Đề số 11
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Nếu luật giao thông giúp cho người lái xe được an toàn thì trên đường đương đời cũng cần phải có những quy luật bảo toàn hạnh phúc. Phạm luật, nghĩa là chúng ta đang bị tước mất quyền hạnh phúc.
Giáo sư Sonja Luybomirsky, thuộc Đại học California, đã yêu cầu những người tham gia hãy ngẫu nhiên làm những việc tốt cho người khác trong vòng 10 tuần. Bà nhận thấy mức độ hạnh phúc của những người này tăng lên đáng kể mỗi khi họ làm được một điều tốt và họ vẫn giữ được trạng thái hạnh phúc sau một khoảng thời gian. Nghiên cứu chuyên sâu hơn cho thấy những người hay giúp đỡ người khác, hoặc có tham gia hoạt động thiện nguyện thường cảm thấy hạnh phúc hơn 30% so với những người chưa từng tham gia các hoạt động này. Điều đó phản ánh đúng 4 cấp độ hạnh phúc mà Aristotle, triết gia Hy Lạp đã nêu ra từ hai ngàn năm trước.
Theo Aristatle, hạnh phúc ở cấp độ hai của loài người là chia sẻ, trao tặng - hay beautitudo, nghĩa là được chúc phúc. Khi ta làm cho người khác hạnh phúc họ sẽ chúc phúc ta bằng những ý nghĩa và cảm xúc tích cực. Năng lượng tích cực ấy đã hướng về phía ta và làm gia tăng mức độ hạnh phúc trong ta - hạnh phúc vì nhìn ra điểm tốt ở người khác và làm được điều tốt cho người khác. Đã bao giờ bạn tự hỏi, giữa người nhận quà và người trao quà, ai sẽ hạnh phúc hơn? Chính người cho đi sẽ nhận về hạnh phúc nhiều hơn.
Từ một nghiên cứu với sự tham gia của 2.016 người cho thấy những ai tham gia các hoạt động thiện nguyện thì tinh thần họ phấn chấn hơn, khả năng miễn dịch mạnh, ít bị trầm cảm và ít mắc các bệnh mãn tính. Một nghiên cứu ở đại họ Hebrew, Isarel cũng phát hiện ra rằng lòng tốt sản sinh ra chất dopamine một chất dẫn truyền thần kinh làm cho người cảm thấy sảng khoái.
Khi bước vào tình huống với suy nghĩ "mình có thể nhận được gì" thay vì là "mình có thể đóng góp được gì", ta sẽ cảm thấy căng thẳng và có thể gặt trái đắng. Còn khi ta chủ động trao đi thì chính năng lượng trao tặng thể hiện qua thái độ, lời nói và hành động sẽ quay trở về với ta. Điều tưởng như là nghịch lý ấy đang diễn ra trong cuộc sống-khi cho đi, ta cho đi sẽ nhận lại nhiều hơn cái ta có ban đầu.
(Lăng kính tâm hồn, Trish summerfield)
Câu 1. Theo đoạn trích, ai là người hạnh phúc hơn? Người cho hay người nhận?
Câu 2. Các nghiên cứu cho thấy khi tham gia các hoạt động thiện nguyện, tinh thần chúng ta sẽ như thế nào?
Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào là hạnh phúc?
Câu 4. Chi sẻ bài học mà anh chị nhận được từ đoạn trích.
II. LÀM VĂN
Câu 1. Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, trình bày suy nghĩ của anh chị về quan điểm được nêu trong đoạn trích đọc hiểu trên: Hạnh phúc là cho đi.
Câu 2. Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhận vật ông lái đò trong thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân).
Từ đó liên hệ với truyện ngắn Chữ người tử tù và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Đọc hiểu
Câu 1. Theo đoạn trích người cho đi mới là người hạnh phúc hơn.
Câu 2. Các nghiên cứu cho thấy khi tham gia các hoạt động thiện nguyện, tinh thần con người sẽ phấn chấn hơn, sảng khoái hơn, khả năng miễn dịch mạnh, ít bị trầm cảm và ít mắc các bệnh mãn tính.
Câu 3. Hạnh phúc là trạng thái sung sướng khi đạt được ý nguyện.
Câu 4. Đoạn trích hướng mỗi người đến bài học về sự yêu thương, sẻ chia, lòng nhân ái, vị tha.
