Được tin tôi đang phải nằm nhà vì bị cách li, nhà thơ ở Thái Bình có bút danh là Đặng Toán, cũng là giáo viên văn, sáng nay qua Facebook gởi cho tôi tờ báo có bài bình thơ của anh về Bài Thơ Gởi Mẹ của Thanh Trắc Nguyễn Văn Lời Bình: Bài Thơ Gởi Mẹ "Trời mưa bong bóng phập phồng Mẹ đi lấy chồng con ở với ai". Câu hát buồn này có lẽ những ai yêu thích ca dao dân ca đều đã hơn một lần nghe qua. Mượn lời người xưa, tác giả Thanh Trắc Nguyễn Văn chỉ thay bốn chữ "con ở với ai" bằng "con khóc mình con", chuyển từ câu nói sang hình ảnh mà mức độ buồn tủi, xót xa, cay đắng của nhân vật xưng "con" như đã tăng lên rất nhiều. Ở thời điểm diễn ra câu chuyện thơ, trong suy nghĩ của nhân vật trữ tình (đứa trẻ), việc người mẹ bước đi bước nữa là một việc làm quá ư vô lí, khó hiểu và không thể có một kết quả tốt đẹp được: "Lá trầu đã héo lại hon Tơ duyên đứt đoạn sao còn nối dây?" Câu hỏi duy nhất trong bài và cũng chính là nỗi băn khoăn đến đau đáu của người con mà không thể có lời giải đáp, bởi không phải người mẹ không biết điều ngỡ như vô lí đó: "Mẹ đành biền biệt chân mây Bỏ con khóc ướt những ngày tuổi thơ". Song dẫu con có "khóc ướt những ngày tuổi thơ", có hờn dỗi, van xin năn nỉ thì cuối cùng vẫn phải chấp nhận hoàn cảnh thực tại của mình: "Bơ vơ là cái ngóng chờ Mồ côi là kiếp bụi bờ lang thang...". Người ta thường nói, thời gian như có phép nhiệm màu, làm lành vết thương lòng, xoa dịu bao nỗi niềm xa xót. Nhưng với nhân vật thơ lúc này lại là một ngoại lệ: "Lá xanh rồi lại lá vàng Thời gian bầm tím ngút ngàn lệ rơi..." Nước mắt vẫn không ngừng tuôn chảy và cõi lòng con chưa khi nào thôi tê tái. Nếu ở khổ một tiếng khóc mới rấm rứt "khóc mình con", sang khổ hai tuy nó đã nhiều hơn "ướt những ngày tuổi thơ". Thì tới khổ thơ thứ ba, nước mắt đã như nham thạch quánh lại khiến cho thời gian bầm tím. Và như vậy nỗi đau khổ, cay đắng tưởng như không gì so sánh được. Có thể thời gian không là phép nhiệm màu, nhưng ít ra nó cũng đã cho nhân vật trữ tình hiểu ra được nhiều điều: "Con giờ biết khóc mẹ ơi Thương thân cò gánh vạn lời đắng đau Chơi vơi bến nước đục ngầu Trăm năm gãy vờ nát nhàu vầng trăng." Vẫn có nước mắt rơi, song không còn là tiếng khóc của trách giận, tủi hờn mà lúc này nó là tiếng lòng xót thương, ân hận của nhân vật"con" trước tình cảnh "đắng đau" mà nhân vật người mẹ đã phải gánh chịu. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh: "Trăm năm gãy vỡ nát nhàu vầng trăng" và đó là một sáng tạo của tác giả. Những chữ, những từ gợi sự trường tồn, vĩnh cửu: "trăm năm, vầng trăng" khi được liên kết lại bằng loạt động từ đồng nghĩa khác âm: gãy, vỡ, nát, nhàu đã tạo ra hiệu quả bất ngờ: Vô vàn những khổ đau, đắng đót và cả những ê chề, day dứt đã dồn dập giáng xuống tấm thân cò mỏng manh của mẹ. Khi con hiểu được lòng mẹ, khi con biết xót thương mẹ thì có thể đã muộn mất rồi. Và bởi vậy câu thơ, bài thơ như có thêm sức ám ảnh, neo đậu trong tâm trí người đọc. Có lẽ "Bài thơ gởi mẹ" là một tác phẩm ngắn song lại nhiều nước mắt nhất. Và thông điệp sẻ chia, yêu thương và cảm thông đã tìm được sự đồng cảm của độc giả khi nó được chuyển tải bằng những tác phẩm văn học giầu tính nhân văn, nhân ái! Thái Bình 5/2021 Đặng Toán Bài Thơ Gởi Mẹ "Trời mưa bong bóng phập phồng" Mẹ đi lấy chồng, con khóc mình con... Lá trầu đã héo lại hon Tơ duyên đứt đoạn sao còn nối dây? Mẹ đành biền biệt chân mây Bỏ con khóc ướt những ngày tuổi thơ. Bơ vơ là cái ngóng chờ Mồ côi là kiếp bụi bờ lang thang Lá xanh rồi lại lá vàng Thời gian bầm tím ngút ngàn lệ rơi... Con giờ biết khóc mẹ ơi! Thương thân cò gánh vạn lời đắng đau Chơi vơi bến nước đục ngầu Trăm năm gãy vỡ nát nhàu vầng trăng. 1998 (Tập thơ Cỏ Hoa Thì Thầm - NXB Thanh Niên 2002) Thanh Trắc Nguyễn Văn
Con Thuyền Giấy Con thuyền xưa bằng giấy Anh thả vào ước mơ Thuyền trôi giữa dòng mưa Bập bềnh trên sóng nước. Em ngồi bên cửa lớp Con thuyền ghé làm quen Em đẩy. Thuyền lật nghiêng Lắc lư rồi trôi tiếp! Em cười đôi mắt biếc Màu áo trắng như mơ Con thuyền cũng ngẩn ngơ Lặng trôi và trôi mãi... Con thuyền nay bằng giấy Anh thả về tuổi thơ Thuyền trôi giữa dòng mưa Cũng bồng bềnh sóng nước. Nhưng người em thuở trước Năm tháng ấy về đâu? Con thuyền cũ nghiêng chao Giữa đôi dòng thương nhớ. Trời mưa bong bóng vỡ Phượng rụng ướt mùa thi Có một chiếc thuyền đi Bên thềm xưa trôi mãi... Thanh Trắc Nguyễn Văn
Rồi Người Đi Rồi người đi Như gió Như mây Vào chòng chành quên lãng Nỗi đau chật hẹp Hay thênh thang Sao cứ đi là vấp phải nỗi buồn? Rồi người đi Tiếng vĩ cầm thời gian réo rắt Ly cà phê không gian đắng ngắt Từng vệt son môi Từng móng tay màu Xin nhặt lại trao trả em Tình yêu của bóng đêm trống rỗng. Rồi người đi Dù con đường trước mắt ẩn chìm không ánh sáng Khu vườn hoang không còn trái cấm Những cơn bão đến không hề dự đoán Những hố tử thần chập chờn không biển báo Xếp hàng Chực chờ gào thét... Rồi người đi Tìm hướng mặt trời mọc Giữ vầng trăng Niềm Tin Hứng chùm sao Hy Vọng Soi đường Mặt đất ấm dần Bình minh! Thanh Trắc Nguyễn Văn
Hoa Bất Tử Dẫu lừng danh hoa bất tử Em vẫn khô lạnh không hồn Thà yêu màu hoa dại đỏ Thấy cháy rực một hoàng hôn. Thanh Trắc Nguyễn Văn
Thăm Mộ Hàn Mặc Tử Bồng bềnh dưới biển trên trăng Đêm trôi vào cõi vĩnh hằng tìm nhau. Tài hoa vùi lấp mộ sâu Xót người mệnh bạc dãi dầu cỏ xanh Đau thương rụng vỡ bên gành Mộng cầm sắc vỡ tan tành chiêm bao Xuân như ý bỗng nghẹn trào Nửa hồn bút mực chìm vào mưa ngâu... Tìm người, người đã về đâu? Nửa vành trăng góa buồn đau giữa trời Sóng leo trồi sụt chân đồi Ném lòng vào đá vọng lời tháng năm Câu thơ lệ ứ ướt đầm Nửa lăn xuống biển, nửa nằm trên trăng. Thanh Trắc Nguyễn Văn ======================== Đau Thương, Xuân Như Ý: Tên các tập thơ của Hàn Mặc Tử Mộng Cầm: Tên người yêu Hàn Mặc Tử Bút mực: Ý nghĩa bút danh của Hàn Mặc Tử. "Hàn" ám chỉ cây bút lông; "Mặc" tức là mực dùng để viết. "Hàn Mặc Tử" có nghĩa là người viết văn, làm thơ hoặc người có duyên nợ với văn chương.
Sông Rừng còn có tên là sông Vân Cừ, nhưng nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là với tên sông Bạch Đằng (trong thơ ca còn gọi là Bạch Đằng Giang). Tôi đến bến phà Rừng lần đầu tiên vào năm 1997. Khi ngồi đợi qua phà, trong một quán nước tôi vô tình nghe được câu chuyện của một đôi vợ chồng già phải đi làm ăn xa nay mới có dịp cùng nhau về thăm lại quê hương. Tôi đã xúc động viết bài thơ này.. Về Quê Cũ Đưa nhau qua bến phà Rừng Bỗng nghe năm tháng sấm đùng đùng vang Mưa tuôn ướt cả bàng hoàng Sợi thương buông xõa thả làn tóc mây. Em cười sao mắt lại cay Anh buồn sao nhớ những ngày cách xa Dẫu rằng mấy núi cũng qua Tóc tơ nối lại đã nhòa tóc xanh. Đâu rồi đôi mắt long lanh Đâu rồi giọt lệ thấm lành tình yêu? Thời gian bàng bạc khói chiều Bến thương bến đợi cũng nhiều long đong. Bây giờ qua một bến sông Quê hương về lại nắng hồng đường thôn Anh về níu bóng hoàng hôn Em về tìm nhặt tuổi hồn nhiên xưa. Thanh Trắc Nguyễn Văn
Áo Dài (Tặng Chu Thanh Hoài) Áo dài bước nhẹ rồi xoay Nụ cười xinh xắn ngất ngây đất trời Em đừng cười nữa em ơi Kẻo tôi hóa đá một đời tương tư! Thanh Trắc Nguyễn Văn
Chợt Xa Tình em như cánh chuồn chuồn Khi bay đậu lại nỗi buồn riêng tôi Dây trầu chưa quấn chợt rơi Vành trăng chợt vỡ để người chợt xa... Thanh Trắc Nguyễn Văn
Thanh Trắc Nguyễn Văn có nhận được tập Thơ Tuyển Chọn của Báo Văn Nghệ Thái Nguyên. Đây là thơ tuyển chọn những bài thơ hay nhất đã đăng trên báo Văn Nghệ Thái Nguyên từ năm 2010 đến năm 2020. Thanh Trắc Nguyễn Văn may mắn được báo Văn Nghệ Thái Nguyên tuyển chọn bài thơ Van Em Đừng Qua Cổng. Bài thơ này được viết tặng cho cô giáo xinh đẹp dạy môn Toán trường Võ Thị Sáu, tên là Yến Phương. Thanh Trắc Nguyễn Văn xin chân thành cảm ơn Hội Văn Học Thái Nguyên đã tặng tập thơ. Van Em Đừng Qua Cổng Van em đừng qua cổng Tóc mềm đừng thả hương Ta va vào vấp ngã Ngàn năm sẽ nhớ thương! Van em đừng qua cổng Đung đưa một tiếng cười Ta sợ chòng chành đắm Bởi cánh môi hồng tươi! Van em đừng qua cổng Hát vu vơ nhạc buồn Ta dại khờ đâu biết Nước mắt tròn hay vuông? Van em đừng qua cổng Thả bay màu áo dài Kẻo chiều thu vướng lại Vạt nắng vàng không phai! Van em đừng qua cổng Sao giờ em chưa qua? Ta vo buồn đứng níu Hoàng hôn trước hiên nhà... Van em đừng qua cổng Kìa ai hóa đá chờ Mảnh sao đêm mọc muộn Rủ một người làm thơ. Van em đừng qua cổng Em ơi đừng qua cổng... Thanh Trắc Nguyễn Văn