vậy, nhưng Võ – một phụ nữ, hầu như không có cơ hội nào để giành được quyền lực – cần phải tàn nhẫn hơn.

    Bốn mươi năm trị vì của Võ hậu là một trong những triều đại lâu dài nhất lịch sử Trung Quốc. Mặc dù không phải ai cũng tán đồng cách trị vì bằng bàn tay sắt nhuốm máu của bà, song phải nhìn nhận rằng Võ Tắc Thiên là một trong những lãnh tụ có năng lực và hiệu quả nhất của thời đại.

    Tướng quân Ramón Maria Narváez (1800-1868), một chính

    khách Tây Ban Nha đang hấp hối. Thầy tư tế hỏi ông:

    “Ngài có tha lỗi cho tất cả kẻ thù không?”

    “Ta không cần phải tha lỗi cho họ,”

    Narváez đáp, “Ta đã cho bắn sạch cả bọn rồi.”

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Không phải bỗng dưng mà cả hai câu chuyện minh họa nguyên tắc này đều đến từ Trung Quốc: Lịch sử nước này đầy những chuyện kể về việc tha tội cho các kẻ thù, rồi sau đó chúng quay lại làm hại mình. “Nhổ cỏ tận gốc” là nguyên tắc chiến lược của Tôn Tử, tác giả thiên Binh pháp hồi thế kỷ thứ IV trước công nguyên. Không có gì khó hiểu: Kẻ thù muốn làm hại ta. Họ không muốn gì hơn là trừ khử ta. Nếu trong quá trình chiến đấu, ta dừng ở nửa đường hoặc thậm chí ba phần tư đường vì lòng nhân hoặc giả muốn làm hòa, thì ta chỉ khiến chúng căm giận ta sâu sắc hơn, kiên định hơn, và ngày nào đó chúng sẽ báo thù. Trước mắt chúng sẽ cư xử thân thiện, chỉ bởi vì chúng vừa thua ta. Chúng không còn sự lựa chọn nào khác là phải chờ thôi.

    Giải pháp: Không khoan dung gì cả. Ta phải nghiền nát kẻ thù cũng như chúng sẽ nghiền nát ta. Kẻ thù không thể nào mang đến cho ta sự an toàn và bình yên cả, trừ khi chúng không còn tồn tại nữa.

    Mao Trạch Đông, người am tường binh pháp của Tôn Tử và lịch sử Trung Quốc nói chung, hiểu rõ tầm quan trọng của nguyên tắc này. Năm 1934 vị lãnh tụ Cộng sản này cùng 75.000 quân lính thiếu thốn trang thiết bị phải trốn vào vùng núi hoang sơ phía Tây Trung Quốc để tránh sự truy đuổi của đại quân Tưởng Giới Thạch. Chiến thuật lui quân này được gọi là cuộc Trường chinh.

    Tưởng quyết tâm tiêu diệt cho đến người Cộng sản cuối cùng, và vài năm sau đó Mao chỉ còn khoảng 10.000 quân. Đến năm 1937 khi Nhật xâm lăng Trung Quốc, Tưởng cho rằng lực lượng Cộng sản không còn là mối đe dọa, nên bỏ cuộc truy đuổi và tập trung đánh Nhật. Mười năm sau, phe Cộng sản phục hồi đủ mạnh để đánh bại Tưởng, vì ông này đã quên câu châm ngôn nhổ cỏ tận gốc. Nhưng Mao lại không quên. Tưởng bị Mao truy đuổi ráo riết đến mức phải trốn ra hải đảo Đài Loan. Hoa lục ngày nay không còn chút dấu ấn nào của chế độ Tưởng.[8]

    Câu châm ngôn nói trên cũng cổ xưa như Kinh thánh: Moses từng học được triết lý này từ chính Thượng đế, khi ngài vẹt nước Hồng Hải ra cho dân Do Thái, để cho ba đào chảy ngược càn quét người Ai Cập, nhằm tiêu diệt cho đến tên cuối cùng.

    Khi trở về từ núi Sinai với Mười điều răn và nhận thấy nhiều người Do Thái lại sùng bái Bê Vàng, Moses giết sạch những người theo tà giáo, không chừa một ai. Và trước khi từ giã cõi đời để vào Miền đất hứa, Moses nói với các môn đồ rằng khi đã đánh bại các bộ tộc Canaan, họ phải “hoàn toàn tiêu diệt chúng… không được thỏa hiệp gì cả, không được khoan dung với chúng.”

    Mục đích toàn thắng là tiền đề của mọi cuộc chiến hiện đại, và được hun đúc bởi Carl von Clausewitz, triết gia hàng đầu về chiến tranh. Phân tích các chiến dịch của Napoléon, ông ta viết: “Chúng ta khẳng định rằng việc tiêu diệt hoàn toàn mọi lực lượng thù địch luôn phải là mối quan tâm chủ đạo… Một khi đạt được thắng lợi quan trọng, không được nói đến chuyện nghỉ ngơi hay thở một chút... mà là phải truy đuổi, tiếp tục tiến công địch quân, tiến chiếm thủ đô của chúng, tiến công lực lượng dự phòng và bất cứ những gì có khả năng cung cấp viện trợ và tiện ích cho chúng.” Lý do Clausewitz viết như vậy là vì lúc chiến tranh đình chỉ thường xảy ra thương lượng và phân chia lãnh thổ. Nếu chiến thắng không trọn vẹn, khi thương lượng ta sẽ mất đi những gì mình đạt được trong chiến tranh.

    Giải pháp thật đơn giản: Không chừa cho kể thù bất kỳ lựa chọn nào. Cứ tiêu diệt chúng trước, rồi sau đó ta tha hồ cắt xén đất đai như thế nào tùy ý. Mục đích của quyền lực là hoàn toàn khống chế kẻ thù, buộc chúng phải răm rắp vâng lời. Bạn không thể chỉ làm dang dở. Nếu không được quyền chọn lựa, chúng sẽ phải tuân thủ ta thôi. Nguyên tắc này còn được áp dụng ra ngoài lĩnh vực quân sự. Thương lượng là con thú hiểm ác sẽ nuốt chửng chiến thắng của ta, vì vậy ta không chừa cơ hội cho kẻ thù được thương lượng, được hy vọng, được dở trò. Chúng bị tiêu diệt, và thế là xong.

    Hãy nhớ lấy điều này: Trong quá trình tranh giành quyền lực, bạn sẽ khuấy động lên nhiều sự kình địch và tạo ra kẻ thù. Sẽ có những thành phần mà bạn không thể thuyết phục lôi kéo, và sau đó dù gì đi nữa thì họ cũng ở tư thế đối đầu chứ không phải là đồng minh. Bạn chỉ nhớ rằng giữa hai bên sẽ không còn khả năng hòa bình, nhất là khi bạn trụ ở tư thế quyền lực. Nếu để họ quanh quẩn, họ sẽ tìm phương báo oán, chắc chắn như hết ngày lại đêm. Đợi đến lúc họ lật bài ra thì bạn sẽ trở tay không kịp.

    Bạn hãy thực tế: Ta sẽ không bao giờ an toàn khi có kẻ thù trước ngõ. Hãy nhớ lấy những bài học từ lịch sử, từ sự khôn ngoan của Moses và Mao: Đừng bao giờ làm việc gì nửa vời.

    Tất nhiên đây không phải là tội cố sát, mà chỉ là vấn đề lưu đày. Bị tàn phế, rồi bị lưu đày vĩnh viễn khỏi triều đình ta, kẻ thù không còn lợi hại. Họ không còn hy vọng phục hồi, luồn lách xâm nhập trở lại hại ta. Còn nếu vì lý do nào đó mà không tống khứ họ được, bạn cứ tin rằng họ đang âm mưu chống lại ta, vì vậy ta không được tin vào bất kỳ dấu hiệu thân thiện nào mà họ bày tỏ. Trong những tình huống như thế, vũ khí duy nhất của ta là sự cảnh giác cao độ. Nếu không trục xuất họ được ngay, ta hãy chuẩn bị thời cơ gần nhất để ra tay.

    Hình ảnh:

    Một con rắn lục bị gót chân bạn giẫm nát nhưng vẫn còn sống, nó ngóc cổ lên cắn bạn với liều nọc độc gấp đôi. Kẻ thù chưa bị tận diệt sẽ như con rắn còn ngắc ngoải, tận dụng thời gian để phục hồi, để nọc độc tăng cường độ.

    Ý kiến chuyên gia:

    Cần phải lưu ý rằng đối với một con người thì hoặc phải nuông chiều, hoặc phải tận diệt. Nếu chỉ bị tổn thương nhẹ, hắn sẽ trả thù, nhưng nếu bị tổn thất nặng nề thì hắn sẽ không thể; vì vật khi gây tổn thất cho ai, ta phải làm sao mà không sợ hắn trả thù.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    NGHỊCH ĐẢO

    Nguyên tắc này chỉ có thể được bỏ qua trong trường hợp hết sức hãn hữu. Nhưng sẽ có lúc tốt hơn bạn nên để các địch thủ tiêu diệt nhau, nếu có thể được, thay vì mình tự ra tay. Trong chiến tranh chẳng hạn, một vị tướng giỏi biết rằng khi bị dồn vào chân tường, địch quân sẽ đánh trả dữ dằn hơn. Chính vì thế đôi lúc ta nên chừa cho chúng con đường thoát. Khi rút lui, sức lực địch sẽ bị bào mòn, và việc lui quân còn làm cho chúng xuống tinh thần nhiều hơn là nếu bị thua trên chiến địa. Do đó trong tình thế có nhiều địch thủ đang sắp cạn kiệt sức – và phải chắc chắn là chúng không còn khả năng phục hồi – bạn có thể để chúng tự hủy diệt.

