Thủy Quốc, Giang thành, Thụ thôn, trong một ngôi miếu nhỏ, một vị sư già đang ngồi đó đối diện với một pho tượng Phật. Vị sư này tay không sâu chuỗi miệng không tụng kinh, chỉ ngồi đó mắt nhắm hờ nhìn vào pho tượng Phật. Tai vị sư đã nghe được từ xa có tiếng người gọi mình:
- Thầy Hối Minh!
Cái tên mà này đã theo vị sự già này rất lâu và cũng là cái tên được khắc trên phiến đá đặt ở trước miếu.
Hai dân làng chạy hối hả tới nơi liền nói:
- Thưa thầy, thầy mau ra bờ sông giúp chúng con cứu đứa bé.
Hối Minh đáp lời:
- Ta đã biết.
Hai dân làng chạy đi Hối Minh đi theo tới bờ sông, gọi là sông nhưng từ bờ bên này qua bờ bên kia khoảng cách hơn trăm mét. Giữa giòng lúc này nước đang chảy xiết, có một chiếc nôi trong nôi phát ra tiếng khóc của một đứa trẻ, mà chiếc nôi lại dừng ở giữa dòng không bị nước cuốn đi.
Vài người đứng ở bờ sông thấy Hối Minh tới thì vội tránh đường cho Hối Minh. Hối Minh không dừng lại mà đi thẳng xuống sông. Ông đi xuống nước cho tới khi nước tới ngực ông rồi ông không chìm xuống nữa. Cứ thế ông ra tới giữ giòng sông, khi chạm vào chiếc nôi thì một luồng thần thức chuyền vào trong đầu ông.
"Tạ ơn ân nhân đã giúp đỡ, xin nhờ ân nhân nuôi dưỡng đứa bé, sau này đứa bé trưởng thành ắt sẽ hồi báo."
Hối Minh mang chiếc nôi lên bờ những người dân trên bờ vây quanh chiếc nôi nhìn kỹ thì trong nôi có một bé trai và một tấm vải lụa được thêu một cách tinh sảo cuốn quanh người đứa bé. Hối Minh nói với dân làng:
- Đứa bé này sẽ ở với ta, mọi người giúp ta tìm sữa cho đứa bé - rồi Hối Minh mang đứa bé về ngôi miếu của mình. Sau khi về tới ngôi miếu Hối Minh đặt chiếc nôi xuống nhìn kỹ đứa bé là một bé trai kháu khỉnh trắng trẻo. Từ lúc Hối Minh chạm vào chiếc nôi đứa bé không còn khóc nữa mà nó ngậm ngón tay cái nằm ngủ ngon lành. Và cũng từ lúc nhận được luồng thần thức từ chiếc nôi chuyền lại ông đã biết đây không phải là một đứa bé của phàm nhân nên ông mới quyết định giữ đứa bé lại.
Hối Minh có hai ly do để giữ đứa bé. Thứ nhất, đây không phải là đứa bé của phàm nhân. Nếu đưa cho một phàm nhân chăm sóc thì không phát huy được thực lực của đứa bé mà còn đem lại tai họa cho gia đình nuôi đứa bé. Thứ hai là đã lâu rồi kể từ cái ngày đó Hối Minh chưa bao giờ nhận đệ tử. Đây cũng là một phần tâm sự của ông. Nay ông trời mang đứa bé này đến cho ông cũng là thỏa một tâm nguyện của ông để cho sở học của ông không bị thất truyền một cách đáng tiếc.
Theo thói quen ông đặt bàn tay mình lên người đứa bé để kiểm tra thì phát hiện đứa bé này thuần kim linh căn. Sau đó, ông mở tấm lụa quấn đứa bé ra thì biết đây là một linh khí cực phẩm. Linh khí này dưới con mắt của Hối Minh có tác dụng đơn giản giữ ấm cho đứa bé, chịu được ba lần công kích của trúc cơ hậu kỳ, chịu được băng hỏa pháp thuật của trúc cơ hậu kỳ.
Nhưng điều lạ là Hối Minh dù đã dùng thần thức lục lọi cái nôi thì cái nôi này ngoài khả nổi trên mặt nước thì chẳng còn công dụng gì, tuy đã tìm vài lượt nhưng Hối Minh vẫn không tìm thấy tên của đứa bé. Sau một hồi suy nghĩ Hối Minh quyết định gọi đứa bé này là Huyền Lưu.
Sau đó không lâu có một thôn dân dẫn theo một người phụ nữ trung niên gõ cửa miếu nói lớn:
- Thưa thầy Hối Minh tôi mang sũa tới cho đứa bé.
Hối Minh nói vọng ra:
- Vào được rồi.
Thì hai người bước vào Hối Minh vẫn ngồi đó trước tượng Phật còn cái nôi nằm phía sau lưng. Người phụ nữ bế đứa bé lên rồi đi ra sau miếu cho đứa bé bú sữa. Hối Minh nói với người thôn dân còn lại:
- Ngày mai ta dựng một cái tròi nhỏ sát bên miếu. Hàng ngày ba buổi ta đặt đứa bé trong tròi các ngươi cứ tới đó cho đứa bé ăn.
Người thôn dân đáp lại:
- Vâng đã hiểu thưa thầy!
Sau khi Huyền Lưu được ăn no và ngủ say hai người thôn dan ra về. Hối Minh nhìn lên tượng phật tự lẩm bẩm:
- Huyền Không ơi Huyền Không!
Cách đây khoảng 100 năm khi Hối Minh và Huyền Không đi qua nơi này. Huyền Không thầy nơi đây thanh vắng và yên tĩnh nên đã quyết định chọn nơi này cho Hối Minh. Ở nơi đây thoáng đãng không có cây cối gì nhiều, đặc biệt có một gốc cây rất to tán cây rộng hơn cả trăm mét cây cao trên trăm mét. Huyền Không lấy một phiến đá dựng đứng lên dồn kình lực vào ngón tay viết lên hai chữ Hối Minh. Rồi cắm phiến đá xuống cách gốc cây hơn 70 mét. Huyền Không nói với Hối Minh:
- Ta chọn nơi này để thực hiện giao ước giữa ta với ngươi.
Rồi Huyền Không lấy ra một pháp bảo hình tượng Phật đặt gần phiến đá. Tiếp đó chân đạp pháp bảo lăng không mà đi. Hối Minh còn lại một mình nhìn tượng Phật một ngày một đêm. Cái pháp bảo hình tượng Phật trong mắt Hối Minh rất đỗi tầm thường này có gì đặc biệt mà Huyền Không lại để ở đây.
Hơn một năm trôi qua Hối Minh vẫn ngồi đó nhìn tượng Phật mà cũng chẳng hiểu tại sao. Lâu lâu cũng có người đi ngang qua đây rồi nghỉ chân dưới gốc cây cũng gặp Hối Minh. Nhưng tới gần bắt chuyện thì không thấy Hối Minh trả lời nên lâu dần cũng cho thành chuyện bình thường. Sau vài ba năm trôi qua, một lần có người muốn ngỏ ý xây cho tượng Phật một ngôi miếu. Lúc đó Hối Minh mới bắt đầu nói chuyện và câu đầu tiên sau bao nhiêu năm thinh lặng:
- Đa tạ thí chủ.
Không bao lâu ngôi miếu được xây xong, Hối Minh cũng khoác lên người tấm áo cà xa của người tu hành. Nhưng có một điều lạ là Hối Minh không cầm trên tay bất cứ thứ gì chỉ có hai bàn tay không. Khi có người hỏi về Pháp danh Hối Minh nhìn lên phiến đá và trả lời:
- Hối Minh.
Rồi hơn chục năm nữa trôi qua, có một cặp vợ trồng trẻ tới miếu của Hối Minh. Xin với Hối minh được cất một ngôi nhà nhỏ ở bên kia tán cây. Hối Minh trả lời liền không cần biết lý do:
- Cây này không phải của ta, đất này không phải của ta các người cứ làm việc các người muốn.
Hai vợ chồng trẻ mừng trong lòng ta ơn rồi ra về. Sau hai tháng ngôi nhà đầu tiên dưới tán cây được hoàn thành. Người chồng mua trái cây tới miếu để thắp hương trước tạ ơn Phật tổ sau tạ ơn Hối Minh. Tới trước cửa miếu, người chồng nói vào trong miếu:
- Xin thầy cho con vào thắp hương cho Phật tổ!
Hối Minh trả lời:
- Miếu này không phải của ta, tượng Phật này không phải của ta người cứ làm việc người muốn.
Người chồng tạ ơn rồi tự làm nghi thức cúng dường. Có ngôi nhà thứ nhất thì sẽ có ngôi nhà thứ hai thứ ba rồi mười ngôi nhà, hai mươi ngôi nhà. Nhưng tất cả chỉ nằm phía bên kia so với Hối Minh miếu. Bất kỳ ai tới đây làm nhà đều đến xin phép Hối Minh rồi đem lễ tới tạ ơn khi đã dựng nhà xong đây đã trở thành tục lệ. Một ngày đẹp trời, một người cao tuổi tới trước miếu xin hỏi chuyện Hối Minh:
- Thưa thầy Hối Minh, từ ngày có người tới đây càng ngày càng đông mà nơi này chưa có tên gọi xin thầy cho một cái tên.
Hối Minh trả lời ông lão:
- Thụ Thôn.
Ông lão tạ ơn rồi xin phép ra về. Ngày hôm sau trên đường vào thôn có thêm tấm biểng có hai chữ Thụ Thôn. Tới thời điểm hiện tại Thụ Thôn có gần trăm người từ người già tám chín chục tuổi cho tới trẻ em mới lọt lòng. Vì là nơi vắng vẻ nên đôi khi cũng có thú giữ tấn công. Những lúc đó dân làng lại chạy đến miếu nhờ cậy Hối Minh. Đôi khi cũng có người bệnh thập tử nhất sinh không cón phương thầy thuốc cũng tới nhờ cậy Hối Minh. Có lúc trong thôn mất mùa cũng tới nhờ cậy Hối Minh. Có những năm thời tiết khắc nghiệt cũng tới nhờ cậy Hối Minh.
Từ đó trong lòng người trong thôn Hối Minh như phật sống. Hối Minh làm những việc đó chỉ là đơn giản là Hối Minh nhớ gia đình của mình.