到 弟 四 戰 區 政 治 部 解 過 廣 西 十 三 縣, 柱 了 十 八 個 監 房. 試 問 余 所 犯 何 罪, 罪 在 為 民 族 盡 忠 . Đáo Đệ tứ chiến khu Chính trị bộ Giải quá Quảng Tây thập tam huyện, Trú liễu thập bát cá giam phòng; Thí vấn dư sở phạm hà tội? Tội tại vị dân tộc tận trung! Dịch nghĩa Giải khắp mười ba huyện tỉnh Quảng Tây, Dừng chân qua mười tám nhà lao; Thử hỏi ta phạm tội gì? Tội tận trung với dân tộc!
TẢO Thái dương mỗi tảo tòng tường thướng, Chiếu trước lung môn môn vị khai. Lung lý hiện thời hoàn hắc ám, Quang minh khước dĩ diện tiền lai. Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt, Bát chung hưởng liễu tảo xan khai. Khuyến quân thả ngật nhất cá bão, Bĩ cực chi thì tất thái lai. Dịch nghĩa Mỗi sớm, mặt trời vượt lên khỏi đầu tường, Chiếu tới cửa nhà lao, cửa chưa mở; Giờ đây trong lao còn đen tối, Nhưng ánh sáng đã bừng lên phía trước mặt. Sớm dậy, mọi người đua nhau bắt rận, Chuông điểm tám giờ, bữa cơm sáng bắt đầu; Khuyên anh hãy cứ ăn no, Khổ đến tột cùng, vui ắt tới.
VẤN THOẠI Xã hội đích lưỡng cực, Pháp quan dữ phạm nhân. Quan viết: Nhĩ hữu tội, Phạm viết: Ngã lương dân. Quan viết: Nhĩ thuyết giả, Phạm viết: Ngã ngôn chân. Pháp quan tính bản thiện, Giả trang ác ngân ngân. Yếu nhập nhân ư tội, Khước giả ý ân cần. Giá lưỡng cực chi gian, Lập trước công lý thần. DỊCH NGHĨA Hai cực của xã hội, Quan tòa và phạm nhân; Quan bảo: Anh có tội, Phạm nhân thưa: Tôi dân lành; Quan bảo: Anh nói dối, Phạm nhân thưa: Tôi nói thật; Quan tòa tính vốn thiện, Lại hầm hầm giả làm bộ ác; Muốn khép người vào tội, Lại ra vẻ ân cần; Giữa hai cực này, Có thần công lý đứng.
NGỌ HẬU Nhị điểm khai lung hoán không khí Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên Tự do thiên thượng thần tiên khách Tri phủ lung trung dã hữu tiên. Dịch nghĩa Hai giờ chiều, nhà lao mở cửa đổi không khí, Mọi người ngẩng lên ngắm trời tự do; Khách thần tiên trên trời tự do, Biết chăng trong tù cũng có tiên
TÙ LƯƠNG Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn, Vô diêm vô thái hựu vô thang. Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão, Một nhân tống phạn hám gia nương. Dịch nghĩa Mỗi bữa một bát cơm gạo đỏ, Không muối, không rau cũng chẳng canh; Có người đem cơm, được ăn no, Không người đem cơm, đói kêu cha kêu mẹ.
NẠN HỮU XUY ĐỊCH Ngục trung hốt thính tư hương khúc, Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu. Thiên lý quan hà vô hạn cảm, Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu. Dịch nghĩa Trong tù bỗng nghe khúc nhạc nhớ quê hương, Âm thanh trở nên thê lương, tình điệu trở nên sầu muộn. Nước non xa cách nghìn trùng, cảm thương vô hạn, Người chốn phòng khuê lại bước lên một tầng lầu.
PHÂN THỦY Mỗi nhân phân đắc thuỷ bán bồn, Tẩy diện phanh trà các tuỳ tiện. Thuỳ yếu tẩy diện vật phanh tra, Thuỳ yếu phanh tra vật tẩy diện. Dịch nghĩa Mỗi người được chia nửa chậu nước, Rửa mặt hoặc đun trà, tuỳ ý mình; Ai muốn rửa mặt, đừng đun trà, Ai muốn đun trà, thôi rửa mặt.
TRUNG THU Trung thu thu nguyệt viên như kính, Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân. Gia lý đoàn viên ngật thu tiết, Bất vong ngục lý ngật sầu nhân. Ngục trung nhân dã thưởng trung thu, Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu. Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt, Tâm tuỳ thu nguyệt cộng du du! Dịch nghĩa Trăng trung thu tròn như gương, Chiếu rọi cõi đời, ánh trăng trắng như bạc; Nhà ai sum họp ăn tết trung thu, Chẳng quên người trong ngục nuốt sầu. Người trong ngục cũng thưởng thức trung thu, Trăng thu, gió thu đều vương sầu; Không được tự do ngắm trăng thu, Lòng theo cùng trăng thu vời vợi.
ĐỔ Dân gian đổ bác bị quan lạp, Ngục lý đổ bác khả công khai. Bị lạp đổ phạm thường ta hối, Hà bất tiên đáo giá lý lai! Dịch nghĩa Ngoài dân đánh bạc thì bị quan bắt, Trong tù đánh bạc có thể công khai; Con bạc bị tù thường hối tiếc: Sao không sớm vào quách chốn này?
ĐỔ PHẠM Công gia bất cấp đổ phạm phạn, Dục linh tha mẫn hối tiền phi. "Ngạnh" phạm hào soạn thiên thiên hữu, Cùng phạm cơ diên cộng lệ thuỳ. Dịch nghĩa Nhà nước không phát cơm cho tù cờ bạc, Muốn cho họ hối cải lỗi trước; Nhưng bọn tù sừng sỏ ngày nào cũng có cơm thịt, Còn tù nghèo, đói chảy dãi cùng với nước mắt.