    Cuối cùng khi bị ta nghiền nát, địch thủ thù ta sâu đậm đến nỗi nhiều năm sau vẫn tìm cách báo oán. Hòa ước Versailles gây ra hiệu ứng tương tự đối với người Đức. Về sau này có người lý luận rằng có lẽ tốt hơn nếu hòa ước ấy khoan dung hơn. Vấn đề là khi khoan dung ta bị rủi ro khác – tạo điều kiện cho kẻ thù có cơ hội phục hận. Trong hầu hết trường hợp, tốt hơn ta nên nghiền nát đối phương.
     
  8. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 16: Biết Đầu Cơ Sự Hiện Diện

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Càng lưu hành nhiều thì tiền càng mất giá: Mọi người càng thấy và nghe ta càng nhiều thì ta càng trở nên tầm thường. Khi đã có vị trí trong tập thể, thỉnh thoảng ta nên ẩn mặt để mọi người bàn tán, thậm chí ngưỡng mộ. Ta phải biết lúc nào nên lui gót. Hãy tạo thêm giá trị bằng sự quý hiếm.

    VI PHẠM VÀ TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Guillaume de Balaun là nghệ sĩ du ca, chuyên hát rong khắp miền Nam nước Pháp vào thời Trung cổ, đi từ lâu đài này đến lâu đài khác, vừa biểu diễn thi ca, vừa sống trọn vai trò người hiệp sĩ. Đến lâu đài Javiac, ông ta phải lòng nữ chủ nhân là Madame Guillelma de Javiac. Ông kiên nhẫn làm thơ tặng nàng, ca cho nàng nghe, chơi cờ hầu nàng, và dần dần tình yêu cũng được nàng đáp trả. Đi chung với Guillaume là Pierre de Barjac, người bạn thân cũng được đón rước tại lâu đài. Và bản thân Pierre cũng bị tiếng sét với nàng Viernetta tuy duyên dáng nhưng tính khí thất thường.

    Đến ngày kia Pierre và Viernetta cãi nhau dữ dội. Bị quý cô xua đuổi, Pierre tìm đến Guillaume nhờ tìm phương hàn gắn và nói giúp với người đẹp một tiếng. Lúc ấy Guillaume sắp rời lâu đài có việc, và khi trở về vài tuần sau đó ông ta ngạc nhiên vì Pierre và Viernetta đã làm hòa với nhau rồi. Pierre cảm thấy tình yêu của mình tăng gấp bội phần – thực tế là không lúc nào tình yêu mạnh hơn lúc làm hòa sau khi giận sau. Pierre nói với Guillaume rằng mối bất hòa càng mạnh mẽ và kéo dài, thì khi gặp lại, cảm giác trùng phùng càng ngọt ngào ngây ngất.

    Với tư cách kẻ hát rong, Guillaume tự hào là từng trải mọi niềm vui nỗi buồn của tình yêu. Vừa nghe bạn kể xong, ông ta cũng muốn nếm niềm vui sướng đoàn viên sau cơn sóng gió. Vì vậy ông vờ giận dỗi tiểu thư Guillelma, không thèm gửi cho nàng thư tình nào nữa, rồi đột ngột rời bỏ lâu đài không trở lại, bỏ cả những mùa liên hoan và săn bắn. Tiểu thư quay quắt muốn phát cuồng.

    Guillelma phái nhiều người đưa tin đến gặp Guillaume tìm hiểu sự tình nhưng ông bảo họ về mà không giải thích lời nào. Ông nghĩ là thế nào đến lượt tiểu thư cũng sẽ nổi giận, đặt ông vào tư thế phải xin làm hòa như Pierre đã phải xin. Nhưng không, sự vắng mặt của ông lại tác dụng cách khác, và càng làm Guillelma yêu ông nhiều hơn nữa. Đến lúc này thì chính tiểu thư săn đuổi hiệp sĩ, liên tục gửi thư đi và phái liên lạc viên hóng tin. Xưa nay chưa từng nghe nói điều tương tự - vì một tiểu thư không bao giờ đeo đuổi kẻ du ca. Và bản thân Guillaume cũng không thích điều ấy. Sự sốt sắng đó khiến Guillaume cảm thấy nàng đã đánh mất phần nào phẩm giá. Không chỉ nao núng cho kế hoạch của mình, ông ta còn chột dạ với tình nương.

    Cuối cùng sau nhiều tháng bặt tin chàng, Guillelma đành chịu thua, không phái gia nhân đến nữa. Lòng dạ Guillaume như lửa đốt – có lẽ nàng đã giận luôn? Hay biết đâu kế hoạch đúng như dự định? Nàng có giận thì càng tốt. Guillaume không thể chờ đợi thêm nữa – thời điểm làm hòa đã đến. Ông liền mặc bộ y phục sang trọng nhất, chọn cái mũ sắt đẹp nhất, trang hoàng con ngựa thật lộng lẫy, rồi lên đường trực chỉ Javiac.

    Nghe tin người yêu trở lại, Guillelma chạy như bay ra đón, quỳ gối dưới chân chàng, vén mạng che mặt để hôn chàng và xin được thứ lỗi về bất kỳ sự khinh xuất nào đã làm chàng nổi giận. Bạn hãy tưởng tượng sự bất ngờ và thất vọng của Guillaume – kế hoạch của ông ta hoàn toàn sụp đổ. Guillelma không hờn giận gì cả, nàng chưa bao giờ hờn giận, mà càng yêu say đắm mà thôi và vì thế ông ta sẽ không bao giờ kinh qua niềm vui tao ngộ sau lần hai đứa giận nhau. Giờ đã gặp nàng rồi nhưng vẫn chưa nếm được niềm vui như Pierre đã mô tả, Guillaume quyết thử lại lần nữa: Sử dụng nhiều lời lẽ và cử chỉ thô bạo để làm nàng giận mà tránh xa. Quả nhiên Guillelma bỏ đi và thề sẽ không bao giờ nhìn mặt Guillaume nữa. Ông ta cũng quay ngựa.

    Sáng hôm sau khi suy nghĩa lại, gã hát rong hối hận. Ông ta lại về Javiac nhưng lần này tiểu thư không tiếp, lại còn ra lệnh gia nhân xua đuổi. Cổng không mở, cầu treo không hạ xuống, Guillaume đành quay gót trở về căn phòng vắng lạnh, gục xuống khóc nức nở. Ông biết mình đã sai lầm khủng khiếp. Một năm trôi qua không gặp người thương, Guillaume đã biết thế nào là nhung nhớ, nỗi nhớ nhung giày vò làm tình yêu thêm cháy bỏng. Ông sáng tác một trong những bài thơ hay nhất gửi cho Guillelma, cùng với nhiều bức thư thống thiết để giải thích hết mọi chuyện, và cầu xin nàng tha thứ.

    Rất nhiều lá thư cầu khẩn được Guillaume gửi tới tập, tiểu thư Guillelma cũng thấy nhớ gương mặt điển trai, nhớ những bài tình ca ngọt ngào, những bước nhảy hoa mỹ và tài huấn luyện chim mồi của chàng, nên cuối cùng cũng ngã lòng. Guillelma nhắn là để làm chứng cho sự ăn năn, chàng phải rút móng tay út bên phải gửi nàng làm tin, cùng với một bài thơ diễn tả nỗi thống khổ khi phải xa nhau.

    Guillaume làm đúng những gì người đẹp muốn, và cuối cùng cũng thưởng thức được cảm giác tột cùng – gương vỡ lại lành, niềm vui còn vượt hẳn cảm xúc của người bạn Pierre.

    Diễn giải

    Định thử nếm cho biết thế nào là niềm vui tái ngộ, Guillaume de Balaun lại vô tình khám phá ra sự thật của quy luật về việc vắng mặt và có mặt. Ở giai đoạn đầu tình cảm, bạn cần tăng cường sự hiện diện mình trong mắt người thương. Nếu vắng mặt quá sớm thì người ta sẽ quên bạn. Nhưng khi cảm xúc đã sâu đậm, khi tình yêu bắt đầu kết tinh, sự vắng mặt sẽ kích thích và làm cho con tim bừng cháy. Nếu vắng mặt không lý do lại còn làm cảm xúc tăng lên bội phần: Người kia sẽ nghĩ rằng mình có lỗi chi đây. Khi ta vắng mặt, trí tưởng tượng của người yêu sẽ chắp cánh, và từ đó làm cho tình yêu mãnh liệt thêm. Ngược lại khi Guillelma càng theo đuổi thì Guillaume càng bớt yêu nàng – hình bóng của nàng thường quá, dễ với tới quá, không chừa chút sân chơi nào cho trí tưởng của chàng, vì vật cảm xúc bị bóp nghẹt. Đến khi nàng thôi không phái người liên lạc nữa thì chàng mới… thở được, mới tiếp tục thực hiện kế hoạch.

    Một ai đó hoặc điều gì đó ẩn mất, hay trở nên hiếm thấy, đột nhiên khiến ta trọng vọng hơn. Những gì tại vị quá lâu, sự hiện diện của họ gần như là tràn ngập, làm cho ta xem thường. Vào thời Trung cổ, các tiểu thư luôn đặt hiệp sĩ trước những thử thách của tình yêu, yêu cầu họ thực hiện nhiều chuyến đi xa hoặc phiêu lưu hào hùng, thực chất là để áp dụng mô thức vắng mặt/có mặt. Có khả năng nếu Guillaume không chủ động tìm cách vắng mặt thì Guillelma buộc lòng phải phái chàng đi xa, chủ động tạo ra sự trống vắng cần thiết.

    Sự vắng mặt sẽ làm suy yếu những đam mê

    nhỏ nhoi và làm bừng cháy những đam mê mãnh liệt,

    giống như gió thổi tắt ngọn nến và thổi bùng đám cháy.

