

Đề số 1
I. Đọc hiểu
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
"Khi cha công bố thuyết tương đối, rất ít người có thể hiểu được. Giờ đây điều mà cha sắp tiết lộ với nhân loại rồi cũng sẽ vấp phải những hiểu lầm và thành kiến của cả thế giới.
Vì vậy, cha mong con giữ kín những bức thư này trong nhiều năm, thâm chí nhiều thập kỉ cho tới khi xã hội đủ tiến bộ để có thể chấp nhấn những điều mà cha sắp giải thích dưới đây.
Có một loại lực vô cùng mạnh mẽ, loại lực mà tới tấn bây giờ khoa học cũng chưa thể tìm ra định nghĩa chính xác nào cho nó. Lực này bao gồm và chỉ phối mọi lực khác, thậm chí còn đứng sau vô vàn hiện tượng do vũ trụ vận hành mà chúng ta vẫn chưa thể lí giải. Đó chính là TÌNH YÊU.
Khi các nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ qua lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này. Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp hẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỉ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng là tình yêu.
Loại lực này giải thích mọi điều và thổi ý nghĩa vào cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ là chúng ta vẫn duy trì nỗi sợ trước một thứ con người không thể nào hiểu và kiểm soát được.
Để giúp khái niệm trở nên dễ hình dung hơn, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E= mc^2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương. Chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng: Tình yêu chính là năng lượng bất khả chiến bại, bởi nó là vô hạn.
Sau những thất bại liên tiếp của nhân loại trong nỗ lực điều khiển các nguồn lực của vũ trụ, đã đến lúc chúng ta phải nuôi dưỡng mình bằng một loại năng lượng khác..
Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh mẽ để hoàn toàn phá hủy sự ghét bỏ, ích kỉ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.
Khi chúng ta học cách cho và nhận nguồn năng lượng vũ trụ này, lieserl ạ, chúng ta phải thừa nhận rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, vượt qua bất kỳ chướng ngại nào, bởi tình yêu chính là nguyên tố quan trọng nhất của sự sống.
Cha vô cùng ân hận vì đã không thể nói lên những điều trong trái tim mình, nơi mà từng nhịp đập trong cả cuộc đời này đều dành cho con. Có lẽ đã quá muộn để nói lời xin lỗi, nhưng thời gian cũng chỉ là tương đối, cha vẫn cần phải nói với con rằng cha yêu con, và nhờ con mà cha mới có thể đi đến câu trả lời cuối cùng!
Cha của con,
Albert Einstein
(Thư của Albert Einstein gửi con gái về một nguồn sức mạnh vô hình theo www. Vietnamnet.vn, 20/10/2016 )
Câu 1. Trong đoạn trích (từ một bức thư), Albert Einstein đã chia sẻ với con gái về phát hiện mới mẻ gì?
Câu 2. Để mô tả phát hiện của mình, Albert Einstein đã" công thức hóa"cho phát hiện đó như thế nào?
Câu 3. Theo anh chị, vì sao nguyên tố quan trọng nhất của sự sống là Tình Yêu?
Câu 4. Từ đoạn trích, hãy rút ra thông điệp mà theo anh chị, Albert Einstein muốn gửi gắm tới mỗi chúng ta.
II. Làm văn
Câu 1. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến được nêu ở đoạn trích thuộc phần Đọc hiểu trên: Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả nhưngz giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.
Câu 2. Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ sau:
Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Đoạn thơ trên, anh chị hãy chỉ ra nét tương đồng và khác biệt trong quan niệm về thời gian của Xuân Quỳnh và quan niệm về thời gian của Xuân Diệu qua những dòng thơ:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
(Vội vàng, Xuân Diệu, Ngữ Văn 11, tập 2, NXB Giáo dục, 2007, tr. 22)
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Đọc hiểu
Câu 1. Alberl Einstein đã chia sẻ với con gái về một loại lực vô cùng mạnh mẽ, có thể chi phối tất cả các loại lực khác, đó chính là tình yêu.
Câu 2. Để mô tả phát hiện mới của mình, Albert Einstein đã thay thế công thức E=mc^2 trong phương trình nổi tiếng nhất của mình bằng công thức: Năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương.
Câu 3. Tình yêu là nguyên tố quan trọng nhất của sự sống vì tình yêu có sức mạnh kỳ diệu: Nó có thể kết nối người với người, đưa con người xích lại gần nhau hơn, nó có thể xoa dịu, hàn gắn thậm chí xóa bỏ mọi nỗi đau, mọi vết thương trong cuộc đời.
