Đông Chu Liệt Quốc Tác giả: Phùng Mộng Long NXB Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây Thể loại: Sử sách Trung Hoa Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục Lời tựa
Hồi 1: Nghe trẻ hát, tôi trung bị giết, Trải lòng ngay, Ðỗ-Bá thác oan Bấm để xem Từ lúc vua Trụ mất nước Võ-vương lập lên nhà Châu, dân chúng sống trong cảnh thái-bình thịnh trị. Các triều vua kế tiếp như Thành-vương, Khương-vương, đều nhờ lấy đức trị dân, lại được các bậc trung thần như: Châu-công, Thiệu-công, Tất-công, Sử-Dật, hết lòng phò tá, lên cơ-nghiệp vững-bền. Qua đến đời vua thứ tám là Di-vương, cơ-nghiệp nhà Châu bắt đầu suy-yếu. Ðến đời vua thứ chín là Lệ-vương lại càng nhu-nhược hơn. Trong nước nổi loạn, nịnh-thần thí vua, toan tiếm ngôi may nhờ có Châu-công và Thiệu-công, đồng tâm hiệp lực, lập Thái-tử Tịnh lên kế vị. Thái-tử Tịnh lên ngôi xưng hiệu là Tuyên-vương, trong thì lo sửa sang triều-chính chiêu-đãi hiền-thần, ngoài thì lo vỗ an bá-tánh, vì thế các bậc hiền-tài lúc bấy giờ như Phương-Chúc, Thiệu-Hổ, Doãn-kiết-phủ, Châu-Bá, Trọng-sơn-phù, đều dốc lòng bảo giá. Tuyên-vương đem lại thái bình cho nhà Châu được mười chín năm thì giặc Khương-nhung dấy-loạn, vua phải ngự-giá thân-chinh. Thế giặc quá mạnh, Tuyên-vương thua luôn may trận, quân-sĩ hao hụt rất nhiều, bèn trở về Thái-nguyên kiểm-điểm dân số để mộ thêm binh lính. Khi đi ngang qua một khu phố nhỏ gần Kiểu-kinh có một bầy trẻ xúm nhau vỗ tay hát: Thỏ lên, ác lặn non mờ, Túi cơ cung yểm bơ phò nước non. Vua nghe câu hát lấy làm tức giận, truyền quân vây bắt. Bọn trẻ cả sợ chạy tán loạn, chỉ bắt được có hai đứa. Vua quát hỏi: - Ai bày cho chúng bay hát như thế? Hai đứa trẻ run lẩy bẩy, cúi đầu tâu: - Cách đây ba hôm, có một đứa nhỏ mặc áo đỏ, đến tại chợ nầy dạy chúng con hát. Nhưng chẳng biết vì sao, cùng một lúc, cả trẻ con trong khu phố đều biết các câu hát ấy. Vua lại hỏi: - Hiện bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu? Hai đứa bé đáp: - Chẳng biết nó đi đâu, từ ấy đến nay chúng con không còn gặp nó nữa. Vua Tuyên-vương cau mày, suy nghĩ rồi truyền đuổi hai đứa bé ấy đi. Lại khiến quan Tư-thị loan-báo khắp khu-phố cấm không cho con nít hát như thế nữa. Nếu đứa trẻ nào còn hát cha mẹ nó phải chịu tội. Kế đó vua ngự-giá về cung. Sáng hôm sau, lâm triều bá quan vào chầu đủ mặt, vua bèn thuật lại câu hát ấy, và hỏi có ai đoán được hư thiệt không? Quan Lễ-Bộ Triệu-hổ quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, cây yểm là thứ cây dâu núi, dùng làm cung, còn cơ là loại cỏ dùng đan giỏ đựng tên. Cứ theo câu hát ấy mà bàn thì chắc trong nước sẽ bị nạn binh-đao! Tuyên-vương đưa mắt nhìn các quan cận-thần hỏi ý-kiến. Quan Thái-tế Trọng-sơn-phủ quỳ tâu: - Theo ý Ngu-thần thì cung tên biểu hiệu cho binh-đao, nay Bệ-hạ đang muốn kiếm dân, bắt lính đánh dẹp rợ Khương, điềm ấy e ảnh hưởng không lành đến dự-tính của Bệ-hạ. Tuyên-vương gật đầu hỏi lại: - Thế thì thằng con nít mặc áo đỏ là ai? Thái-sư Bá-dương-phụ tâu: - Chúng con nít mặc áo đỏ thuộc hỏa, còn sao Huỳnh-hoặc cũng thuộc hỏa. Ấy là ông trời muốn răn vua, nên khiến sao Huỳnh-hoặc biến ra đứa trẻ đó. Tuyên-vương nghe nói cho là phải, bèn phán: - Vậy bây giờ trẫm tha tội cho Khương-nhung, rút quân ở Thái-nguyên về, truyền đốt tất cả số cung tên lưu trữ trong kho, như thế có tránh được điềm họa kia chăng? Dương-phụ lại quỳ tâu: - Hạ-thần xem thiên văn thấy điềm dữ ứng tại cung vua, chớ không can chi đến bờ cõi. Hơn nữa, luận theo câu hát "thỏ lên, ác lặn" có nghĩa là âm thạnh, dương suy, hạ thần e rằng việc nước sẽ do tay đàn bà quấy rối. Tuyên-vương nói: - Trong cung có Khương-hậu là kẻ hiền-đức, cai quản tam-cung, lục-viện. Mỗi một cung phi đều do tay Khương-hậu chọn lựa, làm sao có thể xảy ra tai họa ấy được? Dương-phụ tâu: - Tâu Bệ-hạ, ý trong câu hát không phải là việc bây giờ, xin Bệ-hạ cứ thi nhân, bố đức, may ra việc dữ trở nên lành, còn cung tên trong kho chẳng nên đốt làm chi. Tuyên-vương nghe xong, lòng rất nghi-hoặc, bèn bãi chầu lui vào hậu cung, đem các việc thuật lại cho Khương-hậu nghe. Khương-hậu tâu: - Tâu Bệ-hạ, điềm dữ vừa ứng, trong cung lại có việc lạ lùng, thần-thiếp định tâu cùng Bệ-hạ. Tuyên vương ngơ-ngác hỏi: - Chẳng hay trong cung lại có việc gì chẳng lành sao? Vừa rồi trong cung có một phi-tần của Tiên-vương để lại, tuổi ngoài năm mươi, có thai đã bốn mươi năm trời, đêm qua lại sanh ra một gái. Tuyên-vương giật mình hỏi: - Ðứa con gái ấy bây giờ ở đâu? Khương-hậu nói: - Thần-thiếp cho là quái-thai, nên đã sai người đem vứt xuống sông Thanh-thủy, cách đây vài mươi dậm. Vua cho là chuyện lạ, bèn đòi người cung-phi già đó đến hỏi tự sự. Người cung-phi già được lệnh, đến quỳ móp xuống đất, tâu rằng: - Tiện tỳ được nghe nói vào đời Hạ-kiệt, tại Bao-thành có thần-nhân hóa ra hai con rồng sa xuống giữa sân triều, nhả nước dãi ra rồi kêu vua Kiệt nói: "Ta là hai vị Ðế-vương của Bao-thành đây". Vua Kiệt cả sợ, muốn giết hai con rồng ấy, song quan Thái-sư bói quẻ và tâu rằng: Thần nhân hạ giáng, ắt có điềm lành, xin Bệ-hạ hãy lấy nước dãi mà để dành. Vì nước dãi là tinh-khí của rồng, để dành trong cung ắt đặng hưởng phúc. Vua Kiệt nghe theo truyền đem mâm vàng hứng lấy nước dãi, đựng vào một chiếc hộp son, cất kỹ trong kho. Vừa cất xong thì trời nổi mưa, hai con rồng bay đi mất. Từ ấy đến nay đã hơn sáu trăm bốn mươi bốn năm, qua nhà Hạ, đến nhà Ân, rồi đến nhà Châu ta thêm nữa mà vẫn chưa ai dám mở hộp ấy. Ðến đời Tiên-vương, chiếc hộp ấy có hào quang rực rỡ, quan giữ kho trông thấy tâu lại với Tiên-vương. Tiên-vương truyền đem sổ bộ tra cứu, mới hay trong hộp đó đựng nước dãi rồng, bèn truyền mở ra xem. Rủi thay Tiên-vương sơ ý làm rơi chiếc hộp xuống đất, nước dãi đổ lai láng rồi hóa thành một con giãi nhỏ chạy tung tăng khắp sân triều. Nội-thị theo đuổi bắt con giãi kia chạy vào cung rồi biến mất. Lúc đó tiện-tỳ mới lên mười hai tuổi. Vì đạp nhằm đầu con giãi ấy mà thọ thai. Tiên-vương lấy làm lạ, đem tiện tỳ giam vào lãnh cung. Ðến nay hơn bốn mươi năm trời mới sanh ra một gái! Nội-thị không dám giấu, vào tâu với Hoàng-hậu. Hoàng-hậu cho là quái-thai nên đã đem vất xuống sông, xin Bệ-hạ rộng lòng tha cho tiện-tỳ khỏi tội. Tuyên-vương nghe xong, lo lắng thở đài, phán: - Ấy là việc đời trước, có can chi đến ngươi mà phải sợ sệt. Nói xong, vội sai nội thị đến bờ sông Thanh-thủy xem đứa bé ấy thể nào. Một lát sau, nội thị trở về tâu: - Tâu Bệ-hạ, đứa bé ấy đã trôi đi đâu mất tích. Nhà vua an lòng, trở vào hậu cung an nghĩ. Sáng hôm sau vua cho vời quan Thái-sư Dương-phụ đến kể việc nước miếng rồng cho Dương-phụ và bảo: - Nay đứa bé ấy đã chết rồi, khanh hãy chiếm một quẻ xem oan nghiệt đã dứt chưa? Dương-phụ vâng mạng, gieo quẻ rồi dâng lời đoán cho Tuyên-Vương xem. Lời đoán rằng: - Cười cười khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay! Sợ thay! Nước non tang-tóc. Vua không hiểu ý, hỏi lại Dương-phủ tâu rằng: - Dê chỉ về Mùi, ngựa ứng về Ngọ. Cười cười, khóc khóc nói về chuyện vui buồn. Quẻ nầy ứng qua năm Ngọ, năm Mùi sẽ có chuyện vui buồn đó. Theo dự đoán của hạ thần, tuy yêu-quái ra khỏi cung nhưng chưa trừ đặng. Tuyên-vương nghe tâu, mặt buồn dàu-dàu, hạ chiếu truyền rao khắp dân chúng, ai tìm ra đứa con nít ấy, bất kỳ sống thác đều được thưởng ba trăm tấm lụa, ngược lại ai giấu diếm mà nuôi, sẽ bị xử-tử toàn gia. Vua truyền giao việc nầy cho quan Thượng-đại-phu Ðỗ-bá xem xét. Lại ra lệnh cho quan Ðại-phu Tả-nho nghiêm cấm khắp nơi, từ thành-thị đến thôn quê không ai được làm cung bằng gỗ yểm và giỏ tên bằng cỏ cơ. Ai trái lệnh được quyền bắt chém. Nhân-dân nghe lệnh, nhất nhất tuân theo. Duy có các miền xa vắng, lệnh của nhà vua chưa được ban bố, nên cách hai ngày sau có một người đàn bà xách mấy cái túi tên bằng cỏ cơ, và một người đàn ông vác mấy cây cung bằng gỗ yểm đến chợ bán. Quân tuần trông thấy áp lại bắt, nhưng người đàn ông lanh chân chạy thoát. Chúng dẫn người đàn bà vào nạp cho quan Ðại-phu Tả-nho. Tả-nho nghĩ thầm: - Hai vật nầy đúng theo lời hát của lũ trẻ rồi. Vả lại, quan Thái-sư bảo là có nữ họa, thế thì người đàn-bà nầy là mối họa lớn của quốc-gia, ta phải vào triều phục chỉ. Nghĩ như vậy, Tả-nho giấu việc người đàn ông bỏ trốn, chỉ dắt người đàn bà vào triều tâu nạp. Nhà vua truyền đem tội nhơn xử-tử, và đem tất cả các túi tên ra chợ đốt đi để răn dân chúng. Trong lúc đó, ngươi đàn ông kia hoảng vía chạy trối chết, không hiểu cớ gì quan quân lại đón bắt vợ chồng mình. Mãi đến ngày hôm sau, anh ta mới biết lệnh cấm, và nghe đồn người đàn bà bán giỏ tên bị xử tử, lòng nóng như đốt, anh ta than thầm: - Ôi! Vợ ta đã bị giết rồi, giờ đây ta biết nương tựa vào đâu! Đau đớn thay. Than rồi, anh ta khóc rống lên, nhưng sợ khóc lớn quan quân hay được, bèn tìm nơi vắng vẻ để khóc cho thỏa lòng. Anh ta đi lần đến mé sông Thanh-thủy, đôi mắt đỏ ngoe, dòng châu lả chả, bỗng thoáng thấy đàng xa có bầy chim kêu rả-rít, xúm nhau ngậm một chiếc chiếu cuốn tròn, nổi trên sông, mà đem vào bờ. Lấy làm lạ, anh ta chạy đến giở chiếc chiếu ra xem, thì thấy trong đó gói một đứa bé gái vừa mới lâm bồn (1). Anh ta nghĩ thầm: - Con ai đem bỏ như vầy. Ðã không chết mà lại có bầy chim cứu nạn, ắt là một quí-nữ. Ta đem về nuôi để ngày sau nhờ cậy. Nghĩ như vậy bèn cỡi áo gói đứa bé ôm vào mình, rồi thẳng đường sang Bao-thành lánh nạn. Từ khi giết người đàn-bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ, Tuyên-vương cho rằng điềm họa trong nước đã diệt được, nên không còn lo ngại gì nữa. Tuy nhiên, cứ cách vài năm nhà vua lập đàn tế-lễ nơi Thái-miếu (2), ăn chay nằm đất để cầu phúc. Năm ấy vào năm thứ bốn mươi ba, vua ngủ nơi trai-cung (3), trống canh hai vừa đổ, xảy có một người con gái, dung nhan đẹp đẽ từ phía Tây xăm xăm đi lại. Vua cả giận nghĩ rằng: - Ðàn bà con gái sao dám đến chỗ chay cấm, bèn quát lên một tiếng hô nội thị đến bắt. Vua gào rát cổ, mà vẫn không thấy một tên nội-thị nào. Người đàn bà kia cứ ung-dung đi vào Thái-miếu, góp nhặt các bài-vị bó thành một bó, rồi bước ra cười ba tiếng, khóc ba tiếng, đoạn chậm rãi tiến về hướng Ðông (4). Vua bèn rượt theo, bỗng giật mình thức dậy mới biết là chiêm-bao, trong lòng kinh hãi, đòi Thái sư Bá-dương-phụ đến hỏi. Bá-dương-phụ tâu rằng: - Lời đồng-dao (5) cách đây ba năm Bệ-hạ đã quên rồi sao? Hạ-thần tiên đoán nhà Châu sẽ bị nữ-họa. Nay yêu-khí chưa dứt, mà người đàn bà ấy lại khóc ba tiếng, cười ba tiếng, thì đúng theo quẻ hạ thần đã tiên đoán vậy. Tuyên-vương lo lắng hỏi: - Ngày trước trẫm đã giết người đàn bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ rồi, như thế chưa trừ đặng câu đồng-dao ấy hay sao? Bá-dương-phụ tâu. - Tâu Bệ-hạ, đạo trời mầu nhiệm lắm, đâu phải dễ gì giết một người đàn bà hèn mọn kia mà có thể làm biến-đổi được thiên-cơ (6). Vua nghe nói lòng buồn rã rượi, ngồi đứng không an, giây lâu sực nhớ đến việc ba năm trước có sai Ðỗ-bá truy tầm đứa bé thả trôi sông, sao đến nay chưa nghe kết quả, bèn đòi Ðỗ-bá vào hỏi. Ðỗ-bá quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, hạ-thần hết sức tìm kiếm, nhưng chẳng thấy. Khắp trong dân gian cũng không ai tìm được xác, chứng tỏ quái-thai kia đã bị chìm mất tích rồi. Vả lại Bệ-hạ đã xử-tử người đàn bà bán cung, thì lời đồng-dao đâu còn linh-ứng? Nếu cứ tra xét thì e động đến dân-tình. Tuyên-vương cả giận mắng: - Ðã không làm được việc, lại không phục-chỉ, rõ là một đứa khi quân. Bèn sai võ-sĩ dẫn Ðỗ-bá ra pháp-trường xử trãm. Giữa lúc đó, quan Hạ-đại-phu Tả-nho, vốn là bạn thân của Ðỗ-bá, thấy vội quỳ móp trước sân triều can gián: - Tâu Bệ-hạ, đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, đời vua Thang nắng hạn đến bảy năm, mà chẳng hề sanh biến loạn. Nay chỉ vì giết không được một đứa con nít mà Bệ-hạ xử-tử một đại thần e các lân-bang chê cười, xin Bệ-hạ xét lại. Tuyên-vương mặt giận phừng phừng, nói: - Nếu vì tình bạn mà can gián, thì ngươi qua đã trọng bạn khinh vua. Tả-nho tâu: - Vua phải bạn trái thì nên theo vua. Bạn phải vua trái thì nên theo bạn. Tội Ðỗ-bá không đáng gì, mà Bệ-hạ đem giết, thiên hạ sẽ cho Bệ-hạ là bất minh. Hạ thần biết mà không can gián, thiên-hạ sẽ cho Hạ-thần là bất trung. Nếu Bệ-hạ giết Ðỗ-bá, hạ thần xin cùng chết. Tuyên-vương nói: - Trẫm chém Ðỗ-bá như chém cỏ rác, ngươi chớ nhiều lời làm chi. Nói xong, nạt võ-sĩ đem Ðỗ-bá ra chém. Còn Tả-nho về đến nhà cũng tự-vận mà thác. Người sau, cảm lòng trung nghĩa, lập miếu nơi Ðồ-lăng mà thời gọi là miếu Tả-tướng-quân. Con trai Ðỗ-bá là Thấp-thúc trốn qua nước Tấn, lành đến chức Sĩ-sư, sau con cháu đổi ra họ Phạm. Khi Tuyên-vương nghe tin Tả-nho tự vận, lòng hối-ngộ, ăn ngủ không yên, mà sanh bệnh, bỏ cả việc triều chính. Khương-hậu thấy vậy cũng không dám phàn nàn. Một hôm, vào tiết mùa thu, Tuyên-vương muốn đi săn bắn để giải muộn bèn truyền Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ sắm sửa xe giá lên đường. Hai bên tiền hô, hậu ủng thẳng đến Ðông-giao. Ðến nơi, vua truyền hạ trại, và dặn dò quân-sĩ không được đạp phá mùa màng, làm chấn động lê dân. Ðoạn truyền lịnh hễ ai bắt được nhiều thú rừng sẽ được trọng thưởng. Quân-sĩ đua nhau bủa vây khắp chốn. Lòng vua rất đẹp. Chẳng bao lâu, mặt trời đã gác non Ðoài, vua truyền bãi cuộc săn bắn. Quân sĩ tuân lệnh bao nhiêu phi-cầm tầu thú đều buộc trói sẳn sàng hộ giá về cung. Ði chưa dược ba bốn dặm đường, nhà vua mặt mày bỗng xây xẩm, rồi trước mắt thoáng thấy một cổ xe nhỏ từ đàng xa tiến đến. Trên xe có hai người, tay cầm cung tên, hô lớn: - Bệ-hạ vẫn được mạnh giỏi chứ. Tuyên-vương nhìn kỹ thấy hai người đó là Ðỗ-bá và Tả-nho, thất kinh gọi kẻ tả-hữu hỏi thì chẳng ai thấy gì hết. Chiếc xe nhỏ kia cứ lởn vởn mãi trước mắt, vua cả giận hét: - Phản thần! Dám đến đây phạm giá sao? Nói xong, rút bửu kiếm ra chém. Bỗng nghe có tiếng Ðỗ-bá và Tả-nho mắng lại. - Hôn quân, đã không biết sửa mình còn chém người vô tội! Hôm nay khí số hôn quân đã mãn, hãy lo mà đền mạng cho sớm. Dứt lời, trương cung nhằm ngay ngực nhà vua bắn tới. Tuyên-vương hét lên một tràng thất thanh rồi té xỉu xuống. Các quan hộ giá xúm lại đỡ dậy, lo thuốc men cứu chữa. Nhà vua ôm ngực rên la cho đến lúc về tới cung. Ai nay đều sợ sệt, nhìn nhau không biết nguyên-do nào xảy ra như vậy. (1) Lâm bồn: Mới sanh. (2) Thái-miếu: Nơi thờ-phượng các Tiên-vương. (3) Trai-cung: Nhà chay. (4) Ấy là điềm ứng cho nhà Châu phải dời qua hướng Ðông. (5) Ðồng-dao: Câu hát của con nít. (6) Thiên cơ: Máy trời, sự mầu nhiệm của tạo hóa.
Hồi 2: Bao-quýnh chuộc tội, dâng gái đẹp, U-vương đốt lửa diễu chư-hầu Bấm để xem Từ khi săn bắn ở Ðông-giao về, Tuyên-vương lâm bệnh nặng, đêm nào chợp mắt cũng thấy Ðỗ-bá và Tả-nho đến đòi mạng Biết mình không thể sống được lâu, bèn cho đòi Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ đến để thác cô. Hai người nầy vào quỳ dưới long-sàng hỏi thăm căn bịnh.. Vua khiến nội-thị đỡ dậy và nói: - Trẫm nhờ sức của hai khanh mới ở ngôi đặng bốn mươi sáu năm, chẳng ngờ hôm nay lâm bịnh nặng, không thể sống được nữa, Thái-tử là Cung-niếc tuổi tuy đã lớn mà tánh-tình ngu-muội, xin chư khanh hãy hết lòng phò tá kẻo hư cơ-nghiệp. Hai người cúi đầu lãnh mạng, bái tạ lui ra. Vừa đến cửa cung xảy gặp quan Thái-sử Bá-dương-phụ bước vào. Thiệu-hổ hỏi: - Có phải ngài đến để thăm Bệ-hạ không? Bịnh tình Bệ-hạ rất nguy kịch, khó mà sống đặng. Doãn-kiết-phù nói: - Trước kia là tiếng hát rao, nay lại đến hồi quỷ hiện, vận nước thật khó an toàn. Bá-dương-phụ nói: - Ðêm qua tôi có xem thiên-văn, thấy yêu-tinh phục nơi sao Tử-vi. Quốc gia còn gặp nhiều tai biến nữa. Thiệu-hổ nói: - Tuy trời định hơn người, song người cũng có thể thắng mạng trời. Các ông cứ nói theo thiên-đạo mà bỏ nhân-lực sao! Cả triều thần không đủ sức chống lại mọi tai biến ư? Ba người nhìn nhau, mỗi người riêng một ý nghĩ, rồi ai về nhà nấy. Ðêm hôm ấy Tuyên-vương băng-hà. Khương Thái-hậu bèn ra ý chỉ triệu các vị lão-thần Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ xuất lãnh bá quan, phò Thái-tử Cung-niếc vào làm lễ cử ai, rồi tức vị trước linh-cữu, xưng hiệu là U-vương, lập con gái Thân-bá lên làm Hoàng-hậu, lập con trai là Nghi-cựu lên làm Thái-tử, phong Thân-Bá làm Thân-hầu. Sau khi Tuyên-vương chết, bà Khương-hậu buồn rầu vô cùng, chẳng bao lâu cũng tạ thế. Còn U-vương lại là một ông vua bạo ngược, háo sắc. Mặc dù trong tang chế, ngày nào cũng ăn uống rượu chè, đắm say vật-dục đến nỗi bỏ bê cả việc triều-chánh. Thân-hầu ngày ngày can gián không được, buồn giận lui về nước Thân tá túc. Bấy giờ khí số nhà Châu cũng đã sắp tàn, nên khiến các vị lão thần như Doãn-kiết-phủ, Thiệu-hổ, đều lần lượt quy-thiên. U Vương lại dùng Quách-công, Tế-công, và con của Doãn-kiết-phủ là Doãn-cầu lên làm bực Tam-công. Ba người nầy đều là những kẻ dua nịnh tham quyền, cố-vị còn Trịnh-hữu-bá là người trung-trực vua lại không tin dùng. Một hôm, thiết-triều tại Kỳ-sơn, có quan thủ-thần vào tâu: - Tâu Bệ-hạ, chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lúc. Không một chút lo lắng, U-vương mỉm cười nói: - Núi lở đất động là việc thường, nhà ngươi tâu với trẫm làm gì? Nói xong, liền di-giá về cung Quan Thái-sử Bá-dương-phụ cầm tay quan Ðại-phu Triệu-thúc-Ðái than rằng: - Thuở trước sông Ỷ, sông Lạc cạn, nhà Hạ mất ; sông Hà cạn, nhà Thương hư ; nay cùng một lúc ba sông đều động một lượt ấy là trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh khỏi tai biến. Triệu-thúc-đái hỏi: - Theo dự đoán của ngài thì bao giờ mới xảy ra tai biến ấy? Bá-dương-phụ đánh tay xem lại, rồi đáp: - Nếu vua biết răn mình, chuộng hiền lánh dữ thì trong khoảng mười năm, bằng ngược lại họa sẽ tới gấp không chừng. Thúc-đái nghe nói thở dài, cầm tay Dương-phụ, nói: - Nay Thánh-thượng chẳng kể việc quốc-chính, xa những tôi trung gần gũi nịnh thần, chẳng lẽ chúng ta khoanh tay ngồi ngó trong lúc nước nhà bại vong. Vậy chúng ta phải can gián, dù được hay không cũng tròn bổn phận. Bá-dương-phụ cũng thở dài rồi lắc đầu nói: - Dù chúng ta có làm gì cũng vô ích. Trong lúc hai người nói chuyện có kẻ rình mò nghe được, thuật lại với Quách-công. Quách-công sợ nếu để Thúc-đái can gián ắt lòi chuyện gian-nịnh của mình, bèn thẳng vào hậu cung tìm lời sàm tâu rằng: - Bá-dương-phụ và Triệu-thúc-đái chê bai triều-đình, làm cho dân chúng hoang-mang. U Vương nói: - Chúng là những đứa ngu dốt biết chi mà bàn luận. Thói thường, những kẻ ngu dốt thường học đòi hay xét-nét đến công việc của thiên-hạ, khanh để ý làm gì cho bận tâm. Quách-công nghe nói thì cúi đầu lui ra, mặt mày hớn hở. Cách vài ngày sau, quan trấn thủ núi Kỳ-sơn lại dâng biểu về tâu rằng: - Ba sông đều cạn, núi Kỳ-sơn lại lở, đè chết dân chúng rất nhiều. U Vương không thèm để ý đến, sai bọn nội giám đi tìm gái đẹp sung bổ vào cung. Triệu-thúc-đái nóng lòng, dâng biểu can rằng: - Sơn băng, thủy kiệt là biểu-hiệu của thiên tai. Vả lại Kỳ-sơn là nơi dựng nghiệp đế vương nay lại bị lở đi thì không phải việc nhỏ. Lẽ ra phải chọn hiền tài, để chung lo cứu nước thì Bệ-hạ lại chọn mỹ-nữ để vui riêng, hạ thần lấy làm hổ thẹn. Nhà vua chưa kịp nói, thì Quách-công đã quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, đất Phong, đất Kiều là chỗ đóng đô còn Kỳ-sơn cũng như chiếc giày rách lâu đời đã bỏ đi, thì việc núi long đất lở có can hệ gì. Ấy là Thúc-đái có ý khi-quân, mượn cớ để phỉ-báng triều đình, xin Bệ-hạ rộng xét. U-vương nói: - Lời Quách-công nói rất phải, Thúc-đái đã có ý khi-quân, trẫm không thể nào dung thứ. Nói rồi vua bèn cách chức Triệu-thúc-đái đuổi về quê. Thúc-đái ngửa mặt lên trời than: - Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cứ. Tuy-nhiên, ta không khỏi đau lòng nhìn nhà Tây-châu mất nước. Than rồi bèn dắt cả gia-quyến trở về nước Tấn. Lúc ấy có quan Ðại-phu Bao-hướng vừa ở Bao-trung về, nghe tin Thúc-đái bị đuổi, bèn vội vã vào triều can gián rằng: - Tâu Bệ-hạ, nước nhà đang xảy ra nhiều điềm tai biến, Bệ-Hạ lại đuổi cả các tôi hiền, thì lấy ai phò xã tắc. Vua cả giận, truyền bắt Bao-hướng hạ ngục. Từ ấy không còn ai dám ngăn cản nữa. Ðây nhắc qua việc người bán cung lúc trước, sau khi vớt được đứa bé, bèn trốn về Bao-thành ẩn-náu. Nhưng vì nghèo khó nuôi đứa bé không nổi, mới đem cho một nhà giàu, hiếm con, là Tư-đại đặt tên đứa bé là Bao-tự. Nàng Bao-tự tuổi vừa mười bốn mà cao lớn như một thiếu-nữ mười sáu, mười bảy sắc đẹp tuyệt trần, mắt phượng, mày ngài, đáng bậc khuynh-thành, khuynh-quốc. Nhưng vì ở chốn thôn quê, dẫu sắc-nước hương-trời cũng không ai biết tới. Một hôm, Hồng-đức là con của Bao-hướng, nhơn thâu thuế làng đi qua đấy, thấy Bao-tự đang gánh nước. Hồng-đức đứng sững sờ, chắc lưỡi khen thầm: - Làng quê mùa như vầy, sao lại có người đẹp đến thế! Bỗng chàng lại sanh ra một ý nghĩ: - Cha ta bị tù nơi Kiểu-kinh đã ba năm, mà vua chưa tha. Nay, nếu được nàng nầy đem dâng cho vua, ắt vua tha tội. Bèn hỏi thăm tên họ rồi trở về nhà thưa với mẹ: - Phụ thân con vì tánh ngay thẳng mà trái ý vua, chứ không làm gì nên tội. Nay vua đang tuyển gái đẹp, mà con gái nhà Tư-đại lại đẹp vô ngần, nếu chúng ta mua được đem dâng cho vua, chuộc tội cho phụ thân, ấy là kế của Táng-nghi-sanh cứu Văn-vương ngày xưa đó. Mẹ Hồng-đức nói: - Nếu kế ấy mà thành-tựu, đem lại sự sum-họp gia-đình, thì mẹ đâu có tiếc gì vàng bạc. Ðược lời Hồng-đức cả mừng, đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tư-đại hỏi mua nàng Bao-tự. Việc mua bán không khó khăn lắm, vì Bao-tự là con nuôi, nhà Tư-đại đâu có mến tiếc làm chi. Hồng-đức đem về, hương xông xạ ướp thay đổi xiêm-y, dạy cho biết những phép tắc cần thiết, rồi dẫn đến Kiểu-kinh tìm cách lo lót với Quách-công nhờ bảo tấu. Quách-công thấy vàng bạc, lòng mừng rỡ vào triều tâu với U Vương rằng: - Bao-hướng ngỗ-nghịch oai trời, tội đáng muôn thác. Nay có con va là Hồng-đức, chẳng nài khó khăn tìm kiếm khắp nơi mới được một mỹ nhân tên Bao-tự, đem đến dâng cho Bệ-hạ để chuộc tội cha, xin Bệ-hạ nghĩ tấm lòng hiếu thảo mà lượng xét. U Vương nghe tâu cả mừng truyền dẫn Bao-Tự vào bệ-kiến. Bao-Tự bước vào quỳ lạy trước ngai. U-vương xem thay mặt rồng ngây ngất, nhìn mãi không thôi! Qua một lúc, vua mới sực tỉnh, nghĩ thầm: - Ðã biết bao nhiêu cung nữ tuyển lựa, nhưng chưa hề có người nào chim sa cá lặn như vầy. Bèn hạ chỉ tha Bao-hướng và cho phục-chức. Lại truyền dẫn Bao Tự vào một biệt cung, không cho Thân-hậu hay. Ðêm ấy U-vương say tình cá nước. Và, từ đó chẳng lúc nào rời Bao-tự. Khi xem trăng, khi sánh nguyệt, khi đối ẩm, lúc ca xang, say sưa mãi nơi cung Quỳnh-đài, chẳng thiết gì đến việc triều chính. Có khi đến mười ngày cũng không thấy vua lâm triều. Trăm quan đều thở than, lo lắng. Có người đem chuyện vua mê-say Bao-tự nói với Thân-hậu hay. Thân-hậu tức giận, một hôm dẫn bọn cung-nga đến cung Quỳnh-đài xem hư thiệt. Vừa đến nơi, Thân-hậu thoáng thấy U-vương đang cùng với Bao-tự kề vai trửng-giỡn. Thân-hậu bước vào Bao-tự vẫn ngồi im, liếc mặt đưa tình nhìn vua chứ không đứng dậy chào đón. Thân Hậu tức không dằn được, chỉ vào mặt mắng: - Loài tiện tỳ mi ở đâu dám đến đây làm nhơ nhớp chốn cung vi? Vừa nói, vừa muốn xốc tới. U-vương sợ Thân-hậu làm hỗn vội đứng dậy, cản lại, và nói: - Ðây là mỹ-nhơn của trẫm mới dùng, chưa định ngôi thứ nên chưa kịp đến ra mắt hậu, xin hậu chớ chấp nhứt làm chi. Thân-hậu mắng nhiếc một hồi rồi hậm-hực lui ra. Bao-tự hỏi U-vương: - Tâu Bệ-hạ chẳng hay người ấy là ai mà hung-dữ lắm vậy? U Vương nói: - Ấy là Hoàng-hậu đó. Ngày mai khanh phải đến làm lễ ra mắt. Bao-tự làm thinh, rồi ngày mai cũng chẳng đi chào Hoàng-hậu. Từ khi biết rõ sự tình, Thân-hậu lòng buồn rười rượi ngày tối than thở mãi trong cung. Thái-tử Nghi-cựu thấy thế quỳ tâu: - Tâu mẫu-hậu, mẫu-hậu đã làm chúa tể nơi tam cung lục viện, oai quyền như thế, chẳng hay còn điều chi bất bình mà buồn bã. Thân-hậu đỡ con dậy, hai hàng nước mắt ràng rụa, nói: - Con ơi! Phụ-vương con đắm say con Bao-tự, không kể gì đến mẹ nữa. Thân mẹ dù có bị bạc bẽo cũng chẳng sao, duy có giang san sự-nghiệp sau nầy ắt phải tan tành vì tay con khốn nạn đó. Thái-tử nghe nói vừa buồn, vừa giận, cầm tay Thân-hậu nói: - Xin mẹ chớ có sầu bi. Ngày mai là ngày Sóc (mồng một), phụ-vương con thế nào cũng lâm triều, chừng ấy mẹ sai bọn cung-nữ qua nơi Huỳnh-đài bẻ phá bông hoa, dụ Bao-tự ra khỏi cung, con sẽ đánh cho một trận trả thù cho mẹ. Dẫu phụ-vương con có trách mắng, con xin cam chịu. Thân-hậu lắc đầu nói: - Con chớ nên nóng nảy như thế, để thủng-thỉnh mà liệu, kẻo lâm vào độc-kế của con dâm-phụ đó. Thái-tử Nghi-cựu hậm-hực ra về. Sáng hôm sau, quả nhiên U-vương lâm-triều. Nghi-cựu bèn sai một số cung-nhân qua nơi Quỳnh-đài, chẳng nói chi hết cứ việc vác cây đập phá bông hoa. Bọn thế nữ trong đài trông thấy thất kinh chạy ra cản lại và la lớn rằng: - Hoa nầy vốn của Chúa-thượng trồng, để cho Bao-nương ngoạn cảnh chớ nên phá phách mà tội chẳng nhỏ. Bọn cung-nhân vẫn không ngừng tay, ứng tiếng đáp: - Bọn ta vâng lịnh Ðông-cung Thái-tử đến bẻ hoa nầy về dâng cho Chánh-hậu, ai dám cản trở sao! Hai đàng cãi vả om-sòm, làm cho Bao-tự đang mơ-màng giấc điệp, bỗng giật mình thức dậy, bước ra xem thấy bông hoa tơi tả Bao-tự cả giận, toan bước tới đánh bọn cung-nữ, chẳng dè Thái-tử núp gần đấy, nhảy tới trợn mắt hét: - Nghiệt-phụ mi là người chi, danh dự gì mà dám xưng là nương-nương, chẳng kiêng ai hết, nay ta làm cho mi thấy cái nương-nương của mi. Nói dứt lời, Thái-tử nắm đầu Bao-tự tát cho mấy cái. Bao Tự đau quá ré lên. Bọn cung-nữ sợ hãi, đồng quỳ móp xuống đất thưa: - Xin Thái-tử hãy khoan-dung, kẻo phiền lòng Chúa-thượng Thái-tử Nghi-cựu chưa hả giận, nhưng sợ đánh sảy tay bèn buông Bao-tự ra, rồi chỉ vào mặt nói: - Nếu mi còn ngạo-nghể ta sẽ không bao giờ để cho mi sống yên. Nói xong quay gót trở về Ðông cung. Bao-tự biết Thái-tử đánh trả thù cho mẹ, nên phải dằn lòng nhẫn nhục trở vào, nằm vật trên giường than khóc. Bọn cung-nga thế nữ đồng xúm lại khuyên giải: - Bề nào cũng còn có Chúa-thượng, nương-nương khóc lóc làm chi. Bao-tự nằm khóc sụt sịt mãi cho đến lúc U-vương bãi triều bước về Quỳnh-đài, nàng mới khóc rống lên. U-vương vội vã bước vào hỏi: - Tại sao ái-khanh dung mạo như thế nầy? Chẳng hay có điều gì xảy đến, hãy nói cho trẫm rõ. Bao-tự cứ khóc mãi không nói. Ðợi cho U-vương năn nỉ đôi ba phen, nàng mới nghẹn ngào thốt ra lời: - Hôm nay Thái-tử dẫn một tốp cung-nhân đến hái phá trông hoa dưới đài. Mặc dầu hành động ngang tàng ấy, thiếp cũng chẳng làm nói Thái-tử lại xông vào đánh thiếp. Nếu chẳng có cung-nga can giáng ắt mạng thiếp chẳng còn. Nói xong lại khóc rống lên nữa. U-vương đã rõ ngọn-ngành, vừa vỗ về Bao-tự, vừa nói: - Ái khanh ơi! Chỉ vì ái-khanh không chịu ra mắt Chánh-hậu, nên Chánh-hậu giận, sai Thái-tử làm như vậy chứ không phải tại Thái-tử đâu, ái-khanh chớ hiểu lầm mà trách nó. Bao-tự làm ra mặt giận nói: - Thái-tử vì mẹ mà báo thù, Thánh-thượng cũng vì Chánh-hậu mà che chở tội lỗi. Dầu thiếp có chết đi cũng chẳng tiếc. Song, từ khi hầu-hạ Thánh-thượng đến nay, thiếp đã có mang hai tháng. Vậy xin Thánh-thượng cho thiếp ra khỏi cung để bảo tồn giọt máu của Thánh-thượng. U-Vương mặt mày buồn bã, đỡ Bao-tự dậy, nói: - Thôi, ái-khanh chớ buồn bã mà đau lòng Trẫm. Trẫm sẽ xét xử công-minh. Rồi, nội trong ngày hôm ấy, vua truyền chỉ rằng: Thái-tử Nghi-Cựu bạo động vô-lễ, chẳng biết điều thảo thuận, nên phải đưa qua nước Thân cho Thân-hầu dạy dỗ, còn những quan Thái-phó, Thiếu-phó nơi Ðông-cung, dạy dỗ chẳng nghiêm, nên thảy đều bị cách chức. Thái-tử Nghi-cựu được lệnh vội vã vào cung kêu nài, nhưng U-vương đã biết trước, dặn quan giữ cửa không cho vào. Thái-tử chẳng biết làm sao, đành lên đường qua nước Thân cư-trú. Còn Thân-hậu, luôn mấy hôm không thấy con vào thăm trong lòng lo lắng, sai bọn cung-nữ dò hỏi, mới hay Thái-tử đã bị đầy sang nước Thân rồi một mình bơ vơ, ngày ngày nhớ con gào thét thảm-thiết. Lần hồi ngày tháng thoi đưa, Bao-tự lâm-bồn sanh đặng một trai. U-vương yêu-mến vô-ngần, đặt tên là Bá-phục. Và, cũng từ ngày ấy, U-vương có ý phế con đích lập con thứ, song chưa có cơ hội thuận-tiện Quách-thạch-phù (tức Quách-công) dò biết ý vua bèn thương-nghị với Doãn-cầu, rồi thông-tư với Bao-tự rằng: - Thái-tử hiện bị đày ra khỏi nước, vậy phải lập tự cho Bá-phúc. Bên trong cậy có nương-nương, bên ngoài chúng tôi giúp sức, lo chi việc ấy không thành. Bao-tự bắt được tin, lòng mừng khắp khởi, vội phúc đáp ngay: - Ta cậy nhờ hai khanh hết lòng bảo bọc, nếu Bá-phục đặng nối ngôi thì việc giàu sang trong thiên-hạ, ta quyết không bao giờ phụ. Từ đó, Bao-tự thường lén sai người tâm-phúc, theo dỏi hành-vi của Thân-hậu, dầu việc nhỏ mọn đến đâu cũng không qua mặt nổi. Còn Thân-hậu sống trong buồn thảm, giận vua nhớ con, cả ngày không ráo nước mắt. Có một cung-nhân già cả, thấy thế động lòng, kiếm lời bàn bạc: - Tâu Hoàng-hậu, nay tình mẹ con cách trở, cả hai đều mang nặng nhớ nhung, xin Hoàng-hậu lén biên thư gởi sang nước Thân bảo Ðiện-hạ làm biểu gởi về thỉnh tội may ra Chúa-thượng động tình mà cho phép hồi-hương, như thế mẹ con được sum-họp. Thân-hậu sụt sùi nói: - Lời ngươi nói rất phải, ngặt không có ai đem thư, biết liệu làm sao? Người cung-nhân nói: - Mẹ tôi là Ôn-áo, biết nghề làm thuốc. Vậy Hoàng-hậu giả đau, đòi mẹ tôi vào coi mạch, rồi khiến mẹ tôi đem thư về mà sai anh tôi đi thì khỏi lo chi hết. Thân-hậu nghe theo lời, viết một bức thư. Trong thư đại ý như sau: Thiên-tử vô đạo, mê đắm con nghiệt-phụ, làm cho mẫu-tử phân-ly. Nay con nghiệt-phụ lại sanh đặng một đứa con, Chúa-thượng yêu mến lắm. Vậy con phải gởi biểu để thỉnh tội để Chúa-thượng thương tình, tha con về trào. Chừng ấy mẹ con gặp nhau sẽ tính toán kế khác. Viết thư xong, Thân-hậu giả bịnh sai người đòi Ôn-áo vào cung xem mạch. Tuy việc rất kín đáo, song không thoát khỏi tầm mắt của bọn tay chân Bao-tự, chúng hay được, chạy về báo. Bao-tự nghĩ thầm: - Ðấy chắc là va thông tin tức với Thái-tử. Vậy chờ lúc Ôn-áo ra khỏi cung, bắt lại mà xét sẽ biết ngay gian. Thật vậy, khi Ôn-áo xem mạch cho Chánh-hậu xong, bái tạ ra về có ôm theo hai tấm lụa. Vừa bước chân ra khỏi cung, bị nội-giám đón lại hỏi: - Lụa nầy ở đâu mà có vậy? Ôn-áo đáp: - Tôi vào coi mạch cho Chánh-hậu, được Chánh-hậu tặng thưởng. Nội-giám đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý, rồi một người bước đến giật tấm lựa mở banh ra khám xét. Thấy trong tấrn lụa không có gì nội giám lại xúm nhau lục soát khắp mình. Bỗng bắt gặp trong lai áo, có một phong thư, vội đem về Quỳnh-đài dâng cho Bao-tự. Bao-tự xem thơ cả giận, truyền bắt Ôn-ao xiềng lại, và xé nát hai tấm lụa quăng xuống đất. Kịp lúc U-vương bước vào, thấy thế hỏi duyên cớ. Bao-tự khóc và tâu rằng: - Tiện thiếp hân-hạnh được vào chốn thâm cung, lại được Bệ-hạ rũ lòng thương, ơn ấy dẫu đến chết cũng chưa đáp đền nổi. Nay vì thiếp sanh được một mụn con trai, làm cho Chánh-hậu đem lòng ghen ghét, viết thư cho Thái-tử, lập mưu ám hại. Tấm thân thiếp thật khó mà toàn mạng. Nói dứt lời lấy phong thư dâng cho U-vương xem. U-vương sửng sốt, nhận biết nét chữ của Thân-hậu liền hỏi: - Người nào đã nhận đem bức thư này. Bao-tự nói: Người đó là Ôn-áo, hiện Nội-giám còn đang giữ lại. Vua đòi dẫn Ôn-áo vào, rồi chăng hỏi qua một tiếng, rút gươm chém đứt làm hai đoạn. Sau Nhiêm-ông có thơ than rằng: Lá thư chưa lọt cửa song ngoài Máu đã tuôn rồi! Thật đắng cay. Ám đạm thâm cung, tàn khí uất, Bâng khuâng nữa giấc mộng chương-đài. Ðêm đến, Bao-tự lại thỏ thẻ với U-vương rằng. - Tánh mạng của mẹ con thần thiếp hiện nằm trong tay Thái-tử, chưa biết sống chết lúc nào. U-vương nói: - Bề nào cũng còn có trẫm đây, Thái-tử mà làm chi đặng sao. Bao-tự vừa khóc vừa nói: Hiện nay được nhờ Chúa thượng che chở, dầu ai có ghét cũng chẳng làm chi, song đến chừng Chúa-thượng qua đời, Thái-tử lên nối ngôi, chừng ấy quyền-bính về tay Chánh-hậu. Chánh-hậu muốn giết mẹ con thiếp lúc nào chẳng được. Dứt lời, Bao-tự lại khóc rống lên. U-vương cầm tay thổn-thức: - Trẫm muốn phế Chánh-hậu và Thái-tử đi, để lập khanh làm Chánh-hậu, và Bá-phục làm Ðông-cung, song e quần-thần chẳng phục. Bao-tự nói: - Tôi nghe vua thì thuận, mà vua nghe tôi là nghịch, xin Bệ-hạ hãy đem ý đó mà hiểu-dụ quần thần, xem nghị-luận thế nào. U-vương mỉm cười, nói: - Ái khanh nói rất phải, để mai trẫm sẽ tính. Ðêm ấy Bao-tự sai người tâm-phúc ra nói với Quách-thạch-phủ và Doãn-cầu hay, đặng dự bị trước mà ứng đáp. Ngày thứ, U-vương lâm trào, các quan triều bái xong, vua truyền chỉ triệu hết công-khanh thượng-điện, mà phán rằng: - Nay Chánh-hậu sanh lòng tật-đố, không kiêng-nễ phép vua, ngày đêm thốt những lời oán-cừu trẫm. Tội ấy khó dung, chư khanh nghi thế nào Quách-thạch-phủ quỳ tâu: - Hoàng-hậu là một vị quốc mẫu, dẫu có tội chi cũng không nên tra hỏi. Nếu xét không đáng vị Chánh-cung thì xin Bệ-hạ chọn người có đức-hạnh thay thế mà thôi. Doãn-cầu cũng quỳ xuống tâu theo: - Tâu Bệ-hạ, kẻ hạ-thần trộm nghe đức-hạnh của Vương-phi Bao-tự, thật đáng làm chúa trong cung lắrn. U Vương lại hỏi: - Nay Thái-tử đang ở nước Thân, như bỏ ngôi của Thân-hậu thì địa-vị của Thái-tử sẽ thế nào? Quách-thạch-phù tâu: - Nếu đã bỏ mẹ thì dùng con làm gì nữa. Xin Bệ-hạ hãy phế Nghi-cựu mà tôn Bá-phục lên Ðông-cung. U Vương mừng lắm, lập tức hạ chiếu bắt Thân-hậu giam vào lãnh-cung, cắt ngôi Nghi-cựu, lập Bao-tự lên làm Chánh-hậu, Bá-phục làm Ðông-cung Thái-tử. Lại ra lệnh nếu ai ngăn-cản sẽ bị khép vào tội phản-nghịch. Quần-thần nhiều người lấy làm bất bình, nhưng không dám nói, vì thấy ý vua đã quyết, can gián không ích gì mà hại đến thân. Bá-dương-phụ tức tốc xin từ quan, về làng dưỡng lão, còn các vị trung thần khác, lần lượt bỏ chức cũng nhiều. Bao-tự tuy được phong làm Hoàng-hậu nhưng chưa lấy thế làm vui. Cả ngày ít nói, không cười, không ai hiểu nổi được lòng nàng cả. Có lẽ nàng đang ước-vọng những cái gì xa xôi nữa chăng? U Vương thấy Bao-tự không cười, lòng bâng khuâng lo lắng, bèn triệu tất cả nhạc-công trong triều tập-họp đến để đờn ca hát xướng cho nàng vui, song vẫn không thấy nàng cười lên một tiếng nào. U Vương nghĩ thầm: - Ta phế lập Chánh cung và Ðông-cung mục đích để làm vui lòng nàng, thế mà không được nàng trao cho một nụ cười thật là đau đớn. Nghĩ như vậy bèn thỏ thẻ hỏi Bao-tự: - Ðờn ca như thế không làm cho ái-khanh vui sao? Bao-tự đáp: - Tâu Bệ-hạ, thần thiếp nhớ lại tiếng xé lụa trước đây còn vui tai hơn là tiếng âm nhạc. U-vương cả mừng nói: - Ái-khanh ưa nghe tiếng xé lụa, sao ái-khanh không nói cho sớm. Nói rồi truyền quan giữ kho mỗi ngày đem vào cung một trărn tấm lụa, lại khiến các cung-nữ khỏe mạnh thay phiên nhau xé để làm vui Bao-tự. Nhưng quái thay! Xé đến bao nhiêu lụa vẫn chưa thấy Bao-tự cười một tiếng nào. U-vương lo lắng, hỏi: - Ðã ưa tiếng xé lụa, và lụa cũng đã xé rặt nhiều, sao trẫm chưa thay ái-khanh vui. Bao-tự mặt lầm-lì không đáp. U-vương se thắt cõi lòng nói: - Thế nào trẫm cũng tìm cách làm cho ái-khanh cười lên một tiếng. Bèn ra lệnh khắp triều thần, ai có kế gì làm cho Bao-tự cười lên một tiếng sẽ được thưởng ngàn vàng. Quách-thạch-phủ quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, ngày trước Tiên-vương có lập mười cái phong-hỏa-đài tại núi Ly-sơn, lại tạo mấy chục cỗ trống rất lớn, để mỗi khi có giặc Tây-nhung đến xâm lấn thì nổi lửa gióng trống lên. Các chư-hầu nghe thấy đem binh đến cứu. Từ ấy đến nay, trong nước thái-bình, nên phong-hỏa-đài không dùng đến. Nếu Bệ-hạ muốn làm cho Chánh-hậu vui cười, xin Bệ-hạ hãy cùng Chánh-hậu đến Ly-sơn du-ngoạn, rồi nữa đêm đốt phong-hỏa-đài lên, đánh trống cho thật dữ, binh viện các chư hầu ắt đem binh đến cứu. Chừng ấy, không thấy giặc giã gì cả, các chư-hầu phải lục-tục kéo quân trở về, như thế làm sao Chánh-hậu khỏi tức cười. U vương đắc-ý vỗ tay cười lớn, nói: - Kế ấy rất hay! Bèn dắt Bao-tự lên Ly-sơn bày tiệc ăn uống rồi truyền quân nổi lửa đốt phong-hỏa-đài. Lúc ấy Trịnh-bá-hữu đang làm chức Tư-đồ tại trào, nghe việc ấy thất kinh, vội vã chạy đến Ly-sơn, quỳ móp xuống đất tâu rằng: - Tâu Bệ-hạ, phong-hỏa-đài Tiên-vương lập lên là để thông tin tức với chư hầu khi trong nước có biến, nay vô cớ mà Bệ-hạ đốt lửa, gạt chư hầu để làm trò vui, về sau thoảng có điều binh đao bất trắc, đốt phong-hỏa-đài lên thì ai còn tin mà đến cứu viện, xin Bệ-hạ chớ nên làm việc đó. U Vương nổi giận mắng: - Nay thiên-hạ đang vui hưởng thái bình thì cần gì quân cứu viện. Trẫm và Vương-hậu ra đây du ngoạn, không có gì tiêu-khiển nên mượn kế làm vui. Nếu sau nầy có giặc lại can hệ gì đến ngươi sao mà ngươi lo lắng. Trịnh-bá-hữu nghe nói thở dài, lủi thủi bước ra. U-vương truyền quân đốt lửa, và gióng trống lên. Ánh lửa rực trời, tiếng trống vang như sấm. Các chư hầu ngỡ là Kiểu-kinh có giặc, vội vàng kiểm-binh, điểm tướng suốt đêm kéo đến Ly-sơn. Ðến nơi thì nghe trên lầu đờn ca, hát xướng, lại thấy U-vương cùng Bao-Tự đang uống rượu vui vầy. Thấy quân-sĩ các chư-hầu rầm rộ kéo đến U-vương mỉm cười ra đứng trước hiên lầu, nói lớn rằng: - Trẫm may mắn không có giặc giã chi, chẳng dám phiền đến các chư-hầu. Các chư-hầu đều ngơ ngác nhìn nhau rồi bẽn lẽn cuốn cờ, dẹp trống, ai về nước nầy. Bao-tự đứng trên lầu trông xuống thấy quân lính khắp nơi ồ-ạt kéo đến, rồi lại lặng lẽ ra về thích chí vổ tay cười dài. U-vương ôm Bao-tự vào lòng nói: - Ái khanh ơi! Một tiếng cười của ái-khanh chẳng những làm vui lòng ta, mà còn tô thắm vạn màu tươi trong vũ-trụ, ấy cũng nhờ công của Quách-thạch-phủ đó. Nói xong, truyền quan giữ kho lấy ngàn vàng đem thưởng cho Quách-thạch-phủ. Người sau có bài thơ vịnh việc đốt lửa ấy như sau: Buồn lòng tiêu khiển một trò chơi, Ðốt lửa đêm thanh đỏ rực trời. Cờ trống chư hầu bôn bả tới Giúp vui chỉ một nụ cười tươi. Ðây nói về Thân-hầu, khi nghe U-vương phế Thân-hậu, lập Bao-Tự, lòng buồn bã, lập sớ gợi đến can rằng: - Xưa vua Kiệt mê Mụi-Hỷ mà nhà Hạ hư, vua Trụ mê Ðắc-kỷ mà nhà Thương mất. Nay Bệ-hạ đắm say Bao-tự, phế bỏ dòng chánh lập ra dòng thứ là trái nghĩa phu thê, hại tình phụ tử. Xin Bệ-hạ lấy cái gương nhà Hạ, nhà Thương mà tránh cho nhà Châu khỏi điều tai biến. U Vương xem sớ cả giận, vỗ án hét: - Quân phản-tặc, sao dám loạn-ngôn như thế! Quách-thạch-phủ quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, Thân-hầu trước đây thấy Bê-hạ đuổi Thái-tử đem lòng oán-hận, nay lại nghe Chánh-hậu bị truất ngôi, ý muốn mưu phản, nên mới dám dâng biểu hài tội Bệ-hạ như vậy. U Vương hỏi: - Như thế thì nay trẫm phải đối-xử làm sao? Quách-thạch-phủ tâu: - Thân-hầu vốn chẳng có công cán chi, nhờ Thân hậu mà được phong đến tước hầu. Nay Thân-hậu và Thái-tử đã bị truất-phế, thì cũng nên truất Thân-hầu xuống tước Bá như cũ, rồi dám binh đến vấn-tội để trừ hậu-hoạn. U Vương y tấu, hạ chỉ cách chức Thân-hầu lại khiến Quách-thạch-phủ kiểm-điểm binh mã, kéo đến nước Thân vấn tội.
Hồi 3: Kiểu-kinh, quân Khuyển-nhung tác-loạn, Ðông-lạc, Châu-bình-vương dời đô Bấm để xem Từ ngày Thân Hầu dâng biểu can vua, lòng nơm-nớp lo âu chẳng biết ý vua như thế nào, vội sai quân đi thám thính. Quân về báo: - U Vương sai Thạch-phủ làm đại-tướng, dẫn binh sang nước Thân vấn tội. Thân-hầu thất-kinh, hội các tướng tá thương-nghị. Thân-hầu nói: - Nước ta đã nhỏ mà binh lại ít làm sao cự cho lại binh vua Quan Ðại-phu Lữ-chương quỳ tâu: - Tâu Chúa-công, tuy nước ta là một chư hầu nhỏ, song Thiên-tử vô đạo, ngoài thì bỏ trung dùng nịnh, trong thì phế chánh, lập thứ, làm lắm điều bạo ngược. Nay nước Tây-nhung binh ròng, tướng mạnh, lại giáp ranh với nước Thân, xin Chúa-công gởi thư cầu cứu, mượn binh kéo về Kiểu-kinh đặng cứu Chánh-hậu, bắt vua phải nhường ngôi cho Thái-tử, ấy là noi theo gương Y-doãn, Châu-công đó. Thân-hầu khen phải, bèn khiến người đem một xe vàng lụa mang qua nước Tây-nhung mượn quân, lại hứa rằng, nếu phá được Kiểu-kinh thì bao nhiêu vàng bạc trong kho tự ý muốn lấy bao nhiêu cũng được. Nhung-chúa được thư, nghĩ thầm: - Thiên-tử bất chánh, Thân-hầu là vị quốc-cựu lại viết thư đến cầu cứu, ta đem quân dựng lại ngôi Thái-tử, đó là thuận lẽ trời, rất hợp với ý ta. Nghĩ rồi sai Mãng-tốc và Bột-đình, làm tả hữu tiên-phuông, điểm binh mười vạn, kéo đến Kiểu-kinh. Còn Nhung-chúa thống lãnh đạo trung quân đi sau làm hậu-vệ. Ðến nơi, Nhung-chúa đốc quân vây thành kín mít. Quân vào báo. U-vương thất-kinh nói: - Cơ bắt mật, họa tiên phát. Ta chưa kịp cất quân đi đánh mà giặc đã đến vây thành, biết làm sao bây giờ? Quách-thạch-phủ quỳ tâu: - Xin Bệ-hạ sai người đền phong-hỏa-đài đốt lửa lên, tất nhiên các chư hầu đem quân đến cứu. Chừng ấy trong đánh ra ngoài đánh vô ắt quân giặc không còn đường trốn thoát. U-Vương nghe lời, sai người đến Ly-sơn đốt lửa cháy ngất trời mà chẳng thấy binh của chư hầu nào đến cả. Chỉ thấy binh của Thân-hầu kéo đến hiệp với binh của Nhung-chúa vây thành càng chặt hơn. U-vương thấy chư-hầu không đến, binh giặc công-phá rất gấp, bèn bảo Quách-thạch-phủ: - Thế giặc mạnh yếu chưa rõ. Khanh ra đánh thử, rồi trẫm sẽ chọn binh mạnh mẽ mà tiếp ứng. Quách-thạch-phủ tuy sợ sệt nhưng phải tuân hành, dẫn binh xe hai trăm cỗ khai thành tiến ra. Trông thấy Quách-thạch-phủ, Thân-hầu chỉ vào mặt, nói với Nhung-chúa: - Ấy là đứa khi quân hại nước, đừng để nó chạy thoát. Nhung-chúa quay lại hỏi các tướng tá: - Ai dám ra bắt thằng giặc đó chăng? Bột-đình vung đao, vỗ ngựa đến thưa: - Tôi xin lấy đầu tên phản-tặc đó. Dứt lời, bay ngựa đến đánh với Quách-thạch-phủ. Ðánh chưa đặng mười hiệp Bột-đình chém Quách-thạch-phủ một đao rơi đầu. Nhung-chúa thừa thế, cùng với Mãng-tốc, đốc quân đến chém giết quân của U-vương vô số, rồi kéo vào thành, đốt phá nhà cửa lửa cháy mịt mù. Thân-hầu cũng không biết làm sao ngăn cản được hành động ấy. Trong thành cả loạn, U-vương tính thế không xong, bèn chở Bao-tự và Bá-phục lên xe nhỏ, rồi mở cửa sau thoát ra khỏi thành. Quan Tư-đồ Trịnh-bá-hữu chạy theo kêu lớn rằng: - Xin Bệ-hạ chớ sợ, có hạ-thần theo bảo giá đây. Nói xong, đẩy xe U-vương, thẳng đến Ly-sơn. Ði dọc đường gặp Doãn-cầu, hơ-hải chạy đến tâu: - Tâu Bệ-hạ, Khuyển-nhung đốt hết cung thất, chở hết vàng bạc trong kho. Còn Quách-công đã tử trận rồi. U Vương run rẩy hối Trịnh-bá-hữu đẩy xe đi cho mau. Khi đến Ly-sơn, Trịnh-bá-hữu lại đốt phong-hỏa-đài lên, khói bay ngất trời xanh, mà cũng không thấy chư hầu đến cứu. Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung tràn tới, vây dưới chân núi đông nghẹt. U Vương và Bao-tự đều thất kinh, nhìn xuống chân núi rnà khóc ròng. Trịnh-bá-hữu tâu: - Việc đã gấp rồi, hạ thần xin liều mình bảo-giá, đưa Bệ-hạ ra khỏi vòng vây, qua bên nước tôi rồi liệu bề khôi phục. U Vương nói: - Bởi trẫm chăng nghe lời thúc-phụ nên mới đến nỗi này. Nay trẫm chỉ còn nhờ ở tay thúc-phự mà thôi. Trịnh-bá-hữu bèn khiến người nổi lửa đốt Ly-cung đi, đặng gạt Khuyển-nhung, rồi phò U-vương xông xuống núi. Trịnh-bá-hữu cầm xà mâu đi trước mở đường, Doãn-cầu phò mẹ con Bao-tự theo sau U-vương. Ði chưa đặng bao xa, gặp viên cận tướng của Khuyển-nhung là Cổ-lý-xích xốc đến đón đường. Trịnh-bá-hữu cả giận, hươi xà mâu rước đánh. Hai đàng đánh chưa đặng mười hiệp Cổ-lý-xích cự không lại bị Trịnh-bá-hữu đâm nhào xuống ngựa. Ðàng sau, binh sĩ lại ó lên, Trịnh-bá Hữu quay nhìn lại, thấy Bột-đình đem binh truy-cản. Quân Khuyển-nhung quá mạnh, Trịnh-bá-hữu chỉ có một mình không làm sao cự cho nổi, đánh đỡ một hồi, bị tên bỏ mạng! Còn xe của U-vương bị Mãng-tốc bắt lại đem nạp cho Nhung-Chúa Nhung-chúa rút đao chém U-vương và Bá-phúc. Còn Bao-tự, vì thấy xinh đẹp, nên Nhung-chúa không chém bắt về nơi trướng mà giao hoan, thù lạc. Doãn Cầu quá sợ hãi núp trong xe, bị quân Khuyển-nhung trông thấy, kéo cổ ra mà chém. Giữa lúc đó, Thân-hầu thấy lửa dậy trong cung liền đem binh vào chữa, và thả Thân-hậu ra. Ðoạn đi tìm U-vương, song không thấy đâu cả. Bỗng thấy Nhung-chúa đem binh vào thành cười hả hê nói: - Tôi đã giết hôn quân rồi. Thân-hầu kinh ngạc, nói: - Tôi muốn đem binh vấn tội để răn vua không ngờ lại xẩy ra cơ hội nầy. Chúng ta không làm sao tránh khỏi mang tiếng về sau. Nói rồi sai người khâm liệm, làm lễ an táng U-vương. Chôn cất xong, Thân-hầu trở về Kinh sư, bài tiệc đãi đằng Nhung-chúa để tạ ơn, và lấy vàng lụa trong kho sắp lên mười xe, để làm quà tiễn hành đưa Nhung-chúa về nước. Nhưng không ngờ Nhung-chúa lấy việc giết U-vương làm công-trạng, không chịu đem binh về, cứ lần-quần nơi Kinh-thành ăn uống, chơi bời, phá-phách nhân dân. Ai nầy đều oán-trách. Thân-hầu không biết làm thế nào, túng phải làm thư sai người đem đến ba xứ chư hầu: Tấn-hầu Cơ-cừu nước Bắc-lộ, Vệ-hầu Cơ-hòa nước Ðông-lộ, và Tần-hầu Dinh-khai nước Tây-lộ. Lại sai người qua bên nước Trịnh, đem việc Trịnh-bá-hữu bị tử-trận tin cho Thái-tử Quật-đột (con của Trịnh-bá-hữu) đem quân qua báo thù. Thái-tử Quật-đột tuổi mới mười ba, mà mình cao tám thước, sức mạnh phi-thường, lại thông-minh tài trí ít người sánh kịp. Ngày kia, nghe được tin cha tử trận đau xót không cùng, liền mặc tang phúc, đem ba trăm cỗ xe trận sang Kiểu-kinh báo thù. Nhung-chúa hay tin kiểm điểm binh mã, đề phòng dự chiến. Vừa đến nơi Thái-tử Quật-đột muốn ra quân, nhưng Công-tử Thành can rằng: - Binh ta đường xa mới đến, còn mệt mỏi, nếu đánh e khó thắng. Xin cứ an-dinh hạ trại, chờ binh các nước chư-hầu kéo đến, hiệp sức công phá thì mới thành công đặng. Quật-đột nói: - Binh quý thần tốc. Nếu đợi lâu chễnh-mảng lòng quân. Vả lại, nhơn lúc binh Khuyển-nhung đang bê trể, không đánh để trả thù cha còn đợi chừng nào. Nói xong, thúc quân ra trận, đến trước cửa thành kêu Nhung-Chúa mắng rằng: - Hỡi tên giặc Mọi! Hãy đem đầu mà nạp cho ta để đền lại tội phản-phúc! Trên thành không ai ra ứng đáp. Quật-đột tức giận, truyền quân công phá. Trong lúc quân sĩ đang phá thành rất hăng, thì bỗng nghe một hồi thanh la nổi lên vang dậy nơi phía rừng rậm, rồi một đạo quân kéo ra (đó là đạo binh của Nhung-chúa sai phục sẵn ở đó). Quật-đột vội vàng xua binh đón đánh. Trong lúc hai bên đang xáp trận, trong thành lại có tiếng thanh la nổi lên, cửa thành mở rộng, trong thành xông ra một đạo binh nữa. Quật-đột bị hai đạo binh của Bột-đình và Mãng-tốc đánh ép lại một lượt, làm cho binh sĩ rối loạn bỏ chạy. Quật-đột cũng hoảng vía, giục ngựa chạy dài. Chạy đến ba mươi dặm mới dám an-dinh hạ trại. Quật-đột bị thất trận trở về than-thở với Công-tử Thành rằng: - Bởi ta không nghe lời nên mới mang thảm-bại, nay liệu làm sao? Công tử Thành đáp: - Từ đây đến Bộc-dương không xa, Vệ-hầu là người từng trải, vậy xin chúa-công hãy đến đó cầu cứu người, rồi hiệp binh tấn công một lượt mới thắng nổi. Quật-đột nghe theo khiến đẩy xe sang Bộc-dương thành. Ði được vài ngày, bỗng thấy một đạo binh mã cờ xí rộn ràng, cầm đầu là một vị chư-hầu mặc áo gấm, buộc đai vàng, tóc xanh râu bạc, giống như một vị tiên thần giáng thế. (Người đó là Vệ-công, tên Cơ-hòa, tuổi đã chín mươi). Quật-đột mừng rỡ, dừng binh lại, kêu lớn: - Tôi là Thái-tử nước Trịnh, tên Quật-đột, bị Khuyển-nhung xâm phạm Kinh-sư, giết cha tôi, tôi đem binh vấn tội, chẳng ngờ lại bị thua, phải đến đây cầu cứu ngài. Vệ-công xuống ngựa thủ lễ và nói: - Thái-tử hãy an lòng. Tôi nguyện đem binh giúp đỡ. Vả lại tôi có nghe binh Tấn và Tần cũng sắp đến đây thì có lo chi không trừ được lũ giặc đó! Quật-đột cúi đầu cảm tại rồi hiệp binh cùng với Vệ-công kéo đến Kiểu-kinh. Ðến nơi binh hai nước chư-hầu Trịnh, Vệ hạ trại cách Kinh-thành hai mươi dặm, lại sai quân đi thám thính tin tức nước Tần và nước Tấn. Quân thám thính về báo: - Phía Tây có tiếng chiêng trống vang trại, lại có một ngọn cờ thêu chữ "Tần" rất lớn. Vệ Công nói: - Nước Tần tuy là một nước Phụ-dung (nước phụ chư-hầu, phái cống hiến và nghe theo lệnh nước chư-hầu) ít binh mã, song binh tướng rất tinh nhuệ, đã làm cho rợ Khuyển-nhung lắm phen khiếp sợ. Nói vừa dứt lời thì lại có tin báo: - Quân nước Tấn cũng đã kéo đến đóng nơi phía Bắc. Vệ Công mừng rỡ, nói: - Quân hai nước Tần, Tấn đã kéo đến thì còn lo gì đại sự chẳng thành. Bèn sai người sang mời Tần-công và Tấn-công đến hội kiến. Trong giây phút, hai vị chư hầu ấy đều đến trại Vệ-công đàm-đạo. Thấy Quật-đột mặc tang phục Tần-công và Tấn-công hỏi: - Chẳng hay người ấy là ai vậy? Vệ Công đáp: - Ðó là Thái-tử Quật-đột, con của Trịnh Bá đó. Ðoạn kể lại chuyện U-vương và Trịnh-bá-hữu bị chết. Hai vị chư hầu Tần, Tấn ngậm ngùi thương tiếc. Vệ-công nói: - Nay lão phu đã già yếu, đến đây cũng chỉ vì nhiệm-vụ thần-tử. Vậy trăm việc xin ủy thác cho hai ngài định liệu, chẳng hay hai ngài đã có kế hoạch nào chưa? Tần-công đáp: - Quân Khuyển-nhung chẳng qua tham tiền mê sắc mà tác loạn kinh-thành. Nay binh ta mới đến chắc chúng chưa kịp đề phòng. Vậy đêm nay chia quân làm ba mặt, Ðông, Nam, Bắc, mà đánh vào một lượt, còn phía Tây để cho Trịnh Thái-tử đem quân mai phục. Làm như thế ắt trọn thắng. Vệ-công khen là diệu kế. Mỗi người trở về lo việc điểm quân. Lúc bấy giờ, Thân-hầu ở trong thành hay được có binh bốn nước đến, trong lòng mừng rỡ, lén bàn với Chu công-huyến rằng: - Bốn nước đã hiệp binh, thế nào cũng chia làm bốn đạo công phá. Vậy ta chờ họ phá thành sẽ mở cửa ra ứng tiếp. Ðoạn bàn với Nhung-chúa sai Bột-đình chở vàng bạc lụa là vệ nước để bớt vây cánh. Lại khiến Mãng-tốc kéo binh Khuyển-nhung ra ngoài thành cự địch. Nhung-chúa đâu rõ kế của Thân-hầu, ngỡ thiệt nên làm theo. Mãng-tốc kéo binh ra khỏi thành đóng trại nơi cửa phía Ðông đợi rạng ngày sẽ giao chiến, không dè qua đến canh ba, binh Vệ đến cướp trại, túng thế phái bỏ chạy. Binh ba nước ồ lên phá thành một lượt Thân-hầu vội vã mở tung bốn cửa thành cho quân ngoài tràn vào. Nhung-chúa đang ngủ say, hay được tin kinh hãi vội lên ngựa chạy ra cửa phía Tây gặp đạo binh phục của Quật-đột chận lại. Hai đàng rước đánh. Ðương khi nguy cấp xảy có đạo binh thua của Mảng-tốc kéo đến giải vây, nên Nhung-chúa mới chạy thoát được. Quật-đột không đuổi theo, kéo quân vào thành hội với các nước. Lúc bấy giờ Bao-tự đang ngủ, giật mình thức dậy thấy Nhung-chúa bỏ chạy, lại nghe bốn mặt thành quân sĩ ó vang, muốn theo Nhung-chúa song không kịp, túng thế phải rút gươm tự vẫn. Ôi thôi! Hồng nhan một kiếp, cánh hoa sắc nước hương trời mới dựa hơi đông-phong đã phải dập vùi dưới làn mưa bão, không kẻ xót thương. Người sau có bài thơ trách Bao-tự như sau: Một kiếp hồng-nhan một nụ cười! Phong-đài khói tỏa chửa mờ phai. Nụ cười còn mãi rung trong gió, Nhung-khuyển, U-vương ai hỡi ai! Ngày ấy Thân-hầu đặt tiệc khoản-đãi. Trong lúc đang ăn-uống Vệ-công buồn bã buông đũa nói: - Nước biến, vua mất, chúng ta còn vui sướng gì mà ngồi ăn uống? Các chư-hầu nghe nói đều đứng dậy vòng tay thưa rằng: - Chẳng hay hiền hầu có điều chi dạy bảo chăng? Vệ Công nói: - Nước không thể để một ngày không có vua. Nay Thái-tử còn ở bên nước Thân vậy phải rước về mà tôn lên Thiên-tử. Tần tương-công nói: - Hiền-hầu nói rất phải, chúng ta nỡ nào ăn uống vui vầy mà quên nhiệm vụ trọng đại đó sao! Quật-đột nói: - Tôi chưa có công cán chi, xin nguyện qua nước Thân rước Thái-tử cho. Vệ-công cả mừng, rót rượu khuyên mời rồi lập tức viết biểu chương và sửa sang xe giá đi đón Thái-tử. Các chư-hầu đều xin đem quân theo hộ tống. Quật-đột nói: - Việc nầy không phải là việc đi đánh giặc, chẳng cần phải nhiều quân. Chỉ một đạo quân của tôi đây cũng đủ rồi. Hôm sau, Quật-đột lên đường sang nước Thân. Lúc bấy giờ Thái-tử Nghi-cựu đang ở nước Thân, ngày ngày buồn bực, không biết Thân-hầu ra đi đã lâu lành dữ thế nào, xảy có quân vào báo rằng: - Trịnh Thái-tử đem biểu-chương đến rước Thái-tử về Kiểu-kinh. Thái-tử Nghi-cựu nghe nói, lật đật ra rước vào, giở biểu ra xem mới hay U-vương đã thác về tay Khuyển-nhung, liền khóc òa. Quật-đột tâu: - Xin Thái-tử lấy giang sơn, xã tắc làm trọng, trở về tức vị cho an lòng dân. Thái-tử nói: - Nay ta đã mang danh bất-hiếu với thiên hạ, lẽ ra không nên trở về trị nước, nhưng chẳng lẽ không nể lời các trấn chư hầu. Nói rồi bèn sửa soạn lên xe trở về Kinh. Về đến nơi, thấy các trấn chư hầu đã dẫn binh ra cách thành ba mươi dặm đón tiếp. Thái-tử vào thành, thấy cung điện hoang-tàn sập đổ, lòng bùi-ngùi ứa lệ, rồi phụng-mệnh Thân-hầu làm lễ cáo miếu mà lên ngôi, xưng hiệu Châu-Bình-vương. Các chư-hầu và bá-quan triều bái tung hô. Bình-vương cầm tay Thân-hầu phán rằng: - Trẫm là người đã bị phế, mà còn đặng hưởng nghiệp tổ tông như vầy cũng là nhờ ở Quốc-cựu. Nói xong, bèn phong chức Thân-hầu làm Thân-công. Thân-hầu tâu: - Tâu Bệ-hạ, Kiểu-kinh không mất là nhờ có quân các chư-hầu kéo về giải tỏa. Hạ thần đã không ngăn cản nổi Khuyển-nhung để làm hại Tiên-vương thì thật là đắc tội. Nói rồi từ chối không nhận. Bình-vương lại gia phong cho các trấn chư-hầu và phong hàm-ân cho Trịnh-bá-hữu rồi yết bản phủ-dụ nhân-dân. Ngày thứ, vua Bình-vương lưu Vệ-công làm Tư-đồ, Quật-đột làm Khanh-sĩ tại triều, Chu-công-huyền làm Thái-tử cùng coi việc nước. Riêng Thân-hầu và Tần-tương-công vì đất nước giáp ranh với Khuyển-nhung nên phải cáo từ ra về. Thân-hầu thấy Quật-đột tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất-chúng, bèn đem con gái mình là Khương-thị gả cho Quật-đột. Nhắc qua Nhung-chúa, từ ngày kéo quân vào Kiểu-kinh đã thuộc đường thuộc nào, tuy bị các chư-hầu đánh bại song quân sĩ còn đông, lại nghĩ đến công lao khó nhọc mà không được hưởng gì, thì giận lắm, xua quân vào đánh phá chiếm một nữa đất Kỳ-phong làm chỗ trú quân để xâm lấn Kiểu-kinh. Bình-vương thấy đất Kiểu-kinh trong mấy tháng giặc giả tàn-phá, cung thất bị hư, phong-cảnh tiêu-điều, có ý muốn dời đô sang Lạc-ấp, bèn triệu các quan hỏi ý-kiến. Các quan cùng tâu: - Lạc-ấp là nơi trung-tâm của thiên-hạ, nên trước đây Tiên-vương đã ra công sửa sang rất vững chắc, gọi là Ðông-đô. Năm nào ở đó cũng có hội chư-hầu. Nay nếu Bệ-hạ muốn dời đô sang đó thì tiện lắm. Vệ Công nghe các quan tâu, thở dài, rồi cúi đầu tâu: - Tâu Bệ-hạ, hạ-thần đã hơn chín mươi tuổi, được Bệ-hạ tưởng tình cho dự vào quốc-sự, nay nếu các quan luận như vậy mà hạ thần không nói e mang tội bất trung. Vả chăng Kiểu-kinh là nơi lập nghiệp đế, bốn bề núi sông hiểm-trở, còn Ðông-đô tuy là giữa úm nước, nhưng trống trải, không làm sao tránh nổi mũi giặc. Bình-vương nói: - Trẫm cũng biết Kiểu-kinh là nơi Tiền-vương lập nghiệp, lẽ ra phải gìn giữ không nên bỏ phế, song hiện nay Khuyển-nhung cướp lấn nơi Kỳ-phong, thế rất hung-hăng. Trong cung, các kho tàng bị cháy, nếu sửa sang e tốn công của muôn dân. Cực chẳng đã trẫm mới dời đô qua đó mà thôi. Vệ-công tâu: - Khuyển-nhung là lũ sài-lang chẳng nên cho nó vào nước. Bởi Thân-hầu tính liều, mượn binh của nó chẳng khác nào mở cửa rước kẻ cướp vào, cho nên cung-thất phải tan, Tiên-vương bị hại. Nay Bệ-hạ nên coi đó là một mối thù, quyết lòng rửa hận, bắt Khuyển-nhung mổ mật đem tế nơi Thái-miếu để làm gương. Nếu Bệ-hạ tránh kẻ thù thì kẻ thù sẽ tìm Bệ-hạ mà tới. Thuở trước Ngu Thuấn làm vua ở nhà tranh thềm đất, vua Ðại-võ ở cung thấp hẹp mà không tưởng là xấu, xin Bệ-hạ xét lại. Chu-công-huyến quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, lời luận của quan Tư-đồ không đúng với quyền biến. Trước kia Tiên-vương bỏ việc quốc-chính, làm rối đạo cang-thường mà sanh giặc. Việc ấy đã lỡ rồi không phải nói làm chi. Nay Bệ-hạ muộn bỏ hết những cái gì xấu xa lúc trước, làm cho mọi người ai cũng thấy rằng Bệ-hạ là tượng trưng cho một sự kiến-quốc mới mẻ, thế thì việc dời đô rất có ảnh-hưởng tốt trong lòng bá tánh. Vệ Công lắc đầu, tâu: - Tâu Bệ. Hạ, thắng giặc phải căn cứ ở lòng người, mà còn hãy dựa trên sức mạnh, nghĩa là phải giữ được những chỗ hiểm yếu. Nay Thân-hầu đem Khuyển-nhung vào nước đặng thì cũng có thể dẹp nó đặng. Xin Bệ-hạ sai sứ hỏi người xem có kế nào hay chăng? Lúc đang thương nghị, bỗng có tin Thân-hầu sai người đem văn biểu đến. Bình-vương mở ra xem, thấy trong văn biểu viết như sau: Giặc Khuyển-nhung đem quân xâm lấn nước Thân, xin Bệ-hạ nghĩ tình đem binh cứu ứng, kẻo nước Thân khó bề giữ nổi. Xem biểu xong, Bình-vương nói: - Thân-hầu lo phận mình chưa xong, làm sao lo việc trẫm. Thôi, ý trẫm đã quyết các khanh khá tuân lời Ðoạn truyền quan Thái-sư chọn ngày dời đô. Vệ Công tâu: - Nay vì tránh giặc mà Bệ-hạ dời đô, e lòng dân không tránh khỏi ly-tán. Vậy xin Bệ-hạ cho phép hạ-thần đăng bảng cho nhân dân hay đã. Vua nhậm lời. Vệ-công bèn đăng bảng truyền-dụ dân chúng ai-muốn theo qua Ðông-đô thì sắm sửa mà đi. Kế đó quan Chúc-sử làm văn biểu cáo với nhà Thái-miếu, rồi quan Lễ-bộ phò thần chủ bảy miếu lên xe đi trước. Tần-tương-công nghe tin vua thiên-đô liền thân hành đem quân hộ giá. Dân gian già trẻ dìu đắt nhau theo vua chẳng biết bao nhiêu.
Hồi 4: Tần-văn mộng thấy con trời, Trịnh-chúa nhìn thương mẹ dưới hầm Bấm để xem Khi Bình-vương đến Lạc-dương thấy phong cảnh tốt tươi, dân cư trù mật không kém gì Kiểu-kinh, trong lòng mừng rỡ. Kinh-đô định xong, cả chư hầu đều dâng biểu chúc mừng, duy chỉ có nước Sở chẳng thấy đến. Bình-vương nổi giận muốn khởi binh vấn tội. Quần thần can rằng: - Nước Sở chẳng tuân vương-hóa đã lâu, xưa Tuyên-vương phải lắm phen chinh phục. Từ đó cứ hàng năm đem cống hiến một xe thanh-mao để dùng đặt rượu mà tế tự. Lệ ấy cũng chỉ cho có chừng đó thôi. Nay Bệ-hạ mới dời đô, lòng người chưa định, nếu đem binh chinh phạt e khó thắng. Xin Bệ-hạ chờ cho binh hùng tướng mạnh sẽ tính đến việc đó cũng chẳng muộn chi. Bình-vương nghe nói cũng đổi giận làm vui, không tính việc chinh Nam nữa. Kế đó Tần-vương-công cáo từ về nước. Bình-vương nói: - Nay đất Kỳ-phong bị giặc Khuyển-nhung chiếm giữ, quấy rối dân lành. Nếu nhà ngươi đánh đuổi được thì ta cho đất ấy để đền đáp lại công hộ giá thiên đô. Tần tương công bái mạng lui về, sắm sửa binh mã lo kế đánh đẹp Khuyển-nhung. Chẳng bao lâu, giặc Khuyển-nhung bị giết sạch, tướng Khuyên Nhung là Bột-đình và Mãng-tốc đều tử-trận, còn Nhung-chúa trốn ra giãi đất hoang nơi phía Tây mà tạm trú. Ðất Kỳ-phong sát nhập vào nước Tần, rộng rãi hơn ngàn dặm. Từ ấy nước Tần trở nên đại-quốc. Thu nhận đất Kỳ-phong chẳng bao lâu thì Tần tương-công mất, con là Tần văn-công lên kế vị. Một hôm, Văn-công nằm mộng, thấy một con trăn lớn, từ trên trời sa xuống, trong giây phút lại hóa ra một đứa bé kêu Văn công nói: - Ta là con trời sai xuống báo cho nhà ngươi được biết: Nhà ngươi sẽ làm Bạch-đế giữ nghiệp nơi phía Tây. Nói rồi biến mất. Văn-công đem việc ấy hỏi Thái-sử Ðôn. Quan Thái-sử tâu: - Sắc bạch là sắc của phía Tây. Ấy là điềm trời cho Chúa-công làm chủ khắp phương Tây đó. Vậy phải tạ ơn trời đất. Văn-công bèn lập miễu nơi Phu-ấp mà thờ, lại giết con trâu trắng để tế. Kế đó, có người ở xứ Trần-thương săn được một con thú, hình thù giống heo, nhưng lông cứng mà nhọn, đánh không chết. Họ không biết con gì, bèn đem dâng cho Văn-công. Nhưng, khi đi đến nữa đường thì gặp hai đứa trẻ chỉ con vật ấy nói: Con thú nầy tên con Vị, thường ở dưới đất, hay ăn óc người chết. Hễ đánh nhắm óc nó thì nó chết. Con vật liền đáp rằng: - Hai đứa con nít nầy là Trĩ-tinh hiện lên. Hễ bắt đặng con trống thì làm Vương, bặt đặng con mái thì làm Bá. Hai đứa trẻ nghe con vật nói, liền biến mất. Con thú cũng biến theo. Người đi săn kinh hãi, lật đật báo cho Văn-công hay. Văn-Công liền lập miễu nơi núi Trần-thương để thờ Trĩ-tinh. Thuở ấy tại núi Chung-nam có cây Tử lớn, Văn-công muốn đốn về xây cất cung-điện, nhưng cưa không đứt, búa chặt không vô. Ai nấy lấy làm lạ. Một đêm kia, có người nằm ngủ dưới gốc cây nghe một bầy quỷ đến chúc mừng cây ấy. Lại có tiếng hỏi: - Nếu Tần-vương khiến người bỏ tóc xõa, và lấy chỉ đỏ quấn xung quanh thân cây thì liệu làm sao? Sáng hôm sau người ấy đem câu chuyện báo lại cùng Văn công. Văn-công khiến người làm y như vậy. Quả thật, thân cây bị cưa ngã. Nhưng cây vừa ngã xuống thì một con trâu xanh ở trong thân xông xa, chạy thẳng xuống sông Ung-thủy. Từ đó, dân chúng thỉnh thoảng lại thấy trâu xanh hiện lên. Văn-công sai kỵ-sĩ đón đánh nhưng trâu xanh quá mạnh, không làm sao đánh nổi. Kỵ-sĩ bèn bỏ tóc xõa mà đánh, trâu xanh mới chịu chạy xuống nước. Văn-công bèn chế ra cờ ngũ-sắc để nơi quan-trung, lại lập miễu mà tế vị thần trâu ấy. Lúc bấy giờ, vua Huệ-công nước Lỗ nghe nước Tần tế-lễ trời, bèn sai Thái-tế Nhượng đến xin vua Bình-vương cho phép mình được tế giao và tế lễ. Bình-vương không cho. Huệ-công nói: - Tổ ta là Châu-công, có công lớn với nhà vua, vả lại lễ nhạc do tổ ta bày chế, nay con cháu dùng thì có hại chi. Hơn nữa, Thiên-tử đã không cấm nước Tần sao lại cấm nước Lỗ Bèn không kể đến mạng vua, cứ tế giao, tế lễ như nhà vua vậy. Vua Bình-vương biết việc ấy nhưng không dám nói. Từ đấy nhà Châu ngày một suy yếu. Các nước chư-hầu chuyên quyền, xâm bờ lấn bờ cõi nhau, gây rối rắm trong khắp thiên-hạ. Nói về Trịnh Thế-tử là Quật-đột, từ khi cha chết, lên kế-vị, tự xưng hiệu là Trịnh võ-công. Nhân khi nhà Châu suy-yếu, chiếm cả đất Quốc và đất Khoái, làm thành một nước lớn. Trịnh-võ-công và Vệ võ-công đều kiêm chức khanh-sỉ tại triều nhà Châu. Qua năm Bình vương thứ mười ba, Vệ võ-công thất-lộc, còn một mình Trịnh võ-công bình-chánh, lúc thì về nước Trịnh, lúc lại ở nơi triều Châu. Vợ Trịnh võ-công là Khương-thị sanh đang hai trai, con lớn đặt tên Ngộ-sanh, con thứ đặt tên là Ðoạn. Ngộ sanh vì lúc nhỏ bị đẻ ngược nên Khương-thị không ưa, còn Ðoạn thì hình dung tuấn-tú mặt mũi khôi-ngô, lại có sức khỏe lạ thường, nên được Khương-thị yêu-mến lắm. Một hôm, Khương-thị ngỏ ý với chồng: - Nếu Ðoạn mà được nối ngôi Chúa-công sau nầy thì hơn Ngộ-sanh gấp bội. Trịnh võ-công nói ; - Lớn nhỏ đều có thứ bậc, chẳng nên xáo trộn luân thường. Vả chăng Ngộ-sanh có lầm lỗi gì mà lại bỏ chánh lập thứ? Bèn phong Ngộ-sanh làm Thế-tử, còn Ðoạn thì phong một chỗ nhỏ ở Cung-thành nên gọi là Cung thúc-đoạn. Việc ấy làm cho Khương-thị không vui. Sau đó, Võ-công qua đời Ngộ-sanh lên tức vị, xưng hiệu là Trịnh trang-công, rồi cũng thế chức cha mà làm Khanh-sĩ nơi triều nhà Châu. Khương-thị phu-nhân thấy Cung-thúc-đoạn chẳng có quyền chi, lòng buồn bã, nói với Trịnh trang-công: - Con nối nghiệp cha, làm chủ nước Trịnh, đất rộng mấy trăm dặm ngoài mà lại để cho em một chỗ đất nhỏ mọn vậy mà đành lòng sao? Trang công thưa: - Ý mẫu-hậu dạy thế nào, xin cho con biết. Khương-thị phu-nhân nói: - Nếu quả con thương tình ruột thịt thì việc gì mà không lấy đất Chế-ấp phong cho em. Trang-công thưa: - Chế-ấp là nơi hiểm-địa, Tiên-vương đã có lời di-chúc, không nên đem phong cho ai, trừ chỗ ấy ra mẫu-hậu muốn chỗ nào con cũng xin vâng lời. Khương-thị phu nhân nói: - Nếu vậy thì phong cho Ðoạn đất Kinh-thành. Trang-công làm thinh, không nói: - Nếu không bằng lòng thì tốt hơn con nên đuổi em con ra khỏi nước để kiếm cách dung-thân. Trang-công bùi-ngùi, nhìn mẹ nói: - Thưa mẫu-hậu, con đâu dám làm thế. Ngày hôm sau Trịnh trang-công cho đòi Cung-thúc vào triều phong đất Kinh-thành. Quan Ðại-phu Tề-Túc can rằng: - Tâu Chúa-công, Kinh-thành đất rộng dân đông chẳng kém gì Vinh-dương, nếu phong cho Cung-thúc-đoạn ắt sanh hậu hoạn! Trịnh trang-công nói: - Lịnh của mẹ ta, lẽ nào ta dám cãi. Bèn phong cho Cung-thúc nước Kinh-thành. Cung-thức bái lĩnh rồi lui ra, vào cung từ biệt Khương-thị. Khương-thị đuổi hết kẻ tả hữu ra, rồi nói nhỏ với Cung-thúc: - Anh con không nghĩ tình cốt nhục bạc đãi con đã lâu. Hôm nay sở-dĩ con được phong đất Kinh-thành là nhờ có mẹ nài nỉ lắm mới được. Nay con đến Kinh-thành phải thao luyện binh mã dự bị cho sẵn, lúc nào có cơ-hội, mẹ sẽ tin con hay, kéo binh về mà lấy Trịnh. Mẹ làm nội-ứng thì cái ngôi của Ngộ-sanh sẽ về tay con không khó! Cung-thúc lãnh mạng, từ tạ qua Kinh-thành. Từ ấy người ta gọi Ðoạn là Thái-thúc Kinh-thành Thái-thúc lại đòi hai quan Tể, trần ở hai vùng Tây bỉ và Bắc bi đến dụ rằng: - Ðất của hai ngươi chưởng-quản, nay đã thuộc về đất phong của ta rồi, vậy từ nay thuế-vụ phải đem đến đây mà nạp, còn việc binh tình phải nghe lệnh ta điều khiển. Hai quan Tế thầy Thái-thúc là con cưng của Quốc-mẫu, nên không dám cãi lịnh. Thái-thức lại thường giả cách đi săn để luyện tập binh-sĩ, gồm thâu cả binh của Tây bỉ và Bắc bỉ, rồi lại cướp luôn cả đất Yên và đất Lâm-giêng. Quan Tể hai xứ nầy thấy rõ hành động bội phản, lén về triều tâu cùng Trịnh-trang-công hay. Trịnh-trang-công nghe tâu, mỉm cười, làm thinh không nói gì cả. Bỗng có người bước ra, nói lớn: - Tâu Chúa-công, tội của Ðoạn đáng chém đầu, sao Chúa-công nỡ ngồi yên? Trịnh-trang-công xem lại, người vừa nói đó là Công-tử Lữ, liệu là Tử-phong, làm chức Thượng-khanh, bèn hỏi rằng: - Khanh có ý kiến gì hay chăng? Công-tử Lữ tâu: - Thái-thúc-đoạn ỷ trong có quốc-mẫu yêu vì, ngoài cậy có đất Kinh-thành là nơi hiểm-yếu, luyện tập binh mã, mưu chiếm đoạt nước Trịnh. Xin Chúa-công cho tôi đem quân đến đó bắt Ðoạn đem về trị tội. Trịnh-trang-công suy nghĩ một lúc, rồi nói: - Thái-thúc tuy vô-đạo, song tội lỗi chưa rõ rệt. Nếu giết nó không khỏi đau lòng mẹ ta. Hơn nữa, trong tình ruột thịt, ta sẽ bị người ngoài dị nghị là bất nghĩa, bất hiếu. Công-tử Lữ cúi đầu tâu: - Tâu Chúa-công, nếu trọng tình ruột thịt mà không quyết đoán được quốc-sự e không tránh khỏi tai họa. Trịnh-trang-công nói: - Nếu Thái-thúc cố-ý bội phản, thì thế nào mỗi ngày sẽ mỗi lộng hành thêm. Chừng ấy tội lỗi đã rõ ràng nếu trừng trị cách nào mẹ ta cũng không nói gì đặng. Công-tử Lữ bùi ngùi, tâu: - Kiến thức của Chúa-công rất xa, tôi không thế nào sánh kịp. Song chỉ e thế lực của Thái-thúc mỗi ngày một to khó mà trừ được. Trịnh-trang-công hỏi: - Thế thì bây giờ phải làm thế nào để mẹ ta khỏi oán trách ta là vô đạo Công-tử Lữ tâu ; - Ðã lâu Chúa-công không vào triều nhà Châu ấy bởi Chúa-công lo việc Thái-thúc. Nay phải giả cách vào chầu vua Châu để cho Thái-Thúc tưởng Kinh-đô bỏ vắng, tất đem binh đến đây chiếm đoạt. Tôi xin đem quân phục sẳn ở đất Kinh-thành, đợi Thái-Thúc cử quân đi, lén vào chiếm giữ. Còn Chúa-công cũng đem một đạo quân theo đường tắt mà đánh ập lại, thì Thái-thúc dù có cánh bay lên trời cũng không trốn thoát. Trịnh-trang-công nói: - Kế ấy rất hay, song chớ nên tiết lậu ra ngoài. Công-tử Lữ bái tạ lui ra. Ngày thứ Trịnh-trang-công thăng điện, nói dối rằng mình bận sang chầu vua Châu, giao việc triều chính cho Tề-Túc. Khương-thị hay đặng tin ấy cả mừng, viết mật thư sai người tâm-phúc đem đến Kinh-thành trao cho Thái-thúc. Trong thư ước hẹn nội trong sơ tuần tháng năm phải hưng binh về lấy nước Trịnh. Lúc đó vào hạ tuần tháng tư, Công-tử Lữ đã sai người phục nơi yếu lộ, nên bắt được người đem thư ấy. Công-tử Lữ bèn giết quách, rồi mang thư đem về dâng cho Trịnh-trang-công. Trịnh-trang-công rất đau lòng, nhưng không thể vì tình máu mủ mà dung kẻ phản nghịch, bèn phong bức thư ấy lại như cũ, rồi sai người tâm phúc của mình đem đến Kinh-thành giao cho Thái-thúc. Ðược thư, Thái-thúc phúc đáp hẹn ngày mồng năm tháng năm động binh và dặn Khương-thị đến ngày đó phải dựng một cây bạch kỳ trong thành để biết chỗ tiếp-ứng. Trịnh-trang-công xem thư phúc-đáp, nghĩ thầm: - Thế nầy thì mẹ đừng trách con là vô đạo. Ðoạn vào từ biệt Khương-thị, dối rằng mình đi qua Châu, rồi kéo binh ra khỏi thành đến đóng nơi Lâm-giêng. Công-tử Lữ cũng lén đem hai trăm cỗ xe chiến qua phục gần Kinh-thành. Thúc-đoạn, từ khi tiếp được thư đó liền sai con là Công-tôn-hoạt qua nước Vệ mượn binh, rồi lấy cớ trở về Kinh-đô để coi việc quốc chính, mà kéo quân ra đi. Công-tử Lữ sai người thám thính, hay tin Thúc-đoạn đi rồi bèn kéo quân vào thành, nồi lửa lên làm hiệu, chiêu tập bá tánh kể rõ tội mưu-phản của Thúc-đoạn. Do đó cả thành bá tánh đều oán ghét Thúc-đoạn vô cùng. Còn Thúc-đoạn kéo quân ra đi chưa đầy nữa buổi, thấy Kinh-thành lửa bốc nghịt trời, biết là có biến, vội đem quân trở về cứu viện. Về đến nơi, thầy Kinh-thành bị chiếm, lòng đầy căm tức, xua quân vây thành công phá. Chẳng ngờ, Trịnh-trang-công lại kéo quân đến đánh, làm cho Thúc-đoạn không biết đường nào mà chạy, túng thế phải kéo binh đến đất Cung là chỗ được phong trước kia để cố-thủ. Trịnh-trang-công dẫn binh đến phá thành. Cung thành chỉ là một ấp nhỏ, làm sao cự lại binh triều, chẳng bao lâu thành bị phá. Thúc-đoạn thấy thế đã cùng, ngữa mặt lên trời than rằng: - Mẹ ta đã gạt ta, ta còn mặt mũi nào thấy anh ta nữa. Nói rồi rút gươm tự vận. Trịnh-trang-công vào thành ôm thây Thúc-đoạn khóc rống lên một hồi, nói: - Bởi em làm lếu nên tình huynh đệ phải chia lìa. Nói rồi lục trong mình Thúc-đoạn thấy phong thư của Khương-thị gởi hãy còn, bèn lấy gói chung với bức thư trả lời của Thúc-đoạn, rồi sai người đem về kinh-đô giao cho Tề-túc trình lại cho Khương-thị. Trịnh-trang-công lại còn ra lệnh đưa Khương-thị sang đất Dĩnh mà tá túc, và thề rằng: - Nếu không phải chốn cửu tuyền chẳng bao giờ còn thấy mặt nhau nữa. Phong thư về đến kinh-đô, Khương-thị mở ra xem, lòng thẹn thùng khôn xiết, liệu mình chẳng còn mặt mũi nào thấy mặt Trịnh-trang-công nữa, bèn lìa khỏi cung môn, ra nơi đất Dĩnh. Trịnh-trang-công trở về cung, không thấy mẹ, lòng buồn bã nghĩ thầm: - Ta đã ép lòng mà để em chết, nay còn nỡ nào lìa mẹ sao đành! Nhưng đã trót lời thề, biết liệu sao! Quan trấn Dĩnh-ấp là Dĩnh-khảo-thúc là một người chí-hiếu, nghe tin Trịnh-trang-công đem mẹ đi an trí, lòng bất mãn, nói với người rằng: - Dù mẹ có tội lỗi đến đâu, con cũng không nên bất hiếu. Chúa-công làm như thế thật là trái đạo! Bèn nghĩ ra một kế, bắt mấy con chim cú đem vào dâng cho Trịnh-trang-công. Trịnh-trang-công hỏi là chim gì? Khảo-thúc tâu: - Tâu Chúa-công, đây là giống chim cú. Giống chim nầy ban ngày dẫu một vật lớn như trái núi vẫn không trông thấy, còn ban đêm dầu vật nhỏ bằng sợi tóc cũng thấy rõ. Thật là một giống vật chỉ thấy được sự nhỏ mà không thấy được sự lớn. Hơn nữa, lúc còn nhỏ chim mẹ kiếm mồi cho ăn, lúc lớn lên nó không biết gì đến chim mẹ nữa, tlật là giống chim bất hiếu, nên bắt nó mà ăn thịt. Trịnh-trang-công nghe nói, ngồi lặng thinh. Chợt lúc đó có người đem thịt dê lại dâng cho vua nhắm rượu. Trịnh-trang-công cắt một miếng ban cho Khảo-thúc. Khảo-thúc liền chọn những nơi ngon cắt gói lại một gói, cất vào túi áo. Trịnh-trang-công lấy làm lạ hỏi: - Khanh để dành chi vậy? Khảo-thúc tâu: - Tâu Chúa-công, mẹ tôi đã già mà trong nhà lại nghèo khó, ít bao giờ được ăn miếng ngon vật lạ. Nay được Chúa công ban thưởng, nếu không dành cho mẹ tôi thì tôi không làm sao yên lòng được. Trịnh-trang-công nói: - Ngươi thật là một người con chí hiếu. Tiếc rằng trẫm không thể bằng ngươi được. Khảo-thúc giả bộ ngơ ngác, hỏi: - Quốc-mẫu vẫn được mạnh giỏi cớ sao Chúa-công lại tỏ ý buồn bã? Trịnh-trang-công đem câu chuyện Thúc-đoạn bội phản, và đày Khương-thị ra đất Dĩnh, nay hối hận, nhưng mắc phải lời thề không làm sao trông thấy mặt mẹ. Khảo-thúc nghe xong, buồn bả tâu: - Thúc-đoạn đã mất, tình cốt nhục chia lìa, nay chỉ còn Quốc-mẫu mà Chúa-công lại bộ bể phụng dưỡng e lỗi đạo làm con Nếu Bệ-hạ đã lỡ lời thề, tôi xin dâng kế, có thể trông thấy mặt mẹ mà khỏi phạm lời thề đó. Trịnh-trang-công mừng rỡ hỏi: - Người có kế gì hãy giúp trẫm. Khảo-thúc tâu: - Chúa-công truyền đào đất đến tận thạch, rồi làm một cái nhà dưới hầm mà rước Quồc-mẫu đến đó. Chúa-công coi như đó là chốn suối vàng. Hai mẹ con sẽ cởi mở được nỗi lòng nhớ nhung trắc tị mà không trái lời thề. Trịnh-trang-công y tâu, bèn sai Khảo-thúc đem năm trăm tráng dân khoẻ mạnh đến Khúc-vĩ; đào một cái hầm, dưới núi Ngưu-tì, sâu hơn sáu mươi trượng, làm một ngôi nhà gác trên mặt suối và đặt thang dài. Khảo-thúc bái mạng, trước tiên trở về đất Dĩnh yết kiến Khương-thị, nói rõ lòng hối hận của Trịnh-trang-công, muốn rước Quốc-mẫu về phụng-dưỡng, sau đó, mới đến Ngưu-tì lo việc đào suối. Chẳng bao lâu công việc hoàn thành. Khảo-thúc liền đưa Khương-thị đến Ngưu-tì và viết biểu dâng cho Trịnh-trang-công hay. Trịnh-trang-công đến nơi thấy mẹ, vội sụp lạy, nói: - Ngộ-sanh nầy bất hiếu, xin mẫu-hậu dung tha. Khương-thị buồn vui lẫn lộn, ứa nước mắt, nói: - Ðó là lỗi của mẹ con đâu có tội gì. Nói xong, đỡ Trịnh-trang-công dậy. Hai mẹ con ôm nhau khóc sướt mướt. Trịnh-trang-công cõng mẹ lên thang rồi đưa về cung. Người nước Trịnh trông thấy, ai nay chấp tay lên trán, khen vua là người chí hiếu. Ấy cũng nhờ có Dĩnh Khảo-thúc mà mẹ con Trịnh trang-công mới đoàn tụ được. Trịnh-trang-công cảm ơn Khảo-thúc, phong cho Khảo-thúc làm đến chức Ðại-phu, hợp với Công-tôn-yết mà chưởng-quản việc binh quyền. Về sau Phan tiên-sinh có thơ khen Khảo-thúc như vầy: Lời thề đã lở giữa muôn dân, Lỗi đạo đành cam với mẫu thân Ví chẳng mưu cao người Khảo-thúc Trang-công đâu dễ vẹn nhân luân.
Hồi 5: Châu, Trịnh hai nước gởi con tin, Lỗ, Tống một lòng đi chinh phạt Bấm để xem Nhắc lại con trai Thúc-đoạn là Công-tôn-hoạt đi viện binh nước Vệ về đến nữa đường, hay được tin cha mình bị giết, bèn trở lại nước Vệ khóc với Huệ-hoàn-công, tỏ bày việc Trịnh-trang-công giết em, đày mẹ. Vệ-hoàn-công nghe nói cả giận, trách Trịnh-trang-công là vô-đạo bèn hưng binh đánh nước Trịnh. Trịnh-trang-công hay được tin bèn hội quần thần mà thương nghị. Công-tử Lữ tâu: - Nhổ cỏ không tận rễ, thường bị nảy chồi. Công-tôn Hoạt đã trốn thoát lại còn đem binh nước Vệ về đánh ấy là vì Vệ-Hầu không rõ hành vi của Thúc-đoạn, nên mới giúp Công-tôn Hoạt đó. Xin Chúa-công viết thư gởi cho Vệ-hầu kể rõ cớ sự, ắt Vệ-hầu phải kéo binh về. Trịnh trang-công khen phải, vội viết thư sai sứ đem qua nước Vệ. Tiếp được thư, Vệ-hoàn-công mở ra xem. Thư rằng: Ngộ-sanh kính dâng Vệ-hiền hầu nhã giám. Nhà tôi bất hạnh, anh em sát hại lẫn nhau, thật lấy làm xấu hổ với lân quốc. Nhưng xét kỷ, em tôi là đoạn đã lợi dụng lòng hiếu hữu của tôi mà sanh điều phản phúc. Tôi vì sự nghiệp tiền-nhân, buộc lòng phải chịu cảnh cốt nhục tương tàn. Mẹ tôi vì quá thương Ðoạn, nên phải tránh ra Dĩnh-ấp, nay tôi đã cho người rước về phụng-dưỡng, lẽ ra Công-tôn Hoạt phải biết tội cha, đem mình sửa lỗi, lại chạy sang quý quốc viện binh mà phản-loạn. Hiền-hầu không tỏ nên giúp kẻ tôi loàn. Xét mình chẳng có tội chi, xin Hiền-hầu chớ nghe lời Công-tôn Hoạt khiến hai nước bất hòa, sanh việc binh đao, thì thật tôi lấy làm may-mắn! Vệ-hoàn-công xem thư xong, giật mình nói: - Thúc-đoạn bất nghĩa, gây nên tai họa. Nay ta lại nghe lời giúp Công-tôn Hoạt hóa ra ta giúp kẻ nghịch sao! Nói rồi lập tức sai người đi rút quân về. Nhưng lúc đó Công-tôn Hoạt đã đánh chiếm được đất Lâm-giêng. Trịnh trang-công nổi giận khiên Cao-Cừ-Di đem ba vạn binh rồng đến đánh. Công-tôn Hoạt cô thế lại phải chạy trở lại nước Vệ. Công-tử Lữ thừa thắng đuổi theo đến tận biên-giới nước Vệ. Vệ-hoàn-công thấy thế đem lòng lo lắng, bèn họp quần thần lại thương nghị. Công-tử Chu-hu bàn rằng: - Nước tràn thì lấy đất ngăn, giặc đến thì lầy quân chống, xưa nay đã vậy, lựa phải bàn bạc làm chi? Quan Ðại-phu Thạch-thác tâu: - Tâu Chúa-công. Sỡ-dĩ quân Trịnh đến đây là vì ta giúp cho Công-tôn Hoạt đánh Trịnh. Nay Chúa-công không có ý giúp Công-tôn Hoạt nữa thì chỉ cần biên thư phúc đáp mà xin lỗi, quân Trịnh ắt rút về. Vệ hoàn-công khen phải, khiến Thạch-thác viết thư gởi cho Trịnh trang-công. Thư rằng: Hoàn-công nước Vệ, xin phúc đáp Trịnh Hiền-hầu nhã giám. Tôi quá nghe lời Công-tôn Hoạt, ngỡ Hiền-hầu vô đạo, giết em, giam mẹ nên mới cất quân giúp Hoạt. Nay được rõ tội ác của Thúc-đoạn lòng hối-hận vô cùng, tôi đã rút quân về nước. Nếu Hiền-hầu rộng xét, tôi xin bắt Công-tôn-Hoạt đưa về Trịnh để hai nước được giao hảo như xưa. Thư xong, sai người đem đến dâng cho Trịnh trang-công.. Trịnh trang-công đọc thơ mừng rỡ, nói: - Vệ-hầu đã biết lỗi ta chớ nên sanh-sự nữa. Bèn sai người ra biên-ải, bảo Công-tử Lữ rút binh về. Khương-thị nghe tin, sợ Trịnh trang-công giết Công-tôn-Hoạt, bèn đến năn-nỉ với Trịnh trang-công tha-tội cho Hoạt. Trang-công nễ lời mẹ, và thấy Hoạt bị cô thế, không làm gì nổi nữa, nên viết thư cho phép Công-tôn-Hoạt ở ngay bên nước Vệ để coi việc phụng thờ Ðoạn. Từ ấy Công-tôn-Hoạt ở bên nước Vệ cho đến trọn đời. Nói về Châu-bình-vương đã lâu không thấy Trịnh trang-công về triều, nhân lúc Quách-Công là Kỵ-phù đến chầu, lại nói năng lưu-loát lấy làm vừa ý phán rằng: - Bấy lâu cha con Trịnh-bá bỉnh-chánh, nay chẳng biết ý gì không thấy về triều. Vậy trẫm có ý muốn trao chức Khanh-sĩ cho khanh để lo việc nước, ý khanh thế nào? Quách-Công quỳ tâu: - Trịnh trang-công không đến, ắt trong nước có việc. Nếu Bệ-hạ dạy hạ-thần quyền thế, Trịnh trang-công không những oán Bệ-hạ mà còn oán hạ-thần nữa. Hạ thần chẳng dám vưng mạng. Châu bình-vương ép uổng, nhưng Quách-công nhứt thiết chối từ và xin về nước. Trịnh trang-công tuy không qua triều Châu, song vẫn có người ở kinh-sư dò la tin tức. Mỗi việc gì xảy ra, Trịnh trang-công đều hay biết. Bởi vậy, khi nghe được tin, Trịnh-trang-công lập tức sửa sang xe giá đến Lạc-dương ra mắt Bình-vương, và tâu rằng: - Hạ thần đội ơn Bệ-hạ, cha truyền con nối, giữ chức Khanh-sĩ lo việc quốc-chánh, nay hạ thần xét mình bắt tài, muốn từ chức lui về Trịnh, giữ phận chư-hầu. Bình-vương nói: - Ðã lâu khanh không vào triều, lòng trẫm trông mong. Nay được gặp khanh chẳng khác cá gặp nước, sao khanh lại nói thế? Trịnh trang-công tâu: - Vì trong nước không may gặp biến, nên bỏ việc đã lâu. Hạ-thần lại được nghe Bệ-hạ có ý phú việc quốc chánh cho Quách-công. Hạ-thần trộm nghĩ tài đức hạ-thần không sánh Quách-công, nếu giữ lấy chức vị, e mang tội với Bệ-hạ. Bình-vương nghe Trịnh trang-công, lòng hổ thẹn, vội nói: - Trẫm nghe nước Trịnh sanh biến, nên nhờ Quách-công bỉnh-chánh vài hôm để chờ khanh đến. Nhưng Quách-công từ chối mãi, vả trẫm cũng đã cho về nước. Khanh chờ nghi ngờ. Trịnh trang-công tâu: - Tâu Bệ-hạ, việc nước là của nhà vua không phải việc riêng của kẻ hạ-thần thì quyền xử-dụng cũng do nhà vua định đoạt. Nay Quách-công có đủ tài năng giúp nước, xin Bệ-hạ cứ dùng. Hạ thần sẽ từ chức để khỏi mang tiếng tham quyền cố vị. Bình-vương thấy Trịnh trang-công nghi kỵ, lòng buồn bã nói: - Trẫm trao việc nước cho cha con khanh chắp-chưởng đã bốn mươi năm, lẽ ra tình vua tôi không đến nỗi vì chuyện nhỏ mọn đó mà tổn thương. Khanh cứ nghi nan, trẫm biết làm sao giải nỗi lòng của trẫm. Trịnh trang-công lòng chưa hả giận, tâu: - Tâu Bệ-hạ, nhậm chức hay từ chức đó là bổn phận của hạ-thần. Hạ-thần tự xét mình trước nhiệm vụ chứ đâu dám khinh mạng. Bình-vương nói: - Muốn cho khanh được thấy lòng quý mến của trẫm, trẫm sẽ cho Thái-tử Hổ sang ở bên nước Trịnh làm con tin. Trịnh trang-công nghe nói, vập đầu tâu: - Tâu Bệ hạ, xin Bệ-hạ đừng dạy như thế mà hạ thần phải mang tiếng hiếp vua. Bình-vương nói: - Không phải thế! Vì khanh có tài chính-trị, trẫm muốn cho Thái-tử sang đó du học để hấp-thụ những phong-hóa tốt lành của nước Trịnh. Nếu khanh từ chối thì quả lòng khanh đã hờn trẫm đó. Trịnh trang-công nhất định chối từ, quần thần thấy thế quỳ tâu: - Tâu Bệ-hạ, nếu Bệ-hạ không để con tin thì chẳng lấy gì để giải mối nghi ngờ của Trịnh Bá, còn Trinh-bá nhận con tin thì trái đạo vua tôi. Chi bằng hai bên cùng giao con với nhau thì tránh được nghi ngờ, mà tiếng tăm cũng trọn vẹn. Bình-vương khen phải. Trịnh trang-công mới sai Thế-tử Hốt đến ở làm con tin nhà Châu, còn Thái-tử Hổ nhà Châu thì lại sang nước Trịnh. Ðược ít lâu Bình-vương băng hà. Trịnh trang-công và Châu-công Hắc-kiên cùng coi việc nước, bèn cho Thế-tử Hốt về Trịnh, và rước Thái-tử Hổ về Châu kế vị. Thái-tử Hổ nghe vua cha mất, trong lòng phiền nảo, tự nghĩ mình không được ở nhà hầu hạ thuốc men trong lúc lâm chung nên về đền triều phát bịnh nặng rồi tạ thế. Con Thái-tử Hổ là Lâm lên nối ngôi tức là Châu hoàn-vương. Các nước chư-hầu hay tin đều tựu đến chịu tang và làm lễ chúc mừng tân vương. Quách-công Kỵ-Phủ đến trước, lo việc lễ bộ, đâu đó rất đàng hoàng khiến cho mọi người phải khâm phục. Hoàn-vương lên ngôi, nghĩ đến việc cha mình làm con tin buồn bã mà chết, lại thấy Trịnh trang-công gánh vác việc nước, trong lòng nghi hoặc, mới kêu Châu-công Hắc-kiên đến hỏi rằng: - Trịnh trang-công bắt nhà Châu gởi con tin thật có ý khinh vua, lòng trẫm áy náy không yên, nếu để va bỉnh-chánh lâu ngày ắt sanh họa. Nay trẫm có ý giao quyền lại cho Quách-Công Kỵ-Phủ là người rất lễ độ ý khanh thế nào. Châu-công Hắc-kiên tâu: - Trịnh trang-công là người hà-khắc, ít ra ơn, chẳng phải tôi trung, lẻ ra không nên dụng. Ngặt vì nhà Châu từ lúc dời đô qua Lạc-ấp công lao nước Tần và nước Trịnh rất lớn, nay tước bỏ quyền của Trịnh, tôi e Trịnh-bá đem lòng giận ắt sanh điều rối nước, xin Bệ-hạ nên xét kỹ đã. Hoàn-vương nói: - Ý trẫm đã tuyệt không thể ngồi ngó Trịnh-bá chuyên chế được. Hôm sau, Hoàn-vương lâm triều, kêu Trịnh trang-công nói: - Khanh là cựu thần của Tiên-vương, trẫm không dám ép buộc theo quần-liêu mà làm nhọc lòng khanh. Vậy khanh chớ cho trẫm bất nghĩa. Trịnh trang-công vừa cười, vừa tâu: - Nghĩa là Bệ-Hạ bảo tôi trả chức mà về nước? Ðoạn bước ra ngoài, nét mặt hằm hằm nói với mọi người: - Vua trẻ con nầy bội-bạc lắm, không thể giúp đặng! Nói xong, lên xe trở về nước Trịnh. Thế-tử Hốt đem các quan ra tận biên thùy tiếp đón. Trịnh trang-công kể công việc vua Hoàn-vương bạc đãi. Các quan ai nay đều bất bình. Quan Ðại-phu Cao-cừ-di nói: - Chúa ta giúp nhà Châu đến nay đã hai đời, công trạng rất lớn. Vả lại Thái-Tử Hổ ở nước ta chưa có gì thất lễ, nay lại bỏ Chúa-công dùng Quách-công kỵ-phủ, thật là bất nghĩa. Xin Chúa-công ra binh đánh nhà Châu, phế Hoàn-vương mà lập vua khác, như thế các chư-hầu mới kính nễ nước Trịnh. Dĩnh Khảo-thúc nói: - Không nên thế! Ðạo vua tôi như tình mẹ con. Chúa-công đã không thù mẹ sao lại thù Chúa được! Chúa. Công nên kiên-nhẫn ít lâu đợi cho Hoàn-vương hối hận mà trọng dụng, nếu nóng nẩy e làm mất khí tiết mấy đời của nhà Trịnh. Tế-Túc tâu: - Theo tôi tưởng cả hai người đều có lý. Vậy tôi có một ý dung-hòa hơn, là cần dò xét thái-độ Hoàn-vương trước đã. Nay đem một đạo binh sang đất nhà Châu lấy cớ mất mùa, mượn lúa ở Lạc-ấp và ôn-ấp, nếu nhà Châu trách phạt, ta sẽ sanh sự, bằng không Chúa công sẽ vào chầu để can gián Hoàn-vương. Trịnh-trang-công cho là phải, bèn sai Tề-túc cắt quân kéo đến ôn-ấp. Quan giữ ôn-ấp là Ôn Ðại-phu, thấy thế la hoảng: - Sao ngài lại làm ngang như thế. Chưa có lệnh Hoàn-vương tôi không thể nào cho mượn lúa được. Tề-Túc nói: - Hiện nay ở đây lúa mạch đang chín, còn nước ta thiếu lúa ăn, nếu không cho mượn ta cứ tự tiện gặt lấy. Nói xong khiến quân đem liềm hái xuống ruộng mà gặt. Ôn Ðại-phu thấy quân Trịnh mạnh quá không dám ngăn cản, vội chạy về Lạc-dương cấp báo. Hoàn-vương nổi giận định hưng binh đánh Trịnh, nhưng Châu-công Hắc-kiên can rằng: - Tề-Túc gặt lúa trộm ấy chỉ là việc nhỏ ngoài biên đình. Bệ-hạ không nên vì việc nhỏ mà bỏ việc lớn, xin cứ lấy đại-lượng đối xử Trịnh trang-công sẽ ăn-năn mà hối cải. Hoàn-công nhận lời, truyền canh giữ bờ cõi nghiêm nhặt còn việc gặt lúa thì bỏ qua không nói đến. Tề-Túc đóng quân trên đất Châu ba tháng, không thấy gì, bèn trở về phục chỉ. Trịnh trang-công thấy thế có ý ăn-năn, hối hận, bèn tính việc qui triều Châu bệ kiến Hoàn-vương. Trịnh trang-công sắp lên đường thì bỗng có Tề hi-công sai sứ qua mời sang Thạch-môn phó hội. Trịnh trang-công đã có ý muốn giao-ước với Tề-hầu, nay sẵn dịp bèn lên đường phó hội. Khi gặp Tề hi-Công, Trịnh-trang-công cùng kết làm anh em sanh-tử, uống máu ăn thề, hẹn giúp đỡ lẫn nhau trong cơn hoạn nạn. Tề hi-công, sau khi hỏi thăm, biết Thế-tử Hốt chưa định gia thất bèn tỏ ý rằng: - Tôi có một đứa con gái, tuổi vừa cập kê, tài mạo gồm đũ, như hiền-hầu bằng lòng tôi sẽ gã cho Thế-tử Hốt. Trịnh trang-công nghe nói rất đẹp dạ. Hai bên giả biệt ra về. Về đến Kinh-đô, Trịnh trang-công thuật chuyện ấy lại với Thế-tử Hốt. Thế-tử Hốt thưa: - Việc phối- ngẫu cốt phải cân xứng, nay nước ta nhỏ, nước Tề lớn kết hôn với nhau đâu phải cách. Ý con tưởng không nên với cao làm gì. Trịnh trang-công nói: - Ðó là ý kiến của Tề hi-công ước muốn chớ đâu phải ý củ cha. Vả lại, kết nghỉa với Tề, ngày sau có thể tượng-trợ được, sao con lại từ chối? Thế-tử Hốt thưa: - Thân trai bổn phận phải tự lập, lẽ đâu trông mong vào sự bảo trợ của kẻ khác. Trịnh trang-công nghe nói, khen con có chí khí và không ép nữa. Sau đó, sứ Tề qua Trịnh biết được chuyện Thế-tử Hốt từ chối việc hôn nhơn, trở về thuật lại với Tề hi-công. Tề-hi-công khen thầm: - Nếu vậy thì Trịnh Thế-tử quả lâ một kẻ can-cường, lại đầy lòng khiêm nhượng. Nhưng thôi! Con gái ta nhỏ, việc đó chưa muộn gì. Một hôm, Trịnh trang-công đang thương nghị với quần thần về việc đi chầu Châu-vương, xảy có tin báo rằng Công-tử nước Vệ là Chu-hu đã giết vua Vệ hoàn-công mà soán vị. Trịnh trang-công thất kinh, vỗ tay xuống bàn than: - Thôi rồi! Chẳng bao lâu nữa nước Trịnh ta xảy ra binh-biến. Các quan không hiểu, ngơ ngác hỏi: - Do đâu mà Chúa-công lại tiên-liệu như thế? Trịnh trang-công nói: - Chu-hu là một đứa hung hăng. Nay soán ngôi nước Vệ tất thị oai với các nước lân-bang. Nước ta trước kia có hiềm khích, chắc là bị va dấy binh đánh trước. Vậy phải đề-phòng mới được. Chu-hu nầy nguyên là con thứ ba của Vệ trang-công. Vệ-trang-công trước kia lấy bà Trang-khương nước Tết rất đẹp mà không con, sau lại lấy nàng Lệ-Vĩ nước Trần làm thứ, Lệ-Vĩ cũng không con, nên Vệ trang-công lại, lấy em gái của Lệ-Vĩ là Ðài-Vĩ. Nàng này sanh đặng hai trai là Hoàn và Tân. Bà Trang-khương rất tốt tính, không hề biết ghen tương, đem Hoàn về nuôi làm con, rồi lại dâng cho Vệ trang-công một cung nữ. Người cung-nữ nầy sanh được một trai, tức là Chu-hu. Chu-hu tánh hung-bạo, nhưng Vệ trang-công lại rất yêu quý. Do đó, Chu-hu mỗi ngày một lộng hành, bất chấp lời giáo huấn. Thạch-thác thấy thế đã nhiều lần khuyên Vệ trang-công: - Chúa công cần phải trấn áp công tử, kẻo sau nầy khó tránh tai vạ! Còn Thạch-thác lại cũng có một đứa con trai là Thạch-hậu thường giao du với Chu-hu, rủ nhau săn bắn, luyện tập võ-nghệ. Làm lắm điều nhiễu hại dân chúng. Thạch-thác cả giận đánh đập nhiều lần, nên Thạch-hậu bỏ nhà vào thành ở luôn với Chu-hu. Thạch-thác cũng đành bó tay trước đứa con ngỗ-nghịch đó. Sau Vệ trang-công mất, Hoàn lên ngôi kế vị tức là Vệ hoàn-Công. Vệ hoàn-công vốn nhu nhược, không làm được việc lớn. Thạch-thác thấy thế cáo-quan không tham dự triều chính nữa. Lúc bấy giờ Chu-hu không còn kiêng nễ ai nữa, mưu tính với Thạch-hậu, toan việc cướp ngôi. Rồi gặp lúc vua Bình-vương nhà Châu mất, Vệ hoàn-công sắp sửa đi điếu tang, Chu-hu được dịp bàn với Thạch-hậu. Thạch-hậu nói: - Ðó là dịp tốt. Ngày mai Công-tử bày tiệc tiễn hành đưa Chúa-công. Tôi sẽ cho quân sĩ phục ở phòng tiệc. Lúc đang ăn uống Chu Công-tử rút gươm ra mà hạ sát Chúa-công đi thì lo gì không đoạt được ngôi báu. Chu-hu cả mừng, làm y kế. Sáng hôm sau Chu-hu bày tiệc ở Cung-quán rồi mời Vệ hoàn-công đến dự. Chu-hu nâng ly rượu nói: - Nay huynh-hầu đi xa, em xin có ly rượu tiễn hành. Vệ hoàn-công nói: - Hiền đệ quá nhọc lòng! Chẳng qua ta đi vắng một tháng rồi lại trở về. Chỉ mong hiền-đệ trông coi việc quốc-chính cho cẩn- thận là tốt rồi! Nói xong, Vệ hoàn-công rót một chén rượn trao cho Chu-hu để giã biệt. Hai người nâng ly vui vẻ. Ðược một lúc Chu-hu giả say làm rơi ly rượu xuống đất, rồi cúi xuồng lượm ly đi rửa. Vệ hoàn-công không ngờ nên bị Chu-hu lén ra phía sau lưng rút gươm đâm một nhát bỏ mạng. Lúc đó, Thạch-hậu dẫn năm trăm quân giáp vây chặt Cung-quán, nên không ai đám trái lệnh. Giết vệ hoàn-công xong, Chu-hu lên tức vị, và phong cho Thạch-hậu làm Thượng đại-phu. Còn em ruột của Vệ hoàn-công là Tân bỏ trốn qua nước Hình lánh nạn. Vừa lên ngôi được ba ngày, Chu-hu nghe dân-chúng bàn tán về việc mình giựt anh, soán ngôi, lòng bực tức, kêu Thạch Hậu vào hỏi ý-kiến: - Nay ta mới tức vị, oai-quyền trong thiên hạ chưa được bao nhiêu, muốn cho các nước nể vì, tất phải hưng binh chinh phạt. Vậy theo ý người nên đánh nước nào trước? Thạch-hậu tâu: - Các lân-quốc đều chẳng có thù hiềm chi, duy chi có nước Trịnh trước kia có thù hiềm với ta việc Công-tôn-hoạt. Tiên-công đã nhượng bộ cầu hòa trong lúc quân Trịnh kéo tới bờ cõi, thật là điều quốc nhục. Nay Chúa-công muốn dựng binh, xin hãy đánh Trịnh trước. Chu-hu nói: - Nước Trịnh vừa lập minh-thệ với nước Tề tại Thạch-môn, nếu nay đánh Trịnh ắt Tề đem binh giúp, nước ta cự sao nổi? Thạch-hậu tâu. - Nếu muốn đánh Trịnh, Chứa-công phải sai sứ sang nước Tống, nước Lỗ để cầu họ ra binh giúp sức. Rồi mượn thêm binh nước Trần, nước Sái hiệp lại mà đánh thì lo gì chẳng thắng. Chu-hu nói: - Trần và Sái là hai nước nhỏ, xưa nay vẫn tùng-phục nhà Châu, nay nhà Châu nghịch với Trịnh, thì ta có thể mượn binh hai nước ấy đánh Trịnh được. Duy chỉ có Lỗ và Tống là hai nước lớn rất khó nài họ giúp mình. Thạch-hậu tâu: - Chúa-công chưa rõ, nước Tống xưa Tống mục-công nối ngôi anh là Tuyên-công. Sau Tống mục-Công gần thác, muốn báo ơn anh, nên bỏ con ruột là Bằng, truyền ngôi cho con người anh là Dư-di. Bằng oán cha và rất ghét Dư-Di nên bỏ sang nước Trịnh cư ngụ. Nước Trịnh đã chứa Bằng lại có ý giúp Bằng đánh Tống, cướp ngôi của Dư-di. Nay nhân việc nầy mà rủ Dư-di hiệp binh đánh Trịnh, ắt Dư-di không từ chối. Còn nước Lỗ thì Công-tử Vận chưởng-quản cả binh-quyền, xem Lỗ-Hầu chẳng ra chi. Nếu đem nhiều tiền của hối-lộ cho Công-tử Vận ắt nước Lỗ hưng-binh ngay. Chu-hu nghe nói lòng phấn khởi, lập tức sai sứ sang Lỗ, Trần Sái. Còn nước Tống vì phải có một sứ-giả ăn nói bặt-thiệp mới xong nên chưa chọn được người. Thạch-hậu tâu: - Nay có Ninh-dực, người đất Trung-mâu, vốn là một kẻ miệng lưỡi. Xin Chúa-công sai người ấy đi ắt thành-sự. Chu-hu y lời, liền sai Ninh-dực sang mượn binh nước Tống Ninh-dực bái mạng, lập tức lên ngựa ra đi. Ðến nơi vào yết kiến. Tống tương-công hỏi: - Tại sao lại cử binh đánh Trịnh? Ninh-dực tâu: . - Trịnh trang-công vô đạo, giết em, đày mẹ, khiến cho Công-tôn-hoạt trốn sang nước tôi tỵ-nạn. Trịnh trang-công lại mượn cớ ấy xâm lấn bờ cõi, Tiên-vương tôi vì nhu-nhược mà cầu hòa. Nay Chúa-công tôi quyết hưng binh rửa nhục. Vì nghĩ đến chỗ chúng ta đều có thù chung với nước Trịnh nên Chúa-công tôi khiến tôi sang đây mà cầu viện. Tống tương-công nói: - Ta cùng nước Trịnh xưa nay chẳng có thù hiềm chi, sao ngươi lại nghĩ như thế? Ninh-dực ôn-tồn nói: - Có lẽ Chúa-công đã không nhớ ngôi vua nầy ai truyền lại cho Chúa-công chăng? Tồng tương-công mỉm cười nói: - Của Vương-thúc ta là Tống mục-công truyền lại. Ninh-dực nói: - Từ xưa nay, hễ cha thác thì truyền ngôi lại cho con là lẽ thường. Tống mục-công tuy có lòng tốt, truyền ngôi lại cho Chúa-công, song công-tử Bằng hiện nương ngụ nơi đất Trịnh, lăm le mượn binh nước Trịnh về phục nghiệp. Như thế Chúa-công làm sao yên được. Nay đánh Trịnh là một cơ-hội tốt để cho Chúa-Công trừ mối hại cho nước Tống sau nầy. Tống tương-công lâu nay đã có ý nghi kỵ Công-tử Bằng, nay Ninh-dực nói đúng ý, liền nhận lời giúp Vệ đánh Trịnh. Lúc ấy có quan Ðại tư-mã, vốn giòng dõi vua Thang, tên Không-phu-gia thấy Tống tương-công nhận lời giúp Vệ, bèn can rằng: - Xin Chúa-công chớ nghe lời ngụy-biện của sứ nước Vệ. Nếu bắt tội Trịnh trang-công giết em, bỏ tù mẹ thì Chu-hu giết anh đoạt ngôi lại không phải tội sao? Quên tội mình, kết tội kẻ khác, ấy không phải là lời chân chính. Tuy-nhiên, Tống tương-công vì đã hứa lỡ với Ninh-Dực, nên chẳng nghe lời can gián, nội ngày ấy hưng binh. Còn nước Lỗ, Công-tử Vận đã ăn hối lộ của nước Vệ rồi, nên cũng rầm-rộ kéo binh sang. Trần và Sái cũng đều tề-tựu đũ mặt. Năm nước họp lại cử nước Tống làm Minh-chủ, Thạch-hậu làm Tiên-phuông, Chu-hu đi hậu đạo, chở theo rất nhiều lương thực, lũ lượt kéo qua cửa Ðông-thành của nước Trịnh. Trịnh trang-công hay tin, liền họp các quan đại thần lại bàn bạc. Trong triều người chủ chiến, kẻ chủ hòa, ý-kiến rộn ràng chưa quyết. Trịnh trang-công mỉm cười nói: - Các quan chưa bàn được gì hay. Nhưng cứ theo thiển-kiến của ta thì Chu-hu vừa mới nổi loạn đoạt ngôi anh, dân tình trong nước không phục, nay va mượn oán cũ, cử binh sang đánh nước ta, chỉ cốt để cho dân nước Vệ sợ đó thôi. Công-tử Vận thì vì ham tiền hối-lộ mà cử binh sang đánh chứ không phải ý muốn của Lỗ ân-Công. Trần và Sái thì không có oán cừu gì với nước Trịnh, thế thì bốn nước đó không đáng sợ. Duy chỉ có Tống, ghét Công-tử Bằng trốn tránh trên đất Trịrih, nên thực lòng quyết đánh. Nay ta đưa Công-tử Bằng ra trú nơi đất Trường-các, binh Tống hay tin ắt kéo quân ra đó. Trong lúc ấy, ta khiến Công-tử Lữ dẫn quân ra cửa Ðông đánh với Chu-hu, rồi giả thua mà chạy. Chu-hu vốn làm oai, đã đánh thắng tất nhiên kéo quân về chứ không dám ở lâu trên đất Trịnh, sợ trong nước có loạn. Bởi vì hiện nay nước Vệ còn có Thạch-thác là một tôi trung của Vệ hoàn-công, làm sao chịu khoanh tay ngồi ngó Chu-hu phản-phúc được! Tình trạng Chu-Hu hiện nay lo phận mình chưa đũ, có đâu lại làm hại ta được sao? Các quan cận-thần nghe nói đều cho là phải. Trịnh trang-công liền khiến quan Ðại-phu Hà thúc-dĩnh đem một đạo quân đưa Công-tử Bằng qua Trường-các, rồi lại sai người đến nói với Tống tương-công rằng: - Công-tử Bằng trốn sang nước tôi, tôi không nỡ giết, nên bắt đày ra Trường-các, vậy xin Chúa-công định-đoạt. Tống tương-công hay được tin lập tức kéo đại binh ra vây nơi Trường-các. Ba nước Trần, Sái và Lỗ thấy binh Tống đi rồi, có ý chán nản muốn rút binh về, nên lúc nghe Công-tử Lữ đem quân đánh Vệ ở cửa Ðông cũng không buồn tiếp ứng.
HỒI THỨ 6 Vệ Thạch Thác vì nghĩa giết con Trịnh Trang công giả mệnh đánh Tống Bấm để xem Thạch Hậu mới đánh được Trịnh có một trận, đã hạ lệnh rút quân về, các tướng không hiểu ý, đều vào tâu với Chu Hu: - Quân ta khí thế đang hăng hái, nên thừa thế tiến đánh, cớ sao lại vội rút quân trở về? Chu Hu cũng có ý nghi ngờ, mới gọi Thạch Hậu vào hỏi. Thạch Hậu xin đuổi hết người xung quanh, rồi nói nhỏ với Chu Hu rằng: - Quân Trịnh vốn là quân mạnh tợn, nay ta được một trận cũng đủ làm oai rồi. Chúa công mới lên nối ngôi, công việc trong nước chưa được yên ổn, nếu ở ngoài mãi thì sợ có nội biến. Chu Hu nói: - Nhà ngươi không nói thì ta chưa nghĩ đến. Được một lúc, Trần, Sái và Lỗ cùng đến chúc mừng về việc thắng trận và đều xin rút quân về nước. Thạch Hậu cậy công có ý tự đắc, cùng với Chu Hu thu quân trở về. Chu Hu nói: - Người trong nước còn có ý không phục thì biết làm thế nào? Thạch Hậu nói: - Phụ thân tôi là Thạch Thác, khi trước làm quan Thượng khanh, người trong nước ai cũng tin phục, nếu Chúa công đòi vào triều, để cùng coi quốc chính thì ngôi cao của Chúa công mới yên ổn được. Chu Hu liền sai người đem một đôi ngọc bích trắng, 500 hộc gạo trắng đến làm quà cho Thạch Thác, rồi mời Thạch Thác vào triều để bàn việc. Thạch Thác nói dối là ốm nặng, cố từ không chịu vào. Chu Hu lại hỏi Thạch Hậu rằng: - Phụ thân nhà ngươi đã không chịu vào triều, ta muốn đến tận nơi mà hỏi, phỏng có nên không? Thạch Hậu nói: - Chúa công đến thì vị tất phụ thân tôi đã chịu tiếp kiến, để tôi phụng mệnh Chúa công về hỏi xem ra làm sao? Nói xong, liền về nhà nói với Thạch Thác, kể những tình ý kính mến của Chu Hu. Thạch Thác nói: - Chúa công đòi ta, có ý muốn hỏi việc gì? Thạch Hậu nói: - Nay Chúa công mới lên ngôi, dân tình chưa được mến phục vậy muốn nhờ phụ thân chỉ bảo cho một kế. Thạch Thác nói: - Chư hầu lên ngôi, có bẩm mệnh vua nhà Chu mới là chính đáng. Nếu Chúa công vào triều vua nhà Chu, được vua nhà Chu phong cho thì người trong nước ai còn dám nói gì nữa. Thạch Hậu nói: - Câu nói ấy rất phải! Nhưng tự nhiên vào triều thi tất vua nhà Chu sinh lòng nghi, làm thế nào có một người nói trước với vua nhà Chu mới được. Thạch Thác nói: - Nay có Trần Hoàn công là người trung thành với vua nhà Chu, các lễ triều sinh, không bỏ thiếu bao giờ, vua nhà Chu có lòng yêu mến. Nước ta cùng với nước Trần vốn giao hiếu với nhau, mới rồi lại mượn quân sang đánh nước Trịnh thì tình nghĩa càng thân mật lắm. Nếu Chúa công sang qua nước Trần, nhờ Trần Hoàn công nói trước với vua nhà Chu, rồi sẽ vào triều thì khó gì mà chẳng nên việc. Thạch Hậu đem lời nói của Thạch Thác thuật lại cho Chu Hu nghe. Chu Hu mừng lắm, mới sắp sửa các đồ lễ vật cùng với quan Đại phu nước Trần là Tử Hàm bạn thân với nhau. Thạch Thác mới trích máu đầu ngón tay viếc một bức thư, sai người tâm phúc đưa cho Tử Hàm nhờ Tử Hàm đệ trình Trần Hoàn công. Bức thư như sau này: "Thạch Thác cúi đầu trăm lạy có mấy lời kính dâng Trần Hiền hầu: Nước Vệ tôi nhỏ mọn, không ngờ trời lại tra tai, sinh ra cái vạ giết vua, đó dẫu là cái tội Chu Hu, nhưng thật tại thằng con hư của tôi là Thạch Hậu, nó tham lợi mà đem lòng xui giục. Nếu mà hai kẻ loạn tặc kia không giết được thì thiên hạ tất lắm đứa bắt chước cái gương xấu ấy mà làm càn; tôi đây tuổi già mình yếu, không thể trừng trị nổi, thật đắc tội với Tiên công lắm. Bây giờ hai kẻ loạn tặc ấy dắt nhau sang quí quốc, là bởi cái mưu của tôi bày ra. Xin Chúa công bắt mà trị tội, để làm gương cho những kẻ thần tử mai sai, thật là một việc may cho cả thiên hạ, chẳng những may riêng cho nước tôi mà thôi". Trần Hoàn công xem xong, hỏi Tử Hàm rằng: - Nhà ngươi nghĩ thế nào? Tử Hàm nói: - Đứa loạn tặc của nước Vệ, tức là đứa loạn tặc của nước Trần, bây giờ chúng nó dắt nhau sang nước ta là chúng nó tự đem thân đến chỗ chết, Chúa công chớ nên dung túng cho chúng nó. Trần Hoàn công khen phải, mới lập kế sẵn để bắt Chu Hu. Chu Hu cùng Thạch Hậu đến nước Trần, vẫn không biết cái mưu của Thạch Thác, hai người cứ ngang nhiên mà đi. Trần Hoàn công cho công tử Đà ra nghênh tiếp, mời vào nghỉ ở nơi công quán, rồi thay Trần Hoàn công hẹn với Chu Hu đến ngày hôm sau thì tiếp kiến ở nhà Thái Miếu. Chu Hu thấy Trần Hoàn công tiếp đãi tử tế có ý mừng lắm. Sáng hôm sau, Thạch Hậu đến cửa nhà Thái Miếu, trông thấy có cái biển trắng đề một câu rằng: "Kẻ nào làm tôi bất trung, làm con bất hiếu thì không được vào nhà miếu". Thạch Hậu sợ lắm, hỏi Tử Hàm rằng: - Để cái biển này là có ý gì? Tử Hàm nói: - Đó là lời di huấn của Tiên công tôi ngày xưa, vậy nên Chúa công tôi không dám quên. Thạch Hậu mới không có ý nghi ngại. Được một lúc, Chu Hu đến. Thạch Hậu đưa Chu Hu vào miếu. Chu Hu đang khúm núm sắp sửa thi lễ, bỗng thấy Tử Hàm đứng ở bên cạnh Trần Hoàn công quát to lên rằng: - Ta phụng mệnh vua nhà Chu chỉ bắt hai đứa loạn tặc là Chu Hu và Thạch Hậu, còn đồ đảng thì tha tất cả. Nói chưa dứt lời thì có quân giáp sĩ phục ở hai bên đổ ra bắt Chu Hu. Thạch Hậu đang luống cuống chưa kịp rút gươm, cũng bị quân giáp sĩ trói lại. Tử Hàm đem bức thư của Thạch Thác tuyên đọc một lượt, mọi người chung quanh mới biết rõ là Chu Hu và Thạch Hậu bị bắt đều bởi mưu của Thạch Thác mượn tay nước Trần, ai cũng cho là phải lắm. Trần Hoàn công toan đem Chu Hu và Thạch Hậu ra chém. Các quan đều can rằng: - Thạch Hậu là con Thạch Thác, chưa biết ý Thạch Thác thế nào, chi bằng ta báo tin cho nước Vệ sang mà nghị tội thì sau không trách vào đâu được nữa. Trần Hoàn công nói: - Các quan nói phải đó! Nói xong, truyền đem Chu Hu và Thạch Hậu mỗi người giam cấm một nơi; Chu Hu thì giam ở Bộc Ấp, còn Thạch Hậu thì giam ở Trần Đô để khiến cho âm tín không được giao thông với nhau, rồi sai người đem thư sang báo tin cho Thạch Thác nước Vệ biết. Thạch Thác từ khi cáo quan về, không đi đến đâu cả, thấy Trần Hoàn công cho người đem thư đến, tức khắc vào triều họp cả các quan lại, rồi mở bức thư Trần Hoàn công ra xem, mới biết Chu Hu và Thạch Hậu đã bị bắt tại nước Trần rồi, chỉ đợi nước Vệ cho người sang để cộng đồng nghị tội. Các quan đều đồng thanh mà nói rằng: - Việc này là việc lớn của nước nhà, xin Lão quan ngài chủ trương cho mới được. Thạch Thác nói: - Hai đứa loạn tặc ấy không thể tha được, tất phải đem mà chính pháp, nào ai là người dám đương cái việc ấy. Quan Hữu tể tên là Xú đứng dậy nói. - Những kẻ loạn tặc, ai cũng có phép được giết, tôi dẫu hèn mạt, nghĩ cũng tức thay, vậy thì tôi xin đương việc giết Chu Hu. Các quan đều nói: - Việc ấy giao cho Hữu tể Xú được đấy! Nhưng thủ ác là Chu Hu đã chính pháp rồi, còn Thạch Hậu là kẻ tòng nghịch, cũng nên cho nhẹ tội một chút. Thạch Thác nổi giận nói: - Những tội ác của Chu Hu, đều bởi thằng Thạch Hậu nó xúi giục nên cả, nay các quan lại định cho nhẹ tội, chẳng hóa ra nghe ta có bụng tư với con hay sao! Âu là để lão thân hành đi mà tự tay chém thằng loạn tặc ấy, nếu không thì còn mặt mũi nào mà trông thấy nhà miếu của tiền nhân nữa. Gia thần là Nhu Dương Kiên nói: - Lão quan chớ nóng nẩy, tôi xin đi thay. Thạch Thác liền sai Hữu tể Xú sang Bộc Ấp để chém Chu Hu, còn Nhu Dương Kiên thì sang Trần Đô để chém Thạch Hậu, rồi sắp sửa xe giá đi đón công tử Tấn ở nước Hình về. Hữu tể Xú cùng với Nhu Dương Kiên sang đến nước Trần, vào yết kiến Trần Hoàn công tạ ơn đã trừ hộ đảng loạn, rồi Hữu tể Xú đến Bộc Ấp đem Chu Hu ra chém. Chu Hu trông thấy Hữu tể Xú, kêu to lên rằng: - Mày làm bề tôi ta, sao mày dám xâm phạm đến ta! Hữu tể Xú nói: - Nước Vệ ta ngày trước có người làm bề tôi mà dám giết vua, vậy nên ta lại bắt chước. Chu Hu nín lặng, cúi đầu chịu chết. Nhu Dương Kiên đến Trần Đô đem Thạch Hậu ra chém. Thạch Hậu nói: - Chết thì ta cũng đành phận, nhưng hãy giải ta về cho ta được trông thấy mặt phụ thân ta đã, rồi sẽ đem chém. Nhu Dương Kiên nói: - Ta phụng mệnh phụ thân nhà ngươi đến đây để chém nhà ngươi, nếu nhà ngươi muốn gặp mặt phụ thân thì ta sẽ đem đầu nhà ngươi về để phụ thân nhà ngươi được trông thấy. Nói xong, liền tuốt gươm ra chém Thạch Hậu. Công tử Tấn ở nước Hình về nước Vệ, đem việc giết Chu Hu vào cáo miếu Vệ Vũ công, lại phát tang để trở Vệ Hoàn công, rồi lên nối ngôi, tức là Vệ Tuyên công. Tôn Thạch Thác làm quốc lão, cho được nối đời coi giữ quốc chính. Từ bấy giờ nước Trần và nước Vệ hai nước thân mật với nhau. Trịnh Trang công thấy các nước đã rút quân về, toan sai người đi dò la tin tức công tử Phùng ở đất Trường Cát xem ra làm sao. Bỗng thấy công tử Phùng từ Trường Cát trốn về, vào yết kiến Trịnh Trang công. Trịnh Trang công hỏi: Công tử Phùng kể chuyện đất Trường Cát đã bị quân nước Tống chiếm cứ mất rồi, vậy nên phải trốn chạy về đây, xin Chúa công che chở cho. Nói xong nức nở khóc hoài. Trịnh Trang công úy dụ một vài câu, rồi lại cấp lương cho ra ở nhà công quán. Một hôm Trịnh Trang công nghe tin Chu Hu bị giết, Vệ Tuyên công lên nối ngôi, liền họp các quan lại thương nghị rằng: - Việc Chu Hu đánh nước ta, không can dự đến Vệ Tuyên công, chỉ có nước Tống là khí trước đứng đầu việc sang đánh Trịnh, bây giờ ta muốn báo thù thì các quan tính thế nào? Sái Túc nói: - Ngày trước năm trước họp quân đánh Trịnh, bây giờ ta đánh Tống thì bốn nước kia tất nhiên sợ hãi, phải đem quân giúp Tống, chi bằng ta sai người đi giảng hòa với Trần, lại lấy lợi kết với nước Lỗ. Nếu Trần và Lỗ đã thân mật với ta thì nước Tống thế cô, không làm gì nổi. Trịnh Trang công nghe lời, liền sai người sang giảng hòa với nước Trần. Trần Hoàn công không cho. Công tử Đà can rằng: - Thân mật với lân quốc là một việc có ích cho nước, bây giờ Trịnh đến giảng hòa, sao ta lại không nhận. Trần Hoàn công nói: - Trịnh Trang công là người trí trá, không có thể tin được, này hãy xem như Tống và Vệ đều là nước lớn cả, sao không đến giảng hòa mà lại giảng hòa với nước ta trước, tất là có kế gì đây. Huống chi ngày trước ta theo Tống đánh Trịnh, bây giờ lại giảng hòa với Trịnh thì nước Tống tất giận. Được lòng Trịnh lại mất lòng Tống, có được ích gì! Nói xong liền chối từ, không tiếp sứ nước Trịnh. Trịnh Trang công giận lắm, nói: - Trần chỉ cậy thế có nước Tống và nước Vệ. Nay nước Vệ vừa mới dẹp yên đảng loạn, giữ mình chưa xong, còn giúp ai được, để ta giảng hòa với nước Lỗ, rồi hợp quân Tề và Lỗ trước báo thù nước Tống, sau đánh nước Trần, đó thật là một cái thế rất dễ như người chẻ cây tre vậy. Sái Túc nói: - Không phải thế! Số là nước ta mạnh mà nước Trần yếu, nay ta xin giảng hòa, Trần tất có bụng nghi, vậy nên không theo, âu là ta cho quân cướp phá bờ cõi, rồi lại sai người nào khéo nói đem trả những đồ bắt được, để tỏ ra mình không nói dối, bấy giờ Trần tất phải giảng hòa. Khi ta đã giảng hòa với Trần thì ta sẽ bàn đến việc đánh Tống. Trịnh Trang công khen phải, rồi sai 5000 quân sang cướp phá bờ cõi nước Trần, bắt lấy các xe lương thực cả thẩy hơn 100 chiếc. Trần Hoàn công nghe tin, có ý sợ hãi, mới họp các quan lại thương nghị. Bỗng thấy quân báo có sứ nước Trịnh là Dĩnh Khảo Thúc đem trả các đồ bắt được khi trước và đưa một bức thư của Trịnh Trang công. Trần Hoàn công hỏi công tử Đà rằng: - Nay Trịnh lại cho sứ đến là ý làm sao? Công tử Đà nói: - Đó là cái bụng tốt của người ta, mình không nên cố ý từ chối mãi. Trần Hoàn công cho Dĩnh Khảo Thúc vào yết kiến. Dĩnh Khảo Thúc dâng bức thư của Trịnh Trang công. Trần Hoàn công mở ra xem. Trong thư đại lược nói rằng: "Ngộ sinh này có mấy lời kính dâng Trần Hiền hầu xét cho: Tôi cùng với Hiền hầu cùng làm bề tôi nhà Chu, đáng lẽ hai nước nên thân mật với nhau để giữ lấy cái bổn phận làm chư hầu. Mới rồi tôi cho người sang giảng hòa mà Hiền hầu không cho, bởi thế những quan quân ở ngoài bờ cõi nước tôi không biết, ngỡ là hai nước có hiềm khích gì, mới dám tự tiện xâm phạm vào bờ cõi của quí quốc. Tôi nghe tin ấy thật lấy làm áy náy, ngủ không được yên, nay đem các đồ bắt được, nộp lại đủ số và cho Dĩnh Khảo Thúc sang tạ tội. Từ rày trở đi tôi cùng với Hiền hầu kết nghĩa anh em, xin Hiền hầu bằng lòng cho". Trần Hoàn công xem xong, biết nước Trịnh có bụng muốn giảng hòa thật, mới tiếp đãi Dĩnh Khảo Thúc một cách rất tử tế và cho công tử Đà sang đáp lại. Từ bấy giờ nước Trần và nước Trịnh cùng giảng hòa với nhau. Trịnh Trang công xem xong hỏi Sái Túc rằng: - Bây giờ Trần đã giảng hòa rồi, ta muốn đánh Tống thì thế nào? Sái Túc nói: - Tống là một nước lớn, vua nhà Chu cũng có ý trọng đãi, không nên đánh vội. Ngày trước Chúa công đã định vào triều vua nhà Chu, vì có nước Tề mời sang hội ở đất Thạch Môn, lại gặp Chu Hu đem quân đến đánh, thành ra nấn ná mãi cho đến bây giờ. Âu là ngày nay Chúa công vào triều nhà Chu, giả cách nói là phụng mệnh Thiên tử, hợp quân Tề, Lỗ để sang đánh Tống. Dùng quân có hợp lẽ phải thì tất được toàn thắng. Trịnh Trang công mừng lắm, nói: - Nhà ngươi mưu sự thật là vạn toàn! Nói xong, liền giao cho Thế tử Hốt coi giữ quốc chính, rồi cùng với Sái Túc vào triều vua Hoàn Vương nhà Chu. Chu công Hắc Kiên khuyên vua Hoàn Vương nhà Chu nên tiếp đãi nước Trịnh tử tế để làm gương cho các nước chư hầu. Vua Hoàn Vương vốn ghét Trịnh Trang công lại nhớ đến việc nước Trịnh sang ăn cướp lúa ngày trước, có ý tức giận, bảo Trịnh Trang công rằng: - Năm nay mùa màng nước Trịnh thế nào? Trịnh Trang công tâu rằng: - Nhờ hồng phúc Thiên tử, vậy nên không có những cái hại thủy, hạn. Vua Hoàn Vương nói: - May mà nước Trịnh được mùa thì lúa má của nhà Chu, Trẫm mới có thể giữ mà ăn được. Trịnh Trang công thấy vua Hoàn Vương nhà Chu có ý mỉa mai mình như vậy, mới nín lặng không nói gì được nữa, cáo từ lui ra. Vua Hoàn Vương lại sai người đem 10 xe lúa đưa cho Trịnh Trang công và bảo rằng: - Thiên tử ban cho nước Trịnh để phòng bị những năm mất mùa. Trịnh Trang công thấy vậy, hối hận vô cùng, bảo Sái Túc rằng: - Nhà ngươi khuyên ta vào triều vua nhà Chu, nay vua nhà Chu khinh bỉ như vậy, lại nói những câu oán hận, và giễu ta mà cho 10 xe lúa, ta muốn chối từ không nhận thì nên nói thế nào? Sái Túc nói: - Các nước chư hầu sở dĩ kính trọng nước Trịnh ta là vì nước Trịnh ta mấy đời nay kiêm chức khanh sĩ nhà Chu; vua nhà Chu cho gì, bất cứ nhiều ít, cũng gọi là ơn vua, nếu Chúa công chối từ mà không nhận thì rõ ràng là hiềm khích với vua nhà Chu. Trịnh đã mất lòng vua nhà Chu thì sao khiến cho các nước chư hầu kính trọng được. Trịnh Trang công đang cùng với Sái Túc thương nghị, bỗng có Chu công Hắc Kiên vào yết kiến Trịnh Trang công, tặng riêng cho Trịnh Trang công hai xe vóc lụa. Trịnh Trang công hỏi Sái Túc rằng: - Chu công Hắc Kiên đến yết kiến ta là có ý gì? Sái Túc nói: - Vua nhà Chu có hai con trai, con trưởng là Đà, con thứ là Khắc. Vua nhà Chu yêu con thứ, vẫn ủy thác cho Chu công Hắc Kiên, sau này tất muốn cướp ngôi con trưởng, vậy nên Chu công Hắc Kiên định kết thân với nước ta, để lấy nước ta làm ngoại viện. Chúa công nhận những đồ vóc lụa ấy rồi cũng dùng được việc. Trịnh Trang công nói: - Dùng được việc gì? Sái Túc nói: - Chúa công vào triều vua nhà Chu, các nước chư hầu ai cũng biết cả, nay Chúa công đem những vóc lụa ấy phủ lên 10 xe lúa của Thiên tử cho. Khi trở ra về, nói phao lên rằng vua Chu có ban cung tên cho Chúa công để đem quân sang đánh Tống, vì nước Tống lâu nay bỏ thiếu không vào triều cống Thiên tử. Mượn cái hiệu lệnh ấy mà lấy quân các nước chư hầu, nước nào không theo thì cho là trái mệnh. Ta làm như vậy, các nước chư hầu chắc phải tin theo, nước Tống dẫu lớn, địch lại thế nào nổi. Trịnh Trang công vỗ vào vai Sái Túc mà bảo rằng: - Nhà ngươi thật là một kẻ trí sĩ, việc gì ta cũng xin theo ý nhà ngươi mà làm. Trịnh Trang công ra khỏi địa phận nhà Chu, giả cách nói phụng mệnh Thiên tử sai sang đánh Tống, ai nghe cũng tưởng là chuyện thực. Tin đồn đến nước Tống, Tống Thương công sợ hãi, sai người sang mật cáo với Vệ Tuyên công. Vệ Tuyên công mới điều đình với Tề Hi công để cùng với Tống và Trịnh giảng hòa, hẹn đình ngày tháng hội nhau ở đất Ngõa Ốc, uống máu ăn thề, cùng bỏ hết những điều thù oán cũ. Tề Hi công đúng hẹn đến hội, thấy Trịnh Trang công không đến, Tề Hi công nói: - Trịnh Trang công không đến thì hòa nghị hỏng mất! Nói xong, đã toan lên xe về nước. Tống Thương công cố ý giữ lại. Tề Hi công nể mà ở lại, nhưng vẫn có ý không nhất quyết; chỉ có nước Tống và nước Vệ là có tình thân mật, cùng giao ước với nhau mà thôi. Bấy giờ vua Hoàn Vương nhà Chu, muốn bãi quyền của Trịnh Trang công, toan cho Quắc công Kỵ Phủ vào thay. Chu công Hắc Kiên cố ý can, vua Hoàn Vương nhà Chu mới dùng Quắc công Kỵ Phủ làm Hữu khanh sĩ, giao giữ quốc chính; còn Trịnh Trang công cho làm Tả khanh sĩ, chẳng qua chỉ có hư danh mà thôi. Trịnh Trang công nghe tin, vừa cười vừa nói: - Liệu chừng vua nhà Chu có cách được chức của ta chăng! Sau nghe nói Tống Thương công kết thân với Tề, mới gọi Sái Túc vào thương nghị. Sái Túc nói: - Tề cùng với Tống nguyên không phải là thâm giao, chỉ vì có Vệ Tuyên công ở giữa điều đình hai nước, vậy nên dẫu ăn thề với nhau, nhưng không thực bụng. Nay Chúa công đem mệnh Thiên tử truyền bá cho Tề, Lỗ; rồi nhờ Lỗ điều đình với Tề để hợp sức mà đánh Tống; lại cho hịch đi lấy quân cả nước Sái, nước Vệ, nước Thành và nước Hứa, nước nào không theo thì đem quân đến đánh. Trịnh Trang công nghe lời, sai sứ đến nước Lỗ, hẹn với Lỗ rằng: Hễ lấy được đất nước Tống thì cho nước Lỗ tất cả. Công tử Huy nước Lỗ là người tham lam, vội vàng vâng lời ngay, nói với Lỗ Ẩn công, rồi cùng với nước Tề và nước Trịnh hội nhau ở đất Trung Khâu. Tề Hi công sai em là Di Trọng Niên làm tướng, Lỗ Ẩn công sai công tử Huy làm tướng, để cùng nhau đem quân đi giúp Trịnh. Trịnh Trang công thân hành đem bọn công tử Lã, Cao Cừ Di, Dĩnh Khảo Thúc và Công Tôn Át đi đánh. Chế ra hai lá cờ trên đề 4 chữ: "Phụng thiên thảo tội", cùng với Di Trọng Niên và công tử Huy thẳng đường kéo sang nước Tống. Công tử Huy đến địa phận Lão Đào (đất nước Tống) quan trấn thủ ở đấy đem quân ra đánh, bị công tử Huy đánh cho một trận, phải bỏ đồ binh khí mà chạy. Quân nước Tống bị bắt hơn 250 người. Công tử Huy đem tin thắng trận báo cho Trịnh Trang công biết và mời Trịnh Trang công đến đóng quân ở đất Lão Đào. Trịnh Trang công mừng lắm, truyền mở tiệc để khao thưởng quân sĩ. Nghỉ ngơi trong hai ngày, rồi lại chia quân đi đánh các nơi; sai Dĩnh Khảo Thúc cùng với công tử Huy đem quân đi đánh Cáo Thành, cho công tử Lã làm tiếp ứng; lại sai Công Tôn Át cùng với Di Trọng Niên đem quân đi đánh Phòng Thành, cho Cao Cừ Di làm tiếp ứng, còn đại binh thì đóng tại Lão Đào. Tống Thương công nghe tin quân Tề, Lỗ và Trịnh đã vào trong nước, sợ xám mặt lại, đòi Khổng Phủ Gia đến để thương nghị. Khổng Phủ Gia nói: - Tôi sã sai người tới kinh đô nhà Chu để dò la tin tức thì Thiên tử không có sai Trịnh đánh Tống bao giờ, chẳng qua là Trịnh Trang công lập kế nói dối mà Tề và Lỗ mắc lừa đó thôi. Nhưng ba nước đã hợp sức nhau thì ta khó lòng mà địch nổi được, ngày nay chỉ còn kế này có thể khiến cho nước Trịnh không dám đánh mà tự khắc phải lui quân. Tống Thương công nói: - Trịnh đã được lợi, khi nào chịu lui quân. Khổng Phủ Gia nói: - Trịnh Trang công giả cách phụng mệnh Thiên tử để sai khiến các nước chư hầu, nay chỉ có Tề và Lỗ là vào đảng với nước Trịnh mà thôi. Trịnh Trang công đã đem quân sang đây thì trong nước tất không có phòng bị, Chúa công nên sai người đem vàng bạc sang khấn lễ nước Vệ, để nước Vệ hợp quân với nước Sái mà lẻn vào đánh nước Trịnh; Trịnh Trang công nghe tin nước mình có người đến đánh, tất nhiên phải rút quân về. Trịnh đã rút quân về thì Tề, Lỗ còn ở lại làm sao được. Tống Thương công nói: - Nhà ngươi nói phải đó, nhưng nhà ngươi không thân hành sang bảo nước Vệ thì nước Vệ vị tất đã chịu cất quân. Khổng Phủ Gia nói: - Tôi đem một đạo quân để dẫn đường cho Vệ sang đánh Trịnh. Tống Thương công cho Khổng Phủ Gia làm tướng đem quân và các đồ vàng ngọc vóc lụa sang nước Vệ, để mượn quân nước Vệ cùng lẻn vào đánh nước Trịnh. Vệ Tuyên công nhận các đồ lễ vật, rồi sai Hữu tể Xú đem quân cùng với Khổng Phủ Gia đi đường tắt lẻn sang đánh Trịnh. Thế tử Hốt cùng Sái Túc đang bàn nhau để đem quân ra chống giữ thì quân Tống và quân Vệ đã xâm phạm bờ cõi, cướp phá một trận, cướp được lương thực, bắt tù binh nhiều lắm, Hữu tể Xú toan tiến quân vào phá thành. Khổng Phủ Gia nói: - Mình nhân lúc người ta không có phòng bị mà lẻn sang đánh thì đã đánh được rồi, nên phải thôi ngay. Nếu ta kéo quân đến dưới chân thành, lỡ khi Trịnh Trang công rút quân về, trong đánh ra ngoài đánh vào thì quân ta khó lòng địch nổi; chi bằng ta mượn đường đi qua nước Đái mà rút quân về. Ta chắc rằng khi quân ta bỏ nước Trịnh mà về thì quân Trịnh Trang công cũng đã bỏ nước Tống mà đi rồi. Hữu tể Xú nghe lời, sai người sang mượn đường nước Đái. Người nước Đái nghi là Tống, Vệ lập mẹo để định đánh nước mình, mới đóng cửa lại, không cho đi qua. Khổng Phủ Gia giận lắm, cùng Hữu tể Xú chia quân làm hai ngã để đánh nước Đái; lại sai người sang mượn thêm quân nước Sái cùng sang đánh giúp. Bấy giờ bọn Dĩnh Khảo Thúc đã phá được Cáo Thành, bọn Công Tôn Át cũng phá được Phòng Thành, đều sai người đem tin thắng trận về báo với Trịnh Trang công. Trịnh Trang công vừa tiếp được tin thắng trận ấy thì lại thấy có tờ cáo cấp của Thế tử Hốt đưa đến. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 7 Dĩnh Khảo Thúc chết vì hiếu thắng Công tử Huy nịnh không phải đường Bấm để xem Trịnh Trang công tiếp được bức thư cáo cấp của Thế tử Hốt, tức thì truyền quân rút về. Bọn Di Trọng Niên, công tử Huy kéo nhau vào yết kiến Trịnh Trang công rồi hỏi Trịnh Trang công rằng: - Tiểu tướng này đang muốn thừa thế mà đánh tràn đi, chẳng hay vì cớ gì mà Chúa công lại muốn rút quân về? Trịnh Trang công là người gian hùng trí trá, mới giấu kín không cho biết việc Tống, Vệ lẻn vào đánh Trịnh, chỉ đáp lại rằng: - Ta phụng mệnh Thiên tử đến đây để đánh Tống, nhờ có binh uy của quí quốc lấy được hai thành, cũng đủ trị tội nước Tống rồi. Vả lại nước Tống là con cháu đời nhà Thương, Thiên tử ta vẫn có lòng kính trọng, ta cũng không nên tàn nhẫn quá. Thôi thì đã lấy được Cáo Thành, Phòng Thành, xin để kính tặng nước Tề và nước Lỗ, ta không dám tham lợi một chút nào. Di Trọng Niên nói: - Quí quốc phụng mệnh Thiên tử mà mượn quân của nước tôi thì bổn phận nước tôi phải phục dịch như vậy, có đâu lại dám lấy công. Nói xong, nhất định chối từ không nhận Trịnh Trang công nói: - Công tử nước Tề đã không nhận thì hai thành ấy xin kính tặng nước Lỗ, để đền cái công khó nhọc vào chiếm được đất Lão Đào trước. Công tử Huy chẳng chối từ một chút nào cả, tạ ơn Trịnh Trang công, rồi phái người ra trấn thủ Cáo Thành và Phòng Thành. Trịnh Trang công mở tiệc để khao thưởng quân sĩ rồi cùng với Di Trọng Niên và công tử Huy uống máu ăn thề với nhau: Từ nay trở đi, có xảy ra sự gì, ba nước phải đem quân mà giúp đỡ lẫn nhau, nếu ai bội ước thì đã có quỉ thần trách phạt. Di Trọng Niên về nước, đem chuyện lấy được Cáo Thành và Phòng Thành kể lại cho Tề Hi công biết. Tề Hi công nói: - Nước ta đã cùng với nước Trịnh ăn thề ở đất Thạch Môn để cùng kết thân với nhau, thế thì nay dẫu lấy được Cáo Thành và Phòng Thành, nên để cho nước Trịnh là phải. Di Trọng Niên nói: - Trịnh Trang công nhất định không nhận, lại cho cả nước Lỗ. Tề Hi công khen Trịnh Trang công là người rất công bằng. Trịnh Trang công về đến nửa đường, lại tiếp được một bức thư của nước Vệ đã dời quân sang đánh nước Đái rồi. Trịnh Trang công vừa cười vừa nói: - Ta vẫn biết hai nước ấy không làm gì nổi, nhưng Khổng Phủ Gia là người không biết binh pháp, đang đánh Trịnh mà lại sinh sự với Đái, âu là ta lập kế chiếm lấy nước Đái mới được. Nói xong, liền truyền cho bốn tướng chia làm bốn đội thẳng đường lẻn vào nước Đái. Nước Tống và nước Vệ hợp quân đánh Đái, lại mượn quân nước Sái đến đánh hộ. Bỗng có quân báo: - Nước Trịnh sai công tử Lã đem quân cứu Đái, hiện đã đóng quân ở ngoài 50 dặm. Hữu tể Xú nói: - Công tử Lã có biết chiến lược đâu, ngày trước đánh nhau với Thạch Hậu đã phải thua chạy, ta còn sợ cái gì! Được một lúc, lại có quân báo: Người nước Đái đã mở cửa thành đón quân nước Trịnh vào rồi. Khổng Phủ Gia nói: - Quân ta đã sắp lấy được nước Đái, ai ngờ, nước Trịnh lại đem quân đến giúp, làm cho ta uổng phí thì giờ. Hữu tể Xú nói: - Nước Đái đã có quân giúp, tất nhiên hợp sức để đánh ta, âu là ta trèo lên trên lũy ngắm vào trong thành xem sự thể ra sao mà phòng bị trước mới được. Nói xong, hai người rủ nhau trèo lên trên lũy để ngắm vào trong thành nước Đái. Bỗng nghe tiếng súng nổ ỳ ầm, trên mặt thành cắm rặt cờ hiệu nước Trịnh, công tử Lã mặc áo giáp, đứng trên mặt thành lên tiếng bảo Khổng Phủ Gia rằng: - Cám ơn các vị tướng quân, nay quân ta đã chiếm được nước Đái rồi! Nguyên là Trịnh Trang công lập kế, giả cách sai công tử Lã đem quân cứu Đái, kỳ thực Trịnh Trang công đem quân tiến vào trong thành nước Đái, đuổi vua nước Đái đi, rồi chiếm cứ lấy. Vua nước Đái đem gia quyến chạy sang nước Tần. Khổng Phủ Gia thấy Trịnh Trang công chiếm cứ nước Đái, nổi cơn tức giận, trật mũ ném xuống đất, nói: - Tức thật! Thế nào ta cũng đánh được nước Trịnh mới nghe. Hữu tể Xú nói: - Trịnh Trang công vốn là người gian giảo, binh pháp giỏi lắm, tất thế nào cũng có quân tiếp ứng; nếu mà trong ngoài cùng đánh thì quân ta nguy lắm. Khổng Phủ Gia nói: - Sao quan Hữu tể lại nói những câu nhát gan làm vậy. Nói chưa dứt lời thì trong thành có người đưa tờ chiến thư đến, Khổng Phủ Gia phê ngay một câu, hẹn đến hôm sau thì ra đánh, rồi sai người đi ước với quân nước Vệ và nước Sái. Vệ, Sái vừa đem quân đến thì bỗng nghe tiếng súng nổ, lửa sáng rực trời, có quân nước Trịnh lại khiêu chiến. Khổng Phủ Gia giận lắm, tay cầm cái thiên phương kích để ra đối địch thì lại thấy lửa tắt, không có gì cả. Vừa toan trở vào, bỗng thấy phía tả lửa cháy, đến nơi thì lại tắt ngay. Được một lúc, ở phía hữu lại thấy súng nổ và lửa cháy. Khổng Phủ Gia nói: - Đó là quân giặc lập mưu để đánh lừa ta. Nói xong, liền ra lệnh cho quân sĩ, cấm không được náo động. Bỗng nghe báo quân nước Sái bị quân nước Trịnh phá vỡ, Khổng Phủ Gia vội vàng đem quân đi cứu; đi đến nửa đường, gặp một toán quân kéo đến, hai bên đánh lẫn nhau một hồi lâu, rồi mới biết là quân nước Vệ. Khi Khổng Phủ Gia rút quân về thì đại dinh đã bị Cao Cừ Di chiếm cứ mất rồi; phía hữu có Công Tôn Át ra đánh nhau ở Hữu tể Xú; phía tả có Dĩnh Khảo Thúc ra đánh nhau với Khổng Phủ Gia. Khổng Phủ Gia thua chạy. Chạy được một quãng, lại bị Cao Cừ Di đuổi theo. Khổng Phủ Gia chỉ còn có vài mươi người đầy tớ đem nhau chạy thoát được; còn Hữu tể Xú thì chết trong đám loạn quân. Trịnh Trang công chiếm được nước Đái, lại đánh tan được quân nước Tống, nước Vệ và nước Sái, mới thu quân về nước, mở tiệc ăn mừng. Các quan đều dâng chén rượu để mừng sự thắng trận. Trịnh Trang công có ý lên mặt, cầm chén rượu rót xuống đất mà nói rằng: - Ta nhờ cái thiêng liêng của trời đất tổ tông và cái công lao của các quan giúp đỡ, đánh đâu được đấy, tướng cũng chẳng kém gì các bậc phương bá ngày xưa. Các quan đều chúc câu: "Thiên tuế!" Chỉ có Dĩnh Khảo Thúc nín lặng, không nói gì cả. Trịnh Trang công trừng mắt mà nhìn Dĩnh Khảo Thúc. Dĩnh Khảo Thúc nói: - Chúa công nói thế là không phải! Các bậc phương bá ngày xưa làm chủ các nước chư hầu, được chuyên quyền đánh dẹp, đi đến đâu ai cũng phụng mệnh. Nay Chúa công giả mệnh thiên tử đi đánh nước Tống, mà nước Vệ và nước Sái dám giúp Tống để đánh Trịnh; nước Thành và nước Hứa là các nước nhỏ mà dám công nhiên không đem quân đến hội. Vậy thì các bậc phương bá ngày xưa, có đâu lại như thế! Trịnh Trang công vừa cười vừa nói: - Nhà ngươi nói phải đó! Nay ta đã đánh tan được quân Vệ và quân Sái cũng đủ trừng trị hai nước ấy rồi, bây giờ muốn hỏi tội nước Thành và nước Hứa thì nên đánh nước nào trước? Dĩnh Khảo Thúc nói: - Nước Thành tiếp giáp với nước Tề, nước Hứa tiếp giáp với nước Trịnh. Nay Chúa công muốn đánh Thành và Hứa thì nên kể rõ tội trạng, rồi sai một viên tướng đi giúp Tề để đánh Thành, lại mượn quân Tề cùng sang đánh Hứa. Khi đã đánh được Thành, Hứa rồi thì sai sứ sang nhà Chu báo tin thắng trận, để che cái tiếng giả mệnh vua nhà Chu. Trịnh Trang công khen phải, rồi sai người sang nói về Tề Hi công. Tề Hi công sai Di Trọng Niên với công tử Lã đem quân đánh Thành. Người nước Thành sợ hãi, nói với Tề xin giảng hòa. Tề Hi công sai người sang báo tin cho Trịnh Trang công biết, và hỏi đến hôm nào thì mượn quân đi đánh Hứa. Trịnh Trang công ước với Tề Hi công sang hội ở đất Thời Lai nước Trịnh, rồi mượn Tề Hi công lại sang cầu viện với Lỗ Ẩn công. Công tử Lã đi đánh nước Thành, về đến nửa đường bị bệnh mà chết. Trịnh Trang công thương tiếc vô cùng, vừa khóc vừa nói: - Công tử Lã chết đi, thật là ta thiệt mất một cánh tay phải! Nói xong, liền ban thưởng cho nhà công tử Lã và cho em là công tử Nguyên làm quan Đại phu. Còn chức Thượng khanh thì Trịnh Trang công đã toan cho Cao Cừ Di. Thế tử Hốt can rằng: - Cao Cừ Di có tính tham ác, không phải là người chính trực, phụ thân chớ nên tin dùng. Trịnh Trang công gật đầu, rồi cho Sái Túc làm Thượng khanh để thay công tử Lã, còn Cao Cừ Di thì cho làm Á khanh. Lại nói chuyện Tề, Lỗ đều đến đất Thời Lai hội với Trịnh Trang công, rồi hẹn ngày cùng kéo quân sang đánh Hứa. Trịnh Trang công hợp các tướng lại để luyện tập quân mã, chế ra lá cờ vuông một trượng hai thước, chung quanh đeo 24 cái nhạc đồng, trên đề bốn chữ: "Phụng thiên thảo hội", cán cờ dài ba trượng ba thước, cắm ở trên một cái xe lớn. Trịnh Trang công truyền lệnh có ai tay cầm lá cờ ấy mà đi lại như thường được thì cho làm tiên phong, và thưởng cho một cái xe Lộ xa. Trịnh Trang công nói chưa dứt lời, bỗng thấy ở trong hàng quân có một viên đại tướng chạy ra, đầu đội mũ bạc, mình mặc áo bào, mặt đen râu xồm, mày thô mắt lớn, nom ra thì là quan Đại phu Hà Thúc Doanh. Hà Thúc Doanh nói: - Tôi có thể cầm được. Nói xong, hai tay rút lá cờ lên, cầm thật vững vàng, rồi bước lên ba bước, lui lại ba bước, lại cắm vào trong cái xe, mà không thở một chút nào. Quân sĩ đều vỗ tay reo rầm lên. Hà Thúc Doanh vừa toan tạ ơn để lĩnh lấy xe thưởng, lại thấy có một viên đại tướng chạy ra, đầu đội mũ mao, mình mặc áo giáp, vừa đi vừa nói: - Cầm cờ mà bước đi, cũng chưa lấy gì làm lạ, tôi có thể cầm mà múa được. Quân sĩ nghe nói đều xúm lại xem thì là quan Đại phu Dĩnh Khảo Thúc. Dĩnh Khảo Thúc tay trái vén áo, tay phải rút lá cờ, rồi uốn mình nhảy cao lên một bước, múa chung quanh mấy vòng như người múa một cái giáo dài vậy. Lá cờ ấy lúc thì cuốn lại, lúc thì mở ra, người xem ai cũng lấy làm sợ hãi. Trịnh Trang công mừng lắm, nói: - Dĩnh Khảo Thúc thật là một viên hổ thần, đáng thưởng cái xe Lộ xa, và cho lĩnh ấn tiên phong. Trịnh Trang công nói chưa dứt lời thì lại thấy ở trong hàng quân có viên tướng trẻ tuổi, mặt trắng môi son, đầu đội mũ đỏ, mình mặc áo xanh, trỏ vào mặt Dĩnh Khảo Thúc mà quát to lên rằng: - Nhà ngươi múa được cờ, dễ thường ta không múa được hay sao! Hãy để xe đấy, không được lấy vội. Nói xong, rảo bước chạy đến để toan cướp lấy cái xe. Dĩnh Khảo Thúc trông thấy người ấy khí thế hùng dũng làm vậy, mới một tay cầm lá cờ, một tay nắm cái xe, vừa kéo vừa chạy. Viên tướng trẻ tuổi ấy giận lắm, liền cầm cái phương thiên kích đuổi theo. Trịnh Trang công sai Công Tôn Hoạch ra can ngăn. Viên tướng trẻ tuổi ấy trông thấy Dĩnh Khảo Thúc đi đã xa rồi, mới hầm hầm trở lại, vừa đi vừa nói: - Nó lại có ý khinh người! Thế nào ta cũng phải giết nó mới được. Viên tướng trẻ tuổi ấy là ai? Tức là Công Tôn Át, tên tự là Tử Đô, là một người đẹp trai nhất đời bấy giờ, Trịnh Trang công vốn có lòng yêu dấu lắm. Ông Mạnh Tử có câu: "Ai không biết Tử Đô là đẹp thì người ấy không có mắt!", chính là chỉ Công Tôn Át đó. Công Tôn Át xưa nay vốn là người hay ỷ thế cậy quyền, và lại có sức khỏe, thường vẫn không bằng lòng với Dĩnh Khảo Thúc, đến bây giờ lại càng tức khí nhau lắm. Trịnh Trang công bảo Công Tôn Át rằng: - Thôi hai con hổ không được đánh nhau nữa, để ta phân xử cho. Nói xong, lại truyền lấy mấy cái xe khác cho Công Tôn Át, và cho cả Hà Thúc Doanh nữa. Hai người lạy tạ lui ra. Đến tháng bảy năm ấy, Trịnh Trang công giao quốc chính cho Sái Túc và Thế tử Hốt, rồi đem quân tiến sang nước Hứa. Tề Hi công và Lỗ Ẩn công đã đem quân đến đóng ở ngoài đô thành nước Hứa, cách 20 dặm, để đợi Trịnh Trang công đến. Trịnh Trang công truyền mở tiệc để thết đãi. Trong khi ăn tiệc, Tề Hi công mở một tờ hịch ở trong tay áo ra. Tờ hịch ấy kể tội nước Hứa không vào triều cống vua nhà Chu. Lỗ Ẩn công và Trịnh Trang công xem xong, đều chắp tay mà nói rằng: - Như thế thì ta dùng quân mới hợp với lẽ phải. Nói xong, cùng hẹn nhau đến ngày hôm sau thì khai chiến, và sai người đem tờ hịch ấy bắn vào trong thành nước Hứa trước. Hứa là một nước nhỏ, thành cao, hào không sâu, bị quân ba nước vây kín chung quanh, trong thành xiết bao kinh sợ; chỉ vì Hứa Trang công là người nhân đức, vậy nên lòng dân ai cũng yêu mến gặp cơn nguy cấp đều hết sức chống giữ. Tề Hi công và Lỗ Ẩn công dẫu đem quân đến đánh, nhưng không phải chủ mưu, vậy nên cũng không gia sức, chỉ có quân nước Trịnh là cố sống liều chết để đánh lấy được mà thôi. Dĩnh Khảo Thúc nhân việc tranh nhau xe thưởng với Công Tôn Át ngày trước, lại càng cố ý hăng hái lắm. Đến ngày thứ ba, Dĩnh Khảo Thúc tay cầm lá cờ, đi trước hành quân, nhảy lên thành nước Hứa. Công Tôn Át trông thấy Dĩnh Khảo Thúc nhảy lên thành nước Hứa để lập công thì đem lòng ghen ghét, mới nấp ở trong đám loạn quân bắn một phát tên, Dĩnh Khảo Thúc ở trên mặt thành ngã gục xuống mà chết. Hà Thúc Doanh vẫn tưởng là Dĩnh Khảo Thúc bị quân giặc bắn phải, nổi cơn tức giận, lại cầm lá cờ nhảy lên mặt thành, reo ầm lên rằng: - Chúa công nước Trịnh ta đã lên mặt thành rồi. Quân sĩ nước Trịnh nghe nói, ngỡ là Trịnh Trang công đã lên mặt thành thật, đều đua nhau hết sức kéo ồ cả lên, phá vỡ cửa thành, cho quân Tề và quân Lỗ tiến vào. Hứa Trang công bỏ thành trốn sang nước Vệ. Tề Hi công đem thổ địa nước Hứa nhường cho Lỗ Ẩn công. Lỗ Ẩn công chối từ không nhận. Tề Hi công nói: - Mưu này tự nước Trịnh bày ra, nếu nước Lỗ không chịu nhận thì nên để cho nước Trịnh. Trịnh Trang công vẫn có bụng muốn lấy nước Hứa, nhưng thấy Tề Hi công và Lỗ Ẩn công đang nhường lẫn cho nhau, cũng giả cách chối từ không nhận. Bỗng thấy quân báo có quan Đại phu nước Hứa là Bách Lý đem một đứa bé con vào xin yết kiến. Tề Hi công, Lỗ Ẩn công và Trịnh Trang công đồng thanh mà truyền cho vào. Bách Lý xụp lạy ở dưới đất, kêu khóc xin thương lại cho dòng dõi nước Hứa. Tề Hi công hỏi rằng: - Đứa bé con nào thế? Bách Lý nói: - Vua nước Hứa tôi không có con trai, đây là em ruột tên gọi Tân Thần. Tề Hi công và Lỗ Ẩn công nghe nói, đều có lòng thương xót. Trịnh Trang công thấy tình cảnh như vậy, mới nghĩ ngay ra một kế mà nói rằng: - Ta phụng mệnh Thiên tử theo các quí quốc đi đánh kẻ có tội, nếu thấy thổ địa mà tham thì không hợp với việc nghĩa, nay Hứa Trang công dẫu có tội phải trốn đi, nhưng dòng dõi nước Hứa không nên khiến cho tuyệt tự, bây giờ có người em ở đó thì chúng ta nên đem nước Hứa mà trả lại cho hắn. Bách Lý nói: - Chúng tôi chỉ mong các quí quốc thương hại mà bảo toàn cho đứa trẻ con mồ côi này là đủ, còn thổ địa nước Hứa đã về tay quí quốc, có đâu dám mong lấy lại làm gì! Trịnh Trang công nói: - Ta trả lại nước Hứa là thực bụng như vậy. Tân Thần hãy còn trẻ tuổi, chưa đương nổi việc nước, âu là để ta phải cho người đến giúp. Nói xong, liền chia nước Hứa ra làm hai phần; nửa về phía đông thì để cho Tân Thần ở mà sai Bách Lý phù tá; còn nửa về phía Tây thì để cho quan Đại phu nước Trịnh là Công Tôn Hoạch ở đấy, tiếng gọi là giúp nước Hứa, nhưng kỳ thực là để coi giữ. Tề Hi công và Lỗ Ẩn công không biết là kế của Trịnh Trang công, đều khen Trịnh Trang công là xử trí rất phải. Bách Lý cùng với Tân Thần lạy tạ lui ra. Tề Hi công, Lỗ Ẩn công và Trịnh Trang công cũng đều đem quân về nước. Sau Hứa Trang công chết ở bên nước Vệ; Tân Thần bị nước Trịnh kiềm chế, đến khi Trịnh Trang công mất rồi, công tử Hốt và công tử Đột đánh nhau trong mấy năm, bấy giờ nước Trịnh rối loạn, Công Tôn Hoạch ốm chết, Tân Thần mới cùng Bách Lý lập mưu lấy lại nước Hứa. Lại nói đến chuyện Trịnh Trang công về nước, hậu thưởng cho Hà Thúc Doanh; lại thương nhớ Dĩnh Khảo Thúc vô cùng, tiếc rằng không biết người bắn Dĩnh Khảo Thúc hôm ấy là ai, mới hạ lịnh cho các quân sĩ, mỗi một tốt (100 người) phải nộp một con lợn, mỗi một hàng (25 người) phải nộp một con chó và một con gà, để sửa lễ cúng mà mời mấy người đồng cốt làm bài văn nguyền rủa người nào bắn chết Dĩnh Khảo Thúc. Công Tôn Át thấy vậy, chỉ bấm bụng cười thầm. Quân sĩ làm lễ nguyền rủa trong 3 ngày. Trịnh Trang công đem các quan đến xem, bỗng thấy một người đầu bù tóc rối, chạy đến trước mặt Trịnh Trang công quì xuống mà khóc rằng: - Tôi là Dĩnh Khảo Thúc lên được thành nước Hứa trước, có công với nước, bị đứa gian thần là Công Tôn Át thù về việc tranh xe ngày trước mà bắn chết tôi. Nay tôi đã xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế bắt nó phải đền mạng, xin Chúa công thấu tình cho tôi ở dưới suối vàng được đội ơn nhiều lắm. Nói xong thò tay cấu cổ, máu phun ra như mưa, rồi lăn xuống chết ngay lập tức. Trịnh Trang công nhìn xem ai? Chẳng hóa ra là Công Tôn Át, vội vàng sai người cứu chữa thì đã bất tỉnh nhân sự rồi. Bấy giờ Trịnh Trang công mới biết người bắn Dĩnh Khảo Thúc; lại sai sứ đem các đồ lễ vật sang tạ ơn nước Tề và nước Lỗ. Sứ giả sang đến nước Lỗ, lại đem các đồ lễ vật về, và một bức thư vẫn nguyên phong chưa mở. Trịnh Trang công liền hỏi xem duyên cớ làm sao. Sứ giả nói: - Tôi mới vào bờ cõi nước Lỗ, nghe nói Lỗ Ẩn công bị công tử Huy giết rồi, bây giờ đã lập vua mới, tôi sợ bức thư này không hợp, vậy nên không dám đưa. Trịnh Trang công nói: - Lỗ Ẩn công là một người hiền lành, sao lại bị giết? Sứ giả nói: - Việc ấy tôi biết cả đầu đuôi. Ngày xưa Lỗ Huệ công yêu một người thiếp là Trọng Tử, lập làm kế thất. Trọng Tử sinh con tên Quĩ, Lỗ Huệ công muốn cho nối ngôi; còn Lỗ Ẩn công lại là con một người thiếp khác. Khi Lỗ Huệ công mất, Lỗ Ẩn công đã lớn tuổi, các quan mới tôn lên nối ngôi, nhưng Lỗ Ẩn công vẫn theo như ý muốn của cha, thường nói chuyện với các quan rằng: - Nước này là của công tử Quĩ, vì hắn còn bé, nên ta quyền tạm đó mà thôi. Công tử Huy nói với Lỗ Ẩn công xin làm chức Thái tể. Lỗ Ẩn công nói: - Đợi khi công tử Quĩ lên ngôi thì nhà ngươi hãy xin. Công tử Huy không hiểu ý, lại ngỡ là Lỗ Ẩn công có lòng ghét công tử Quỹ, mới mật tâu với Lỗ Ẩn công rằng: - Tôi thiết nghĩ lưỡi gươm sắc đã vào tay mình thì không nên đưa cho ai cả, nay Chúa công đã nối ngôi làm vua, người trong nước cũng đều tin phục, vậy thì khi Chúa công trăm tuổi, nên truyền ngôi lại cho con cháu, sao Chúa công cứ nói là quyền tạm, để khiến người ta sinh chán. Bây giờ công tử Quĩ đã lớn tuổi, tôi e rằng sau này bất lợi cho Chúa công, âu là tôi xin lập kế giết công tử Quĩ đi để Chúa công trừ cái lo xa ấy. Chúa công tính thế nào? Lỗ Ẩn công lấy tay gạt đi mà nói rằng: - Nhà ngươi không phải là điên cuồng, sao lại nói những câu càn rỡ như vậy, hiện nay ta đã sai người sửa sang cung thất ở đất Đồ Cứu, để sắp về dưỡng lão, chẳng bao lâu ta sẽ truyền ngôi cho công tử Quĩ. Công tử Huy nín lặng, cáo từ lui ra, có ý hối hận là nói lỡ lời, chỉ sợ Lỗ Ẩn công đem mấy câu ấy kể lại cho công tử Quĩ nghe thì khi công tử Quĩ lên nối ngôi tất trị tội mình. Ngay đêm hôm ấy lại đến yết kiến công tử Quĩ mà bảo công tử Quĩ rằng: - Chúa công thấy công tử đã lớn tuổi, sợ có ý muốn tranh ngôi, ngày hôm nay đòi tôi vào cung, mật sai tôi giết công tử đó. Công tử Quĩ sợ hãi, mới bàn mưu với công tử Huy. Công tử Huy nói: - Hắn đã bất nhân thì ta còn giữ nghĩa làm gì, nay công tử muốn tránh khỏi tai vạ thì rất phải giết hắn đi mới được. Công tử Quĩ nói: - Hắn làm chủ trong nước đã 11 năm nay, dân tình ai cũng tin phục, nếu việc không làm xong thì tất phải tai vạ. Công tử Huy nói: - Tôi đã vì công tử nghĩ mẹo rồi, nay mai Chúa công sắp sửa ra tế thần Chung Vu ở phía ngoài thành, mà khi ra tế, thường hay ở nhà Vĩ Đại Phu. Âu là ta phục sẵn quân dũng sĩ ở đấy rồi nhân lúc ngủ đổ ra mà giết, chẳng qua chỉ sức một người cũng có thể làm xong. Công tử Quĩ nói: - Kế này dẫu khéo, nhưng làm thế nào mà tránh khỏi được tiếng xấu. Công tử Huy nói: - Ta bảo quân dũng sĩ trốn cả đi, rồi đổ tội cho Vĩ Đại Phu chứ có hề gì! Công tử Quĩ sụp lạy công tử Huy mà nói rằng: - Nếu khi xong việc thì xin để ngài làm thái tể. Công tử Huy cứ theo kế ấy mà làm, quả nhiên giết được Lỗ Ẩn công. Công tử Quĩ lên nối ngôi, công tử Huy làm thái tể, đổ tội cho Vĩ Đại Phu rồi đem quân đến đánh. Người nước Lỗ ai cũng biết cả, nhưng sợ quyền thế công tử Huy, không ai dám nói. Trịnh Trang công hỏi các quan rằng: - Nay ta nên đánh với nước Lỗ hay nên hòa với nước Lỗ. Sái Túc nói: - Nước Lỗ và nước Trịnh ta xưa nay vẫn hòa hiếu với nhau. Tôi chắc rằng nước Lỗ nay mai tất cũng cho sứ sang nói lại. Nói chưa dứt lời thì nghe báo có sứ nước Lỗ đến, Trịnh Trang công sai người hỏi ý thì sứ nước Lỗ nói là công tử Quĩ mới lên nối ngôi, sai người đến giảng hòa để giữ lấy tình giao hiếu. Trịnh Trang công tiếp đãi tử tế rồi hẹn nhau cùng hội ở đất Việt Địa để uống máu ăn thề. Từ bấy giờ nước Lỗ và nước Trịnh, hai nước giao hiếu với nhau. Công tử Phùng ở nước Trịnh, một hôm bỗng có sứ nước Tống đến đón công tử Phùng về nối ngôi. Trịnh Trang công nói: - Chưa biết hư thực thế nào, hay là nước Tống đánh lừa công tử Phùng về để mà giết đi chăng. Sái Túc nói: - Đợi xem tờ quốc thư của nước Tống thì biết rõ. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 8 Hoa Đốc bày mưu để giết vua Trịnh Hốt cố từ không lấy vợ Bấm để xem Tống Thương công từ khi lên ngôi, chỉ vì có công tử Phùng ở nước Trịnh, vậy nên đem lòng thù oán, cử binh sanh đánh nước Trịnh đã ba lần rồi. Quan Thái tể nước Tống là Hoa Đốc vốn chơi thân với công tử Phùng, thấy Tống Thương công hay đánh nước Trịnh, ngoài miệng dẫu không can ngăn, nhưng trong bụng vẫn có ý không bằng lòng. Khổng Phủ Gia là quan Tư mã bấy giờ, Hoa Đốc mới nghĩ cách để mưu hại, chỉ vì hắn là một người của Tống Thương công tin dùng, binh quyền ở trong tay, vậy nên không dám động đến. Từ khi Khổng Phủ Gia sang đánh nước Đái, thua trận trốn về, người trong nước ai cũng oán Tống Thương công không biết thương dân, gây việc tranh chiến, khiến cho dân trong nước vợ góa con côi, cửa nhà tan nát. Hoa Đốc lại sai người tâm phúc nói phao ở các nơi hương thôn rằng: - Mấy lần dùng quân, đều tại Khổng Phủ Gia sinh ra cả. Người trong nước tưởng thực, đều qui oán Khổng Phủ Gia. Hoa Đốc lại nghe nói vợ kế của Khổng Phủ Gia là Ngụy Thị có nhan sắc đẹp lắm, vẫn tiếc rằng không được trông thấy mặt bao giờ. Một hôm gặp tiết Thanh Minh, Ngụy Thị đi tảo mộ, Hoa Đốc trông thấy, ngẩn người ra mà nói rằng: - Ở đời có người đẹp đến như thế! Người ta đồn cũng không sai thật! Từ bấy giờ Hoa Đốc cứ ngày đêm mơ tưởng Ngụy Thị, nghĩ thầm trong lòng rằng ước gì lấy được nàng về thì cũng đủ thỏa một đời! Nhưng mà nếu không giết được người chồng thì làm thế nào mà lấy được người vợ, mới quyết chí định giết Khổng Phủ Gia. Gặp đến kỳ điểm binh, Khổng Phủ Gia luyện tập quân mã rất là nghiêm chỉnh. Hoa Đốc lại sai người tâm phúc, nói phao ở trong đám quân sĩ rằng: - Khổng Phủ Gia sắp sửa đem quân đi đánh Trịnh, hôm trước đã thương nghị với Hoa Đốc rồi, vậy nên hôm nay cần phải luyện tập quân mã. Quân sĩ nghe đồn, ai nấy đều sợ hãi cả, mới rủ nhau kéo đến cửa Hoa Đốc để kêu van, nhờ tâu với Tống Thương công mà định bãi việc tranh chiến cho. Hoa Đốc cố ý sai đóng cửa chặt lại, rồi cho người đứng ở trong khe cửa mà nói ra để phủ dụ quân sĩ. Quân sĩ càng cố ý xin vào yết kiến, người đâu kéo đến đông như kiến cỏ, cũng có kẻ lại mang cả đồ khí giới nữa. Chờ mãi cho đến chiều tối, không được vào yết kiến Hoa Đốc, quân sĩ đều nhao nhao cả lên. Hoa Đốc biết là quân sĩ đã có ý muốn náo động, mới mặc áo giáp, đeo gươm trường mà ra, đứng ở giữa cửa, rồi truyền cho quân sĩ phải im lặng, không được huyên náo để diễn thuyết cho mà nghe. Trước hết hãy đem những lời từ bi nhân đức để lấy lòng quân sĩ, rồi sau mới nói đến việc Khổng Phủ Gia làm tướng chỉ gây sự tranh chiến làm khổ dân, mà Chúa công ta cứ tin dùng quá, ta can ngăn thế nào cũng không nghe. Trong ba ngày nữa, lại sắp sửa cử đại binh sang đánh Trịnh, chẳng hay dân nước Tống ta có tội tình gì mà phải chịu những sự lầm than như vậy! Quân sĩ nghe lời Hoa Đốc nói khích, đều nghiến răng nghiến lợi, đem lòng tức giận, Hoa Đốc lại giả cách khuyên giải, nói: - Các ngươi chớ có vội vàng, nếu Khổng Phủ Gia biết mà tâu với Chúa công thì tính mệnh các ngươi khó lòng giữ được. Quân sĩ lại nhao nhao lên nói: - Cha con họ hàng nhà chúng tôi, mấy năm nay chỉ vì việc tranh chiến mà chết đến quá nửa; bây giờ lại sắp cử binh đi đánh Trịnh. Nước Trịnh kia binh hùng tướng dũng, địch thế nào nổi. Thôi thì đàng nào cũng chết, chi bằng ta giết thằng giặc ấy để trừ hại cho dân, dẫu chết cũng được thỏa lòng. Hoa Đốc nói: - Ta muốn ném con chuột, nên phải tránh cái đồ quí báu của ta, Khổng Phủ Gia dẫu tàn ác, nhưng cũng là bề tôi yêu của Chúa công ta, việc đó quyết không nên làm. Quân sĩ nói: - Nếu được ngài làm chủ việc này cho thì cả đứa vô đạo hôn quân, chúng tôi cũng chẳng sợ gì. Quân sĩ vừa nói vừa xúm lại nắm lấy áo Hoa Đốc mà đồng thanh reo lên rằng: - Chúng tôi xin theo ngài mà giết những đứa hại dân ấy. Bấy giờ Hoa Đốc bị quân sĩ dìu lên xe, rồi kéo thẳng đến nhà Khổng Phủ Gia. Quân sĩ vây kín nhà Khổng Phủ Gia lại. Hoa Đốc nói: - Các ngươi yên lặng, không nên lên tiếng vội, để ta gọi cửa đã. Bấy giờ trời đã tối. Khổng Phủ Gia đang ngồi uống rượu ở nhà trong, nghe thấy ở ngoài cửa có tiếng gõ cửa mạnh lắm, sai người truyền hỏi, mới biết là có Hoa Đốc đến thương thuyết về việc cơ mật. Khổng Phủ Gia vội vàng đội mũ mặc áo chạy ra để nghênh tiếp, vừa mới mở cửa thì quân sĩ kéo ồ nhau vào. Khổng Phủ Gia sợ hãi, quay mình trở lại. Hoa Đốc bước ngay lên thềm, rồi quát to lên rằng: - Thằng giặc hại dân đấy, sao không xử ngay đi. Khổng Phủ Gia chưa kịp nói câu gì, đầu đã rơi xuống đất. Hoa Đốc tức khắc sai người tâm phúc vào nhà trong bắt lấy Ngụy Thị để lên xe đem về. Ngụy Thị ngồi trong xe không biết nghĩ làm thế nào, liền cởi dây lưng ra thắt cổ, khi về đến cửa Hoa Đốc thì đã tắt hơi chết rồi. Hoa Đốc phàn nàn tiếc mãi, rồi sai đem ra ngoài cõi để an táng; nghiêm cấm người nhà không được tiết lộ việc ấy cho ai biết. Quân sĩ thừa thế cướp phá nhà Khổng Phủ Gia chẳng còn một tí gì. Khổng Phủ Gia chỉ có một con trai tên là Mộc Kim Phủ, tuổi hãy còn bé, người nhà ẵm chạy sang nước Lỗ, sau đến cháu sáu đời ông ấy tức là đức thánh Khổng Tử. Tống Thương công nghe nói Khổng Phủ Gia bị giết, giật mình kinh sợ, lại nghe nói Hoa Đốc cũng dự vào việc ấy, có ý giận lắm, tức khắc sai người đòi đến để trị tội. Hoa Đốc cáo ốm không chịu đến. Tống Thương công định thân hành đến thăm nhà Khổng Phủ Gia. Hoa Đốc nghe tin, mới họp quân sĩ lại bảo rằng: - Chúa công ta xưa nay vẫn tin dùng Khổng Phủ Gia, các ngươi đều biết cả, bây giờ các ngươi giết Khổng Phủ Gia, chắc là có tội. Tiên công (Lỗ Mục công) ta ngày xưa bỏ con mình (công tử Phùng) mà lập Chúa công, Chúa công đã không biết ơn, thấy công tử Phùng ở nước Trịnh, lại cứ nghe lời Khổng Phủ Gia để đem quân đi đánh. Nay Khổng Phủ Gia bị giết, chẳng qua cũng là đạo trời, chi bằng ta giết luôn đứa hôn quân ấy đi mà đón con Tiên công là công tử Phùng về nối ngôi, chẳng cũng hay lắm sao! Quân sĩ đều nói: - Ngài dạy thế chính hợp với ý chúng tôi. Nói xong, liền kéo nhau đến phục sẵn ở cửa nhà Khổng Phủ Gia, để đợi khi Tống Thương công đến thì khởi sự. Khi Tống Thương công đến, quân sĩ hai bên đổ ra, các thị vệ bỏ chạy tán loạn cả. Tống Thương công chết ở trong đám loạn quân, Hoa Đốc nghe báo, mặc đồ tang phục đến khóc Tống Thương công, rồi nổi hiệu trống họp các quan lại, bắt mấy người ở trong đám quân sĩ đem chém, để che mắt thiên hạ. Hoa Đốc lại bảo các quan rằng: - Nay dân tình vẫn còn mến cái ân nghĩa của Tiên công ta thuở xưa, muốn đón công tử Phùng về nối ngôi, các quan nghĩ thế nào? Các quan bấy giờ đều vâng vâng dạ dạ. Hoa Đốc sai sứ sang nước Trịnh để báo tang Tống Thương công và đón công tử Phùng về nối ngôi; một mặt đem đồ châu ngọc ở trong kho nước Tống đi khấn lễ với các nước. Trịnh Trang công tiếp sứ nước Tống, nhận tờ quốc thư, rồi sai người đưa công tử Phùng về nối ngôi. Công tử Phùng sụp lạy ở dưới đất, vừa khóc vừa nói; - Tôi sống được đến ngày nay, cũng là nhờ ơn Chúa công, bây giờ về nước, may mà được nối ngôi thì xin một lòng thần phục nước Trịnh, không bao giờ dám sai. Trịnh Trang công nghe nói, cũng ứa nước mắt. Công tử Phùng về đến nước Tống, Hoa Đốc tôn lên làm vua, tức là Tống Trang công, còn Hoa Đốc vẫn làm thái tể. Các nước chư hầu đều nhận đồ khấn lễ của nước Tống, đến hội nhau ở đất Tắc (đất nước Tống) để chứng kiến việc công tử Phùng lên nối ngôi. Tề Hi công sang hội ở đất Tắc, về đến nửa đường tiếp được thư cáo cấp nói vua đất Bắc Nhung sai Đại Lương, Tiểu Lương làm nguyên soái đem một vạn quân sang đánh nước Tề, hiện đã phá vỡ đất Chúc A và đất Lịch Hạ, các quan trấn thủ không tài nào đương nổi, vậy phải sai người cáo cấp để đón Tề Hi công về ngay. Tề Hi công nói: - Giặc Bắc Nhung xưa nay vẫn thường vào quấy nhiễu, chẳng qua như con chuột con chó đến cắn trộm mà thôi, nay lại dám cử đại binh vào ăn cướp, nếu để cho hắn được lợi thì từ nay trở đi khó lòng mà ngồi yên được! Nói xong, một mặt sai người sang mượn quân Lỗ, Vệ, Trịnh đến đánh hộ, và một mặt đem quân về Lịch Hạ để đánh Bắc Nhung. Trịnh Trang công nghe nói nước Tề có giặc Bắc Nhung đến đánh, mới gọi Thế tử Hốt bảo rằng: - Tề cùng nước ta vốn kết thân với nhau, nay đến mượn quân thì ta phải sang giúp. Nói xong, liền sai Thế tử Hốt làm đại tướng, Cao Cừ Di làm phó tướng, Chúc Đam làm tiên phong, cùng đem quân kéo sang nước Tề. Bấy giờ quân Lỗ và quân Vệ chưa đến, Tề Hi công thấy Thế tử Hốt đã đem quân tới, lấy làm cám ơn lắm, mới truyền mở tiệc để thết đãi và cùng với Thế tử Hốt bàn việc đánh giặc Bắc Nhung. Thế tử Hốt nói: - Ta cho một đạo quân ra dụ giặc, giả cách thua chạy, rồi phục một toán quân để đón đánh, tất nhiên quân giặc sợ mà phải vỡ. Khi quân giặc đã vỡ rồi, ta đuổi tràn đi, chắc được toàn thắng. Tề Hi công nói: - Kế ấy rất phải! Thế tử Hốt đem quân ra mai phục ở phía Bắc, Tề Hi công sai công tử Nguyên đem quân ra mai phục ở phía đông, rồi lại sai Công Tôn Đái Trọng đem một đạo quân ra đối địch với quân giặc, mà hẹn cho phải giả cách thua chạy. Công Tôn Đái Trọng phụng mệnh đem quân ra trận. Tướng Bắc Nhung là Tiểu Lương cầm đao xông lại nghênh chiến. Hai bên đánh nhau được độ 20 hợp, Công Tôn Đái Trọng giả bộ thua chạy. Tiểu Lương giục ngựa đuổi theo. Đại Lương thấy vậy cũng đem đại binh theo sau. Khi đi đến gần Đông môn, bỗng nghe tiếng súng nổ, chuông trống rầm trời, phục binh ở trong bụi lau kéo ra như kiến. Tiểu Lương biết trúng kế, vội vàng quay ngựa chạy lại, chẳng ngờ gặp phải đại binh của Đại Lương kéo sau, hai bên xô đẩy lẫn nhau, thành ra vỡ quân, bỏ chạy tán loạn. Công Tôn Đái Trọng cùng với công tử Nguyên hợp sức đuổi theo. Đại Lương và Tiểu Lương vừa đánh vừa chạy. Chạy đến núi Thước Sơn, Đại Lương và Tiểu Lương ngoảnh đầu trông lại, thấy quân đuổi theo đã hơi xa xa, mới toan ngồi lại để nghỉ ngơi ở dưới chân núi. Bỗng thấy một toán quân ở phía sau núi đổ ra, tức là quân Cao Cừ Di, phó tướng nước Trịnh. Đại Lương và Tiểu Lương lại đem nhau lên ngựa bỏ chạy. Cao Cừ Di giục quân đuổi theo. Đuổi được vài dặm, phía trước lại có quân Thế tử Hốt kéo đến, còn phía sau thì quân công tử Nguyên cũng kéo đến, rồi cùng nhau đánh cho quân Bắc Nhung thất điên bát đảo. Tiểu Lương bị Chúc Đam bắn một phát tên, ngã ngựa mà chết. Còn Đại Lương một mình một ngựa phá vòng vây mà chạy, lại gặp phải quân Thế tử Hốt, bị Thế tử Hốt chém chết. Thế tử Hốt đem đầu Đại Lương và Tiểu Lương về nộp Tề Hi công. Tề Hi công mừng lắm, nói: - Nếu không nhờ có cái sức anh hùng của Thế tử thì sao cho lui được giặc Bắc Nhung, ngày nay nước tôi yên ổn, thật là đội ơn Thế tử nhiều lắm. Thế tử Hốt nói: - Gọi là giúp đỡ một chút, sao Chúa công lại dạy quá lời như vậy! Tề Hi công sai sứ đi nói với nước Lỗ và nước Vệ không mượn quân nữa, rồi truyền mở tiệc để thết đãi Thế tử Hốt. Trong khi ăn tiệc, lại nói đến việc xin gả con gái cho Thế tử Hốt. Thế tử Hốt hai ba lần chối từ, nhất định không nhận. Sau khi tiệc đã tan rồi, Tề Hi công sai Di Trọng Niên bảo riêng với Cao Tử Di rằng: - Chúa công tôi yêu mến Thế tử là người anh hùng, vậy muốn cầu thân với Thế tử, ngày trước đã sai sứ sang nói, hôm nay Chúa công tôi lại nói với Thế tử mà Thế tử nhất định không nghe, không biết là ý tứ làm sao? Nếu ngài mà nói giúp được việc ấy thì xin biếu hai viên ngọc bích và một trăm nén vàng. Cao Cừ Di nhận lời, rồi vào yết kiến Thế tử Hốt, nói với Thế tử Hốt rằng: - Tề Hi công đã có lòng yêu mến Thế tử như vậy, nếu Thế tử bằng lòng mà kết thân với Tề thì sau này được một nước lớn giúp mình, chẳng cũng hay lắm sao! Thế tử Hốt nói: - Ngày trước đang lúc vô sự, Tề Hi công muốn gả con cho ta, ta còn không muốn lấy; ngày nay ta phụng mệnh sang cứu Tề, may mà thành công được, lại lấy con gái nước Tề, nếu vậy thì người ngoài tất bảo ta là cậy công mà ép người ta phải gả, sao cho tránh khỏi tiếng xấu ấy. Cao Cừ Di hai ba lần nói tán vào mà Thế tử Hốt cũng nhất định không nghe. Ngày hôm sau, Tề Hi công lại sai Di Trọng Niên đến nói việc kết hôn. Thế tử Hốt lại từ chối, nói: - Chưa bẩm mệnh cha, không dám nhận lời vội. Nói xong, tức khắc cáo từ về nước. Tề Hi công giận lắm, nói: - Con gái ta như thế, lo gì mà không có chồng! Thế tử về đến nước Trịnh, đem chuyện từ hôn nói với Trịnh Trang công, Trịnh Trang công nói: - Con đã làm nên được công nghiệp thì lo gì không có vợ đẹp. Sái Túc bảo riêng với Cao Cừ Di rằng: - Chúa công ta ngày nay nội sủng nhiều lắm; công tử Đột, công tử Nghị và công tử Vỉ đều có ý muốn tranh ngôi. Nếu Thế tử Hốt kết hôn với Tề thì thêm được nước lớn làm vây cánh. Tôi thiết tưởng Tề không nghị hôn, mình còn nên đến mà cầu, sao nhà ngươi không biết khuyên Thế tử về việc ấy? Cao Cừ Di nói: - Tôi cũng đã có nói, nhưng Thế tử không nghe thì biết làm thế nào! Cao Cừ Di vốn chơi thân vói công tử Vỉ, nghe lời nói của Sái Túc, hai người lại càng thân mật nhau lắm. Công tử Hốt nói riêng với Trịnh Trang công rằng: - Cao Cừ Di cùng với công tử Vỉ tư thông với nhau rất là thân mật, Chúa công nên phải phòng bị mới được. Trịnh Trang công đem lời Thế tử Hốt trách mắng Cao Cừ Di. Cao Cừ Di chối không, rồi lại đem chuyện kể lại công tử Vỉ. Công tử Vỉ nói: - Cha ta trước đã toan dùng nhà ngươi làm chính khanh, cũng vì Thế tử Hốt ngăn trở, bây giờ lại còn muốn cấm hai ta không được đi lại với nhau. Cha ta hãy còn mà ta đã thế rồi, nữa là một mai cha ta trăn tuổi đi, chúng ta cũng khó lòng mà ở với hắn được. Cao Cừ Di nói: - Thế tử là người nhu nhược không quyết đoán, chắc cũng không làm hại gì đến ai, xin công tử chớ lấy làm lo. Từ bấy giờ công tử Vỉ cùng với Cao Cừ Di có ý hiềm khích với Thế tử Hốt. Đến sau Cao Cừ Di giết Thế tử Hốt mà lập công tử Vỉ cũng vì cớ ấy. Lại nói đến chuyện Sái Túc bàn mưu với Thế tử Hốt khiến kết thân với Trần và Vệ để làm ngoại viện. Thế tử Hốt lấy làm phải. Sái Túc liền nói với Trịnh Trang công sai sứ sang Trần để cầu hôn, cưới nàng Vỉ Thị nước Trần về làm vợ Thế tử Hốt. Lỗ Hoàn công cũng sai sứ sang nước Tề để cầu hôn. Quay về bài gốc 0SHARES
HỒI THỨ 9 Tề Hầu đưa con gái sang Lỗ Chúc Đam bắn vua Chu trúng vai Bấm để xem Tề Hi công có hai người con gái, nhan sắc đẹp lắm, người con trưởng gả cho nước Vệ, tức là Vệ Tuyên Khương; còn người con thứ là Văn Khương thì mắt phượng mày ngài, mặt hoa da ngọc, thật là một bậc quốc sắc, vả lại tài cao học rộng, xuất khẩu thành văn, bởi thế mới đặt tên là Văn Khương. Thế tử nước Tề, tên gọi Chư Nhi Nguyên là phường tửu sắc, cùng với Văn Khương dẫu tình anh em, nhưng mỗi người một mẹ, chỉ suýt soát hơn Văn Khương độ một vài tuổi. Từ lúc bé đến lúc lớn ở chung một nhà, chơi đùa với nhau, nhiều khi kề vai dắt tay, nam nữ không có phân biệt gì cả. Tề Hi công lại chiều con quá, không giữ gìn khuôn phép, để đến nỗi mai sau sinh ra nhiều chuyện chẳng hay. Từ khi Thế tử Hốt nước Trịnh dẹp tan được quân Bắc Nhung, Tề Hi công đã nhiều lần ở trước mặt Văn Khương khen Thế tử Hốt là bậc anh hùng ít có, nay lại bàn đến việc gả Văn Khương cho; Văn Khương nghe nói có ý mừng thầm. Sau Thế tử Hốt cố từ không nhận, Văn Khương trong lòng uất ức, thành ra bệnh mê hoảng như người điên dại, không ăn không ngủ được. Thế tử Chư Nhi lại tạ sự thăm bệnh, thường thường ra vào lân la ở bên giường nằm. Cuối mắt đầu mày, đem lòng dan díu, chỉ vì có các cung nhân ở tả hữu, nên không đến nỗi loạn dâm. Một hôm Tề Hi công vào thăm Văn Khương, trông thấy Thế tử Chư Nhi ở trong buồng, liền trách mắng rằng: - Ngươi dẫu là trong anh em, nhưng cũng nên giữ lễ mà tị hiềm mới phải! Từ nay trở đi, việc gì đã có cung nhân sai khiến, ngươi không được vào đây nữa. Thế tử Chư Nhi vâng dạ lui ra. Văn Khương ở chốn thâm khuê, một mình buồn bã, lại thêm nhớ Thế tử Chư Nhi, bệnh thế càng ngày càng nặng, trong lòng uất ức mà không nói ra miệng được. Chính thật là: Đứa câm ngậm quả bồ hòn, Nỗi niềm cay đắng ai còn biết cho! Lại nói đến chuyện Lỗ Hoàn công năm lên nối ngôi, dầu đã lớn tuổi, nhưng vẫn chưa có phu nhân. Quan Đại phu là Tang Tôn Đạt nói: - Chúa công nên lấy Tôn miếu làm trọng, phải tìm một người làm chủ trong cung. Công tử Huy nói: - Tôi nghe đồn Tề Hi công có người ái nữ tên là Văn Khương đã toan gả cho Thế tử Hốt nước Trịnh mà lại không xong, sao Chúa Công không cho người đi hỏi lấy. Lỗ Hoàn công nghe lời, rồi sai công tử Huy sang cầu hôn với nước Tề. Tề Hi công thấy Văn Khương bệnh thế chưa yên, còn hẹn lại không cho cưới vội. Cung nhân đem tin mừng ấy nói với Văn Khương. Văn Khương vốn là bệnh uất ức, nghe được tin ấy trong lòng khoan khoái, bệnh thế mỗi ngày một bớt dần. Đến lúc Tề, Lỗ vì việc Hoa Đốc nước Tống sang hội ở đất Tắc, Lỗ Hoàn công đem việc cầu hôn nói với Tề Hi công. Tề Hi công hẹn đến năm sau. Sau Lỗ Hoàn công lại thân hành đến đất Doanh (đất nước Tề) để hội với Tề Hi công. Tề Hi công cảm cái ơn Lỗ Hoàn công ân cần như vậy, mới thuận gã Văn Khương cho, hẹn đến mùa thu thì thân hành đưa Văn Khương sang Lỗ để thành hôn. Thế tử Chư Nhi nghe thấy Văn Khương sắp đi lấy chồng nước khác, mới sai cung nhân giả cách đưa cho Văn Khương một cành hoa và kèm thêm một cái bao thơ để nói ghẹo. Văn Khương biết ý lại họa lại một bài. Thế tử Chư Nhi xem thơ, biết là Văn Khương có lòng quyến luyến, càng mê mẩn tâm thần. Chẳng được bao lâu, Lỗ Hoàn công sai công tử Huy sang đón. Tề Hi công vì cớ yêu con, định thân hành đi đưa Văn Khương. Thế tử Chư Nhi nói với Tề Hi công rằng: - Nay phụ thân gả tiện muội cho Lỗ hầu, thật là một việc rất hay, khiến cho hai nước thêm tình thân mật, nhưng Lỗ Hầu không thân hành sang đón mà sai công tử Huy, con thiết tưởng phụ thân làm chủ trong nước, đi xa không tiện, âu là phụ thân để cho con đi thay cũng được. Tề Hi công nói: - Khi trước ta đã hứa lời để thân hành đưa Văn Khương sang Lỗ, có đâu ta lại thất tín. Nói chưa dứt lời thì có người báo rằng: - Lỗ Hoàn công đã thân hành đến đất Hoan Ấp (đất nước Lỗ) để đón. Tề Hi công nói: - Nước Lỗ thật là một nước biết giữ lễ nghĩa, sợ ta đi xa khó nhọc, vậy phải đón ở ngang đường, như thế thì làm thế nào ta cũng phải thân hành đi mới được. Thế tử Chư Nhi đành nín lặng lui ra. Đến hôm khởi hành, Thế tử Chư Nhi đi tiễn, lại ghé đến bên xe Văn Khương mà dặn nhỏ một câu rằng: - Em chớ có quên những câu thơ hôm trước! Văn Khương nói: - Xin anh cứ yên tâm, ngày xuân em hãy còn dài, thế nào cũng có ngày được xum họp. Tề Hi công giao quốc chính cho Thế tử Chư Nhi, rồi thân hành đưa Văn Khương đến đất Hoan Ấp. Lỗ Hoàn công bày tiệc để thết đãi. Tiệc xong, Tề Hi công cáo từ trở về. Lỗ Hoàn công đưa Văn Khương về nước. Từ bấy giờ nước Tề và nước Lỗ, hai nước cùng thân mật với nhau. Lại nói chuyện vua Hoàn Vương nhà Chu nghe được tin Trịnh Trang công giả mệnh đánh Tống, trong lòng tức giận, liền giao hết triều chính cho Quắc công Kỵ Phủ, không dùng Trịnh Trang công nữa. Trịnh Trang công nghe tin ấy, cũng đem lòng thù oán vua Hoàn Vương nhà Chu, bỏ luôn năm năm, không vào triều kiến. Vua Hoàn Vương nói: - Ngộ Sinh nước Trịnh rất là vô lễ! Nếu Trẫm không kể tội mà đem quân đến đánh thì người khác tất lại bắt chước làm càn. Quắc công Kỵ Phủ can rằng: - Nước Trịnh đã mấy đời nay làm khanh sĩ, công lao nhiều lắm, bây giờ lại không được cầm quyền chính, vậy nên tức mà không vào triều. Kẻ hạ thần thiết tưởng nhà vua nên hạ chiếu đòi vào, chứ không nên đi đánh. Vua Hoàn Vương nổi giận, nói: - Ngộ Sinh nó khinh Trẫm đã nhiều lần rồi! Trẫm cùng với Ngộ Sinh quyết không đội trời chung được. Nói xong, liền lấy quân nước Sái, nước Vệ và nước Trần cùng sang đánh nước Trịnh. Bấy giờ công tử Đà nước Trần giết Thế tử Vấn mà cướp ngôi, người trong nước không phục, bỏ đi nhiều lắm; vì cớ ấy nên khi vua nhà Chu lấy quân đi đánh Trịnh, công tử Đà không dám trái mệnh, phải cắt quân theo ngay, sai Bá Viên Chư làm tướng thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Nước Sái và nước Vệ cũng cất quân đi theo vua nhà Chu. Trịnh Trang công nghe tin vua nhà Chu sắp kéo quân đến đánh, mới họp các quan lại để thương nghị. Sáu Túc nói: - Vì ta lâu không vào triều, nên Thiên tử đem quân đến đánh, cũng là lẽ phải, chi bằng ta sai người tạ tội thì tránh khỏi những sự tai vạ về sau. Trịnh Trang công nổi giận, nói: - Thiên tử đã truất quyền chính của ta, lại còn đem quân đến đánh. Bao nhiêu những công lao nước ta mấy đời vào giúp Thiên tử đều bỏ đi hết cả, khác nào như ngọn nước chảy xuôi; nếu ta không chống cự lại để đè nén đi thì khó lòng mà giữ yên được cơ nghiệp. Cao Cừ Di nói: - Nước Trần xưa nay vốn giao hiếu với ta, việc cất quân giúp vua nhà Chu, chẳng qua là sự bất đắc dĩ; chỉ có Sái, Vệ vốn thù oán với ta thì tất cố đánh mà thôi. Thiên tử đã nổi giận mà đem quân đánh đến thì ta cũng khó địch nổi được, âu là đóng cửa thành mà giữ thế thủ, đợi khi quân sĩ đã có ý trễ biếng rồi, bấy giờ hoặc chiến hoặc hòa, ta sẽ tùy liệu. Công tử Nguyên nói: - Cứ lấy lẽ mà nói thì chư hầu đánh nhau với Thiên tử là không phải đạo, vậy ta nên làm chóng đi, không nên để chậm, tôi dẫu hèn mạt cũng xin hiến một kế. Trịnh Trang công hỏi: - Kế gì? Công tử Nguyên nói: - Công tử Đà nước Trần mới giết vua mà cướp ngôi, người trong nước không ai chịu phục, nếu ta cho một đạo binh đánh nước Trần trước thì tất nhiên quân nước Trần phải vỡ chạy; rồi sau sẽ đánh đến Sái, Vệ. Sái, Vệ nghe Trần đã thua, tất cũng núng thế mà phải vỡ quân. Khi bấy giờ ta hợp sức nhau lại mà chống với Thiên tử thì chắc được toàn thắng. Trịnh Trang công nói: - Nhà ngươi thật là cao kiến lắm! Nói chưa dứt lời thì nghe báo Thiên tử đã kéo đến đất Nhu Cát, chia làm ba dinh, đóng liền với nhau. Trịnh Trang công nói: - Ta chỉ cốt phá được một dinh là xong tất cả! Nói xong, liền sai Man Bá đem một cánh quân đi về phía hữu, Sái Túc đem một cánh quân đi về phía tả, còn mình thì đem bọn Cao Cừ Di, Nguyên Phồn, Hà Thúc Doanh và Chúc Đam thẳng đường tiến lên, trong quân có vác một lá cờ "Phụng thiên thảo tội". Sái Túc nói: - Lá cờ "Phụng thiên thảo tội" là để đem quân đi đánh các nước chư hầu như Tống và Hứa thì phải, nếu đem đi đánh Thiên tử thì không hợp lẽ một chút nào. Trịnh Trang công nói: - Thế mà ta không nghĩ ra. Nói xong, liền sai đổi lá cờ khác và bảo Hà Thúc Doanh đem lá cờ "Phụng thiên thảo tội" cất vào trong kho, từ nay trở đi không dùng đến nữa. Vua Hoàn Vương nhà Chu nghe nói Trịnh Trang công đã kéo quân đến đất Nhu Cát, nổi cơn tức giận, toan thân hành đem quân ra đánh. Quắc công Kỵ Phủ can mãi mới thôi. Sáng hôm sau, Man Bá xông vào đánh quân nước Trần, quân nước Trần không đánh, bỏ chạy tức thì, lại xô đẩy quân nhà Chu, thành ra tan đám. Sái Túc xông vào đánh quân nước Sái và nước Vệ. Quân nước Sái và nước Vệ địch không nổi, cũng bỏ chạy cả. Vua Hoàn Vương truyền rút quân về, vừa đánh vừa chạy. Chúc Đam trông theo ngọn tàn che, biết là vua nhà Chu, liền giương cung nhằm theo bắn một phát tên trúng ngay vào vai, may mà áo giáp mặc ngoài hơi dầy một chút, nên chỉ bị thương nhẹ mà thôi. Chúc Đam thúc quân đuổi theo. Quắc công Kỵ Phủ đứng lại để chống với Chúc Đam, hai bên đánh nhau đang dữ dội thì Trịnh Trang công nổi hiệu thu quân. Vua Hoàn Vương rút quân ra đóng ở ngoài 20 dặm. Chu công Hắc Kiến đem chuyện người nước Trần không dụng lực để đến nỗi thua quân kể lại cho vua Hoàn Vương nghe. Vua Hoàn Vương có ý thẹn mà nói rằng: - Đó là cái lỗi của Trẫm dùng người không được minh. Chúc Đam rút quân về, vào nói với Trịnh Trang công rằng: - Tôi đã bắn trúng vai vua nhà Chu, vua nhà Chu sợ mất vía đi, chỉ việc tiến lên để bắt sống mà thôi, sao chúa công nổi hiệu thu quân làm gì vội. Trịnh Trang công nói: - Ta chỉ vì Thiên tử không minh, đã chẳng biết ơn lại còn đem lòng oán giận, bất đắc dĩ lắm ta mới phải đối địch, nhờ sức các ngươi mà giữ yên được cơ nghiệp, cũng đã đủ rồi, còn muốn cầu gì nữa. Cứ như lời nhà ngươi nói mà bắt Thiên tử đem về thì định xử làm sao? Vả lại ta bắn Thiên tử cũng là không nên, vạn nhất quá tay mà Thiên tử chết đi thì ta mắc phải cái tiếng giết vua. Sái Túc nói: - Chúa công nói phải lắm! Nay vua nhà Chu tất sợ hãi binh uy nước ta rồi, âu là ta sai sứ vào vấn an, khiến cho Thiên tử biết rằng bắn trúng vai ấy không phải là tự ý Chúa công. Trịnh Trang công nói: - Thế thì việc này lại phải đến nhà ngươi đi mới được. Nói xong liền sai Sái Túc đem các đồ lễ vật đến yết kiến vua nhà Chu để tạ tội. Sái Túc dập đầu xuống đất, lạy vua nhà Chu mà kêu van rằng: - Chúa công tôi là Ngộ Sinh (tên Trịnh Trang công) vì việc giữ nước mà phải đem quân ra phòng bị, chẳng ngờ quân sĩ vô ý phạm phải thánh thể, thật lấy làm sợ hãi lắm. Vậy có sai tôi là Sái Túc đến đây để tạ tội, xin Thiên tử thương tình mà đại xá cho. Vua Hoàn Vương nhà Chu nín lặng, không nói gì cả, bẽn lẽn có ý thẹn. Quắc công Kỵ Phủ đứng cạnh đỡ lời vua nhà Chu mà đáp lại rằng: - Ngộ Sinh đã biết hối thì cũng nên khoan thứ cho, sứ giả nước Trịnh lạy tạ Thiên tử đi. Sái Túc sụp lạy rồi cáo từ lui ra, lại đi thăm hỏi khắp cả các hàng quân sĩ. Vua Hoàn Vương từ khi thua trận, rút quân về nhà Chu, đem lòng căm tức, toan truyền hịch đi khắp các nơi để kể tội Trịnh Trang công. Quắc công Kỵ Phủ can rằng: - Chỉ tại nhà vua nóng nẩy quá, đến nỗi thua trận, nếu mà truyền hịch đi các nơi thì lại làm cho thiên hạ biết cái xấu ấy; các nước chư hầu ngày nay, trừ Trần, Sái, Vệ ra không kể, còn thì đều là đảng nước Trịnh cả. Ta lấy quân mà họ không theo thì lại làm cho nước Trịnh thêm cười ta mà thôi. Vả lại Trịnh đã biết sai Sái Túc sang tạ tội thì cũng nên khoan thứ cho nước Trịnh. Từ bấy giờ vua Hoàn Vương không nói gì đến việc nước Trịnh nữa. Lại nói đến chuyện vua nước Sái từ khi đem quân theo Thiên tử đi đánh Trịnh, nghe tin công tử Đà cướp ngôi nước Trần, dân tình không phục, mới đem quân lẻn sang để đánh nước Trần. Quay về bài gốc 0SHARES