II. Làm văn
Câu 1. Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh chị có thể trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề cần nghị luận (Hạnh phúc là cho đi) theo nhiều cách nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Chẳng hạn:
- Khi cho đi (dù là cho đi về vật chất hay tinh thần) tức là ta đã giàu có hơn người nhận. Đó là một hạnh phúc.
- Khi cho đi, ta đã cho đi những điều mà họ thiếu hoặc cần, tức là ta đang làm một điều tốt đẹp. Khi làm được điều tốt đẹp, chắc chắn ta sẽ cảm thấy hạnh phúc.
- Khi cho đi tức là ta đã coi trọng tình cảm, sự sẻ chia hơn bất kể những thứ gì trên đời, đặc biệt là vật chất. Và không bị lệ thuộc vào bất kể thứ gì trên đời, khi đó ta hạnh phúc..
Câu 2. Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích Người lái đò sông đà, anh chị có thể cảm nhận về hình tượng ông lái đò, từ đó liên hệ đến truyện ngắn Chữ người tử tù để chỉ ra sự nhất quán trong quan niệm của nhà văn về con người theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, đoạn trích, vấn đề cần nghị luận
- Nguyễn Tuân là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại với phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông được mệnh danh là "Một cái định nghĩa về người nghệ sĩ" (Nguyễn Đăng Mạnh) và là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
- Người lái đò sông đà là một trong những thiến tùy bút đẹp nhất của Nguyễn Tuân. Tác phẩm khắc họa thành công hình tượng người lái đò và thể hiện sự nhất quán của nhà văn trong quan niệm về con người ở giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám.
*Cảm nhận về hình tượng nhân vật người lái đò
- Nguyễn Tuân đã gọi người lái sông đàn là ông đò. Cách gọi tạo nên sự hòa quyện giữa người với nghề, một người lao động làm công việc bình dị, đời thường (chèo đò).
- Trong đoạn trích hình tượng ông đò được tập trung khắc họa qua cuộc vượt thác trên sông Đà. Nguyễn Tuân đã khắc họa cuộc vượt thác của ông đò như một trận giao chiến giữa ông với sông đà hung bạo. Xét về tương quan lực lượng, ông đò cùng với bao nhiêu năm bơi chèo của mình chỉ có thứ vũ khí duy nhất là cán chèo trong tay, trong khi đó sông đà đã dàn thạch trận trên sông và bố trí đầu vào đó các lực lượng ở các vị tí sẵn sàng nghênh tiếp con thuyền đơn độc.
+Trùng vi thạch trận thứ nhất:
Giữa trận nước vang trời thanh la não bát, trước sự thách thức của đá và sóng trên sông, ông đò bình tĩnh, tập trung dồn hết tâm lực để giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình, tránh những đòn đá trái, thúc gối liều mạng của sóng nước.
Bị sóng thác thác đến miếng đòn hiểm độc nhất, ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái không rời. Mặt ông đò méo bệch, biến dạng, biến sắc đi vì đau đớn nhưng trong cuộc hiến sinh tử với loài thủy quái khổng lồ, vị chiến tướng nhất định không chịu lùi bước (và cũng không thể lùi bước). Ông vẫn giữ chắc võ khí-lái mái chèo- trong tay mình để chiến đấu như một chiến sĩ kiên cường, anh dũng, không chịu khuất phục trước kẻ thù.
Đối lập với tiếng hò la vang dậy, tiếng hỗn chiến của nước của thác đá là tiếng chỉ huy rõ ràng ngắn gọn tỉnh táo của ông đò. Chi tiết cho thấy thái độ chủ động, bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm của vị chiến tướng. Phải là một người từng trải, giàu kinh nghiệm, quen thuộc trên sóng nước Sông Đà, ông đò mới có thái độ bình tâm đáng phục như thế.
- > Kết quả, ở trùng vi thạch trận thứ nhất, dù lực lượng, thanh thế của thác đá sông đà có phần áp đảo nhưng chiến thắng vẫn thuộc về vị chiến tướng tài ba, trí dũng: Ông đò.
+ Trùng vi thạch trận thứ hai:
+Trùng vi thạch trận thứ ba:
- > Ông đò vừa trí dũng vừa tài hoa.
- Sau một ngày giao tranh dữ dội với thác đá sông đà, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng đã qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Rất ung dung thanh thản, ông lái đò nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng. Dường như ngày nào cũng thế, họ phải chiến đấu giành giật sự sống từ thác dữ nên họ cũng chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
- > Vẻ đẹp bình dị, khiêm nhường của những con người bình dị vô danh, những người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng đã làm nên bao nhiêu điều kì diệu cho Tổ Quốc.
*Liên hệ với truyện ngắn "chữ người tử tù" và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người.
- Nhân vật chính trong chữ người tử tù là Huấn Cao. Huấn Cao được khắc họ với ba vẻ đẹp nổi bật: Tài hoa, nghệ sĩ, khí phách hiên ngang và thương trong sáng.
- Người lái đò sông đà là tác phẩm được viết ở giai đoạn sau cách mạng tháng tám. Từ nhân vật Huấn Cao trong chữ người tử tù đến nhân vật ông đò trong người lái đò sông đà, có thể nhận thấy sự nhất quán của nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người:
+Con người từ cuộc đời thực đi vào sáng tác của Nguyễn Tuân đều là những nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình.
+Con người được tô đậm bởi những phẩm chất siêu phàm, phi thường xuất chúng.
+Con người luôn được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, những thử thách vô cùng khắc nghiệt để bộc lộ phẩm chất đáng quý.
- > Quan niệm đề cao con người, đậm chất nhân văn.
- Sự nhát quán trong quan niệm của nhà văn về con người của Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu, sự trân trọng của tác giả đối với các nhân vật, đồng thời tạo nên dấu ấn riêng biệt, phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn.
Nếu luật giao thông giúp cho người lái xe được an toàn thì trên đường đương đời cũng cần phải có những quy luật bảo toàn hạnh phúc. Phạm luật, nghĩa là chúng ta đang bị tước mất quyền hạnh phúc.
Giáo sư Sonja Luybomirsky, thuộc Đại học California, đã yêu cầu những người tham gia hãy ngẫu nhiên làm những việc tốt cho người khác trong vòng 10 tuần. Bà nhận thấy mức độ hạnh phúc của những người này tăng lên đáng kể mỗi khi họ làm được một điều tốt và họ vẫn giữ được trạng thái hạnh phúc sau một khoảng thời gian. Nghiên cứu chuyên sâu hơn cho thấy những người hay giúp đỡ người khác, hoặc có tham gia hoạt động thiện nguyện thường cảm thấy hạnh phúc hơn 30% so với những người chưa từng tham gia các hoạt động này. Điều đó phản ánh đúng 4 cấp độ hạnh phúc mà Aristotle, triết gia Hy Lạp đã nêu ra từ hai ngàn năm trước.
Theo Aristatle, hạnh phúc ở cấp độ hai của loài người là chia sẻ, trao tặng - hay beautitudo, nghĩa là được chúc phúc. Khi ta làm cho người khác hạnh phúc họ sẽ chúc phúc ta bằng những ý nghĩa và cảm xúc tích cực. Năng lượng tích cực ấy đã hướng về phía ta và làm gia tăng mức độ hạnh phúc trong ta - hạnh phúc vì nhìn ra điểm tốt ở người khác và làm được điều tốt cho người khác. Đã bao giờ bạn tự hỏi, giữa người nhận quà và người trao quà, ai sẽ hạnh phúc hơn? Chính người cho đi sẽ nhận về hạnh phúc nhiều hơn.
Từ một nghiên cứu với sự tham gia của 2.016 người cho thấy những ai tham gia các hoạt động thiện nguyện thì tinh thần họ phấn chấn hơn, khả năng miễn dịch mạnh, ít bị trầm cảm và ít mắc các bệnh mãn tính. Một nghiên cứu ở đại họ Hebrew, Isarel cũng phát hiện ra rằng lòng tốt sản sinh ra chất dopamine một chất dẫn truyền thần kinh làm cho người cảm thấy sảng khoái.
Khi bước vào tình huống với suy nghĩ "mình có thể nhận được gì" thay vì là "mình có thể đóng góp được gì", ta sẽ cảm thấy căng thẳng và có thể gặt trái đắng. Còn khi ta chủ động trao đi thì chính năng lượng trao tặng thể hiện qua thái độ, lời nói và hành động sẽ quay trở về với ta. Điều tưởng như là nghịch lý ấy đang diễn ra trong cuộc sống-khi cho đi, ta cho đi sẽ nhận lại nhiều hơn cái ta có ban đầu.
(Lăng kính tâm hồn, Trish summerfield)
Câu 1. Theo đoạn trích, ai là người hạnh phúc hơn? Người cho hay người nhận?