Câu 4. Thông điệp Albert Einstein muốn gửi gắm tới mỗi người chính là: Tình yêu là nguồn năng lượng vô hạn, nguồn sức mạnh vô tận. Hãy yêu thương nhau nhiều hơn.
II. Làm văn
Câu 1.
Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh chị có thể trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề cần nghị luận (sức mạnh của tình yêu) theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Anh chị có thể lựa chọn một trong các nội dung sau đây để viết đoạn văn:
- Vì sao tình yêu có thể giúp loài người tồn tại, mang lại ý nghĩa của sự sống? Vì sao tình yêu có thể bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác? Vì sao tình yêu là câu trả lời đầu tiên và duy nhất cho tất cả những điều này?
- Làm thế nào để yêu thương mỗi ngày, để nhân lên sức mạnh của tình yêu?
Câu 2.
Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Xuân Quỳnh và tác phẩm sóng, anh chị có thể cảm nhận đoạn thơ, từ đó so sánh quan niệm về thời gian của Xuân Quỳnh với quan niệm về thời gian của Xuân Diệu theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý:
* giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ trẻ chống Mỹ.
- Sóng là một trong những bài thơ tình hay nhất của đời thơ Xuân Quỳnh.
- Giới thiệu đoạn trích.
* Cảm nhận về vẻ đẹp của đoạn trích
- Về nghệ thuật: Thể thơ năm chữ với những câu thơ không ngắt nhịp, hình ảnh hoán dụ giàu sức liên tưởng (cuộc đời, năm tháng, biển, mây) ; ẩn dụ (sóng, biển lớn tình yêu), số từ (trăm, ngàn) ; giọng điệu thiết tha, chân thành..
- Về nội dung: Nhân vật trữ tình em với những trăn trở về sự hữu hạn của cuộc đời, của tình yêu và khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu.
Đoạn 1:
+Cuộc đời - năm tháng là hoán dụ chỉ thời gian (thời gian của đời người và thời gian của vũ trụ), biển - mây là hoán dụ chỉ không gian (không gian mênh mông và không gian nhỏ bé). Cuộc đời con người dẫu có dài đến một trăm năm hoặc lâu hơn nữa thì so với thời gian vô cùng vô tận của vũ trụ cũng chỉ là khoảnh khắc hữu hạn. Biển tưởng như rộng lớn vô cùng nhưng vẫn bị giới hạn bởi cõi trong khi đó, áng mây nhỏ bé lại có thể bay từ bầu trời này qua bầu trời khác, có thể bay trên khắp mặt biển, đại dương.
+ Năm tháng là dòng thời gian vô thủy vô chung, con đường bay của mây gợi đến không gian vô cùng vô tận, còn cuộc đời là quỹ thời gian hữu hạn, ngắn ngủi, biển gợi lên cái nhỏ bé.
- > khổ thơ là suy tư, chiêm nghiệm của Xuân Quỳnh về nỗi âu lo của con người muôn kiếp, sự hữu hạn của cuộc đời và sự mong manh, nhỏ bé của kiếp người, của thân phận tình yêu.
Liên hệ: Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn ; Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua / Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già (Xuân Diệu)
Đoạn 2:
+ Cấu trúc nghi vấn cầu khiến (làm sao được tan ra) diễn tả nỗi trăn trở và ước muốn chân thành, tha thiết, mãnh liệt cú em.
+Tan ra: Khát vọng hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu, là sống hết mình, yêu hết mình, dâng hiến hết mình cho tình yêu.
- > Giải pháp thể hiện trái tim nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh, bao dung vô cùng của người phụ nữ trong tình yêu khi không thể kéo dài năm tháng, khi bối rối, lo âu trước cái ngắn ngủi của tình yêu.
(Liên hệ với bài thơ Biển của Xuân Diệu để thấy khát vọng tình yêu trong Biển dâng trào mãnh liệt, cuồng nhiệt còn khát vọng hy sinh, dâng hiến hết mình cho tình yêu của Xuân Quỳnh vẫn mang vẻ nữ tính)
+ Khi tan ra, khi dâng hiến tận độ cho tình yêu, em dường như đã chiến thắng cái hữu hạn của thời gian (ngàn năm- vĩnh hằng) và không gian (biển lớn - vô cùng). Do đó tình tình yêu của em được vĩnh hằng cùng vô biên năm tháng.
Liên hệ: Em trở về đúng nghĩa trái tim em / Là máu thịt đời thường em chẳng có / vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa / nhưng yêu anh cả khi chết đi rồi (Xuân Quỳnh)
Xuân Quỳnh bất tử hóa, vĩnh viễn hóa tình yêu của mình ngay trong cái hữu hạn rất khắc nghiệt của cuộc đời.
* So sánh với quan niệm thời gian trong hai câu thơ của Xuân Diệu
- Tương đồng: Cả hai nhà thơ cùng thể hiện nhận thức về thời gian của đời người (Trong hai câu thơ của Xuân Diệu, xuân vừa là hoán dụ chỉ mùa đầu tiên trong năm vừa là ẩn dụ cho tuổi trẻ, thời gian đẹp nhất của đời người)
- Khác biệt:
+ Cảm thức về thời gian trong thơ Xuân Quỳnh gắn liền với sự ngắn ngủi, hữu hạn (các hoán dụ cuộc đời, năm tháng đã phân tích bên trên).
+ Cảm thức về thờigian trong thơ Xuân Diệu gắn liền với sự trôi chảy rất nhanh, một đi không trở lại (ẩn dụ xuân, cách định nghĩa đương tới nghĩa là đương qua, còn non nghĩa là sẽ già)
- Ý nghĩa / giá trị của quan niệm thời gian trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh:
+ Quan niệm về thời gian của hai nhà thơ đều hết sức đúng đắn, biện chứng, thể hiện sự trân quý của mỗi thi nhân đối với cuộc đời con người.
+ Nhận thức về thời gian của mỗi nhà thơ là cội nguồn / động lực của lối sống / cách ứng xử đầy nhân văn: Xuân Diệu lựa chọn lối sống vội vàng, gấp gáp để dâng hiến và tận hưởng cuộc sống ngay khi nó còn xanh non, biêc rờn (Nguyễn Đăng Mạnh), còn Xuân Quỳnh muốn được hi sinh, dâng hiến hết mình cho tình yêu (Làm sao được tan ra / Thành trăm con sóng nhỏ / Giữa biển lớn tình yêu / Để ngàn năm còn vỗ)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
"Khi cha công bố thuyết tương đối, rất ít người có thể hiểu được. Giờ đây điều mà cha sắp tiết lộ với nhân loại rồi cũng sẽ vấp phải những hiểu lầm và thành kiến của cả thế giới.
Vì vậy, cha mong con giữ kín những bức thư này trong nhiều năm, thâm chí nhiều thập kỉ cho tới khi xã hội đủ tiến bộ để có thể chấp nhấn những điều mà cha sắp giải thích dưới đây.
Có một loại lực vô cùng mạnh mẽ, loại lực mà tới tấn bây giờ khoa học cũng chưa thể tìm ra định nghĩa chính xác nào cho nó. Lực này bao gồm và chỉ phối mọi lực khác, thậm chí còn đứng sau vô vàn hiện tượng do vũ trụ vận hành mà chúng ta vẫn chưa thể lí giải. Đó chính là TÌNH YÊU.
Khi các nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ qua lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này. Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp hẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỉ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng là tình yêu.
Loại lực này giải thích mọi điều và thổi ý nghĩa vào cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ là chúng ta vẫn duy trì nỗi sợ trước một thứ con người không thể nào hiểu và kiểm soát được.
Để giúp khái niệm trở nên dễ hình dung hơn, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E= mc^2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương. Chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng: Tình yêu chính là năng lượng bất khả chiến bại, bởi nó là vô hạn.
Sau những thất bại liên tiếp của nhân loại trong nỗ lực điều khiển các nguồn lực của vũ trụ, đã đến lúc chúng ta phải nuôi dưỡng mình bằng một loại năng lượng khác..
Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh mẽ để hoàn toàn phá hủy sự ghét bỏ, ích kỉ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.
Khi chúng ta học cách cho và nhận nguồn năng lượng vũ trụ này, lieserl ạ, chúng ta phải thừa nhận rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, vượt qua bất kỳ chướng ngại nào, bởi tình yêu chính là nguyên tố quan trọng nhất của sự sống.
Cha vô cùng ân hận vì đã không thể nói lên những điều trong trái tim mình, nơi mà từng nhịp đập trong cả cuộc đời này đều dành cho con. Có lẽ đã quá muộn để nói lời xin lỗi, nhưng thời gian cũng chỉ là tương đối, cha vẫn cần phải nói với con rằng cha yêu con, và nhờ con mà cha mới có thể đi đến câu trả lời cuối cùng!
Cha của con,
Albert Einstein
(Thư của Albert Einstein gửi con gái về một nguồn sức mạnh vô hình theo www. Vietnamnet.vn, 20/10/2016 )
Câu 1. Trong đoạn trích (từ một bức thư), Albert Einstein đã chia sẻ với con gái về phát hiện mới mẻ gì?
Câu 2. Để mô tả phát hiện của mình, Albert Einstein đã" công thức hóa"cho phát hiện đó như thế nào?
Câu 3. Theo anh chị, vì sao nguyên tố quan trọng nhất của sự sống là Tình Yêu?
Câu 4. Từ đoạn trích, hãy rút ra thông điệp mà theo anh chị, Albert Einstein muốn gửi gắm tới mỗi chúng ta.
II. Làm văn
Câu 1. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến được nêu ở đoạn trích thuộc phần Đọc hiểu trên: Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả nhưngz giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.
Câu 2. Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ sau:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr. 155-156)
Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr. 155-156)
Đoạn thơ trên, anh chị hãy chỉ ra nét tương đồng và khác biệt trong quan niệm về thời gian của Xuân Quỳnh và quan niệm về thời gian của Xuân Diệu qua những dòng thơ:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng, Xuân Diệu, Ngữ Văn 11, tập 2, NXB Giáo dục, 2007, tr. 22)
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Đọc hiểu
Câu 1. Alberl Einstein đã chia sẻ với con gái về một loại lực vô cùng mạnh mẽ, có thể chi phối tất cả các loại lực khác, đó chính là tình yêu.
Câu 2. Để mô tả phát hiện mới của mình, Albert Einstein đã thay thế công thức E=mc^2 trong phương trình nổi tiếng nhất của mình bằng công thức: Năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương.
Câu 3. Tình yêu là nguyên tố quan trọng nhất của sự sống vì tình yêu có sức mạnh kỳ diệu: Nó có thể kết nối người với người, đưa con người xích lại gần nhau hơn, nó có thể xoa dịu, hàn gắn thậm chí xóa bỏ mọi nỗi đau, mọi vết thương trong cuộc đời.
Câu 4. Thông điệp Albert Einstein muốn gửi gắm tới mỗi người chính là: Tình yêu là nguồn năng lượng vô hạn, nguồn sức mạnh vô tận. Hãy yêu thương nhau nhiều hơn.
II. Làm văn
Câu 1.
Trên cơ sở những hiểu biết về đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh chị có thể trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề cần nghị luận (sức mạnh của tình yêu) theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Anh chị có thể lựa chọn một trong các nội dung sau đây để viết đoạn văn:
- Vì sao tình yêu có thể giúp loài người tồn tại, mang lại ý nghĩa của sự sống? Vì sao tình yêu có thể bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác? Vì sao tình yêu là câu trả lời đầu tiên và duy nhất cho tất cả những điều này?
- Làm thế nào để yêu thương mỗi ngày, để nhân lên sức mạnh của tình yêu?
Câu 2.
Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Xuân Quỳnh và tác phẩm sóng, anh chị có thể cảm nhận đoạn thơ, từ đó so sánh quan niệm về thời gian của Xuân Quỳnh với quan niệm về thời gian của Xuân Diệu theo nhiều cách nhưng phải hợp lý, có sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý:
* giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ trẻ chống Mỹ.
- Sóng là một trong những bài thơ tình hay nhất của đời thơ Xuân Quỳnh.
- Giới thiệu đoạn trích.
* Cảm nhận về vẻ đẹp của đoạn trích
- Về nghệ thuật: Thể thơ năm chữ với những câu thơ không ngắt nhịp, hình ảnh hoán dụ giàu sức liên tưởng (cuộc đời, năm tháng, biển, mây) ; ẩn dụ (sóng, biển lớn tình yêu), số từ (trăm, ngàn) ; giọng điệu thiết tha, chân thành..
- Về nội dung: Nhân vật trữ tình em với những trăn trở về sự hữu hạn của cuộc đời, của tình yêu và khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu.
