Bạn được Đường Tinh mời tham gia diễn đàn viết bài kiếm tiền VNO, bấm vào đây để đăng ký.
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
5784 8
Kiếm tiền
Góc bình yên đã kiếm được 57840 đ
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ VÀO

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ SINH VIÊN NỮ HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY


* * *


NQsWoRq.jpg


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích, nhiệm vụ

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

6. Đóng góp của đề tài

7. Bố cục đề tài


NỘI DUNG

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ


1.1 Vị trí, vai trò của phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

1.1. 1 Khái niệm phụ nữ

1.1. 2 Giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu giải phóng, vừa là động lực của cách mạng


1.2 Giải phóng phụ nữ là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân ta

1.2. 1 Phương hướng giải phóng phụ nữ một cách hoàn toàn

1.2. 2 Trách nhiệm của Đảng và nhân dân ta đối với công cuộc giải phóng phụ nữ


Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ CHí Minh về giải phóng phụ nữ vào xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay

2.1 Tổng quan về đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí và Tuyên truyền

2.1. 1 Khái niệm sinh viên nữ

2.1. 2 Đặc điểm đội ngũ sinh viên nữ Việt Nam

2.1. 3 Đặc điểm đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí - Tuyên truyền hiện nay


2.2. Thực trạng đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí – Tuyên truyền

2.2. 1 Tỷ lệ sinh viên nữ đang theo học tại Học viện Báo chí – Tuyên truyền hiện nay

2.2. 2 Kết quả học tập của sinh viên nữ Học viện Báo chí – Tuyên truyền

2.2. 3 Kết quả rèn luyện và tham gia hoạt động xã hội


2.3 Các giải pháp xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện Báo chí – Tuyên truyền

- Còn tiếp -
 
Chỉnh sửa cuối:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến phụ nữ Việt Nam, vấn đề giải phóng phụ nữ, việc bình đẳng giới và phát triển phụ nữ. "Điều nổi bật trong hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngay từ buổi đầu cuộc đời hoạt động và chiến đấu của mình, Người đã thấy rõ vai trò quan trọng của chị em phụ nữ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong việc xây dựng đất nước. Nhờ hoạt động của bản thân mình và của Đảng nên chị em phụ nữ Việt Nam đã giành lại được phẩm giá cho mình. Chị em không còn như dưới thời thực dân nữa. Phụ nữ Việt Nam ngày nay đã bình đẳng với nam giới. Chị em được bình đẳng về quyền lợi cũng như nghĩa vụ" 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá đúng vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội mà còn rất coi trọng sự nghiệp giải phóng phụ nữ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Theo Người, trình độ giải phóng phụ nữ được coi là thước đo của trình độ phát triển xã hội. Bởi, "Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa" 2. Đồng thời, Người chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa yêu cầu phát triển xã hội với vấn đề giải phóng phụ nữ. Công cuộc giải phóng phụ nữ không chỉ đơn thuần là coi trọng nữ giới với tư cách là lực lượng cách mạng "An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công" 3, mà còn thể hiện tinh thần nhân văn cao cả, tất cả vì con người, lấy con người làm điểm xuất phát, là mục tiêu của mọi tư tưởng, mọi hành động.

Thành tích vẻ vang mà phụ nữ Việt Nam đã đạt được là do chị em có tinh thần can đảm, có tinh thần cách mạng. Chị em được như vậy là nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên và giáo dục, làm cho họ quyết tâm thực hiện nguyện vọng đánh thắng kẻ thù và khắc phục tình trạng chậm tiến về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.. của đất nước. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong đó có giải phóng phụ nữ là hoàn toàn đúng đắn. Thấm nhuần lời dạy của Người, phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đã nỗ lực hết mình, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh để dệt nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Trải qua gần 30 năm đổi mới đất nước theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Việt Nam đã có những cơ hội thuận lợi để phát triển, cống hiến toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội, từng bước chinh phục mọi khó khăn, thách thức để khẳng định vai trò, vị thế của mình ngang hàng với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội.

Ngày nay, nhân loại đang bước vào kỳ nguyên mới – kỷ nguyên của những lao động sáng tạo với cuộc cách mạng tri thức bùng nổ trên phạm vi toàn thế giới. Chưa bao giờ trong lịch sử loài người, nguồn lực con người, trong đó phụ nữ "chiếm phân nửa xã hội" được chú trọng như ngày nay. Sự thành công của mỗi quốc gia, dân tộc trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của toàn cầu hóa được quyết định do nguồn lực con người. Do đó, mỗi quốc gia đều tự tìm cho mình một chiến lược phát triển, trong đó nguồn lực con người và lao động của trí thức nói chung và trí thức nữ nói riêng đóng vai trò quan trọng rất được quan tâm, đầu tư, tạo điều kiện để phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới.

Học viện Báo chí và Tuyên truyền là trường Đảng duy nhất nằm trong hệ thống các trường đại học quốc dân, đồng thời là trường đại học quốc dân duy nhất nằm trong hệ thống các trường Đảng. Với chức năng đào tạo nguồn nhân lực: Cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận và truyền thông cho Đảng và Nhà nước. Vì vậy, mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo của Học viện cũng chính là nhằm hướng đến xây dựng đội ngũ sinh viên nói chung và đội ngũ sinh viên nữ nói riêng vừa "hồng", vừa "chuyên" đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay.

Sinh viên nữ trong Học viện đã phát huy vai trò tích cực của mình trong học tập, trong rèn luyện đạo đức, lối sống, lập trường tư tưởng, phẩm chất chính trị, tham gia công tác Đảng, công tác Đoàn, hoạt động tình nguyện, không ngừng cố gắng vươn lên hoàn thiện và khẳng định mình trong nhà trường. Bên cạnh những thành tích xuất sắc đã đạt được, đội ngũ sinh viên nữ của Học viện cũng còn một số hạn chế cần được khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu sắc. Để nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí và Tuyên truyền có tri thức cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng thì việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ vào xây dựng đội ngũ sinh viên nữ là một giải pháp quan trọng và là một việc làm cần thiết hiện nay.

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh và chị em phụ nữ Việt Nam của bà Bayalátxen đăng trên Tạp chí Phụ nữ, số ra ngày 6 tháng 9 năm 1969.

2. Hồ Chí Minh toàn tập. T13, tr523, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 1996.

3. Sđd: T6, tr289

- Còn tiếp -
 
Chỉnh sửa cuối:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
MỞ ĐẦU

2. Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh - cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức, phong cách.. đã được tiến hành ở nước ta từ hơn một nửa thế kỷ nay. Việc nghiên cứu tư tưởng của Người từ sau Đại hội VII (1991) đã được đặt ra. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng, cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức, phong cách.. của Người ở bình diện chung.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ có một số ấn phẩm của Nhà xuất bản Phụ nữ như: "Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ", năm 1970; "Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam", năm 1982; "Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng phụ nữ", năm 1990; gần đây nhất, để chào mừng Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X có một số sách có nội dung về công tác phụ nữ; sự nghiệp giải phóng phụ nữ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Điển hình như hai cuốn sách của Nhà xuất bản Thông tin. Cụ thể là: "Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công cuộc đổi mới", năm 2007; "Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự tiến bộ của phụ nữ" của Phạm Hoàng Điệp – Chủ biên, năm 2008. Tuy nhiên, trong các ấn phẩm này chủ yếu thống kê các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ, và về giải phóng phụ nữ nói riêng trong tư tưởng Hồ Chí Minh một cách khái quát.

Một số bài viết đăng trên các tạp chí: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác đào tạo, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ nữ" của Hoàng Thị Nữ, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6/1989; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ" của Nguyễn Thị Mão, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/1996; "Những quan điểm cơ bản về giải phóng phụ nữ trong" Di chúc "của Chủ tịch Hồ Chí Minh", của PGS. TS Nguyễn Khánh Bật, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2000; "Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ" của TS. Nguyễn Thị Kim Dung, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11/2001; "Một số luận điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ" của TS Ngọc Hà, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3/2004. V. V.. đã nghiên cứu, đưa ra những nhận định về tư tưởng giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Những công trình trên bước đầu đã đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ nói chung và giải phóng phụ nữ nói riêng, nêu lên những kiến nghị nhằm thay đổi và bổ sung chính sách xã hội đối với phụ nữ để họ có điều kiện phát triển, phát huy hết vai trò của mình trong công cuộc đổi mới của đất nước. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ nhằm vận dụng vào xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

- Còn tiếp -
 
Chỉnh sửa cuối:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
MỞ ĐẦU

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí Tuyên truyền hiện nay và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ vào xây dựng đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng yêu cầu xã hội và thời đại.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ, về giải phóng phụ nữ; nghiên cứu thực trạng xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền; đề xuất một số giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện trong giai đoạn hiện nay.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các quan điểm, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ.

Nghiên cứu thực trạng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay (2008 - 2009)

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chủ yếu mà nhóm tác giả sử dụng là phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng – duy vật lịch sử.

Ngoài ra, nhóm tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, logic, và phương pháp điều tra xã hội học..

Thông qua việc điều tra, thu thập lấy số liệu. Phương pháp phân tích đã đưa ra những số liệu, luận cứ phục vụ cho công tác nghiên cứu đề tài. Từ sự phân tích, tổng hợp, so sánh.. nhóm tác giả tìm ra mối quan hệ giữa các nội dung, các yếu tố tác động đưa đến tình hình của công tác "xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện". Từ đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét một cách khách quan.

Phương pháp phân tích: được nhóm đề tài sử dụng cụ thể là phương pháp phân tích định tính (Phân tích theo truyền thống) và định lượng (Phân tích theo hình thức hóa). Qua phân tích, nhóm đề tài đã lụa chọn ra kết quả học tập (KQHT), điểm trung bình trung mở rộng (TBTMR), kết quả xếp loại học tập (XLHT) của sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai và sinh viên năm thứ ba, thứ tư lại với nhau để thuận tiện cho việc tổng hợp, phù hợp với nội dung nghiên cứu của đề tài và so sánh đưa ra các mối quan hệ giữa chúng. Nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá một cách chính xá và khách quan những vấn đề mà nhóm đề tài đang tiến hành nghiên cứu.

Phương pháp Ankét: Sử dụng để xây dựng "Phiếu điều tra xã hội học", nhằm thu thập các ý kiến từ sinh viên nữ ở các khối. Cụ thể là:

Khối Lý luận bao gồm lớp: Chính trị học K29, Chính trị học K27, Tư tưởng Hồ Chí Minh K28, Tư tưởng Hồ Chí Minh K27, Lịch sử Đảng K29, Lịch sử Đảng K27, Giáo dục chính trị K27, Kinh tế chính trị K27.

Khối Nghiệp vụ bao gồm lớp: Thông tin đối ngoại K27, Thông tin đối ngoại K26, Báo ảnh K29, Truyền hình K28, Quan hệ công chúng K27.

6. Điểm mới của đề tài

Đề tài góp phần làm rõ thực trạng đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí và Tuyên truyền và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ vào xây dựng đội ngũ sinh viên nữ ở Học viện hiện nay.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm có 2 chương:

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

Chương 2: Một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ sinh viên nữ Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ.

- Còn tiếp -
 
Chỉnh sửa cuối:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.1 Vai trò của phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Bàn về phụ nữ là bàn về sự phân định giữa giới nam và giới nữ. Các nhà khoa học khẳng định: "Giới là khái niệm đề cập tới sự khác nhau về vai trò và trách nhiệm xã hội giữa nam và nữ, cụ thể là những hành vi nghề nghiệp được xem là phù hợp với nam hoặc nữ và về cách xác định giá trị, ghi nhận các hoạt động của nam nữ trong xã hội. Nói một cách ngắn gọn hơn, khái niệm Giới đề cập đến các mối quan hệ giữa nam và nữ và các vai trò được xã hội thừa nhận cho từng Giới tính. Đây là một thuật ngữ phát ngôn từ môn nhân trắc học đề cập tới các chuẩn mực theo nhóm hơn là theo từng cá nhân cụ thể" 1 . Các đặc tính về Giới được xác định về mặt xã hội, được học/thu nhận và là yếu tố bắt nguồn từ văn hóa, do đó có thể thay đổi. Các đặc tính Giới thường được truyền thụ/tiếp nhận ngay từ lúc một con người mới sinh ra. Chẳng hạn các bé gái thường được bố mẹ mua cho đồ chơi là búp bê, trong khi các bé trai thì nhận được quả bóng đá.. Các em gái thường được khuyên ở nhà giúp mẹ nấu nướng, còn các em trai có thể đi chơi. Các em gái được nuôi dạy để trở lên dịu dàng, kín đáo, còn con trai thì thường được giáo dục để trở thành những con ngừời táo bạo, quyết đoán và cương nghị.. Thậm chí những khác biệt về Giới còn được thể hiện qua cách dùng màu sắc. Hiếm ai nghĩ rằng con trai nên mặc quần áo màu hồng nhưng với con gái thì màu này là hoàn toàn có thể. Trên thực tế, các đặc tính về Giới không phụ thuộc vào việc một cá nhân là đàn ông hay phụ nữ, mà phụ thuộc vào những định kiếm mà xã hội áp đặt cho nam giới và phụ nữ. Nói cách khác, Giới định nghĩa cái gì thuộc về đàn ông hoặc đàn bà. Các đặc điểm về Giới tính là bất biến thì các đặc điểm về Giới lại có thể thay đổi. Trên thực tế con trai cũng hoàn toàn có thể trở lên dịu dàng, có thể nấu nướng, lau nhà.. trong khi con gái cũng hoàn toàn có thể mang những tính cách táo bạo, mạnh mẽ và chơi bóng đá.. Các đặc tính về giới, như đã nêu ở trên, bắt nguồn và là những yếu tố mang tính văn hóa; vì vậy, chúng cũng có thể hoán đổi, phụ thuộc vào môi trường xã hội và quá trình giáo dục.

Phụ nữ Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu là lực lượng chiếm "phân nửa xã hội". Là con dân nước Việt cùng có cha là Lạc Long Quân và mẹ là Âu Cơ. Là một thể thống nhất của hai tiếng "Đồng bào", sinh ra cùng một mẹ với câu truyện truyền thuyết nổi tiếng lưu truyền trong dân gian cho đến tận hôm nay về mẹ Âu Cơ sinh được trăm con. Họ đều là con dân nước Việt, sinh sống và tiến hành các hoạt động nhằm tồn tại và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam và ở cả nước ngoài. Phụ nữ Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc.

1.1. 1 Vai trò của phụ nữ trong lịch sử dân tộc.

Khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được những cống hiến xuất sắc của phụ nữ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hẳn trong chúng ta có rất nhiều người nhớ tới câu nói đầy khí phách của nữ tướng Triệu Trinh Nương rằng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông, há chịu khom lưng, quỳ gối làm tì thiếp của người". Tiếp nối truyền thống ấy là lớp lớp các thế hệ nữ anh hùng như: Trưng Trắc, Trưng Nhị, nữ tướng Lê Xuân, đô đốc Bùi Thị Xuân.. đã làm nên những chiến công hiển hách, những thắng lợi hào hùng cho dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức tự hào về truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Người viết: "Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ trong truyền thống Người đã thấy được sức mạnh to lớn, tiềm tàng, lòng yêu nước và ý chí căm thù quân xâm lược tư phía nữ giới. Và trong thực tế, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng họ lại phát huy tinh thần" giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ", khi ấy vai trò, khả năng, trí tuệ của họ ngang bằng, thậm chí vượt qua nam giới. Trong tác phẩm lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ngợi ca:

" Phụ nữ ta chẳng tầm thường

Đánh đông, dẹp Bắc tấm gương để đời "

Từ đó đến nay, phụ nữ ta luôn có mặt trong các cuộc khởi nghĩa, các cuộc chiến tranh cách mạng giành độc lập và thống nhất Tổ quốc với số lượng ngày càng đông và ý chí quyết tâm ngày càng sâu sắc. Trong lớp học ở Quảng Châu, khi nói về vai trò của người phụ nữ, Hồ Chí Minh đã nhắc lại quan điểm của Mác rằng:" Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi ".

Khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được những cống hiến xuất sắc của phụ nữ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Lịch sử đã từng ghi dấu chiến công hiển hách của nữ tướng Triệu Trinh Nương và câu nói đầy khí phách của bà:" Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông, há chịu khom lưng, quỳ gối làm tì thiếp người "; hay như Hai Bà Trưng cũng từng đưa ra lời thề rằng:

" Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng

Ba kẻo oan ức lòng chồng

Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này "..

Tiếp nối truyền thống ấy là lớp lớp các thế hệ nữ anh hùng như: Trưng Trắc, Trưng Nhị, nữ tướng Lê Xuân, đô đốc Bùi Thị Xuân.. đã làm nên những chiến công hiển hách, những thắng lợi hào hùng cho dân tộc.

Như vậy, các nữ anh hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã vượt qua khỏi lễ giáo phong kiến, bằng tài trí của mình đứng lên đánh tan quân xâm lược, gây dựng cơ đồ, khiến cho quân giặc nhiều phen khiếp sợ và nể trọng.

Thời loạn lạc đã vậy, trong thời bình, Nguyên Phi Ỷ Lan cũng để lại tấm gương tài trí hơn người trong việc giúp vua bình ổn giang san, giữ yên bờ cõi. Và tấm gương của các vị nữ anh hung đã làm nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nói chung và phụ nữ Việt Nam nói riêng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức tự hào về truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước.. Người viết:" Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ". Với tầm nhìn vượt thời đại, Người đã nhận thấy phụ nữ Việt Nam chính là động lực của sự phát triển xã hội, là lực lượng cách mạng to lớn, họ có vai trò và vị trí quan trọng trong xã hội cũng như trong gia đình. Trong mục Vườn văn trên báo Việt Nam độc lập số 104 ngày 1/9/1941 in tại Việt Bắc, có bài thơ Phụ nữ của Bác ca ngợi truyền thống tốt đẹp của phụ nữ:

" Việt Nam phụ nữ đời đời,

Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh

Ngàn thu rạng tiếng Bà Trưng,

Ra tay cứu nước, cứu dân đến cùng.

Bà triệu Ẩu thật anh hùng,

Cưỡi voi đánh giặc vẫy vùng bốn phương.

Mấy năm cách mệnh khẩn trương

Chị em phụ nữ thường thường tham gia.

Mấy phen tranh đấu xông pha,

Lòng vàng, gan sắt nào đà kém ai? "

Từ trong truyền thống đó, Người đã thấy được sức mạnh to lớn, tiềm tàng, lòng yêu nước và ý chí căm thù quân xâm lược từ phía nữ giới. Và trong thực tế, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng họ lại phát huy tinh thần" giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ", khi ấy vai trò, khả năng, trí tuệ của họ ngang bằng, thậm chí vượt qua nam giới. Trong tác phẩm lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ngợi ca:

" Phụ nữ ta chẳng tầm thường

Đánh đông, dẹp Bắc tấm gương để đời"

Từ đó đến nay, phụ nữ ta luôn có mặt trong các cuộc khởi nghĩa, các cuộc chiến tranh cách mạng giành độc lập và thống nhất Tổ quốc với số lượng ngày càng đông và ý chí quyết tâm ngày càng sâu sắc. Trong lớp học ở Quảng Châu, khi nói về vai trò của người phụ nữ, Hồ Chí Minh đã nhắc lại quan điểm của Mác rằng:" Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi". Vì thế, trên bước đường tìm đường cứu nước, tiếp xúc với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người luôn có quan điểm rằng phải tôn trọng phụ nữ, vì Người nhận thấy phụ nữ là những người có vai trò, vị trí lớn lao trong cả gia đình và xã hội.

1 . Quyền trẻ em của Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.

- Còn tiếp -
 
Last edited by a moderator:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
[COLOR=rgb(0, 179, 0) ]NỘI DUNG[/COLOR]

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.1 Vai trò của phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

[COLOR=rgb(0, 0, 0) ]1.1. 2 Vai trò của phụ nữ trong đấu tranh cách mạng.[/COLOR]

[COLOR=rgb(0, 0, 0) ]Phụ nữ chiếm một nửa lực lượng cách mạng.[/COLOR] [COLOR=rgb(0, 0, 0) ]Theo quan điểm của C. Mác: "Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào" (phụ nữ quốc tế, t2, tr. 288). Phụ nữ là một nửa của thế giới, đây là một lực lượng quan trọng của xã hội, bất kể việc gì dù nhỏ hay lớn nếu không có công sức của phụ nữ thì khó có thể thành công được. Một ví dụ điển hình về vai trò của phụ nữ trong cách mạng có thể kể đến như cuộc cách mệnh Nga: "Nay cách mệnh Nga thành công mau như thế, đứng vững như thế, cũng vì đàn bà con gái hết sức giúp vào. Vậy nên muốn thế giới cách mệnh thành công, thì phải vận động đàn bà con gái công nông các nước" (Đường cách mệnh- Phụ nữ quốc tế, t. 2, tr. 289). Ngay từ rất sớm, các ông đã nhận thức được vai trò quan trọng của phụ nữ trong công cuộc tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.[/COLOR] [COLOR=rgb(0, 0, 0) ]Tiếp nối những quan điểm, nhận định của các bậc tiền nhân đi trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định thêm một lần nữa vị trí trọng yếu của phụ nữ đối với công tác cách mạng lớn lao của dân tộc. Nhưng điểm sáng trong tư tưởng của Người là Người đã biết vận dụng những lý luận, quan điểm vào thực tiễn cách mạng. Và cũng từ thực tiễn cách mạng Người đã đúc rút những kinh nghiệm, nhận định đúng đắn góp phần vào thành công của cách mạng nước nhà.

Trong bài thơ "Phụ nữ", Báo Việt Nam độc lập, số 104, ngày 01/09/1941, Người đã khẳng định một điều:

"Mấy năm cách mệnh khẩn trương

Chị em phụ nữ thường thường tham gia

Mấy phen tranh đấu xông pha

Lòng vàng gan sắc nào đà kém ai".

Rút ngắn khoảng cách phân biệt về giới, xóa bỏ những định kiến cổ hủ về phái yếu, một thực tế đã cho thấy rằng, trong bất kỳ công việc khó khăn nào cũng đều có công sức lớn lao của người phụ nữ. Con đường cách mạng là một con đường dài và nhiều chông gai, đòi hỏi nhiều sự hy sinh, có nhiều ý kiến trước đó đã đưa ra là công việc làm cách mạng chỉ dành cho những trang nam nhi, những con người khỏe mạnh về thể lực và chứa đầy sự dũng cảm trong tim. Nhưng thực tế cho thấy, trong nhiều năm làm cách mạng khó khăn, gian khổ, những tấm gương anh hùng dân tộc không ít người là phụ nữ. Nếu trước kia có hai chị em Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, thì sau này có những nữ anh hùng như: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Tạ Thị Kiều, Nguyễn Thị Định.. Họ trong chiến đấu cũng anh dũng, gan dạ, xả thân hy sinh không tiếc máu xương như những bậc nam tử Hán đại trương phu, ở đây không có sự phân biệt nào về giới cả.

Phụ nữ khi tham gia vào cuộc kháng chiến đã cống hiến hết sức mình trong mọi công việc, dù là nhỏ nhất, nhưng cũng là những việc làm thiết yếu không thể thiếu trong đời sống mỗi người chiến sĩ: "Các chị em cô đầu có súng đâu, biết bắn đâu. Thế mà khi bộ đội lo đánh giặc thì chị em người lo nấu cơm nấu nước, người giúp chuyên chở đạn dược, người thì săn sóc băng bó cho anh chị em bị thương. Thế là chị em cũng cùng tham gia kháng chiến, cũng làm tròn nghĩa vụ quốc dân (Hỏi và trả lời- chiều 23/12/1946, t. 4, tr. 485-486).

Trong kháng chiến, phụ nữ hăng hái, nhiệt tình tham gia vào nhiệm vụ cứu quốc lớn lao của toàn dân tộc:" Các cụ phụ lão và các chị em phụ nữ cũng không kém phần hăng hái. Có những đội du kích toàn là phụ nữ "(giấc ngủ mười năm, t. 5, tr. 612). Họ tham gia đông đảo vào các tổ chức kháng chiến, rất nhiều tổ chức có số chị em tham gia nhiều và hầu hết đã đem lại hiệu quả đắc lực cho cách mạng. Điều đáng nói hơn cả là không chỉ những chị em phụ nữ tuổi còn trẻ, sức còn khỏe tham gia kháng chiến, mà còn có cả những cụ già, những người bầm, những người mẹ yêu nước cũng góp sức mình cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nhắc nhở:" Các cụ, các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến "(Thư gửi các Hội mẹ chiến sĩ liên khu IV- 09/1949- t. 5, tr. 689).

Phụ nữ là một nửa lực lượng cách mạng thể hiện qua vai trò, tầm quan trọng và công sức mà họ đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trên bất kỳ một lĩnh vực nào, một công việc nào dù lớn lao hay nhỏ bé cũng đều có sự góp mặt của phụ nữ. Họ tham gia với thái độ hăng hái, nhiệt tình cách mạng và với tấm lòng yêu nước sâu sắc. Cách mạng không thể thành công nếu không biết đoàn kết toàn dân, tập hợp lực lượng đông đảo để cùng chung sức làm cách mạng. Do đó, có thể thấy vai trò to lớn và sức ảnh hưởng mạnh mẽ của phụ nữ đối với sự thắng lợi của cách mạng nước ta. Hay nói một cách khác, phụ nữ làm nên một nửa thắng lợi của cách mạng.

Phụ nữ không chỉ là lực lượng đấu tranh vũ trang mà còn là lực lượng đấu tranh chính trị đông đảo. Sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân và quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Phụ nữ là lực lượng quần chúng to lớn bổ sung cho lực lượng cách mạng đóng góp vào thắng lợi của cách mạng. Đối với dân tộc ta, lịch sử đã chứng minh rằng, phụ nữ với lòng yêu nước nồng nàn của họ là nhân tố rất quan trọng cho cách mạng thành công. Trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của người phụ nữ, của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng phụ nữ không chỉ là lực lượng đấu tranh vũ trang mà còn là lực lượng đấu tranh chính trị đông đảo.

Là lực lượng đấu tranh vũ trang, phụ nữ đã trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu đánh đuổi quân thù . Những đội du kích toàn là phụ nữ đã góp phần tạo nên những chiến công vẻ vang của dân tộc. Trong lễ kỉ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (19/10/1966), Hồ Chí Minh đã khẳng định:" Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam - Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta. Trong thời kỳ cách mạng hoạt động bí mật và trong những năm kháng chiến chống Thực dân Pháp và bè lũ can thiệp Mỹ, phụ nữ ta đều có công lao to lớn ". Người rất cảm kích trước những tấm gương ngoan cường của phụ nữ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc như các chị: Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Út Tịch, Nguyễn Thị Định, Tạ Thị Kiều.. những người đã góp phần to lớn vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Tại lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam (25/3/1966/), Hồ Chí Minh đã nêu những tấm gương anh dũng:" Chúng ta có những thanh niên gan dạ, trung thành như Trần Thị Lý bị địch đánh khảo chết đi sống lại bao nhiêu lần. Nhữ Nguyễn Thị Châu suốt 1.300 ngày bị địch dùng cực hình tra tấn. Nhưng các cháu ấy kiên quyết không khuất phục kẻ thù, một lòng một dạ trung thành với Đảng. "(Tập 12, tr 65) ; đó là" cháu Nguyễn Thị Xuân, 19 tuổi, ở tỉnh Quảng Bình, một mình dùng súng bộ binh với hơn 20 viên đạn, đã bắn rơi máy bay phản lực của Mỹ. "(Tập 12, tr 322). Với những chiến công ấy, Người đã viết tặng các nữ chiến sỹ ta:

" Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường,

Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường,

Bác khen các cháu dân quân gái,

Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương. "

(Thơ tặng 11 cô gái sông Hương, tháng 12/1968).
[/COLOR]

[COLOR=rgb(0, 0, 0) ]Là lực lượng cách mạng trong đấu tranh chính trị, phụ nữ đồng tâm hiệp lực với quần chúng đúc thành bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc, dù kẻ thù hung tàn đến đâu nhưng đụng đến bức tường đó đều phải thất bại. Không những trực tiếp cầm súng mà phụ nữ bằng những hành động thiết thực đã góp phần to lớn vào hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Người đánh giá rất cao tinh thần nghị lực của các mẹ, các chị, những người đã hi sinh tình riêng, động viên các con tòng quân chiến đấu, còn bản thân mình trở thành cơ sở trung kiên của cách mạng, một lòng trung thành, che giấu bảo vệ cán bộ. Trong Bài nói tại Hội nghị phụ nữ lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua toàn thành phố Hà Nội lần thứ hai, Người nói:" Thời kỳ bí mật, nhiều chị em đã giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng rất dũng cảm, mặc dầu muôn ngàn nguy hiểm, gian khổ. Rất nhiều chị em khác cũng đã bảo vệ cách mạng rất gan góc.. Thời kỳ kháng chiến, ngoài những đội du kích rất anh dũng đánh địch còn có các bà mẹ rất hiền từ tổ chức nhau lại thành hội các bà mẹ chiến sĩ, giúp đỡ bộ đội đánh giặc, giúp đỡ, an ủi thương binh. Trong các chiến dịch, phụ nữ đi dân công, tải lương thực, đạn dược, làm đường. V. V. Rất đông; 2/3 số dân công là phụ nữ. Mặc dù bị máy bay địch theo dõi thả bom dữ dội, những chị em vẫn vui vẻ ca hát, động viên nhau làm tròn nhiệm vụ."(Tập 10, tr 87). Chính đội quân chính trị đông đảo này đã cổ vũ những trai tráng đi vào bộ đội, đã thay thế công việc cho nam giới.. Có thể nói bất kỳ việc gì nặng nhọc mấy họ cũng làm được.[/COLOR]

[COLOR=rgb(0, 0, 0) ]- Còn tiếp -[/COLOR]
 
Last edited by a moderator:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.1 Vai trò của phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

1.1. 3 Vai trò của phụ nữ trong quá trình tăng gia, sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Phụ nữ là lực lượng to lớn sản xuất ra của cải vật chất. Nước ta là một nông nghiệp với nền sản xuất nhỏ, thấp kém. Để đấu tranh chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước thì yếu tố quan trọng không thể thiếu đó là đảm bảo về mặt vật chất cho cuộc kháng chiến. Hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho nền kinh tế của nước ta kiệt quệ. Để cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi thì chúng ta cần có tiềm lực về vật chất và tinh thần. Vấn đề cấp bách đặt ra lúc này là làm sao sản xuất được nhiều của cải vật chất để phục vụ cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động phong trào thi đua ái quốc nhằm "diệt giặc đói, diệt giặc dốt", phong trào được toàn dân hưởng ứng sôi nổi. Người đặc biệt chú ý đến lực lượng của phụ nữ, một lực lượng đông đảo đã tích cực tham gia sản xuất của cải vật chất. Họ đã đảm nhiệm công tác hậu phương thay thế cho nam giới ra tiền tuyến. "Phong trào phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm", vừa nhằm tự cấp tự túc về mọi mặt vừa đóng góp phục vụ kháng chiến.

Phụ nữ là lực lượng to lớn trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và họ đã thực hiện tốt nhiệm vụ đó trong những điều kiện vô cùng khó khăn: Thiên tai địch họa xảy ra liên tiếp, sự tàn phá của chiến tranh, sự chống phá của kẻ thù. Phụ nữ là một nửa lực lượng của cách mạng không chỉ đứng lên cầm súng, cầm giáo, giương mác đánh giặc mà còn là một hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn mạnh. Vẫn là những công việc mà ngày thường chị em thường làm ở quê nhà trong thời bình, nhưng trong cuộc chiến khốc liệt giành độc lập tự do cho Tổ quốc thì bất kỳ một công việc dù nhỏ thế nào cũng trở thành một nhân tố góp phần thúc đẩy sự thành công của cách mạng. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc được giải phóng hoàn toàn bắt đầu bước vào thời kỳ cải tạo và bước đầu xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Nhiệm vụ trọng yếu của miền Bắc lúc này là sản xuất của cải vật chất xây dựng đất nước và quan trọng nhất là làm tròn nhiệm vụ "hậu phương lớn" chi viện cho miền Nam. Trong lời căn dặn chị em phụ nữ thủ đô 18/10/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Chị em phụ nữ cố gắng thi đua tăng gia sản xuất; thực hiện tiết kiệm góp phần xây dựng Chủ nghĩa Xã hội tại miền Bắc, đấu tranh giành thống nhất Tổ Quốc. Phụ nữ công nhân cần tích cực tham gia quản lý thật tốt, nhà máy, công trường. Phụ nữ nông dân cần hăng hái tham gia phong trào đổi công, hợp tác, gặt tốt vụ mùa, chuẩn bị tốt vụ chiêm năm tới" (tập 9, trang 238). Với vai trò là lực lượng quan trọng và những đóng góp to lớn của phụ nữ ta trong việc sản xuất ra của vật chất đã góp phần cùng với các lực lượng cách mạng khác thúc đẩy cuộc kháng chiến của dân tộc ta nhanh đến thắng lợi hoàn toàn.

Người phụ nữ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất những của cái phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, phục vụ kháng chiến, góp phần mang lại thắng lợi cho cách mạng. Họ còn giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng đời sống tinh thần phong phú đa dạng của xã hội.

Trong chiến tranh, họ là nguồn động viên cổ vũ to lớn đối với bản thân những người chồng, người cha, người anh tham gia chiến đấu. Họ là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần cho những người chiến sỹ khi đối mặt với quân thù. Cùng với việc sản xuất của cải vật chất nhằm phục vụ bộ đội "ăn no đánh thắng" họ còn tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng, gắn liền với bản sắc của mỗi vùng quê trên đất nước và mang đậm tính nhân văn toàn dân tộc.

Những giá trị ấy theo chân các anh ra trận, tạo thành động lực to lớn thôi thúc ý chí giết giặc bảo vệ quê hương của các anh.

- Còn tiếp -
 
Last edited by a moderator:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.1 Vai trò của phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh

1.1. 4 Vai trò phụ nữ trong gia đình và trong quá trình duy trì nòi giống.


Chiến tranh xảy ra, người đàn ông ra trận, người phụ nữ đóng vai trò quyết định trong lao động sản xuất phục vụ chiến đấu, và hơn hết, họ đảm trách vai trò người vợ, người chị, người mẹ chăm lo cho gia đình, những đứa con và yên lòng những người trai ra trận. Chính họ đã thắp sáng mỗi ngôi nhà bằng ngọn lửa của sự yêu thương, chăm sóc, tận tâm tận lực vì chồng vì con, vì quê hương, vì Tổ Quốc. Họ là một phần không thể thiếu của "hậu phương lớn" trong kháng chiến, sự ấm áp của mỗi ngôi nhà mỗi bản làng dưới bàn tay người phụ nữ chính là yếu tố khơi dậy ý chí giết giặc của nam giới, khơi dậy khao khát hòa bình, độc lập, hạnh phúc trong mỗi con người, thúc đẩy sự thắng lợi của cách mạng.

Không thể phủ nhận hình ảnh những chị Hai, anh Cả ngồi tựa mạn thuyền đối đáp quan họ, hình ảnh người con gái sông Hương với câu hò sứ nghệ đằm thắm dịu dàng, hình ảnh những chị Hai, chị Ba sải con sào trên dòng kênh hát những khúc dân ca.. là những hình ảnh sống động nhất, đẹp đẽ nhất trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh. Những giá trị văn hóa dân gian ấy được truyền qua nhiều thế hệ, đã đi vào tiềm thức của bao lớp người ra trận, như một chỗ dựa tinh thần vững chắc, một nguồn cổ vũ lớn lao trước mỗi trận đánh; là hình ảnh của một Việt Nam anh hùng, dũng cảm, kiên gan, bền chí và luôn luôn lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng.

Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt những năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước vẫn luôn mang trong trái tim mình hình ảnh người mẹ, người chị bên khung cửu với những câu dân ca, những lời ru ầu ơ thắm đượm tình quê hương, tình cảm gia đình, cho đến cuối đời, nằm trên giường bệnh Người vẫn khao khát một điệu hò quê hương, một khúc hát dặm quê nhà.

Trong thời bình người phụ nữ càng chứng tỏ vai trò không thể thiếu của mình trong việc xây dựng đời sống tinh thần của mỗi gia đình, họ còn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa hướng tới một đời sống tinh thần phong phú, đa dạng.

Từ chỗ là nguồn động viên cổ vũ tinh thần cho chồng con, họ trở thành nguồn động viên cổ vũ tinh thần cho toàn xã hội. Bên cạnh việc giữ gìn hạnh phúc gia đình, thực hiện thiên chức làm mẹ, tạo không khí ấm áp trong gia đình, nuôi dạy con cái, người phụ nữ dần tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Họ tham gia vào các lĩnh vực sáng tạo ra những giá trị tinh thần cho xã hội: Văn hóa nghệ thuật, hội họa, nấu ăn.. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tặng cho phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: "Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang" chính bởi vì họ không chỉ là lực lượng trực tiếp đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị trong cách mạng, không chỉ là lực lượng trọng yếu sản xuất ra của cải phục vụ kháng chiến và xây dựng nước nhà, họ còn là lực lượng đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng đời sống tinh thần cho toàn xã hội, là người "giữ lửa" cho hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi bản làng, cho ấm no của cả đất nước.

Có thể nói, trên cả hai lĩnh vực đời sống vất chất và đời sống tinh thần, người phụ nữ đều thể hiện vai trò quan trọng của mình. Họ trực tiếp sản xuất của cải phục vụ xã hội đồng thời là nguồn cổ vũ động viên tinh thần vô cùng lớn của toàn xã hội.

- Còn tiếp -
 
Last edited by a moderator:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

Giải phóng phụ nữ, vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự đóng góp to lớn của đông đảo chị em phụ nữ. Phụ nữ đã lao động, học tập, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu vấn đề giải phóng phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng nhằm khai thác mọi khả năng của tất cả chị em phụ nữ vào quá trình xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.

Giải phóng phụ nữ được xem là sự phá vỡ các khuân mẫu không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Các khuôn mẫu về giới, các đặc tính liên quan đến nam giới và phụ nữ thường được công thức hóa thành những định kiến xã hội rằng tất cả nam giới nên mang những đặc tính của đàn ông và phụ nữ lên mang các đặc tính của đàn bà. Chẳng hạn, ở rất nhiều nền văn hóa, nam giới thường được đồng nghĩa với khỏe mạnh, nhanh nhẹ, quyết đoán.. trong khi phụ nữ thường được đồng nghĩa với sự thụ động, yếu đuối, ngoan ngoãn.. Những người cùng phái này thể hiện đặc tính của phái kia thường bị phê bình và giễu cợt. Các khuân mẫu về Giới ở hầu khắp các xã hội đều cho rằng nam giới thường có các năng lực và phẩm chất nghề nghiệp cao hơn phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ làm việc trong các ngành nghề được cho là dành cho nam giới thường rơi vào hoàn cảnh bất lợi. Ngoài ra, các tính cách như quyết đoán, mạnh bạo.. ở nam giới thì được đánh giá cao, còn ở phụ nữ thì bị xem là "kẻ cả, hách dịch".

Các khuân mẫu về Giới có ảnh hưởng lớn đến sự nhìn nhận, đánh giá của chúng ta về bản thân cũng như ảnh hưởng đến suy nghĩ của người khác về chúng ta. Phụ nữ có xu hướng bị tác động tiêu cực bởi sự nhìn nhận, đánh giá của cả hai phía – bản thân họ và những người khác – và những điều đó thường làm hạn chế sự tự tin và các cơ hội lựa chọn nghề nghiệp, hành vi của họ. Những nhìn nhận, đánh giá dựa trên các khuân mẫu so sẵn về Giới làm cho phụ nữ bị hạn chế về vai trò khi họ tham gia vào các hoạt động, nghề nghiệp cả truyền thống và không truyền thống. Chẳng hạn, dù rất nhiều phụ nữ là nông dân, nhưng các chương trình khuyến nông lại thường chỉ nhằm vào đối tượng nam giới. Hoặc có ý kiến cho rằng, những người phụ nữ ở nhà chăm sóc con cái và làm những công việc nội trợ sẽ có rất nhiều thời gian để tham gia vào các hoạt động xã hội, nhưng trên thực tế họ bị đè nặng bởi công việc nên không thể tham gia vào các hoạt động đó.

Những điều vừa nêu trên đã dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ. Sự phân biệt đối xử với phụ nữ được hiểu là: Bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính mà có tác động hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ được công nhận, hưởng thụ, hay thực hiện các quyền con người và các tự do cơ bản trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự hay bất kỳ lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình đẳng nam nữ, bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế nào. Sự kỳ thị phân biệt đối với phụ nữ đã đặt ra đòi hỏi bức thiết phải giải phóng phụ nữ. Các quốc gia dân tộc phải có những động thái để công cuộc giải phóng phụ nữ có được những điều kiện thuận lợi trong suốt tiến trình của nó.


Như vậy, giải phóng phụ nữ được hiểu là việc giành lại quyền bình đẳng cho phụ nữ trên mọi lĩnh vực một cách toàn diện. Cụ thể là: Bình đẳng cho phụ nữ trong đời sống chính trị, xã hội; bình đẳng về quốc tịch; bình đẳng về giáo dục; bình đẳng về lao động và việc làm; bình đẳng về chăm sóc sức khỏe; bình đẳng trong đời sống kinh tế, xã hội; bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ nông thôn; bình đẳng về tư cách pháp lý và trong quan hệ dân sự..

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ về cơ bản cũng bao gồm các nội dung về quyền bình đẳng của phụ nữ theo Công ước quốc tế về quyền con người. Người cho rằng giải phóng phụ nữ là một cuộc cách mạng gắn liền với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Giải phóng phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phải giành cho được các quyền của phụ nữ như: Quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ công hòa đã khẳng định rõ: "Phụ nữ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình"; "Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và viên chức được nghỉ để trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi này của bà mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ" 1 . Hồ Chí Minh yêu cầu: "Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động của phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để tham gia sản xuất được tốt" 2 . Và phụ nữ có quyền bình đẳng trong hôn nhân và gia đình, điều này thể hiện cụ thể trong "Luật hôn nhân và gia đình" năm 1959. Giải phóng phụ nữ là công việc của toàn Đảng, toàn xã hội và của nhân dân, giải phóng đàn bà đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông; phụ nữ còn phải được học văn hóa, được giáo dục – đào tạo thành những công dân xã hội chủ nghĩa. Giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong sự nghiệp giải phóng của cách mạng.

1 . Sđd. T10, tr225

2 . Sđd. T12, tr194

- Còn tiếp -
 
Last edited by a moderator:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

1.2. 1 Phụ nữ là mục tiêu trong sự nghiệp giải phóng của cách mạng


1.2. 1.1 Hồ Chí Minh tố cáo chính sách tàn bạo của kẻ thù đối với phụ nữ

[DOWN]
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong sự nuôi dưỡng của tấm lòng người mẹ nghèo nhưng đảm đang, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con, từ đó Người đã hình thành cái nhìn tôn kính với người phụ nữ từ rất sớm. Hình ảnh người mẹ tảo tần khuya sớm đong đầy trong trái tim Người những nỗi xúc cảm, thương xót với thân phận của người phụ nữ trong xã hội. Từ đó, Người đã không ngừng nghiên cứu, trau dồi thêm cho mình những hiểu biết về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong lịch sử nước nhà và nhân loại. Càng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu Người càng thêm cảm phục những nữ anh hùng vì nước, vì dân. Càng cảm phục họ, Người càng thương xót, phẫn nộ hơn cho những thân phận phụ nữ bị đọa đày, dày xéo dưới gót giày thực dân, đế quốc. Toàn thể nhân dân Việt Nam bị áp bức, bóc lột mà ở đó phụ nữ không những bị áp bức về dân tộc, về giai cấp mà còn bị giáo lý phong kiến kìm hãm, trói buộc, nhưng tiềm ẩn ở họ tinh thần đấu tranh cách mạng đã nói lên tiếng nói của mình thể hiện sự bất bình với những tội ác tày trời, vô liêm sỉ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ phong kiến tay sai.

Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng đồng thời thấu hiểu được nỗi thống khổ của phụ nữ ở các nước thuộc địa. Mỗi tiếng nói tố cáo của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sự thương cảm với thân phận người phụ nữ, sự đồng cảm sâu sắc của kiếp người nô lệ, phụ thuộc mà còn gay gắt lên án nền thống trị bạo tàn, chính sách khai hóa dã man, nguyên thủy của thực dân, đế quốc. Người ta có thể thấy nỗi thống khổ của "một bộ tộc ở Băngghi không thể cung cấp được đủ số cao su cho đồn điền. Đồn điền này muốn buộc họ phải nộp cho đủ số thiếu, liền bắt 58 phụ nữ và 10 trẻ em giữ làm con tin. Những con tin này bị nhốt vào chỗ thiếu không khí, thiếu ánh sáng, thiếu ăn và ngay cả nước uống cũng thiếu nữa. Thỉnh thoảng người ta lại đến đánh đập họ. Theo thực dân nói thì tiếng kêu la của họ dùng để thôi thúc công việc. Sau ba tuần chịu đau đớn khốc liệt, 58 phụ nữ và 2 trẻ em chết" 1 . Chế độ thực dân và chính sách khai hóa của nó đã đem cái chết gieo giắc khắp nơi, từ chính quốc đến thuộc địa; nông thôn, đến thành thị; từ trong những xưởng sản xuất, những hầm mỏ, những đồn điền đến từng ngôi làng, từng nóc nhà.

Trực tiếp chứng kiến tội ác của nền khai hóa đó, trong tác phẩm "Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của người Pháp", Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa" 2 . Trong khi phụ nữ là lực lượng chiếm phân nửa xã hội, họ là lao động chính, lao động thường xuyên của xã hội thì họ lại là thành phần bị xã hội coi khinh, rẻ rúng. Xã hội phong kiến thì quàng lên cổ người phụ nữ quan niệm "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", những tư tưởng kiểu "duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc bất oán" (Chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó nuôi dạy, gần thì sinh nhờn, mà xa thì oán). Tổng kết lịch sử nhân loại qua cái nhìn biện chứng khoa học của Chủ nghĩa Mác thì: Trong lịch sử nhân loại không có một phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia. Bởi lẽ phụ nữ lao động là những người bị áp bức, bóc lột nhất trong tất cả những người bị áp bức, bóc lột. Người đã phân tích kỹ trên cả ba mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của sự bóc lột tàn bạo này.

Thứ nhất, về kinh tế:

Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để đánh chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Chúng đã kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, phụ nữ cũng giống như các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội Việt Nam, phải chịu cảnh "một cổ hai tròng" áp bức, bóc lột, cuộc sống lầm than, vô cùng cơ cực.

Để làm giàu cho chính quốc, thì sử dụng và áp bức phụ nữ là một trong những thủ đoạn thâm hiểm và ác độc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Trong tác phẩm "Văn minh tư bản chủ nghĩa và phụ nữ ở các thuộc địa", Người tố cáo:

"Còn thảm thương hơn nữa là số phận của phụ nữ và trẻ em làm thuê trong những công việc nặng nhọc như làm than và làm việc trong các hầm mỏ. Trong các nước bị chiếm đó, không có luật hay sự hạn chế nào để kiềm chế bớt bọn bóc lột. Những người thợ bản xứ bị coi như xúc vật. Người ta chỉ cho họ những gì vừa đủ để khỏi chết đói. Người ta dùng roi để thúc họ đi. Không có bảo hộ lao động, không có bồi thường tai nạn. Người ta thấy lại trong các thuộc đia đó tất cả hệ thống phong kiến trung cổ và dã man của chủ nghĩa tư bản" 1 .

Có thể thấy rõ, dưới sự đô hộ của thực dân, đế quốc cùng với chính sách "khai hóa" văn minh của chúng, phụ nữ ở các nước thuộc địa đã phải chịu những áp bức, bóc lột nặng nề. Họ bị đối xử như những con vật, những cỗ máy biết nói, không có một sự bảo đảm nào cho mạng sống của chính họ, không quyền tự do, không lợi ích kinh tế và không thể quyết định số phận của chính bản thân mình. Kết quả của sự "khai hóa" đầy "văn minh" đó là những con số vô cùng thảm khốc "40% vô sản hầm mỏ là phụ nữ và trẻ em, chúng ta có thể kết luận rằng, trong thời gian 10 năm, không dưới 2.200 phụ nữ và trẻ em Ấn Độ đã phải hy sinh trên bàn thờ của chủ nghĩa tư bản đi khai hóa"; "các ngành sản xuất chủ yếu là: Vải sợi, lụa và thuốc lá. Số công nhân làm việc trong các ngành này lên đến 200.000 người, trong đó 50% là phụ nữ và trẻ em. Tiền công của 2 loại công nhân này rất thấp, từ 10-20 xu/ ngày. Độ dài của ngày lao động là từ 12 giờ đến 13 giờ" 1 .

Cái ơn "khai hóa" không chỉ được bộc lộ trực tiếp trên thân thể của những người dân thuộc địa và sức lao động của họ, nó còn đục khoét tới tận túi tiền vốn không đầy đặn bao giờ của người nông dân "thuế má nặng nề không phải chỉ đánh vào ruộng đất, vào súc vật và vào nam giới mà thôi, mà cái ơn mưa móc ấy còn tưới rộng ra cho cả nữ giới nữa: Nhiều phụ nữ bản xứ khốn khổ, phải mang nặng gồng xiềng chỉ vì cái tội là không nộp thuế" 2 . Bằng chính sách thuế khóa nặng nề, bằng sự bóc lột vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã đẩy số phận của người phụ nữ đến tận cùng của nỗi thống khổ.

Nguyễn Ái Quốc quyết liệt lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, trực tiếp là thực dân Pháp và chính sách khai hóa văn minh của chúng. Những điều tai nghe, mắt thấy được Người phản ánh xác thực và rõ ràng, kiên định chắc chắn, đầy sự cảm thông, thương xót nhưng không thiếu sự phẫn nộ và lòng hận thù. Những lời tố cáo đó đôi khi lên tới đỉnh điểm của lòng bác ái, của lòng căm thù, phẫn nộ đối với chế độ thực dân tàn ác, nó biến thành những lời kêu gọi, hiệu triệu "Ôi! Hỡi những người mẹ, những người vợ, những người phụ nữ Pháp, chị em nghĩ gì về tình trạng đó? Và các bạn những người con, những người chồng, những anh em người Pháp nữa? Có phải đó là phép lịch sự của người Pháp đã bị" thực dân hóa "đi không nhỉ?" 3 tác động trực tiếp tới suy nghĩ, lòng trắc ẩn của người nghe, khuyến khích họ nhận thức chính xác hơn, đúng đắn hơn về sự thực nền khai hóa của thực dân, đế quốc.

Thứ hai, về chính trị - Xã hội

Thực dân, phong kiến tiến hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong biển máu. "Sự thật là người Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, đi lại đều bị cấm.. Việc có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại" 1 .

Thời kỳ thực dân Pháp vào "khai hóa" nước ta, mặc dù núp dưới khẩu hiệu "Tự do, bình đẳng, bác ái" nhưng thân phận người phụ nữ lại càng cùng cực hơn. Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên thực trạng đó: "Dưới chế độ phong kiến và thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì phụ nữ bị xem khinh như nô lệ. Ở gia đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích" tam tòng "2 . Người còn lên án đanh thép tội ác của kẻ xâm lược:" Người ta nói: "Chế độ thực dân là chế độ ăn cướp". Chúng tôi xin nói thêm: Chế độ hãm hiếp đàn bà và giết người "3 .

Tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc gieo rắc trên các thuộc địa và trên thân thể của người phụ nữ không chỉ dừng lại ở bóc lột sức lao động của họ, ở chính sách thuế má để làm lợi cho kinh tế chính quốc. Cùng với sự bóc lột về kinh tế, chúng còn kìm hãm, triệt tiêu đời sống chính trị và nhận thức văn hóa của họ. Mục đích cuối cùng là cướp đi quyền tự do, tiếng nói dân chủ công bằng (những phạm trù mà có thể họ chưa bao giờ được tiếp xúc trong đời nô lệ phụ thuộc của mình), là sự nô dịch về văn hóa, sự phân biệt đối xử, sự kì thị dân tộc ở bất cứ đâu, nơi chủ nghĩa thực dân thống trị hay đặt sự bảo hộ của mình:" Ở Hoa Thịnh Đốn, cái tệ chia rẽ màu da rất trắng trợn. Vài thí dụ: . Một phụ nữ đau đẻ nhưng nhà hộ sinh nhận hộ sinh gần bên nhất định không nhận. Bà ấy phải đẻ ở bên đường. Ở thủ đô có nghĩa địa riêng dành cho người da trắng, riêng cho người da đen, và riêng cho con chó "[1] . Vậy là đâu đó, dưới ánh sáng của Nữ thần tự do sinh mạng con người lại không đáng giá bằng một con vật?

Thứ ba , về văn hóa

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945:" Để đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để "[2] . Do chính sách ngu dân của thực dân, phong kiến nền văn hóa nghệ thuật dân tộc Việt Nam chưa có sự bình đẳng giữa các giá trị. Đặc biệt là phụ nữ, luôn chịu sự trà đạp lên nhân phẩm, danh dự.. Bọn phong kiến, tư bản, chúng đã dùng nhiều chính sách tàn bạo để kìm hãm sự phát triển văn hóa, nghệ thuật của chị em phụ nữ. Thực dân, phong kiến đã thi hành chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách" ngu để trị "một cách triệt để. Chúng đã sử dụng mọi thủ đoạn thâm độc để đạt được mục tiêu làm cho nhân dân An Nam thanh những người" An Nam mít "Nguyễn Ái Quốc đã bất bình nói rằng:" Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối dân ta và bóc lột dân ta. Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được? "[3] .

Trong" Tuyên ngôn độc lập "khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có đoạn viết:" Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận thi hành chính sách ngu dân "[4] .

Chủ nghĩa thực dân cùng với" chính sách khai hóa văn minh "của mình, đã thể hiện một cách quyết liệt cho những người dân nơi chúng đặt chân tới thấy sức mạnh của văn minh khai hóa, bằng cách này hay cách khác, chúng luôn bắt đầu sứ mệnh" khai hóa "tàn ác của mình từ phụ nữ, người già và trẻ em. Có thể là" Trên đám đất bằng phẳng trước kia là ruộng muối, ba cái xác chết nằm đó: Một em bé bị lột trần, một thiếu nữ ruột gan lòi ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình, một xác cụ già ghê rợn khủng khiếp, thân thể trần truồng, mặt mũi cháy không còn nhận ra được nữ "; hay" Một viên quan hai có nhiều vợ đã quật ngã một thiếu phụ An Nam và dùng gậy song đánh chị đến chết chỉ vì chị không chịu làm vợ lẽ hắn.. Một sĩ quan khác hiếp một em bé bằng những cách dâm bạo vô cùng ghê tởm. Bị truy tố trước tòa đại hình, hắn được trắng án, chỉ vì nạn nhân là người An Nam "1 . Sự độc ác, tàn nhẫn và thói dâm bạo thực dân không phải là điều được quy định trong chính sách khai hóa nhưng" là hiện tượng phổ biến ". Vì lẽ đó, nó được chấp nhận và buộc phải chập nhận ở khắp nơi, ở chính quốc hay ở thuộc địa" Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga "2 .

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam nói chung, với số phận của người phụ nữ nói riêng là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịc về văn hóa, giáo dục, chứ không phải đem đến một sự" khai hóa văn minh "- một sự khai hóa và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây cho dân tộc Việt Nam. Bản chất của" sứ mệnh khai hóa "đó chính là sự khai thác thuộc địa; áp bức, bóc lột và trà đạp đạp lên số phận của người phụ nữ diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém.. Hồ Chí Minh từng nói về" nhà khai hóa "như sau:" Khi người ta đã là một nhà khai hóa thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất "3 . Và nếu người phụ nữ cùng các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hóa" điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hóa nhân từ là như thế đấy!"1 . Vì vậy, giải phóng phụ nữ nói riêng, dân tộc nói chung chính là mục tiêu của cách mạng.

1 . Sđd. T1, tr 325-326

2 . Sđd. T1, tr96

1 . Sđd. T2, tr134

1 . Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc, Sđd. T2, tr390

2 . Bản án chế độ thực dân Pháp, Sđd. T2, tr105

3 . Sđd. T2, tr112

1 . Sđd. T2, tr92

2 . Sđd. T4, tr661

3 . Sđd. T5, tr618

[1] Xã hội văn hóa Mỹ, Sđd. T6, tr324

[2] Sđd. T6, tr97

[3] Chống nạn thất học, Sđd. T4, tr36-37

[4] Hồ Chí Minh toàn tập. T3, tr555

1 . Bản án chế độ thực dân Pháp, Sđd. T2, tr112

2 . Sđd. T2, tr105

3 . Sđd. T2, tr56

1 . Sđd. T2, tr115
[/DOWN]


- Còn tiếp -
 
Chỉnh sửa cuối:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

1.2. 1 Phụ nữ là mục tiêu trong sự nghiệp giải phóng của cách mạng

1.2. 1.2 Mục tiêu giải phóng phụ nữ là giải phóng một cách toàn diện


[DOWN]
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã có ý định đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc không chỉ mang hoài bão cứu nước, mang lại nền hòa bình, tự do cho dân tộc và cho toàn thể nhân loại mà còn có những suy nghĩ về thân phận người phụ nữ và công cuộc giải phóng phụ nữ - lớp người trong những thời kỳ lịch sử trước đây không được coi là một phần của xã hội, là thành phần không đáng để tâm, bị xem thường, bị trói buộc trong vòng lễ giáo, khuân phép phong kiến, bị kìm kẹp, hành hạ, áp bức dưới đòn roi của bọn thực dân, đế quốc. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng, ở đâu người dân mất nước cũng đau khổ và tủi nhục như nhau cả. Dưới chế độ thuộc địa, mọi quyền tự do, dân chủ của con người đều bị thủ tiêu. Nhân dân và chính bản thân Hồ Chí Minh càng bị đọa đầy bao nhiêu thì Người càng thấy ý nghĩa to lớn của hai chữ "tự do" bấy nhiêu. Theo Người: "Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do" 1 . Ách áp bức của đế quốc, thực dân ở thuộc địa càng tàn bạo thì người dân càng thấy "tự do" là giá trị vô cùng cao quý. Người đi đến khẳng định: " Không có gì quý hơn độc lập, tự do" 2, điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, tìm đến với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản do giai cấp công nhân lãnh đạo. Cuộc cách mạng vô sản có ý nghĩa vô cũng lớn lao, cách mạng vô sản thành công đã giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người một cách toàn diện và triệt để.

Giải phóng con người, vì con người là mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng vô sản, mà ở đó phụ nữ là trung tâm điểm. Có thể thấy, vị trí, vai trò của người phụ nữ là rất quan trọng, thể hiện ở cả vai trò duy trì nòi giống và cả trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội . Xuất phát từ vị trí, vai trò không thể thiếu và những đóng góp vô cùng quan trọng của mình trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ cần được giải phóng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.. Họ cần phát huy khả năng của mình một cách mạnh mẽ và công bằng trong các cuộc cách mạng và trước những biến đổi to lớn của nhân loại. Người đã từng nghiên cứu và rút ra kết luận: "Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia" 3 . Dù đang bôn ba nơi đất khách quê người để tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh vẫn luôn nhận thấy một nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là sự tham gia của phụ nữ: "An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công" 1 . Tại lễ kỷ niệm 36 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1966), Bác Hồ nói: " Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu dân cho đến nay, mỗi khi nước nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc" 2 . Trong Thư gửi phụ nữ nhân kỷ niệm chiến thắng của Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ 8/3/1952, Hồ Chí Minh cũng khẳng định: "Non sông gấm vóc nước Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ" 3 .

clip_image001.gif
Người khẳng định công cuộc 3 giải phóng và xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Và "Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ một nửa" 3 . Mỗi bước đi trên hành trình tìm đường cứu nước của Người, đều thể hiện niềm khát khao hòa bình cho dân tộc và cho nhân loại.

1 . Sđd. T3, tr332

2 . Sđd. T12, tr615

3 . Sđd. T2, tr228

1 . Sđd. T2, tr289

2 . Sdd. T12, tr148

3 . Sđd. T. 6, tr432

3 . Sđd. T 9, tr524
[/DOWN]

- Còn tiếp -
 
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

1.2. 1 Phụ nữ là mục tiêu trong sự nghiệp giải phóng của cách mạng


1.2. 1.3 Phấn đấu hướng tới bình đẳng giới cho phụ nữ

[DOWN]
Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu cụ thể của cuộc cách mạng vô sản là: "Phải kính trọng phụ nữ.. làm cách mệnh để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang nhau, trai gái đều ngang quyền như nhau" 4 . Hồ Chí Minh đã luôn luôn khẳng định mục tiêu nhất quán của cách mạng Việt Nam không chỉ là độc lập, tự do cho dân tộc, quyền của con người nói chung mà còn bao gồm cả việc giành quyền bình đẳng nam nữ. Sau này, người đề cập một cách cụ thể hơn về mục tiêu của công cuộc giải phóng phụ nữ là: "Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau" 5 . Tư tưởng của Người thấm đẫm tính nhân văn cao cả, ngời sáng tỏa ra từ một vị Cha già dân tộc, tỏa ra từ một danh nhân văn hóa trong trái tim các thế hệ người Việt Nam và nhân loại tiến bộ trên thế giới.

Từ xa xưa, nhiều truyền thuyết của dân tộc đã cho thấy sự hiện diện của chế độ mẫu hệ ở Việt Nam, như việc mô tả việc Bà Sao Cái dạy nhân dân trồng lúa nước, ca ngợi các nữ anh hùng dân tộc là Hai Bà Trưng và Bà Triệu.. Nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa cũng cho thấy, ảnh hưởng của các định kiến bất bình đẳng với phụ nữ của Nho giáo ở Việt Nam không nặng nề như ở Trung Quốc, Triều Tiên hay Nhật Bản.. Dẫn chứng sinh động cho nhận định này có thể tìm thấy trong bộ Quốc Triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) đời Hậu Lê. Mặc dù được ban hành cách đây mấy trăm năm, song Bộ luật nổi tiếng này đã thừa nhận quyền của phụ nữ được ly hôn, tái hôn, quyền thừa kế tài sản, quyền được chia tài sản chung trong hôn nhân.. không chỉ vậy, Bộ luật này còn có những quy định nhằm trừng trị tội gian dâm; tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; giảm án và hoãn thi hành án đối với phụ nữ có thai, đang nuôi con nhỏ (xem Quốc Triều Hình luật, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 1995).. Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù Việt Nam là một quốc gia Phương Đông song có nhiều nét đặc thù so với nhiều nước khác trong khu vực về truyền thống văn hóa, trong đó có vấn đề bình đẳng GIỚI. Ở mức độ nhất định, đó có thể coi là yếu tố thuận lợi cho việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp lý về quyền bình đẳng với phụ nữ ở nước ta sau này.

Thời kỳ thuộc Pháp là giai đoạn mà các quyền con người cơ bản của người dân Việt Nam, kể cả đàn ông lẫn phụ nữ đều bị tước bỏ. Bởi những đặc trưng về giới tính, phụ nữ còn phải chịu những hạn chế khắc nghiệt khác: Dưới chế độ thực dân, lao động cực nhọc, cướp bóc, nghèo đói và bệnh tật đã đẩy hầu hết phụ nữ vào tình trạng mù chữ và ngu dốt. Mặc dù ở thời kỳ này, do tác động của văn minh Thề giới vấn đề bình đẳng nam nữ đã được đề cập, với việc Phạm Quỳnh đưa một số môn học khoa học tự nhiên và xã hội như: Toán, Lịch sử, Văn học Việt Nam, Tiếng Pháp và một số môn học dành riêng cho phụ nữ như cắt may.. vào nhà trường. Tuy nhiên, số lượng phụ nữ được đi học chiếm tỷ lệ rất nhỏ, địa vị của phụ nữ hầu như chưa có sự cải thiện gì đáng kể so với thời phong kiến.

Cách mạng Việt Nam coi việc đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ như một mục tiêu quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 đã khẳng định mục tiêu đấu tranh cho nam nữ bình quyền. Cũng năm đó, Hội phụ nữ cứu quốc (tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam sau này) đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập trở thành một trong những tổ chức xã hội của phụ nữ lâu đời nhất trên Thế giới.

Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người nhận thấy rõ nguồn gốc căn nguyên của những bất công đối với phụ nữ. Đó là quan niệm phong kiến lỗi thời, là tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại và trở thành thói quen mấy nghìn năm trong các thế hệ người Việt Nam, "nó đã ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Để xóa bỏ những tư tưởng đó không phải là một sớm một chiều mà làm được, nó cần phải có thời gian và phải làm dần dần, trước hết từ nhận thức của từng người, từng gia đình, từng bản thân mỗi người phụ nữ.

Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra:" Cũng có một số người chưa thấy rõ vai trò của phụ nữ hiện nay cũng như sau này, nên còn tư tưởng xem thường khả năng của phụ nữ ". Hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, công cuộc giải phóng được tiến hành thành công nhằm một mục tiêu giành lại quyền cho mỗi con người, trong đó có quyền lợi của người phụ nữ, hay nói cách khác đó chính là quyền bình đẳng nam- nữ. Nhưng có thể thấy rằng, tư tưởng" trọng nam khinh nữ "đã ăn sâu bén rễ quá lâu trong suy nghĩ và tâm niệm của người Việt nên rất khó để thay đổi. Trong thời kỳ mới, cần có những con người mới với những lối tư suy và quan điểm mới. Tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ cũng không vì thế mà được nhìn nhận và đề cao hơn. Do đó, muốn tiến tới làm cuộc cách mạng về bình đẳng giới cần phải giáo dục từ ngay sự tự nhận thức trong mỗi người phụ nữ. Họ cần phải thấy được vai trò quan trọng của bản thân mình đối với xã hội, đối với sự phát triển đi lên của đất nước.

Để tiến hành cuộc cách mạng lớn lao trong quá trình giải phóng phụ nữ, theo Người không thể dùng vũ lực mà tranh đấu, hay dùng các biện pháp hành chính cưỡng bức mà có thể thực hiện được, mà cần phải thông qua các cuộc cách mạng tư tưởng, vận động giáo dục, phê phán và thuyết phục để xóa bỏ dần các tư tưởng lạc hậu đó, xây dựng những tư tưởng tiến bộ và tích cực.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:" Phải kính trọng phụ nữ, chúng ta làm cách mạng để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang nhau, trai gái đều ngang quyền như nhau ". Có nghĩa là, một trong những mục tiêu được đặt lên hàng đầu của cách mạng đó chính là việc giành quyền lợi cho toàn thể mỗi người dân Việt Nam, ai ai cũng được hưởng lợi ích của mình, trong đó người phụ nữ là đối tượng được chú trọng, ưu tiên hàng đầu. Bởi, phụ nữ là một nửa của xã hội, là lực lượng quan trọng của cách mạng, có họ mới có thành công của công cuộc giải phóng đất nước." Đàn bà con gái cũng nằm trong nhân dân. Nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại nếu dân tộc còn trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sẽ sống trong cảnh nô lệ đó thôi ". Giải phóng đất nước mà không giải phóng cho được quyền lợi của người phụ nữ, không đem lại sự bình quyền nam nữ thì cách mạng mới tiến hành được một nửa và không hề triệt để.

Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của việc đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp phụ nữ: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản, tiểu thương.. và tất cả phụ nữ có tinh thần cách mạng, có tinh thần yêu nước thương nòi thành một lực lượng thống nhất đấu tranh cho mục tiêu chung là độc lập, tự do của dân tộc, bình đẳng cho giới mình. Người đã nêu lên tấm gương của Bà Trưng để cổ vũ tinh thần cách mạng của chị em:" Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà, con gái còn biết kách mệnh. Huống chi bây giờ hai chữ "nữ quyền" đã rầm rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị em ơi! Mau đoàn kết lại! ". Trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do Người soạn thảo cũng đã nêu rõ:" Thực hiện nam nữ bình quyền ". Sau cách mạng tháng Tám thành công, tư tưởng đó của Người ghi trong Luận cương của Đảng đã được thể chế hóa sớm nhất trong Điều 09 Hiến pháp năm 1946:" Đàn bà ngang quyền với đàn ông ". Từ đó vấn đề bình đẳng giới được xã hội quan tâm và chú trọng hơn cả. Nó đã được thực hiện một cách sâu rộng trong quần chúng nhân dân cũng như trong chính nhận thức của từng phụ nữ. Trong vấn đề đoàn kết các tầng lớp chị em phụ nữ, Người đặc biệt lưu ý tới hoàn cảnh của những phụ nữ dân tộc thiểu số, vì họ là nạn nhân nặng nề nhất của những phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan. Người luôn dõi theo từng bước tiến bộ của họ và dặn dò:" Đảng ủy các cấp ở miền núi cần phải ra sức phát triển Đảng viên và Đoàn viên phụ nữ, cần phải đào tạo và giúp đỡ cán bộ phụ nữ các dân tộc. Đó là nhiệm vụ mà Trung ương và Bác giao cho các đồng chí phải làm tốt ". Người đã đề ra các biện pháp thiết thực trên từng lĩnh vực của đời sống nhằm nâng cao vai trò, quyền lợi của chị em phụ nữ. Khi người phụ nữ được bình đẳng một cách toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống thì họ mới có cơ hội phát triển để cống hiến tài năng, trí tuệ một cách bình đẳng như nam giới.

Trước hết, cần làm cho người phụ nữ bình đẳng về mặt chính trị. Có nghĩa là, người phụ nữ được trang bị về mặt lý luận, tổ chức sau đó là sự đảm bảo cho họ quyền tham gia các hoạt động chính trị (quyền bầu cử, quyền ứng cử) ; đồng thời, đảm bảo quyền ngôn luận, đi lại, cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật.. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ 03/09/1945, trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người đã nêu ra:" Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống.. "Những lời đề nghị của Người đã trở thành hiện thực khi lần đầu tiên trong lịch sử ngày 01/06/1946, phụ nữ nước ta thể hiện quyền công dân, quyền bình đẳng của mình thông qua việc đi bỏ phiếu. Trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, năm 1946, quan điểm bình đẳng giới của Người đã được quy định cụ thể. Trong Điều 09 quy định: Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện; trong Điều 18 quy định rõ về phương diện chính trị:" Tất cả các công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái đều có quyền ứng cử, bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.. ". Bản Hiến pháp thứ hai năm 1959 mà Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo cũng bổ sung về quyền bình đẳng của phụ nữ:" Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc tòa án nhân dân tước quyền đó ". Có thể thấy rằng, chính trị là lĩnh vực thể hiện rõ nhất quyền lợi của mỗi người phụ nữ, nếu họ không có quyền công dân tối thiểu trong việc góp phần ổn định về mặt chính trị tức là họ chưa có quyền tự do, quyền bình đẳng và lợi ích, trách nhiệm như nam giới đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Và điều đó đã được chứng minh qua các thể chế, Hiến pháp cũng như những điều luật của Nhà nước, của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Một đất nước muốn phát triển phải dựa trên một nền kinh tế phát triển. Để làm được điều đó yêu cầu mỗi người công dân trong đất nước đó đều phải tham gia sản xuất, đóng góp vào nền kinh tế nước nhà. Muốn người phụ nữ có quyền bình đẳng cho giới của họ thì việc quan trọng là xã hội phải tạo sự bình đẳng về mặt kinh tế cho phụ nữ. Có nghĩa là tạo ra cơ hội cho người phụ nữ có việc làm, có thu nhập như nam giới, bình đẳng với nam giới trong quan hệ tài sản.. Điều đó được khẳng định trong Điều 05 Hiến pháp năm 1946:" Tất cả mọi công dân đều ngang quyền về kinh tế "và Điều 07:" Quyền tư hữu tài sản được đảm bảo ".

Bình đẳng về mặt kinh tế cho người phụ nữ được thể hiện rõ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhất là trong công cuộc tiến hành cải cách ruộng đất do Người trực tiếp chỉ đạo, đã nhấn mạnh rằng:" Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng gia sản xuất cho thật nhiều. Muốn có nhiều sức lao động, thì phải giải phóng sức lao động phụ nữ ". Điều đó sẽ xác định quyền bình đẳng của người phụ nữ, xóa bỏ mọi ràng buộc phong kiến, tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia bình đẳng với nam giới.

Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh nói:" Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu ". Chính vì thế, sau cách mạng tháng Tám, Người đã phát động chiến dịch diệt giặc dốt để xóa bỏ tình trạng dốt nát của nhân dân. Bởi theo Người, sự dốt nát còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Trong Lời kêu gọi chống nạn thất học tháng 10/1945 Người nói rõ:" Mọi người Việt Nam phải hiểu rõ quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới, có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ "." Phụ nữ lại cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc chị em phải cố gắng để theo kịp nam giới, để xứng đáng moinhf là phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử ". Người đã nhấn mạnh chị em phụ nữ cần phải nâng cao trình độ văn hóa để từ đó tự tin vươn lên làm chủ về mọi mặt một cách vững chắc. Thoát khỏi sự lệ thuộc của những tư tưởng phong kiến hà khắc. Những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu, sai lầm trói buộc và từ đó người phụ nữ có điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ cho đất nước. Những vấn đề trên được cụ thể hóa trong Hiến pháp 1946 và Hiến Pháp 1959 đã bổ sung cụ thể ở Điều 24:" phụ nữ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền binh đẳng với nam giới về sinh hoạt văn hóa ", Điều 33:" Có quyền học tập ", Điều 34:" quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác ".

Trong lĩnh vực gia đình – xã hội, đó là lĩnh vực mà người phụ nữ gắn liền, gần gũi nhất và thể hiện rõ vai trò của mình trong gia đình. Hồ Chí Minh là người đã nhận rõ vai trò đó của người phụ nữ và thấy được những hạn chế của thực tế xã hội do tàn tích của lịch sử để lại vẫn còn tồn tại mà không thể xóa bỏ ngay được. Từ thực tế đó, Người chỉ ra rằng, muốn thực hiện bình đẳng nam nữ trước hết là phải giải phóng phụ nữ ra khỏi những trói buộc của tư tưởng" trọng nam khinh nữ ", ra khỏi sự bất công ngay trong gia đình họ. Để giải quyết vấn đề này, Người đã cùng các thành viên của Quốc hội soạn thảo ra Luật hôn nhân và gia đình, sau đó tuyên truyền rộng rãi cho toàn dân biết và cùng thực hiện nghiêm chỉnh đạo luật đó. Người còn quan niệm vai trò của phụ nữ trong xã hội được thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia đình. Vì gia đình là tế bào của xã hội." Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt ".

Nói tóm lại, vấn đề bình đẳng nam nữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam những vấn đề thực hiện bình đẳng nam nữ đã được đề ra và thực hiện một cách nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù vẫn còn tồn tại những tập quán lạc hậu, cổ hủ hàng nghìn năm của xã hội phong kiến không dễ gì xóa bỏ trong một sớm một chiều mà cần có một quá trình lâu dài và bền bỉ. Chính vì thế, việc thực hiện bình đẳng cho phụ nữ phải gắn với chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, những chính sách và pháp luật đó phải dựa trên thực tiễn, điều kiện, đặc điểm cụ thể của phụ nữ. Người luôn nhắc nhở:" Các cấp lãnh đạo đi sát hơn, thiết thực hơn, thì phong trào phụ nữ chắc rộng hơn, mạnh hơn nữa ". Việc thực hiện bình đẳng cho phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội mà còn là sự nghiệp của bản thân phụ nữ:" Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội ". Trước lúc đi xa, Người vẫn không quên nhắc nhở:" Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". Qua đó, ta có thể thấy được việc thực hiện quyền bình đẳng cho người phụ nữ có thành công hay không thì cần phải có sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, cùng với bản thân mỗi người phụ nữ sẽ làm nên một cuộc cách mạng to lớn, tiến bộ nhằm giải phóng hoàn toàn cho phụ nữ.

4 . Sđd. T12, tr195

5 . Sđd. T12, tr195
[/DOWN]

- Còn tiếp -
 
Chỉnh sửa cuối:
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ

1.2. 2 Phụ nữ là động lực của cách mạng

[DOWN]
Trong thời kỳ hoạt động bí mật, nhiều chị em đã giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng rất anh dũng, mặc vượt qua muôn ngàn gian khổ, khó khăn, nguy hiểm. Rất nhiều chị em khác cũng đã bảo vệ cách mạng rất gan góc. Thời ký đó căn cứ địa cách mạng của nước ta còn ở Việt Bắc, do đó đã có rất nhiều chị em, phụ nữ dân tộc thiểu số không những vượt qua gian nguy mà còn gạt cả mê tín để bảo vệ cách mạng và cán bộ hoạt động cách mạng.

Thời kỳ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những ví dụ để đánh giá một cách khái quát về động lực của phụ nữ trong cuộc cách mạng dân chủ nhân dân của Việt Nam, tiến lên làm chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu và chủ nghĩa cộng sản giai đoạn sau. Bác nói: "Ngoài những đội nữ du kích rất anh dũng đánh địch còn có các bà mẹ rất hiền từ tổ chức nhau lại thành hội các bà mẹ chiến sỹ, giúp đỡ bộ đội đánh giặc, giúp đỡ, an ủi thương binh. Trong các chiến dịch, phụ nữ đi dân công, tải lương thực, đạn dược, làm đường, v. V.. rất đông; 2/3 số dân công là phụ nữ. Mặc dầu, bị máy bay địch theo dõi thả bom dữ dội, nhưng chị em vẫn vui vẻ ca hát, động viên nhau làm tròn nhiệm vụ" 2 . Cách mạng tháng Tám thành công và sự thành lập chính quyền dân chủ nhân dân mở ra một triển vọng hết sức tươi sáng cho phụ nữ. Chỉ trong thời gian ngắn phụ nữ đã có những tiến bộ vượt bậc và cống hiến lớn lao vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay đất nước ta hòa bình. Có hòa bình vì đã có bao nhiêu gương đấu tranh, hy sinh anh dũng của toàn dân ta, toàn Đảng ta, trong đó có phụ nữ. Phụ nữ với tư cách là động lực của cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích rõ trong hai thời kỳ của cách mạng Việt Nam.

Một là, thời kỳ chiến tranh, phụ nữ thể hiện rõ động lực trong cách mạng.

Trên mặt trận quân sự, người phụ nữ luôn là bộ phận không thể thiếu cấu thành lực luợng cách mạng, cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Họ đã gan góc đấu tranh chống lại các âm mưu, thủ đoạn và hành động dã man của kẻ thù. Họ đã chứng tỏ được khả năng và thể hiện được lòng yêu nước, ý chí giết giặc của mình như nam giới xông pha nơi chiến trường. Bất kể lứa tuổi, hậu phương hay tiền tuyến, vùng tạm chiếm hay vùng sau lưng địch, ở đâu họ cũng phát huy mạnh mẽ tinh thần và khả năng của mình, là một trong những động lực không thể thiếu trong cách mạng.

Ở tiền tuyến, người phụ nữ đã đóng góp sức mình, nỗ lực tranh đấu cho tự do, độc lập của dân tộc. Họ chiến đấu anh dũng và kiên cường như nam giới. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, ở Hà Nội, trong Trung đoàn Thủ đô, đã có trên 100 chị em làm công tác trinh sát, địch ngụy vận, cứu thương, tiếp tế.. Ở khắp các chiến trường Tây Bắc, Tả Ngạn sông Hồng.. ở các vùng ngoại thành đến nông thôn, rừng núi đều có tổ chức nữ dân quân, du kích. Chị em làm nhiệm vụ canh gác, giữ gìn trật tự an ninh thôn xóm, vừa bám quê hương sản xuất, gây cơ sở, vừa phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực. Phụ nữ đã góp phần tích cực xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, vận động chồng con tòng quân giết giặc. Thậm chí có những bà già có tuổi vẫn đầy nhiệt huyết tham gia đánh giặc, trẻ em còn nhỏ cũng học cách đánh du kích để giết giặc. Họ đã không quản ngại công việc nặng nhọc hay khó khăn, lòng nhiệt huyết muốn giúp nước giúp dân khiến họ có thể làm nên những điều kì diệu, vượt qua những khó khăn nguy hiểm to lớn, như: Nữ anh hùng Trần Thị Lý bị địch đánh khảo chết đi sống lại bao nhiêu lần, nữ anh hùng Nguyễn Thị Châu suốt 1.300 ngày bị địch dùng cực hình tra tấn nhưng vẫn kiên trung với Đảng với cách mạng, nữ anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai, đã bị đế quốc tử hình ở hai nơi, mà lúc hy sinh vẫn rất oanh liệt.. Rất nhiều tấm gương phụ nữ điển hình giết giặc lập công, vượt qua khó khăn gian khổ vì thắng lợi của cách mạng đã trở thành động lực to lớn cho toàn quân tham gia chiến đấu, như lời Hồ Chủ tịch: "Đó là những đoạn văn chương mới mẻ và tươi sáng do phong trào thi đua và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta nảy nở ra" 1 .

Từ năm 1947 trở đi, cuộc đấu tranh với địch trong vùng tạm chiếm rất gay go, quyết liệt. Càng vấp phải thất bại liên tiếp, thực dân Pháp càng ra sức chống phá các lực lượng kháng chiến của ta, hủy diệt hàng trăm làng mạc, hàng nghìn hécta ruộng vườn, dồn hàng chục vạn đồng bào ta vào vùng chúng kiểm soát. Chúng ra sức thực hiện chính sách "lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh, dùng người Việt để đánh người Việt", thi hành lệnh tổng động viên, ráo riết bắt lính, cướp lúa gạo. Để thực hiện âm mưu bần cùng hóa nhân dân, phá cuộc kháng chiến của ta, chúng tập trung binh lực, càn quét lâu ngày và liên tiếp trong từng khu vực. Chiếm đóng đến đâu, chúng khủng bố ác liệt, lập máy ngụy quyền tay sai bảo an.. và trắng trợn bóc lột nhân dân đến đấy. Chúng còn tiến hành càn quét, bắt bớ nhân dân ở các vùng ven đô thị, các vùng tranh chấp, lập ra các "vành đai trắng" để ngăn chăn việc phát triển phong trào kháng chiến. Phụ nữ đã phát huy mạnh mẽ vai trò truyền thống đánh giặc "giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh", hàng vạn phụ nữ đã cầm vũ khí trực tiếp tham gia giết giặc. Ngoài những nữ chiến sỹ trong hàng ngũ các đơn vị chính quy, các binh chủng và các đơn vị kỹ thuật, còn có đông đảo phụ nữ tham gia chiến đấu trong phong trào dân quân, du kích ở khắp mọi nơi.

Ở hậu phương, mỗi căn nhà, mỗi bản làng có thể thiếu bóng dáng những người cha, người chồng, người anh nhưng trong công tác phục vụ kháng chiến, trong sinh hoạt hàng ngày thì không thiếu vắng những bàn tay lao động, sản xuất với tinh thần và sức lực của phụ nữ . Những người mẹ, người vợ đã đảm trách những công việc của nam giới rất tốt. Họ sản xuất phục vụ kháng chiến, họ tham gia kháng chiến, họ đảm trách những vị trí trọng yếu trong chính quyền ở hậu phương, họ nuôi giấu cán bộ, chiến sỹ cho cách mạng. Họ không chỉ đóng góp sức mình mà còn tạo cơ sở nền tảng vật chất và tinh thần cho kháng chiến.

Một trong những công tác quan trọng của phong trào phụ nữ vùng địch hậu là bảo vệ, nuôi giấu cán bộ cách mạng . Hàng vạn các bà mẹ, các chị đã không ngại khó khăn, nguy hiểm, không quản hy sinh, hết lòng giúp đỡ che giấu cán bộ. Khi địch lùng sục tìm bắt cán bộ, biết bao bà mẹ và chị em đã bị địch bắt và tra tấn hết sức dã man, nhưng các mẹ, các chị nhất mực thà chết chứ không bao giờ khai báo làm hại phong trào cách mạng. Lực lượng phụ nữ tham gia dân quân du kích ngày càng nhiều. Hầu hết các ban chỉ huy xã đội, ban công an xã đều có phụ nữ tham gia lãnh đạo chính quyền và thông qua công tác chính quyền, phụ nữ đã tiến bộ nhanh chóng. Đó cũng là biểu hiện rõ nét quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Hàng nghìn chị em giao thông viên vùng địch tạm chiếm đã ngày đêm vận chuyển công văn, tài liệu, báo chí, đưa đón cán bộ, bộ đội hoạt động bí mật trong các thành phố, thị xã bị tạm chiếm. Các chị phải nằm hầm, lội sông, ngâm trong nước, bị bắt, bị tra tấn dã man bằng đủ mọi cực hình, thậm chí có chị bị xẻo thịt, moi ruột, bắn chết nhưng vẫn không làm lộ bí mật đường dây của Đảng, vẫn bảo tồn được cán bộ và tài liệu kháng chiến.

Bên cạnh đó, trong công tác xây dựng các tổ chức chính trị ở các địa phương cũng có sự đóng góp to lớn của những người phụ nữ. Mặc dù địch dựng đồn bốt, lập tề, tổ chức hương dõng, đánh phá cơ sở ta triền miên, nhiều cán bộ nữ đã anh dũng hy sinh, nhưng ngay sau đó cơ sở phụ nữ vẫn nhanh chóng được phục hồi, phát triển. Để xây dựng các tổ chức chính trị: Hội phụ nữ cứu quốc, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội mẹ chiến sỹ.. nhằm giữ vững và phát triển cơ sở kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm. Phụ nữ là lực lượng rất kiên trì xây dựng lực lượng trung kiên lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch. Đoàn phụ nữ cứu quốc đã có cơ sở ở hầu hết các thôn, xã, đường phố. V. V.. và đã có Ban chấp hành lãnh đạo từng cấp. Năm 1947, Ban chấp hành phụ nữ Nam Bộ cũng được thành lập, sau các Ban chấp hành Bắc Bộ và Trung Bộ, các cấp xứ và tỉnh đều mở lớp đào tạo cán bộ cho phong trào. Ban liên lạc phụ nữ Bắc bộ có tờ báo "Tiếng gọi phụ nữ", "Nhà sách phụ nữ" để tuyên truyền giáo dục cho hội viên.

Phụ nữ còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và duy trì các tổ chức xã hội, sự có mặt của họ đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao đồng thời tạo cơ sở vật chất vững chắc cho công cuộc kháng chiến của dân tộc . Điển hình nhất là ở Nam Bộ, chị em phụ nữ hoạt động công tác xã hội rất sôi nổi và tích cực. Đồng chí Phó hội trưởng Hội liên hiệp phụ nữ Nam Bộ được cử tham gia Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ trực tiếp phụ trách công tác xã hội. Công việc đào tạo y tá, hộ sinh được tiến hành rộng rãi. Hội phụ nữ Nam Bộ còn mở trường đào tạo hàng trăm nữ hộ sinh.

Hội mẹ chiến sỹ do Đoàn phụ nữ cứu quốc và Hội Liên hiệp phụ nữ tổ chức ở khắp nơi, chăm sóc cho bộ đội thương binh.. Các mẹ đóng vai trò nòng cốt trong phong trào ủng hộ bộ đội "," nuôi quân giết giặc ". Có nhiều mẹ, nhiều chị đã đón cả 5, 7 thương binh về nhà nuôi. Các anh em bộ đội đi đường bị cảm, bị ốm đau, các mẹ, các chị đã đón vè nhà chăm sóc. Các bà mẹ chiến sỹ đã hết lòng chăm sóc bộ đội, thương binh như con đẻ của mình, xứng đáng với lời ca ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: " Các bà mẹ và chị em giúp thương binh đã hòa lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sỹ thành một mối yêu thương không bờ bến " 1 . Trong Thư gửi Hội mẹ chiến sĩ liên khu IV (1949), Hồ Chí Minh vô cùng cảm động trước những tấm lòng bao la của các mẹ, các chị dành cho cách mạng, Người xúc động nói: " Các cụ, các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến. Tôi mong rằng khắp cả nước, các liên khu, các tỉnh, các làng, ở đâu cũng có Hội mẹ chiến sĩ " 2 . Người không chỉ cảm động trước tấm chân tình mà các mẹ, các chị đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, cho dân tộc Việt Nam mà Người còn mong muốn phụ nữ Việt Nam luôn giữ vững và phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp cách mạng to lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.

Trên mặt trận kinh tế, những người phụ nữ đã chung tay xây dựng, cải tạo nền kinh tế, sản xuất và tiết kiệm phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Những cống hiến to lớn của họ cho kháng chiến, cả ở hậu phương và tiến tuyến, đã góp phần xứng đáng vào sự thành công của các chiến dịch và sự thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc nói chung.

Đất nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp với một nền sản xuất nhỏ, thấp kém. Trong phong trào thi đua ái quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động nhằm" diệt giặc đói, diệt giặc dốt, điệt giặc ngoại xâm "phụ nữ đã đảm nhiệm công tác hậu phương thay thế cho nam giới ra tiền tuyến." Phong trào phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm ", vừa nhằm tự cấp, tự túc về mọi mặt vừa đóng góp cho nhu cầu kháng chiến. Chị em đã thực hiện nhiệm vụ đó trong những điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vì thiên tai địch họa xảy ra liên tiếp. Giặc pháp còn mở những trận càn quét phá hoại thóc lúa, hoa màu, phá hoại sản xuất rất nặng nề. Nhưng phong trào" tăng gia sản xuất và tiết kiệm "vẫn được phát triển mạnh mẽ để giải quyết nạn đói

Phụ nữ đô thị hưởng ứng triệt để lệnh tản cư, rời bỏ nhà cửa và mọi tiện nghi sinh hoạt, ra bưng biền kháng chiến. Mọi tình cảm của phụ nữ đều hướng về kháng chiến. Ở các chiến khu vùng nông thôn miền núi, bưng biền, bà con sẵn sàng nhường nhà cửa, tiếp tế lương thực, thực phẩm.. giúp đỡ các gia đình tản cư, ổn định việc sinh sống cùng nhau phục vụ kháng chiến, bước đầu làm thất bại âm mưu chia rẽ của địch.

Trên mặt trận văn hóa, phụ nữ đã tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa, sôi nổi tham gia và đóng góp sức mình vào phong trào" chống giặc dốt ". Phong trào" chống nạn mù chữ "được đề cập cấp bách, để đưa 90% dân số mù chữ ra khỏi nạn dốt, trong đó phần lớn là phụ nữ. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đông đảo phụ nữ phấn khởi tham gia" chống giặc dốt ". Chị em đã tích cực đi học và dạy học. Trường lớp tổ chức khắp nơi, ở các trụ sở, trong các gia đình và có khi ngay ở các chợ và trên bờ ruộng..

Các hoạt động văn hóa, xã hội rất phong phú và có ý nghĩa đã trở thành những phong trào sôi nổi của quần chúng. Trong các cuộc vận động" ngày đồng tâm ", 'hũ gạo cứu quốc", trong phong trào "bảo trợ thiếu nhi", phong trào "cứu trợ động bào bị bão lụt", phong trào "cứu đói", phong trào "truyền bá vệ sinh".. được đông đảo phụ nữ hưởng ứng tham gia tích cực.

Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Họ là động lực to lớn trên mọi mặt trận, mọi phương diện của cuộc chiến; họ vừa là nguồn động viên cổ vũ to lớn, vừa là những người xây dựng nền tảng vật chất vững chắc đảm bảo thắng lợi của từng chiến dịch và thắng lợi chung của cách mạng.

Hai là, trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam


Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phụ nữ với tư cách là lực lượng nòng cốt của "hậu phương lớn" đã cùng với toàn Đảng, toàn Dân chung tay kiến thiết nước nhà, sản xuất phục vụ kháng chiến, cung cấp sức người sức của cho "tiền tuyến lớn" miền Nam ruột thịt.

Phụ nữ Việt Nam vốn có truyền thống đấu tranh anh dũng, cần cù, là động lực to lớn góp phần làm thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phụ nữ đã tỏ rõ vị trí, vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm lên những chiến công hiển hách xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Nhân ngày Quốc tế phụ nữ (8/3), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho phụ nữ toàn quốc, đăng trên báo Nhân dân, số 2181 ra ngày 8/3/1960, trong thư Người viết: "Phụ nữ Việt nam ta sẵn có truyền thống đấu tranh anh dũng và lao động cần cù. Trong kháng chiến, phụ nữ ta từ Bắc đến Nam đều hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước. Từ ngày hòa bình trở lại, nước ta bị chia cắt làm hai miền. Chị em miền Nam đang bền bỉ đấu tranh chống ách thống trị dã man của Mỹ - Diệm. Ở miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chị em phụ nữ đều phấn khởi thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm, công tác và học tập đều tiến bộ khá" 1 . Điều đó, đã chứng tỏ Hồ Chí Minh rất tin tưởng và coi trọng vào sức mạnh to lớn của phụ nữ. Phụ nữ là động lực thật sự to lớn có ý nghĩa quyết định vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Về kinh tế, phụ nữ đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong sản xuất và quản lý kinh tế, họ cũng đảm nhiệm tốt khâu sản xuất hàng tiêu dùng và vũ khí, quân trang, thuốc men, cung cấp cho bộ đội và nhân dân đánh giặc.

Trong công nghiệp, rất nhiều phụ nữ đã thi đua đưa mức sản xuất lên cao giành lá cờ đầu ở nhiều ngành công nghiệp. Ở các công binh xưởng, chị em đã tình nguyện làm thêm mỗi ngày một giờ để cung cấp được nhanh và nhiều vũ khí cho bộ đội đánh giặc. Ở Liên khu 5, còn có phong trào "phụ nữ chức nghiệp", mỗi phụ nữ phải học một hai nghề thay cho nam giới ra trận. Chị em rất hăng hái tham gia phong trào này: Nữ nông dân học cày bừa và các khâu canh tác; nữ công nhân hoc giỏi nghề của mình và học thêm nghề nữa, nữ trí thức và học sinh, ngoài công tác chuyên môn và học tập còn tự túc lương thực, thực phẩm.

Trong thương nghiệp, phụ nữ tiểu thương nghiệp, công thương đã góp phần vào phong trào phát triển sản xuất. Chị em đã hùn vốn kinh doanh hàng nội hóa và khai thác các nguồn hàng, làm tốt khâu giao lưu hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm bị chiếm góp phần đáng kể vào việc tiếp tế cho kháng chiến.

Trong nông nghiệp, nếu như trước đây, dưới xã hội cũ người phụ nữ chỉ biết đến lao động nông nghiệp truyền thống thì nay, trong thời kỳ cách mạng, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội người phụ nữ tham gia vào tất cả các ngành nghề của xã hội. Họ có thể đảm nhiệm những công việc của nam giới trong các nhà máy, họ có thể lãnh đạo các cơ sở sản xuất.. một cách hiệu quả. Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, ngày 26/03/1964 có viết: "Phụ nữ ta có thành tích lớn trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp; có nhiều anh hùng chiến sĩ thi đua, đội trưởng sản xuất trong các nhà máy, chủ nhiệm hợp tác xã, đội trưởng dân quân, bác sĩ, giáo viên.. rất giỏi" 1 .

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn phụ nữ Cứu quốc và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã động viên chị em vượt qua mọi khó khăn thực hiện nhiệm vụ trung tâm là sản xuất nông nghiệp đảm bảo cho bộ đội "ăn no đánh thắng".

Bên cạnh đó, phụ nữ còn tham gia vào các phong trào đấu tranh chống địch vơ vét cướp bóc. Chị em đã đấu tranh bằng nhiều hình thức từ đưa đơn, cử đại biểu gặp thị trưởng đến biểu tình trước tòa thị chính, tổng bãi thị. V. V.. Chị em tiểu thương chợ Đồng Xuân (Hà Nội), và nhiều chợ khác đã tổ chức hàng trăm cuộc bãi thị để phản đối tăng thuế. Ở Hải Phòng, chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 1954 đã nổ ra 50 cuộc đấu tranh chống thuế.

Trong sinh hoạt chính trị, đông đảo phụ nữ được Đảng rèn luyện và giáo dục đã phân biệt được rõ đâu là cách mạng chân chính; đâu là bọn phản động nhằm phá hoại chính quyền. Ở Hòn Gai, bọn phản động tổ chức ám sát, bắt cóc, giết hại cán bộ ta một cách trắng trợn. Phụ nữ Hòn Gai đã vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm bảo vệ cán bộ cách mạng. Đoàn phụ nữ cứu quốc vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.

Bên cạnh việc đóng góp sức mình vào đấu tranh giành chính quyền, xây dựng đất nước, khẳng định tiếng nói của mình trong quản lí tổ chức bộ máy Nhà nước, trên diễn đàn chính trị. Phụ nữ Việt Nam vẫn chú trọng đến chăm sóc gia đình, làm tròn thiên chức người mẹ, người vợ. Đã có những gương nữ anh hùng vừa chiến đấu, vừa sản xuất, vừa nuôi dạy con cái thay thế vai trò của người đàn ông trong gia đình. Họ biết đoàn kết nhau lại, tổ chức những tổ đổi công trong sản xuất, tổ thi đua, gây dựng các các quỹ tiết kiệm cho kháng chiến, phát động những phong trào như "ba đảm đang". Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến những người Mẹ chiến sĩ suốt đời hi sinh cho dân tộc.


Trong đấu tranh giải phóng miền Nam, những người phụ nữ cũng đóng vai trò vô cùng to lớn. Họ không chỉ trực tiếp tham gia lực lượng vũ trang vào miền Nam chiến đấu, họ còn góp sức mình tăng gia sản xuất cung cấp lương thực thực phẩm chi viện cho "tiền tuyến lớn".

Phụ nữ là lực lượng đấu tranh quan trọng trong vùng địch kiểm soát. Phần lớn nam giới ở đấy đã ra vùng tự do, đi bộ đội, chỉ một bộ phận nhỏ ở lại là hoạt động bí mật. Địch tăng cường cướp phá, bóc lột, bần cùng hóa, phục hồi các hủ tục mê tín, dị đoan làm trụy lạc thanh niên. Chúng đặt ra nhiều tổ chức chính trị, tôn giáo để lừa bịp quần chúng. Nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, các cán bộ phụ nữ đi vào quần chúng, thông qua những chị em cốt cán và cảm tình với kháng chiến, vạch rõ âm mưu của địch, tiến lên biến những tổ chức của địch thành những tổ chức hoạt động cho ta, hoặc phá hẳn những tổ chức ấy (nếu là tổ chức chính trị).

Phụ nữ hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ quyên góp vào "Quỹ độc lập" với tấm lòng tha thiết và tích cực nhất chi viện cho miền Nam. Trong "tuần lễ vàng" người có nhiều góp nhiều, người có ít góp ít. Các bà, các chị đã đem cả tư trang ngày cưới góp vào "tuần lễ vàng" để góp phần cho Chính phủ mua sắm vũ khí.. Các cụ, các mẹ góp cả mâm thau, nồi đồng, đỉnh đồng, lư đồng để Chính phủ đúc súng đạn..

Có thể tự hào rằng, phụ nữ Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng trong gia đình, trong đấu tranh cách mạng, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như lời khẳng định của "Ông C. Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc chắn không làm nổi" 1 . Hồ Chí Minh đã dành cho những người phụ nữ Việt Nam anh hùng quả cảm trong lao động sản xuất và chiến đấu tám chữ vàng: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" để minh chứng cho điều đó.

2 . Sđd. T10, tr88

1 . Sđd. T6, tr473

1 . Sđd. T6, tr431

2 . Sđd. T5, tr689

1 . Sđd. T10, tr85

1 . Sđd. T11, tr225

1 . Sđd. T2, tr288
[/DOWN]

- Còn tiếp -
 
13,139 ❤︎ Bài viết: 916 Tìm chủ đề
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

1.3 Sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải do bản thân phụ nữ làm chủ

[DOWN]
Phụ nữ không chỉ trông mong công cuộc giải phóng mình vào người khác, mà họ phải tự mình làm cuộc cách mạng to và khó này. Họ cần thay đổi nhận thức cổ hủ, lạc hậu mà xã hội cũ đã nhồi nhét vào trong suy nghĩ, đầu óc của họ. Họ cần có nhận thức mới, nhận thức đúng đắn về vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội, mặt khác phải không ngừng cố gắng vươn lên hoàn thiện bản thân.. Để có thể đảm nhiệm trọng trách lớn lao của giới mình. Làm tròn nhiệm vụ một cách xuất sắc.

Trước tiên, phụ nữ cần phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình

Theo Hồ Chí Minh công cuộc giải phóng phụ nữ không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội mà còn là trách nhiệm của bản thân phụ nữ. Do đó, phụ nữ cần phải nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò cũng như trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc phụ nữ phải đoàn kết để có thể thực hiện thành công mỗi công việc, Người nhắc nhở: "Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng Chủ nghĩa xã hội" 1 . Theo Người: "Muốn làm trọn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; Phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật" 2, bởi nếu không đấu tranh thì "những đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ sẽ không tích cực sửa chữa" 3 . Trước lúc đi xa, Người vẫn không quên nhắc nhở điều đó: "Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ" 4 . Nhằm giải phóng phụ nữ một cách toàn diện và triệt để.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tôn trọng phụ nữ, đánh giá đúng vị trí, vai trò của phụ nữ, song Người cũng rất nghiêm khắc đối với phụ nữ, Người nhắc nhở phụ nữ phải ý thức được vai trò, vị thế của mình mà phấn đấu cho mình và cho dân tộc. Người nói: "Đảng, Chính phủ và Bác mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa, hiện nay trong các ngành, số phụ nữ tham gia còn ít" 1 . Vì vậy, Người nhắc nhở phụ nữ: "Không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền" 2 . Người đã chỉ cho phụ nữ Việt Nam thấy rằng, muốn thật sự giải phóng giới mình, phụ nữ không nên chỉ trông chờ vào người khác mà "bản thân chị em phụ nữ phải có chí khí tự cường tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình" 3 .


Thứ hai, phụ nữ phải biết tự vươn lên, tự hoàn thiện mình

Cùng với việc tạo mọi điều kiện cho chị em phụ nữ được học tập văn hóa, nâng cao trình độ, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước, Người luôn nhắc nhở: "Phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật" 4 Và "Chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh" 5 .

Sự nghiệp giải phóng phụ nữ không thể thành công, nếu chỉ có điều kiện đưa đến, nghĩa là không phải chỉ đạt được khi có sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, gia đình, xã hội.. khi có được nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò trong gia đình và xã hội, mà điều chủ yếu là chị em phải tự vươn lên hăng hái xung phong đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, khắc phục mọi quan niệm tự ty, an phận để góp phần giành lấy quyền lợi cho mình, khẳng định vị trí, vai trò của mình trong gia đình và xã hội.

Trong xã hội phong kiến, luật tam tòng buộc người phụ nữ phụ thuộc hoàn toàn vào đàn ông một cách hà khắc. Trong xã hội thực dân, phong kiến, thân phận người phụ nữ lại càng cùng cực hơn. Từ thực tế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác của kẻ đi xâm lược và kẻ bán nước cầu vinh đối với người phụ nữ: "Dưới chế độ thực dân phong kiến, phụ nữ bị áp bức tồi tệ, ngoài xã hội, phụ nữ bị coi khinh như nô lệ, ở gia đình, họ bị kìm hãm trong xiềng xích tam tòng" 1 . Vì thế muốn sự nghiệp giải phóng phụ nữ thành công, theo Hồ Chủ tịch thì: Giành quyền bình đẳng, chống sự phân biệt đối xử với phụ nữ không phải ai làm hộ cho phụ nữ mà chính họ phải vươn lên tự giải phóng, đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của mình, "về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra Chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh" 2, lợi quyền của phụ nữ phải thực sự được đảm bảo. Bản thân phụ nữ lại phải đấu tranh, tự cường, tự lập để giữ lấy quyền của mình. Có thể thấy rằng, Bác Hồ luôn luôn thể hiện lòng tin vào sức mạnh quần chúng, vào năng lực nhiệt tình cách mạng của phụ nữ, dù đó là những người phụ nữ mà từ trước đến nay bị coi là hèn kém, lạc hậu, dốt nát. Người nói: "Từ ngày cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, Đảng ta và Chính phủ đã làm cho gái và trai bình quyền, các dân tộc bình đẳng" 3, "pháp luật của Nhà nước ta cũng quy định đàn bà cũng có quyền lợi như đàn ông. Để thực sự bình quyền, phụ nữ phải ra sức phấn đấu" 4 . Như vậy, một khi đã nhận thức được quyền lợi chính đáng, khả năng to lớn của mình, với sức mạnh và trí thông minh, chị em sẽ vùng dậy, đoàn kết thành động lực mạnh mẽ đập tan xiềng xích nô lệ, hòa mình vào công cuộc xây dựng nền kinh tế mới, chế độ mơi, nền văn hóa mới và con người mới vì hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của chính người phụ nữ là sự phồn vinh của đất nước. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: "Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, phụ nữ vô cùng đảm đang, đã đóng góp rất nhiều trong chiến đấu và sản xuất. Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách nhiều công việc kể cả lãnh đạo. Phụ nữ phải phấn đấu vươn lên, đây là thực sự là một cuộc cách mạng" 1 .

Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng chỉ có thể thắng lợi và đứng vững khi nó được tự bảo vệ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ có thể thực hiện triệt để khi chị em phụ nữ biết tự bảo vệ, tự giải phóng.

Có thể nói, lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng chưa từng có vị lãnh tụ nào lại sâu sắc và tận tâm vì công cuộc giải phóng phụ nữ đến như vậy, Hồ Chủ tịch không chỉ thể hiện sự quan tâm của mình đến công cuộc giải phóng cho người phụ nữ thông qua việc soạn thảo những văn bản có tính chất pháp lý quy định quyền lợi, nghĩa vụ của người phụ nữ, Người còn để tâm đi sâu tìm hiểu công cuộc giải phóng phụ nữ trong từng đơn vị, cơ sở. Không chỉ nghe những báo cáo của các đơn vị về việc tạo điều kiện cho phụ nữ được tham gia công việc xã hội, Người còn trực tiếp đến các cơ sở, lắng nghe những tâm tư, những khó khăn của chị em phụ nữ, trực tiếp đưa ra những lời phê bình, những kiến giải cho công cuộc giải phóng phụ nữ, đào tạo bồi dưỡng phụ nữ về mọi mặt. Điều đó đã làm lên một nhân cách lớn, một tư tưởng lớn của vị cha già dân tộc. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương ngời sáng, là ngọn đèn hải đăng soi sáng đường cho chúng ta đi hôm nay, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nói chung và định hướng cho công cuộc giải phóng phụ nữ một cách hoàn toàn nói riêng.


1 . Sđd. T10, tr295

2 . Sđd. T10, tr295

3 . Sđd. T10, tr208

4 . Sđd. T12, tr504

1 . Sđd. T10, tr89

2 . Sđd. T10, tr185

3 . Sđd. T11, tr259

4 . Sđd. T10, tr195

5 . Sđd. T10, tr295

1 . Sđd. T10, tr325

2 . Sđd. T10, tr524

3 . Sđd. T11, tr214

4 . Sđd. T11, tr214

1 . Sđd. T12, tr504
[/DOWN]

- Còn tiếp -
 
Từ khóa: Sửa

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back