Câu 2. Các nghiên cứu cho thấy khi tham gia các hoạt động thiện nguyện, tinh thần chúng ta sẽ như thế nào?
Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào là hạnh phúc?
Câu 4. Chi sẻ bài học mà anh chị nhận được từ đoạn trích.
II. LÀM VĂN
Câu 1. Hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ, trình bày suy nghĩ của anh chị về quan điểm được nêu trong đoạn trích đọc hiểu trên: Hạnh phúc là cho đi.
Câu 2. Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhận vật ông lái đò trong thiên tùy bút Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân).
Từ đó liên hệ với truyện ngắn Chữ người tử tù và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Đọc hiểu
Câu 1. Theo đoạn trích người cho đi mới là người hạnh phúc hơn.
Câu 2. Các nghiên cứu cho thấy khi tham gia các hoạt động thiện nguyện, tinh thần con người sẽ phấn chấn hơn, sảng khoái hơn, khả năng miễn dịch mạnh, ít bị trầm cảm và ít mắc các bệnh mãn tính.
Câu 3. Hạnh phúc là trạng thái sung sướng khi đạt được ý nguyện.
Câu 4. Đoạn trích hướng mỗi người đến bài học về sự yêu thương, sẻ chia, lòng nhân ái, vị tha.
II. Làm văn
Câu 1. Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần đọc hiểu, anh chị có thể trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề cần nghị luận (Hạnh phúc là cho đi) theo nhiều cách nhưng phải hợp lí, có sức thuyết phục. Chẳng hạn:
- Khi cho đi (dù là cho đi về vật chất hay tinh thần) tức là ta đã giàu có hơn người nhận. Đó là một hạnh phúc.
- Khi cho đi, ta đã cho đi những điều mà họ thiếu hoặc cần, tức là ta đang làm một điều tốt đẹp. Khi làm được điều tốt đẹp, chắc chắn ta sẽ cảm thấy hạnh phúc.
- Khi cho đi tức là ta đã coi trọng tình cảm, sự sẻ chia hơn bất kể những thứ gì trên đời, đặc biệt là vật chất. Và không bị lệ thuộc vào bất kể thứ gì trên đời, khi đó ta hạnh phúc..
Câu 2. Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích Người lái đò sông đà, anh chị có thể cảm nhận về hình tượng ông lái đò, từ đó liên hệ đến truyện ngắn Chữ người tử tù để chỉ ra sự nhất quán trong quan niệm của nhà văn về con người theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, đoạn trích, vấn đề cần nghị luận
- Nguyễn Tuân là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại với phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông được mệnh danh là "Một cái định nghĩa về người nghệ sĩ" (Nguyễn Đăng Mạnh) và là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
- Người lái đò sông đà là một trong những thiến tùy bút đẹp nhất của Nguyễn Tuân. Tác phẩm khắc họa thành công hình tượng người lái đò và thể hiện sự nhất quán của nhà văn trong quan niệm về con người ở giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám.
*Cảm nhận về hình tượng nhân vật người lái đò
- Nguyễn Tuân đã gọi người lái sông đàn là ông đò. Cách gọi tạo nên sự hòa quyện giữa người với nghề, một người lao động làm công việc bình dị, đời thường (chèo đò).
- Trong đoạn trích hình tượng ông đò được tập trung khắc họa qua cuộc vượt thác trên sông Đà. Nguyễn Tuân đã khắc họa cuộc vượt thác của ông đò như một trận giao chiến giữa ông với sông đà hung bạo. Xét về tương quan lực lượng, ông đò cùng với bao nhiêu năm bơi chèo của mình chỉ có thứ vũ khí duy nhất là cán chèo trong tay, trong khi đó sông đà đã dàn thạch trận trên sông và bố trí đầu vào đó các lực lượng ở các vị tí sẵn sàng nghênh tiếp con thuyền đơn độc.
+Trùng vi thạch trận thứ nhất:
- Sông Đà mở ra năm cửa trận gồm bốn cửa tử và một cửa sinh (phía tả ngạn) và liên tiếp ra những đòn tấn công ông đò cùng các boi chèo: Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá. Những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, hòn đá thì xấc xược hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi, hòn thì lùi lại, thách thức con thuyền. Mặt nước hò la vang dậy ùa vào bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay các bơi chèo. Sông nước đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền, đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra. Cuối cùng sông thác đánh đến đòn hiểm độc: Cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ của người lái đò.
- Ông đò:
Giữa trận nước vang trời thanh la não bát, trước sự thách thức của đá và sóng trên sông, ông đò bình tĩnh, tập trung dồn hết tâm lực để giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình, tránh những đòn đá trái, thúc gối liều mạng của sóng nước.
Bị sóng thác thác đến miếng đòn hiểm độc nhất, ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái không rời. Mặt ông đò méo bệch, biến dạng, biến sắc đi vì đau đớn nhưng trong cuộc hiến sinh tử với loài thủy quái khổng lồ, vị chiến tướng nhất định không chịu lùi bước (và cũng không thể lùi bước). Ông vẫn giữ chắc võ khí-lái mái chèo- trong tay mình để chiến đấu như một chiến sĩ kiên cường, anh dũng, không chịu khuất phục trước kẻ thù.
Đối lập với tiếng hò la vang dậy, tiếng hỗn chiến của nước của thác đá là tiếng chỉ huy rõ ràng ngắn gọn tỉnh táo của ông đò. Chi tiết cho thấy thái độ chủ động, bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm của vị chiến tướng. Phải là một người từng trải, giàu kinh nghiệm, quen thuộc trên sóng nước Sông Đà, ông đò mới có thái độ bình tâm đáng phục như thế.
- > Kết quả, ở trùng vi thạch trận thứ nhất, dù lực lượng, thanh thế của thác đá sông đà có phần áp đảo nhưng chiến thắng vẫn thuộc về vị chiến tướng tài ba, trí dũng: Ông đò.
+ Trùng vi thạch trận thứ hai:
- Sông Đà: Tăng thêm nhiều cửa tử, bố trí lệch cửa sinh qua bờ hữu ngạn. Sông đà lúc này như hổ báo, hùm beo đang hồng hộc tế mạnh của sông đá. Các loài thủy quái chỉ trực xô ra, níu lấy thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
- Ông đò: Không một phút nghỉ ngơi, ông đã phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật. Trước dòng thác hùm beo, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, để lại phía sau bọn đá tướng tui nghiu cái mặt xanh lè thất vọng. Ông đò hiện dũng mãnh như một Võ Tòng đả hổ với đường lái điêu luyện, điêu nghệ.
+Trùng vi thạch trận thứ ba:
- Sông đà: Ít của hơn vòng đầu nhưg bên trái phải đều là luồng chết.
- Ông đò: Không xuất hiện trực tiếp mà lại gián tiếp hiện lên thông qua hình ảnh con thuyền. Con thuyền như một mũi tên tre, vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, cửa ngoài, cửa trong, lại của trong cùng, mũi tên tre đó quyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Đường đi vun vút của con thuyền-mũi tên tre tiếp tục cho thấy bản lĩnh kiên gan và sự tài hoa của người lái đò.
- > Ông đò vừa trí dũng vừa tài hoa.
- Sau một ngày giao tranh dữ dội với thác đá sông đà, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng đã qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Rất ung dung thanh thản, ông lái đò nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng. Dường như ngày nào cũng thế, họ phải chiến đấu giành giật sự sống từ thác dữ nên họ cũng chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
- > Vẻ đẹp bình dị, khiêm nhường của những con người bình dị vô danh, những người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng đã làm nên bao nhiêu điều kì diệu cho Tổ Quốc.
*Liên hệ với truyện ngắn "chữ người tử tù" và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người.
- Nhân vật chính trong chữ người tử tù là Huấn Cao. Huấn Cao được khắc họ với ba vẻ đẹp nổi bật: Tài hoa, nghệ sĩ, khí phách hiên ngang và thương trong sáng.
- Người lái đò sông đà là tác phẩm được viết ở giai đoạn sau cách mạng tháng tám. Từ nhân vật Huấn Cao trong chữ người tử tù đến nhân vật ông đò trong người lái đò sông đà, có thể nhận thấy sự nhất quán của nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người:
+Con người từ cuộc đời thực đi vào sáng tác của Nguyễn Tuân đều là những nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình.
+Con người được tô đậm bởi những phẩm chất siêu phàm, phi thường xuất chúng.
+Con người luôn được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, những thử thách vô cùng khắc nghiệt để bộc lộ phẩm chất đáng quý.
- > Quan niệm đề cao con người, đậm chất nhân văn.
- Sự nhát quán trong quan niệm của nhà văn về con người của Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu, sự trân trọng của tác giả đối với các nhân vật, đồng thời tạo nên dấu ấn riêng biệt, phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn.