Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong sự nuôi dưỡng của tấm lòng người mẹ nghèo nhưng đảm đang, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con, từ đó Người đã hình thành cái nhìn tôn kính với người phụ nữ từ rất sớm. Hình ảnh người mẹ tảo tần khuya sớm đong đầy trong trái tim Người những nỗi xúc cảm, thương xót với thân phận của người phụ nữ trong xã hội. Từ đó, Người đã không ngừng nghiên cứu, trau dồi thêm cho mình những hiểu biết về vai trò, vị trí của người phụ nữ trong lịch sử nước nhà và nhân loại. Càng đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu Người càng thêm cảm phục những nữ anh hùng vì nước, vì dân. Càng cảm phục họ, Người càng thương xót, phẫn nộ hơn cho những thân phận phụ nữ bị đọa đày, dày xéo dưới gót giày thực dân, đế quốc. Toàn thể nhân dân Việt Nam bị áp bức, bóc lột mà ở đó phụ nữ không những bị áp bức về dân tộc, về giai cấp mà còn bị giáo lý phong kiến kìm hãm, trói buộc, nhưng tiềm ẩn ở họ tinh thần đấu tranh cách mạng đã nói lên tiếng nói của mình thể hiện sự bất bình với những tội ác tày trời, vô liêm sỉ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ phong kiến tay sai.
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò quan trọng đồng thời thấu hiểu được nỗi thống khổ của phụ nữ ở các nước thuộc địa. Mỗi tiếng nói tố cáo của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sự thương cảm với thân phận người phụ nữ, sự đồng cảm sâu sắc của kiếp người nô lệ, phụ thuộc mà còn gay gắt lên án nền thống trị bạo tàn, chính sách khai hóa dã man, nguyên thủy của thực dân, đế quốc. Người ta có thể thấy nỗi thống khổ của "một bộ tộc ở Băngghi không thể cung cấp được đủ số cao su cho đồn điền. Đồn điền này muốn buộc họ phải nộp cho đủ số thiếu, liền bắt 58 phụ nữ và 10 trẻ em giữ làm con tin. Những con tin này bị nhốt vào chỗ thiếu không khí, thiếu ánh sáng, thiếu ăn và ngay cả nước uống cũng thiếu nữa. Thỉnh thoảng người ta lại đến đánh đập họ. Theo thực dân nói thì tiếng kêu la của họ dùng để thôi thúc công việc. Sau ba tuần chịu đau đớn khốc liệt, 58 phụ nữ và 2 trẻ em chết"
1 . Chế độ thực dân và chính sách khai hóa của nó đã đem cái chết gieo giắc khắp nơi, từ chính quốc đến thuộc địa; nông thôn, đến thành thị; từ trong những xưởng sản xuất, những hầm mỏ, những đồn điền đến từng ngôi làng, từng nóc nhà.
Trực tiếp chứng kiến tội ác của nền khai hóa đó, trong tác phẩm "Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của người Pháp", Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa"
2 . Trong khi phụ nữ là lực lượng chiếm phân nửa xã hội, họ là lao động chính, lao động thường xuyên của xã hội thì họ lại là thành phần bị xã hội coi khinh, rẻ rúng. Xã hội phong kiến thì quàng lên cổ người phụ nữ quan niệm "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", những tư tưởng kiểu "duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc bất oán" (Chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó nuôi dạy, gần thì sinh nhờn, mà xa thì oán). Tổng kết lịch sử nhân loại qua cái nhìn biện chứng khoa học của Chủ nghĩa Mác thì: Trong lịch sử nhân loại không có một phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà lại không có phụ nữ lao động tham gia. Bởi lẽ phụ nữ lao động là những người bị áp bức, bóc lột nhất trong tất cả những người bị áp bức, bóc lột. Người đã phân tích kỹ trên cả ba mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của sự bóc lột tàn bạo này.
Thứ nhất, về kinh tế:
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để đánh chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Chúng đã kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, phụ nữ cũng giống như các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội Việt Nam, phải chịu cảnh "một cổ hai tròng" áp bức, bóc lột, cuộc sống lầm than, vô cùng cơ cực.
Để làm giàu cho chính quốc, thì sử dụng và áp bức phụ nữ là một trong những thủ đoạn thâm hiểm và ác độc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Trong tác phẩm "Văn minh tư bản chủ nghĩa và phụ nữ ở các thuộc địa", Người tố cáo:
"Còn thảm thương hơn nữa là số phận của phụ nữ và trẻ em làm thuê trong những công việc nặng nhọc như làm than và làm việc trong các hầm mỏ. Trong các nước bị chiếm đó, không có luật hay sự hạn chế nào để kiềm chế bớt bọn bóc lột. Những người thợ bản xứ bị coi như xúc vật. Người ta chỉ cho họ những gì vừa đủ để khỏi chết đói. Người ta dùng roi để thúc họ đi. Không có bảo hộ lao động, không có bồi thường tai nạn. Người ta thấy lại trong các thuộc đia đó tất cả hệ thống phong kiến trung cổ và dã man của chủ nghĩa tư bản"
1 .
Có thể thấy rõ, dưới sự đô hộ của thực dân, đế quốc cùng với chính sách "khai hóa" văn minh của chúng, phụ nữ ở các nước thuộc địa đã phải chịu những áp bức, bóc lột nặng nề. Họ bị đối xử như những con vật, những cỗ máy biết nói, không có một sự bảo đảm nào cho mạng sống của chính họ, không quyền tự do, không lợi ích kinh tế và không thể quyết định số phận của chính bản thân mình. Kết quả của sự "khai hóa" đầy "văn minh" đó là những con số vô cùng thảm khốc "40% vô sản hầm mỏ là phụ nữ và trẻ em, chúng ta có thể kết luận rằng, trong thời gian 10 năm, không dưới 2.200 phụ nữ và trẻ em Ấn Độ đã phải hy sinh trên bàn thờ của chủ nghĩa tư bản đi khai hóa"; "các ngành sản xuất chủ yếu là: Vải sợi, lụa và thuốc lá. Số công nhân làm việc trong các ngành này lên đến 200.000 người, trong đó 50% là phụ nữ và trẻ em. Tiền công của 2 loại công nhân này rất thấp, từ 10-20 xu/ ngày. Độ dài của ngày lao động là từ 12 giờ đến 13 giờ"
1 .
Cái ơn "khai hóa" không chỉ được bộc lộ trực tiếp trên thân thể của những người dân thuộc địa và sức lao động của họ, nó còn đục khoét tới tận túi tiền vốn không đầy đặn bao giờ của người nông dân "thuế má nặng nề không phải chỉ đánh vào ruộng đất, vào súc vật và vào nam giới mà thôi, mà cái ơn mưa móc ấy còn tưới rộng ra cho cả nữ giới nữa: Nhiều phụ nữ bản xứ khốn khổ, phải mang nặng gồng xiềng chỉ vì cái tội là không nộp thuế"
2 . Bằng chính sách thuế khóa nặng nề, bằng sự bóc lột vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã đẩy số phận của người phụ nữ đến tận cùng của nỗi thống khổ.
Nguyễn Ái Quốc quyết liệt lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, trực tiếp là thực dân Pháp và chính sách khai hóa văn minh của chúng. Những điều tai nghe, mắt thấy được Người phản ánh xác thực và rõ ràng, kiên định chắc chắn, đầy sự cảm thông, thương xót nhưng không thiếu sự phẫn nộ và lòng hận thù. Những lời tố cáo đó đôi khi lên tới đỉnh điểm của lòng bác ái, của lòng căm thù, phẫn nộ đối với chế độ thực dân tàn ác, nó biến thành những lời kêu gọi, hiệu triệu "Ôi! Hỡi những người mẹ, những người vợ, những người phụ nữ Pháp, chị em nghĩ gì về tình trạng đó? Và các bạn những người con, những người chồng, những anh em người Pháp nữa? Có phải đó là phép lịch sự của người Pháp đã bị" thực dân hóa "đi không nhỉ?"
3 tác động trực tiếp tới suy nghĩ, lòng trắc ẩn của người nghe, khuyến khích họ nhận thức chính xác hơn, đúng đắn hơn về sự thực nền khai hóa của thực dân, đế quốc.
Thứ hai, về chính trị - Xã hội
Thực dân, phong kiến tiến hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong biển máu. "Sự thật là người Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, đi lại đều bị cấm.. Việc có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại"
1 .
Thời kỳ thực dân Pháp vào "khai hóa" nước ta, mặc dù núp dưới khẩu hiệu "Tự do, bình đẳng, bác ái" nhưng thân phận người phụ nữ lại càng cùng cực hơn. Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên thực trạng đó: "Dưới chế độ phong kiến và thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì phụ nữ bị xem khinh như nô lệ. Ở gia đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích" tam tòng "
2 . Người còn lên án đanh thép tội ác của kẻ xâm lược:" Người ta nói: "Chế độ thực dân là chế độ ăn cướp". Chúng tôi xin nói thêm: Chế độ hãm hiếp đàn bà và giết người "
3 .
Tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc gieo rắc trên các thuộc địa và trên thân thể của người phụ nữ không chỉ dừng lại ở bóc lột sức lao động của họ, ở chính sách thuế má để làm lợi cho kinh tế chính quốc. Cùng với sự bóc lột về kinh tế, chúng còn kìm hãm, triệt tiêu đời sống chính trị và nhận thức văn hóa của họ. Mục đích cuối cùng là cướp đi quyền tự do, tiếng nói dân chủ công bằng (những phạm trù mà có thể họ chưa bao giờ được tiếp xúc trong đời nô lệ phụ thuộc của mình), là sự nô dịch về văn hóa, sự phân biệt đối xử, sự kì thị dân tộc ở bất cứ đâu, nơi chủ nghĩa thực dân thống trị hay đặt sự bảo hộ của mình:" Ở Hoa Thịnh Đốn, cái tệ chia rẽ màu da rất trắng trợn. Vài thí dụ: . Một phụ nữ đau đẻ nhưng nhà hộ sinh nhận hộ sinh gần bên nhất định không nhận. Bà ấy phải đẻ ở bên đường. Ở thủ đô có nghĩa địa riêng dành cho người da trắng, riêng cho người da đen, và riêng cho con chó "
[1] . Vậy là đâu đó, dưới ánh sáng của Nữ thần tự do sinh mạng con người lại không đáng giá bằng một con vật?
Thứ ba , về văn hóa
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945:" Để đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ một cách êm thấm, bọn cá mập của nền văn minh không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách ngu dân triệt để "
[2] . Do chính sách ngu dân của thực dân, phong kiến nền văn hóa nghệ thuật dân tộc Việt Nam chưa có sự bình đẳng giữa các giá trị. Đặc biệt là phụ nữ, luôn chịu sự trà đạp lên nhân phẩm, danh dự.. Bọn phong kiến, tư bản, chúng đã dùng nhiều chính sách tàn bạo để kìm hãm sự phát triển văn hóa, nghệ thuật của chị em phụ nữ. Thực dân, phong kiến đã thi hành chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách" ngu để trị "một cách triệt để. Chúng đã sử dụng mọi thủ đoạn thâm độc để đạt được mục tiêu làm cho nhân dân An Nam thanh những người" An Nam mít "Nguyễn Ái Quốc đã bất bình nói rằng:" Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối dân ta và bóc lột dân ta. Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được? "
[3] .
Trong" Tuyên ngôn độc lập "khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa có đoạn viết:" Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận thi hành chính sách ngu dân "
[4] .
Chủ nghĩa thực dân cùng với" chính sách khai hóa văn minh "của mình, đã thể hiện một cách quyết liệt cho những người dân nơi chúng đặt chân tới thấy sức mạnh của văn minh khai hóa, bằng cách này hay cách khác, chúng luôn bắt đầu sứ mệnh" khai hóa "tàn ác của mình từ phụ nữ, người già và trẻ em. Có thể là" Trên đám đất bằng phẳng trước kia là ruộng muối, ba cái xác chết nằm đó: Một em bé bị lột trần, một thiếu nữ ruột gan lòi ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình, một xác cụ già ghê rợn khủng khiếp, thân thể trần truồng, mặt mũi cháy không còn nhận ra được nữ "; hay" Một viên quan hai có nhiều vợ đã quật ngã một thiếu phụ An Nam và dùng gậy song đánh chị đến chết chỉ vì chị không chịu làm vợ lẽ hắn.. Một sĩ quan khác hiếp một em bé bằng những cách dâm bạo vô cùng ghê tởm. Bị truy tố trước tòa đại hình, hắn được trắng án, chỉ vì nạn nhân là người An Nam "
1 . Sự độc ác, tàn nhẫn và thói dâm bạo thực dân không phải là điều được quy định trong chính sách khai hóa nhưng" là hiện tượng phổ biến ". Vì lẽ đó, nó được chấp nhận và buộc phải chập nhận ở khắp nơi, ở chính quốc hay ở thuộc địa" Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của bọn quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga "
2 .
Tóm lại
, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam nói chung, với số phận của người phụ nữ nói riêng là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịc về văn hóa, giáo dục, chứ không phải đem đến một sự" khai hóa văn minh "- một sự khai hóa và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây cho dân tộc Việt Nam. Bản chất của" sứ mệnh khai hóa "đó chính là sự khai thác thuộc địa; áp bức, bóc lột và trà đạp đạp lên số phận của người phụ nữ diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém.. Hồ Chí Minh từng nói về" nhà khai hóa "như sau:" Khi người ta đã là một nhà khai hóa thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất "
3 . Và nếu người phụ nữ cùng các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội không chịu nhục được, phải vùng lên, thì các nhà khai hóa" điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến, người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc khai hóa nhân từ là như thế đấy!"
1 . Vì vậy, giải phóng phụ nữ nói riêng, dân tộc nói chung chính là mục tiêu của cách mạng.
1 . Sđd. T1, tr 325-326
2 . Sđd. T1, tr96
1 . Sđd. T2, tr134
1 . Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc, Sđd. T2, tr390
2 . Bản án chế độ thực dân Pháp, Sđd. T2, tr105
3 . Sđd. T2, tr112
1 . Sđd. T2, tr92
2 . Sđd. T4, tr661
3 . Sđd. T5, tr618
[1] Xã hội văn hóa Mỹ, Sđd. T6, tr324
[2] Sđd. T6, tr97
[3] Chống nạn thất học, Sđd. T4, tr36-37
[4] Hồ Chí Minh toàn tập. T3, tr555
1 . Bản án chế độ thực dân Pháp, Sđd. T2, tr112
2 . Sđd. T2, tr105
3 . Sđd. T2, tr56
1 . Sđd. T2, tr115