    (La Rochefoucauld, 1613-1680)

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Suốt nhiều thế kỷ, người Assyria dùng bàn tay sắt thống trị vùng Iraq ngày nay. Tuy nhiên vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, dân chúng vùng Medea (bây giờ là miền Tây-Bắc Iran) khởi nghĩa và giành độc lập. Khi thành lập chính quyền, người Medea muốn tránh mọi hình thức độc tài, không đặt quyền lực tối thượng trong tay một người, cũng không thiết lập chế độ quân chủ. Tuy nhiên không có một người lãnh đạo thì đất nước lại sớm rơi vào tình trạng hỗn loạn, manh mún thành nhiều lãnh địa nhỏ, với việc làng này đánh làng kia.

    Trong một làng như thế có người tên Deioces, dần dần nổi tiếng về tài giảng hòa một cách công bằng, không thiên vị bên nào.

    Và ông thành công đến mức người dân luôn mời ông phân xử tất cả mọi xung đột, từ đó quyền lực ông tăng nhanh. Những thẩm phán khác trên đất nước Medea đều tham nhũng thối nát vì vậy người dân không thèm giao phó vụ việc cho tòa, mà thích giải quyết bằng bạo lực. Nghe tiếng Deioces rất thanh liêm, hiền triết, cùng với tâm bất thiên vị không thể lay chuyển, các thôn làng xa gần đều nhờ ông phân xử đủ loại tố tụng. Không lâu sau đó Deioces trở thành người duy nhất cầm cán cân công lý của đất nước.

    Đang ở đỉnh cao quyền lực, đột nhiên Deioces cảm thấy chán ngấy. Ông không muốn tiếp tục ngồi ở ghế phán xét, không muốn nghe lời lẽ kiện cáo, không muốn dàn xếp những tranh cãi giữa anh em và làng mạc với nhau nữa. Lấy cớ là mình mất quá nhiều thì giờ cho người khác đến nỗi bỏ bê việc gia đình, Deioces đột ngột rút lui. Một lần nữa đất nước lại rơi vào hỗn loạn, tội ác gia tăng, pháp luật bị phá vỡ. Trưởng lão của tất cả các làng mạc xứ Medea họp lại tuyên bố: “Chúng ta không thể tiếp tục sống trong tình trạng như như thế này nữa. Chúng ta hãy bầu ra một người trị vì để có thể sống dưới một chính quyền có quy củ, thay vì cửa nát nhà tan trong cơn hỗn loạn như thế này.”

    Và như vậy, mặc dù từng hết sức khổ ải khi sống dưới gông cùm của chế độ độc tài Assyria, người Medea vẫn phải thiết lập một chế độ quân chủ. Và người mà ai cũng muốn đề cử, tất nhiên đó là Deioces. Thật khó, thuyết phục ông ta ưng thuận, bởi vì ông đã quá chán chường những vụ đối đầu lời qua tiếng lại giữa các thôn làng, nhưng người Medea cứ nài nỉ mãi. Cuối cùng Deioces cũng phải gật đầu.

    Nhưng với một loạt những điều kiện. Thứ nhất toàn dân phải xây dựng thủ đô, nơi xuất phát mọi mệnh lệnh. Kế tiếp dân Medea phải xây một cung điện thật to, với đông đảo lính ngự lâm. Nằm giữa thủ đô, cung điện này có nhiều lớp tường cao cổng kín vây quanh, người thường không thể nào hó hé. Khi công trình hoàn tất, Deioces vào cung và đưa ra luật lệ nghiêm ngặt: Không quần thần nào được diện kiến, mọi liên lạc đều phải thông qua vài liên lạc viên. Quan nào có việc cẩn mật cần trình báo thì phải xin phép trước, và mỗi tuần chỉ được gặp vua một lần duy nhất.

    Như thế Deioces cầm quyền suốt 53 năm, mở rộng bờ cõi Medea, thiết lập nền móng cho đế chế Ba Tư tương lai, dưới sự trị vì của hậu duệ Cyrus nổi tiếng. Suốt thời gian Deioces tại vị, sự kính trọng của nhân dân dành cho ông từ từ biến thành một hình thức tôn thờ. Theo họ, ông không phải là thường nhân, mà là một thánh nhân.

    Diễn giải

    Deioces là người có nhiều tham vọng. Ngay từ đầu ông đã khẳng định rằng đất nước cần có một lãnh tụ rắn rỏi, và mình là người ấy.

    Ở một xứ sở bị hoành hành vì tình trạng vô chính phủ, người quyền lực nhất chính là người đứng ra làm trọng tài, làm tòa xử. Vì vậy Deioces khởi đầu sự nghiệp bằng cách xây dựng tiếng thơm, để được truyền tụng là người hoàn toàn công bằng.

    Khi ở đỉnh cao danh vọng, Deioces ý thức được quy luật của việc xuất xử: Khi đứng ra phục vụ cho quá nhiều người như thế, mọi người gặp mình thường quá và muốn gặp lúc nào cũng được, từ đó sẽ lờn mặt. Dân chúng sẽ nghĩ việc mình phục vụ là lẽ đương nhiên. Muốn lấy lại mức độ trọng vọng, ông ta phải rút lui hoàn toàn, để người dân Medea biết thế nào là cuộc sống mà không có Deioces. Và đúng như ông dự đoán, sau đó họ đến nài nỉ ông lên cầm quyền.

    Khi đã khám phá được quy luật này rồi, Deioces ứng dụng cho đến mức thành tựu tột cùng. Trong cung điện mênh mông vừa xây lên, không ai có quyền gặp ông trừ vài cận thần, mà những người này cũng hiếm khi được diện kiến. Như sử gia Herodotus từng viết, “Có rủi ro là nếu thường xuyên gặp ông, họ có khả năng ganh tỵ và đố kỵ, từ đó âm mưu tạo phản. Nhưng nếu không ai thấy ông, huyền thoại sẽ thêm thắt rằng ông là một thực thể khác với loài người tầm thường.”

    Có người hỏi vị tu sĩ: “Tại sao hiếm khi tôi thấy ông?”

    Tu sĩ trả lời: “Bởi vì câu ‘Tại sao ông không đến thăm tôi?’

    nghe ngọt ngào hơn là câu ‘Tại sao ông lại đến nữa?’”

    (Mulla Jami, trích tác phẩm Caravan of Dreams

    của Idries Shah, 1968)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Một sự hiện diện có trọng lượng sẽ thu hút quyền lực và sự quan tâm về cho ta – ta rực sáng hơn những người xung quanh. Nhưng nếu vượt qua một cái ngưỡng nào đó, sự hiện diện quá thường xuyên sẽ phản tác dụng: Mọi người nghe ta thấy ta càng nhiều, ta càng mất giá trị. Ta đã trở thành thói quen. Cho dù ta có cố gắng khác người, cố gắng thật tinh vi, nhưng không hiểu vì sao thiên hạ ngày càng bớt kính nể. Ta phải biết được lúc nào nên rút lui trước khi bị tiềm thức mọi người phủ nhận. Đó giống như trò ú tim.

    Tác dụng của quy luật này dễ nhận ra nhất ở lĩnh vực tình yêu và quyến rũ. Khi mới yêu, sự vắng mặt của người ta yêu sẽ kích thích trí tưởng tượng của ta, tạo ra vầng hào quang quanh người ấy. Vầng hào quang này sẽ phai lạt khi ta biết quá nhiều – khi trí tưởng tượng của ta không còn đất dụng võ. Người yêu bây giờ sao cũng giống như bất cứ ai, người được xem đương nhiên phải có mặt. Do đó tại sao kỹ nữ Ninon de Lenclos hồi thế kỷ XVII khuyên học trò nên tìm cớ thỉnh thoảng ẩn mặt. “Tình yêu không bao giờ chết vì đói kém,” bà viết, “mà thường là vì bội thực.”

    Khi bạn để cho người khác đối xử với mình như với bất kỳ ai khác thì đã quá trễ - bạn bị nuốt chửng. Muốn tránh tình trạng này bạn phải để cho người kia thiếu vắng mình. Phải làm cho họ nể mình hơn bằng cách hé cho họ thấy khả năng đánh mất bạn vĩnh viễn. Bạn phải tạo ra một cơ chế vắng mặt và có mặt.

    Khi bạn qua đời, mọi thứ về bạn sẽ có vẻ khác biệt. Trong chốc lát bạn được bao phủ bởi một vầng hào quang của sự tôn kính. Mọi người sẽ nhớ bạn hồi còn sinh tiền, họ từng chỉ trích bạn, tranh cãi với bạn, lúc ấy họ sẽ ăn năn hối hận. Họ đang thiếu vắng một sự hiện diện mà họ biết là sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng bạn không nhất thiết phải đợi đến lúc mình đã qua đời: Khi tạm thời vắng mặt một thời gian, bạn đã tạo ra một cái chết trước cái chết. Và khi xuất hiện trở lại, xem như bạn trở về từ cõi chết – bạn sẽ có dấu ấn của sự phục sinh, và mọi người sẽ cảm thấy nhẹ lòng với sự trở lại ấy. Đó là cách mà Deioces kiến tạo con đường đi đến ngai vàng.

    Napoléon đã nhận ra quy luật này khi nói “Nếu thường bắt gặp ta đi xem kịch, dân chúng sẽ bớt trọng vọng ta.” Ngày nay, trong một thế giới tràn ngập hình ảnh, trò chơi ẩn mặt càng phát huy thế mạnh. Ít khi ta biết được lúc nào nên tạm rút lui, và ngày nay hình như không điều gì còn được vẻ riêng tư nữa, vì vậy thường nể trọng người nào biết chủ động ẩn mặt. Hai tiểu thuyết gia J. D. Salinger và Thomas Pynchon đã khiến mọi người ngưỡng mộ đến mức gần như tôn thờ, khi hai ông khéo léo chọn thời điểm xuất xử.

    Quy luật này còn một khía cạnh hiện đại hơn, là ý niệm hút hàng của kinh tế học. Khi thu hồi mặt hàng nào đó ra khỏi thị trường, bạn đã tức thì tăng thêm giá trị cho mặt hàng ấy. Ở Hà Lan hồi thế kỷ XVII, các tầng lớp thượng lưu muốn cho tulip không chỉ là một loài hoa đẹp, mà tôn nó lên thành biểu tượng của địa vị xã hội. Họ chủ động làm cho hoa hiếm đi, hầu như không thể tìm được, từ đó làm bùng lên điều mà sau này được gọi là tulupomania, chứng cuồng si hoa tulip. Lúc ấy một hoa tulip còn giá trị hơn cân lượng bằng vàng của chính nó. Tương tự như vậy ở thời đại chúng ta, nhà buôn tranh Joseph Duveen cố gắng dàn xếp như thế nào để cho những bức ông bán ra càng hiếm càng tốt. Để nâng giá trị và giá cả bức tranh, ông mua cả bộ sưu tập rồi cất giữ dưới hầm. Những bức ông bán ra lúc ấy không còn là tranh – mà là vật được tôn sùng. “Bạn tha hồ mua những bức năm mươi ngàn đôla, điều đó dễ thôi,” có lần ông nói, “nhưng tậu được những bức với giá một phần tư triệu, thì hơi khó đấy!”

    Hình ảnh:

    Mặt trời. Mọi người chỉ thấy rõ giá trị của Mặt trời khi Mặt trời khuất mất. Những ngày mưa càng kéo dài thì Mặt trời càng được đợi mong. Nhưng nếu quá nhiều những ngày nóng bức thì xem như Mặt trời thừa mứa. Hãy học cách rút vào bóng tối khiến cho mọi người yêu cầu bạn xuất hiện.

    Luôn có những lúc nào đó mà những người ở vị trí quyền lực bám cái ghế quá lâu và họ không còn được hoan nghênh nữa. Ta chán họ, mất đi sự kính nể, nhìn họ cũng giống như bất kỳ ai khác; nói cách khác, ta thấy họ tệ hại khi bất giác so sánh họ hiện nay với hình ảnh của họ trước kia. Biết lúc nào nên rút lui, đó là cả một nghệ thuật. Thực hiện đúng thời điểm, bạn phục hồi sự kính nể đã phôi pha và lưu giữ một phần uy quyền.

    Lãnh tụ vĩ đại nhất thế kỷ XVI là Charles V. Là hoàng đế xứ Habsburg và vua Tây Ban Nha, ông từng trị vì một đế chế có lúc bao gồm phần lớn châu Âu và cả Thế giới Mới. Vào năm 1557 lúc ở đỉnh cao quyền lực, Charles rút lui vào tu viện Yuste. Cả châu Âu đều ngẩn ngơ trước hành động đột ngột này. Những người từng sợ và ghét ông giờ lại bảo ông thật vĩ đại và mọi người xem ông như thánh sống. Gần thời đại chúng ta hơn, nữ diễn viên điện ảnh Greta Garbo giải nghệ năm 1941 và được hết sức ngưỡng mộ. Garbo đã rút lui quá sớm – mới hơn ba mươi tuổi – nhưng chẳng thà chủ động quy ẩn còn hơn là chờ đến lúc công chúng quá nhàm chán mình.

    Nếu mọi người muốn gặp bạn lúc nào cũng được thì vầng hào quang bạn tạo quanh mình sẽ sớm lụi tàn. Hãy làm ngược lại: Bớt sự xuất hiện đi, rồi giá trị của sự hiện diện của bạn sẽ tăng lên.

    Ý kiến chuyên gia:

    Sử dụng sự vắng mặt để làm người khác trọng vọng. Khi vắng mặt, một người được ví như sư tử, nhưng khi hiện diện, hắn trở thành tầm thường và nực cười. Nếu ta gần gũi thường xuyên các tài năng lớn, sẽ có lúc ta lờn mặt họ, bởi vì bề nổi dễ thấy hơn chiều sâu. Ngay cả những thiên tài xuất chúng cũng phải thỉnh thoảng ẩn mặt để cho mọi người tiếp tục trọng vọng họ, và sự thiếu vắng do sự khuất mặt sẽ khiến mọi người kính nể họ hơn.

    (Baltasar Gracián, 1601-1658)

    NGHỊCH ĐẢO

    Quy luật này chỉ tối ưu khi bạn đã đạt được một mức nhất định trên bậc thang quyền lực. Chỉ nên ẩn mặt sau khi bạn đã thiết lập sự hiện diện của mình một cách vững chắc. Nếu rút lui quá sớm bạn không được mọi người kính nể, mà còn bị quên lãng. Lần đầu khi bước lên sàn diễn thế giới, hãy kiến tạo một hình ảnh dễ nhận biết, giống như nhân bản, và mọi lúc mọi nơi. Khi chưa được như vậy thì việc đi vắng sẽ nguy hiểm – thay vì được thổi bùng, ngọn lửa sẽ tắt ngấm.

    Tương tự, trên tình trường, sự vắng mặt chỉ hiệu quả sau khi bạn đã bao phủ người kia bằng hình ảnh thường trực của bạn. Phải làm sao để người yêu nhìn đâu cũng thấy bạn, để khi bạn đi vắng thì người ấy luôn mỏi mong, và hình ảnh bạn luôn ngự trị trong tim người ấy.

    Tóm lại: Ở giai đoạn đầu, hãy có mặt mọi lúc mọi nơi. Chỉ đối tượng nào được nhìn ngắm, cảm kích, và yêu thương mới tạo được khoảng trống vắng khi đột nhiên biến mất.
     
  9. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 17: Thật Giả Khó Lường

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Loài người là những sinh vật của thói quen, luôn muốn nhìn thấy người khác thực hiện những điều quen thuộc. Nếu ta nằm trong khuôn khổ đó, họ sẽ cảm thấy làm chủ được tình hình. Hãy làm đảo lộn mọi thứ: chủ động tự tạo một vẻ khó lường. Thấy ta xử sự không nhất quán, không nhằm vào đâu, họ sẽ hụt hẫng và mỏi mòn giải đoán hành động của ta. Đưa đến cực điểm, chiến lược này có khả năng hù dọa và khủng bố.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Tháng 5 năm 1972, nhà vô địch cờ vua Boris Spassky canh cánh chờ đợi địch thủ Bobby Fisher tại Reykjavik, thủ đô Iceland. Theo kế hoạch thì hai người gặp nhau giành chức vô địch Cờ vua Thế giới, nhưng Fisher lại đến trễ do đó ván đấu phải tạm hoãn. Fisher không đồng ý với số tiền thưởng, với cách chi trả, với các điều kiện hậu cần ở Iceland. Bất cứ lúc nào anh cũng có thể rút lui.

    Spassky cố gắng kiên nhẫn. Trưởng đoàn cờ vua của Nga cảm thấy bị xúc phạm và gợi ý Spassky bỏ về nhưng anh ta quyết đấu cho bằng được. Spassky biết mình có khả năng đánh bại Fisher, và không thể để vuột mất chiến thắng vĩ đại nhất sự nghiệp. “Có vẻ như mọi nỗ lực của ta cũng bằng thừa,” Spassky nói với một đồng chí. “Nhưng ta không thể làm gì khác hơn, bởi vì bóng đang ở phần sân Fisher. Nếu hắn đến thì ta đấu, hắn không đến thì ta không đấu. Kẻ muốn tự sát luôn nắm quyền chủ động.”

    Cuối cùng Fisher cũng đến Reykjavik, nhưng các vấn đề, cùng với lời hăm dọa rút lui vẫn còn đó. Fisher chê sảnh đường nơi tổ chức cuộc đấu, phê phán dàn ánh sáng, than phiền về tiếng ồn các máy quay phim, thậm chí ghét mấy cái ghế ngồi thi đấu. Đến thời điểm này thì đoàn Liên Xô chủ động đe dọa rút lui.

    Sự hù dọa này có vẻ hiệu nghiệm: Sau nhiều tuần câu giờ, sau nhiều cuộc thương lượng lê thê làm người chờ phải điên tiết, Fisher mới gật đầu. Nhưng đến hôm chính thức giới thiệu, anh ta đến rất trễ, và vào ngày bắt đầu cuộc “Thi đấu của thế kỷ”, anh ta lại trễ. Tuy nhiên lần này hậu quả sẽ rất gay: Nếu đến quá trễ, Fisher sẽ bị xử thua ván đầu. Vậy điều gì đang diễn ra? Phải chăng anh ta đang chơi đòn tâm lý? Hay là Bobby Fisher lại sợ Boris Spassky? Đối với những đại kiện tướng đang hiện diện, và với Spassky, hình như cậu bé vùng Brooklyn này đã sợ xanh cả mắt. Fisher xuất hiện lúc 5 giờ 09 phút, đúng một phút trước khi ván đấu bị hủy.

    Ván đầu tiên là cực kỳ quan trọng, vì nó thiết lập không khí chung của cuộc đấu trong những tháng tới. Ván đầu thường là cuộc tranh đấu chậm chạp và thầm lặng, khi hai đối thủ bày binh bố trận và cố gắng giải mã các chiến lược của đối phương. Nhưng ván này lại khác, Fisher có nước cờ sai lầm rất sớm, có lẽ là nước tệ hại nhất cả sự nghiệp, và cả khi bị Spassky dồn vào đường cùng, hình như anh ta muốn chịu thua. Nhưng Spassky biết Fisher không bao giờ chịu thua. Ngay cả khi bị chiếu tướng, anh ta cũng chiến đấu đến cùng, làm cho đối phương phải mòn mỏi. Tuy nhiên lần này có vẻ như anh ta chịu trận. Rồi đột nhiên Fisher tung ra một nước táo bạo khiến cả phòng phải xì xào vì kinh ngạc. Nước cờ này làm cho Spassky bị choáng, tuy nhiên sau đó Spassky phục hồi và thắng được ván đấu. Nhưng không một ai biết rõ ẩn ý của Fisher. Phải chăng anh ta chủ động để thua? Hay là thật sự rúng động? Xính vính? Hay thậm chí như có người bảo là anh ta điên rồi?

    Sau khi thua ván đầu, Fisher còn lớn tiếng hơn để than phiền về phòng ốc, về máy quay và về mọi thứ khác. Thậm chí anh vắng mặt luôn ở ván tiếp theo. Lần này thì ban tổ chức thực sự nổi cáu: Xử Fisher thua ván đó. Giờ thì anh ta đang ở thế bất lợi: Hai không. Một tình huống mà chưa một ai dám vác mặt trở lại để mong giành chức vô địch. Rõ ràng là Fisher đã mất thăng bằng rồi. Vậy mà ở ván thứ ba, tất cả mọi khán giả đã nhớ rằng tia nhìn của Fisher có điều gì đó rất dữ tợn, tia nhìn rõ ràng làm cho Spassky chột dạ. Và mặc cho cái huyệt mà Fisher đã đào sẵn cho mình, anh ta tỏ ra vô cùng tự tin. Rồi anh cũng đi một nước có vẻ giống sai lầm giống ở ván trước – song gương mặt vênh váo khiến Spassy nghi có cái bẫy. Và mặc dù có cố gắng suy nghĩ tìm kiếm nhưng nhà vô địch Nga vẫn không phát hiện, và khi chưa kịp định thần thì đã bị Fisher chiếu bí. Thật ra chính lối đánh không chính thống của Fisher đã làm Spassky căng thẳng thần kinh. Khi ván đấu kết thúc, Fisher nhảy dựng lên và chạy như bay ra ngoài, vừa đấm vào bàn tay, vừa reo to với những người cùng hội cờ rằng “Tớ đã nghiền hắn bằng bạo lực!”

    Ở những ván tiếp theo, Fisher có những nước đi chưa từng thấy, những nước không phải kiểu của anh. Giờ đến phiên Spassky sai lầm. Khi thua ván thứ sáu anh ta bật khóc. Một đại kiện tướng nói “Sau vụ này rồi, Spassky phải tự hỏi xem trở về Nga có an toàn không.” Sau ván thứ tám, Spassky tuyên bố đã biết sự thật: Bobby Fisher đang thôi miên mình. Spassky quyết định không nhìn vào mắt Fisher nữa; nhưng anh ta vẫn thua.

    Sau ván 14, Spassky cho tổ chức họp báo và tuyên bố người ta mưu đồ kiểm soát trí não mình. Anh ta nghi trong ly nước cam phục vụ tại bàn thi đấu bị bỏ thuốc mê. Hoặc giả người ta thổi hóa chất vào không khí. Cuối cùng anh ta công khai nói thẳng phe Fisher đã đặt thiết bị gì đó trong ghế ngồi để tác động trí não mình. KGB bật nút báo động: Boris Spassky đang đưa Liên bang Xô-viết vào thế khó xử!

    Ban tổ chức mang ghế đi rọi X-quang cùng những xét nghiệm khác nhưng không tìm ra điều khả nghi. Truy xét khắp phòng, người ta chỉ phát hiện xác hai con thiêu thân chết khô trong máng đèn. Spassky bắt đầu kêu mình bị ảo giác. Tuy cố gắng chơi tiếp nhưng đầu óc anh đã rối bời. Spassky không thể tiếp tục. Đến ngày 2 tháng 9, anh ta bỏ cuộc. Mặc dù còn tương đối trẻ, song Spassky không bao giờ phục hồi sau thất bại này.

    Diễn giải

    Ở những ván đầu, Fisher không thành công vì Spassky có khả năng tuyệt vời phát hiện mọi chiến lược của đối thủ rồi phản đòn. Anh ta mềm dẻo và kiên nhẫn, xây dựng lối tiến công đánh bại địch thủ không chỉ ở bảy nước cờ mà còn xa đến chừng bảy mươi nước. Một kiện tướng nói Spassky không chỉ tìm nước cờ tối ưu, mà còn đi nước nào làm cho đối phương bị bối rối.

    Tuy nhiên cuối cùng Fisher cũng biết đó là một trong những mấu chốt thành công của Spassky: Với những địch thủ có lối chơi có thể đoán trước được, Spassky sẽ dựa vào đó mà tiến công, dựa vào chiến lược của địch để diệt địch. Trong cuộc thi đấu giành chức vô địch này, chiến lược sinh tử của Fisher là chiếm thế chủ động, và làm cho Spassky hụt chân. Rõ ràng là thời gian chờ đợi đã tác động đến tâm lý Spassky. Song điều tài tình nhất là những sai lầm cố ý của Fisher, ra vẻ không có chiến lược nào nhất quán cả. Điều anh ta làm thật ra là cố gắng làm xáo trộn những mô thức cũ, những mô thức mà Spassky đã quá quen thuộc, ngay cả chịu hy sinh ván thứ nhất và bị xử thua ván thứ hai.

    Spassky từng nổi tiếng về sự điềm tĩnh và cái đầu lạnh, nhưng đó là lần đầu tiên trong đời mà anh ta không hình dung nổi thực chất của đối phương. Từ đó anh ta từ từ rối loạn, cho đến cuối cùng anh là người trông có vẻ điên.

    Môn đánh cờ cô đọng được tinh túy của cuộc đời. Thứ nhất, muốn chiến thắng bạn phải hết sức kiên nhẫn và nhìn xa; thứ hai, vì trò chơi được xây dựng trên mô thức, khuôn mẫu, nguyên cả loạt đường đi nước bước đều được mọi người chơi đi chơi lại. Đối phương sẽ phân tích chiến lược của ta để cố tiên đoán các bước kế tiếp. Làm sao để hắn không thể lường được, không còn cơ sở nào để xây dựng chiến lược, ta sẽ được lợi. Trên bàn cờ cũng như ngoài đời, khi người khác không thể hình dung mưu đồ của bạn, họ sẽ bị treo tim trong trạng thái sợ hãi – chờ đợi, bất định và rối ren.

    Cuộc sống ở triều đình là cuộc đấu cờ u buồn và ảm đạm,

    đòi hỏi ta phải bày binh bố trận, thiết lập và thực hiện chiến lược, đối phó kế hoạch của địch thủ. Tuy nhiên đôi khi ta nên chấp nhận rủi ro và đi nước cờ nào bất thường và khó lường nhất.

    (Jean de La Bruyère, 1645-1696)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Không gì đáng sợ hơn điều đột ngột và bất ngờ. Chính vì thế mà ta rất sợ những cơn cuồng phong và động đất. Ta không biết lúc nào chúng xảy ra. Và khi đã xảy ra một lần rồi thì ta sợ sệt chờ lần kế tiếp. Ở mức độ thấp hơn một chút, những người ứng xử bất thường cũng tác động ta như vậy.

    Loài thú thường ứng xử theo một lề thói nhất định, chính vì thế mà ta biết cách săn bắt chúng. Chỉ loài người mới có khả năng thay đổi ứng xử một cách có ý thức, biết tùy cơ ứng biến và vượt qua tập tục lẫn thói quen. Nhưng ít ai ý thức sức mạnh đó. Họ thích sự dễ xuôi của thói quen, thích buông xuôi theo bản chất con thú, có khuynh hướng lặp đi lặp lại cùng những động tác cũ. Như thế là vì họ sẽ không phải nỗ lực và họ lầm tưởng rằng chừng nào mình không làm phiền người khác thì người khác cũng không làm phiền mình. Bạn nên hiểu rằng người quyền lực thường gây sợ hãi khi cố ý làm kẻ khác bất an, nhằm chiếm thế chủ động. Đôi lúc ta cũng nên cắn mà không sủa, làm cho đối phương phải run sợ vào lúc họ ít nghi ngờ nhất. Đó là một cái mánh mà những kẻ mạnh thường dùng từ nhiều thế kỷ rồi.

    Filippo Maria, vị công tước cuối cùng của dòng Visconti ở Italia hồi thế kỷ XV, thường cố tình làm ngược lại những gì mọi người nghĩ mình sắp làm. Chẳng hạn ông ta bỗng dưng quan tâm rất mực đến một triều thần, rồi đến khi kẻ kia hy vọng được đề bạt thì lại bị Filippo đối xử hết sức lạnh nhạt. Quá xấu hổ, hắn chuẩn bị rời xa triều đình thì đột nhiên ông tước ra lệnh quay lại để đối xử với hắn thật độ lượng. Tâm trạng rối bời, vị triều thần tự hỏi phải chăng mình đã quá lộ liễu về tham vọng được đề bạt nên công tước bực mình, nên từ đó hắn đóng vai một bầy tôi thấp hèn không dám ước mơ xa. Lúc đấy Filippo sẽ phê phán hắn không có chí cầu tiến nên đuổi đi xa.

    Điều then chốt khi đối đãi với Filippo khá đơn giản: Đừng cho rằng mình biết trước điều ông ta muốn. Đừng dự đoán những gì sẽ làm ông ta hài lòng. Đừng bao giờ xen vào điều bạn muốn, mà chỉ nên chiều theo ý ông ta. Rồi chờ xem các diễn biến. Giữa mớ bòng bong bất định do ông khéo léo tạo ra, uy quyền của công tước thật cao tột, tự tại, và không ai thách thức.

    Sự khôn lường thường khi là chiến thuật bậc thầy, song kẻ yếu vẫn có thể sử dụng thật hiệu quả. Lúc sa cơ thất thế hoặc bị đối phương áp đảo về quân số, ta cứ tung ra một loạt những động tác khó lường. Kẻ thù sẽ bối rối và rút lui hoặc phạm phải sai lầm.

    Mùa xuân 1862 trong thời kỳ Nội chiến Mỹ, tướng Stonewall Jackson cùng 4.600 lính của những bang ly khai tấn công dồn dập đội quân đông đảo hơn của các bang Liên hiệp tại Shenandoah Valley. Cách đó không xa, tướng George Brinton McClellan đang dẫn khoảng 90.000 quân từ thủ đô Washington đổ xuống, mục tiêu là bao vây thành phố Richmond, thủ phủ của phe ly khai. Thời gian cứ trôi qua, và tướng Jackson đều đặn dẫn quân ra khỏi Shenandoah Valley, rồi lại dẫn quân về.

    Nhìn qua, hành động này không có nghĩa lý gì cả. Phải chăng Jackson định mang quân giải vây Richmond? Hay là ông ta định tấn công Washington khi McClellan không có mặt để bảo vệ thủ đô? Hay đơn giản là để tiến lên miền Bắc để thoải mái tàn phá? Tại sao đội quân ít người của Jackson lại có vẻ như đi lòng vòng.

    Chính vì không hiểu ý của hành động này nên bộ chỉ huy quân Liên hiệp không dám tiến về phía Richmond, họ phải chờ xem cuối cùng Jackson muốn gì. Trong khi đó, phe miền Nam tranh thủ cơ hội này để củng cố lực lượng. Lẽ ra nếu tấn công ngay thì quân miền Bắc đã có thể nhanh chóng nghiền nát miền Nam, nhưng vì mãi chần chừ để đối phương đủ thời gian tiếp viện nên không thể chiến thắng. Khi gặp trường hợp địch đông hơn, Jackson thỉnh thoảng dùng kế này. “Khi có điều kiện, ta luôn làm địch thủ hoang mang, bất ngờ, và bị đánh lạc hướng,” Jackson nói, “… chiến thuật này luôn thành công và một toán quân nhỏ có thể tiêu diệt binh đội lớn hơn.”

    Nguyên tắc này không chỉ đúng trong trường hợp chiến tranh mà ngay cả ở những tình huống thường ngày. Mọi người luôn cố giải đoán hành động của ta để phát hiện ý đồ, từ đó chống lại ta. Ta cứ thực hiện một hành động kỳ quặc không thể hiểu nổi, địch thủ sẽ rơi vào thế thủ. Vì không hiểu ta nên chúng hoang mang, ta lợi dụng tâm lý này để khống chế chúng.

    Có lần Pablo Picasso nói: “Sự suy tính tốt nhất là không suy tính gì cả. Khi bạn đạt được sự nổi tiếng nhất định, mọi người thường cố gắng đoán thử xem bạn đang suy tính việc gì. Vì vậy ta không nên trù tính quá cẩn thật những gì mình sắp làm. Tốt hơn là ta nên hành động bông lông.”

    Có một thời gian Picasso cộng tác với tay buôn tranh Paul Rosenberg. Thoạt đầu ông dành cho nhà buôn một phạm vi khá rộng để xử lý sản phẩm xuất xưởng. Rồi đến ngày kia, không vì lý do nào, Picasso thông báo là sẽ không đưa bức tranh nào cho Rosenberg nữa cả. “Ông ta phải mất hai ngày để thử đoán nguyên do,” Picasso giải thích. “Tôi cứ ăn ngủ, làm việc bình thường trong khi ông ta phải mất thì giờ tìm hiểu.” Hai hôm sau một Rosenberg lo âu căng thẳng đến bảo Picasso: “Này ông bạn, nói cho cùng thì ông chẳng nỡ bỏ rơi tôi nếu tôi trả ông ngần này (Rosenberg nâng số tiền mua tranh lên khá cao), cao hơn hẳn số tiền thường khi tôi vẫn trả cho ông, đồng ý chứ?”

    Sự khó lường không chỉ là một phương tiện gieo rắc lo sợ. Bạn cứ đảo lộn những hành động thường ngày, mọi người sẽ để ý quan tâm. Mọi người sẽ xầm xì, đoán già đoán non, càng đoán càng xa sự thật, nhưng đầu óc lại luôn nghĩ về bạn. Cuối cùng hễ càng bất định thì bạn càng được nể. Chỉ có kẻ ở bậc thang dưới cùng mới để cho người khác đoán được hành động của mình.

    Hình ảnh:

    Cơn lốc xoáy. Ta không thể đoán trước lúc nào trận cuồng phong xảy ra. Cường độ, tốc độ, và hướng di chuyển luôn thay đổi. Không thể nào chống trả. Cơn lốc xoáy gieo rắc kinh hoàng và hoảng hốt.

    Ý kiến chuyên gia:

    Đấng minh quân rất bí ẩn, không ai biết ông ở đâu, không ai biết tìm ông nơi nào. Ngự trên cao, ông vô vi tự tại, còn bên dưới thì bề tôi run sợ.

    (Hàn Phi Tử, thế kỷ thứ III TCN)

    NGHỊCH ĐẢO

    Nếu biết khéo léo, bạn vẫn có thể tận dụng tính dự kiến: Tạo ra một khuôn mẫu hành động để cho mọi người quen thuộc và an tâm, từ đó mới ru ngủ họ. Họ chuẩn bị tinh thần thích ứng với những gì họ nhận định về ta. Ta có nhiều cách dùng: Thứ nhất là tạo ra hỏa mù, rồi nấp sau đó mà đánh lừa. Thứ hai, thỉnh thoảng ta sẽ thực hiện điều gì đó ra ngoài khuôn mẫu, làm đối phương hoang mang đến mức khỏi xô cũng ngã.

    Vào năm 1974, theo kế hoạch dự kiến thì Muhammad Ali và George Foreman sẽ so găng tranh chức vô địch boxing hạng nặng. Ai cũng có thể dự kiến trận đầu: George bự sẽ cố giáng một đòn nốc-ao ngàn cân, trước khi Ali nhảy nhót xung quanh để bào mòn sức lực của George. Đó là cách đánh quen thuộc của Ali, đó là khuôn mẫu suốt mười năm không đổi. Nhưng nếu như vậy thì Foreman có lợi thế: Quả đấm của anh ta nổi tiếng sát thủ, và nếu chịu khó kiên nhẫn thì trước sau gì Ali cũng phải nhào vô tấn công. Nhưng nhà chiến lược Ali lại có kế hoạch khác: Khi dự họp báo trước trận đấu, Ali cho biết sẽ thay đổi phong cách và sẽ ra đòn thật nặng như Foreman. Không ai tin vào lời tuyên bố này, và Foreman lại càng không. Bởi vì như thế là Ali liều lĩnh tự sát, cho nên ai cũng cho là Ali giả vờ như mọi khi. Rồi đến lúc chỉ còn ít phút trước giờ võ sĩ thượng đài, huấn luyện viên của Ali nới lỏng dây văng quanh sàn đấu, điều mà huấn luyện viên nào cũng làm khi gà nhà quyết ra đòn chí tử. Nhưng không ai tin mánh khóe đó cả. Chẳng qua chỉ là dàn cảnh mà thôi.

    Trước sự sững sờ của khán giả, Ali đã làm đúng những gì đã tuyên bố trong buổi họp báo. Trong khi đó Foreman những tưởng anh ta sẽ nhảy nhót lòng vòng như mọi khi, đàng này Ali tiến thẳng tới và ra đòn búa tạ, phá hỏng chiến lược của địch thủ. Bị thất thế bất ngờ, Foreman phí rất nhiều sức, không phải vì rượt đuổi Ali, mà do ra đòn lung tung, và càng lúc càng ăn nhiều cú phản đòn của Ali. Cuối cùng Foreman gục ngã vì một cú móc phải ngoạn mục. Vì thói quen cho rằng người khác sẽ ứng xử y chang khuôn mẫu đã ăn quá sâu trong tâm tưởng, đến ngay cả Foreman cũng không chịu tin khi Ali tuyên bố thay đổi cách đánh. Foreman đã sụp bẫy – cái bẫy mà địch thủ đã báo trước.

    Thêm lời cảnh báo: Sự khó lường đôi khi cũng có thể làm hại bạn, đặc biệt khi bạn ở thế yếu. Nhiều lúc ta cũng nên cho người khác được an tâm và yên ổn thay vì làm cho họ hoang mang. Sự bất định đẩy lên quá cao sẽ bị xem là thiếu dứt khoát, hoặc thậm chí là biểu hiện tâm thần. Bản thân khuôn mẫu có sức mạnh riêng, và bạn có thể hù dọa người khác khi phá lệ. Loại sức mạnh đó chỉ nên được sử dụng có cân nhắc.
     
  10. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Bài viết:
    206
    Nguyên tắc 18: Đừng Xây Pháo Đài Để Tự Vệ, Đừng Tự Cô Lập

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thế giới đầy nguy hiểm và kẻ thù có mặt khắp nơi – ai cũng phải lo phòng thân. Pháo đài có vẻ là nơi an toàn nhất. Nhưng tình trạng cô lập này lại an ít nguy nhiều, bởi vì ta sẽ mất nguồn thông tin, trở thành một con mồi quá lộ liễu và dễ bắn hạ. Tốt hơn ta nên trà trộn vào những người xung quanh và lôi kéo liên minh. Đám đông sẽ che chắn cho bạn trước mũi dùi thù địch.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Hoàng đế đầu tiên của nước Trung Quốc thống nhất (221-210 TCN) Tần Thủy Hoàng là người quyền lực nhất thời bấy giờ. Đế chế ông ta rộng lớn và hùng mạnh hơn cả cơ đồ của Alexander Đại đế. Tần Thủy Hoàng chinh phục tất cả những lãnh thổ quanh vương quốc mình, rồi hợp lại thành một quốc gia duy nhất gọi là Trung Hoa. Nhưng vào khoảng cuối đời, ít ai được thấy ông.[9]

    Hoàng đế sống trong cung điện vĩ đại nhất thời bấy giờ, giữa thủ đô Hàm Dương. Cung điện có 270 thất thông nhau bằng hành lang bí mật hoặc địa đạo, nhờ đó Tần Thủy Hoàng tha hồ tới lui mà không ai thấy. Mỗi đêm ông nghỉ ở một thất khác nhau, và người nào lỡ nhác thấy thì lập tức bị bêu đầu. Chỉ vài người thân tín mới biết hành tung của ông ta, và hễ hé răng là bị xử trảm.

    Khi cần xuất cung thì Tần Thủy Hoàng phải hóa trang vi hành. Trong một lần vi hành như thế ông đột ngột băng hà. Thi thể ông được mang trở về kinh thành trong kiệu ngọc, theo sau là một xe chất đầy cá để ngụy trang mùi hôi xác chết – không ai được biết về cái chết đó. Ông ta qua đời trong sự cô đơn, cách xa hậu cung và triều đình, quanh ông lúc ấy chỉ có một cận thần và quan thái giám.

    Diễn giải

    Tần Thủy Hoàng khởi nghiệp là vua nhà Tần, vươn lên từ vị trí một chiến sĩ vô úy với tham vọng vô hạn. Ông ta gồm thu thiên hạ bằng mánh khóe và bạo lực, hủy bỏ chế độ phong kiến. Để dễ theo dõi các thành viên hoàng tộc rải rác khắp đất nước, ông lùa về cung điện Hàm Dương khoảng 120.000 người. Ông đặt ra nhiều quy định thống nhất cho cả nước và cho xây Vạn Lý trường thành.

    Tuy nhiên trong tiến trình thống nhất đó, Tần Thủy Hoàng cho đốt tất cả sách vở có liên quan đến Khổng Tử, người mà những lời giáo huấn của ông gần như đã trở thành tôn giáo. Thậm chí ai trích dẫn lời Khổng Tử đều bị chém đầu. Vì vậy có rất nhiều người căm thù Tần Thủy Hoàng, ông ta lo sợ, trở thành hoang tưởng. Số lượng người bị hành quyết ngày càng tăng. Một tác giả đương thời là Hàn Phi Tử viết rằng vinh quang của Tần kéo dài bốn thế hệ, nhưng ông ta vẫn phải sống trong sự hãi hùng thường xuyên và lúc nào cũng canh cánh sợ thích khách.

    Khi càng lui sâu vào cung để tự bảo vệ, Tần Thủy Hoàng càng mất quyền điều khiển đất nước. Bọn thái giám và gian thần tha hồ thao túng, thậm chí còn âm mưu chống lại ông. Cuối cùng ông chỉ là hoàng đế trên danh nghĩa và thân phận cô lập đến mức lúc chết chẳng ai hay. Có lẽ ông bị các quan cận thần đầu độc, tức là những người đã khuyên ông sống cách ly để đề phòng thích khách.

    Đó là hậu quả của việc cách ly: Rút lui vào pháo đài rồi mất quyền điều khiển nguồn quyền lực. Mất đi đôi tai nên không nghe thấy diễn biến quanh mình, nhận thức không chính xác về quy mô thực tế. Những tưởng được an toàn hơn, nhưng thật ra ta đã tự tách khỏi cái tri thức vốn bảo đảm sự sống của mình.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Được Louis XIV cho xây dựng vào thập niên 1660, Versailles không giống bất kỳ cung điện hoàng gia nào trên thế giới. Giống như tổ chức của một tổ ong, mọi thứ đều diễn biến quanh vị chúa tể. Sinh hoạt của Louis được bao quanh bởi đông đảo triều thần. Họ được cấp phòng ốc quanh khu vực trung tâm của vua, chức càng cao thì càng được ở gần vua. Phòng ngủ của Louis ở giữa cung điện nên trở thành tâm điểm chú ý của tất cả mọi người. Mỗi sáng trong phòng ngủ hoàng gia ấy đều diễn ra nghi lễ chào vua thức giấc, gọi là lễ lever.

    Quan viên hầu cận ngủ ngay ở chân giường vua và sẽ đánh thức ông dậy vào lúc tám giờ, mở cửa phòng cho những ai có phận sự ở buổi nghi lễ lever. Thứ tự đã được ấn định sẵn: Trước tiên là những người con không chính thức và cháu nội vua, kế tiếp là hoàng tử công chúa, rồi đến các quan ngự y. Theo sau là quan phụ trách y phục, giải trí, rồi triều thần. Ngoài ra còn một số khách mời đặc biệt được hân hạnh chứng kiến cảnh vua thức dậy. Đến cuối buổi nghi lễ, trong phòng có hơn trăm người.

    Sinh hoạt hàng ngày cũng được sắp xếp sao cho mọi thứ đều phải thông qua nhà vua. Công tước Saint-Simon ghi lại: “Khi vua quay sang người nào, hỏi một câu gì, hoặc nói điều gì đó cho dù không quan trọng, thì mọi cặp mắt đều đổ dồn về người ấy. Đặc ân đó sẽ được mọi người bàn tán, uy tín của người ấy được tăng cao.”

    Trong cung không thể nào có được riêng tư, ngay cả nhà vua cũng không – tất cả các phòng đều thông với nhau, mỗi hành lang đều dẫn ra sảnh đường khác, nơi giới quý tộc thường xuyên tụ họp. Hành động của mọi thành viên đều liên đới nhau, không việc gì, không người nào mà không bị để ý: “Nhà vua không chỉ muốn giới quý tộc thượng phẩm có mặt ở buổi chầu,” Saint-Simon viết, “mà ngay cả quý tộc hạ phẩm cũng phải hiện diện.” Ở nghi lễ lever cũng như coucher (đi ngủ), lúc dùng bữa, trong các khu vườn của Versailles, nhà vua luôn muốn mọi người quy tụ đông đảo. Ngài sẽ phật ý nếu những quý tộc danh giá nhất không sinh sống thường trực tại triều đình, những ai không xuất hiện hoặc ít xuất hiện sẽ gánh chịu hậu quả của sự phật ý ấy. Sau này nếu họ dâng thỉnh nguyện, ngài hất mặt lên trả lời “Ta không biết hắn”, và tình hình xem như hết cứu vãn.

    Diễn giải

    Louis XIV lên nắm quyền lực khi kết thúc cuộc nội chiến khủng khiếp mang tên Fronde (Ná thun). Giới quý tộc đã gây chiến vì bức bối chuyện quyền lực ngày càng tăng của vua, họ luôn hoài vọng thời phong kiến vàng son, khi mỗi vị đều toàn quyền trên lãnh địa riêng, và lúc đó hoàng gia hầu như không chút quyền hành nào. Tuy thua trận đành phải phục tùng nhưng giới quý tộc luôn cay cú và muốn nổi loạn.

    Do đó việc xây dựng Versailles không chỉ đơn thuần là thú ngông cuồng xa hoa, mà còn có chức năng hết sức quan trọng: Vua có khả năng nghe thấy tất cả những diễn biến quanh mình. Trước kia từng kiêu hãnh biết bao, giờ đây các quý tộc chỉ còn cãi vặt để tranh nhau xem ai được hầu vua mặc long bào. Ở Versailles không thể có sự riêng tư, không thể có sự cô lập. Louis XIV đã sớm nhận ra mối nguy của một vị vua cô lập. Ngài biết rằng sau lưng mình nhiều âm mưu sẽ mọc lên như nấm sau mưa, mọi đố kỵ sẽ câu kết thành bè phái, và phiến loạn sẽ bùng lên khi ta không kịp phản ứng. Để phòng chống những mối nguy ấy, Louis không chỉ chuyển khích thái độ cởi mở giao tế, mà còn cho chính thức tổ chức và phân luồng.

    Những sinh hoạt cộng đồng trong khuôn phép ấy kéo dài suốt triều đại Louis XIV, gói trọn 50 năm trị vì trong yên bình và ổn định. Suốt thời kỳ đó, không có cây kim nào rơi mà Louis lại không nghe.

    Sự cô đơn rất nguy hại đối với lý trí, lại không ích lợi

    cho đức hạnh… Hãy nhớ rằng kẻ phàm phu cô độc chắc chắn

    ưa dục lạc, hầu như là ưa chuyện mê tín và có thể điên rồ.

    (Tiến sĩ Samuel Johnson, 1709-1784)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Machiavelli lập luận rằng nếu ta nhìn ở khía cạnh triệt để quân sự, thì pháo đài chắc chắn là một sai lầm. Pháo đài là biểu tượng của quyền lực bị cô lập, và là mục tiêu dễ dàng cho kẻ thù. Lẽ ra phải bảo vệ ta, đàng này pháo đài lại cách ly ta với nguồn tiếp ứng, ảnh hưởng nặng nề đến tính linh động. Nhìn xa trông có vẻ vững vàng, song một khi ta rút vào đó rồi, thì pháo đài trở thành ngục tù, ngay cả khi kẻ thù không vây hãm. Ở góc độ chiến lược, sự cô lập của một pháo đài không bảo vệ được ta, mà thật ra lợi bất cập hại.

    Bởi về bản chất, con người là những sinh vật mang tính cộng đồng, nên quyền lực tùy thuộc vào tương tác và giao lưu xã hội. Muốn nắm quyền lực ta phải tự đặt mình ở trung tâm mọi thứ, theo cách Louis XIV làm ở Versailles. Mọi sinh hoạt phải diễn ra quanh ta, đồng thời ta phải biết được những gì xảy ra ngoài xã hội, trong đó có những âm mưu chống lại ta. Khi bị đe dọa, khi bị nguy hiểm, hầu hết mọi người đều có khuynh hướng rút lui và đóng cửa để cảm thấy được an toàn trong một dạng pháo đài. Nhưng như thế họ chỉ dựa vào quy mô thông tin ngày càng hẹp dần, và mất đi toàn cảnh thực tế xung quanh. Không gian thao tác bị thu hẹp, họ trở thành những mục tiêu dễ bị bắn hạ. Trong chiến tranh cũng như nhiều trò chơi chiến lược khác, theo sau sự cô lập thường là việc bại trận và mạng vong.

    Sau khi gặp nguy biến, bạn cố gắng chống lại thói quen tự cô lập mình. Ngược lại, hãy tạo điều kiện cho đồng minh đến với ta, hình thành liên minh mới, dấn thân vào nhiều cộng đồng khác nữa. Đó là mánh khóe của người quyền lực từ nhiều thế kỷ nay.

    Chính khách La Mã Cicero xuất thân từ tầng lớp quý tộc hạ lưu, do đó ít có khả năng được nắm quyền lực trừ khi xoay xở tìm được vị trí giữa người giới thượng lưu đang điều hành thành phố. Cicero thành công nhờ nhận định đúng đắn tầm ảnh hưởng của từng người và mối liên kết giữa họ với nhau. Ông trà trộn khắp nơi, quen biết mọi người, và như vậy đã thiết lập được một mạng lưới kết giao rộng lớn, qua đó có thể sử dụng một liên minh chỗ này để làm đối trọng với một kẻ thù ở chỗ khác.

    Chính khách Talleyrand cũng chơi cùng trò đó. Mặc dù xuất thân từ một trong những gia đình quý tộc lâu đời nhất nước Pháp, ông đặt mục tiêu là luôn tiếp cận với những gì diễn ra ở đường phố Paris, từ đó đón đầu nhiều xu hướng, tiên đoán những bất ổn. Thậm chí ông thích trà trộn vào giới tội phạm để nắm nhiều thông tin quý giá. Mỗi khi xảy ra những khủng hoảng hoặc chuyển giao quyền lực – ngày tàn của Hội đồng Đốc chính, việc hạ bệ Napoléon, sự thoái vị của Louis XVIII – Talleyrand đều tai qua nạn khỏi, thậm chí còn phát đạt, bởi vì ông không bao giờ tự khép mình trong một phạm vi nhỏ hẹp mà luôn tạo liên kết với nền trật tự mới được thiết lập.

    Nguyên tắc này gắn liền với vua chúa, với những người ở vị trí quyền lực cao nhất: Ngay lúc bạn tự cô lập để mong được an toàn, thì đó cũng là lúc mất liên lạc với quần chúng của bạn, và phiến loạn đang dấy men. Đừng bao giờ quá tự cao và tách rời mình khỏi những cấp bậc thấp bé nhất. Khi lui vào pháo đài, bạn trở thành mục tiêu dễ tấn công cho bọn tạo phản vốn xem sự cách ly đó là một sỉ nhục và nguyên cớ để tạo phản.

    Vì con người là sinh vật mang tính cộng đồng, nên càng giữ liên lạc với người khác thì ta càng được lòng họ. Hơn nữa, sự cô lập chỉ làm cho cách cư xử của ta thêm dị hợm, từ đó lại khiến ta thêm cách ly vì mọi người bắt đầu tránh né ta.

    Năm 1545, Công tước Cosimo I của tộc Medici quyết làm cho thanh danh dòng họ trở nên bất tử bằng cách đặt vẽ tranh bích họa trong nhà thờ San Lorenzo tại thành phố Fiorence. Họa sĩ tài danh lúc ấy không thiếu, nhưng cuối cùng công tước chọn Jacopo da Pontormo. Công việc tiến hành trong nhiều năm bởi ông muốn những bức họa đó sẽ là kiệt tác và di sản của mình. Thoạt tiên ông quyết định đóng cửa nhà nguyện, không muốn ai chứng kiến sự ra đời của kiệt tác và ăn cắp ý tưởng.

    Trên trần nhà nguyện được Pontormo vẽ đầy kín những cảnh tượng rút ra từ kinh thánh. Họa sĩ làm việc 11 năm liên tục, ít khi rời khỏi nhà nguyện vì càng ngày ông càng tránh né tiếp xúc với con người.

    Pontormo chết trước khi hoàn thành bức họa, và không bức nào còn sót đến ngày nay. Tuy nhiên Vasari, một cây bút thời Phục hưng và là bạn của Pontormo lại có dịp trông thấy và mô tả tác phẩm ít lâu trước khi Pontormo qua đời. Theo Vasari thì kích thước tác phẩm không còn giới hạn nào nữa. Cảnh tượng này đâm sầm vào cảnh tượng kia, nhân vật của chuyện này được vẽ bên cạnh nhân vật câu chuyện khác, nhiều đến mức không chịu được. Vì bị ám ảnh bởi những chi tiết nhỏ nhặt nhất nên Pontormo đã đánh mất cảm giác về bố cục toàn cảnh. Vasari cho biết ông không thể mô tả nữa bởi vì nếu tiếp tục, “Tôi e rằng sẽ mất trí và sa lầy vào họa phẩm, cũng như Japoco từng sa lầy vào đấy suốt 11 năm trường”. Thay vì đưa sự nghiệp Pontormo lên ngôi, đàng này công trình ấy đã hủy hoại đời ông.

    Ta có thể xem cách bích họa ấy tương đương với hậu quả của sự cô lập đối với tâm trí con người: Mất cảm giác về quy mô, ám ảnh bởi chi tiết không thể nhìn thấy tổng thể lớn hơn, một loại lệch lạc thái quá không còn khả năng thông tri. Rõ ràng sự cô lập cũng chí tử cả với nghệ thuật mang tính sáng tạo hoặc mang tính xã hội. Shakespeare là cây bút nổi tiếng nhất lịch sử bởi vì với tư cách là kịch tác gia cho sân khấu bình dân, ông cởi mở tấm lòng với số đông, sao cho tác phẩm của mình dễ dàng đến với quần chúng với bất kỳ trình độ hoặc khẩu vị nào. Nghệ sĩ nào rút lui vào tháp ngà sẽ đánh mất cảm giác về qui mô thực tế, vì tác phẩm họ chỉ chia sẻ được giữa một nhóm nhỏ. Loại nghệ thuật đó xem như bế tắc và không còn sức mạnh.

    Cuối cùng, vì con người tạo ra, quyền lực chỉ phát triển qua tiếp xúc với con người. Thay vì rơi vào tâm lý pháo đài, bạn hãy nhìn thế giới như sau: Đó là cung điện Versailles khổng lồ, mọi phòng ốc đều liên thông với nhau. Bạn phải có tính dung hợp, phải biết giao tiếp và trà trộn với nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhờ sự lưu loát và tiếp xúc xã hội ấy, bạn sẽ không bị nguy cơ làm phản, vì bọn tạo phản sẽ không thể bưng bít bí mật, còn những kẻ thù thì cũng không thể cô lập bạn với những đồng minh của bạn.

    Bạn hãy luôn chuyển động, luôn trà trộn hòa mình vào các phòng ốc trong cung điện, đừng bao giờ ngồi hoặc đứng yên một chỗ. Không tay bắn tỉa nào có khả năng tập trung tầm nhìn chính xác vào một mục tiêu luôn di chuyển nhanh chóng như thế.

    Hình ảnh:

    Pháo đài. Cao cao trên ngọn đồi, pháo đài trở thành biểu tượng của điều bị ganh ghét ở uy quyền và thế lực. Cư dân thị trấn sẽ bán đứng ta ngay cho kẻ thù mới tới. Khi bị gián đoạn với nguồn thông tin và tình bán, pháo đài dễ dàng bị thất thủ.

    Ý kiến chuyên gia:

    Bậc vua chúa nào muốn gìn giữ sự anh minh và khôn ngoan, đồng thời không muốn tạo điều kiện cho các con mình trở nên hà khắc, thì nhớ đừng xây dựng pháo đài, như thế các con sẽ đặt sự tin cậy vào thiện chí của thần dân, chứ không dựa vào sức mạnh của pháo đài.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    NGHỊCH ĐẢO

    Ít khi nào sự tự cô lập lại tốt lành và đúng đắn. Nếu không có kênh thông tin để lắng nghe những gì đang diễn ra ngoài đường phố, ta sẽ không thể tự phòng vệ. Việc duy nhất mà sự tiếp xúc thường xuyên giữa người và người không thể tăng cường, đó là tư duy. Áp lực xã hội và sự tiếp xúc liên tục với người khác có thể khiến bạn không thể suy nghĩ rõ ràng xem việc gì đang diễn ra quanh mình. Do đó giải pháp tạm thời là ta tạo một khoảng cách nhất định để nhìn được cái phối cảnh tốt hơn. Nhiều nhà tư tưởng đã hình thành tác phẩm của họ trong tù, nơi mà họ không có việc gì để làm, ngoài việc suy nghĩ. Machiavelli chỉ có thể viết ra quyển The Prince (Quân vương) khi ông đang bị lưu đày, cô lập trong một trang trại, cách xa những mưu đồ chính trị của Florence.

    Tuy nhiên mối nguy của sự cô lập là trí não ta nghĩ ra đủ loại ý tưởng lầm lạc và lạ kỳ. Tuy được cái nhìn tổng thể, nhưng ta không thể đánh giá về sự nhỏ nhoi và giới hạn của mình. Hơn nữa, càng cách ly thì ta càng khó phá vỡ tình trạng này khi ta muốn – bởi vì ta bị dìm sâu vào cát lún mà không hề hay biết. Vì vậy nếu cần có thời gian để suy nghĩ, ta chỉ nên tự cách ly khi không còn giải pháp nào khác, và nên dùng từng liều nhẹ thôi. Và nhớ để rộng mở ngả đường trở về cộng đồng xã hội.
     
Trạng thái chủ đề:
Đã bị khóa
Trả lời qua Facebook
Đang tải...