Đoạn 1:
+Cuộc đời - năm tháng là hoán dụ chỉ thời gian (thời gian của đời người và thời gian của vũ trụ), biển - mây là hoán dụ chỉ không gian (không gian mênh mông và không gian nhỏ bé). Cuộc đời con người dẫu có dài đến một trăm năm hoặc lâu hơn nữa thì so với thời gian vô cùng vô tận của vũ trụ cũng chỉ là khoảnh khắc hữu hạn. Biển tưởng như rộng lớn vô cùng nhưng vẫn bị giới hạn bởi cõi trong khi đó, áng mây nhỏ bé lại có thể bay từ bầu trời này qua bầu trời khác, có thể bay trên khắp mặt biển, đại dương.
+ Năm tháng là dòng thời gian vô thủy vô chung, con đường bay của mây gợi đến không gian vô cùng vô tận, còn cuộc đời là quỹ thời gian hữu hạn, ngắn ngủi, biển gợi lên cái nhỏ bé.
- > khổ thơ là suy tư, chiêm nghiệm của Xuân Quỳnh về nỗi âu lo của con người muôn kiếp, sự hữu hạn của cuộc đời và sự mong manh, nhỏ bé của kiếp người, của thân phận tình yêu.
Liên hệ: Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/ Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn ; Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua / Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già (Xuân Diệu)
Đoạn 2:
+ Cấu trúc nghi vấn cầu khiến (làm sao được tan ra) diễn tả nỗi trăn trở và ước muốn chân thành, tha thiết, mãnh liệt cú em.
+Tan ra: Khát vọng hy sinh, dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu, là sống hết mình, yêu hết mình, dâng hiến hết mình cho tình yêu.
- > Giải pháp thể hiện trái tim nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh, bao dung vô cùng của người phụ nữ trong tình yêu khi không thể kéo dài năm tháng, khi bối rối, lo âu trước cái ngắn ngủi của tình yêu.
(Liên hệ với bài thơ Biển của Xuân Diệu để thấy khát vọng tình yêu trong Biển dâng trào mãnh liệt, cuồng nhiệt còn khát vọng hy sinh, dâng hiến hết mình cho tình yêu của Xuân Quỳnh vẫn mang vẻ nữ tính)
+ Khi tan ra, khi dâng hiến tận độ cho tình yêu, em dường như đã chiến thắng cái hữu hạn của thời gian (ngàn năm- vĩnh hằng) và không gian (biển lớn - vô cùng). Do đó tình tình yêu của em được vĩnh hằng cùng vô biên năm tháng.
Liên hệ: Em trở về đúng nghĩa trái tim em / Là máu thịt đời thường em chẳng có / vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa / nhưng yêu anh cả khi chết đi rồi (Xuân Quỳnh)
Xuân Quỳnh bất tử hóa, vĩnh viễn hóa tình yêu của mình ngay trong cái hữu hạn rất khắc nghiệt của cuộc đời.
* So sánh với quan niệm thời gian trong hai câu thơ của Xuân Diệu
- Tương đồng: Cả hai nhà thơ cùng thể hiện nhận thức về thời gian của đời người (Trong hai câu thơ của Xuân Diệu, xuân vừa là hoán dụ chỉ mùa đầu tiên trong năm vừa là ẩn dụ cho tuổi trẻ, thời gian đẹp nhất của đời người)
- Khác biệt:
+ Cảm thức về thời gian trong thơ Xuân Quỳnh gắn liền với sự ngắn ngủi, hữu hạn (các hoán dụ cuộc đời, năm tháng đã phân tích bên trên).
+ Cảm thức về thờigian trong thơ Xuân Diệu gắn liền với sự trôi chảy rất nhanh, một đi không trở lại (ẩn dụ xuân, cách định nghĩa đương tới nghĩa là đương qua, còn non nghĩa là sẽ già)
- Ý nghĩa / giá trị của quan niệm thời gian trong thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh:
+ Quan niệm về thời gian của hai nhà thơ đều hết sức đúng đắn, biện chứng, thể hiện sự trân quý của mỗi thi nhân đối với cuộc đời con người.
+ Nhận thức về thời gian của mỗi nhà thơ là cội nguồn / động lực của lối sống / cách ứng xử đầy nhân văn: Xuân Diệu lựa chọn lối sống vội vàng, gấp gáp để dâng hiến và tận hưởng cuộc sống ngay khi nó còn xanh non, biêc rờn (Nguyễn Đăng Mạnh), còn Xuân Quỳnh muốn được hi sinh, dâng hiến hết mình cho tình yêu (Làm sao được tan ra / Thành trăm con sóng nhỏ / Giữa biển lớn tình yêu / Để ngàn năm còn vỗ)
Chỉnh sửa cuối: