41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71148603_1228355020698081_7571425471900942336_n.jpg


Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Đồng Nai

Tương đồng và khác biệt

(Một phác thảo nghiên cứu tiền – sơ sử Nam bộ)

TS. Nguyễn Thị Hậu (*)

1. Khái quát về Văn hóa Đông Sơn

1.2 Niên đại và các giai đoạn phát triển

Sau 90 năm phát hiện và nghiên cứu, khung niên đại của Văn hóa Đông Sơn được xác định kéo dài từ khoảng thế kỷ thứ VII TCN đến khoảng thế kỷ I-II SCN, với 3 giai đoạn phát triển:

- Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn sớm (khoảng thế kỷ VII-VI TCN) phát triển trực tiếp từ các Văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun), tập trung chủ yếu trên địa bàn vùng núi, trung du và đồng bằng cao của các châu thổ. Đây là giai đoạn thuộc phạm vi thời đại đồng thau.

- Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn giữa (thế kỷ V- thế kỷ III TCN) là giai đoạn phát triển trên phạm vi rộng, lan tỏa theo lưu vực các sông lớn xuống vùng đồng bằng thấp, ô trũng, đồng bằng ven biển.

Giai đoạn này, nền kinh tế Đông Sơn phát triển, xuất hiện của trống đồng (Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Miếu Môn) ; Đây là giai đoạn đã bước sang sơ kỳ đồ sắt.

- Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn muộn (thế kỷ I-II TCN đến thế kỷ I-II SCN), là giai đoạn phát triển, tiếp xúc và giao lưu mạnh mẽ với các văn hóa bên ngoài mà chủ yếu là văn hóa Hán.

Loại hình di tích (mộ táng) và nhiều di vật du nhập và mang phong cách văn hóa Hán khá phổ biến.

Đồng thời với những di vật thể hiện sự lưu giữ truyền thống Đông Sơn như "trống chậu", nhiều loại công cụ vũ khí..

1.2 Không gian phân bố

- Đồng bằng phù sa mới, cao ráo, là vùng có địa hình chuyển tiếp giữa vùng trung du và đồng bằng, nằm giữa hệ thống các sông lớn và chi lưu sông Hồng, sông Mã và sông Cả, có 3 loại địa hình chính:

Đồi núi, đồng bằng, vùng bãi, núi sót.

Các di tích có diện tích lớn, phân bố trên gò cao, mật độ di tích, di vật cao, phản ánh cư trú lâu dài, gắn với hình thành các trung tâm.

- Đồng bằng phù sa mới thấp là vùng đất mới hơn, chịu nhiều biến đổi của thiên nhiên trong thời tiền sử.

Các di tích phân bố có mật độ lớn, những phát hiện về di tích càng tăng, mật độ dày đặc. Các di tích chủ yếu là mộ thân cây khoét rỗng (còn gọi mộ thuyền) phân bố trong các vùng đất trũng, thấp (ở đáy ao, mương, ruộng) bám theo các dòng sông và các chi lưu.

- Đồng bằng phù sa mới ven biển là vùng đất duyên hải ven biển (Hải Phòng, Quảng Ninh). Với vị trí thuận tiện mở ra biển và sông ngòi dày đặc, bắt đầu xuất hiện dấu tích văn hóa Hán.

Các di tích Văn hóa Đông Sơn phân bố trên nhiều dạng địa hình, với xu thế dịch chuyển dần từ vùng địa bàn đồi núi cao, miền trung du xuống vùng đồng bằng thấp trũng và đồng bằng ven biển.

Các di tích giai đoạn Đông Sơn muộn tăng so với giai đoạn tiền Đông Sơn và Đông Sơn. Hình thành các trung tâm lớn, có vị thế quan trọng với những đặc trưng riêng.

1.3 Kinh tế và xã hội

Nông nghiệp:

Với phát triển của nghề luyện kim đúc đồng, cư dân Đông Sơn chế tác ra nhiều nông cụ sắc bén có tính chuyên môn hóa cao như cuốc, mai, thuổng, nhíp (dao hái).

Đặc biệt tại di tích Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) hàng trăm lưỡi cày đồng đã phát hiện chứng tỏ người Đông Sơn sớm biết sử dụng sức kéo của trâu bò.

Vì vậy nông nghiệp trồng lúa thời này khá phát triển. Bên cạnh đó người Đông Sơn còn biết đến nhiều loại cây trồng khác.

Nghề đúc đồng:

Văn hóa Đông Sơn là đỉnh cao của thời đại đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt ở Việt Nam, tồn tại khoảng TK. 7 TCN đến TK. 1-2 SCN.

Đây là thời đại người Việt hoàn toàn làm chủ nguyên liệu và kỹ thuật chế tác đồng thau vô cùng độc đáo và tinh xảo, mà trống đồng là đỉnh cao.

Bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn đa dạng về loại hình và phong phú về hoa văn trang trí, điển hình là các loại vũ khí như rìu, giáo, lao, mũi tên, hộ tâm phiến..

Đặc biệt một số dao găm có cán hình chữ T, đốc củ hành, hình phụ nữ mặc váy ngắn. Trên cán kiếm phát hiện tại Lạch Trường (Thanh Hóa) còn trang trí phụ nữ trong trang phục váy dài.

Nhóm đồ dùng sinh hoạt gồm thạp, thố, bình, âu chậu, vò.. trong đó thạp, thố chiếm một số lượng lớn, được tạo dáng và trang trí hoa văn độc đáo tạo nên những sắc thái riêng.

Trong một số thạp đồng có chứa đồ trang sức và vật dụng, có chiếc còn chứa cả xương sọ, tro hay di cốt của người đã chết, chứng tỏ thạp là di vật được dùng làm đồ tuỳ táng như một quan tài.

Đồ trang sức của người Đông Sơn giai đoạn này rất đa dạng, làm bằng các chất liệu khác nhau, chủ yếu chất liệu đồng, tiêu biểu như các loại vòng đồng (vòng ống, vòng có họng khóa, vòng có tiết diện chữ T.), trâm cài đầu, khóa thắt lưng..

Ngoài đồ trang sức bằng đồng thì đá quý cũng sử dụng như đá ngọc, đá thạch anh, đá mã não và thuỷ tinh màu. Loại hình chủ yếu là vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt đeo cổ..

- Trống đồng và trống đồng minh khí:

Trống đồng là di vật tiêu biểu nhất của cư dân Đông Sơn, chôn theo người chết những đồ dùng hay trống đồng minh khí là biểu hiện của thu nhỏ thế giới thực tại để người chết mang về thế giới bên kia tái tạo cuộc sống.

Qua những sưu tập hiện vật này chúng ta có thể hiểu thêm về đời sống vật chất và tâm linh của cư dân Đông Sơn.

- Táng thức của người Đông Sơn rất phong phú ngoài mộ huyệt đất, mộ trải đá, mộ vò còn có một loại hình mộ đặc trưng – mộ hình thuyền, điển hình là mộ thuyền Việt Khê (Hải Phòng). Gần đây phát hiện nhiều khu mộ thuyền lớn ở vùng đồng bằng trũng lưu vực sông Hồng.

2. Khái quát về Văn hóa Đồng Nai

2.1 Niên đại và các giai đoạn phát triển

Từ khoảng 4000 năm cách ngày nay ở vùng miền Đông Nam Bộ hình thành và phát triển nền văn hóa khảo cổ:

Văn hóa Đồng Nai, tồn tại đến khoảng đầu Công Nguyên và thành một trong ba trung tâm văn minh kim khí của Việt Nam.

Văn hóa Đồng Nai bao gồm các giai đoạn nối tiếp nhau:

Cầu Sắt – Bến Đò – Dốc Chùa – Phú Hòa (Giồng Phệt/ Giồng Cá Vồ - Giồng Lớn – Gò Ô Chùa) ; trong đó các giai đoạn:

Cầu Sắt – Bến Đò – Dốc Chùa thuộc giai đoạn đồng thau với kỹ nghệ chế tác công cụ đá thuần thục mài, cưa, khoan, đúc đồng khá phát triển.

Giai đoạn Phú Hòa thuộc sơ kỳ đồ sắt, địa hình phân bố rộng khắp từ vùng phù sa cổ đến vùng ngập mặn ven biển, nhiều loại hình mộ táng và các loại đồ tùy táng quý giá.

2.2 Không gian phân bố:

Địa giới hành chánh Đông Nam Bộ là các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương. Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Về địa hình đây là vùng đất cao trải dài từ cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh thấp dần xuống đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.

Vì vậy phạm vi phân bố của Văn hóa Đồng Nai thời tiền sử bao gồm lưu vực các sông Đồng Nai, sông Bé, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông Tây.

Trên địa bàn rộng lớn đó các di tích khảo cổ Văn hóa Đồng Nai tập trung trong 3 khu vực địa hình:

- Khu vực đồi đất đỏ bazan và cao nguyên đất xám phù sa cũ:

Các di tích ở đây có diện phân bố rộng, tích tụ văn hóa dày, hiện vật vô cùng phong phú chủ yếu là đồ gốm và công cụ đá.

Tiêu biểu là cụm di tích Xuân Lộc – Đồng Nai, di tích thành tròn ở Lộc Ninh – Bình Phước.

- Khu vực phù sa cổ hạ lưu sông Đồng Nai:

Nhiều di tích phân bố dày đặc như nơi cư trú, nơi chế tạo các loại công cụ và đồ dùng sinh hoạt, các khu mộ táng với nhiều táng thức khác nhau..

Các di tích nổi tiếng ở đây là Cù Lao Rùa, Dốc Chùa, Bưng Sình (Bình Dương), Bình Đa, Suối Linh, Đồi Phòng Không, Gò Me.. (Đồng Nai), An Sơn, Rạch Núi, Lộc Giang.. (Long An).

- Khu vực ven biển Đông Nam Bộ:

Đây là vùng đất thấp trũng ngập mặn, chịu ảnh hưởng thường xuyên của chế độ bán nhật triều, phần lớn diện tích là rừng sác.

Di tích cư trú và mộ táng rải rác trên các gò, giồng đất cao hoặc ven các bưng lầy, di vật ở đây rất đa dạng và độc đáo thể hiện những mối quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi.

Độc đáo nhất là hệ thống di tích ở huyện Cần Giờ – TP. HCM trong đó có di tích mộ chum Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ.

Các di tích vùng bưng lầy Bà Rịa - Vũng Tàu như Bưng Bạc, Bưng Thơm, Cái Vạn, Cái Lăng, Giồng Nổi, Gò Me, Giồng Lớn..

2.3. Kinh tế - xã hội

Những cuộc khai quật khảo cổ học từ sau năm 1975 đưa lên từ lòng đất hàng trăm ngàn di vật với nhiều chất liệu khác nhau.

Đồ đá là di vật phổ biến nhất và có số lượng lớn nhất, đồng thời cũng là loại công cụ, vũ khí tồn tại lâu dài đến cả giai đoạn về sau, do khan hiếm của quặng kim loại.

Loại hình công cụ phổ biến là rìu, cuốc, dao hái, "qua đá", đục, mũi tên.. được chuyên môn hóa về chức năng. Đồ trang sức nhiều nhất là các loại vòng đeo tay, đeo tai.

Đặc sắc nhất vẫn là những bộ đàn đá tìm thấy trong địa tầng di tích khảo cổ học ở Đồng Nai, Bình Phước khẳng dịnh sự ra đời và tồn tại loại nhạc cụ cổ truyền này ở lưu vực Đồng Nai từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay.

Di vật kim loại phổ biến gồm đồ đồng chế tạo bằng phương pháp đúc trong khuôn hai mang "liên hoàn" :

Rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu, lao có ngạnh..

Tại di tích Long Giao (Đồng Nai) còn tìm thấy một kho "qua đồng" - một loại vũ khí cổ phổ biến cả trong Văn hóa Đông Sơn.

Gần đây còn tìm thấy một số trống đồng "kiểu Đông Sơn" được sử dụng làm nắp đậy những mộ chum gỗ ở di tích Bưng Sình - Phú Chánh (Bình Dương).

Đồ sắt không nhiều, chủ yếu là vũ khí như giáo, lao.. thường tìm thấy trong mộ táng.

Đồ gốm và nghề làm gốm rất phát triển, các loại đồ dùng trong sinh hoạt như nồi, bát đĩa chân cao, bình, bếp lò.. có mặt trong tất cả di tích khảo cổ.

Ngoài ra còn nhiều dụng cụ bằng gốm như bàn xoa, dọi xe sợi, chì lưới..

Ngoài các chất liệu chủ yếu trên trong Văn hóa Đồng Nai còn tìm thấy những di vật bằng gỗ, xương, sừng hay mai rùa.. làm công cụ và đồ trang sức.

Giai đoạn muộn của Văn hóa Đồng Nai xuất hiện những di tích mộ táng với táng thức chủ đạo là "mộ chum" :

Di cốt được chôn nguyên vẹn hoặc than tro hỏa táng trong những chum, vò lớn bằng gốm hay bằng gỗ, cùng nhiều đồ tuỳ táng có giá trị như trang sức đá ngọc, mã não, thuỷ tinh, giáo sắt, đồ gốm minh khí..

Nổi bật là bộ sưu tập 32 "khuyên tai hai đầu thú" tại di tích Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ, số lượng nhiều nhất được tìm thấy trong các "văn hóa mộ chum" ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Phương thức kinh tế chính của cư dân cổ Đồng Nai là nông nghiệp ruộng khô (nương rẫy dùng cuốc) kết hợp với khai thác tự nhiên như đánh bắt cá, hái lượm.. đồng thời phát triển các nghề thủ công.

Tuy nhiên vùng cửa sông Đồng Nai xuất hiện những dấu tích một nhóm cư dân đặc biệt sinh sống bằng nghề trao đổi buôn bán, đó là chủ nhân các di tích mộ chum ở Cần Giờ-TP. HCM.

Khoảng 2500-2000 năm cách ngày nay Cần Giờ từng là "cảng thị sơ khai" phát triển thương mại qua đường sông, đường biển với nhiều nơi như với khu vực:

Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, các đảo ở Philippine, Indonesia, đặc biệt quan hệ kinh tế-kỹ thuật với Ấn Độ thể hiện rõ nét từ rất sớm.

Thời đại kim khí, lưu vực Đồng Nai là trung tâm nông nghiệp sầm uất, nơi quy tụ lượng tài vật khá lớn của cả phần Nam bán đảo Đông Dương.

Hàng chục di tích khảo cổ học phân bố dày đặc dọc đôi bờ Đồng Nai, trên cả những cù lao và kéo dài đến vùng ven biển.

Dấu tích cư trú lâu dài, ổn định và phong phú của con người thể hiện trên số lượng di vật rất lớn, nhiều loại hình và phản ánh được các đặc trưng văn hóa, đặc trưng kỹ thuật của các cộng đồng người ở đây.

Những xưởng thủ công lớn sản xuất nhiều loại vật dụng cho cuộc sống của con người như đồ gốm, công cụ đá, khuôn đúc và công cụ kim loại, đồ trang sức bằng đá mà số lượng sản phẩm vượt qua mức độ tự cung tự cấp.

Miệt Vàm Cỏ cư dân cổ cũng tạo lập cuộc sống định cư trên những "núi đất" giữa vùng lầy trũng, tại đó phong phú công cụ sản xuất bằng đá, đồ dùng bằng gốm, đặc biệt nhiều loại công cụ xương thú và vỏ nhuyễn thể.

Dù mối quan hệ giao lưu giữa Vàm Cỏ và Đồng Nai phát triển trên quy mô lớn và rất thường xuyên, nhưng cư dân Vàm Cỏ vẫn có lối sống và sản phẩm văn hóa mang bản sắc riêng.

Văn hóa Đồng Nai phát triển trong thiên niên kỷ I-II TCN được nhìn nhận như bước mở đầu cho truyền thống văn hóa bản địa ở Nam Bộ với bản sắc riêng và sức sống mãnh liệt.

Truyền thống Văn hóa Đồng Nai cùng một số yếu tố văn hóa "ngoại sinh" do cư dân cổ Đồng Nai tiếp thu đã thành những yếu tố quan trọng để hình thành nền Văn hóa Óc Eo nổi tiếng trong giai đoạn lịch sử kế tiếp – thế kỷ I-VII SCN.

3. Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Đồng Nai - Những tương đồng và khác biệt

3.1 Địa hình phân bố

Xuất phát hai nền văn hóa này đều từ vùng trung du – đồi phù sa cổ của sông Hồng / sông Đồng Nai. Giai đoạn phát triển cuối – sơ kỳ sắt – thì hệ thống di tích lan rộng đến tận ven biển. Nếu Văn hóa Đông Sơn lấy sông Hồng làm tuyến phát triển chính, bên cạnh đó còn có:

Lưu vực sông Mã, sông Cả thì Văn hóa Đồng Nai cũng lấy lưu vực sông Đồng Nai làm tuyến chính, cùng với đó là lưu vực sông Bé và sông Vàm Cỏ.

- Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Đồng Nai đều có thể phân chia thành những "loại hình" theo địa lý:

Đông Sơn núi/ đồng bằng/ven biển; Đồng Nai bazan/phù sa cổ/ngập mặn.

- Văn hóa Đông Sơn phát triển phong phú nhất ở đồng bằng sông Hồng nhưng Văn hóa Đồng Nai phong phú nhất lại là vùng ven biển vì sông Đồng Nai chưa kịp tạo lập được một vùng đồng bằng như sông Hồng.

3.2 Quan hệ giao lưu

Văn hóa Đông Sơn chịu ảnh hưởng và giao lưu phần nhiều theo dòng chảy của sông Hồng từ phía Bắc xuống.

Ảnh hưởng và giao lưu ở Văn hóa Đồng Nai chủ yếu lại từ biển Đông Nam vào.

Đến giai đoạn sơ kỳ sắt yếu tố văn hóa lục địa khá nổi trội trong Văn hóa Đông Sơn (thể hiện qua những bộ sưu tập công cụ - vũ khí đồng/ sắt) còn trong:

Văn hóa Đồng Nai yếu tố văn hóa biển khá rõ ràng (nhất là qua đồ trang sức và đồ gốm của nhóm di tích Giồng Phệt/ Giồng Cá Vồ/ Giồng Lớn/ Gò Ô Chùa).

- Với Văn hóa Sa Huỳnh – trung tâm kim khí ven biển miền Trung:

Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ/ quan hệ khá nhạt với Văn hóa Sa Huỳnh, thấp thoáng vài mộ vò trẻ em.

Một vài đồ trang sức thuỷ tinh, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu.

Mối quan hệ này tìm thấy chủ yếu ở khu vực giáp ranh (Bắc Trung Bộ).

Văn hóa Đồng Nai quan hệ chặt chẽ và nhiều chiều với Văn hóa Sa Huỳnh:

Đồ gốm, trang sức, táng thức mộ chum; khu vực giáp ranh Nam Trung Bộ cũng thể hiện đậm nét (Khánh Hòa).

Tuy nhiên, không khó để nhận ra mối quan hệ này thể hiện một sự "đồng quy văn hóa" – văn hóa Biển thể hiện qua hệ thống các di tích ven biển Đông Nam Á mà W. Solheim đã chỉ ra.

- Táng thức mộ chum/vò (Sa Huỳnh. Đồng Nai) hay táng thức mộ thuyền (Đông Sơn) tuy khác nhau về hình thức nhưng cùng phản ánh một tín ngưỡng về cái chết.

Trong các mộ chum ở Cần Giờ có chôn theo "cà ràng" – loại bếp gốm độc đáo dùng trên ghe, thuyền.

Nắp đậy mộ vò ở hang Manungui đảo Palanwan ở Philippine có núm cầm hình thuyền với 2 người đang chèo, mộ quan tài hình thuyền trong Văn hóa Đông Sơn.. đều thể hiện ý nghĩa:

Quan tài hình thuyền hay mộ chum/vò đều là "phương tiện" chuyên chở người chết qua thế giới bên kia.

Trong ý nghĩa này Văn hóa Đông Sơn và Đồng Nai gần nhau hơn vì cùng là tục "hung táng", còn Văn hóa Sa Huỳnh là mộ "tượng trưng."

3.3 Kỹ thuật

Ở Đông Sơn và Đồng Nai kỹ thuật đúc đồng phát triển đến đỉnh cao:

Nhiều di tích là công xưởng, phổ biến khuôn đúc hai mang, khuôn đúc liên hoàn.. Đặc biệt trống đồng "kiểu" Đông Sơn hiện nay phát hiện trong Văn hóa Đồng Nai.

Trống đồng ở đây được sử dụng trong táng thức "mộ chum gỗ" ở Bưng Sình Phú Chánh:

Một hình thức giống mộ chum gốm nhưng phân bố ở Bình Dương - vùng phù sa cổ giống như khu vực trung du của Văn hóa Đông Sơn.

- Trong các loại vũ khí thì cả Đông Sơn và Đồng Nai đều có "qua đồng" - một loại hiện vật được coi là có nguồn gốc từ phía Bắc.

Tuy nhiên nhìn chung thì "qua" Đông Sơn có kích thước ngắn còn "qua" Đồng Nai khá dài.

- Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Đồng Nai đều không có nhiều đồ sắt, khác Văn hóa Sa Huỳnh đồ sắt khá phổ biến.

Tuy nhiên vắng mặt của đồ sắt trong Đông Sơn và Đồng Nai có nguyên nhân khác nhau có thể xuất phát từ nguồn nguyên liệu.

3.4 Truyền thống

Nền văn minh sông Hồng được định danh "văn minh lúa nước", trở thành truyền thống "bốn ngàn năm."

Văn minh sông Đồng Nai phát triển trên cơ sở kinh tế nông nghiệp nương rẫy và giao lưu "kinh tế biển."

Sau này văn minh Phù Nam xây trên nền tảng nông nghiệp trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long cùng sự phát đạt của cảng thị Óc Eo.

Văn hóa Đông Sơn thành cốt lõi của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc và được "tái hiện" trong văn minh Đại Việt sau 1000 năm "Bắc thuộc."

Văn hóa Đồng Nai là cội nguồn bản địa của Văn hóa Óc Eo.

Khi vương quốc Phù Nam sụp đổ "truyền thống", Óc Eo còn kéo dài thêm nhiều thế kỷ, không thể không có vai trò cội rễ của Văn hóa Đồng Nai.

KẾT LUẬN

1. Những tương đồng và khác biệt của Văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Đồng Nai - hai nền văn hóa – hai trung tâm văn minh lớn chứng minh cho đa dạng của văn hóa tiền – sơ sử Việt Nam.

Sự tương đồng hay khác biệt đều xuất phát từ "thế ứng xử" với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội – trong đó có những mối quan hệ giao lưu nhiều chiều của chủ nhân hai nền văn hóa này.

Nhìn nhận đa dạng của văn hóa (và văn hóa khảo cổ nói riêng) góp phần nhìn nhận lịch sử một cách khách quan, bởi con người là chủ thể của văn hóa mà lịch sử là phần quan trọng nhất của văn hóa.

Khái niệm "Đông Sơn Nam" – sử dụng để chỉ những "hiện tượng Đông Sơn" từ Tây Nguyên trở vào Nam Bộ.

Đặc biệt là trống đồng, cần được hiểu như một hiện tượng giao lưu kỹ thuật – văn hóa, trong đó có thể:

"Xuất/ nhập khẩu" sản phẩm và phổ biến là tiếp thu, tiếp nhận kỹ thuật chế tạo, mỹ thuật trang trí để làm ra những sản phẩm tại chỗ.

Không loại trừ hiện tượng "đồng quy văn hóa" bởi ĐNA thời cổ là một khu vực "thống nhất trong đa dạng."

2. Sự có mặt của những "yếu tố Đông Sơn" trong Văn hóa Đồng Nai có thể từ hai con đường:

1. Theo con đường lục địa từ Bắc Trung Bộ qua Trường Sơn vào đến Nam Tây Nguyên và theo sông Đồng Nai xuống miền hạ lưu Đồng Nai.

Cần lưu ý sông Đồng Nai hoàn toàn chảy trong lãnh thổ Việt Nam ngày nay và là đường giao thông/thương quan trọng nhất của Đông Nam Bộ thời tiền – sơ sử.

Sự có mặt của nhiều trống đồng kiểu Đông Sơn tại Tây Nguyên và Nam Trung Bộ có thể được coi là bằng chứng của con đường giao lưu này.

2. Theo đường biển với những nhóm cư dân – do sức ép di dân từ vùng Hoa Nam xuống đồng bằng sông Hồng, từ đó tiếp tục di cư ra phía biển (mà tộc người Tojarai ở Indonesia là ví dụ).

Tuy nhiên giao lưu đường biển giữa Đông Sơn và Đồng Nai còn cần phải được tìm ra bằng chứng cụ thể dù trên thực tế cư dân hai văn hóa này đã có những quan hệ giao lưu xa hơn bằng đường biển.

3. Yếu tố "biển" trong Văn hóa Đồng Nai khá phổ biến trong hệ thống các di tích thời hậu kỳ kim khí và tái hiện trong Văn hóa Óc Eo.

Trong Văn hóa Đông Sơn yếu tố biến không phải là chủ đạo tuy có loại hình Đông Sơn ven biển.

Tuy nhiên "nguồn gốc biển" lại hiện diện trong nhiều "truyền thuyết" ở khu vực đồng bằng và trung du sông Hồng – mà điển hình là truyền thuyết về Âu Cơ và Lạc Long Quân.

Điều này gợi ý về hướng tiếp cận để "định vị" các truyền thuyết không chỉ từ nghiên cứu "văn bản học" mà còn từ việc tìm kiếm những yếu tố của truyền thuyết đó trong các văn hóa khảo cổ.

Điều này không phải là dùng hiện vật khảo cổ để minh chứng cho một "truyền thuyết" mà ngược lại, nhằm tìm hiểu lý do hay nguyên cớ hình thành và tồn tại của những truyền thuyết, huyền thoại trong buổi đầu hình thành các cộng đồng tộc người.

4. Để bảo vệ sức mạnh và truyền thống của văn hóa dân tộc/quốc gia cần thiết phải "giữ gìn và phát huy bản sắc" đồng thời phát huy được tính đa dạng vốn có của các cộng đồng người, các vùng miền ngay từ thời kỳ tiền – sơ sử "dựng nước."

Đó là những chủ thể sáng tạo ra văn hóa dù cộng đồng là tộc người đa số hay thiểu số, nhờ vậy đến nay xã hội Việt Nam vẫn bảo tồn:

Nhiều giá trị, truyền thống, tập quán văn hóa bản địa, những yếu tố nền tảng định hình nên bản sắc văn hóa Việt Nam.

Nguyễn Thị Hậu

(*) Phó Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử VN

Nguồn: Bài viết cho Hội thảo về 90 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn (1924 - 2014)

18-11-2014 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội. Tác giả gửi cho diễn đàn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Hà Văn Tấn. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Hà Nội, NXB. KHXH, 1994

- Hà Văn Tấn (chủ biên). Khảo cổ học Việt Nam, NXB. KHXH, Hà Nội, Tập 1, 2, 3, 1998, 2001, 2002.

- Nguyễn Thị Hậu – Lê Thanh Hải. Khảo cổ học bình dân Nam Bộ - Việt nam. Từ thực nghiệm đến lý thuyết. NXB. Tổng hợp TPHCM, 2010.

- Nguyễn Thị Hậu. Văn hóa khảo cổ huyện Cần Giờ TP. HCM. NXB. Tổng hợp TPHCM. 2012.

- Phạm Minh Huyền. Văn hóa Đông Sơn – Tính thống nhất và đa dạng. Hà Nội, NXB. KHXH, 1996

- Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. TP. HCM: Khảo cổ học tiền sử và sơ sử TP. Hồ Chí Minh. NXB. Trẻ, 1998.

- Vũ Công Quý: Văn hóa Sa Huỳnh. Hà Nội, NXB. Văn hóa Dân tộc, 1991.

- Tạ Đức: Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc – biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn. Hà Nội, Hội Dân tộc học Việt Nam, 1999.

- Trần Quốc Vượng (chủ biên). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Hà Nội, NXB. Giáo dục, 2000.

- R. Fox: The Tabon Caves. Monography of National Museum, Manila, 1970.

- P. Bellwood: Prehistoric of the Indo – Malaysia Archipelago. Adademic Press, New york, 1985.

Nguồn

Web diendan

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
NỀN VĂN HÓA ÐÔNG SƠN

71147417_1229562147244035_5920750960296067072_n.jpg


Quá trình hình thành lịch sử dân tộc có 3 nền văn hóa khảo cổ là cái nôi văn minh trên lãnh thổ Việt Nam, hình thành "Tam giác văn hóa" :

Văn hóa Đông Sơn (TK. VII TCN – TK. II), Văn hóa Sa Huỳnh (TK. X TCN – cuối TK II), văn hóa Đồng Nai (TK. VI TCN – TK. II).

Ba nền văn hóa trên phát triển nền Văn hóa Đông Sơn dẫn đến hình thành quốc gia Văn Lang rồi Âu Lạc, những nhà nước đầu tiên ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung.

Văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa cổ từng tồn tại ở vài tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung Bộ Việt Nam:

Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nội, Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, trung tâm là khu Đền Hùng và 3 sông lớn và chính của đồng bằng Bắc Bộ (sông Hồng, sông Mã, sông Lam) thời đồ đồng và thời đồ sắt sớm.

Các nhà nghiên cứu Việt Nam đều thống nhất tồn tại từ cuối thời đồ đồng thau đến đầu thời đồ sắt, từ TK. VIII - VII TCN đến TK. I-II SCN.

Nền văn hóa này đặt tên theo địa phương nơi các dấu tích đầu tiên phát hiện, gần sông Mã, Thanh Hóa.

Khoảng 100 di tích thuộc Văn hóa Đông Sơn phát hiện chủ yếu phân bố ở khu Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ theo lưu vực 3 sông Hồng, Mã, Cả (sông Lam).

Nhiều dấu tích đặc trưng cho Văn hóa Đông Sơn tìm thấy ở Vân Nam, Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc, Lào, Thái Lan..

Trên cơ sở Văn hóa Đông Sơn, nhà nước văn minh đầu tiên của người Việt, Văn Lang của Vua Hùng và Âu Lạc của An Dương Vương phát triển, trước khi bị ảnh hưởng văn minh Hán.

Theo đánh giá khoa học, Văn hóa Đông Sơn là phát triển liên tục, kế thừa từ các thời tiền Đông Sơn trước đó là:

Văn hóa Hòa Bình (15.000 năm kéo dài đến 2.000, thuộc thời đá mới)

Văn hóa Phùng Nguyên (cách nay từ 4000 đến 3500 năm TCN)

Văn hóa Đồng Đậu (cách nay khoảng 3000 năm TCN), Văn hóa Gò Mun (từ 1000 năm đến 700 năm TCN).

Văn hóa Đông Sơn là văn hóa bản địa, nền tảng đầu tiên văn hóa Việt Nam.

Nền Văn hóa Đông Sơn giữ vai trò chủ thể của người Việt, tìm hiểu chủ thể Văn hóa Đông Sơn là tìm hiểu chủ thể văn hóa Việt Nam. Sau 1000 năm Bắc thuộc đã phục hưng, phát triển thành nền Văn hóa Đại Việt.

Chủ thể văn hóa Việt ra đời trong phạm vi trung tâm hình thành loài người ở phía Đông và khu hình thành đại chủng phương Nam.

Lịch sử khám phá

Thời gian hình thành nền Văn hóa Đông Sơn là giai đoạn lịch sử khá dài với những công cuộc khảo cổ công phu:

1924, Nguyễn Văn Lắm người Đông Sơn thuộc xã Đông Sơn, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nay là phường Hàm Rồng, TP. Thanh Hóa khi câu cá trong những bãi bờ bị sạt lở, ngẫu nhiên thấy một số đồ đồng làng Đông Sơn (TP. Thanh Hóa) ven hữu ngạn sông Mã, thuộc địa phận Thanh Hóa là điểm đầu tiên phát hiện bộ sưu tập di vật thời đại kim khí ở Việt Nam.

Tiếp đó là những khai quật của thuế quan Pháp yêu khảo cổ là L. Paijot, người đầu tiên khai quật thấy các hiện vật thuộc nền văn hóa lớn mà 1934 được định danh Văn hóa Đông Sơn.

Tên làng nhỏ Đông Sơn thành tên nền văn hóa rực rỡ thuộc thời kim khí. 1934, người đầu tiên nói danh từ "Văn hóa Đông Sơn" để gọi tên nền văn hóa thuộc thời đại kim khí cách đây 2000 – 3000 năm là học giả R. Heine-Geldern. Từ đó Văn hóa Đông Sơn được biết rộng rãi trên thế giới.

Sau 80 năm từ khi khám phá, hơn 200 di tích và hàng vạn di vật Đông Sơn phát hiện và nghiên cứu, lưu giữ tại nhiều bảo tàng lớn thuộc nhiều nước trên thế giới.

Văn hóa Đông Sơn, từ Văn hóa Phùng Nguyên tính đến thời điểm này có thể coi là nền văn hóa đồ đồng xưa nhất so niên đại văn hóa đồ đồng ở các nơi Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Không như nữ học giả Madelène Colani (người đầu tiên dùng danh từ Văn hóa Hòa Bình), Heine-Geldern định nghĩa nền Văn hóa Đông Sơn như là văn hóa du nhập từ văn hóa Hán và xa nữa từ Tây phương, thường gọi nền văn minh Hallstatt truyền qua thảo nguyên Âu-Á đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn.

Những học giả kế tiếp Geldern, nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn cũng nói như Geldern - như V. Goloubew, E. Karlgren và nhất là O. Jansé.

Những học giả viết Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam này đều có những tác phẩm lớn, có ảnh hưởng đến các học giả quốc tế, ảnh hưởng đến học giả Việt Nam.

Bọn họ người nói từ nền văn minh La Tène Châu Âu, người nói từ văn minh Mycenae của Hy Lạp, theo hành trình rất phức tạp qua trung gian các nền văn minh Trung Ấn, Tây Á..

Đến đây chia hai ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, một theo lưu vực sông Hoàng Hà, sinh ra văn hóa đồ đồng đời Thương ở Trung Hoa.

Mọi giả thuyết trên vô tình đẩy các nhà khoa học đi xa trong các lập luận sau này.

Mọi lập luận trên đều được chứng minh là sai lầm, vì Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại sớm hơn Đông Sơn 1000 năm được hé lộ, Văn hóa Đông Sơn là văn hóa bản địa và có kế thừa từ Phùng Nguyên.

Nên các lập luận trên chỉ đứng vững khi chưa phát hiện Văn hóa Phùng Nguyên. Nay việc nhìn lại nguồn gốc các cư dân thuộc Văn hóa Đông Sơn hé mở các khả năng mới:

Người Đông Sơn cách nay trên 3.000 năm là thuộc chủng tộc Mongoloid, về nhân chủng học, họ có vùng cư trú rộng lớn gồm cả miền Nam Trung Quốc - lãnh thổ Nam Việt sau khi Triệu Đà thắng Âu Lạc.

Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hóa phát triển cùng thời ven Biển Đông như Văn hóa Sa Huỳnh (ở Nam Trung Bộ) và Văn hóa Đồng Nai (ở lưu vực sông Đồng Nai).

Qua quá trình khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ học chứng minh Văn hóa Đông Sơn là giai đoạn phát triển đỉnh cao nền văn minh Sông Hồng (từ đầu thiên niên TK. II TCN – cuối TK. II SCN).

Phân giai đoạn có ý kiến khác nhau. Đa số nói trải ba giai đoạn phát triển kế tục nhau:

- Giai đoạn sớm (TK. VIII-VI TCN) là giai đoạn chuyển tiếp từ Văn hóa tiền Đông Sơn lên Đông Sơn. Các di chỉ tập trung ở vùng đồng bằng cao xung quanh Hà Nội.

Qua di vật khảo cổ khẳng định con người xuất hiện ở Việt Nam 30-40 vạn năm trước (Lạng Sơn, Thanh Hóa) thuộc chủng phương Nam (Negrito, Melanesien).

Đến thời đồ đá giữa (10.000 năm TCN) có một dòng người từ Tây Tạng di cư về phía Đông Nam đến Đông Nam Á hợp chủng với dân Melanesien bản địa hình thành chủng Indonesien (cổ Mã Lai).

- Giai đoạn giữa (TK. V – TK. III TCN) là giai đoạn đặc trưng cơ bản phát triển rực rỡ.

Bộ di vật đồ đồng đặc trưng Đông Sơn phong phú về chủng loại và số lượng.

Trống đồng xuất hiện là biểu hiện kỹ thuật đúc đồng đạt đỉnh cao kỹ thuật và mỹ thuật.

Bộ đồ sắt hoàn thiện. Đây là giai đoạn giao lưu mạnh với các khu vực lân cận, tức từ cuối thời đồ đá mới, đầu thời đại đồ đồng (5000 năm TCN) trên địa bàn Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương hợp chủng trên cơ sở tiếp xúc lâu dài hình thành chủng người mới là Austroasiatic (chủng Nam Á) với các nét đặc trưng Mongoloid nổi trội nên được xếp vào Mongoloid phương Nam.

- Giai đoạn muộn (TK. II TCN – TK. I-II SCN). Thời kỳ sau, chủng Austroasiatic chia tách thành một loạt các chủng tộc trong đó có Bách Việt như:

Lạc Việt, Âu Việt, Mân Việt, Nam Việt.. sinh sống khắp khu vực phía Nam sông Dương Tử và Bắc Trung Bộ. Quá trình này chia tách tiếp tục để hình thành các dân tộc như Việt, Mường, Thái.

Trên nền tảng chủng Austroasiatic (gần hơn nữa là Bách Việt) có khác nhau về địa bàn cư trú hình thành giao lưu của người Đông Sơn giữa các nhóm bộ tộc vùng trung du với vùng biển và đồng bằng, tạo những đặc điểm văn hóa nổi bật thể hiện qua di tích:

Mộ thuyền, nhà sàn, đồ gốm, công cụ sắt, đồng, đá.. và truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, Sơn Tinh Thủy Tinh.

Mặc dù có những nét độc đáo riêng song Văn hóa Đông Sơn vẫn mang nhiều điểm đặc trưng văn hóa vùng Đông Nam Á.

Họ có nền văn hóa phát triển với những nhận thức đầu tiên về thế giới, tổ chức cộng đồng, ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội.

Đây là thời ra đời nền văn minh lúa nước và nhà nước phôi thai đầu tiên Việt Nam dưới hình thức cộng đồng làng. Giai đoạn cuối nền Văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vài ba thế kỷ SCN.

Tuy nhiên có ý kiến chia thành 4 giai đoạn ứng với di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn, hoặc 5 giai đoạn (tài liệu của Phạm Minh Huyền), hay 6 giai đoạn phát triển (ý kiến trao đổi của Diệp Đình Hoa) dựa trên các loại hình văn hóa địa phương.

Đây là giai đoạn phát triển rực rỡ thời đồ đồng sang sơ kỳ đồ sắt làm nên sản phẩm trống đồng nổi tiếng.

Những nhà làm sử nay khoanh địa bàn cư trú người Việt cổ nước Văn Lang trong đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nay (Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), chủ yếu tập trung sống dọc châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả.

Các di chỉ khảo cổ ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn cho thấy phát triển cư dân sinh tụ ở đây từ khi định cư.

Đời sau không thấy hết nguồn gốc phát tích và Đất Tổ cố cựu của dân tộc Việt cùng 54 dân tộc khác chung lưng đấu cật suốt chiều dài lịch sử dựng nước và bảo vệ trên 4000 năm văn hiến.

Sử TQ và các tài liệu nghiên cứu, khảo cổ của nhiều nhà bác học Đông Tây trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đều đề cập nguồn gốc dân Lạc Việt trên địa bàn cư trú cổ bị đánh đuổi từ:

Hoa Bắc xuống Hoa Nam nhưng hoàn toàn không bị đồng hóa, không lai Tàu mà ngược lại Tàu lai Việt, theo nghiên cứu của Bình Nguyên Lộc.

Quý Châu, Lưỡng Quảng là địa bàn và có thời gian gần nhất với Văn Lang, Hùng Vương nên dân Đại Việt nhớ, Quang Trung đã tính đòi lại.

Dạ Lang là địa bàn dân tộc Tày nằm giữa Quý Châu, Quảng Tây ngày xưa nên Cao Bằng nay có huyện Hạ Lang giáp giới Quảng Đông do người Tày đặt để nhớ đất cổ của mình sau khi cùng dân Lạc Việt di tản xuống đất mới Cao Bằng.

Tỉnh này có huyện Trùng Khánh do dân tộc thiểu số ở đây nhớ tên nơi ở cũ đặt ra. Mã Viện thắng Hai Bà Trưng ở Mê Linh (40-43 SCN) có lý do khi bắt số lớn quan quân ở đây đưa về Linh Lăng (Quý Châu, Hồ Nam) để an trí.

Thiết nghĩ, các nhà nghiên cứu và làm sử mới, nên tôn trọng tinh thần khoa học để ghi nhận lại nguồn gốc dân tộc, nơi phát tích và quá trình hình thành, phát triển dân tộc Việt Nam suốt lịch sử trên 4000 năm văn hiến, chưa kể hơn ngàn năm thời đồ đá cũ và mới.

Nếu chỉ tính nước Văn Lang với 18 Vua Hùng từ thời điểm 600-700 trước Tây Lịch và sinh tụ trên địa bàn hẹp chỉ gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là chưa đủ, chưa đúng theo thực tế lịch sử.

Tổng quan

Chứng cứ rõ rệt là người hiện đại cổ nhất tìm thấy ở đảo Kalimantan, đảo đó với đất nay là Việt Nam thời đó 39.600 năm về trước là dải đất liền không bị ngăn cách bằng biển.

Những người gần với người hiện đại nhất tìm thấy ở gần biên cương miền Bắc nước Việt nay là làng Mã Bá thuộc Quảng Đông.

Nay mới tìm thấy bằng chứng xưa nhất về các cư dân sinh sống ở vùng Bắc Bộ Việt Nam khoảng 18.000 năm thuộc di chỉ Sơn Vi.

Thực tế Bắc Bộ Việt Nam thuộc Bắc lục địa Đông Nam Á là vùng đất trung gian nối liền hai trung tâm Kalimantan và Mã Bá (Quảng Đông) là những nơi đến nay tìm thấy người hiện đại (homo sapiens) cách nay trên dưới 40.000 năm.

Hội nghị quốc tế họp ở Berkeley bàn nguồn gốc văn minh Trung Hoa 1978, các bản tham luận, sau khi các dữ kiện kiểm chứng, so sánh ý các học giả khác, xuất bản năm 1980[1] .

Lúc này (1980), thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng thấy ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại:

C-14 = 1425 ± 100BC [BLn - 891] so đồ đồng cổ nhất Trung Hoa ở Anyang có niên đại C-14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi) [2] .

Đồ đồng Đông Sơn có kỹ thuật cao nhất vì biết pha chì khiến hợp kim dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có chì) [3] .

Văn hóa Đông Sơn là thời kế thừa các nền Văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4.000 năm, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Gò Mun và có các điểm chính nhấn mạnh:

Văn hóa lúa nước phát triển, thực phẩm dồi dào và có dự trữ dẫn đến phân cấp xã hội người Việt cổ.

Kỹ thuật đúc đồng, đỉnh cao là các trống đồng Đông Sơn.

Kỹ thuật về quân sự, đỉnh cao là thành Cổ Loa (thành, mũi tên đồng và nỏ).

Tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xã thôn tự trị, đỉnh cao là lập nước Văn Lang.

Các loại hình Văn hóa Đông Sơn

Loại hình sông Hồng

Địa bàn chủ yếu miền núi phía Bắc, trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trung tâm là Làng Cả (nay ở TP. Việt Trì). Phong phú, đa dạng, mang nhiều sắc thái địa phương rõ rệt.

Loại hình sông Mã

Địa bàn phân bố chủ yếu thuộc lưu vực sông Mã, sông Chu, ranh giới phía Bắc tiếp giáp địa bàn Văn hóa Đông Sơn loại hình sông Hồng.

Trung tâm là làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Loại hình sông Mã mang đặc trưng Văn hóa Đông Sơn điển hình.

Đặc biệt những đồ đồng thuộc trung tâm Đông Sơn là tiêu chí nhận biết cho đồ đồng thuộc các loại hình địa phương khác hay để phân biệt giữa Đông Sơn với những nền văn hóa kim khí khác.

Loại hình sông Cả

Loại hình này phát hiện lần đầu 1972. Trung tâm là Làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An).

Đặc trưng cơ bản loại hình này là giao lưu mạnh mẽ với Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và Văn hóa Điền (Vân Nam, Trung Quốc), mang những nét đặc trưng riêng biệt, trong tổng thể nhất quán của Văn hóa Đông Sơn.

Luân canh và chăn nuôi trong nông nghiệp

Điều kiện đồng bằng sông Hồng rất thích hợp cho lúa hoang, sau là lúa trồng. Người Việt trong cộng đồng chủng Mongoloid là Tổ tiên của văn minh lúa nước.

Di chỉ khảo cổ cho thấy bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng phong phú, giữa và cuối thời Đông Sơn xuất hiện khá nhiều đồ sắt và đồ đồng chuyển sang các loại vật dụng trang trí và tinh xảo hơn.

Lưỡi cày và di cốt trâu, bò nuôi chứng minh trình độ luân canh định cư của cư dân Đông Sơn dẫn đến lượng thặng dư về thực phẩm, thúc đẩy một bộ phận dân cư chuyển sang làm các ngành nghề như đồ gốm, dệt, đồ trang sức, xây dựng, luyện kim, làm sơn..

Công nghệ luyện kim và hoàn hảo về công nghệ đúc đồng

Thuật luyện kim

Miền Bắc Việt Nam từ nghìn xưa nhiều mỏ kim loại như mỏ vàng, bạc, chì, sắt, đồng.. Các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa.. có hàng chục mỏ đồng.

Những mỏ này thường nhỏ, nông và lộ thiên, thuận tiện cho cách khai thác giản đơn. Đó là điều kiện đầu tiên để có thể phát triển văn hóa đồ đồng rực rỡ.

Văn hóa Đông Sơn giai đoạn cực thịnh thời Hùng Vương thấy thành phần hợp kim đồng, tỉ lệ đồng và thiếc giảm xuống, tỉ lệ chì tăng lên.

Sáng tạo loại hợp kim mới này không phải ngẫu nhiên mà là xuất phát từ những yêu cầu kinh tế và kỹ thuật một thời kỳ lịch sử.

Các giai đoạn trước Đông Sơn, hợp kim đồng chủ yếu chế tạo đồ nghề, đòi hỏi tính năng kỹ thuật sắc bén, bền chắc.

Đến Đông Sơn, đồng chuyển mạnh vào lĩnh vực đồ dùng hằng ngày; các loại thạp, thố, trống đồng đòi hỏi sản xuất nhiều.

Những đồ vật này cần trang trí đẹp, phức tạp, cần hợp kim có tính năng dễ đúc dễ tạo các chi tiết tinh xảo sắc nét trong khi đúc. Người Việt cổ dùng hợp kim đồng - thiếc - chì.

Hợp kim mới với 3 thành phần chính nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, giảm những khó khăn trong nấu và đúc, người Việt cổ bước đầu biết mối quan hệ thành phần và tính chất hợp kim, thuật ngữ khoa học kỹ thuật luyện kim hiện đại gọi là điểm nóng chảy thấp.

Thời Đông Sơn, thành phần các kim loại trong hợp kim đồng - thiếc - chì (hoặc đồng - chì - kẽm) lại thay đổi theo chức năng từng loại đồ nghề, đồ dùng hay vũ khí.

Ví dụ:

Mũi tên đồng ở Cổ Loa:

Đồng: 95%, chì: 3, 4-4, 2%, kẽm: 1-1, 1%.

Tỉ lệ này đảm bảo hợp kim độ cứng lớn nhất để xuyên thủng áo giáp.

Lưỡi giáo Thiệu Dương: Đồng: 73, 3%, thiếc: 13, 21%, chì: 5, 95% để đảm bảo vũ khí vừa dẻo vừa bền.

Rìu xòe cân Thiệu Dương:

Đồng: 82, 2%, thiếc: 10, 92%, chì: 0, 8% và rìu lưỡi xéo Thiệu Dương có thành phần:

Đồng: 82, 2%, thiếc: 6, 8%, chì: 1, 4%.

Nhờ vậy vật liệu có độ cứng nhưng không giòn và có thể chặt, cắt tốt.

Phương pháp chế tác công cụ đồng, ngoài số ít công cụ cỡ nhỏ như lưỡi câu, mũi nhọn.. mang kỹ thuật rèn, hầu hết di vật đồng là sản phẩm đúc.

Nay thấy hơn 30 loại khuôn đúc giáo, dao găm, rìu, mũi dùi, mũi tên.. Những khuôn đúc bằng đất hoặc bằng đá và sa thạch.

Khuôn đúc bằng đất thấy ở Đồng Đậu, Cam Thượng, đất sét làm khuôn phát hiện ở nhiều nơi trong tỉnh Cao Lạng, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hà Nội, Bình Trị Thiên.

Các khuôn đá tìm thấy là khuôn 2 mảnh (ví dụ khuôn đúc rìu), mặt giáp hai mảnh rất nhẵn, kín, úp mặt 2 mảnh rồi soi lên, không thấy ánh sáng lọt qua.

Những khuôn đúc đồng thời đúc nhiều dụng cụ một lúc, khuôn đất đúc 3 mũi dùi, khuôn đá đúc 2 mũi tên cùng lúc ở Đồng Đậu.

Tìm thấy những dao găm có chuôi hình người ở Tràng Kênh Hải Phòng với cán dao trang trí đặc trưng hình người có đầy đủ mũ, áo, quần với trang trí tinh xảo.

Công cụ sản xuất nông nghiệp Đông Sơn có các loại:

Lưỡi cày, thuổng, rìu, cuốc, mai, vời..

Công cụ sản xuất thủ công có các loại đục (đục bẹt, đục vũm, đục một), nạo, dùi, dũa, dao, dao khắc, rìu, kim, dây..

Về kỹ thuật, đặc trưng hợp kim đồng Đông Sơn là hàm lượng chì cao, có khi 20%.

Hợp kim đồng - thiếc - chì là sáng tạo kỹ thuật luyện đồng Đông Sơn. Cuối thời Đông Sơn, công cụ sắt tương đối phổ biến:

Các loại cuốc, mai, búa, đục, dao, giáo, kiếm..

Thành tựu văn hóa - nghệ thuật

Các sinh hoạt văn hóa cư dân Đông Sơn tả khá phong phú trên hoa văn rất sắc nét của trống đồng.

Trang sử chạm khắc trên chất liệu đồng lưu giữ cho người Việt Đông Sơn một trong những chứng cứ về Văn hóa Đông Sơn.

Các yếu tố thuộc Văn hóa ở Đông Sơn không hề có bóng dáng yếu tố bên ngoài.

Bởi thời điểm Văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ nhất và thông qua niên đại xác định bằng C-14, cách nay trên 2.500 năm.

Nghệ thuật Đông Sơn cho thấy cảm nhận tinh tế của cư dân qua khả năng chạm khắc, tạo hình tinh tế và đời sống ca múa nhạc phong phú.

Hình chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn cho thấy những hình người thổi kèn, các vũ công đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công (loài chim đặc sắc phương Nam nhiệt đới).

Nhà sàn cư dân vùng nhiệt đới Đông Nam Á, bộ sưu tập về các loài chim cổ mà nay nhiều trong các số loài đó tuyệt chủng.

Đồ dùng Đông Sơn gồm thạp, có nắp hoặc không nắp, với những đồ án hoa văn trang trí phức tạp, những thổ hình lẵng hoa có chân đế và vành rộng, các loại gùi, vò, ấm, lọ, chậu.

Qua đó làm chứng cứ về xã hội phức tạp trên cơ sở các đại gia đình, các dòng họ trong cộng đồng làng xã định cư ổn định.

Người Đông Sơn trang sức bằng các loại vòng tay, vòng ống ghép, nhãn, hoa tai, móc đai lưng, bao tay, bao chân, ví dụ bao tay và bao chân tìm thấy ở di tích Làng Vạc, Nghệ An.

Nghệ sĩ tạc tượng Đông Sơn tạc nhiều loại tượng người, tượng thú vật như cóc, chim, gà, chó, hổ, voi..

Nhạc sĩ Đông Sơn diễn tấu các loại chuông nhạc, lục lạc, khèn, trống đồng.

Số lượng trống đồng Đông Sơn tìm đến nay ở Việt Nam khoảng 140, chiếm già nửa số lượng trống loại này hiện biết ở Đông Nam Á.

Tín ngưỡng - tập tục

Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người.

Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên nảy sinh tín ngưỡng phồn thực.

Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu hiện:

Thờ sinh thực khí nam và nữ, thờ hành vi giao phối.

Người Việt tôn sùng cây cối, các loại cây lương thực chính. Các sản phẩm làm từ gạo nếp, gạo tẻ có lịch sử hàng nghìn năm và còn lưu truyền đến nay.

Các loại bánh trái đặc trưng của người Việt đi vào huyền thoại bằng văn hóa truyền khẩu[4] .

Tín ngưỡng người Việt, việc sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng Tổ tiên, gần như thành tôn giáo người Việt, nay vẫn còn như thứ tín ngưỡng từ Bắc vào Nam.

Tập tục ăn trầu là đặc trưng chính của người Việt cổ, thể hiện qua Sự tích trầu cau.

Người Việt cổ biết dùng hóa chất và các loại nhựa, sơn cây nhuộm răng đen, mãi đến giữa TK. 20 vẫn còn khá phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam[5] .

Ở đây nhắc đến vài nét chính nghệ thuật chôn người chết mà các nhà khảo cổ học tìm thấy hầu như rải rác trên toàn bộ Bắc Bộ kéo dài đến miền Trung Việt Nam - mộ thuyền là cách chôn cất khá độc đáo của người Việt cổ thuộc Văn hóa Đông Sơn.

2004, các nhà khảo cổ học tìm thấy thêm mộ bên triền sông Cửu An, thuộc thôn Động Xá, xã Lương Bằng, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Đây là mộ có quan tài hình thuyền như những phát hiện trước đó, thực sự là thuyền độc mộc chở người Đông Sơn vào giấc ngủ vĩnh hằng từ 2.500 năm trước.

Nắp quan tài bật mở, thấy tất cả bùn đất tích tụ từ thiên niên kỷ I TCN phủ kín hiện vật.

Lớp bùn được gạt ra, nhóm khai quật nhìn thấy người chết đặt nằm ngửa, thân bó vải, hai tay để xuôi, chân duỗi thẳng. Một số hiện vật đi kèm là đồ gốm, hạt thực vật.

So các mộ thuyền Đông Sơn phát hiện từ những năm 1960, 1970 tại Châu Can Hà Tây, Việt Khê Hải Phòng, La Đôi Hải Dương.. đây là mộ duy nhất nguyên vẹn xương cốt với quần áo hoàn chỉnh.

Phát hiện này khiến các chuyên gia Viện Khảo cổ và Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á phấn khởi.

Bởi tìm hiểu về nguồn gốc cư dân, cốt sọ giữ vai trò quan trọng nhất, giúp các nhà khảo cổ làm sáng tỏ những người sáng tạo Văn hóa Đông Sơn.

Kỹ thuật quân sự-nghệ thuật chiến tranh

Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng loại hình, độc đáo hình dáng, phong phú số lượng, gắn liền các thần thoại và truyền thuyết về truyền thống chống giặc ngoại xâm, giữ nước của dân tộc Việt, như chuyện nỏ thần An Dương Vương bắn mỗi phát hàng loạt tên đồng làm Triệu Đà phải khiếp vía kinh hồn.

Những khai quật ở thành Cổ Loa (huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) phát hiện kho chứa hàng vạn mũi tên đồng.

Mũi tên Cổ Loa có các loại hình cánh én, hình lao có họng hay có chuôi, loại 3 cánh có chuôi dài.

Ngoài ra còn có giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, rìu chiến.. Rìu chiến gần 10 loại:

Các loại rìu xéo (hình dao xéo, hình thuyền, hình hia, hình bàn chân), rìu lưỡi xoè cân, rìu hình chữ nhật, rìu hình dao phạng.

Dao găm có các loại lưỡi hình lá tre đốc củ hành, đốc bầu dục hay có chuôi là tượng hình người, có loại dao găm lưỡi hình tam giác, cán dẹt hay tròn.

Khải giáp gồm có các tấm che ngực có hình vuông hay hình chữ nhật, áo giáp gồm các vảy đồng buộc lại với nhau, có hoa văn trang trí đúc nổi. Hà Nam Ninh còn tìm thấy cả giáp che ngực và mũ chiến bằng đồng.

Một kỹ thuật đặc biệt cần nhắc đến cho vũ khí Đông Sơn là vừa qua các nhà khảo cổ học Việt Nam khám phá kho mũi tên đồng Cổ Loa có hàng vạn chiếc ở khu vực thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội).

Mũi tên đồng Âu Lạc cấu tạo độc đáo ba cạnh. Xét xuyên thủng không phải là yếu tố chính. Nhưng giải phẫu, mũi tên ba cạnh (quả khế), vết thương rất trầm trọng, không dám rút tên, bởi gây mất máu, chết rất nhanh.

Thành quách

Thời kỳ này xuất hiện di tích thành lũy Cổ Loa và các kho vũ khí, mộ thuyền phát triển, trống đồng phát hiện nhiều.

Xuất hiện các hiện vật văn hóa Hán ở lớp trên Văn hóa Đông Sơn và trong các mộ Đông Sơn muộn (tài liệu của Trình Năng Chung và các tài liệu khác).

Địa điểm Cổ Loa là Phong Khê, lúc đó là đồng bằng trù phú có xóm làng, dân đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp.

Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng.

Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng đường thủy.

Trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư đông đúc hơn.

Các địa điểm gồm những làng xóm (tên cổ là chạ, kẻ), có ruộng vườn để trồng lúa nước và nhiều loại rau quả, có cả khu mộ địa (mộ huyệt đất, mộ vò, mộ thuyền làm bằng quan tài thân cây khoét rỗng).

Trung tâm quyền lực các cư dân Việt ở trung tâm đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn.

Chú thích

1. David N. Keightly, "The Origins of Chinese Civilization", University of California Press, Berkeley, Los Angeles: 1983.

2. Li Chi, "The Beginnings of Chinese Civilization", Seattle: 1957.

3. I. R. Solin Khanov, 1979: 37. Theo Trịnh Sinh, "Những hiện vật đồng đỏ trong văn hóa Đông Sơn", Khảo cổ học số 1/1992.

"Nhận dạng trống giả cổ", Khảo cổ học, số 4/1997. Đọc thêm "The Cradle of the East" của Ping-Ting- Ho..

Phần Appendix I "," Excavation at Non Nok Tha, Northeastern Thailand, 1968 ", Interim Report, Asia Perapective XIII (1970), p. 139;" Early Bronze in Northern Thailand ", 1968 của W. G. Solheim II. ;" Further Evidence to Support the Hypothesis of Indigenous Origins of Metallurgy in Ancient China "do Noel Barnard đọc trong Hội nghị Berkeley 1978 và in trong The Origins of Chinese Civilization - University of California Press, 1980.

4. Sự tích Bánh chưng, bánh dày thời Hồng Bàng.

5. Quang Trung có câu nói nổi tiếng khi tiến quân giải phóng Thăng Long:

Đánh cho để răng đen - một ý chí bảo tồn văn hóa Việt.

Tham khảo

Minh Hiên, Di sản Văn hóa Đông Sơn mới tìm được, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (số 34, tháng 10-1973).

Vũ Thế Long và Trịnh Cao Tưởng, Tìm hiểu những di tích động vật và thực vật thuộc thời kỳ Hùng Vương dựng nước. (6-1976)

Vũ Thế Long, Hình và tượng động vật trên trống và các đồ đồng Đông Sơn, tạp chí Khảo cổ học, số 14 (1974).

Nguyễn Đổng Chi, Lược khảo về thần thoại Việt Nam, NXB. Văn Sử Địa (1957)

Theo Văn hiến thông khảo, Mã Đoan Lâm

Theo sự nghiên cứu của nhà sử học, Trần Quốc Vượng

Trần Quốc Vượng, Trên mảnh đất Cổ Loa lịch sử, Sở VHTT Hà Nội xb, (1970).

Tư Mã Thiên, Sử ký

Hà Văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ, NXB. KHXH, Hà Nội (1998)

Hà Văn Tấn, Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, NXB. KHXH, Hà Nội (1994)

Nguồn

Wikipedia

Sức sống mãnh liệt Văn hóa Đông Sơn

(ĐCSVN) - Từ 18-11 đến 4-2015, triển lãm chuyên đề" Văn hóa Đông Sơn "tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Hà Nội), giới thiệu nhiều Bảo vật Quốc gia đặc sắc, thể hiện quốc hồn dân tộc Việt Nam.

Triển lãm chia 8 nhóm hiện vật:

Bộ sưu tập trống đồng Đông Sơn.

Bộ sưu tập công cụ lao động.

Bộ sưu tập đồ dùng sinh hoạt.

Sưu tập vũ khí.

Bộ sưu tập nhạc khí.

Sưu tập trang sức nghệ thuật.

Sưu tập đồ minh khí.

Sưu tập hiện vật giao lưu văn hóa.

Các hiện vật trưng bày tại đây phản ánh nền Văn hóa Đông Sơn đặc sắc, phản ánh cơ sở cho hình thành nhà nước Văn Lang, tiến tới đặt nền móng văn minh Đại Việt rực rỡ sau này.

Hoạt động do Bảo tàng Lịch sử Quốc gia chủ trì, phối hợp Bảo tàng Hà Nội, Hưng Yên, Lào Cai, Yên Bái tổ chức.

Trống đồng phát hiện tại làng Hoàng Hạ, Phú Xuyên (Hà Nội). Trống Đồng phát hiện tại Nông Cống, Thanh Hóa. Lưỡi cày minh khí đồng, khai quật tại Đông Sơn và Thiệu Dương, Thanh Hóa.

Rìu đồng sưu tầm tại Hà Đông, Hà Nội.

Thạp đồng phát hiện tai Trấn Yên, Yên Bái. Ấm đồng, khai quật tại Đông Sơn, Thanh Hóa.

Tượng người cõng nhau thổi khèn khai quật tại Đông Sơn, Thanh Hóa. Dao găm có cán trang trí hình người bằng đồng. Chuông đồng. Thố dính giáo bằng đồng. Sưu tầm tại Thanh Hóa.

Phát hiện trong mộ thuyền Việt Khê, Hải Phòng. Đồ minh khí bằng đồng.

Những hiện vật đặc sắc góp phần tạo diện mạo rực rỡ Văn hóa Đông Sơn trong tiến trình phát triển của lịch sử.

Nguồn

Web dangcongsan

Phát hiện nhóm di vật thuộc Văn hóa Đông Sơn ở xã Đông An, Văn Yên

10-2014, anh Nông Văn Tính, cư dân xã Đông An (huyện Văn Yên) khi đánh cá trên sông Hồng phát hiện một nhóm di vật cổ ở bờ phải sông, nơi có cửa ngòi Hút chảy ra.

Đây là địa phận thôn Toàn Thắng, xã Đông An. Nhóm di vật gồm các loại công cụ lao động, đồ dùng gia đình. Chất liệu có đồng, đá, gỗ, gốm, đất nung:

Đồ đồng có 3 di vật:

1 cuốc, 1 cào (), 1 rìu.

Cuốc dạng hình tim, vỡ mất một bên thân, họng tra cán dọc, dài 16, 8cm, rộng còn lại 11cm, dày ở họng 2, 8cm, mỏng dần về lưỡi.

Cào có thân xòe cân, lưỡi cong lồi, lỗ tra cán ngang có hình chữ nhật, lưỡi rộng 14cm, cào mỏng chỉ dày vài ly.

Rìu thuộc loại lưỡi xéo, mũi chúc (hình bàn chân), lưỡi dài 8, 2cm, cao họng 6, 7cm. Những đồ đồng này đều gỉ nặng và không còn nguyên vẹn.

Đồ đá 3 rìu, 1 bàn mài, 1 mảnh vòng. 3 rìu có 1 chiếc tứ giác, 1 rìu vai ngang, 1 rìu vai xuôi, đều nhỏ, mảnh vòng màu xanh, chỉ còn khoảng 1/3 vòng, hình vành khuyên, mặt cắt hình tam giác.

Bàn mài có hình dáng không định hình, dài 14cm, xung quanh có dấu vết mài (tất cả 6 điểm mài).

Đất nung:

1 chì lưới, dài 3, 0cm, mặt cắt tròn, đường kính 4, 0cm, có lỗ xuyên dọc qua giữa thân.

Đồ gốm không có gì nguyên vẹn, chỉ 9 mảnh, trong đó 3 mảnh miệng, 6 mảnh thân của 2 nồi khác nhau, có dấu vết đun bám bồ hóng đen.

Gốm thuộc dạng miệng khum, dày thô (dày 0, 7 – 0, 95cm), màu vàng, xương đen, chất liệu là đất sét pha sạn sỏi. 1 mảnh miệng có hoa văn khắc vạch xen đường tròn, độ nung thấp.

Gỗ 1 mảnh, dài 6, 0cm, rất nhẹ, ngoài bám xỉ đồng (do gỉ các vật đồng dính vào).

Tổng thể, bộ di vật này thuộc Văn hóa Đông Sơn, cách nay trên 2.000 năm, tức thời các Vua Hùng. Sông Hồng là thung lũng cư trú cư dân nhiều thời đại, thời Đông Sơn khá đậm đặc.

Ở đây phát hiện nhiều bộ di vật Đông Sơn, trong đó có những di vật quý như thạp đồng, trống đồng.

Hiện bộ di vật được người phát hiện giao Bảo tàng tỉnh lưu giữ lâu dài, phục vụ nghiên cứu, tham quan, giáo dục truyền thống.

Nguyễn Văn Quang – Lý Kim Khoa

Nguồn

Web baoyenbai

Trống đồng: Viên tướng nhà Hán và nhà khảo cổ học Nga

Trước thời" Bắc thuộc ", trống đồng ở Việt Nam do những nghệ nhân thủ công cổ đại làm ra còn lưu giữ lại ít ỏi, và thời nhà Hán xâm lược Giao Chỉ, lượng trống đồng càng mai một.

Tận thu và phá hoại trống đồng bắt đầu từ thời tướng Mã Viện. Đàn áp khởi nghĩa yêu nước do Hai Bà Trưng lãnh đạo, Mã Viện thu gom nhiều trống đồng, nấu chảy chúng để đúc ngựa và dâng cho vua Hán.

Những trống đồng đầu tiên mà thế giới biết đến được phát hiện trong quá trình xây dựng ở Việt Nam cuối thế kỷ 19. Các nhà khoa học thời đó gọi là" trống cầu mưa ", bởi trên thân trống có chạm trổ hoa văn hình những con ếch.

Các chuyên gia không dành mối quan tâm đặc biệt cho chúng và đánh giá những trống này như là tác phẩm độc đáo của nghệ nhân vô danh không rõ thuộc thời nào và khu vực nào.

Người mang lại cuộc sống thứ hai cho trống đồng Việt Nam và vinh danh chúng là nhà khảo cổ học người Nga Viktor Golubev.

Viktor Golubev sinh 1878, học tập tại Đại học St Petersburg. Năm 1904, ông chuyển đến Pháp, trải qua nhiều thám hiểm khảo cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập, Ấn Độ, Tích Lan, Indonesia.

1914, khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ, Viktor Golubev được bổ nhiệm làm đại diện của Hội Chữ thập đỏ Nga tại chính phủ Pháp.

Suốt cuộc chiến, ông đứng ở phía mặt trận Pháp-Đức, dẫn đầu đoàn xe Y tế do nước Nga tặng cho đồng minh Pháp. Ông được tặng thưởng Huân chương chiến đấu, nhiều lần bay trên máy bay trinh sát để chụp ảnh khảo sát tiền tuyến mặt trận từ trên không. Kinh nghiệm này rất hữu ích cho ông sau này ở Việt Nam.

Kết thúc Chiến tranh Thế giới II, Golubev không thể về đất nước quê hương, nơi xảy ra Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa, ông bắt đầu làm việc ở Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, và năm 1920 ông đến Việt Nam, ở đây 16 năm.

1925, ông thấy trong chợ ở Thanh Hóa đồ đồng có nguồn gốc rất cổ xưa và được hoàn thiện bởi bàn tay nghệ nhân khéo léo.

Ông trò chuyện với người bán và biết cổ vật này được tìm thấy - và không chỉ có một chiếc từ làng Đông Sơn. Ông đề nghị Ban Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp tiến hành khảo cổ học nghiêm túc tại đây.

Uy tín của nhà khoa học Nga cao đến mức công việc bắt đầu ngay lập tức. Hàng chục trống đồng lớn tìm thấy. Phân tích thành phần hóa học của chúng chứng tỏ là thứ đồng không điển hình đối với đồng Trung Quốc chứa hàm lượng thiếc cao.

Golubev là người đầu tiên lập dữ liệu thống kê từ các khai quật ở Đông Sơn với hình trang trí bí ẩn trên" trống cầu mưa "được lưu tại Bảo tàng Paris của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp.

Ông tìm thấy nhiều đặc điểm tương ứng của hoa văn chạm trổ trên trống đồng và do đó thiết lập nguồn gốc trống đồng Đông Sơn, loại cổ vật thành biểu tượng của Việt Nam trong lịch sử cổ đại.

Thành Cổ Loa, Chùa Một Cột, Văn Miếu - tất cả chỉ là sau đó. Còn hàng ngàn năm trước, là trống đồng. Nghiên cứu các hình chạm trổ trên trống đồng Đông Sơn, nhà khoa học Nga kết luận:

" Chức năng gọi mưa của chúng không phải điều chính. Những hình hoa văn miêu tả và bố cục tác phẩm phản ánh nghi lễ ma thuật và hoạt động tôn giáo, bản chất trong số đó là để thờ linh hồn Tổ tiên và vật tế thần (hình chim Lạc). Còn tiếng trống chính là để gọi những linh hồn này. "

Viktor Golubev chính là tác giả của thuật ngữ" Nền Văn hóa cổ Đông Sơn ", với biểu tượng là trống đồng. Năm 1930, ông công bố bản báo cáo khoa học chứng minh sự tồn tại của nền Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam.

Nhà khoa học xác định được thời điểm khởi đầu của nó - khoảng 3000 năm trước đây, khu vực chính phổ biến của nó - trong các vùng lưu vực của sông Hồng và sông Mã.

Viktor Golubev tiếp tục theo dõi cả hướng ảnh hưởng của nó đối với các vùng đất xung quanh, không chỉ ở Hàn Quốc mà còn ở Nhật Bản, Indonesia, các hòn đảo Châu Đại Dương.

Ông Golubev liên tục nhấn mạnh nguồn gốc địa phương của nền Văn hóa Đông Sơn. Ông mạnh mẽ bác bỏ quan điểm đang thịnh hành trong giới khoa học thời đó rằng các sản phẩm kim loại này chỉ xuất hiện tại Việt Nam sau cuộc chinh phục của nhà Hán, xảy ra đồng thời ở đó cùng với nhiều thuộc tính khác của nền văn minh Trung Hoa.

Thế giới khoa học, phát hiện của Victor Golubev đã nhận đánh giá cao nhất. Nó được gọi là" điểm bước ngoặt trong nghiên cứu khảo cổ học và dân tộc học, không chỉ ở Đông Dương mà còn cả ở Indonesia và Châu Đại Dương."

Nhiều kết quả khai quật được tiến hành bởi các nhà khảo cổ Việt Nam trong thập kỷ tiếp theo đã khẳng định đúng đắn của những quy tắc chính yếu trong thuyết Văn hóa Đông Sơn, người đặt nền móng đầu tiên là nhà khoa học Nga Viktor Golubev, người sống và làm việc tại Việt Nam từ năm 1920.

Nguồn

Web vn. Sputniknews

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71828003_1235944366605813_1374008347782545408_n.jpg


Văn Hóa Đông Sơn, 1 trong 3 nôi nảy sinh Văn hóa Việt

Ranh giới nước Việt tới thời Lý Thánh Tông phía Bắc là Trung Hoa, phía Nam là Đèo Ngang. Văn hóa nước Việt này là Văn hóa Đông Sơn.

Văn hóa Đông Sơn là văn hóa cổ nổi bật ở một số tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và 3 sông chính sông Hồng, sông Mã và sông Lam.

Văn hóa Đông Sơn nổi danh vì thời kỳ đồ đồng của nó, và sản phẩm trống đồng.

80 năm sau khi khám phá một số hiện vật đồ đồng 1924, có hơn 200 di tích và hàng vạn di vật Đông Sơn phát hiện và nghiên cứu.

Dựa những nghiên cứu, đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng tìm thấy ở Tràng Kênh có niên đại C14 = 1425 ± 100BC).

Theo nhân chủng học người làng Đông Sơn cách nay trên 2.000 năm là thuộc chủng tộc gọi Mongoloid. Chủng tộc này cư trú lãnh thổ Nam Việt sau khi Triệu Đà thắng Âu Lạc.

Tổng thể nhất quán Văn hóa Đông Sơn bao quát 3 vùng:

Vùng sông Hồng với trung tâm là Làng Cả (nay TP. Việt Trì), vùng sông Mã, sông Chu, với trung tâm là làng Đông Sơn và vùng sông Cả với trung tâm là Làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An).

3 vùng này, vùng sông Mã, sông Chu mang đặc trưng Văn hóa Đông Sơn điển hình, vì những đồ đồng thuộc vùng này là tiêu chí nhận biết cho đồ đồng thuộc các vùng sông Hồng và vùng sông Cả.

Chẳng hạn trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ. Số lượng trống đồng Đông Sơn tìm được đến nay ở nước ta khoảng 140.

Phần lớn những nơi phát hiện có trống đồng phân bố dọc triền những sông lớn đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

Kỹ thuật đúc trống đồng

Trống cỡ lớn có đường kính mặt trống xấp xỉ 90m, cao trên dưới 60cm, nặng gần 100kg.

Hình thể phức tạp:

Tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra hình phễu. Đúc không đơn giản.

Trống đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt còn để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc.

Đúc thành công như vậy, người nghệ nhân phải đạt hàng loạt yêu cầu về kỹ thuật như phải có nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, tìm vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc, nắm vững tính năng vật lý hóa chất mỗi kim loại trong hợp kim đồng, phải có kỹ thuật đúc thành thạo.

Quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ, kết luận xã hội Lạc Việt có những thợ đúc lành nghề.

Nghệ thuật tạo hình

Kỹ thuật khắc chạm trống đồng tạo những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt trống, trên thân trống là hình khắc hơi nổi.

Nghệ nhân xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên mặt trống và ô chữ nhật trên thân trống, hình ảnh sắp xếp rất cân đối. Hình ảnh con người luôn diễn tả theo tư thế động:

Múa, giã gạo, đánh trống, bơi chải..

Về bố cục, tất cả người, động vật đều diễn hành quanh ngôi sao giữa mặt trống. Phần tạo hình hơi giống tạo hình Ai Cập. Ví dụ:

Tốp người múa trên mặt trống có ngực hướng thẳng về phía khán giả, chân và đầu theo lối nhìn nghiêng. Hình chim bay thì thân cánh và đuôi tả theo hình nhìn từ trên xuống, đầu nhìn nghiêng.

Mặt trống sông Đà khắc số lượng chim trên các vành chim bay (chim vật Tổ của Lạc Việt) thấy phần lớn mỗi vành đều có 18 chim.

Có thể nghĩ số 18 đời Hùng Vương là 18 dòng họ đầu tiên, kết hợp nhau trong liên minh bộ lạc Văn Lang. Và sau này chuyển tiếp cho Âu Lạc của An Dương Vương vào cuối Đông Sơn (các chứng cứ khám phá dần).

2. Trống đồng biểu lộ Văn hóa Đông Sơn thế nào?

Dựa những hình khắc trên trống đồng thấy các sinh hoạt văn hóa cư dân Đông Sơn tả khá phong phú trên các hoa văn rất sắc nét trống đồng. Một số sinh hoạt thuộc Văn hóa Đông Sơn:

Kiến trúc nhà sàn

Loại hình kiến trúc chủ yếu của Lạc Việt.

Nhà hai cột chống phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa. Nhà có kê thang để lên sàn. Nhà có hai loại hình là nhà sàn mái tròn và nhà sàn mái cong.

Nhà mái tròn thường có một người (hoặc không có người) đứng giữa cửa, hai bên cửa có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan tín ngưỡng, tạm gọi "nhà thờ."

Những nhà có mái cong như hình thuyền. Hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Nhiều người cho là "nhà ở."

Tượng trang trí

Tượng hình chó trên mặt trống nhỏ Đông Sơn, tượng cóc trên mặt các trống nhóm C. Hình tượng rất sơ lược.

Trang phục

Quần áo tả trên trống:

Áo hai vạt ngắn, áo hai vạt dài, váy, khố.. nhiều loại mũ, nhiều kiểu tóc khác nhau được tết.

Vũ nghệ

Trên trống đồng, những người múa thường phục trang bằng những bộ quần áo:

Mũ lông chim cao hoặc mặt nạ, đôi khi cầm vũ khí. Mỗi tốp người múa thường từ 3, 4 hoặc 6 đến 7 người. Tốp này có người thổi khèn, những người còn lại biểu hiện theo động tác thống nhất, chuyển động từ trái sang phải, người sau nối tiếp người trước một quãng đều đặn, tất cả điều hành vòng quanh ngôi sao (mặt trời)

Âm nhạc

Theo hình khắc trên trống đồng thấy có hai loại nhạc khí dùng là khèn và trống.

Hai cách dùng trống:

Trống một người biểu diễn như hình người cầm trống trong nhà hay trên thuyền để giữ nhịp. Trống diễn tấu trong giàn trống.

Người đánh trống ngồi hoặc đứng trên sàn, cầm gậy dài đánh theo chiều đứng.

Kiểu đánh này vẫn thấy hiện nay ở những ngày hội đồng bào Mường Hòa Bình. Trống đặt trên những giá sát đất.

Xã hội nông nghiệp Lạc Việt

Những lưỡi cày đồng và những hình bò khắc trên thân trống chứng tỏ thời này nền văn minh nông nghiệp phát triển vì biết dùng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp.

Lưỡi cày đồng

Kỹ thuật quân sự

Các nhóm thuyền khắc trên trống thể hiện phát triển về kỹ thuật quân sự thời này. 436 người được khắc trên các trống có 175 người cầm vũ khí (40, 1%). Các loại vũ khí:

Giáo, rìu, cung, dao găm và mộc.

Tín ngưỡng

- Hình ngôi sao ở trung tâm mặt trống là biểu tượng của tục thờ mặt trời.

- Những người hóa trang lông chim trên trống đồng thể hiện vật Tổ của cư dân bấy giờ là loài chim.

- Từ những cảnh sinh hoạt trên trống đồng, nhiều nhà nghiên cứu cho là lễ chiêu hồn, đám tang hoặc lễ cầu mùa.

3. Trống đồng Đông Sơn dùng những trường hợp nào?

Nghệ thuật Đông Sơn cho thấy khả năng chạm khắc của dân thời đó và đời sống ca múa nhạc phong phú. Các nhà khảo cổ nhận định chức năng chủ yếu là nhạc khí.

Đánh vành 1-3 được nốt Si giáng; ở vành 4-5 được nốt Mi và Fa; vành 7 nốt Si giáng. Từ vành 9 trở ra lại trở lại nốt Mi (theo kết quả ghi âm của Cao Xuân Hạo).

Trống diễn tấu với giàn nhạc trong Hậu Lê, ghi ở sách "Cương Mục."

Trống thành vật chôn theo người chết như ở khu mộ táng Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Sau cùng trống đồng còn tượng trưng cho quyền lực các thủ lĩnh xưa.

Các vua thưởng cho các tù trưởng người dân tộc những trống đồng, thể hiện uy quyền nhà nước với các vùng tự trị, tự do tương đối.

Theo Hậu Hán thư (後漢書 - chính sử của Trung Quốc), Mã Viện dập tắt nổi dậy Hai Bà Trưng, thu và nấu chảy trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, cho thấy ý nghĩa chính trị trống đồng Đông Sơn. Ngoài trống đồng, các nhà khảo cổ còn phát hiện những hiện vật gì?

Đồ dùng Đông Sơn

- Các loại gùi, vò, ấm, lọ, chậu, các thổ hình lẵng hoa có chân đế và vành rộng và các loại thạp có nắp hay không nắp, những đồ án hoa văn trang trí phức tạp.

Các loại đồ dùng nêu trên là những chứng cứ về xã hội phức tạp định cư ổn định.

Đồ trang sức Đông Sơn

Các loại vòng tay, vòng ống ghép, nhãn, hoa tai, móc đai lưng, bao tay, bao chân, ví dụ như bao tay và bao chân tìm thấy ở di tích Làng Vạc, Nghệ An.

Tượng đồng:

Nhiều loại tượng người, tượng thú vật như cóc, chim, gà, chó, hổ, voi..

Nhận định của các nhà khảo cổ liên hệ đến trống đồng và các hiện vật nêu trên

Từ những trống đồng và những hiện vật phát hiện được ở Đông Sơn, các nhà khảo cổ nhận định:

Nền Văn hóa Đông Sơn phát triển liên tục và kế thừa từ Văn hóa Phùng Nguyên, cư dân Đông Sơn phát minh luyện kim, đúc đồng, phát hiện những khuôn đúc đồng và xỉ đồng rồi tiến lên nghề luyện sắt.

Với kỹ thuật luyện đồng, cư dân Đông Sơn tạo bước ngoặc, loại trừ hẳn đồ đá. Một số di tích thời Hùng Vương như Tiên Hội, Đường Mây, Gò Chiền Vậy, Đồng Mõm, Vinh Quang tìm thấy các di vật bằng sắt.

Miền Bắc Việt Nam từ nghìn xưa vốn có nhiều mỏ kim loại như các mỏ vàng, bạc, đồng, chì, sắt. Các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa có hàng chục mỏ đồng.

Những mỏ này thường nhỏ, nông và lộ thiên, thuận tiện cho cách khai thác giản đơn. Đó là điều kiện đầu tiên để phát triển văn hóa đồ đồng rực rỡ.

Bước đầu hợp kim đồng chủ yếu dùng tạo các đồ nghề, đòi hỏi tính năng kỹ thuật sắc bén, bền chắc. Sau đó hợp kim đồng chuyển mạnh vào lĩnh vực đồ dùng hằng ngày:

Các loại thạp, thố, trống đồng đòi hỏi sản xuất nhiều. Những đồ vật này cần trang trí đẹp, phức tạp và như vậy cần hợp kim có tính năng dễ đúc để dễ tạo các chi tiết tinh xảo sắc nét khi đúc. Vì vậy cư dân Đông Sơn sử dụng hợp kim đồng - thiếc - chì.

1. Công nghệ luyện kim và đúc đồng tiến trình:

Thời Hùng Vương, trong thành phần hợp kim đồng, tỷ lệ đồng và thiếc giảm xuống và tỷ lệ chì tăng lên.

Mặt khác, hợp kim mới với 3 thành phần chính có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, do đó giảm bớt những khó khăn trong việc nấu và đúc, và như vậy, cư dân Đông Sơn lúc đó biết đến điểm nóng chảy thấp.

Điều nữa, ở giai đoạn Đông Sơn, thành phần các kim loại trong hợp kim đồng - thiếc - chì (hoặc đồng - chì - kẽm) lại thay đổi theo chức năng của từng loại đồ nghề, đồ dùng hay vũ khí.

2. Công nghệ đồ gốm:

Ngoài công nghệ luyện kim và đúc đồng, cư dân Đông Sơn còn công nghệ đồ gốm:

Dựa các loại gùi, vò, ấm, lọ, chậu phát giác được, các nhà khảo cổ công nhận:

Nghề làm đồ gốm cư dân Đông Sơn phát triển. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến.

Thợ gốm biết dùng phương pháp tạo hình bằng cách đổ khuôn và nung trong lò kín chuyên dụng.

Chất lượng gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Trình độ tạo hình cũng ngày càng cao hơn.

Các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, song song chạy quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng.

3. Nông nghiệp

Nhờ phát hiện các loại lưỡi cày và nhiều di vật Văn hóa Đông Sơn có xương trâu, bò, các nhà khảo cổ làm bộ sưu tập các lưỡi cày bằng đồng, đồng thời nhận định:

Bò sống trên đồng cạn còn trâu chuyên sống trong vùng đồng lầy, lưỡi cày là dụng cụ dành cho ruộng đồng lầy.

Nông nghiệp cư dân Đông Sơn thời Hùng Vương vừa trên đất cạn vừa dưới đồng sâu. Dưới đồng sâu tất nhiên cư dân Đông Sơn sống bằng nghề trồng lúa nước với con trâu và lưỡi cày.

Họ chăn nuôi trâu, bò để lấy sức kéo và phân bón nhằm phục vụ cho nông nghiệp.

4. Xã hội phức tạp - phân hóa giàu nghèo

Từ phân tích các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã hội bấy giờ có hiện tượng phân hóa thành các tầng lớp giàu, nghèo khác nhau.

Trong 12 mộ khai quật ở Lũng Hòa, Vĩnh Phúc có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có tới 20 hiện vật và 24 hiện vật, phổ biến là số mộ còn lại đều có từ 3 đến 13 hiện vật.

Đồ tuỳ táng giống nhau gồm gốm công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm..

5. Văn Lang và Âu Lạc thuộc Văn hóa Đông Sơn thời kỳ công nghệ luyện hợp kim đồng phát triển.

Các nhà khảo cổ phát hiện lưỡi cày và các di tích trâu bò của nghề nông lúa nước và các mộ cùng nhìều di tích trong mỗi mộ thời nước Văn Lang, các mũi tên đồng ở thành Cổ Loa nước Âu Lạc.

Địa điểm Cổ Loa là Phong Khê, lúc đó là vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân đông, sống bằng đánh cá và thủ công nghiệp, nông nghiệp chuyên về kỹ thuật trồng lúa nước.

Trải 85 năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ xác nhận thống nhất giữa người Lạc Việt và người Âu Việt trong nước Âu Lạc.

Thống nhất thể hiện rõ nhất là sưu tập đồ đồng Đông Sơn.

Về tổ chức xã hội, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, phân công lao động xã hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Trao đổi sản phẩm và các nguyên liệu giữa các địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương và An Dương Vương tạo điều kiện thuận lợi cho tăng thêm nguồn của cải xã hội.

Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo phát triển kinh tế xã hội, đồng thời dẫn đến chuyển biến xã hội quan trọng là xã hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo.

6. Văn hóa Đông Sơn có các điểm chính phải nhấn mạnh:

Văn hóa lúa nước phát triển. Người Việt trong cộng đồng chủng Mongoloid là Tổ tiên văn minh lúa nước thực phẩm dồi dào và có dự trữ dẫn đến phân cấp xã hội người Việt cổ..

Kỹ thuật đúc đồng, đỉnh cao là các trống đồng Đông Sơn. Kỹ thuật về quân sự mà đỉnh cao là thành Cổ Loa (thành, mũi tên đồng và nỏ).

Tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xã thôn tự trị mà đỉnh cao là lập nhà nước Văn Lang rồi Âu Lạc.

Dựa những nghiên cứu, trên cơ sở Văn hóa Đông Sơn, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước văn minh đầu tiên của người Việt, nối tiếp là nhà nước, Âu Lạc của An Dương Vương, trước khi bị ảnh hưởng của văn minh Hán.

Người Việt có truyền thống coi trọng mồ mả Tổ tiên, yêu ca hát, lễ hội, nhảy múa (các sử cổ Trung Quốc còn ghi lại rõ từ TCN).

Nguồn

Web vanhoaviet

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Trống đồng Phú Phương

71751360_1236900873176829_3836062422813114368_n.jpg


Văn hóa Đông Sơn qua các loại hình di vật

Trống đồng

Trống đồng Đông Sơn

Năm 43 SCN, khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại. Thời Văn hóa Đông Sơn biểu tượng là những trống đồng Đông Sơn (loại Heger I) bị tuyệt diệt trước âm mưu phá hủy tận gốc di sản văn hóa Việt của người Hán.

Mã Viện tận thu trống đồng để đúc ngựa đồng, cột đồng, muốn làm người Lạc Việt quên trống Đông Sơn, quên cội nguồn.

Bất chấp mưu thâm độc, người Việt cổ vẫn đúc, dùng trống đồng.

Trống Đông Sơn đúc trong sào huyệt phương Bắc - thành Luy Lâu ở TK. IV-V SCN.

11-1998, nhà khảo cổ Nishimura tìm mảnh khuôn trống Đông Sơn đầu tiên tại khu thành lũy phía Bắc Luy Lâu.

Khai quật 2014-2015 của BTLSQG gần 1.000 mảnh khuôn đúc trống bằng đất nung, gồm khuôn ngoài và khuôn trong, thuộc các bộ phận mặt, tang, lưng, chân.

Các mảnh khuôn ngoài thường có những vòng hoa văn điển hình trống Đông Sơn:

Vòng tròn tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm, vạch ngắn song song, văn bông lúa..

Mảnh khuôn ngoài thường đỏ hoặc đỏ nhạt, mảnh khuôn trong thường trắng xám, đặc.

Tìm thấy mảnh khuôn trống, một số hiện vật liên quan quy trình đúc trống, ví dụ bàn xoay hay phễu rót đồng.

Các mảnh khuôn đúc này phát hiện trong tầng văn hóa từ TK. I SCN.

Phát hiện trên có ý nghĩa cực quan trọng, sức sống Đông Sơn vẫn mãnh liệt, kể cả khi Giao Chỉ bị đô hộ. Kẻ thù thất bại đồng hóa.

Trống đồng loại II Heger, tiếp nối truyền thống trống Đông Sơn

Trống loại II (theo phân loại Heger) kế thừa tiếp nối trống Đông Sơn.

Trống loại II nảy sinh trên cơ sở trống loại I Heger đang suy tàn [10, tr. 179] . Trống này là trống Mường, vì thấy nhiều ở vùng dân tộc Mường.

Kế thừa kỹ thuật đúc trống đồng loại II (như các con kê rải giữa khuôn trong và khuôn ngoài để định vị đồng nóng chảy khỏi phá khuôn). Chứng tỏ thợ đúc trống Đông Sơn cũng đúc trống loại II.

Kế thừa mô típ hoa văn trống Đông Sơn trên nhóm trống loại II sớm, sớm có hoa văn người múa hóa trang, hoa văn hình học Đông Sơn.

Nhiều trống loại II ít nhiều ảnh hưởng mô típ trang trí hoa văn Hán, hoa văn ô trám đơn, ô trám lồng phổ biến trên trống đồng, phổ biến trên gạch trong mộ gạch thời Hán, tức có giao lưu văn hóa Hán - Việt [8, tr. 53-59] .

Trống loại II phát triển mạnh từ thời Bắc thuộc đến Lý - Trần.

Nhiều hoa văn trên trống loại II đậm dấu ấn hoa văn trên đá, trên gốm Lý - Trần như hoa văn hình rồng Lý - Trần uốn khúc hình sin, hoa văn chim phượng.

Trống đồng Xóm Rậm ở huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình) bố cục hoa văn cánh sen trên mặt trống khá giống bố cục trên bệ đá chùa Phật Tích..

Thời Hậu Lê, nhiều hoa văn trên đá, gốm thời này ảnh hưởng đến hoa văn trang trí trên trống đồng loại II.

Ví dụ trên trống loại II có nhiều hoa văn Phật giáo (như lá đề, lá sen trang trí theo phong cách đối đỉnh trong các băng hoa văn trên thân trống, giống hoa văn trang trí lá đề, lá sen đối đỉnh trang trí trên các chân đèn gốm thời Lê - Mạc).

Bên dòng trống loại II tồn tại, phát triển suốt thời Bắc thuộc, đến các triều đại quân chủ độc lập, người Việt còn sáng tạo những trống đồng khác.

Đó là trống đồng Cảnh Thịnh, đúc năm 1800, khá đẹp; nhưng hình dáng không chia làm 3 phần như các trống đồng truyền thống, mà là hình trụ tròn.

Ảnh hưởng một số hoa văn các loại trống khác (như hoa văn lá đề trống loại II, hoa văn nhũ đinh trống loại IV).

Trống đồng trong đời sống tinh thần người Việt

Tâm thức người Việt, trống đồng như người bạn đường lịch sử, hồn cốt đọng lại sâu lắng đời sống tinh thần dân tộc bao đời nay.

Người Việt nhân cách hóa trống đồng, coi là hiện thân thần linh thiêng trong đình, đền, chùa. Ở Việt Nam, tục thờ trống đồng từ rất sớm.

TK. X, Đinh Tiên Hoàng chú ý thu trống đồng phong tặng cho các địa phương để thờ. Khi Lý Thái Tông còn là thái tử, hành quân qua núi Đồng Cổ, mơ thấy thần núi xin theo đánh giặc. Sau này lập miếu thờ phía Bắc thành Thăng Long.

Tây Sơn, con trai Quang Trung là Nguyễn Quang Bân lập đền thờ ở núi Đồng Cổ, ở làng Đan Nê, Thanh Hóa.

Tận gần đây, những trống Ngọc Lũ, Thượng Lâm vẫn thờ trong đình, đền vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Hà Nội có đền Đồng Cổ ở phố Thụy Khuê, quận Ba Đình, nơi hàng năm hội thề Trung Hiếu vẫn vẹn nguyên linh thiêng và lòng tôn kính.

Trống đồng luôn có vị trí quan trọng đời sống văn hóa tinh thần dân tộc, khiến trống đồng cùng âm hưởng của nó luôn có sức sống mãnh liệt suốt lịch sử.

Nguồn

Web tapchikhxh

Trống đồng Bắc Lý: Biểu tượng văn hóa Đông Sơn ở Bắc Giang

(BGĐT) - Có thể nói trống đồng Bắc Lý là sản phẩm độc đáo và tiêu biểu Văn hóa Đông Sơn ở Bắc Giang.

Trống đồng Bắc Lý vinh danh trong tập sách những trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam.

Tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, trống đồng Bắc Lý trưng bày giới thiệu thu hút chú ý của khách tham quan và các nhà nghiên cứu về vẻ đẹp và giá trị của nó.

Văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam, trong đó có vùng Bắc Giang.

1975, tại Gò Mụ, ấp Thi Đua, xã Bắc Lý (Hiệp Hòa) phát hiện trống đồng Bắc Lý và đến năm 1998 lại phát hiện trống đồng Xuân Giang tại xã Mai Trung (Hiệp Hòa).

Trống đồng Bắc Lý có đặc điểm giống trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, chứng tỏ tồn tại Văn hóa Đông Sơn, địa bàn sinh sống của cư dân Việt cổ ở vùng đất này.

Trống đồng Bắc Lý cao 45cm, đường kính mặt 55cm, hoa văn trang trí mang nhiều đặc điểm trống đồng Đông Sơn. Mặt trống trang trí hoa văn hình học và hoa văn hình chim theo xu hướng đơn giản hóa.

Chính giữa phủ kín bằng 9 vành hoa văn xung quanh ngôi sao nổi 12 cánh, xen các cánh là những vạch chéo song song, gần rìa mặt có 4 khối tượng cóc ngồi xung quanh ngược chiều kim đồng hồ.

Tang trống phình rộng cong tròn đầy, ôm gọn mặt trống. Chân trống choãi ra đường bệ theo kiểu hình nón cụt, trang trí hoa văn theo hình răng cưa, đầu nhọn quay xuống phía dưới tạo thành hình tam giác và có hoa văn vòng tròn kép.

Tang trống và đế trống nối lại với nhau bởi phần lưng trống thắt lại thanh thoát.

Thân trống trang trí hoa văn từng đoạn theo phương thẳng đứng, hai dải hoa văn hình học kiểu đường tròn đồng tâm không có tiếp tuyến.

Phần quai trống kiểu quai kép hình chữ C còn đủ hai đôi quai gắn vào giữa tang và thân trống. Về hình thức, trống đồng Bắc Lý giống trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ.

Các hoa văn tuy đơn giản nhưng các nghệ nhân khéo léo phối hợp hoa văn hình học, hoa văn răng lược với vòng tròn có chấm tiếp tuyến, vòng tròn lồng nhau có chấm nổi tiếp tuyến tạo nét độc đáo riêng cho loại hình trống đồng Bắc Lý.

Điểm nổi bật trong phong cách trang trí hoa văn trên trống đồng Bắc Lý là vành hoa văn chủ đạo trang trí hình chim.

Nghệ nhân tạo họa hình chim có mỏ dài, đuôi dài được phác họa bằng những đoạn thẳng gọn, có rất ít những đường lượn mềm thể hiện tạo họa hình chim. Điều đó nói lên xu hướng cách điệu trong nghệ thuật trang trí của các nghệ nhân.

Điểm khác biệt ở phong cách trang trí hoa văn trống đồng Bắc Lý là ở vành trang trí hình chim. Có 5 hình chim mỏ dài, đuôi dài.

Số lượng hình chim trang trí lẻ như vậy chưa hề thấy trong nhóm C của phân loại trống đồng Đông Sơn.

Nghệ nhân trang trí trống đồng Bắc Lý không tuân theo quy luật "ưu tiên số chẵn" như quy luật trang trí trống đồng Đông Sơn vốn có. Hình dáng tổng thể, tính chất hài hòa và cân đối của vành trang trí hoàn toàn không bị phá vỡ.

Trống đồng Bắc Lý không chỉ là hiện vật quý mà qua hiện vật này còn tìm thấy sự phát triển khá cao nghề đúc đồng. Các họa tiết hoa văn trang trí ở trống đồng còn phản ánh những ý niệm, tư tưởng, tình cảm người xưa.

Hình ảnh ngôi sao 12 cánh, 4 tượng cóc ở xung quanh biểu thị ý niệm về mặt trời, 12 tháng trong năm, tín ngưỡng thờ thần mặt trời trong tuần hoàn 4 mùa xuân, hạ, thu, đông; 5 con chim mỏ dài, biểu tượng cư dân Lạc Việt và nền văn minh lúa nước phát triển sớm trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại.

Trống đồng Bắc Lý là sản phẩm độc đáo và tiêu biểu của Văn hóa Đông Sơn ở Bắc Giang. Trống đồng Bắc Lý được vinh danh trong tập sách những trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam.

Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, trống đồng Bắc Lý được trưng bày giới thiệu thu hút sự chú ý của khách tham quan và các nhà nghiên cứu về vẻ đẹp và giá trị của nó.

Nguồn

Web baobacgiang

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
71760078_1237578213109095_6255480340316422144_n.jpg


Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn (phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa)

Sách "Thanh Hóa di tíchthắng cảnh" (tập I – NXB. Thanh Hóa 2000) có bài giới thiệu:

"Hàm Rồng Kỳ Tú, Hàm Rồng Anh Hùng" của nhà nghiên cứu sử học Phạm Tấn. Vẻ đẹp địa danh Hàm Rồng - sông Mã được Phạm Tấn tả sinh động được thiên nhiên ban tặng và là vẻ đẹp vùng văn hóa lịch sử do con người sáng tạo.

Bài viết này chúng tôi chỉ mong làm rõ thêm những giá trị lịch sử - văn hóa vùng đất Hàm Rồng dưới góc nhìn di chỉ khảo cổ học.

Địa điểm Đông Sơn nằm ở vị trí: 2206 vĩ tuyến Bắc, 114.093 kinh tuyến Đông, cách cầu Hàm Rồng không đầy 1km phía Tây Bắc.

Cách thành phố Thanh Hóa nay hơn 4km về phía Bắc - Đông Bắc, ngay bên hữu ngạn sông Mã, nằm vào khoảng trung tâm đồng bằng Thanh Hóa được thành tạo bởi phù sa hai sông Mã và Chu.

Cảnh quan ở đây có đặc điểm là đồng bằng với nhiều núi đảo thành tạo do đất nền nằm nông có trầm tích kỷ đệ tứ không dày lắm.

Nhìn thế đất, thế núi, thế sông đủ thấy người Đông Sơn xưa chọn địa điểm quần cư có vị trí ý nghĩa về kinh tế, quân sự lẫn chính trị.

Dựa lưng vào núi Rồng, một bộ phận của những dãy núi đất, đá vôi chằng chịt xung quanh như núi Cảnh Tiên, núi Chồng Mâm, núi Cuộc, núi Mướn, núi Tún.. từ đó có thể khai thác gỗ, đá để sản xuất, xây dựng, có thể săn bắt thú rừng hoặc phát triển chăn nuôi.

Phía thượng lưu và trước mặt bên kia sông là dải đất bằng phẳng, rộng mênh mông thẳng cánh cò bay, rất thuận tiện làm ruộng, cấy trồng, có lẽ đó là nguồn sống chủ yếu của người Đông Sơn xưa và trên cơ sở đó góp phần xây dựng nền văn hóa trống đồng rực rỡ.

Vì ngay bên sông nước khiến nghề đánh cá còn giữ vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế thời đó. Dùng sông nước làm phương tiện đi lại vốn là đặc điểm giao thông của người Việt xưa.

Từ đây có thể ngược dòng sông Mã gắn bó các nhóm tộc miền núi anh em hoặc có thể trôi xuôi ra biển giao tiếp những miền đất xa hơn.

Ba mặt có núi cao ngăn cách, phía trước là sông là vị trí tuyệt đẹp cho phòng thủ, yếu tố khách quan khá tốt bảo đảm an ninh cho tập thể người ở đây sống vào thời điểm xã hội nhiều biến động.

Vùng kinh tế thịnh đạt, đầu mối giao tiếp nối liền hệ thống các điểm quần cư như Thiệu Dương, Núi Nấp, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Hoằng Phượng.. cứ điểm phòng ngự đáng tin cậy, địa điểm Đông Sơn hẳn có vai trò khá lớn về chính trị.

Biết đâu, đây lại không phải là trị sở của bộ Cửu Chân nước Văn Lang xưa.

Biết đâu đây chẳng phải là căn cứ cuối cùng của nghĩa quân Hai Bà Trưng do Đô Dương tập họp chống lại đội quân Mã Viện[1] .

Khu vực Đông Sơn có thể giữ tư cách là trung tâm của bộ Cửu Chân thời Hùng Vương như trên chứng minh bằng ý nghĩa và tác dụng của vị trí địa lý tự nhiên của vùng này, nó còn có thể chứng minh bằng khảo cổ học.

Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn phát hiện 1924 do ngẫu nhiên tình cờ. Nguyễn Văn Lắm người làng Đông Sơn lúc đào giun để câu cá ngoài bờ sông Mã tình cờ phát hiện nhóm đồ đồng do đất sông lở làm lộ ra.

Những đồ đồng vừa tìm ở đây bị lọt vào tay một số người ngoại quốc như A. Pouyanre, L. Pajot, ngay sau đó trường Viễn Đông Bác Cổ (Louis Finot) liền uỷ nhiệm cho Pajot[2] - viên thương chính tỉnh Thanh Hóa lúc đó tiến hành những cuộc đào tìm cổ vật liên tục từ 1924 đến 1928 ở Đông Sơn, đặc biệt là dọc theo hữu ngạn sông Mã.

Một số lớn hiện vật đào ở Đông Sơn bán cho trường Viễn Đông Bác Cổ. L. Aurouseau, Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ lúc đó dự định nghiên cứu món tài liệu đã sưu tập được và công bố các hiện vật, nhưng 1929 ông mất nên không kịp thực hiện kế hoạch.

Về sau, từ những tài liệu đó, V. Goloubew - nhà nghiên cứu nghệ thuật học tổng kết cuộc đào của Pajot trong tác phẩm "Thời đại đồ đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ" (L' Age du bronze au Tonkin et dans le Nord Annam - BEFEO, Hanoi, Vol XXIX, p. 1-16).

Tuy phải thừa nhận có thời đại đồng thau ở Việt Nam nhưng tác giả lại cho niên đại thời đó chỉ bắt đầu ở đất Cửu Chân mọi rợ từ TK. I SCN do người bản xứ vốn còn ở thời kỳ đồ đá học được thuật luyện kim của người Trung Hoa mà có.

Công trình này của Goloubew không soi sáng mảy may những điều cần biết về tư liệu, nó hầu như không đem lại hiểu biết gì về địa điểm nổi tiếng này.

Tiếp sau L. Pajot, năm 1934 trong khi dẫn đầu chiến dịch khảo cổ do các viện bảo tàng ở Paris phối hợp trường Viễn Đông Bác Cổ cùng bảo trợ, ông George Coedes Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ uỷ thác cho O. Janse nhà khảo cổ học người Thuỵ Điển nghiên cứu địa điểm Đông Sơn.

Từ tháng Giêng năm 1935 đến 1939, O. Janse tiến hành 3 đợt khảo sát, khai quật tại Đông Sơn. Báo cáo của những lần khai quật ở đây được O. Janse công bố trong tập III công trình:

"Nghiên cứu Khảo cổ học ở Đông Dương" (Archaeological Research in Indo - China - Volum III - ST - Catherine. Press LTD - 1958).

So với L. Pajot thì O. Janse khai quật ở Đông Sơn có hệ thống và khoa học hơn, song chưa phải là báo cáo khoa học thuần. Hoàn toàn không theo dõi diễn biến của di vật, di tích trong lớp đất văn hóa.

Và tư liệu của O. Janse để lại gây cảm giác niên đại quá muộn của địa điểm Đông Sơn, khi chủ nhân nó tiếp xúc với văn hóa Hán.

Thành tựu lớn nhất khai quật Đông Sơn trước 1945 có lẽ là đưa di tích Đông Sơn vào nhận thức khoa học. Những trống đồng được sưu tầm có một nền khảo cổ là những di vật trong di tích khảo cổ Đông Sơn. Chứng tích đó cho phép gọi những trống Heger I là trống Đông Sơn[3] .

Những tư liệu gốc và những ý kiến do các học giả phương Tây công bố và phát biểu về địa điểm Đông Sơn còn rời rạc, tản mạn, độ tin cậy thấp.

Điều này đặt ra cho nền khảo cổ học nước nhà nhiệm vụ nặng nề. Muốn hiểu thực sự về địa điểm này rõ ràng phải kiểm tra cẩn thận nghiêm túc nếu không muốn nói trở lại từ đầu.

Cuối 1961 đầu 1962, cùng nhiệm vụ công tác nghiên cứu thời đồng thau nước nhà và thúc bách phải "chữa cháy", nhằm giải phóng mặt bằng cho nhà máy phân lân Hàm Rồng mở rộng phân xưởng.

Đội khảo cổ học (lúc đó thuộc Vụ Bảo tồn Bảo tàng) triển khai đào khai quật 1000m2 tại khu ven sông sát nhà máy phân lân hiện tại.

Nhiều hiện vật, di tích hiếm quý được phát hiện. Kết quả lần khai quật này làm rõ được di tích Đông Sơn có tầng văn hóa khảo cổ khá dày, nhưng bị xáo trộn.

Khẳng định những điều thu nhận từ trước 1945 là khu di chỉ cư trú và mộ táng thuộc giai đoạn Đông Sơn muộn.

Kế hoạch 3 năm nghiên cứu thời Hùng Vương (1968 - 1970) thôi thúc các nhà khảo cổ trở lại Đông Sơn.

Nghiên cứu thời Hùng Vương dưới góc độ khảo cổ học, trọng tâm là tìm hiểu lại văn hóa Đông Sơn khâu chủ yếu là địa điểm Đông Sơn.

Yêu cầu "chữa cháy" cho phục hồi lại nhà máy phân lân Hàm Rồng sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đặt yêu cầu cho các nhà khảo cổ trở lại Đông Sơn.

Trước khai quật này, các hố khai quật đều tập trung ở khu ven sông. Khai quật Đông Sơn 1969 - 1970 ở khu sườn núi và khu Cửa Luỹ (trong làng Đông Sơn) và khu ven sông.

Diện tích khai quật đợt này 509m2. Kết quả đem đến nhận thức mới về khu di tích Đông Sơn.

Qua địa tầng có thể phân rành mạch thành 2 giai đoạn chính, phát triển liên tục Văn hóa Đông Sơn. Tính kế thừa trực tiếp giai đoạn này còn chứng minh qua tư liệu mộ táng.

Đồng thời khai quật lần này là lần đầu đưa được những tài liệu về địa tầng cũng như mộ táng giai đoạn trước Đông Sơn, trực tiếp phát triển lên Văn hóa Đông Sơn. Sau này với nhiều tài liệu mới bổ sung gọi là giai đoạn Văn hóa Quỳ Chử.

Khai quật năm 1976 tiến hành thành 2 đợt do Viện Khảo cổ học chủ trì, đào 684m2 trên khu sườn núi. Kết quả đào khẳng định và làm rõ thêm địa tầng và các lớp mộ phát hiện 1969-1970.

3 khai quật lớn của các nhà khảo cổ Việt Nam với tổng diện tích 2.275m2. Về địa tầng ở khu sát bờ sông có thể khảo sát địa tầng ở hố V khai quật 1969-1970.

- Trên cùng là lớp cát sỏi dày trung bình 0, 40m.

- Thứ 2 là lớp đất màu đen sẫm, cứng và sỏi dăm thô, dày trung bình 0, 60m, có vết tích giai đoạn tiếp xúc Hán và thời muộn hơn Hán.

- Thứ 3 là lớp đất pha cát nhẹ và sỏi dăm, màu nâu xám hoặc xám vàng, dày 0, 40m - 0, 50m, có vết tích giai đoạn trước khi tiếp xúc với Hán.

- Thứ 4 là đất sét thịt pha cát, màu nâu, xám đen, xám trắng, dày 0, 30m - 0, 40m. Hiện vật thưa thớt, gốm mỏng hơn, dễ vỡ, khác với lớp trên.

Khu vực sườn núi có thể lấy địa tầng hố VII của đợt khai quật 1976 làm tiêu biểu.

- Trên cùng là lớp đất núi màu đỏ dày 0, 60m - 1m, do máy ủi san bạt tạo thành.

- Thứ 2 là lớp đất vàng sáng dày trung bình 0, 60m, đất tơi mềm, vết tích văn hóa muộn thuộc những thế kỷ SCN. Phần trên lớp đất này là đất canh tác.

Như vậy lớp thứ 2 này phần trên có thể tương ứng với lớp thứ nhất của khu bờ sông. Phần dưới tương ứng với lớp thứ 2 của khu bờ sông.

- Thứ 3 là lớp đất đen sẫm, dày trung bình 0, 60m, đất cứng, nhiều sỏi dăm, chứa phần lớn gốm thô, ít gốm cứng muộn (khoảng 25%), chứa các mộ nhóm III. Lớp này tương đương với lớp thứ 3 của khu bờ sông.

- Thứ 4 là lớp đất đen xám, dày trung bình 0, 40m - 0, 50m. Đất mềm, mịn, màu sắc sáng hơn so với lớp trên, chứa gốm thô thuần và các mộ nhóm II. Lớp này tương đương lớp thứ 4 của khu bờ sông.

- Thứ 5 là lớp đất sét vàng xám, dày trung bình 0, 15m - 0, 20m, thuần sét mịn, không có gốm, chứa nhóm mộ I. Lớp này tương đương với sinh thổ khu bờ sông.

Trong tầng văn hóa, ngoài những mộ táng chôn xen vào, những dấu vết khu cư trú là những mảnh gốm vỡ, những hiện vật bằng nhiều chất liệu.. còn có các di tích như những rãnh đất đen, đa số hình chữ nhật.

Những hố đất đen có hình dáng ổn định, có chứa gốm và xương thú. Các hố chôn cột được phân bố theo quy luật nhất định.

Các hố bếp cạnh có đá tảng xếp có ý thức. Có những cây gỗ có vết chặt, đục, đẽo, có lẽ là vết tích nhà sàn.

Tóm lại, về địa tầng từ lớp đất thứ 4 khu bờ sông và lớp đất thứ 4, thứ 5 của khu sườn núi thuộc văn hóa trước Đông Sơn, phần còn lại của tầng văn hóa gồm lớp đất thứ 2, thứ 3 khu bờ sông và khu sườn núi thuộc Văn hóa Đông Sơn.

Tầng văn hóa sâu 1, 40m - 1, 80m, dày trung bình 1, 00m - 1, 40m. Phân biệt được 2 giai đoạn trước khi tiếp xúc với Hán và đã tiếp xúc Hán.

Về mộ táng, so sánh phân tích di vật có trong các mộ kết hợp vị trí mộ trong các lớp đất thấy có tương ứng giữa các lớp mộ và các lớp đất.

Cụ thể là nhóm mộ trong lớp đất sâu nhất màu vàng, lớp đất thứ 5 ở khu sườn núi hoặc nằm trên lớp đất vàng này chứa gốm minh khí, bình con tiện có vai tròn, vỏ màu nâu ca cao nhạt, dễ bong lớp áo, khuyên tai đá, vòng tay mặt cắt chữ T.

Có đồ đồng nhưng rất ít, đặc biệt có loại dao xéo, giáo búp đa mặt cắt họng bầu dục. Có thể coi những mộ này thuộc giai đoạn trước Đông Sơn.

Những nhóm mộ còn lại nằm trong lớp đất thứ tư trở lên thuộc Văn hóa Đông Sơn. Có diễn biến sớm muộn rõ nét.

Ở nhóm mộ nằm trong lớp thứ 4, đồ gốm minh khí giảm mạnh, vòng tai đá còn nhiều. Gần gũi nhóm mộ trước Đông Sơn về chủng loại hiện vật.

Nằm trong lớp đất thứ 3 có các nhóm mộ xuất hiện gốm loại hình chậu hoa, nồi to. Gốm đỏ. Không còn gốm minh khí.

Đồ đồng có những hiện vật điển hình Văn hóa Đông Sơn, vẫn còn khuyên tai. Nhóm mộ muộn hơn có nhiều loại bát gốm thô.

Vòng tai đá bằng thạch anh và đá quý nhiều màu sắc. Xuất hiện đồ đồng minh khí.

Ở nhóm mộ nằm trong lớp đất thứ 2, đồ tuỳ táng xuất hiện di vật ngoại lai, đồ thuỷ tinh, đồ sắt nhiều.

Số lượng mộ táng phát hiện trong các khai quật của L. Pajot không được biết chính xác, chỉ còn 7 bản vẽ của các cuộc khai quật số 1, 2, 3 có lẽ ấn định cho các mộ. Những khai quật của O. Janse phát hiện 2 mộ bản địa, 16 hố mai táng.

Khai quật 1960 - 1961 phát hiện 35 mộ Đông Sơn trong đó 21 mộ có dấu vết tiếp xúc Việt - Hán, 14 mộ thuần bản địa.

Khai quật 1969-1970 và 1976 có thể phân biệt rạch ròi hơn:

Giai đoạn trước Đông Sơn có 168 mộ, giai đoạn Đông Sơn sớm có 32 mộ, giai đoạn Đông Sơn đã tiếp xúc với Hán có 24 mộ.

2003, để chuẩn bị kỷ niệm 80 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn (1924-2004), Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa phối hợp Khoa Sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tiến hành điều tra khai quật:

Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn lần thứ VI, nhằm quy hoạch khoanh vùng bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đông Sơn.

Di tích Đông Sơn sau gần 80 năm phát hiện đến nay việc quy hoạch khoanh vùng bảo vệ di tích hầu như chưa được thực hiện.

Yêu cầu lần khai quật này còn nhằm tìm vị trí thuận lợi để xây dựng trưng bày hố khai quật giới thiệu di chỉ khảo cổ học Đông Sơn dịp diễn ra hội nghị 80 năm.

Sau khảo sát, điều tra, đào thăm dò, đoàn khai quật quyết định mở hố khai quật tại khu vườn chùa trong làng Đông Sơn.

Vị trí hố khai quật lần này cách hố khai quật ở Cửa Lũy 1970 về phía Tây Nam 300m. Diện tích hố khai quật là 21m2 (7 x 3).

Dù diện tích khai quật không lớn nhưng kết quả rất khả quan, địa tầng hố khai quật ổn định không bị xáo trộn.

Các lớp văn hóa phân biệt được giai đoạn Văn hóa Đông Sơn tiếp xúc Hán, giai đoạn Đông Sơn trước khi tiếp xúc Hán và giai đoạn tiền Đông Sơn.

Đặc biệt trong lớp đất sát tầng sinh thổ phát hiện lớp mộ sớm tương tự ở các hố đợt khai quật 1969-1970 và 1976.

Như vậy hố khai quật 2003 đem lại nhận thức mới về di chỉ Đông Sơn khu vực trong làng.

Nếu trước đây O. Janse khi khai quật trong làng Đông Sơn chỉ giới hạn niên đại sớm nhất vào thời Tống (TK. X - XI).

Khai quật 1969 - 1970 cũng chỉ dừng ở mức độ nhận định khu di chỉ trong làng Đông Sơn có niên đại phân biệt được giai đoạn Đông Sơn trước khi tiếp xúc Hán.

Kết quả chỉnh lý sơ bộ hố khai quật đợt VI cho biết giai đoạn Văn hóa tiền Đông Sơn ở khu trong làng là rất rõ nét.

Lớp đất văn hóa thứ IV gốm giai đoạn Văn hóa Quỳ Chử rất rõ rệt. Chỉ trong 21m2 lớp đất sét vàng xám (0, 15 - 0, 20cm) sát sinh thổ phát hiện ít nhất dấu vết 8 mộ sớm (tương đương nhóm mộ I ở hố khai quật số VII đợt 1976).

Theo phân tích của PGS-TS khảo cổ học Phạm Minh Huyền (Viện Khảo cổ học Việt Nam), các mộ ở hố khai quật vườn chùa 2003 có dạng mộ quây đá, mộ đất.

Hố khai quật di chỉ Đông Sơn trong làng 2003 cho đánh giá lại những gì trước đây quan niệm về di tích Đông Sơn khu trong làng. Tầng văn hóa khảo cổ không hề mỏng mà tương đối dày trung bình 1m50.

Đặc biệt là khu di chỉ trong làng Đông Sơn cũng là khu di chỉ cư trú và mộ táng đồng tính chất như khu vực ngoài bờ sông Mã.

Khu vực phát hiện hố khai quật có diện tích rộng hàng ngàn m2 nằm ở khu vực vườn chùa, sân kho hợp tác của thôn Đông Sơn là địa điểm lý tưởng để khoanh vùng bảo vệ nghiên cứu lâu dài.

Di tích khảo cổ học Đông Sơn qua 6 lần khai quật chính thức, nhiều lần điều tra thám sát đem lại khối tư liệu phong phú về các loại hình di tích từ di tích cư trú (nhà sàn, bếp đun.) đến di tích mộ táng.

Hàng vạn hiện vật độc đáo từ những trống đồng Đông Sơn biểu trưng thủ lĩnh vùng đến những hòn chì lưới của nông dân đánh cá, từ những hiện vật các vùng miền xa xôi trên thế giới đến những mảnh gốm nung đốt trên Đông Sơn.

Tất cả phản ánh sinh động khách quan trình độ đời sống vật chất - tinh thần của người Đông Sơn. Đây là vùng đất trung tâm văn minh lưu vực sông Mã thời Hùng Vương.

Nguồn: Đỗ Quang Trọng, Di chỉ Khảo cổ học Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, Thanh Hóa di tích danh thắng, tập 3, NXB. Thanh Hóa, năm 2004, trang 16 - 28.

[1] Xem: Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Tập I - Dư địa chí - Nhân vật chí. NXB. Sử Học, Hà Nội 1960, tr28-29

[2] Louis Pajot là nghệ sĩ xiếc, nhưng vì muốn đi đây đi đó, ông làm thuỷ thủ đến Đông Dương. Sau đó ông kiếm 1 chức vụ phụ trách thương chính ở Thanh Hóa.

Pajot sưu tập đồ cổ, một phần cung cấp cho trường Viễn Đông Bác Cổ, còn lại đem bán cho các nhà sưu tầm tư gia. Louis Pajot từ trần trong cảnh ngộ bi đát thời chiến tranh.

Ông để lại một số báo cáo về những hiện vật tìm ở Đông Sơn và một số địa điểm khác ở Thanh Hóa (báo cáo tại trường Viễn Đông Bác Cổ, nay Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)

[3] Năm 1934 H. Geldern đề nghị lấy địa danh Đông Sơn đặt tên cho nền văn hóa thời đại đồng thau.

Nguồn

Web thanhnhaho

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Trống đồng Cổ Loa

71823725_1239253572941559_8997283403615174656_n.jpg


Văn hóa Đông Sơn - bản sắc văn hóa

90 năm phát hiện và nghiên cứu, các nhà khoa học đều nói Văn hóa Đông Sơn có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.

Nền văn hóa này là cơ sở vật chất cho hình thành nhà nước đầu tiên Văn Lang - Âu Lạc, nhà nước đầu tiên thời các Vua Hùng và An Dương Vương, nền tảng hình thành bản sắc văn hóa Việt cổ, văn minh Đại Việt sau này.

Rực rỡ nền văn minh Việt cổ

Văn hóa Đông Sơn tồn tại từ TK. VII TCN đến TK. I - II SCN.

Qua hàng trăm di tích cùng khối di vật đồ sộ phát hiện và nghiên cứu, minh chứng sinh động cho nguồn gốc bản địa, phát triển lâu dài, liên tục và trực tiếp từ các Văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun), đến đỉnh cao Văn hóa Đông Sơn và văn minh Đại Việt.

Hiện có trên 200 di tích thuộc Văn hóa Đông Sơn phát hiện ở nước ta, chủ yếu phân bố 3 lưu vực sông chính:

Sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ), sông Mã (Thanh Hóa) và sông Cả (Nghệ An).

Nhiều di vật Văn hóa Đông Sơn còn ở các tỉnh miền Trung, miền Nam, Tây Nguyên của Việt Nam và vài nước Đông Nam Á.

Đến nay, số lượng di vật thuộc Văn hóa Đông Sơn tìm được vô cùng đồ sộ, lưu ở các bảo tàng trong nước, nước ngoài và các sưu tập tư nhân.

BTLSQG một trong những nơi giữ, trưng bày nhiều hiện vật Văn hóa Đông Sơn: 10.000 hiện vật, gồm các chất liệu đa dạng:

Đồng, gốm, gỗ, đá.. hiện vật đồng nhiều nhất, đặc biệt sưu tập trống đồng. Còn có sưu tập công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang sức..

Nhiều hiện vật được công nhận Bảo vật Quốc gia:

Thạp đồng Đào Thịnh, trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Hoàng Hạ, đèn hình người quỳ.. cho thấy ý nghĩa, giá trị, tầm quan trọng hiện vật thuộc văn hóa này.

Theo TS. Nguyễn Văn Đoàn - PGĐ BTLSQG, Văn hóa Đông Sơn có vị trí vô cùng quan trọng tiến trình lịch sử dân tộc, nền tảng vật chất với hình thành bản sắc văn hóa Việt cổ cũng như văn minh Đại Việt sau này.

Những năm gần đây, điều tra, phát hiện mới và khai quật hàng loạt di tích Văn hóa Đông Sơn như di tích Mả Tre, Đình Tràng (Cổ Loa, Hà Nội), Bãi Cọi (Hà Tĩnh), di tích tiền Đông Sơn:

Xóm Dền (Phú Thọ), Nghĩa Lập (Vĩnh Phúc) với hợp tác các chuyên gia nước ngoài góp phần sáng tỏ hơn nữa đa dạng, thống nhất, mối quan hệ, giao lưu và vị thế Văn hóa Đông Sơn với các văn hóa đồng đại khu vực lân cận.

Các nhà khoa học dựng đầy đủ phông tư liệu Văn hóa Đông Sơn với các lát cắt phản ánh các phương diện khác nhau về Văn hóa Đông Sơn, đời sống cư dân Việt cổ qua các hình thức cư trú và nhà ở, các phương thức mai táng, đời sống tinh thần, đời sống sản xuất..

Cơ sở nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn, hầu hết các nhà nghiên cứu nói Văn hóa Đông Sơn là cơ sở vật chất, thể hiện sinh động "hình ảnh" nhà nước đầu tiên trong lịch sử:

Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam

Đỉnh cao nghề luyện kim, đúc đồng

Nghề luyện kim, đúc đồng thời Văn hóa Đông Sơn phát triển, đạt nghệ thuật đỉnh cao.

Theo Ths. Nguyễn Quốc Hữu (Phó Trưởng phòng trưng bày BTLSQG), thống kê cho thấy:

Tỷ lệ đồ đồng Văn hóa Đông Sơn chiếm gần 90% trong tổng hiện vật tìm thấy, hàng vạn tiêu bản, thuộc nhiều loại hình.

Đáp ứng đủ mọi nhu cầu sản xuất, đời sống dân Đông Sơn, từ trống đồng, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí, trang sức.

Văn hóa Đông Sơn là văn minh cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, nên người Đông Sơn có bộ nông cụ chuyên dụng, tiên tiến.

Để chặt cây, khai hoang, họ chế tạo các loại rìu, dao. Để đắp bờ, mở thửa, làm đất họ có các loại cuốc, xẻng, mai, thuổng, lưỡi cày..

Đặc biệt, các cư dân Đông Sơn chế tạo nhiều liềm:

Công cụ gặt tiên tiến giúp gặt hái nhanh hơn, năng suất cao hơn.

Người Đông Sơn tạo bộ công cụ làm mộc, có cấu tạo và chức năng gần như bộ công cụ làm mộc hiện đại, dùng để dựng nhà sàn, đóng thuyền và chế tác các loại vật dụng sinh hoạt..

Bộ công cụ mộc gồm các loại đục vũm, đục bẹt với nhiều kiểu dáng dài ngắn, thon bè thích hợp với từng kỹ thuật đục chạm khác nhau, hoặc các loại rìu xéo dùng tu chỉnh đồ mộc.

Sản xuất phát triển, tạo nhiều của cải dư thừa, người Đông Sơn chế tác những thạp lớn nhỏ nhiều kích thước để cất trữ lương thực, thực phẩm.

Thạp liên quan các nghi lễ chôn người chết, là loại di vật khá điển hình Văn hóa Đông Sơn, chứa nhiều giá trị nghệ thuật tương tự như trống đồng.

Minh chứng tiêu biểu nhất khẳng định kỹ thuật luyện kim, đúc đồng Đông Sơn đạt trình độ cao là tạo trống đồng, thạp đồng với kích thước lớn, hình dáng cân đối, hoa văn trang trí hoàn hảo, sắc nét từng chi tiết.

Nay hàng trăm trống đồng thấy trong phạm vi phân bố Văn hóa Đông Sơn.

Các trống đồng Đông Sơn điển hình ở nhiều nơi Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.

Những trống đẹp nhất, hoàn hảo nhất đều phát hiện tại Việt Nam, như trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Hoàng Hạ, trống đồng sông Đà, trống đồng Cổ Loa..

Phân tích kiểu dáng và phong cách hoa văn trang trí, trang phục các hình người trang trí trên trống đồng, các nhà khảo cổ học phân loại trống đồng Đông Sơn thành các loại hình có niên đại sớm muộn khác nhau.

Nhóm trống Ngọc Lũ đẹp nhất, sớm nhất. Nghiên cứu nhận ra khác biệt trống đồng Đông Sơn với trống đồng tộc Điền Vân Nam, Trung Quốc, xác định, trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu của người Việt cổ thời dựng nước đầu tiên của dân tộc.

Trải quá trình phát triển hàng mấy trăm năm, dù thay đổi nhất định, trống đồng Đông Sơn vẫn giữ kiểu dáng và các loại hoa văn cơ bản.

Đó là những đặc trưng cơ bản truyền thống văn hóa Việt cổ, nay chúng ta vẫn gặp trong các đường trang trí trên váy Mường, trên các nhạc cụ người Việt..

Những di vật Văn hóa Đông Sơn thành những tư liệu sống động, phản ánh cuộc sống sôi động, hào hùng chủ nhân Văn hóa Đông Sơn từ hơn 2000 năm trước.

Văn minh Đông Sơn là thành tố quan trọng lập quốc gia, dân tộc Việt, niềm tự hào về Tổ tiên thủa bình minh lịch sử.

Phương Hà

Đặc trưng Văn hóa Đông Sơn và vị trí trong tiến trình lịch sử Việt Nam

Thời gian: Văn hóa Đông Sơn phát hiện trước CM tháng Tám năm 1945.

*Đặc trưng Văn hóa Đông Sơn:

1. Về phương thức sản xuất:

- Trồng trọt và chăn nuôi phát triển, trong đó sản xuất lúa nước đóng vai trò chủ đạo. Ngoài ra còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà.. dùng để lấy sức kéo, lấy thịt.

- Các loại hình công cụ Đông Sơn khá đa dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt là lưỡi cày đồng.

- Nghề thủ công phát triển vượt bậc, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu:

+Nghề luyện kim màu:

Đạt trình độ kỹ thuật cao, tạo khối lượng sản phẩm lớn, nhiều chủng loại. Đặc biệt là luyện kim đồng đạt đỉnh cao phong phú, đa dạng.

+Đồ gốm Đông Sơn mỗi vùng có phong cách riêng, tiến bộ về sử dụng chất liệu, kỹ thuật tạo hình, tạo dáng.

+Một số nghề thủ công khác cũng khá phát triển như nghề thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt..

2. Về văn hóa sinh hoạt vật chất:

- Mô hình bữa ăn của cư dân Đông Sơn là cơm - rau - cá biết tận dụng môi trường tự nhiên.

- Đồ dùng sinh hoạt chế tác bằng 3 chất liệu chủ yếu gốm, đồng, gỗ. Một số loại đồ dùng sinh hoạt tiêu biểu như nồi, chõ, mâm, chậu..

- Đặc trưng nhà ở người Việt cổ:

+Vật liệu chủ yếu gỗ, tre, nứa.. có sẵn trong tự nhiên. Tre dùng làm kèo, uốn, hoặc chẻ để đan; gỗ lim, gỗ xoan.. để làm cột nhà. Rơm, rạ, lá cọ, lá dừa.. dùng lợp mái. Đất nung xây tường.

+Kiểu dáng mang đậm dấu ấn sông nước, chủ yếu nhà sàn hình mai rùa, hoặc hình thuyền.

+Quy mô nhà ở vừa phải, hài hòa thiên nhiên. Nhà chú ý chiều ngang, rộng theo số lẻ là ba gian, năm gian; bậc nhà theo số lẻ. Nhà năm gian thì gian giữa để thờ, hai gian bên để sinh hoạt, hai gian trái là buồng ngủ.

+Vị trí chọn hướng sông, suối, hướng núi theo phong thủy.

Cổng nhà không xây chính giữa với cửa nhà mà xây lệch sang bên trái hoặc phải.

Cửa nhà thường chọn hướng Nam, hoặc Đông Nam có gió biển mát. Còn bếp chọn hướng Tây tránh gió Bắc.

- Không gian nhà ở thường quần tụ thành xóm làng, xung quanh nhà là vườn cây, ao cá..

*Văn hóa trang phục:

- Trang phục chất liệu chủ yếu tơ tằm, sợi bông phù hợp với thời tiết và đồng áng.

- Phụ nữ mặc váy và yếm. Nam giới đóng khố, cởi trần.

Ngày hội trang phục cầu kỳ hơn, cả nam và nữ đều dùng áo liền váy, chất liệu bằng lông vũ hoặc cây, đầu đội mũ lông chim. Thời này xuất hiện trang phục giới quý tộc.

- Phụ nữ thường cắt tóc ngắn xõa ngang vai, bới tóc trên đầu hoặc tết tóc thả sau lưng.

*Trang sức khá đặc trưng như nhuộm răng đen, xăm mình. Ngoài ra còn đeo vòng tai hạt, chuỗi, nhẫn, phổ biến vòng chân.

*Phương tiện đi lại chủ yếu thuyền bè, vận chuyển chủ yếu đường sông, ven biển.

Thuyền 2 loại là thuyền độc mộc và thuyền ván ghép từ đó hình thành các điệu lý, điệu hò hát giao duyên.

3. Văn hóa sinh hoạt tinh thần:

- Tư duy và nhận thức:

Người Việt cổ biết phân loại sự vật theo chức năng như công cụ sản xuất (cuốc, cày), công cụ sinh hoạt (dao, bình), công cụ chiến đấu (giáo, mác.).

- Tư duy toán học:

Đạt trình độ nhất định như đối xứng gương, đối xứng trục. Con người thời này có tri thức thiên văn học.

- Nhận thức thế giới:

Người Việt thời này có nhận thức thế giới và nhận thức chính mình bằng tư duy lưỡng phân:

Đàn ông - đàn bà, núi biển..

- Văn hóa nghệ thuật:

Nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạc tượng, nghệ thuật kiến trúc hình thành. Trống đồng Đông Sơn phát triển vượt bậc, biểu tượng văn hóa, nghệ thuật giá trị đặc sắc.

- Chữ viết:

Chữ viết Đông Sơn được chạm khắc trên các công cụ, vũ khí đồng thau, đường nét còn sơ lược nhưng khúc triết, rõ ràng. Ngoài ra có các dạng văn tự khác trên đồ đá, đồ gốm.

Loại văn tự thắt nút dùng một số sợi dây có màu sắc khác nhau buộc thành các nút khác nhau để trao đổi thông tin.

- Về kỹ thuật quân sự:

Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng loại hình, độc đáo hình dáng, phong phú số lượng. Thành quách với các bức thành kiên cố với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy bảo vệ phòng thủ.

- Tín ngưỡng, tôn giáo:

Tín ngưỡng bái vật giáo, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên.

- Phong tục:

Xuất hiện tục nhuộm răng, ăn trầu, phong tục cưới xin, ma chay, phong tục lễ hội. Lễ hội thời này khá phong phú như hội mùa, hội cầu, hội nước..

*Vị trí Văn hóa Đông Sơn trong tiến trình và phát triển văn hóa Việt Nam:

- Văn hóa Đông Sơn là cốt lõi của người Việt cổ. Cùng Văn hóa Óc Eo, Văn hóa Sa Huỳnh tạo "tam giác văn hóa" của người Việt.

- Văn hóa Đông Sơn tạo nền tảng để văn hóa Việt Nam giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á trong thiên niên kỷ đầu SCN mà vẫn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Nguồn

Sites. Google

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
74415309_1246440602222856_6347564898704162816_o.jpg


Văn hóa Đông Sơn - phát hiện và nghiên cứu.

Văn hóa Đông Sơn đặt tên theo di tích khảo cổ Đông Sơn 1924 ở xã Đông Sơn thuộc vùng sông Mã, Thanh Hóa.

Những khai quật Đông Sơn đầu tiên từ 1924 đến 1932 dưới điều khiển của L. Pajot thuế quan sưu tầm cổ vật ở Thanh Hóa.

Bản báo cáo 1929 các chuyến khai quật kể trên, ông V. Goloubew, học giả Pháp thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ, mệnh danh đó là:

"Thời đại đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ" để ám chỉ nền văn hóa khảo cổ mới được khám phá này. Thuật ngữ "Văn hóa Đông Sơn" được nhà khảo cổ người Áo: R. Heine - Geldern đề xuất lần đầu 1934.

Công cuộc nghiên cứu khảo cổ Việt từ 1954 đến nay xác định rõ Đông Sơn là nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt, tồn tại gần 1 thiên niên kỷ, từ TK. VIII TCN đến thế kỷ thứ I SCN. Nhiều nơi thuộc khu nền văn hóa này còn có thể kéo dài tới TK. II-III SCN.

Văn hóa Đông Sơn ra đời là kết quả hội tụ nhiều văn hóa rực rỡ trước Văn hóa Đông Sơn thuộc thời đồng thau trong quá trình chiếm lĩnh vùng đồng bằng các sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ yếu là lưu vực sông Hồng.

Phạm vi phân bố Văn hóa Đông Sơn trên cơ bản là phạm vi ở miền Bắc Việt Nam.

Ra đời kỹ thuật đồ sắt thời này giúp kỹ thuật luyện đồng thau hoàn thiện, đồ đồng thau Đông Sơn phát triển rực rỡ.

Khoảng 500 di tích Văn hóa Đông Sơn hiện tồn tại ở Việt Nam, từ biên giới Việt Nam với Trung Quốc về phía Bắc; với Lào phía Tây; tỉnh Quảng Bình phía Nam.

Gồm đủ di tích khảo cổ tiêu biểu như di chỉ cư trú; di tích mộ táng; di chỉ - di tích cư trú - mộ táng; di tích xưởng, di chỉ - di tích cư trú - xưởng; nhiều nhất là các di tích tìm thấy hiện vật lẻ tẻ.

Tỉnh phát hiện nhiều di tích nhất là Thanh Hóa, 80 địa điểm. Vùng đồng bằng sông Hồng gần 130 di tích, 1 phần 3 ở tỉnh Hà Tây cũ.

Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình vùng sông Cả, địa phận cực Nam của Văn hóa Đông Sơn 54 di tích. Các nghiên cứu khảo cổ ở Việt Nam từ 1954 đến nay xác định Văn hóa Đông Sơn với chủ nhân là Âu Lạc cổ tồn tại gần 1 thiên niên kỷ, từ cuối thời đồng thau sang thời đồ sắt.

Bước chuyển sớm nhất từ Văn hóa Quỳ Chử, nền Văn hóa trước Đông Sơn thực tế diễn ra ở đồng bằng sông Hồng.

Kết quả xét nghiệm C. 14 trên các mẫu tro than lấy từ tầng địa chất Đông Sơn sâu nhất ở các khu Đồi Đà và chùa Thông, tiêu biểu vùng sông Hồng là 2704 90 (ZK 305) và 2655 90 (ZK 309).

Người ta có thể xác định Văn hóa Đông Sơn ở vùng này bắt đầu từ TK. VIII-VII TCN.

Vài nơi trong vùng, các chuyên viên khảo cổ khai quật những nông cụ sắt và dấu tích luyện sắt trong tầng lớp Văn hóa Đông Sơn sớm.

Vùng sông Mã giai đoạn chuyển tiếp từ Quỳ Chử sang Đông Sơn có phần muộn hơn, khoảng TK. VII - VI TCN.

Văn hóa Đông Sơn phân bố rộng nhưng mang tính thống nhất rất đậm nét.

Gần 90 năm phát hiện, nghiên cứu, đó là thống nhất giữa người Lạc và người Âu trong khối Việt cổ ở Đông Nam Á cổ đại.

Môi trường và cảnh quan sinh thái những vùng phân bố di tích Đông Sơn rất thuận lợi cho cuộc sống con người khiến nhiều di tích Văn hóa Đông Sơn được con người sử dụng kế thừa liên tục suốt 2000 năm (môi trường tối ưu đối với những người thuộc nền văn minh trồng lúa nước).

Thống nhất thể hiện rõ nhất là sưu tập đồ đồng Đông Sơn. Biểu tượng nổi bật Văn hóa Đông Sơn là trống đồng với kỹ thuật chế tạo vô cùng tinh xảo.

Văn hóa Đông Sơn sản sinh trống Đông Sơn, nhưng không phải chỉ có người Đông Sơn mới dùng và đúc trống Đông Sơn.

Nên ngoài trống Đông Sơn, tính thống nhất thể hiện rõ nét hơn là những rìu lưỡi xéo hình bàn chân hay hình dao xén của thợ giầy, những dao găm đốc hình thuẫn, hình củ hành.

Đặc biệt là những dao găm có cán đúc thành khối tượng người đứng với hai tay chống nạnh, những đồ đựng bằng đồng:

Những thạp, thố có hoa văn trang trí như hoa văn trang trí trên trống đồng.

Các đồ đồng khác thuộc các bộ hiện vật của công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, nhạc khí, đồ trang sức nghệ thuật cũng rất dễ nhận biết tính Đông Sơn thông qua những biểu hiện bên ngoài như hình dáng, hoa văn trang trí.

Kỹ thuật luyện kim độc đáo của Đông Sơn, lớp bụi thời gian phủ trùm lên các hiện vật này tạo lớp áo gỉ đồng mang màu sắc đặc biệt khiến chúng không thể lẫn với các hiện vật được tạo ở các trung tâm đúc đồng khác.

Tính thống nhất Văn hóa Đông Sơn là thống nhất trong đa dạng. Bên cạnh thống nhất cao, trên phạm vi rộng, khác biệt chỉ mang tính địa phương, khu vực. Có thể phân chia Văn hóa Đông Sơn thành các loại hình địa phương trong thống nhất chung:

Loại hình Văn hóa Đường Cồ, hay loại hình Văn hóa Sông Hồng, loại hình Văn hóa Đông Sơn hay loại hình Văn hóa Sông Mã, loại hình Văn hóa Làng Vạc hay loại hình Văn hóa Sông Cả.

Khác biệt địa phương có nguyên nhân sâu xa từ những nguồn gốc khác nhau Văn hóa Đông Sơn.

Trong quá trình ra đời trên cơ sở những nền văn hóa tiền Đông Sơn ở lưu vực các sông lớn trong khu vực.

Tính đa dạng đồng thời là kết quả ứng xử của người Đông Sơn với các môi trường, vùng vi sinh thái khác nhau. Đa dạng đồ đồng Đông Sơn phản ánh khác biệt địa phương Văn hóa Đông Sơn. Tuy cùng một loại hình hiện vật nhưng các vùng khác nhau, hình dáng chúng rất khác nhau.

Vài trường hợp:

Những rìu lưỡi xéo ở vùng sông Hồng có hình bàn chân hay ủng, nhưng những rìu lưỡi xéo ở vùng sông Mã lại có hình dao xén của thợ giầy.

Cùng là loại giáo có họng tra cán nhưng giáo vùng sông Hồng thường có phần họng ngắn hơn phần lưỡi, mặt cắt ngang của lưỡi là một hình thoi biến dạng.

Giáo vùng sông Mã có mặt cắt ngang là hình thoi cân đối, nhiều chiếc thêm những lỗ thủng.

Loại giáo hình lá mía có chuôi tra cán có thể nói là sản phẩm riêng vùng sông Mã.

Những hiện vật tạm gọi là lưỡi cày vùng sông Hồng có hình lá trầu hay hình tim, kích thước lớn, nhưng ở vùng sông Mã lại có hình chân vịt, vùng sông Cả có hình tam giác.

Những nông cụ làm đất khác mang đặc trưng vùng miền rất rõ nét như loại thuổng, xẻng của loại hình sông Hồng to khoẻ; loại hình sông Cả nhỏ và mảnh hơn.

Khác biệt về tỷ lệ những hiện vật cùng loại ở các vùng cũng là những biểu hiện góp phần làm nên đặc trưng cho từng loại hình.

Kết quả những khai quật mộ táng cho thấy cư dân ở lưu vực sông Cả thích dùng dao găm hơn ở vùng sông Mã và sông Hồng.

Giai đoạn cuối Văn hóa Đông Sơn đánh dấu bằng xuất hiện ngày càng nhiều các hiện vật và yếu tố ngoại lai.

Thí dụ đồ minh khí tùy táng bằng đồng thau thay vì chỉ bằng gốm, gỗ trước đó, trong khi đồ đồng bản địa khác biến mất dần trong các mộ táng địa phương.

Hiện tượng này tăng lên cùng chiều với bành trướng của người Hán.

Ở các địa bàn Văn hóa sông Hồng và sông Mã điều này xảy ra TK. I SCN.

Nhưng sâu hơn về phía Nam, ở lưu vực sông Cả, Văn hóa Đông Sơn còn kéo dài đến TK. II - III.

Những thợ kim khí Đông Sơn hoàn toàn làm chủ kỹ thuật của họ trong mọi lĩnh vực quá trình đúc đồng. Thành phần chính đồng thau Đông Sơn là đồng, chì, thiếc.

Hợp kim của đồng với tỷ lệ chì cao thành nét độc đáo cổ đồng Đông Sơn.

Kỹ thuật luyện kim và hợp chất đồng đặc biệt này sử dụng đồng nhất trong toàn địa bàn phân bố Văn hóa Đông Sơn, từ vùng đất cao Âu Việt đến vùng đồng bằng Lạc Việt cư dân Âu Lạc thời cổ.

Chỉ thỉnh thoảng lắm mới có biệt lệ, thí dụ trống đồng Thượng Nông và các nông cụ bằng đồng tìm được ở Cổ Loa gần Hà Nội.

Dựa theo chủng loại và chức năng, các loại đồ đồng thau sử dụng trong khu Văn hóa Đông Sơn phân thành 7 nhóm sau đây:

1. VŨ KHÍ:

Lưỡi giáo, mũi tên, dao găm, đoản kiếm, rìu chiến, qua, giáp che ngực, vật dụng đeo binh khí, cung nỏ.

2. DỤNG CỤ SẢN XUẤT:

Rìu, cuốc, thuổng, lưỡi cày, lưỡi liềm, dùi, đục, dũa.

3. DỤNG CỤ SINH HOẠT:

Thạp, thố, bình, âu, khay, đĩa, chậu, lọ, ấm, muôi, đèn dầu, cốc trầm.

4. NHẠC CỤ:

Chuông, lục lạc, trống, khèn, chiêng, cồng chỉ tìm thấy trong phần trang trí trên các trống, thạp, các hình tượng nhỏ.

5. ĐỒ TRANG SỨC: Vòng tay, vòng chân, vòng tai, khóa thắt lưng.

6. HÌNH TƯỢNG NHỎ:

Thường là các tượng người hay thú đúc nhỏ để gắn trên các hiện vật khác, dùng trang trí, có công dụng cầm tay hoặc làm móc chặn.

7. HIỆN VẬT MINH KHÍ:

Đồ thu nhỏ dùng để tùy táng, hầu hết vật dụng bằng đồng thau điển hình dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Kỹ thuật đúc các đồ đồng này thường sơ sài, mỏng manh.

Vật dụng cùng chủng loại ở mỗi địa phương có khác nhau về hình dáng và hoa văn trang trí. Hình dạng chúng biến cải cho thích hợp với môi trường thiên nhiên sinh thái từng vùng.

Có 3 loại hình dạng và hoa văn trang trí chủ yếu, tập trung vào 3 sông chính trong phạm vi tồn tại Văn hóa Đông Sơn.

1. Loại hình Đường Cồ, sông Hồng.

2. Loại hình Đông Sơn, sông Mã.

3. Loại hình Làng Vạc, sông Cả.

Mối giao lưu trao đổi Văn hóa Đông Sơn với các nền văn hóa láng giềng góp phần làm tăng thêm những sắc thái địa phương các loại hình trong quá trình phát triển và hội tụ nền văn hóa.

Mặt khác khẳng định tính cởi mở của người Đông Sơn về hòa nhập với các nền văn hóa lân cận.

Phong cách họng lõm ở một số giáo, ở những rìu chiến, thuổng - mai, kiểu dao găm lưỡi lượn gấp khúc, kiểu dao găm có cán là các khối tượng động vật, khóa thắt lưng, các tượng tròn, tượng bẹt là kết quả học tập của Văn hóa Đông Sơn từ các nền văn hóa các cư dân chuyên chăn nuôi của Văn hóa Điền.

Những âu có chân, chậu đồng, bình đồng là những hiện vật mà người Đông Sơn học người Hán nhưng khéo kết hợp những trang trí ưa thích như đường văn thừng nổi, người trang sức lông chim cách điệu, ngôi sao - mặt trời ở trung tâm các đồ vật.

Đồ đồng Văn hóa Điền, Hán làm phong phú thêm chủng loại hiện vật Văn hóa Đông Sơn.

Các khóa thắt lưng do người Đông Sơn chế tạo gắn thêm các lục lạc trang trí.

Những thú dữ như voi, cọp trên cán dao găm hoặc vòng trang sức người Điền biến cải thành hiền hòa, dễ mến trong đồ đồng Đông Sơn.

Văn hóa Đông Sơn tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài, ngược lại, ảnh hưởng của nó lan tỏa đến các vùng văn hóa khác.

Ra ngoài địa phận Việt, ảnh hưởng Văn hóa Đông Sơn trải từ miền Nam Trung Quốc đến các hải đảo phía dưới Đông Nam Á.

Các tỉnh miền Nam và duyên hải Nam Trung Hoa, số lượng trống đồng cổ có hoa văn trang trí hình người đội lông chim cách điệu, hình thuyền, chim Lạc và những trang trí hình học đặc biệt của Văn hóa Đông Sơn được phát hiện không ít.

Các đồ đồng thau với hình dạng đặc trưng loại hình sông Hồng như rìu hình bàn chân có hoa văn trang trí hình người hóa trang, rìu gót vuông có trang trí ở họng.

Dao găm có cán là khối tượng người, rìu hình lưỡi câu có hoa văn hình học, tìm thấy trong khắp vùng hạ lưu sông Dương Tử.

Lao chuôi tra cán hình ngòi bút, lưỡi cuốc đồng hình chữ U đặc biệt của loại hình sông Hồng sử dụng rộng rãi lan tận vùng Bắc sông Trường Giang.

Các loại rìu chiến lưỡi xéo, hay gót vuông họng lõm, lưỡi giáo tam giác có lỗ để treo các khối tượng người nhỏ, loại lưỡi cày hình tim dùng rộng rãi trong Văn hóa Điền ở Vân Nam.

Những đồ đựng ốc tiền bằng đồng thau của vùng Văn hóa Điền có xuất xứ từ miền duyên hải Việt.

Địa bàn Văn hóa Sa Huỳnh phía Nam, lưỡi giáo và rìu Đông Sơn tìm ra ở các vùng Tam Kỳ, Điện Bàn. Đặc biệt những năm gần đây vùng Tây Nguyên phát hiện số lớn các trống loại I Hêgơ, chứng minh sức lan tỏa mạnh mẽ Văn hóa Đông Sơn cũng như tính thống nhất trong đa dạng văn hóa này.

Trong hay ngoài phạm vi phân bố Văn hóa Đông Sơn, đồ đồng Đông Sơn vẫn dễ nhận ra với màu sắc gỉ đồng, hình dáng, và các hoa văn trang trí đặc biệt.

Đấy là các dấu ấn khó lầm lẫn của Văn hóa Đông Sơn độc đáo.

Văn hóa Đông Sơn thống nhất làm hình thành nên bản sắc văn hóa thống nhất.

Trong 1 thiên niên kỷ mà Văn hóa Đông Sơn tồn tại, trên khắp lục địa Á - Âu, những thăng trầm đầy kịch tính, các nền văn hóa khảo cổ đồng thời là thực tế lịch sử.

Tồn tại sống động và phát triển rực rỡ Văn hóa Đông Sơn làm nên bản lĩnh Đông Sơn.

Sau gần 1000 năm Bắc thuộc, người Việt không bị đồng hóa và giành độc lập tự do.

Hiện vật Đông Sơn:

Ấm đồng. Bình đồng. Dao đồng. Mũi mác. Muôi đồng. Nhạc khí đồng. Thố đồng. Thạp đồng.

Hồng Hạnh (Tổng hợp)

Nguồn: Nguyễn Quốc Bình, Văn hóa Đông Sơn – 85 năm phát hiện và nghiên cứu. Tạp chí Cổ vật tinh hoa, số 4 năm 2009.

Nguồn

Web baotanglichsu

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
74655063_1247486138784969_5828902784023396352_o.jpg


Văn hóa Đông Sơn tại Indonesia

Từ lâu, tôi ao ước thăm Indonesia - nước láng giềng có nhiều mối quan hệ văn hóa với Việt Nam, thậm chí còn được xem như quan hệ tộc thuộc với chúng ta.

Cuối 3-2001, ao ước này mới thành sự thật. Những mối quan hệ về văn hóa giữa hai nước, tôi chỉ muốn nói tương đồng khi khảo sát văn hóa thời đại đồ đồng tại đảo quốc này.

Đất nước nghìn đảo

Indonesia là quần đảo ở Đông Nam lục địa Châu Á, khoảng 17.000 đảo lớn, nhỏ - tạo thành chuỗi đảo với tổng diện tích 1.922.570km2 so với 331.000 km2 của Việt Nam và bờ biển tới 55.000km so với 2.200km của Việt Nam.

Phần nào vì "đa đảo" mà Indonesia cũng là một nước đa sắc tộc và đa ngôn ngữ. Trong 209 triệu người có 2 nhóm lớn nhất:

Người Java chiếm 45%, người Suda chiếm 14%. Còn lại thuộc vô vàn các nhóm tộc người:

Batak, Hayak, Toratja, Bugi.. Chỉ riêng đảo Kalimantan 200 nhóm.

Hiện chưa thấy có tài liệu nào cho biết chữ viết cổ của các nhóm cư dân trên đảo.

Chỉ có thể đoán những năm đầu Công Nguyên, các thương gia và các tu sĩ Ấn Độ mang theo Ấn Độ giáo và Phật giáo với chữ viết Sanscrit và tiếng Pali đến dân bản địa.

Ngoài ngôn ngữ chung của họ là Malay – Polynesia, đúng hơn là Bahana, còn có 583 ngôn ngữ khác. Quốc đảo này có điểm hơi khác với những cộng đồng ở Đông Nam Á lục địa – nơi vương quốc xuất hiện vào sơ kỳ thời đại sắt.

Theo bản văn khắc trên mái đá ở Java, mãi TK. V cấu trúc quốc gia đầu tiên mới xuất hiện với tên gọi Taruma của vua Purnavarman.

Đến TK. VII, lãnh thổ Turama trải rộng ra hàng nghìn hòn đảo và tiếp tục hưng thịnh.

300 năm TCN đồ đồng được du nhập từ Việt Nam, Thái Lan và Trung Hoa, hòa cùng đồ đồng bản địa tạo nền văn hóa đồ đồng đa dạng.

Tuy không giỏi về đúc đồng, người indonesia lại khá về lĩnh vực đóng thuyền để đi biển.

Có thể nói những thế kỷ TCN, thuyền bè họ qua lại từ Madagascar đến Hawaii.

Điều này giải thích phần lớn dân Madagascar có nguồn gốc Malay - Polynesia, đồ đồng Đông Sơn có mặt ở cả Malaysia và Thái Lan. Thêm một chút chuyện bên lề, tuyệt nhiên không món Đông Sơn nào được tìm thấy tại Philippines.

Ngoài thời gian ngắn ngủi tìm hiểu đất nước, con người, chúng tôi dành phần lớn thời gian để tìm hiểu về Indonesia trầm tĩnh hơn của một thời đã qua:

Viện Khảo cổ Quốc gia Indonesia

GS. TS R. P. Soejono, chuyên gia về đồ đồng. Ông từng đào hai trống đồng sau đó mang tên ông.

Giáo sư và bà phụ tá cho chúng tôi biết, Indonesia tìm được 80 trống đồng bao gồm cả mảnh vỡ, vụn trong đó có 78 trống loại Heger I (1), chỉ có 2 trống loại IV.

Theo họ, các trống loại Heger I hầu hết nhập cảng từ Bắc Việt Nam và một số từ Nam Trung Hoa.

Trống Indonesia hình dáng hoàn toàn khác. Ví dụ, trống Pejang tại Bali cao gần 186, 5cm và đường kính 160cm, niên đại những thế kỷ đầu CN, hoa văn phảng phất vài nét Đông Sơn.

Rất nhiều huyền thoại về trống khổng lồ này, thậm chí nó còn là biểu tượng của trục bánh xe để chở mặt trăng (trống còn gọi Pejang Moon).

Hàng trăm trống bản địa khác được sản xuất liên tục đến những thế kỷ gần đây thường cao 45cm và đường kính 20cm.

Viện Bảo tàng Quốc gia Jarkata (Pusta)

Do người Hà Lan xây năm 1868, Pusta là nơi trưng bày nhiều đồ gốm Việt Nam quý giá hơn cả các Viện Bảo tàng Hà Nội, Sài Gòn, Guimet Paris hay Princessechop, Lewarden..

Chúng tôi được bà Dedah tiếp trong phòng làm việc kiêm luôn nhà kho, chứa ngổn ngang các cổ vật quý trong đó có đầy rẫy trống Đông Sơn.

Bà cho phép chúng tôi chụp ảnh rất nhiều hiện vật. Theo bà, đến nay, chưa ai tìm thấy bất kỳ vũ khí Đông Sơn nào ở Indonesia; chỉ có vũ khí đồ đồng bản địa có hoa văn chịu ảnh hưởng Đông Sơn.

Những vấn đề chưa được giải đáp ổn thỏa

Sau nhiều tìm tòi và thảo luận cùng các chuyên gia tại Indonesia, chúng tôi nhận xét và thắc mắc:

1. Kích thước hoa văn trên những trống đồng

Dù đọc nhiều sách nói về trống đồng ở các Viện Bảo tàng trên thế giới cũng như các bộ sưu tập tư nhân, thế mà chúng tôi sửng sốt trước 4 trống khổng lồ của viện (3 chiếc tên Sangeang, 1 chiếc tên Kur).

Dáng trống rất đẹp, hoa văn rất rõ ràng. So về thể tích, trống ở Indonesia to hơn những trống lớn nhất của Việt Nam như đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Huế, Viện Bảo tàng Lịch sử Hà Nội..

Đáng tiếc thân trống đồng ở Indonesia hầu hết không còn được lành lặn tuy nhiên hoa văn trên mặt và thân cũng như phần chân còn rất rõ nét.

Dù thiếu cảnh sinh hoạt như các trống quan trọng và đẹp nhất của ta nhưng trên trống của họ cũng thấy hình ảnh nhà sàn và người trong nhà sàn rất rõ.

Tang trống và chân nhiều cảnh hiện thực với hoa văn người, ngựa, voi và công.

Riêng về trống Kur, đúc nổi 8 chữ Hán phía ngoài mặt trống nơi chân của con cóc bị gẫy văng mất. Giáo sư Đại học Harvard người Trung Hoa tên L. S. Yang dịch:

"Tam thế" và "Thế tam", những từ quen thuộc và đặc trưng của Phật giáo.

Vì trống Kur và các trống quan trọng nhất ở Indonesia rất giống các trống lớn loại I của Việt Nam nên các học giả hai nước đều thẩm định đúc TK. II hoặc III TCN.

Ý kiến này bị các học giả phương Tây bác bỏ vì theo họ, Phật giáo truyền sang Indonesia những năm đầu CN và đến những TK. II mới du nhập Việt Nam (2).

Theo Kemper và một số học giả Tây phương thì trống đồng Kur chỉ đúc tại Bắc Việt Nam TK. III.

Giả thuyết này được ủng hộ thêm khi gần đây, các nhà khảo cổ tìm được mảnh khuôn đúc trống đồng tại Luy Lâu.

2. Sao những trống đồng Việt Nam tìm thấy ở Indonesia lại to đẹp hơn trống đồng của giới quý tộc Việt Nam?

Thoáng nghĩ thời này, người Tàu đô hộ nước ta được 200 - 300 năm; thế còn đúc trống làm gì khi chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng có thể không còn nữa?

Hơn nữa, Mã Viện với mưu đồ đồng hóa người Việt, lệnh tịch thu khí giới và trống đồng để đúc thành ngựa đem về Lạc Dương dâng vua Hán. Sao ta lại có thể có những trống đồng đẹp đến thế?

Keith Taylor cho rằng người Tàu xâm lược, thất bại trong Hán hóa người mình, ngược lại, chính họ đã Việt hóa.

Việc đúc trống vẫn tồn tại, bằng chứng là các trống Mường loại Heger II vẫn sản xuất mãi đến TK. X.

Thêm nữa, ta tìm ra những mảnh giáp trụ đặc trưng Lạc Việt có hoa văn tiêu biểu văn hóa Hán. Riêng điều này đồng nghĩa suy nghĩ ta vẫn còn quân đội.

Các Lạc Hầu, Lạc Tướng vẫn trực tiếp cai trị dân và nhu cầu trống đồng vẫn tồn tại ngay cả khi bị Tàu đô hộ. Đặc biệt nhất, thời này, Giao Châu có Thái Thú Sĩ Nhiếp (137-226) khôn ngoan cai trị. Ông được lòng dân đến nỗi khi mất, dân lập đền thờ và tôn gọi Sĩ Vương. Kinh tế mở mang và giao thương phát triển, trống đồng Việt Nam thêm cơ hội lên thuyền ra khơi.

Giải thích khác là từ khi Mã Viện xâm lược, một số thủ lĩnh người Việt đem gia quyến, thân thuộc và không quên mang theo cả báu vật giữ gìn từ nhiều thế hệ xuôi xuống phía Nam, ra tận các hải đảo lánh nạn.

Họ được các "chúa đảo" - những người anh em tộc thuộc – che chở trong cơn hoạn nạn.

Còn những chữ Hán trên trống, có thể vì các thủ lĩnh người Việt cúng dâng báu vật cho các chùa chiền - nên nó được các nhà sư in dấu ấn Phật giáo lên đó.

Trước mùa hè 2001, Việt Nam chưa tìm ra trống lớn hơn trống Hữu Chung.

Đột nhiên vài tháng sau, làm quốc lộ Bắc Nam, còn gọi đường Trường Sơn, lần lượt tìm thấy những trống lớn hơn 100cm. Đến nay, chúng tôi thấy tận mắt ít nhất 10 trống kích thước như thế.

Viện BTLS Hà Nội hiện trưng bày 1 trống đường kính 117cm, Viện Bảo tàng Huế thu nhập một mặt trống đường kính 130cm.

Nhà hàng sang trọng bậc nhất Hà Nội lấy tên Trống Đồng trưng bày 12 trống, có 2 trống đường kính 105cm.

Tương lai, số trống khổng lồ phát hiện ở Bắc Việt Nam sẽ vượt xa số trống tìm thấy ở Indonesia.

Hoa văn trên trống mới tìm được rất giống những trống khổng lồ của Indonesia.

Đáng chú ý hơn là 3 trống đồng có hoa văn ở chân trống chúng tôi được xem tại Đắc Lắc vừa qua.

Người ta nói với chúng tôi, 3 trống này tìm thấy ở thượng nguồn sông Dra Rang hè 2007.

Đây là đặc điểm của những trống khổng lồ có ở Indonesia vì trên 100 năm nay mới phát giác ra loại này tại Việt Nam.

Thêm khám phá lý thú là trên vài mặt trống tại Indonsia có hình người ngồi bó gối, đội mũ lông cao, tay ôm đầu - điểm tương tự ở rất nhiều trống tìm thấy sau này và chưa hề tìm thấy tại Nam Trung Hoa.

Sau cùng, hoa văn ngựa trên trống Sangeang minh chứng hùng hồn việc trống chỉ được làm sau khi người Hán đặt chân lên đất Giao Chỉ.

Hình người trên trống mặc áo dài phủ chân biểu hiện thế hệ cách xa thời đóng khố.

3. Nguồn gốc 70 trống đồng Đông Sơn có kích thước nhỏ từ đâu đến?

- Do buôn bán từ nhiều thế kỷ TCN.

- Do phân phát quyền uy - thuyết này do vài học giả phương Tây đưa.

Thời đồ đồng, có thể Bắc Việt Nam là trung tâm quyền lực, nhiều uy tín và đông dân nhất khu vực.

Dân đông gần gấp 2 lần tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nhập lại. Thủ lĩnh các nước:

Mã Lai, Indonesia, Thái Lan.. tới thăm viếng, giao hảo, khi về đều được tặng trống.

- Một giả thuyết khác của các học giả Trung Hoa, có thể một số thợ chuyên môn làm trống từ Vân Nam xuôi sông Hồng, lên thuyền vượt biển tới Indonesia đúc trống cho các thủ lĩnh địa phương.

Thuyết này khó đứng vững vì các nhóm thợ chuyên môn chỉ phục vụ cho các lãnh chúa hay giới quý tộc.

Nếu muốn đúc trống cần nhiều bộ phận chuyên biệt, thợ rừng đốn củi, thợ gốm làm khuôn, còn thợ mỏ và thợ nấu đồng.

Tới nơi xa lạ, sao biết tìm quặng mỏ chỗ nào? Nếu là thợ Vân Nam, sao họ lại không đúc trống mang phong cách mình mà phải mượn phong cách Đông Sơn vốn xa lạ với họ. Java không có thiếc là kim loại chính để pha với đồng.

4. Đặc thù hồi văn trên các đồ đồng

Các hoa văn trên đồ đông Đông Sơn có loại hoa văn hình học dùng để trang trí những tư duy toán học chưa được giải mã. Hoa văn này là hồi văn hay hoa văn hình chữ "Công."

Các học giả phương Tây gọi là Greek - Key. Dựa hoa văn này, Heine Geldern nói Văn hóa Đông Sơn có nguồn gốc ngoại lai dù ông đề xướng và đặt tên cho nền văn hóa thời đại đồ đồng và sắt sớm ở Bắc Việt Nam là Văn hóa Đông Sơn.

1932, ông cho Đông Sơn có liên hệ đến nền văn minh cổ Hallstatt ở Trung Âu.

Từ Châu Âu, nền văn minh này ảnh hưởng đến thời cổ điển Hy Lạp, truyền sang Trung Hoa thời Chu và ảnh hưởng đến nhóm Bách Việt TK. III - IV TCN, thời ông cho là cực thịnh của văn hóa Đông Sơn (3).

Thoạt nhìn ta thấy hồi văn Hy Lạp rất giống hồi văn Đông Sơn nhưng nhìn kĩ, hoa văn Đông Sơn là những biến thể hoa văn vòng tròn tiếp tuyến hay dấu hỏi - loại hoa văn căn bản thường thấy trên hàng trăm, nghìn món đồ đồng Đông Sơn.

Các hoa văn thời Đông Sơn không đột biến ngẫu nhiên mà là quá trình phát triển trải hàng nghìn năm từ thời Phùng Nguyên (2000 năm TCN) qua Đồng Đậu, Gò Mun. Từng bước đi các hoa văn này thể hiện rõ nhất trên đồ gốm.

Dựa hoa văn này, có thể vững tâm kết đoán những bình đồng ở Kerince và Madura của Indonesia nói trên đều xuất xứ từ Bắc Việt Nam.

5. Phải chăng người Việt cổ Đông Sơn và người Dayak có mối quan hệ tộc thuộc?

Câu hỏi các học giả Pháp đưa từ non thế kỷ trước, tiếp tục là thắc mắc.

Dayak là bộ tộc riêng biệt ở Borneo, nơi có rất nhiều rừng rậm. Người Dayak sống sâu nội địa, người Mã Lai theo Hồi giáo thích sống vùng ven biển hơn.

Phía Bắc đảo Borneo có quốc gia nhỏ nhưng giàu nhất Đông Nam Á là Brunei. Một phần phía Tây Bắc đảo thuộc Malaysia.

Phần chính còn lại của đảo thuộc Indonesia gọi là Kalimantan. Nay Dayak hơn 2 triệu người. Người Dayak và người Việt cổ Đông Sơn khá nhiều điểm giống nhau:

- Nơi cư trú là các vùng ven sông nước, làm ruộng nước. Phương tiện di chuyển chính là thuyền.

- Người Dayak cư trú trong các nhà sàn mái cong võng rất giống hình nhà sàn khắc họa trên các trống đồng Đông Sơn và các mái đình cổ ở miền Bắc Việt Nam (4).

- Phụ nữ có quyền ngang hàng hoặc hơn phái nam (tục ở rể).

- Có người chết, họ dùng thuyền làm đám tang đưa linh hồn về bên kia thế giới. Các học giả phương Tây dựa phong tục này để giải thích các hình thuyền trên tang trống Đông Sơn.

- TK. XX, vẫn thấy rải rác tục săn đầu người ở Indonesia (5).

Giống người Việt cổ Đông Sơn, người Dayak chôn theo người chết nhiều đồ tuỳ táng bằng đồng với những hoa văn giống nhau đến ngạc nhiên.

Khá nhiều việc cần phải làm để tìm câu trả lời ngọn ngành về mối quan hệ tộc thuộc giữa người Việt cổ Đông Sơn và người Dayak.

Thay lời kết

Thời đại đồ đồng ở Việt Nam và văn minh Đông Sơn của hơn 2000 năm trước làm cho chúng ta rất tự hào. Nhưng những nẻo đường chúng tôi qua từ Nam Trung Hoa đến Indonesia thời gian gần đây, chúng tôi mở tầm nhìn rộng hơn về vai trò Văn hóa Đông Sơn tại Đông Nam Á.

Rõ ràng nhất, mọi câu trả lời, giả thuyết trên đều chưa hài lòng. Cuộc "gặp gỡ" với các trống đồng ở Indonesia năm 2001 quá ngắn.

Nhưng hy vọng tương lai thật gần có dịp tỏ bày thêm - như biểu hiện tình yêu với những trống đồng Đông Sơn vừa oai vệ vừa quyến rũ.

Chúng tôi muốn dùng các tài liệu khoa cổ học để truy tìm nguồn gốc người Việt.

Từ lâu nhầm tưởng những trống quan trọng nhất và đẹp nhất như Hữu Chung, Ngọc Lũ chỉ dành cho vua chúa dùng.

Nay biết Indonesia còn có trống lớn hơn. Thời đó, Indonesia không có vua,

Nam Trung Hoa không có vua, nên niềm tin ta có vua càng giảm sút.

Chúng ta phải trông cậy vào lưỡi cuốc của các nhà khảo cổ trong tương lai, phải tìm hiểu và nghiên cứu thêm, may ra vấn đề nguồn cội và thắc mắc tiêu biểu nêu trên mới sáng tỏ.

Chú thích:

1. Trống loại Heger I, niên đại sớm (già) nhất, đến loại Heger II, Heger III, Heger IV là gần (trẻ) nhất.

2. Nguyễn Bá Lăng, Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, tập I - Sài Gòn 1972. Xem thêm: Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận.

3. Heine Geldern, Văn hóa Đông Sơn và cuộc thiên di của người Nam Đảo.

4. Nguyễn Văn Huyên, Góp phần nghiên cứu Văn hóa việt Nam, NXB. KHXH, Tập II - Hà Nội 1995 - 1996.

5. Đề cập đến vấn đề này với các chuyên gia ở Jakarta, họ muốn lướt qua thật nhanh. Đặc biệt người Dayak nổi tiếng rất hung dữ.

Cách đây không lâu, họ chặt đầu rất nhiều dân cư ở các đảo khác sang Kalimantan sinh sống, chính quyền trung ương không can thiệp kịp.

Theo các tài liệu Dân tộc học, người Việt cổ cũng có tục này. Hoa văn trên các trống quan trọng và trên thạp của Nam Việt Vương vẫn có cảnh chiến binh Đông Sơn kề dao sát cổ tù binh bị trói.

Một số minh họa khác có cảnh chiến sĩ tay cầm khí giới, tay cầm đầu lâu. 1996, tìm thấy ở Thanh Hóa dao găm cán tượng người, lưng đeo đầu lâu.

Nguồn: Xưa & Nay, số 303, 3 - 2008, tr 13

Tác giả bài viết: Kiều Quang Chẩn

Nguồn

Web vusta

Phát hiện 8 trống đồng Đông Sơn hơn 2.000 năm tuổi tại Malaysia

Trống đồng Đông Sơn có nguồn gốc từ Việt Nam, tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn và nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang.

Các nhà khoa học Malaysia nhận định 8 trống đồng Đông Sơn phát hiện tại một số điểm quanh bán đảo Malaysia, lưu lại nước này thời gian giao thương từ năm 500 TCN đến 500 SCN.

Dẫn lời phát biểu của PGS. TS. Adnan Jusoh (Giảng viên KHXH&NV, lịch sử của Đại học Pendidikan Sultan Idris) tại tọa đàm về khảo cổ học 9-4, ước tính trên được đưa ra dựa trên nghiên cứu mà ông và cộng sự bắt đầu thực hiện 2002 thông qua phân tích các họa tiết trên trống.

Theo TS. Adnan Jusoh, nhiều họa tiết trang trí khác nhau trên mặt trống và xung quanh trống liên quan đến hệ thống văn hóa-xã hội cộng đồng thời điểm đó.

Trống đồng Đông Sơn phát hiện đầu tiên ở Sungai Tembeling (bang Pahang, Malaysia) năm 1926.4 chiếc khác tìm thấy ở bang Selangor, 3 chiếc còn lại ở bang Terengganu.

Trống đồng thành biểu tượng thiêng liêng của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Liên quan tìm thấy trống đồng Đông Sơn, 28-3 san gạt đất làm nhà cho gia đình ở thôn Tả Thàng (xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai), những thợ phát hiện một trống đồng và một số di vật (xương, rìu đồng) nằm trong lòng đất.

Tổng thể trống đồng còn tương đối nguyên vẹn, cao 38cm, rộng đáy 67, 5cm, mặt trống có đường kính rộng 63cm, phần tang trống cao 23cm, phần bầu và mặt trống cao 15cm.

Trống đồng có 4 quai bố trí đối xứng hai bên cách nhau 27cm, xen kẽ giữa các hoa văn hình khắc vạch, hình người cách điệu và hình chim Lạc.

Chính giữa mặt trống khắc họa hoa văn hình mặt trời gồm 12 cánh, xung quanh là những vòng hoa văn hình chim Lạc và hình răng cưa đối xứng đều nhau.

Theo đánh giá bước đầu của cơ quan chuyên môn, trống này thuộc Văn hóa Đông Sơn. Tạm thời, trống đặt tên là trống đồng Gia Phú (gắn với tên địa danh hiện vật được tìm thấy).

Hiện trống này đưa về Bảo tàng Lào Cai để quản lý, gìn giữ, phát huy giá trị theo quy định Luật Di sản Văn hóa.

Bảo tàng Lào Cai lập tờ trình trình cấp có thẩm quyền mời các chuyên gia Viện Khảo cổ học Việt Nam, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á nghiên cứu, giám định trống này một cách khoa học, chính xác.

Bảo tàng Lào Cai hiện bảo quản, trưng bày trống đồng Pha Long (Văn hóa Đông Sơn, người Lào Cai phát hiện từ 1956) được công nhận 1 trong 22 Bảo vật Quốc gia.

Theo web chinhphu.vn

Nguồn

Web thoibaotaichinhvietnam

Phát hiện trống đồng Đông Sơn của người Việt cổ tại Timor Leste

Theo phóng viên TTXVN từ Timor Leste, quốc gia nhỏ bé ở Đông Nam Á này vừa có phát hiện khảo cổ đáng chú ý khi tìm thấy trống đồng Đông Sơn còn khá nguyên vẹn.

Trống đồng với đường kính 1, 03m, cao 78cm, nặng 80kg này phát hiện tình cờ tại địa điểm xây dựng ở Baucau, thành phố lớn thứ 2 của Timor Leste cuối năm ngoái.

Thông tin chính thức mới chỉ được công bố cuối tháng 11 vừa qua, sau khi các nhà nghiên cứu có những đánh giá sơ bộ.

Theo nhà khảo cổ Nuno Vasco Oliveira thuộc Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật thuộc Chính phủ Timor Leste, người bỏ nhiều công sức vào công trình nghiên cứu này, có thể khẳng định 99, 99% đây là trống đồng Đông Sơn, vốn là biểu tượng cho Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ.

Đây không phải lần đầu trống đồng Đông Sơn phát hiện tại Timor Leste.

Hai lần trước đây chỉ có phần mặt trống và hư hại nhiều, trong khi trống đồng phát hiện lần này ở nguyên trạng khá tốt.

Nhà khảo cổ Oliveira đánh giá đây là một trong những trống đồng Đông Sơn còn nguyên vẹn nhất tìm thấy ở Đông Nam Á.

Theo quan sát của phóng viên TTXVN, trên mặt trống vừa phát hiện có 4 khối tượng cóc trong khi giữa mặt trống là ngôi sao 12 cánh.

Do công tác phục chế mới tiến hành không lâu, nhiều họa tiết ở mặt trống và thân trống được làm rõ.

Như vậy, trống đồng này nhiều khả năng thuộc nhóm C (phân loại theo sự phân bố của những hình khắc và hoa văn trên trống).

Hiện trống đồng này đang được bảo quản tại Ủy ban Văn hóa Nghệ thuật Timor Leste.

Những công tác tiếp theo dự kiến tiến hành từ đầu năm tới là tiếp tục phục chế, mở rộng tìm kiếm, khảo cổ ở khu vực xung quanh địa điểm tìm thấy trống đồng.

Gửi mẫu phẩm tới Pháp để đánh giá chính xác chất liệu và niên đại (theo các chuyên gia ở Timor Leste, trống đồng Đông Sơn này có niên đại ít nhất 2.000 năm). Đây là hiện vật trưng bày tiêu biểu tại Bảo tàng Quốc gia Timor Leste đang xây dựng.

Ông Oliveira nhấn mạnh phát hiện này mang ý nghĩa rất lớn với Timor Leste, một quốc gia còn non trẻ.

Trước đó, các nhà khảo cổ từng tìm thấy nhiều hoa văn, họa tiết, hình khắc trên đá tương tự như trên trống đồng Đông Sơn ở các tỉnh phía Đông nước này.

Việc phát hiện trống đồng Đông Sơn càng khẳng định rõ nét hơn về sự hiện diện từ hàng nghìn năm trước của Văn hóa Đông Sơn tại đây.

Thông qua những nghiên cứu, lịch sử mảnh đất này sẽ được hiểu rõ hơn đồng thời cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích về văn hóa thời cổ ở khu vực Đông Nam Á.

Ông Oliveira bày tỏ hy vọng sẽ có thể cùng các chuyên gia khảo cổ Việt Nam chia sẻ thông tin, nghiên cứu về trống đồng này.

Trống đồng Đông Sơn là tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ, thường có kích thước đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hòa thể hiện trình độ cao về kỹ năng và nghệ thuật, hoa văn phong phú miêu tả sinh hoạt con người thời đại đó.

Nguồn

Web baohatinh

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
74888280_1246481592218757_2230503132448686080_o.jpg


Văn hóa Đông Sơn qua các loại hình di vật

Trống đồng

Trống đồng Đông Sơn

Năm 43 SCN, khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại. Thời Văn hóa Đông Sơn biểu tượng là những trống đồng Đông Sơn (loại Heger I) bị tuyệt diệt trước âm mưu phá hủy tận gốc di sản văn hóa Việt của người Hán.

Mã Viện tận thu trống đồng để đúc ngựa đồng, cột đồng, muốn làm người Lạc Việt quên trống Đông Sơn, quên cội nguồn.

Bất chấp mưu thâm độc, người Việt cổ vẫn đúc, dùng trống đồng.

Trống Đông Sơn đúc trong sào huyệt phương Bắc - thành Luy Lâu ở TK. IV-V SCN.

11-1998, nhà khảo cổ Nishimura tìm mảnh khuôn trống Đông Sơn đầu tiên tại khu thành lũy phía Bắc Luy Lâu.

Khai quật 2014-2015 của BTLSQG gần 1.000 mảnh khuôn đúc trống bằng đất nung, gồm khuôn ngoài và khuôn trong, thuộc các bộ phận mặt, tang, lưng, chân.

Các mảnh khuôn ngoài thường có những vòng hoa văn điển hình trống Đông Sơn:

Vòng tròn tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm, vạch ngắn song song, văn bông lúa..

Mảnh khuôn ngoài thường đỏ hoặc đỏ nhạt, mảnh khuôn trong thường trắng xám, đặc.

Tìm thấy mảnh khuôn trống, một số hiện vật liên quan quy trình đúc trống, ví dụ bàn xoay hay phễu rót đồng.

Các mảnh khuôn đúc này phát hiện trong tầng văn hóa từ TK. I SCN.

Phát hiện trên có ý nghĩa cực quan trọng, sức sống Đông Sơn vẫn mãnh liệt, kể cả khi Giao Chỉ bị đô hộ. Kẻ thù thất bại đồng hóa.

Trống đồng loại II Heger, tiếp nối truyền thống trống Đông Sơn

Trống loại II (theo phân loại Heger) kế thừa tiếp nối trống Đông Sơn.

Trống loại II nảy sinh trên cơ sở trống loại I Heger đang suy tàn [10, tr. 179] . Trống này là trống Mường, vì thấy nhiều ở vùng dân tộc Mường.

Kế thừa kỹ thuật đúc trống đồng loại II (như các con kê rải giữa khuôn trong và khuôn ngoài để định vị đồng nóng chảy khỏi phá khuôn). Chứng tỏ thợ đúc trống Đông Sơn cũng đúc trống loại II.

Kế thừa mô típ hoa văn trống Đông Sơn trên nhóm trống loại II sớm, sớm có hoa văn người múa hóa trang, hoa văn hình học Đông Sơn.

Nhiều trống loại II ít nhiều ảnh hưởng mô típ trang trí hoa văn Hán, hoa văn ô trám đơn, ô trám lồng phổ biến trên trống đồng, phổ biến trên gạch trong mộ gạch thời Hán, tức có giao lưu văn hóa Hán - Việt [8, tr. 53-59] .

Trống loại II phát triển mạnh từ thời Bắc thuộc đến Lý - Trần.

Nhiều hoa văn trên trống loại II đậm dấu ấn hoa văn trên đá, trên gốm Lý - Trần như hoa văn hình rồng Lý - Trần uốn khúc hình sin, hoa văn chim phượng.

Trống đồng Xóm Rậm ở huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình) bố cục hoa văn cánh sen trên mặt trống khá giống bố cục trên bệ đá chùa Phật Tích..

Thời Hậu Lê, nhiều hoa văn trên đá, gốm thời này ảnh hưởng đến hoa văn trang trí trên trống đồng loại II.

Ví dụ trên trống loại II có nhiều hoa văn Phật giáo (như lá đề, lá sen trang trí theo phong cách đối đỉnh trong các băng hoa văn trên thân trống, giống hoa văn trang trí lá đề, lá sen đối đỉnh trang trí trên các chân đèn gốm thời Lê - Mạc).

Bên dòng trống loại II tồn tại, phát triển suốt thời Bắc thuộc, đến các triều đại quân chủ độc lập, người Việt còn sáng tạo những trống đồng khác.

Đó là trống đồng Cảnh Thịnh, đúc năm 1800, khá đẹp; nhưng hình dáng không chia làm 3 phần như các trống đồng truyền thống, mà là hình trụ tròn.

Ảnh hưởng một số hoa văn các loại trống khác (như hoa văn lá đề trống loại II, hoa văn nhũ đinh trống loại IV).

Trống đồng trong đời sống tinh thần người Việt

Tâm thức người Việt, trống đồng như người bạn đường lịch sử, hồn cốt đọng lại sâu lắng đời sống tinh thần dân tộc bao đời nay.

Người Việt nhân cách hóa trống đồng, coi là hiện thân thần linh thiêng trong đình, đền, chùa. Ở Việt Nam, tục thờ trống đồng từ rất sớm.

TK. X, Đinh Tiên Hoàng chú ý thu trống đồng phong tặng cho các địa phương để thờ. Khi Lý Thái Tông còn là thái tử, hành quân qua núi Đồng Cổ, mơ thấy thần núi xin theo đánh giặc. Sau này lập miếu thờ phía Bắc thành Thăng Long.

Tây Sơn, con trai Quang Trung là Nguyễn Quang Bân lập đền thờ ở núi Đồng Cổ, ở làng Đan Nê, Thanh Hóa.

Tận gần đây, những trống Ngọc Lũ, Thượng Lâm vẫn thờ trong đình, đền vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Hà Nội có đền Đồng Cổ ở phố Thụy Khuê, quận Ba Đình, nơi hàng năm hội thề Trung Hiếu vẫn vẹn nguyên linh thiêng và lòng tôn kính.

Trống đồng luôn có vị trí quan trọng đời sống văn hóa tinh thần dân tộc, khiến trống đồng cùng âm hưởng của nó luôn có sức sống mãnh liệt suốt lịch sử.

Nguồn

Web tapchikhxh

Trống đồng Bắc Lý: Biểu tượng văn hóa Đông Sơn ở Bắc Giang

(BGĐT) - Có thể nói trống đồng Bắc Lý là sản phẩm độc đáo và tiêu biểu Văn hóa Đông Sơn ở Bắc Giang.

Trống đồng Bắc Lý vinh danh trong tập sách những trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam.

Tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, trống đồng Bắc Lý trưng bày giới thiệu thu hút chú ý của khách tham quan và các nhà nghiên cứu về vẻ đẹp và giá trị của nó.

Văn hóa Đông Sơn là nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam, trong đó có vùng Bắc Giang.

1975, tại Gò Mụ, ấp Thi Đua, xã Bắc Lý (Hiệp Hòa) phát hiện trống đồng Bắc Lý và đến năm 1998 lại phát hiện trống đồng Xuân Giang tại xã Mai Trung (Hiệp Hòa).

Trống đồng Bắc Lý có đặc điểm giống trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, chứng tỏ tồn tại Văn hóa Đông Sơn, địa bàn sinh sống của cư dân Việt cổ ở vùng đất này.

Trống đồng Bắc Lý cao 45cm, đường kính mặt 55cm, hoa văn trang trí mang nhiều đặc điểm trống đồng Đông Sơn. Mặt trống trang trí hoa văn hình học và hoa văn hình chim theo xu hướng đơn giản hóa.

Chính giữa phủ kín bằng 9 vành hoa văn xung quanh ngôi sao nổi 12 cánh, xen các cánh là những vạch chéo song song, gần rìa mặt có 4 khối tượng cóc ngồi xung quanh ngược chiều kim đồng hồ.

Tang trống phình rộng cong tròn đầy, ôm gọn mặt trống. Chân trống choãi ra đường bệ theo kiểu hình nón cụt, trang trí hoa văn theo hình răng cưa, đầu nhọn quay xuống phía dưới tạo thành hình tam giác và có hoa văn vòng tròn kép.

Tang trống và đế trống nối lại với nhau bởi phần lưng trống thắt lại thanh thoát.

Thân trống trang trí hoa văn từng đoạn theo phương thẳng đứng, hai dải hoa văn hình học kiểu đường tròn đồng tâm không có tiếp tuyến.

Phần quai trống kiểu quai kép hình chữ C còn đủ hai đôi quai gắn vào giữa tang và thân trống. Về hình thức, trống đồng Bắc Lý giống trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ.

Các hoa văn tuy đơn giản nhưng các nghệ nhân khéo léo phối hợp hoa văn hình học, hoa văn răng lược với vòng tròn có chấm tiếp tuyến, vòng tròn lồng nhau có chấm nổi tiếp tuyến tạo nét độc đáo riêng cho loại hình trống đồng Bắc Lý.

Điểm nổi bật trong phong cách trang trí hoa văn trên trống đồng Bắc Lý là vành hoa văn chủ đạo trang trí hình chim.

Nghệ nhân tạo họa hình chim có mỏ dài, đuôi dài được phác họa bằng những đoạn thẳng gọn, có rất ít những đường lượn mềm thể hiện tạo họa hình chim. Điều đó nói lên xu hướng cách điệu trong nghệ thuật trang trí của các nghệ nhân.

Điểm khác biệt ở phong cách trang trí hoa văn trống đồng Bắc Lý là ở vành trang trí hình chim. Có 5 hình chim mỏ dài, đuôi dài.

Số lượng hình chim trang trí lẻ như vậy chưa hề thấy trong nhóm C của phân loại trống đồng Đông Sơn.

Nghệ nhân trang trí trống đồng Bắc Lý không tuân theo quy luật "ưu tiên số chẵn" như quy luật trang trí trống đồng Đông Sơn vốn có. Hình dáng tổng thể, tính chất hài hòa và cân đối của vành trang trí hoàn toàn không bị phá vỡ.

Trống đồng Bắc Lý không chỉ là hiện vật quý mà qua hiện vật này còn tìm thấy sự phát triển khá cao nghề đúc đồng. Các họa tiết hoa văn trang trí ở trống đồng còn phản ánh những ý niệm, tư tưởng, tình cảm người xưa.

Hình ảnh ngôi sao 12 cánh, 4 tượng cóc ở xung quanh biểu thị ý niệm về mặt trời, 12 tháng trong năm, tín ngưỡng thờ thần mặt trời trong tuần hoàn 4 mùa xuân, hạ, thu, đông; 5 con chim mỏ dài, biểu tượng cư dân Lạc Việt và nền văn minh lúa nước phát triển sớm trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại.

Trống đồng Bắc Lý là sản phẩm độc đáo và tiêu biểu của Văn hóa Đông Sơn ở Bắc Giang. Trống đồng Bắc Lý được vinh danh trong tập sách những trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam.

Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, trống đồng Bắc Lý được trưng bày giới thiệu thu hút sự chú ý của khách tham quan và các nhà nghiên cứu về vẻ đẹp và giá trị của nó.

Nguồn

Web baobacgiang

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
73084706_1252395531627363_4043821617397104640_o.jpg


Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn (phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa)

Sách "Thanh Hóa di tíchthắng cảnh" (tập I – NXB. Thanh Hóa 2000) có bài giới thiệu:

"Hàm Rồng Kỳ Tú, Hàm Rồng Anh Hùng" của nhà nghiên cứu sử học Phạm Tấn. Vẻ đẹp địa danh Hàm Rồng - sông Mã được Phạm Tấn tả sinh động được thiên nhiên ban tặng và là vẻ đẹp vùng văn hóa lịch sử do con người sáng tạo.

Bài viết này chúng tôi chỉ mong làm rõ thêm những giá trị lịch sử - văn hóa vùng đất Hàm Rồng dưới góc nhìn di chỉ khảo cổ học.

Địa điểm Đông Sơn nằm ở vị trí: 2206 vĩ tuyến Bắc, 114.093 kinh tuyến Đông, cách cầu Hàm Rồng không đầy 1km phía Tây Bắc.

Cách thành phố Thanh Hóa nay hơn 4km về phía Bắc - Đông Bắc, ngay bên hữu ngạn sông Mã, nằm vào khoảng trung tâm đồng bằng Thanh Hóa được thành tạo bởi phù sa hai sông Mã và Chu.

Cảnh quan ở đây có đặc điểm là đồng bằng với nhiều núi đảo thành tạo do đất nền nằm nông có trầm tích kỷ đệ tứ không dày lắm.

Nhìn thế đất, thế núi, thế sông đủ thấy người Đông Sơn xưa chọn địa điểm quần cư có vị trí ý nghĩa về kinh tế, quân sự lẫn chính trị.

Dựa lưng vào núi Rồng, một bộ phận của những dãy núi đất, đá vôi chằng chịt xung quanh như núi Cảnh Tiên, núi Chồng Mâm, núi Cuộc, núi Mướn, núi Tún.. từ đó có thể khai thác gỗ, đá để sản xuất, xây dựng, có thể săn bắt thú rừng hoặc phát triển chăn nuôi.

Phía thượng lưu và trước mặt bên kia sông là dải đất bằng phẳng, rộng mênh mông thẳng cánh cò bay, rất thuận tiện làm ruộng, cấy trồng, có lẽ đó là nguồn sống chủ yếu của người Đông Sơn xưa và trên cơ sở đó góp phần xây dựng nền văn hóa trống đồng rực rỡ.

Vì ngay bên sông nước khiến nghề đánh cá còn giữ vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế thời đó. Dùng sông nước làm phương tiện đi lại vốn là đặc điểm giao thông của người Việt xưa.

Từ đây có thể ngược dòng sông Mã gắn bó các nhóm tộc miền núi anh em hoặc có thể trôi xuôi ra biển giao tiếp những miền đất xa hơn.

Ba mặt có núi cao ngăn cách, phía trước là sông là vị trí tuyệt đẹp cho phòng thủ, yếu tố khách quan khá tốt bảo đảm an ninh cho tập thể người ở đây sống vào thời điểm xã hội nhiều biến động.

Vùng kinh tế thịnh đạt, đầu mối giao tiếp nối liền hệ thống các điểm quần cư như Thiệu Dương, Núi Nấp, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Hoằng Phượng.. cứ điểm phòng ngự đáng tin cậy, địa điểm Đông Sơn hẳn có vai trò khá lớn về chính trị.

Biết đâu, đây lại không phải là trị sở của bộ Cửu Chân nước Văn Lang xưa.

Biết đâu đây chẳng phải là căn cứ cuối cùng của nghĩa quân Hai Bà Trưng do Đô Dương tập họp chống lại đội quân Mã Viện[1] .

Khu vực Đông Sơn có thể giữ tư cách là trung tâm của bộ Cửu Chân thời Hùng Vương như trên chứng minh bằng ý nghĩa và tác dụng của vị trí địa lý tự nhiên của vùng này, nó còn có thể chứng minh bằng khảo cổ học.

Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn phát hiện 1924 do ngẫu nhiên tình cờ. Nguyễn Văn Lắm người làng Đông Sơn lúc đào giun để câu cá ngoài bờ sông Mã tình cờ phát hiện nhóm đồ đồng do đất sông lở làm lộ ra.

Những đồ đồng vừa tìm ở đây bị lọt vào tay một số người ngoại quốc như A. Pouyanre, L. Pajot, ngay sau đó trường Viễn Đông Bác Cổ (Louis Finot) liền uỷ nhiệm cho Pajot[2] - viên thương chính tỉnh Thanh Hóa lúc đó tiến hành những cuộc đào tìm cổ vật liên tục từ 1924 đến 1928 ở Đông Sơn, đặc biệt là dọc theo hữu ngạn sông Mã.

Một số lớn hiện vật đào ở Đông Sơn bán cho trường Viễn Đông Bác Cổ. L. Aurouseau, Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ lúc đó dự định nghiên cứu món tài liệu đã sưu tập được và công bố các hiện vật, nhưng 1929 ông mất nên không kịp thực hiện kế hoạch.

Về sau, từ những tài liệu đó, V. Goloubew - nhà nghiên cứu nghệ thuật học tổng kết cuộc đào của Pajot trong tác phẩm "Thời đại đồ đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ" (L' Age du bronze au Tonkin et dans le Nord Annam - BEFEO, Hanoi, Vol XXIX, p. 1-16).

Tuy phải thừa nhận có thời đại đồng thau ở Việt Nam nhưng tác giả lại cho niên đại thời đó chỉ bắt đầu ở đất Cửu Chân mọi rợ từ TK. I SCN do người bản xứ vốn còn ở thời kỳ đồ đá học được thuật luyện kim của người Trung Hoa mà có.

Công trình này của Goloubew không soi sáng mảy may những điều cần biết về tư liệu, nó hầu như không đem lại hiểu biết gì về địa điểm nổi tiếng này.

Tiếp sau L. Pajot, năm 1934 trong khi dẫn đầu chiến dịch khảo cổ do các viện bảo tàng ở Paris phối hợp trường Viễn Đông Bác Cổ cùng bảo trợ, ông George Coedes Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ uỷ thác cho O. Janse nhà khảo cổ học người Thuỵ Điển nghiên cứu địa điểm Đông Sơn.

Từ tháng Giêng năm 1935 đến 1939, O. Janse tiến hành 3 đợt khảo sát, khai quật tại Đông Sơn. Báo cáo của những lần khai quật ở đây được O. Janse công bố trong tập III công trình:

"Nghiên cứu Khảo cổ học ở Đông Dương" (Archaeological Research in Indo - China - Volum III - ST - Catherine. Press LTD - 1958).

So với L. Pajot thì O. Janse khai quật ở Đông Sơn có hệ thống và khoa học hơn, song chưa phải là báo cáo khoa học thuần. Hoàn toàn không theo dõi diễn biến của di vật, di tích trong lớp đất văn hóa.

Và tư liệu của O. Janse để lại gây cảm giác niên đại quá muộn của địa điểm Đông Sơn, khi chủ nhân nó tiếp xúc với văn hóa Hán.

Thành tựu lớn nhất khai quật Đông Sơn trước 1945 có lẽ là đưa di tích Đông Sơn vào nhận thức khoa học. Những trống đồng được sưu tầm có một nền khảo cổ là những di vật trong di tích khảo cổ Đông Sơn. Chứng tích đó cho phép gọi những trống Heger I là trống Đông Sơn[3] .

Những tư liệu gốc và những ý kiến do các học giả phương Tây công bố và phát biểu về địa điểm Đông Sơn còn rời rạc, tản mạn, độ tin cậy thấp.

Điều này đặt ra cho nền khảo cổ học nước nhà nhiệm vụ nặng nề. Muốn hiểu thực sự về địa điểm này rõ ràng phải kiểm tra cẩn thận nghiêm túc nếu không muốn nói trở lại từ đầu.

Cuối 1961 đầu 1962, cùng nhiệm vụ công tác nghiên cứu thời đồng thau nước nhà và thúc bách phải "chữa cháy", nhằm giải phóng mặt bằng cho nhà máy phân lân Hàm Rồng mở rộng phân xưởng.

Đội khảo cổ học (lúc đó thuộc Vụ Bảo tồn Bảo tàng) triển khai đào khai quật 1000m2 tại khu ven sông sát nhà máy phân lân hiện tại.

Nhiều hiện vật, di tích hiếm quý được phát hiện. Kết quả lần khai quật này làm rõ được di tích Đông Sơn có tầng văn hóa khảo cổ khá dày, nhưng bị xáo trộn.

Khẳng định những điều thu nhận từ trước 1945 là khu di chỉ cư trú và mộ táng thuộc giai đoạn Đông Sơn muộn.

Kế hoạch 3 năm nghiên cứu thời Hùng Vương (1968 - 1970) thôi thúc các nhà khảo cổ trở lại Đông Sơn.

Nghiên cứu thời Hùng Vương dưới góc độ khảo cổ học, trọng tâm là tìm hiểu lại văn hóa Đông Sơn khâu chủ yếu là địa điểm Đông Sơn.

Yêu cầu "chữa cháy" cho phục hồi lại nhà máy phân lân Hàm Rồng sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đặt yêu cầu cho các nhà khảo cổ trở lại Đông Sơn.

Trước khai quật này, các hố khai quật đều tập trung ở khu ven sông. Khai quật Đông Sơn 1969 - 1970 ở khu sườn núi và khu Cửa Luỹ (trong làng Đông Sơn) và khu ven sông.

Diện tích khai quật đợt này 509m2. Kết quả đem đến nhận thức mới về khu di tích Đông Sơn.

Qua địa tầng có thể phân rành mạch thành 2 giai đoạn chính, phát triển liên tục Văn hóa Đông Sơn. Tính kế thừa trực tiếp giai đoạn này còn chứng minh qua tư liệu mộ táng.

Đồng thời khai quật lần này là lần đầu đưa được những tài liệu về địa tầng cũng như mộ táng giai đoạn trước Đông Sơn, trực tiếp phát triển lên Văn hóa Đông Sơn. Sau này với nhiều tài liệu mới bổ sung gọi là giai đoạn Văn hóa Quỳ Chử.

Khai quật năm 1976 tiến hành thành 2 đợt do Viện Khảo cổ học chủ trì, đào 684m2 trên khu sườn núi. Kết quả đào khẳng định và làm rõ thêm địa tầng và các lớp mộ phát hiện 1969-1970.

3 khai quật lớn của các nhà khảo cổ Việt Nam với tổng diện tích 2.275m2. Về địa tầng ở khu sát bờ sông có thể khảo sát địa tầng ở hố V khai quật 1969-1970.

- Trên cùng là lớp cát sỏi dày trung bình 0, 40m.

- Thứ 2 là lớp đất màu đen sẫm, cứng và sỏi dăm thô, dày trung bình 0, 60m, có vết tích giai đoạn tiếp xúc Hán và thời muộn hơn Hán.

- Thứ 3 là lớp đất pha cát nhẹ và sỏi dăm, màu nâu xám hoặc xám vàng, dày 0, 40m - 0, 50m, có vết tích giai đoạn trước khi tiếp xúc với Hán.

- Thứ 4 là đất sét thịt pha cát, màu nâu, xám đen, xám trắng, dày 0, 30m - 0, 40m. Hiện vật thưa thớt, gốm mỏng hơn, dễ vỡ, khác với lớp trên.

Khu vực sườn núi có thể lấy địa tầng hố VII của đợt khai quật 1976 làm tiêu biểu.

- Trên cùng là lớp đất núi màu đỏ dày 0, 60m - 1m, do máy ủi san bạt tạo thành.

- Thứ 2 là lớp đất vàng sáng dày trung bình 0, 60m, đất tơi mềm, vết tích văn hóa muộn thuộc những thế kỷ SCN. Phần trên lớp đất này là đất canh tác.

Như vậy lớp thứ 2 này phần trên có thể tương ứng với lớp thứ nhất của khu bờ sông. Phần dưới tương ứng với lớp thứ 2 của khu bờ sông.

- Thứ 3 là lớp đất đen sẫm, dày trung bình 0, 60m, đất cứng, nhiều sỏi dăm, chứa phần lớn gốm thô, ít gốm cứng muộn (khoảng 25%), chứa các mộ nhóm III. Lớp này tương đương với lớp thứ 3 của khu bờ sông.

- Thứ 4 là lớp đất đen xám, dày trung bình 0, 40m - 0, 50m. Đất mềm, mịn, màu sắc sáng hơn so với lớp trên, chứa gốm thô thuần và các mộ nhóm II. Lớp này tương đương lớp thứ 4 của khu bờ sông.

- Thứ 5 là lớp đất sét vàng xám, dày trung bình 0, 15m - 0, 20m, thuần sét mịn, không có gốm, chứa nhóm mộ I. Lớp này tương đương với sinh thổ khu bờ sông.

Trong tầng văn hóa, ngoài những mộ táng chôn xen vào, những dấu vết khu cư trú là những mảnh gốm vỡ, những hiện vật bằng nhiều chất liệu.. còn có các di tích như những rãnh đất đen, đa số hình chữ nhật.

Những hố đất đen có hình dáng ổn định, có chứa gốm và xương thú. Các hố chôn cột được phân bố theo quy luật nhất định.

Các hố bếp cạnh có đá tảng xếp có ý thức. Có những cây gỗ có vết chặt, đục, đẽo, có lẽ là vết tích nhà sàn.

Tóm lại, về địa tầng từ lớp đất thứ 4 khu bờ sông và lớp đất thứ 4, thứ 5 của khu sườn núi thuộc văn hóa trước Đông Sơn, phần còn lại của tầng văn hóa gồm lớp đất thứ 2, thứ 3 khu bờ sông và khu sườn núi thuộc Văn hóa Đông Sơn.

Tầng văn hóa sâu 1, 40m - 1, 80m, dày trung bình 1, 00m - 1, 40m. Phân biệt được 2 giai đoạn trước khi tiếp xúc với Hán và đã tiếp xúc Hán.

Về mộ táng, so sánh phân tích di vật có trong các mộ kết hợp vị trí mộ trong các lớp đất thấy có tương ứng giữa các lớp mộ và các lớp đất.

Cụ thể là nhóm mộ trong lớp đất sâu nhất màu vàng, lớp đất thứ 5 ở khu sườn núi hoặc nằm trên lớp đất vàng này chứa gốm minh khí, bình con tiện có vai tròn, vỏ màu nâu ca cao nhạt, dễ bong lớp áo, khuyên tai đá, vòng tay mặt cắt chữ T.

Có đồ đồng nhưng rất ít, đặc biệt có loại dao xéo, giáo búp đa mặt cắt họng bầu dục. Có thể coi những mộ này thuộc giai đoạn trước Đông Sơn.

Những nhóm mộ còn lại nằm trong lớp đất thứ tư trở lên thuộc Văn hóa Đông Sơn. Có diễn biến sớm muộn rõ nét.

Ở nhóm mộ nằm trong lớp thứ 4, đồ gốm minh khí giảm mạnh, vòng tai đá còn nhiều. Gần gũi nhóm mộ trước Đông Sơn về chủng loại hiện vật.

Nằm trong lớp đất thứ 3 có các nhóm mộ xuất hiện gốm loại hình chậu hoa, nồi to. Gốm đỏ. Không còn gốm minh khí.

Đồ đồng có những hiện vật điển hình Văn hóa Đông Sơn, vẫn còn khuyên tai. Nhóm mộ muộn hơn có nhiều loại bát gốm thô.

Vòng tai đá bằng thạch anh và đá quý nhiều màu sắc. Xuất hiện đồ đồng minh khí.

Ở nhóm mộ nằm trong lớp đất thứ 2, đồ tuỳ táng xuất hiện di vật ngoại lai, đồ thuỷ tinh, đồ sắt nhiều.

Số lượng mộ táng phát hiện trong các khai quật của L. Pajot không được biết chính xác, chỉ còn 7 bản vẽ của các cuộc khai quật số 1, 2, 3 có lẽ ấn định cho các mộ. Những khai quật của O. Janse phát hiện 2 mộ bản địa, 16 hố mai táng.

Khai quật 1960 - 1961 phát hiện 35 mộ Đông Sơn trong đó 21 mộ có dấu vết tiếp xúc Việt - Hán, 14 mộ thuần bản địa.

Khai quật 1969-1970 và 1976 có thể phân biệt rạch ròi hơn:

Giai đoạn trước Đông Sơn có 168 mộ, giai đoạn Đông Sơn sớm có 32 mộ, giai đoạn Đông Sơn đã tiếp xúc với Hán có 24 mộ.

2003, để chuẩn bị kỷ niệm 80 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn (1924-2004), Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa phối hợp Khoa Sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia tiến hành điều tra khai quật:

Di chỉ khảo cổ học Đông Sơn lần thứ VI, nhằm quy hoạch khoanh vùng bảo vệ và phát huy giá trị di tích khảo cổ học Đông Sơn.

Di tích Đông Sơn sau gần 80 năm phát hiện đến nay việc quy hoạch khoanh vùng bảo vệ di tích hầu như chưa được thực hiện.

Yêu cầu lần khai quật này còn nhằm tìm vị trí thuận lợi để xây dựng trưng bày hố khai quật giới thiệu di chỉ khảo cổ học Đông Sơn dịp diễn ra hội nghị 80 năm.

Sau khảo sát, điều tra, đào thăm dò, đoàn khai quật quyết định mở hố khai quật tại khu vườn chùa trong làng Đông Sơn.

Vị trí hố khai quật lần này cách hố khai quật ở Cửa Lũy 1970 về phía Tây Nam 300m. Diện tích hố khai quật là 21m2 (7 x 3).

Dù diện tích khai quật không lớn nhưng kết quả rất khả quan, địa tầng hố khai quật ổn định không bị xáo trộn.

Các lớp văn hóa phân biệt được giai đoạn Văn hóa Đông Sơn tiếp xúc Hán, giai đoạn Đông Sơn trước khi tiếp xúc Hán và giai đoạn tiền Đông Sơn.

Đặc biệt trong lớp đất sát tầng sinh thổ phát hiện lớp mộ sớm tương tự ở các hố đợt khai quật 1969-1970 và 1976.

Như vậy hố khai quật 2003 đem lại nhận thức mới về di chỉ Đông Sơn khu vực trong làng.

Nếu trước đây O. Janse khi khai quật trong làng Đông Sơn chỉ giới hạn niên đại sớm nhất vào thời Tống (TK. X - XI).

Khai quật 1969 - 1970 cũng chỉ dừng ở mức độ nhận định khu di chỉ trong làng Đông Sơn có niên đại phân biệt được giai đoạn Đông Sơn trước khi tiếp xúc Hán.

Kết quả chỉnh lý sơ bộ hố khai quật đợt VI cho biết giai đoạn Văn hóa tiền Đông Sơn ở khu trong làng là rất rõ nét.

Lớp đất văn hóa thứ IV gốm giai đoạn Văn hóa Quỳ Chử rất rõ rệt. Chỉ trong 21m2 lớp đất sét vàng xám (0, 15 - 0, 20cm) sát sinh thổ phát hiện ít nhất dấu vết 8 mộ sớm (tương đương nhóm mộ I ở hố khai quật số VII đợt 1976).

Theo phân tích của PGS-TS khảo cổ học Phạm Minh Huyền (Viện Khảo cổ học Việt Nam), các mộ ở hố khai quật vườn chùa 2003 có dạng mộ quây đá, mộ đất.

Hố khai quật di chỉ Đông Sơn trong làng 2003 cho đánh giá lại những gì trước đây quan niệm về di tích Đông Sơn khu trong làng. Tầng văn hóa khảo cổ không hề mỏng mà tương đối dày trung bình 1m50.

Đặc biệt là khu di chỉ trong làng Đông Sơn cũng là khu di chỉ cư trú và mộ táng đồng tính chất như khu vực ngoài bờ sông Mã.

Khu vực phát hiện hố khai quật có diện tích rộng hàng ngàn m2 nằm ở khu vực vườn chùa, sân kho hợp tác của thôn Đông Sơn là địa điểm lý tưởng để khoanh vùng bảo vệ nghiên cứu lâu dài.

Di tích khảo cổ học Đông Sơn qua 6 lần khai quật chính thức, nhiều lần điều tra thám sát đem lại khối tư liệu phong phú về các loại hình di tích từ di tích cư trú (nhà sàn, bếp đun.) đến di tích mộ táng.

Hàng vạn hiện vật độc đáo từ những trống đồng Đông Sơn biểu trưng thủ lĩnh vùng đến những hòn chì lưới của nông dân đánh cá, từ những hiện vật các vùng miền xa xôi trên thế giới đến những mảnh gốm nung đốt trên Đông Sơn.

Tất cả phản ánh sinh động khách quan trình độ đời sống vật chất - tinh thần của người Đông Sơn. Đây là vùng đất trung tâm văn minh lưu vực sông Mã thời Hùng Vương.

Nguồn: Đỗ Quang Trọng, Di chỉ Khảo cổ học Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, Thanh Hóa di tích danh thắng, tập 3, NXB. Thanh Hóa, năm 2004, trang 16 - 28.

[1] Xem: Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Tập I - Dư địa chí - Nhân vật chí. NXB. Sử Học, Hà Nội 1960, tr28-29

[2] Louis Pajot là nghệ sĩ xiếc, nhưng vì muốn đi đây đi đó, ông làm thuỷ thủ đến Đông Dương. Sau đó ông kiếm 1 chức vụ phụ trách thương chính ở Thanh Hóa.

Pajot sưu tập đồ cổ, một phần cung cấp cho trường Viễn Đông Bác Cổ, còn lại đem bán cho các nhà sưu tầm tư gia. Louis Pajot từ trần trong cảnh ngộ bi đát thời chiến tranh.

Ông để lại một số báo cáo về những hiện vật tìm ở Đông Sơn và một số địa điểm khác ở Thanh Hóa (báo cáo tại trường Viễn Đông Bác Cổ, nay Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)

[3] Năm 1934 H. Geldern đề nghị lấy địa danh Đông Sơn đặt tên cho nền văn hóa thời đại đồng thau.

Nguồn

Web thanhnhaho

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
73038915_1247496285450621_1720877671908376576_o.jpg


Trống đồng Đông Sơn với kỹ thuật chế tác và trang trí tinh xảo là biểu tượng Văn hóa Đông Sơn.

Từ Văn hóa Phùng Nguyên tính đến thời điểm Đông Sơn vẫn là nền văn hóa đồ đồng có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồ đồng ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Khá nhiều di chỉ Văn hóa Ðông Sơn ở Phú Thọ, đặc biệt tập trung các di chỉ Ðông Sơn quanh Ðền Hùng và Việt Trì với các hiện vật bằng đồng nổi tiếng như trống đồng, bộ rìu gót vuông, rìu xéo, rìu hình thuổng, lục lạc, vòng ống, tấm che ngực, mũi lao, ngọn giáo, dao găm, vòng tay, v. V..

Qua hoa văn trên thạp đồng, trống đồng và hiện vật khảo cổ khác, thấy hình thái kinh tế, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cư dân Văn Lang.

Một trống đồng Hê Gơ loại I có đường kính lớn nhất trong số trống đồng cùng loại tìm thấy ở chân núi Nghĩa Lĩnh, núi Hùng và tiếp sau là trống đồng loại II còn gọi trống Mường chỉ có ở vùng người Mường, phát hiện nhiều nhất trong vùng Mường Phú Thọ với hơn 60 chiếc.

Cả nước ít hơn nhiều, chứng tỏ Phú Thọ từng là Đất Tổ. Trống đồng Mường xuất hiện tương ứng ngàn năm Bắc thuộc.

Đầu Công Nguyên, người Việt cổ phân thành 2 nhánh người Việt và người Mường là lúc ngàn năm Bắc thuộc, giặc nhiều lần thu vét trống đồng hoặc phá để thủ tiêu văn hóa Việt và tinh thần Việt.

Các làng vùng ngoài bị giặc lùng sục ráo riết hơn, từ đó trống đồng vắng bóng, bị cướp, hoặc chôn giấu dưới lòng đất. Ở vùng Mường khuất nẻo, tục đánh trống đồng duy trì nên vẫn đúc tiếp trống đồng.

Số trống đồng loại II đúc ra khi mất nước nói lên tình cảm của dân, nghệ nhân gửi gắm vào đó qua đơn giản hóa các họa tiết hoa văn và hình dáng kích thước trống.

Nhiều làng Mường Phú Thọ kể truyền thuyết về nhạc khí, trống đồng bị chôn giấu khi chạy giặc.

Trống đồng hầu như chỉ đào được ở xóm Chiềng các làng Mường vì xóm Chiềng là trung tâm một làng Mường, nơi quan thổ tù ở, có các đình miếu công đồng, hàng năm có các lễ hội lớn, tổ chức chàm thau (đánh trống, đánh chiêng đồng).

Nay phát hiện hơn 170 chiếc ở khắp đất Bắc Việt Nam. Trống đồng thể hiện trình độ cao kỹ thuật luyện kim đương thời.

Kiểu dáng và các hình trang trí trên mặt trống và tang trống thể hiện trình độ nghệ thuật cao, thẩm mỹ tinh tế, quan niệm nhất định về quan hệ giữa người và thế giới xung quanh.

Cấu tạo trống hài hòa, cân đối. Thân trống chia 3 phần rõ rệt: Tang, thân, chân. Mặt, tang, thân đều đúc nổi các hoa văn đặc trưng.

Mặt trống có mặt trời nhiều tia và các vòng hoa văn răng cưa, chim mỏ dài bay từ phải sang trái. Tang trống có vòng hoa văn răng cưa, đoạn thẳng ngắn song song, vòng tròn tiếp tuyến.

Thân trống có hoa văn hình thoi, vòng tròn có chấm, vòng hoa văn răng cưa, người hóa trang lông chim, người chơi nhạc cụ, giã gạo, thuyền, nhà..

Trống có 4 quai đôi đối xứng trên thân, quai trang trí những đường xương cá.

Thông qua những trống đồng với những hoa văn phong phú mang đậm nét nghệ thuật, người xưa chuyển tải tư duy, nhận thức để lại đời sau như cách lưu truyền nền văn hóa đương thời cho hậu thế.

Thí dụ:

Trong số trống Đông Sơn được phát hiện, trống Ngọc Lũ to nhất, hoa văn phong phú nhất, thể hiện kỹ thuật đúc đồng cao cấp thời Hùng Vương do cụ già phát hiện:

1893 khi đắp đê sông Hồng và để ở chùa Đọi ở núi Long Đọi (tức Long Đội Sơn tên thời Lý) thuộc làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Từ đó trống đồng Ngọc Lũ được thế giới biết tiếng.

Trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ:

Mặt trống tròn, giữa có sao nhiều cánh, xung quanh có hàng chục vành, mỗi vành một hoa văn: Hươu nai, chim cò, người hóa trang lông chim, tháp canh, hoa văn hình chữ S, hình tròn có tiếp tuyến v. V.. Tất cả khắc tinh tế, cùng kiểu dáng, đều đặn, đẹp.

Tang trống in nổi hình những thuyền có người chèo, người cầm cung tên. Các thuyền này thuộc thuyền đua và thuyền chiến.

Mỗi trống đồng thường trang trí khác nhau, giữ những nét đặc sắc chung, nhưng không dừng ở trình độ cách điệu như nhau.

Hoa văn trên trống đồng phản ánh bước tiến quan niệm thẩm mỹ.

Hoa văn khắc trên trống đồng (hay gốm) quan niệm như hình họa trang trí, ý nghĩa về nghệ thuật, quan trọng nhất của hoa văn là tư duy người xưa biết dùng:

Kinh Dịch để chuyển tải tư duy dưới hình thức những hoa văn trang trí, những người vẽ đồ án hoa văn thời Hùng Vương kết hợp hài hòa tư tưởng và nghệ thuật.

Họ là những nhà tư tưởng, những triết gia thời đại và Việt Nam.

Trình bày Kinh Dịch dưới dạng hoa văn cho thấy họ có tư duy linh hoạt, sáng tạo. Vài nội dung thể hiện Kinh Dịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ:

- Mặt trống Ngọc Lũ từ trung tâm trở ra có 16 vành. Giữa mặt là hình mặt trời 14 tia. Chú ý vành 8 và 10. Vành 8 có 2 nhóm, mỗi nhóm có 10 con hươu cách nhau bằng 2 tốp chim bay, 1 tốp 6 con, 1 tốp 8 con.

Hươu đi, chim bay. Hươu đực đi trước, theo sau là hươu cái, nối tiếp nhau hết đực đến cái. Đây là cách thể hiện hình tượng Âm Dương luôn vận động, biến dịch trong vũ trụ.

Vành 10 có 36 chim gồm 18 chim bay, 18 chim đậu, cứ 1 chim bay kèm 1 chim đậu thành 1 nhóm. Thể hiện hình tượng Âm Dương trong trạng thái đối lập 1 động, 1 tĩnh.

Bay là động, đậu là tĩnh. Động thuộc Dương, tĩnh thuộc Âm. Âm Dương nối tiếp vận hành không ngừng làm nên cuộc sống. (theo Nguyễn Thiếu Dũng – Việt Báo - 30 Tháng tám 2005).

Số 36 có thể hiểu theo nghĩa khác:

Theo Thiệu Khang Tiết, Kinh Dịch có 64 quẻ gồm 8 quẻ bất dịch (đảo ngược vẫn là hình quẻ đó), 28 cặp quẻ phản dịch (đảo ngược thành quẻ khác) nghĩa là 64 = 8 + (28 x 2), do đó tiên sinh nói Kinh Dịch có 36 cung (36 = 8 + 28).

Thượng Kinh có 18 cung gồm 6 quẻ bất dịch và 12 quẻ phản dịch. Hạ Kinh gồm 2 quẻ bất dịch, 16 quẻ phản dịch.

Mặt trống Ngọc Lũ có 2 dải băng răng cưa thuộc vành 12 và 16. Mỗi băng răng cưa do 2 lớp tam giác đối đỉnh tạo thành.

Tam giác nổi tượng hình năng lượng Dương, tam giác chìm tượng hình năng lượng Âm, các tam giác tạo 2 lớp răng cưa khớp nhau, giống 2 bánh răng cưa trong cỗ máy vận hành ăn khớp như ngày và đêm quyện nhau dịch chuyển theo thời gian.

Nói theo Dịch Truyện là "cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa". Cương là Dương, nhu là Âm, Âm Dương thúc đẩy nhau sinh biến hóa (Hệ từ thượng truyện. II, 2).

Nay tất cả ngành và liên ngành khoa học, sử dụng những phương pháp chuyên môn tạo những luồng sáng khác nhau từ nhiều chiều hướng cùng rọi chiếu 1 điểm.

Cuối cùng dưới ánh sáng nghiên cứu tổng hợp dần hiện ra và liên kết lại khiến hình ảnh cả thời đại bộc lộ dần.

Đây là thời bồi đắp và định hình nền văn minh đầu tiên mang bản lĩnh dân tộc với một loạt thành tựu đặc sắc trong đời sống vật chất, xã hội, tinh thần - từ nhà sàn mái cong đến thuyền đuôi én, từ những chuyện kể kỳ thú đến trống đồng kỳ diệu.

Trống đồng vừa là nhạc khí vừa là hiện vật tượng trưng cho quyền uy thủ lĩnh.

Giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên, kỹ thuật luyện đồng mới ra đời, dấu tích đồ đồng trong các di chỉ còn rất hiếm, càng về sau tỷ lệ hiện vật đồng càng nhiều.

Đến Văn hóa Đông Sơn, bên cạnh kỹ thuật chế tác đồ đồng có kỹ thuật luyện quặng sắt, chế tác đồ sắt.

Chuyện Thánh Gióng thể hiện cốt lõi lịch sử quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội khi nghề luyện sắt ra đời. Kỹ thuật luyện sắt xuất hiện là lúc kỹ thuật chế tác đồ đồng phát triển đỉnh cao.

Văn hóa Đông Sơn đồ đồng có nhiều loại hình sản phẩm phong phú từ công cụ sản xuất đến vũ khí, nhạc cụ.. kỹ thuật đúc trống đồng đạt tinh xảo. Vì thế trống đồng Đông Sơn thành biểu tượng nền văn minh thời Hùng Vương.

Cùng thành Cổ Loa, trống đồng Đông Sơn là hiện vật tiêu biểu cho văn minh Văn Lang, Âu Lạc.

4 nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R. H. Geldern, B. Karlgren và O. Jansé đều lầm khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc từ bên ngoài.

Người nói bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Châu Âu, truyền qua vùng thảo nguyên Âu-Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn.

Có người dựng lên nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycenae của Hy Lạp theo hành trình rất phức tạp qua trung gian các nền văn minh Trung Ấn rồi Tây Á, đến đây chia 2 ngả:

1 theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, 1 theo lưu vực sông Hoàng Hà, sinh ra văn hóa đồ đồng nhà Thương ở Trung Hoa.

Nhưng các lập luận trên chỉ đứng vững khi chưa phát hiện Văn hóa Phùng Nguyên hơn khoảng 1.000 năm so với những di vật ở Đông Sơn.

Người Việt cổ còn văn minh ở chỗ họ để lại đời sau những hình ảnh tốt đẹp qua các tượng, các hình chạm khắc trên trống đồng, thạp đồng.. Qua những hiện vật quý hiếm ấy, Tổ tiên người Việt mách bảo:

Họ ở nhà sàn, dựng nhà kho, làm thuyền lớn đi sông biển, thích tổ chức hội mùa vui chơi múa hát, có khi cầm vũ khí phô trương lực lượng. Họ chăn nuôi nhiều gia súc: Gà, heo, chó, voi..

Họ sống hài hòa với chim trời, thú rừng. Họ có những tín ngưỡng, tôn giáo như chôn người chết, thờ vật Tổ, tổ chức bơi chải cầu mưa, cho gái trai tự do thương yêu để tác động đến cỏ cây, mùa màng, thời tiết theo tín ngưỡng phồn thực thấy ở nhiều dân tộc khác.

Đặc biệt người Việt cổ còn có khái niệm về số học và hình học, đối xứng (đối xứng gương, đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến), biết sử dụng một loại compa.

Trống đồng Đông Sơn - đỉnh cao văn minh thời Hùng Vương

Từ bao đời nay, trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho nền Văn hóa Đông Sơn và nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ thời Hùng Vương. Trống đồng thành biểu tượng thiêng liêng nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Quê hương trống đồng Đông Sơn là trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn tồn tại từ TK7 TCN đến TK. 6 SCN. Sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ.

Tổ tiên ta vượt những khắc nghiệt thiên nhiên bằng dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, tạo kỹ thuật luyện kim đồng thau mang đậm yếu tố bản địa người Việt, tạo nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Châu Á.

Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ tỏa sáng trên lưu vực sông Hồng.

Theo các nhà nghiên cứu, trống đồng ra đời từ nền Văn hóa Đông Sơn gắn liền thời Vua Hùng. Phú Thọ là trung tâm nền Văn hóa Đông Sơn - văn minh sông Hồng.

Đỉnh cao hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Đền Hùng có kích thước trống loại 1 lớn nhất từ trước đến nay phát hiện năm 1990 tại đồi Khuôn Muồi là làng cổ sát chân núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ Vua Hùng.

Chứng minh trống đồng Đền Hùng là vật linh thiêng được nước Văn Lang dùng làm linh vật mỗi khi tế lễ, hội hè tại khu di tích lịch sử Đền Hùng.

Trống đồng phát hiện ở đồi Khuôn Muồi cùng nhiều trống đồng loại 1 khác tìm thấy trên dải đất Việt Nam là những tư liệu vô cùng quý báu có vị trí linh thiêng trong đời sống tâm linh người Việt.

Trống đồng là vật linh, qua đó sáng tỏ nhiều vấn đề, thông điệp làm nên biểu tượng tập trung nhất những thành tựu sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền uy nhà nước được xác lập đầu tiên trên nước ta.

Những hình khắc họa trên trống giúp hình dung về cuộc sống người Việt cổ thời xa xưa.

Hoa văn trống đồng nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên phần mặt, tang, thân trống.

Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích làm cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, Văn hóa Đông Sơn thời đó.

Trống đồng có chức năng nhạc khí và làm biểu tượng quyền lực, tôn giáo..

Trống dùng trong nghi lễ tôn giáo, lễ hội và chống ngoại xâm, khi thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người khắp nơi tụ về chiến đấu.

Trống thường thuộc về những thủ lĩnh. Thủ lĩnh có quyền lực càng lớn, trống càng to đẹp. Trống đồng được coi tài sản quý, làm đồ tuỳ táng khi chủ qua đời.

Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp phát triển, hiện vật quý báu, một trong những niềm tự hào lớn của văn hóa Việt Nam.

Nay hàng trăm trống đồng phát hiện, lưu giữ, trưng bày trang trọng ở các bảo tàng quốc gia và các địa phương, vùng đất Thanh Sơn miền Tây của Phú Thọ, nơi duy nhất tại Việt Nam vẫn còn ngày hội trống đồng của dân tộc Mường với lễ hội "Đâm Đuống" và "Chàm Thau."

Đây là một trong những vùng địa linh của Phú Thọ phát hiện nhiều trống đồng trong lòng đất nhất.

Phú Thọ khôi phục nghi thức linh thiêng là đánh trống đồng trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương - lễ hội Đền Hùng 10-3 Âm Lịch hằng năm.

Tiếng trống đồng Đông Sơn ngân vang ở Đền Hùng, vang vọng mọi miền đất nước, khẳng định những giá trị truyền thống, đạo lý nhân văn sâu sắc của Việt Nam suốt lịch sử:

Dựng nước giữ nước với bao biến cố, thăng trầm vẫn hiên ngang đứng vững, tự hào phát triển đi lên cùng nhân loại.

Trống đồng là bảo vật văn hóa Việt Nam, điểm hội tụ hồn thiêng sông núi hình thành từ thời Hùng Vương, tích tụ tinh hoa dân tộc suốt tiến trình lịch sử dựng nước giữ nước từ thời Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.

Những trống đồng Đông Sơn phát hiện khắp Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho tinh hoa văn hóa, ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.

Nguồn

Web vinhphuctv

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
75303413_1254351171431799_326147966643470336_n.jpg


Trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ.

Nhiều trống loại này với quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hòa thể hiện trình độ rất cao về kỹ năng và nghệ thuật.

Đặc biệt là những hoa văn phong phú khắc họa, miêu tả chân thật sinh hoạt con người thời dựng nước mà người ta vẫn cho là chìm trong đám mây mù truyền thuyết Việt Nam.

Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam lưu giữ một số lớn trống đồng Đông Sơn. Đến nay, theo các số liệu công bố, đây là bộ sưu tập lớn nhất thế giới.

Ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống tượng trưng thần Mặt Trời vì người Văn Lang có quan niệm về thần Mặt Trời.

Công dụng trống đồng

Lễ mai táng các Quan Lang Mường và các ngày hội hè của người Mường tỉnh Hòa Bình.

Tế "thần sấm" của người Lê ở đảo Hải Nam, Trung Quốc[1]

Theo bài dân ca H'Mông, Trung Quốc "Hồng thuỷ hoành lưu" thì trống đồng cứu sống Tổ tiên người H'Mông trong thời có nạn lụt lớn[2]

Trống diễn tấu với giàn nhạc thời Hậu Lê, được "Cương Mục" ghi[3]

Trống đồng dùng trong quân đội thời Trần theo thơ của Trần Phu sứ Nguyên tại Đại Việt.

Trống biến thành vật chôn theo người chết như ở khu mộ táng Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Chức năng chủ yếu trống đồng vẫn là nhạc khí.

Đánh vào vành 1-3 được nốt Si giáng; ở vành 4-5 được nốt Mi và Fa; vành 7 cũng được nốt Si giáng. Từ vành 9 trở ra trở lại nốt Mi (theo kết quả ghi âm của Cao Xuân Hạo) [4]

Trống Đồng tượng trưng cho quyền lực các vị thủ lĩnh ngày xưa. Các vua thưởng các tù trưởng người dân tộc những trống đồng. Điều đó thể hiện uy quyền nhà nước với các vùng tự trị, tự do tương đối.

Theo Hậu Hán thư (後漢書 - chính sử của Trung Quốc), Mã Viện, tướng Hán dập tắt nổi dậy Hai Bà Trưng năm 43, thu và nấu chảy trống đồng của các thủ lĩnh địa phương. Điều đó cho thấy ý nghĩa chính trị của trống đồng Đông Sơn những ngày này.

Tên gọi theo phân loại

1902, nhà nghiên cứu người Áo F. Heger xuất bản tập sách "Những trống kim khí ở Đông Nam Á" chủ trương chia trống đồng thành 4 loại chính, gọi tắt là HI, HII, HIII và HIV, theo thứ tự từ cổ nhất đến gần đây nhất. (Xem bài chính Hệ thống phân loại trống).

Trống đồng Đông Sơn của Việt Nam xếp vào loại HI[5]

Đặc điểm trống đồng Đông Sơn

Bao quanh các ngôi sao có hình người, vật, động vật và hoa văn hình học. Hoa văn hình học thường thấy:

Đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn, vòng tròn chấm giữa tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến, hoa văn hình chữ gãy khúc, hoa văn răng cưa và vạch ngắn song song.

Và các chữ của người Việt cổ, hình ảnh về con người như trai gái giã gạo, múa hát, các chiến binh trên thuyền.

Thân trống thường có hình thuyền, hình vũ sĩ, hình một số chim, thú thông thường thì chỉ có hoa văn hình học. Quai trống thường làm theo hình dây thừng bện.

Phân loại trống

Trống đồng Đông Sơn phân loại theo phân bố của những hình khắc và hoa văn trên trống:

Nhóm A

Tiểu nhóm A1

Gồm 6 trống: Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ, Sông Đà, Khai Hóa, Bản Thôm và Quảng Xương.

1. Đặc điểm:

1. Hình khắc phong phú, gồm hình người và động vật, hình người đóng vai trò chủ đạo.

2. Tang trống khắc 6 thuyền và ở giữa thân trống có hình võ sĩ đứng trong các ô chữ nhật.

2. Hoa văn:

1. Họa tiết lông công xen giữa các cánh sao, hoa văn hình chữ gãy khúc và có hoa văn răng cưa.

Tiểu nhóm A2

Gồm 8 trống: Miếu Môn, Vũ Bị, Đồi Ro, Làng Vạc I, Làng Vạc II, Pha Long, Phú Xuyên và Hòa Bình.

1. Đặc điểm:

1. Giống tiểu nhóm A1 là tang trống cũng có cảnh đua thuyền, nhưng số lượng thuyền thay đổi, nhưng trên mặt trống không có cảnh sinh hoạt như ở nhóm A1.

Ngoài ra có thêm những động vật kỳ dị như con vật đầu chim, có 4 chân, đuôi dài như đuôi cáo hoặc hình con vật 4 chân, có bờm, đuôi cuộn, mõm há. Thay vào hình vũ sĩ là hình bò hay hình chim.

1. Hoa văn:

1. Hoa văn chủ đạo là họa tiết tam giác lồng nhau xen giữa các cánh sao và hoa văn răng cưa.

Nhóm B

Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất, gồm 26 trống:

Duy Tiên, Yên Tập, Ngọc Lũ II, Phú Duy, Núi Gôi, Việt Khê, Làng Vạc III, Làng Vạc IV, Định Công I, Định Công II, Định Công III, Cửu Cao, Mật Sơn, Thiết Cương, Phương Tú, Pắc Tà, Giải Tất, Bình Phủ, Hà Nội, Hoằng Vinh, Vĩnh Ninh, Đông Sơn I, Đông Sơn II, Đông Sơn III, Đông Sơn IV, Đào Thịnh, Phú Khánh.

Đặc điểm:

Hình ngôi sao trên mặt trống phần nhiều là 12 cánh, ngoài ra có một ít là hình sao 8 cánh và 10 cánh.

Vành chim trên mặt trống thường khắc bốn con, vài trống là sáu con.

Họa tiết lông công có biến thể, hình tam giác phủ vạch chéo, hình chữ gãy khúc và vạch ngắn song song.

Nhóm C

Gồm 11 trống:

Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương I, Phú Phương II, Nông Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Glao, Thôn Mống, Hàng Bún.

Đặc điểm:

Trên mặt trống xuất hiện 4 khối tượng cóc và vành hoa văn hình chim cách điệu bao quanh ngôi sao. Ngôi sao phần nhiều có 12 cánh, vành chim có từ 4 đến 10 con.

Trên mặt trống có 6 dạng văn chủ yếu sau:

Hình tam giác lồng nhau, vòng tròn đồng tâm chấm giữa và có tiếp tuyến, vạch ngắn song song, chữ M lồng nhau, đường gấp khúc liên tiếp tạo thành những ô hình trám và hoa văn có hình trâm.

Ngoài ra còn nhiều trống minh khí có kích thước nhỏ, trên trống có rất ít hoa văn trang trí nên không được đưa vào hệ thống phân loại trên.

Tháng 8 năm 2004, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức kỷ niệm 80 năm văn hóa Đông Sơn xuất lộ với nhiều hoạt động trưng bày hiện vật, trưng bày các loại trống đồng Đông Sơn.

Danh sách trống đồng Đông Sơn

1. Trống đồng Ngọc Lũ 1. Đường kính: 79cm, cao: 63cm. Dân làng Ngọc Lũ (Bình Lục, Hà Nam) đào được, tìm ở độ sâu 2m.

1902, trống đem về Viện Bác Cổ Viễn Đông ở Hà Nội. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam lưu trữ.

2. Trống Hoàng Hạ. Đường kính: 79cm, cao: 61, 5cm. Do dân làng Hoàng Hạ (Hà Đông) đào được, tìm ở độ sâu 1, 5m tháng 3-1937. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam lưu trữ.

3. Trống sông Đà còn gọi trống Moulié. Đường kính: 78cm, cao: 61cm.

Phó sứ Moulié lấy về và sau đó trống trưng bày ở triển lãm Paris năm 1889. Bảo tàng Guimet Pháp lưu trữ.

4. Trống đồng Khai Hóa còn gọi trống Bắc kỳ Gilet I hay trống Viên. Đường kính: 65cm, cao: 53cm.

Trống tìm thấy ở nhà tù trưởng người Mèo phủ Khai Hóa, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sau bán cho Bảo tàng Viên nước Áo. Bảo tàng Dân tộc học Viên - Áo.

5. Trống đồng Bản Thôn. Đường kính: 57cm, cao: 37, 5cm. Dân bản Thôm (Thuận Châu, Sơn La) tìm được năm 1957. Sở Văn hóa Tây Bắc lưu trữ.

6. Trống đồng Quảng Xương. Đường kính: 36, 5cm, cao: 29cm.

Do Pajot mua ở huyện Quảng Xương, Thanh Hóa rồi bán cho Bác Cổ Viễn Đông Hà Nội 4-1934. Viện BTLS Việt Nam lưu trữ.

7. Trống đồng Miếu Môn còn gọi trống Thượng Lâm. Đường kính: 72cm, cao: 48cm.

Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam mua tại thôn Hoành (Miếu Môn) (Mỹ Đức, Hà Tây) 12-1961. Viện BTLS Việt Nam lưu trữ.

8. Trống đồng Vũ Bị. Đường kính: 72, 5cm, cao: 60cm. Do dân thôn Vũ Bị (nay là Đại Vũ, Bình Lục, Hà Nam) đào được ở cánh đồng Mạc năm 1969. Ty Văn hóa Nam Hà lưu trữ.

9. Trống đồng Đồi Ro. Đường kính: 43cm, cao: 33cm. Công nhân công trường thuỷ lợi Hang Cả đào ở độ sâu 1, 6m trong lòng đất tạo Đồi Ro, xóm An Thịnh, xã Long Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình 4-1966. Viện BTLS Việt Nam lưu trữ.

10. Trống đồng Làng Vạc 1. Đường kính: 37, 7cm, cao: 27, 8cm. Do dân tìm được tại Làng Vạc huyện Nghĩa Đàn tỉnh Nghệ An 3-1972. Ty Văn hóa Nghệ An lưu trữ.

11. Trống đồng Làng Vạc 2. Đường kính: 34, 5cm, cao: 25, 6cm.

Do Viện Khảo cổ và Ty Văn hóa Nghệ An tìm trong khu mộ cổ Làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An) năm 1973. Ty Văn hóa Nghệ An lưu trữ.

12. Trống đồng Pha Long còn gọi trống Bản Lầu. Đường kính: 73cm, cao :() cm.

Do ông Giàng Xuân sưu tầm tại Pha Long (Mường Khương, Lào Cai) năm 1956. Ty Văn hóa Lào Cai lưu trữ.

13. Trống đồng Phú Xuyên còn gọi trống Hà Nội ở Bảo tàng Stockhom. Đường kính: 53cm, cao: 42cm. Của vợ góa Phạm Phú Lợi, Tri Huyện Phú Xuyên, Hà Tây và Andersen mua về Thụy Điển.

Văn hóa, xã hội Lạc Việt theo hình thức trống

Kinh tế và văn hóa vật chất

Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp phát triển.

Việc phát hiện những lưỡi cày đồng và những hình bò khắc trên thân trống chứng tỏ thời kỳ này biết sử dụng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp.

Ngoài ra, các nghề đánh cá, săn bắn, chăn nuôi gia súc và sản xuất thủ công cũng phát triển trong thời này.

Phần lớn những nơi phát hiện có trống đồng phân bố dọc theo triền những sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trống có thể được phân phối bằng đường thuỷ.

Xã hội Lạc Việt còn tồn tại bất bình đẳng về tài sản. Điều này phản ánh rõ ràng trong phân bố những hiện vật tuỳ táng ở các mộ giàu nghèo thuộc thời đại đồ đồng.

Quan niệm tôn giáo

Việc gắn hình ngôi sao ở trung tâm mặt trống là biểu tượng tục thờ thần Mặt Trời.

Những người hóa trang lông chim trên trống đồng thể hiện vật Tổ của cư dân bấy giờ là loài chim.

Từ những cảnh sinh hoạt trên trống đồng, nhiều nhà nghiên cứu cho là:

"Lễ khánh thành trống đồng", "lễ chiêu hồn", "đám tang" hoặc "lễ cầu mùa."

Nghệ thuật

Trang phục

Quần áo tả trên trống có các loại:

Áo hai vạt ngắn, áo hai vạt dài, váy, khố.. Họ đội nhiều loại mũ, tết các kiểu tóc khác nhau.

Kiến trúc

Dựa theo những hình khắc trên trống đồng thấy có hai loại hình kiến trúc là nhà sàn mái cong và nhà sàn mái tròn.

Nhà có hai cột chống ở phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa có kê thang để lên sàn.

Nhà mái tròn thường có một người (hoặc không có người) đứng giữa cửa, hai bên của có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan tín ngưỡng và tạm gọi là "nhà thờ."

Những nhà có mái cong như hình thuyền lại có nhiều người có thể liên hệ đó là "nhà ở."

Hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Có thể nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt.

Tượng trang trí

Có tượng hình chó trên mặt trống nhỏ Đông Sơn, tượng cóc trên mặt các trống nhóm C.

Hình tượng còn rất sơ lược nhưng nếu so sánh thời hậu kỳ đồ đá mới có nghệ thuật vẫn chỉ là dạng hoa văn minh họa, chúng ta mới thấy bước tiến bộ về mặt nghệ thuật cũng như kỹ thuật điêu khắc thời đồ đồng.

Vũ nghệ

Trên trống đồng, những người múa thường phục trang bằng những bộ quần áo như:

Mũ lông chim cao hoặc mặt nạ, đôi khi cầm vũ khí. Mỗi tốp người múa thường từ 3, 4 hoặc 6 đến 7 người.

Trong tốp này có người thổi tù và, những người còn lại biểu hiện theo động tác thống nhất, chuyển động từ trái sang phải, người sau nối tiếp người trước một quãng đều đặn, tất cả điều hành vòng quanh ngôi sao (mặt trời).

Âm nhạc

Theo hình khắc trên trống đồng thấy có hai loại nhạc khí sử dụng bấy giờ là trống. Có hai cách sử dụng trống:

Trống một người biểu diễn như hình người cầm trống trong nhà hay trên thuyền để giữ nhịp. Trống diễn tấu trong giàn trống. Người đánh trống ngồi hoặc đứng trên sàn, cầm gậy dài đánh theo chiều đứng.

Trống đặt trên những giá sát đất. Kiểu đánh này vẫn thấy nay ở những ngày hội đồng bào Mường ở các tỉnh Hòa Bình.

Nghệ thuật tạo hình

Nghệ thuật trống đồng khá độc đáo, đặc trưng bởi kỹ thuật khắc chạm trên khuôn tạo ra những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt trống, trên thân trống thì là hình khắc hơi nổi.

Nghệ nhân xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên mặt trống và ô chữ nhật trên thân trống, bên trong loại bố cục này thì hình ảnh sắp xếp rất cân đối.

Hình ảnh con người luôn tả theo tư thế động:

Múa, giã gạo, đánh trống, bơi chải..

Về bố cục, tất cả người, động vật đều diễu hành quanh ngôi sao giữa mặt trống. Đặc biệt, phần tạo hình ở đây hơi giống kiểu tạo hình Ai Cập. Ví dụ:

Tốp người múa trên mặt trống có ngực hướng thẳng về phía khán giả, chân và đầu theo lối nhìn nghiêng.

Còn trong hình chim bay thì thân cánh và đuôi tả theo hình nhìn từ trên xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng.

Những kiến thức khoa học

Kỹ thuật đúc:

Trống đồng là hiện vật khá lớn. Trống cỡ lớn có đường kính mặt trống xấp xỉ 90cm, chiều cao trên dưới 60cm, nặng gần 100kg, hình thể phức tạp:

Tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra hình phễu. Để đúc một vật như vậy không đơn giản.

Những nghiên cứu chỉ ra trống đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc.

Để đúc thành công như vậy, người nghệ nhân phải đạt hàng loạt các yêu cầu về kỹ thuật như phải có nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, phải tìm vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc.

Phải nắm vững tính năng hóa lý mỗi kim loại trong hợp kim đồng, đặc biệt phải có kỹ thuật đúc tay nghề thành thạo.

Quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ có thể kết luận xã hội Lạc Việt có những thợ đúc lành nghề.

Số lượng những cánh sao, động vật, những hình thuyền trong vành hầu hết đều số chẵn. Điều này chứng tỏ người Lạc Việt rất chú ý đến việc tính đếm.

Những số lượng cánh sao nổi bật lên là số 12 (chiếm 46, 1% tổng số). Số này liên quan số lượng tháng trong 1 năm.

Các nhóm thuyền khắc trên trống thể hiện phát triển về kỹ thuật quân sự thời này. 436 người được khắc trên các trống có 175 người cầm vũ khí (40, 1%). Các loại vũ khí:

Giáo, rìu, cung, dao găm và mộc.

Trống đồng Đông Sơn với xã hội Hùng Vương

Những trống đồng Đông Sơn sớm nhất xuất hiện vào những TK. 6 TCN và TK. 7 TCN trên địa bàn miền Bắc Việt Nam nay, thuộc thời Hùng Vương.

Nhưng lịch sử thời các Vua Hùng còn chưa được giới sử học tranh luận ngã ngũ vì chưa tìm được "dấu ấn" của Vua Hùng. Những hình khắc trên trống đồng Đông Sơn giờ có thể nói lên phần nào xã hội bấy giờ.

Theo "truyền thuyết trăm trứng" và mo "Đẻ đất đẻ nước", 50 con về đồng bằng thành Tổ tiên người Việt, 47 người di cư lên miền núi thành Tổ tiên các dân tộc miền núi, còn lại 3 người từ những trứng nở đầu tiên tên là Tá Cần, Tá Kài và cô nàng Kịt, 3 người sống chung với nhau..

Về sau Tá Cần lên làm vua và từng lấy Bà Chu Bà Chuông làm vợ sinh 18 con: 9 trai và 9 gái. Họ thành lang và chia nhau đi coi các bản Mường.

Số 18 khá quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước người Lạc Việt, giống như số 60 của người Babylon ở Lưỡng Hà hay số 20 của người Maya cổ.

Nghiên cứu số lượng chim trên các vành chim bay (chim vật Tổ của người Lạc Việt) thấy phần lớn mỗi vành đều có 18 chim.

Đặc biệt là trên mặt trống đồng Sông Đà, người nghệ nhân do lúc đầu sơ ý chia nhầm thành 17 cung bằng nhau, khi khắc hình chim 16 chỉ còn một đoạn, phải cố khắc 2 chim vào vành cuối này cho đủ 18 con.

Có thể nghĩ số 18 đời Hùng Vương là 18 dòng họ đầu tiên, kết hợp nhau trong liên minh bộ lạc Văn Lang.

Ghi chú

1. Đào Duy Anh. "Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt". Hà Nội. 1957. Tr. 90 - 91

2. Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13. Hà Nội. 1968. Tr. 323

3. VSTGCM. Tập X, quyển 18-19. NXB. Văn Sử Địa Hà Nội. 1959. Tr. 28

4. Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn. Lịch sử chế độ Cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam. Hà Nội. 1960. Tr. 141

5. F. Heger. "Alte Metalltrommeln aus Südost Asien". Leipzig. 1902

Nguồn wikipedia

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
20604646_704384229761832_8905120974819327222_n.jpg


Trống đồng là nhạc cụ gõ bằng đồng hiện diện tại Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc, xuất hiện từ thời đại đồ đồng.

Trống đồng không chỉ có chức năng nhạc khí mà còn có những chức năng khác như làm biểu tượng cho quyền lực, tôn giáo..

Theo tín ngưỡng người Việt thì trống đồng là vật linh vì có thần tự xưng thần Trống Đồng, tức thần Đồng Cổ giúp nhiều triều đại Việt Nam giữ nước hộ dân từ thời Vua Hùng, đến nhà Lý, Trần..

Trống dùng trong các nghi lễ tôn giáo, trong lễ hội, và chiến tranh khi thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người từ khắp nơi tụ về để cùng chiến đấu.

Trống thường thuộc về những thủ lĩnh và là biểu tượng quyền lực.

Thủ lĩnh có quyền lực càng lớn trống càng to đẹp. Trống đồng được coi tài sản quý, chôn theo khi chủ qua đời.

Nay, ngoài hàng trăm trống đồng lưu giữ, trưng bày trang trọng ở các Bảo tàng Quốc gia và các địa phương, dường như trống đồng vắng mặt trong cuộc sống đời thường kể cả những dịp hội hè, lễ Tết, người ta chỉ còn gặp trống đồng ở các viện bảo tàng và các truyện cổ tích.

Vùng đất Thanh Sơn miền Tây của tỉnh Phú Thọ là nơi duy nhất tại Việt Nam vẫn còn ngày hội Trống Đồng của dân tộc Mường với "Đâm Đuống" và "Chàm thau" [1] .

Đây là một trong số những vùng Việt Nam phát hiện nhiều trống đồng trong lòng đất nhất.

Chính vì lý do đó mà gần đây Việt Nam khôi phục tập tục đánh trống đồng ngày giỗ Tổ các Vua Hùng 10-3 Âm Lịch hàng năm.

Trống đồng cũng là nhạc cụ gõ phổ biến trong các dân tộc Khơ Mú, Lô Lô và Mường ở Việt Nam hiện nay.

Những cộng đồng này người ta sử dụng nó với mục đích tang lễ, ngoài ra không dùng cho bất kỳ trường hợp nào khác.

Sử liệu

Ghi chép cổ nhất có liên quan trống đồng xuất hiện trong Sử Bản (史本) sách Trung Quốc từ trước TK. 3 TCN.

Sách này không còn, nhưng được dẫn lại một phần tại sách cổ khác: Thông điển (通典) của Đỗ Hữu (杜佑) [2] .

Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi:

"Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.."

Sách này chép Mã Viện, tướng nhà Hán, sau khi dập tắt nổi dậy Hai Bà Trưng năm 43, tận thu trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy đúc ngựa và cột đồng Mã Viện.

Ở Việt Nam, Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái thế kỷ 14 ghi lại nhiều truyền thuyết về trống đồng. Các cuốn sử như ĐVSKTT cũng nói trống đồng.

Khảo cổ

Trống đồng là một trong những loại di chỉ khảo cổ học quan trọng nhất tìm được tại Đông Nam Á và phía Nam Trung Quốc.

Các vùng này, các nhóm dân tộc dùng trống đồng từ thời tiền sử đến nay.

Các nhà khảo cổ học tìm thấy trống đồng ở nhiều vùng khác nhau ở Đông Nam Á, nơi tìm thấy trống thường là khu mộ táng quan trọng, mộ những người đứng đầu trong làng.

Nhiều trống tìm thấy dọc theo các sông và đường thủy ở Đông Nam Á, do là hình thức giao thông chính của dân cư bản địa thời đó.

Bắc Việt Nam và Tây Nam Trung Quốc (đặc biệt là Vân Nam và khu tự trị người Tráng ở Quảng Tây là hai vùng nơi đại đa số các trống đồng cổ được tìm thấy.

Theo báo cáo 1988, Trung Quốc tìm được 1460 trống đồng () [3] .

Tổng số trống đồng tìm được ở Việt Nam đến năm 1980 là 960 chiếc, trong đó có 540 chiếc thuộc trống đồng Đông Sơn và 420 chiếc thuộc trống đồng Ngọc Lũ[4] .

Trống đồng còn tìm thấy ở nhiều nước:

Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippines, Nhật.

Trống đồng có vai trò quan trọng bậc nhất trong Văn hóa Đông Sơn - nền văn hóa được biết đến với những trống đồng trang trí cầu kỳ tìm thấy ở nhiều nơi ở Đông Nam Á và Bắc Việt Nam.

Số lượng lớn trống Đông Sơn được tìm thấy tại Mê Linh - trung tâm của Văn hóa Đông Sơn. Nhiều trống Đông Sơn tìm thấy ở đồng bằng sông Hồng - vùng dân cư đông đúc thời cổ.

Cấu tạo và cách sử dụng

Trống đồng thường có đường kính mặt khoảng 50cm, cao từ 45 đến 50cm, mặt trống phủ vừa sát đến tang trống.

Điều này cho thấy chúng có kích cỡ trung bình so các loại trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam.

Giữa mặt trống có sao 14 cánh, không có tượng cóc trên rìa mặt trống. Phần trên thân trống phình ra, đỡ lấy mặt trống, phần dưới hình viên trụ tròn.

Loại trống đồng này đúc bằng hợp kim đồng, âm thanh không vang, không trong như loại Hê gơ I của trống đồng đông Sơn.

Người ta đặt úp trống trên sàn nhà hay trên mặt đất, dùng dùi có mỏ khoắm bọc vải gõ vào.

Nghi thức tang lễ dùng trống đồng với kèn đám ma, sáo ngang, đàn nhị, cồng chiêng, thanh la và trống bịt da dê.

Riêng người Khơ Mú họ dùng dùi thẳng có phần đầu bọc vải để gõ vào trống úp xuống, còn người Lô Lô đặt hai trống đồng nằm nghiêng hoặc treo nghiêng, mặt trống đối diện nhau và dùng dùi thẳng như người Khơ Mú.

Tiếng trống đồng đối với những dân tộc kể trên là âm thanh của trời (tiếng sét), mặt trống tượng trưng mặt trời. Tiếng trống dẫn đường cho linh hồn người chết về với Tổ tiên họ.

Trống đồng Việt Nam rất đa dạng. Ngoài những loại trống kể trên còn nhiều loại khác như Đông Sơn, Hoàng Hạ và Ngọc Lũ.

Phân loại

Theo phân loại của nhà khảo cổ học người Áo Franz Heger:

Trống Heger I, nhiều người gọi là trống Đông Sơn. Trống loại này thường lớn, thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt trên có hình sao đúc nổi với 12 cánh.

Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống đồng Quảng Xương, hoặc 14 cánh như trống đồng Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như Hoàng Hạ, Salayar.

Trống loại này tìm ở khắp Đông Nam Á, tập trung nhiều nhất ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất là các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà.

Trống Heger II:

Thân trống chỉ 2 phần, không có hình người hay vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn hình học. Trên mặt trống thường có hình khối 4 con cóc, đôi khi sáu con.

Mặt trời có 8 tia. Loại này phân bố ở vùng Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc.

Việt Nam cũng có nhiều loại trống này và còn được người Mường sử dụng, nên có người gọi trống Mường.

Trống Heger III có quai nhỏ đẹp. Mặt trời 12 cánh. 4 góc mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang trí toàn bằng họa tiết hình học và hoa văn.

Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây "đời sống." Đôi khi ốc thay voi. Phát hiện ở Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanmar và Vân Nam (Trung Quốc).

Trống Heger IV có kích thước thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi rõ tên 12 con vật địa chi. Tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam.

Trong cách phân loại này, trống loại I được cho cổ nhất.

Indonesia có loại trống đồng đặc biệt, thân dài, gọi là trống Moko và không xếp vào các loại trống Heger.

Có người cho rằng thiết kế và kiểu trang trí loại trống này rất có thể có nguồn gốc từ Văn hóa Đông Sơn[5] .

Nổi tiếng nhất trong các trống Moko là chiếc "Trăng Pejeng" (Moon of Pejeng) có đường kính 160cm và cao 180cm[6], được cho có tuổi khoảng từ 1000 đến 2000 năm, hiện dùng trong điện thờ tại Pejeng, Bali.

Người dân trên đảo Alor, Indonesia vẫn dùng trống Moko làm đồ dẫn cưới và là biểu tượng cho địa vị xã hội.

1976, phát hiện loại trống nhỏ ở Vạn Gia Bá (万家坝), Trung Quốc, đặt tên là trống Vạn Gia Bá.

Theo cách phân loại của Trung Quốc, trống này là trống Tiền Heger và là nguồn gốc của mọi loại trống Heger.

Ở Việt Nam tìm thấy loại trống này, nhưng nhiều nhà khảo cổ học Việt Nam lại coi loại trống này thuộc giai đoạn cuối của loại Heger I.

Nghiên cứu về nguồn gốc trống đồng

Tại phương Tây có dấu vết người ta biết về trống đồng từ 1682[7] .

Nhưng mãi tới cuối TK. 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng của Trung Quốc.

De Grooth (1901) cho của Việt Nam. Trong cuốn Alte Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo khẳng định trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải ở vùng này.

Ông Heger phân chia 165 trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại - phân loại Heger.

Trước thập niên 1950, một số phân loại khác được đề xuất, nhưng không có cách nào chấp nhận rộng rãi như phân loại của Heger[8] .

Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối TK. 19 mới được bắt đầu và bắt đầu bởi người phương Tây.

Trước thập niên 1950, hầu hết nghiên cứu quan trọng đều viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt nhất là Heger.

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng.

Cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 có tranh luận xung quanh phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên đại trống.. nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ đâu:

Miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc[9] .

Các học giả Việt Nam ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại I) là loại cổ nhất.

Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất.

Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống loại Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự phân loại của Heger nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn Heger loại I, đó là loại trống Vạn Gia Bá.

Theo cách phân loại của Việt Nam, trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên 1980 thuộc loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối loại trống Đông Sơn.

Các nhà nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa thống nhất về xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng - một truyền thống mà có thể được chia sẻ giữa Tổ tiên của cả hai.

Thực tế tại thời điểm trống đồng phát minh, không có đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc.

Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó có quan hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai.

Học giả phương Tây Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc che lấp tình huống mà khảo cổ học khai lộ.

Ông đưa ra giả thuyết trống đồng được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã hội có tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế cao của những người lãnh đạo. Ông viết:

"Việc tìm kiếm nguồn gốc tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng. Các thay đổi thực hiện suốt từ vùng mà nay là miền Nam Trung Hoa tới đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng, và cùng chống lại bành trướng từ phía Bắc của quốc gia hùng mạnh và hiếu chiến" [10] .

Quan điểm này tương đồng với thống nhất giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt - tộc người Việt cổ được cho có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.

Trống đồng trung đại và hiện đại

Bảo tàng Lịch sử Việt Nam lưu giữ trống đồng Cảnh Thịnh nặng 32kg, đường kính mặt 54, 3cm, cao 37, 40cm, đúc mô phỏng theo kiểu trống da, hình trụ.

Mặt trống không phẳng mà cong lên, chính giữa có 2 vòng tròn kép tượng trưng cho mặt trời.

Thân trống chia làm 3 phần, ngăn cách bằng 2 đường gân nổi. Trống có 4 quai hình khuyên gắn cách đều trên thân.

Xung quanh trống, từ trên xuống dưới, đúc nổi các băng hoa văn: Nhũ đinh, lá đề, hồi văn chữ T và đề tài tứ linh: Long, ly, quy, phượng.

Văn tự được khắc trên thân trống nói về chuyện người vợ của tổng thái giám Giao Quận Công thuộc năm Vĩnh Hựu đời Lê Ý Tông (1736) góp công lập chùa Linh Ứng (nay là chùa Nành), cùng lời giới thiệu đúc trống để thờ cúng, tu bổ chùa.

Văn tự trên thân trống cho biết trống đúc tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Nguyễn Quang Toản (1800), tại xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) [11]

Hiện ở Thanh Hóa vẫn nhiều nghệ nhân đúc trống đồng bằng thủ công, theo các đơn đặt hàng[12] .

Chẳng hạn, Chính phủ Việt Nam đặt hàng đúc một số trống đồng để trưng bày tại một số Viện Bảo tàng và Đại sứ quán của Việt Nam tại một số nước[13] .

Nhiều tổ chức và cá nhân cũng đặt đúc các trống đồng theo mẫu cổ, chẳng hạn trống đồng đặt tại cơ sở Hòa Lạc của Đại học FPT theo mẫu trống đồng Đông Sơn.

Chú thích

1. TS. Nguyễn Anh Tuấn, Trống đồng vùng Đất Tổ, Sở Văn hóa Thông tin và Thể thao Phú Thọ, 2001, tr16

2. Xu Songshi, Baiyue xiongfeng lingnan tonggu (Nam thần của Bách Việt và trống đồng của Lĩnh Nam), Asian Folklore & Social Life Monographs 95 (Taipei: The Orient Cultural Service, 1977), 7-8

3. Trung Quốc cổ đại đồng cổ nghiên cứu hội, Trung Quốc cổ đại đồng cổ (Trống đồng cổ đại của Trung Quốc), Bắc Kinh, Wenwu Press, 1988. Theo tài liệu này, số trống đồng lưu trữ tại nhiều tỉnh và thành phố:

Quảng Tây: 560, Quảng Đông: 230; Thượng Hải: 230; Vân Nam: 160; Quý Châu: 88; Bắc Kinh: 84; Tứ Xuyên: 51; Hồ Nam: 27; Sơn Đông: 8; Hồ Bắc: 6; Chiết Giang: 6; Liêu Ninh: 4.

Tổng số trống đồng lưu tại Trung Quốc năm 1995 không thay đổi.

Dẫn tại Han Xiaorong, The present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University

4. Nguyễn Duy Hinh, "Bronze Drums in Vietnam", The Vietnam Forum 9 (1987) : 4-5; Phạm Huy Thông, Dong Son Drums in Vietnam, Hà Nội: NXB. KHXH (1990), 265.

Từ đó vẫn tiếp tục tìm thấy trống đồng loại Đông Sơn. Ví dụ:

1994, một trống đồng Đông Sơn sau được đặt tên Ban Khooc tìm thấy ở Sơn La. Phạm Quốc Quân và Nguyễn Văn Đoàn, "Trống đồng Sơn La", Khảo cổ học 1 (1996) : 10.

5. [1]

6. [2]

7. L. Bezacier, Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, Paris, Picard 1972

8. Han Xiaorong, The present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University

9. Han Xiaorong

10. "Seeking the origins of this trend and the associated changes in material culture in one or other particular region misses the point. Changes were taking place across much of what is now southern China and the lower Red River Valley by groups which were exchanging goods and ideas, and responding to the expansion from the north of an aggressive, powerful state". Higham, Charles, The Bronze Age of Southeast Asia, Cambridge University Press, 1996.

11. Trống đồng Cảnh Thịnh độc bản thời Tây Sơn, Báo Năng lượng Mới, 28-1-2012

12. "Nghệ nhân trổ tài đúc trống đồng tại Carnaval Hạ Long - VnExpress".vnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 13-2-2015.

13. "Đúc trống đồng tặng các Đại Sứ quán Việt Nam - Tuổi Trẻ Online". Tuổi Trẻ Online. 23-2-2011. Truy cập 30-9-2015.

Nguồn

Wikipedia

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
101047343_1442178549315726_4454184606995841024_n.jpg


Trống đồng Đồng Sơn - Đỉnh cao văn minh thời Hùng Vương

Trống đồng Đông Sơn tồn tại từ TK. 7 TCN đến TK. 6 SCN. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ người Việt cổ.

Từ bao đời nay, trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn và văn minh sông Hồng của người Việt cổ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang.

Trống đồng thành biểu tượng thiêng liêng văn hóa dân tộc Việt Nam.

Quê hương trống đồng Đông Sơn là vùng Đất Tổ trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Tổ tiên ta vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, tạo kỹ thuật luyện kim đồng thau mang đậm yếu tố bản địa người Việt, tạo nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất ở Đông Nam Châu Á.

Những trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ và tỏa sáng trên lưu vực sông Hồng - sông Cái của đất Mẹ Việt Nam, nơi khai sinh dân tộc và Việt Nam hôm nay.

Theo các nhà nghiên cứu, trống đồng ra đời từ Văn hóa Đông Sơn gắn liền thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Địa bàn Phú Thọ là trung tâm Văn hóa Đông Sơn - Văn minh sông Hồng - đỉnh cao hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Đền Hùng có kích thước trống loại I lớn nhất từ trước đến nay được phát hiện năm 1990 tại đồi Khuôn Muồi - làng cổ ngay sát chân núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ các Vua Hùng có công dựng nước.

Điều đó chứng minh trống đồng Đền Hùng là vật linh thiêng được nhà nước Văn Lang dùng làm linh vật mỗi khi tế lễ, hội hè tại khu DTLS Đền Hùng.

Trống đồng phát hiện ở đồi Khuôn Muồi cùng nhiều trống đồng loại I được tìm thấy trên dải đất Việt Nam là những tư liệu vô cùng quý báu và có vị trí linh thiêng trong đời sống tâm linh người Việt.

Trống đồng là vật linh, thông qua đó được sáng tỏ nhiều vấn đề, thông điệp làm nên biểu tượng tập trung nhất những thành tựu sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của nhà nước được xác lập đầu trên đất nước ta - nhà nước thời Hùng Vương.

Trống đồng và những hình khắc họa trên trống giúp hình dung cuộc sống người Việt cổ thời xa xưa. Hoa văn trên trống đồng nhiều loại, bố trí hợp lý trên các phần mặt, tang và thân trống.

Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích để làm cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, Văn hóa Đông Sơn.

Trống đồng không chỉ có chức năng nhạc khí còn có những chức năng như làm biểu tượng cho quyền lực, tôn giáo..

Trống dùng trong các nghi lễ tôn giáo, lễ hội và chống giặc ngoại xâm, khi thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người từ khắp nơi tụ về để cùng chiến đấu.

Trống thường thuộc thủ lĩnh và là biểu tượng quyền lực. Thủ lĩnh quyền lực càng lớn, trống càng to và đẹp. Trống đồng là tài sản quý, làm đồ tuỳ táng khi chủ qua đời.

Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm văn minh nông nghiệp phát triển, hiện vật vô cùng quý báu, một trong những niềm tự hào sâu sắc Văn hóa Việt Nam.

Nay hàng trăm trống đồng phát hiện, lưu giữ và trưng bày trang trọng ở các Bảo tàng Quốc gia và các địa phương, vùng đất Thanh Sơn miền Tây Phú Thọ là nơi duy nhất tại Việt Nam vẫn còn ngày hội trống đồng của dân tộc Mường với lễ hội "Đâm Đuống" và "chàm thau."

Một trong những vùng địa linh của tỉnh Phú Thọ phát hiện nhiều trống đồng trong lòng đất nhất. Vì lý do đó, tỉnh Phú Thọ khôi phục nghi thức linh thiêng là đánh trống đồng trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng 10-3 Âm Lịch hằng năm.

Từ Đền Hùng, trống đồng Đông Sơn âm vang, vọng xa đến mọi miền đất nước.

Từ Đền Hùng, tiếng trống đồng Đông Sơn vang ngân trong lòng bè bạn quốc tế trên khắp năm châu, bốn biển.

Từ Đền Hùng, tiếng trống đồng âm vang như khẳng định những giá trị về truyền thống, đạo lý nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam suốt lịch sử dựng nước và giữ nước với bao biến cố, thăng trầm vẫn hiên ngang đứng vững và tự hào phát triển đi lên cùng nhân loại.

Trống đồng là bảo vật văn hóa Việt Nam, điểm hội tụ hồn thiêng sông núi hình thành từ thời Hùng Vương dựng nước, tích tụ tinh hoa dân tộc suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ thời đại các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.

Những trống đồng Đông Sơn phát hiện trên khắp lãnh thổ nước Việt Nam chứng minh hùng hồn điều đó.

Suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trống đồng là văn vật tượng trưng cho tinh hoa văn hóa cũng như ý chí quật cường dân tộc ta.

Đình Thuận/TTXVN

Nguồn

Web bnew

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
99011393_1442178982649016_1045432341637365760_n.jpg


Trống Đồng Đông Sơn - Văn hóa và xã hội Lạc Việt

Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp phát triển.

Những trống này vô cùng quý báu, một trong những niềm tự hào văn minh Việt Nam, nói với chúng ta rất nhiều điều, hoặc sáng tỏ hoặc còn đầy bí ẩn, về cuộc sống và tâm hồn Tổ tiên ta.

Phát hiện những lưỡi cày đồng và những hình bò khắc trên thân trống chứng tỏ thời này biết dùng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp. Nghề đánh cá, săn bắn, chăn nuôi gia súc và sản xuất thủ công phát triển trong thời này.

Phần lớn những nơi phát hiện có trống đồng phân bố dọc theo triền những sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Trống có thể phân phối bằng đường thuỷ.

Ngoài ra xã hội Lạc Việt tồn tại bất bình đẳng về tài sản. Điều này phản ánh rõ ràng trong phân bố những hiện vật tuỳ táng ở các mộ giàu nghèo thuộc thời đại đồng thau.

Quan niệm tôn giáo của người Việt cổ:

Tục sùng bái mặt trời và chim vật Tổ

Sao trên mặt trống đồng là biểu trưng mặt trời, tục thờ mặt trời là hình thức đạo sùng bái tự nhiên phản ánh rộng rãi trong phong tục tập quán cổ truyền người Việt.

Những hình người hóa trang thành chim trên trống đồng mang ý nghĩa tín ngưỡng vật Tổ là một loài chim.

Truyền thuyết người Việt, người Mường có chuyện trăm trứng mang ý nghĩa vật Tổ.

Hôn nhân Cha Rồng (Lạc Long) - Mẹ Âu (Âu Cơ) phản ánh liên kết hai bộ lạc thờ Rồng và thờ Chim Thần.

Theo dõi những hình người khắc trên trống đồng thấy những nhân vật chiếm vị trí trung tâm trong sinh hoạt và nghi lễ thường hóa trang thành chim, họ tự trang sức bằng những mũ hình chim, hoặc bộ quần áo lông chim.

Thậm chí những vũ khí, công cụ sản xuất, mũi thuyền, nóc nhà làm theo hình chim, trang trí hình chim, trang sức lông chim.

Hình ảnh người - chim Việt cổ thể hiện có hệ thống trên các trống đồng, thấy trên nhiều thạp đồng, rìu đồng.

Chính loài chim bay, có mào, cổ, chân dài có trên hầu khắp trống Đông Sơn từ chiếc sớm nhất đến chiếc muộn nhất, giống chim nước gần với loài cò, sếu, vạc là chim vật Tổ của người Việt cổ.

Hình ảnh vật Tổ rồng (giao long) giống vật thần thoại kết hợp những nét cá sấu, rắn nước.. thấy khắc trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), trên rìu đồng Đông Sơn, trên mảnh áo giáp đồng tìm thấy ở Hà Nam.

Vật Tổ hươu (người Mường gọi hươu là mẹ, cá là cha) khắc trên mặt nhiều trống đồng, trên thạp Việt Khê và trên rìu Đông Sơn - vật Tổ cóc (dân gian ta suy tôn cóc là cậu ông trời) cũng thấy trên nhiều trống đồng (Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương, Nông Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Giao, Thôn Mông).

Những con vật thiêng này tách ra một cặp quan trọng là Rồng - Chim phản ánh kết hợp hai bộ lạc lớn thờ Rồng và Chim, hình thành liên minh bộ lạc người Việt cổ lấy tổ hợp bộ lạc Rồng - Chim làm nòng cốt.

Cảnh đua thuyền, cảnh hiến tế, cảnh đánh trống, đánh chiêng, giã gạo, múa nhảy thấy trên trống đồng là những nghi lễ liên quan tín ngưỡng nông nghiệp.

Có thể xem là cảnh lễ cầu mùa, hội mừng mùa, những ngày hội lễ tiêu biểu nền văn minh nông nghiệp Việt cổ.

Trống đồng Hữu Chung phát hiện 5-1961 khi dân đào đất đóng gạch ở bờ sông Luộc, thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh (Tứ Kỳ). Ông An Văn Mậu, Phó Giám đốc bảo tàng tỉnh cho biết:

"Trống cao 67cm, đường kính mặt 82cm, đường kính chân 83cm, trọng lượng 75kg, hoa văn phong phú. Sau khi khai quật, hiện vật hầu như còn nguyên vẹn và được lưu tại bảo tàng tỉnh.

Trống Hữu Chung thuộc Văn hóa Đông Sơn khoảng TK. IV TCN. Đây là di vật tiêu biểu cho văn hóa thời Hùng Vương trên địa bàn tỉnh ta."

Cùng với đó là hai trống đồng phát hiện ở độ sâu 3m tại khu Mả Gạo, thôn Du Tái, xã Tiền Tiến (Thanh Hà) 1976. Sau khi khai quật đặt tên trống làng Gọp, xác định có niên đại cuối TK. I TCN.

Mới đây nhất là phát hiện trống đồng và thạp đồng ở thôn Hoàng Lại, xã An Lương (Thanh Hà) 10-2005. Hai di vật đồ đồng trên được xác định có niên đại thuộc nền Văn hóa Đông Sơn cách nay khoảng 2000 năm.

Những di chỉ Đồi Thông (xã Lê Ninh), Nhẫm Dương (xã Duy Tân, Kinh Môn), Dược Sơn (xã Hưng Đạo, Chí Linh) được phát hiện là minh chứng cho kho di vật phong phú thời Hùng Vương ở tỉnh ta.

Ở di chỉ Đồi Thông tìm được nhiều mũi tên, rìu, giáo đồng, niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất TCN.

Di chỉ Nhẫm Dương phát hiện công cụ, vũ khí bằng đá, đồng thuộc Văn hóa tiền Đông Sơn và Đông Sơn.

Di chỉ Dược Sơn phát hiện bộ sưu tập đồ đồng gồm 1 chậu đồng có hoa văn tương tự trên trống đồng Đông Sơn và 5 nhạc đồng (còn gọi nhạc voi).

Các di sản mộ táng La Đôi, Hợp Tiến (Nam Sách), Thượng Vũ (Kim Thành), Đông Quan, Tân Hưng (TP. Hải Dương), mộ Kiệt Thượng (Chí Linh).. là di sản văn hóa khá phong phú thuộc Văn hóa Đông Sơn.

Các mộ có hiện vật tùy táng bằng đồng:

Rìu, dao găm, giáo, khiên dày đặc hoa văn Văn hóa Đông Sơn. La Đôi được coi nghĩa địa cổ thời Văn hóa Đông Sơn.

- Trống đồng Đông Sơn còn cho những hình ảnh cụ thể về trang phục, nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc, trang trí, nghệ thuật ca múa nhạc của người Việt cổ.

Nghệ thuật kiến trúc

Dựa những hình khắc trên trống đồng thấy có hai loại hình kiến trúc là nhà sàn mái cong, nhà sàn mái tròn. Nhà có hai cột chống ở phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa có kê thang để lên sàn.

Nhà mái tròn thường có một người (hoặc không có người) đứng giữa cửa, hai bên cửa có chắn phên. Nhà mái tròn có thể liên quan tín ngưỡng và tạm gọi là "nhà thờ."

Những nhà mái cong như hình thuyền có nhiều người nói đó là nhà ở. Hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Có thể nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt.

Tượng trang trí

Tượng hình chó trên mặt trống nhỏ Đông Sơn, tượng cóc trên mặt các trống nhóm C. Hình tượng còn rất sơ lược nhưng nếu so sánh với thời đại hậu kỳ đồ đá mới có nghệ thuật vẫn chỉ là dạng hoa văn minh họa mới thấy bước tiến bộ về nghệ thuật cũng như kỹ thuật điêu khắc thời đồ đồng.

ĐIÊU KHẮC

Điêu khắc Đông Sơn tuy kích thước còn nhỏ, phần nhiều gắn đồ ứng dụng nhưng là bước nhảy vọt so với trước về số lượng, độ chín muồi, thực tiễn thị giác.

Nhiều loại tượng người, tượng thú như cóc, chim, gà, chó, hổ, voi.

Những tượng đồng thể hiện bởi những hình khối khái quát ước lệ nhưng có năng lực diễn tả sinh dộng.

Tượng người cõng nhau thổi khèn cao 8, 8cm ở Đông Sơn, người cõng nhún chân múa, người được cõng tay ôm lưng người kia, tay cầm khèn thổi, các đường chạy của khối thân, tay, chân lồng vào nhau như cùng hòa nhịp vào một điệu múa, toát lên dí dỏm lạc quan yêu đời.

Tượng người quỳ làm chân đèn (Lạch Trường, Thanh Hóa) cao 32cm với cơ thể trần, bụng thon, hai chân quỳ gập làm đế vững chãi, hai tay bưng khay đèn ngang ngực, từ lưng, vai mọc ra hai gạc cong như sừng hươu, nét mặt toát lên vẻ nhẫn nhục.

Đặc biệt trên nắp thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có bốn cặp tượng nam nữ với lối tạo hình đơn giản, cụ thể nhưng mang ý nghĩa độc đáo:

Mong muốn cuộc sống vẫn tiếp tục mãi mãi.

Thạp đồng dùng để chôn theo người chết (xác hoặc đồ cúng tế). Cảnh nam nữ giao hoan ở bốn hướng trên nắp thạp, thể hiện ý nghĩa "cuộc sống được tái sinh sau khi chết."

Những tượng người trên cán dao găm vừa có ý nghĩa trang trí, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phong cách thể hiện hơi gò bó kém sinh động.

Tính chất hiện thực diễn tả khá công phu, chi tiết với nhiều kiểu dáng khác nhau nâng giá trị các tượng này. Cán dao dài bằng 1/3 dao.

Tượng thường diễn tả tay chống nạnh, đàn bà mặc váy, áo bó sát người, ngực nở, tóc vấn cao, mũ vải hình chóp, hoa tai lớn, đàn ông cởi trần, đóng khố với những hoa văn xương cá.

Súc vật dùng làm tượng cán dao, như 3 dao găm Làng Vạc, dao dài 12, 6cm, với cặp rắn lồng vào nhau ngoạm chân voi, dao dài 22, 2cm cặp rắn đỡ hổ, dao dài 27, 5cm với cặp hổ đỡ voi.

Không như tượng người, tượng thú trên cán dao găm biến dạng khá cao như những dây leo xoắn xuýt, cố gắng khái quát thực tế hơn là tả thực.

Nhiều tượng thú trong đó con cốc (nhái) nhiều nhất, sau đó là rùa, hổ, bò, gà, chim, cá.. Một số tượng diễn tả rất chi tiết, cụ thể, nhưng có một số tượng lại chỉ chú trọng những đặc điểm đặc trưng nhất.

NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ:

Phát triển đạt trình độ cao, thể hiện ở đồ trang sức, kiểu dáng các vật dụng, nghệ thuật chạm khắc trang trí.

Hầu hết những đồ đồng này đều trang trí với những đồ án hoa văn phong phú, chạm khắc chìm kết hợp chạm khắc nổi tinh xảo.

Ngoài những đồ án hình học phỏng theo những hoa văn trang trí trên đồ gốm thuộc giai đoạn Gò Mun còn có rất nhiều hình tượng sinh động từ thiên nhiên, từ cuộc sống với những đường nét chạm khắc chính xác, khái quát, cô đọng sinh động các đối tượng miêu tả.

Những đề tài được tả rất sinh động, hiện thực, đó là những nhà sàn, những người múa, giã gạo, đánh trống, chèo thuyền, chim, hươu, cá.

Văn hóa Đông Sơn trống đồng là chứng nhân tiêu biểu, đầy đủ nhất thời kim khí, có rộng khắp các nước vùng Viễn Đông và Đông Nam Á:

Việt Nam, Trung Hoa, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Malaysia, Philippin, Myanmar.

Trống đồng H. 1 là trống xưa nhất, từ giữa thiên niên kỷ I TCN đến TK. III SCN. Thân trống chia làm 3 rõ rệt:

Tang trống, thân trống, chân trống. Mặt trống không chờm quá tang trống.

Hoa văn trang trí phủ kín mặt và thân. Trống sớm chưa có tượng cóc, trống hậu kỳ thường xuất hiện bốn nhóm tượng cóc trên mặt trống.

Trong trống H1 có bốn trống đẹp nhất:

Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, sông Đà (Việt Nam) và Khai Hóa (Vân Nam - TQ).

Trống đồng Ngọc Lũ xưa nhất đẹp nhất. Trống cao 63cm, tang trống đường kính 79cm, thân hình trụ tròn thẳng đứng, chân hơi loe hình nón cụt.

Giữa tang trống và thân trống gắn hai cặp quai kép trang trí văn thừng, mặt trống gồm chín vòng tròn đồng tâm:

Vành một chính giữa là sao mười bốn cánh, giữa các cánh là hoa văn lông công.

Vành hai hoa văn chữ S, chấm gạch, vòng tròn tiếp tuyến.

Vành ba rộng nhất gồm các cảnh nhảy múa, đánh trống, giã gạo và bốn hình nhà sàn.

Vành bốn hoa văn hình tròn có tâm, tiếp tuyến.

Vành năm gồm chim đầu tròn đang bay và hươu.

Vành sáu hoa văn vòng tròn có tâm, tiếp tuyến.

Vành bảy có mười tám chim mỏ dài đang bay. Chim mỏ ngắn đứng xen kẽ.

Vành tám hoa văn răng lược và vòng tròn có tâm tiếp tuyến.

Vành chín không trang trí.

Tang trống phân chia ba vành trang trí hoa văn xen kẽ sáu thuyền, trên thuyền có thuyền trưởng, thủy binh, người lái, người bắn cung, tù binh, hình chim, chó.

Thân trống phân thành hai băng ngang trang trí kết hợp sáu cột trang trí dọc tạo thành sáu ô chữ nhật, trong mỗi ô có hai cặp vũ sĩ hóa trang cầm rìu múa. Chân trống không trang trí.

Do kỹ thuật khắc chìm kết hợp khắc nổi, nên tạo độ cao thấp cho các hình tượng. Điều này tạo mảng sáng tối đậm nhạt phong phú cho toàn bộ hình trang trí.

Hình nhà cửa, con người, chim thú.. đều diễn tả bằng nét thẳng dứt khoát, khúc triết xen kẽ nét cong tạo mềm mại cần thiết.

Hình chim đơn giản, rõ ràng thể hiện cách điệu cao bên cạnh hình hươu đậm chất hiện thực.

Con người và muông thú diễn tả ở hướng nhìn nghiêng, song cánh, mắt.. diễn tả ở hướng chính diện theo quy định rõ ràng.

Tất cả tạo những mô tip trang trí đơn giản song rất sinh động và mang tính cách điệu cao.

HOA VĂN TRỐNG ĐỒNG VỚI VĂN HOÁ NGƯỜI VIỆT THỜI HÙNG VƯƠNG

Ý nghĩa văn hóa, lịch sử và tinh thần của trống đồng được chứng minh giá trị của mình qua các loại trống đồng đã, đang và sẽ tìm thấy được.

Trống đồng Ngọc Lũ với hoa văn hình thuyền và những hoa văn hình chim thú điển hình, trống đồng sông Đà được giảm bớt hoa văn, trống đồng Ngọc Chung hoa văn được giản lược tối đa, có bốn tượng hình cóc trên mặt trống.

Trống đồng được công nhận là sản phẩm 2.500 năm trước, hoa văn trên trống là thông điệp của người Việt thời Hùng Vương gửi các thế hệ sau.

Dù hoa văn trên trống đồng từng giai đoạn, từng địa điểm cư trú đều ghi khắc theo một hệ thống và phong cách ổn định, hoàn chỉnh.

Đặt những hình ảnh đó gần nhau là gắn bó những phong tục hội hè trong cùng không gian chung. Một chủ đề rõ ràng, thống nhất hiện rõ trên hoa văn trống đồng, đó là hội làng.

Tất cả biểu tượng sáng tạo trên trống đồng hoàn toàn hợp nhau lại trong một ngày hội, chúng hoàn toàn gắn bó khăng khít giữa ba mảng hội:

Nghi lễ, biểu diễn nghệ thuật, trò vui. Diễn xướng được người xưa chuẩn bị rất công phu:

Âm nhạc, thanh nhạc, múa nhạc và nhạc khí.

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Đặng Văn Lung, Viện Văn học, Trung tâm Khoa học Xã hội - Nhân văn Quốc gia phát biểu:

"Về hoa văn trên trống đồng cho thấy đây là những lễ hội về nông nghiệp, ngày hội được mùa, thu hút mọi hoạt động văn nghệ dân gian, thấy có:

Âm nhạc, múa nhảy và các nhạc khí, nó là cứ liệu chắc chắn để xây dựng, là trống đồng mô tả rất rõ ràng và đáng tin cậy về cách diễn xướng dân ca của những nhạc cụ thời đó."

Trời và đất là 2 khái niệm, hành vi tượng trưng hóa của con người, tín hiệu của sự vật thể hiện trên trống đồng. Vì từ thời Đông Sơn, người Việt cổ định cư và làm lúa nước, mà làm lúa nước thì phải:

"Trông trời, trông đất, trông mưa."

Một số nhà nghiên cứu cho rằng trống đồng là trống sấm vì tiếng phát ra như tiếng sấm.

Do bám trụ với ruộng đất, muốn mùa màng bội thu, con người phải cầu mưa, cầu nước, cầu tạnh.. cầu mưa thuận gió hòa, không thiên tai lũ lụt, vạn vật được sinh sôi.

Nên cư dân nông nghiệp hàng năm vẫn tổ chức lễ hội, tiếng trống hội vẫn âm vang mãi trong các ngày hội.

Ngày hội được ghi khắc trên trống đồng không phải hội nhỏ, chứng tỏ thời ấy người Việt đã vững mạnh, phát triển văn hóa triết lý đến cao độ.

Những hoa văn trống đồng đã mở ra những cứ liệu phong phú về một nền nghệ thuật diễn xướng có trong các lễ hội thời Hùng Vương.

PGS. TS Đặng Văn Lung phát biểu:

"Các hoa văn điêu khắc thể hiện rất cụ thể về các hoạt động của lễ hội rất thú vị, đó là các hoa văn về đơm đuống mà hiện nay rất dễ sưu tầm các điệu múa hát ở các dân tộc thiểu số.

Ví dụ người Lô Lô, người dân tộc Mường. Trên trống đồng còn có hoa văn nam nữ hát đối đáp trồng nụ, trồng hoa trên nhà sàn."

Nếu nhìn vào hoa văn trống đồng có thể coi mỗi họa tiết là âm tiết, mỗi hình họa là một từ, mỗi chuỗi hình họa là một câu và mỗi vành hoa văn là một đoạn.

Toàn bộ hệ thống hoa văn là một văn bản. Sau đó đem tất cả đặt nó lên trục phát triển lịch sử để tìm dấu ấn một thời kỳ.

Nay hoa văn trống đồng còn lưu ở một số dân tộc về các điệu nhảy và nó gần như nguyên vẹn ở đồng bào Ê-đê trong múa cầu mùa vào mùa xuân.

Người múa dậm chân xuống đất là dấu hiệu mùa xuân, muốn đánh thức đất dậy sau đêm đông giá rét. Các điệu múa như thế có thể do một cá nhân tiến hành, có thể do tập thể tham gia.

Trường hợp chơi cả tập thể thì âm thanh phát ra từ nhạc cụ cộng với tiếng bước chân làm khuấy động không gian náo nhiệt và tưng bừng.

Điều này hiện rõ trên các dải hoa văn trống đồng chạy vòng tròn. Hoa văn ghi lại người hóa trang thành chim múa hát theo nhịp điệu của khèn, chiêng, trống..

Chứng tỏ, người Đông Sơn có trình độ rất cao về tạo hình và phản ánh của họ về nhân sinh quan.

Đặng Văn Lung phát biểu:

"Nhiều nhà nghiên cứu cổ nhạc nói âm nhạc thô sơ là vũ nhạc. Người ta dậm chân hay đập tay xuống đất, đánh vào thân mình, trong khi toàn thân nhún nhảy theo nhịp điệu.

Hay từng đoạn thân, có thể toàn thân, rung động, lắc lư để làm đồ vật, trang sức phát ra âm thanh."

Một quá trình lao động dài từ thấp đến cao, từ thô sơ lạc hậu đến phát triển văn minh rực rỡ được đánh dấu là nền văn minh trống đồng, người Việt lúc đó phải trải quá trình lâu dài.

Từ đây quá trình tư duy, thẩm mỹ và trình độ nhận thức nhân sinh quan vươn tới một giai đoạn cao hơn.

Những người Việt thời Hùng Vương bên cạnh nghề trồng lúa nước biết thể hiện bản thân, thể hiện ước vọng, khát khao vươn lên.

Biến những sinh hoạt đời thường thành những hình thức diễn xướng dân gian trong các lễ hội cầu mùa, nó thể hiện rất rõ trên các họa tiết hoa văn trên trống đồng hay qua những di vật bằng đồng cho thấy:

Hình như ở đâu trong thời Hùng Vương đều vang âm thanh rộn ràng dìu dặt của những giọng hát, nhạc cụ tạo tiết tấu, nhiều nhạc cụ đạt trình độ hợp âm và hòa âm vô cùng đặc sắc.

Thời xa lắc ấy, không chỉ sáng tạo những nhạc cụ chuyên biệt mà còn dùng những công cụ lao động tạo âm thanh, tạo lối diễn xuất mang tính tập thể trong lao động là lối giã cối nghi lễ (dân gọi lối đâm đuống), theo nhịp tay đâm đuống lúc nhặt hay thưa và tiếng chầy chuyển nhịp âm thanh khác nhau tạo hòa âm rộn rã. Phải chăng, đây là bắt đầu cho tục đánh trống đồng của người Việt thời Hùng Vương.

Trống đồng là nhạc cụ thiêng thuộc bộ gõ, cũng như đâm đuống, trên mặt trống đồng thể hiện rõ hai hay bốn người đánh lên mặt trống bằng chày đứng..

Đáng chú ý ở tục đánh trống đồng là hình thức đánh đập ngang vào hình tượng mặt trời để gọi nước cầu mưa.

Đặng Văn Lung nói:

"Hình ảnh của những phong tục khắc trên trống đồng theo hệ thống và phong cách ổn định, hoàn chỉnh."

Người Việt cổ cùng nền văn minh lúa nước đầu tiên với đời sống lao động thường nhật sáng tạo những huyền thoại, hệ thống siêu nhiên nhằm giải thích và triết lý toàn bộ xã hội thời Hùng Vương.

Đó là những truyền thuyết thần thoại:

Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, Bánh chưng bánh dày, Trương Chi Mỵ Nương, Sự tích Đầm Dạ Trạch, Sự tích Trầu cau, Sự tích Quả dưa hấu, Sơn Tinh Thuỷ Tinh..

Là những cứ liệu khá xác thực cùng hoa văn trên trống đồng về nền nghệ thuật diễn xướng giai đoạn Hùng Vương.

Hoa văn trên trống đồng mô tả toàn bộ lễ hội trên đất Văn Lang.

Trước tiên là ngày hội mùa, mừng được mùa và cầu chúc làm ăn thuận hòa, mùa màng được phong đãng.

Đó là ngày hội của nam nữ, trai gái gặp nhau tỏ tình, với nhu cầu về sự phồn thực, đông con nhiều cháu.

Nay những hình thức diễn xướng, hát đối đáp vẫn gặp ở nhiều nơi. Nó thành những làn điệu dân ca quen thuộc ở các vùng nông nghiệp như hát Xoan - Phú Thọ, hay hát quan họ - Bắc Ninh.

Những nông dân ở các làng đồng bằng Bắc Bộ sống trong những làn điệu dân ca, không chỉ trong lễ hội, ngay trên cánh đồng. Họ hát để bày tỏ tình cảm, làm vơi những nặng nhọc trong nghề nông.

Tất cả dường như được trống đồng tả lại, vì trên trống đồng làm cách đây hơn 2000 năm thấy những hoa văn tả trai gái ngồi trong nhà sàn mái cong, tay và chân đều giao nhau.

Đây có thể xem là hình ảnh tục lệ hát đối đáp trai gái hồi đó. Rõ ràng người Đông Sơn có trình độ ghi nhận hiện thực chính xác với trình độ cao nhất về ý thức tạo hình tuyệt mỹ.

Các họa tiết ghi khắc trên trống đồng thời Đông Sơn - Hùng Vương cùng những dấu tích còn lưu trong hình thức biểu diễn nay như:

Âm nhạc, thanh nhạc, múa nhảy cổ truyền phần nào phác họa đôi nét về diện mạo những hình thức diễn xướng của những người Việt cổ cách nay 2.500 năm.

Đây là những dấu ấn về văn hóa truyền thống cần được bảo lưu và gìn giữ.

Nguồn: THUỲ DUNG

Nguồn

Web ducdongdaothuy

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
75418880_1260600487473534_5674872539390672896_o.jpg


Trống đồng Ngọc Lũ và nghệ thuật âm nhạc, múa của người Việt cổ

Trống đồng Ngọc Lũ cách ngày nay trên 2.500 năm, xếp vào loại H1 Heger (*) là trống đồng cổ nhất, đẹp nhất phát hiện ở Việt Nam.

Đôi nét về xuất xứ, hình dáng, hoa văn

Trống vốn để ở đình làng Ngọc Lũ (Bình Lục). Năm 1903, Công sứ Hà Nam môi giới đưa trống về Bác Cổ Viễn Đông Hà Nội.

Trống hiện lưu tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Hà Nam có 2 phiên bản trống, theo tỉ lệ 1/1 trưng bày tại Bảo tàng tỉnh, theo tỉ lệ 1, 5/1 đặt ở tiền sảnh Nhà Văn hóa tỉnh.

Trống cao 63cm, hình dáng cân đối, hài hòa, kết cấu trống gồm bốn phần. Mặt trống có đường kính 79cm hơi tràn ra ngoài, nối liền với phần phình ra gọi là tang trống.

Thân trống có hình trụ tròn thẳng đứng. Phần cuối cùng là chân trống hơi loe tạo thành hình nón cụt.

Gắn giữa tang và thân trống là đôi quai kép đối xứng hai bên, trang trí hoa văn bện hình bông lúa còn gọi văn bện thừng.

Các trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ có hoa văn dày đặc, phong phú nhất và chia hai loại:

Một loại hoa văn cách điệu hình người, động vật, đồ vật và loại kia hoa văn hình kỷ hà (hình học) đa dạng.

Chính giữa mặt trống là hình mặt trời đúc nổi 14 cánh (tia), có người lại cho là hình ngôi sao. Xen giữa các cánh có những họa tiết hình lông công mang ý nghĩa phồn thực.

Từ tâm trống ra rìa trống có 16 vành hoa văn đồng tâm. Các vành 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 11, 12, 13, 14, 15 đều là hoa văn kỷ hà.

Quan trọng nhất 3 vành hoa văn 6, 8, 10 có hình người và động vật.. diễu hành ngược chiều kim đồng hồ.

Đặc biệt, vành 6 chia thành 2 bán viên đối xứng và gần giống nhau thể hiện hình ảnh con người, nhà cửa, vật dụng, nhạc khí, chim chóc gắn với hoạt động con người..

Trên tang trống, đoạn tiếp giáp với mặt trống có 6 vành hoa văn hình học.

Bên dưới đoạn này là hình 6 thuyền, xen giữa các thuyền có những chim trong tư thế đứng.

Trên các thuyền đều có hình ảnh trống đồng, tất cả 15 trống. Đoạn cuối cùng của tang trống là 3 vành hoa văn hình học.

Khác mặt trống, tang trống hoa văn sắp xếp thành vành, ở thân trống hoa văn bố trí thành băng, chạy dọc hình chữ nhật.

Tất cả 6 băng, mỗi băng có hình 2 vũ sĩ cầm rìu. Chân trống để trơn, không trang trí hoa văn.

Trống đồng Ngọc Lũ tuyệt tác/trội vượt về nhiều mặt:

Kỹ thuật luyện kim, đúc đồng, giá trị lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, nghệ thuật.. hàm chứa nhiều thông tin còn cần giải mã, tốn không ít công sức các nhà nghiên cứu muốn khám phá, đi sâu.

Trống đồng Ngọc Lũ nói riêng và trống đồng Đông Sơn nói chung là biểu tượng đặc sắc thời đại Hùng Vương dựng nước - đỉnh cao của nền văn minh Đông Sơn/văn hóa Việt cổ.

Nghệ thuật âm nhạc và múa

Cùng các tư liệu khảo cổ khác tư liệu hoa văn trống đồng Ngọc Lũ góp phần quan trọng phác họa về âm nhạc và múa của người Việt cổ.

Trước hết, trống đồng Ngọc Lũ là một loại nhạc khí "tự thân vang" diễn tấu độc lập hay tạo tiết tấu cho giàn nhạc, cho ca múa. Bằng tài nghệ, người xưa pha trộn hợp kim đúc trống tạo âm sắc trầm hùng.

Nhà nghiên cứu Cao Xuân Hạo thực nghiệm định âm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, tìm ra được thanh âm cổ thời ấy.

Chính tâm được nốt Mi, vành hoa văn 1 và 3 được nốt Si giáng, vành hoa văn 4, 5 được nốt Mi, Fa, vành hoa văn 7 được nốt Si giáng.

Từ vành hoa văn 9 ra rìa trống lại được nốt Mi. Một thang âm độc đáo, chỉ gồm 3 nốt kết hợp liền bậc và nhảy quãng.

Kết cấu trống đồng Ngọc Lũ tạo ra thùng âm thanh có tác dụng khác nhau.

Tang trống phình: Cộng hưởng âm thanh; phần hình trụ tròn tức thân trống nắn âm thanh; chân trống loe: Tán phát âm thanh vang xa hơn.

Qua hình ảnh trên trống cho thấy người xưa đào một hố đất rồi đặt trống giữa hố, tạo nên hộp cộng hưởng thứ hai, khiến tiếng trống càng trầm hùng, mạnh mẽ, vang xa hơn nữa. Người thời Trần tạo ra trống quân theo cách này.

Không chỉ sử dụng trống đồng đơn chiếc làm nhạc cụ. Hoa văn trống đồng Ngọc Lũ thể hiện cảnh hòa tấu với nhạc công ngồi cầm dùi đánh trên mặt 4 trống đồng theo phương thẳng đứng.

Cùng trống đồng, người Việt cổ còn sử dụng trống da. Hình ảnh trên trống Ngọc Lũ khá rõ, xuất hiện trong hai trường hợp: Ở thuyền chiến và ở nhà sàn, có vật nâng đỡ trống.

Có thể suy đoán trống da dùng làm hiệu lệnh khi đánh trận và dùng làm nhạc cụ đệm cho ca múa.

Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ có hình ảnh hai nhà cầu mùa treo giàn chiêng đối xứng qua hình mặt trời ở tâm trống.

Trong nhà cầu mùa thứ nhất có hình một người một tay xách chiếc chiêng to, tay kia cầm dùi đánh, hai bên là hai giàn chiêng mỗi dàn bảy chiếc.

Trong nhà cầu mùa thứ hai có một người đứng giữa hai giàn chiêng, hai tay đều cầm dùi đánh vào chiêng, dàn chiêng bên trái có tám chiếc, dàn chiêng bên phải có bảy chiếc.

Hoa văn mặt trống đồng Ngọc Lũ cho thấy xuất hiện các nhạc cụ gõ khác như chuông, sênh, phách.

Đó là hình ảnh một người đang lắc quả chuông trong đoàn người nhảy múa và nhóm người múa, tay đều cầm phách hoặc sênh.

Nhạc cụ duy nhất thuộc bộ hơi là khèn. Khèn bè có từ bốn đến sáu ống thành đoạn riêng không liền đoạn dưới.

Hình ảnh trên trống đồng Ngọc Lũ, cùng với âm nhạc còn biểu hiện nghệ thuật múa khá phong phú, sinh động trong các trạng huống khác nhau, chẳng hạn cảnh đoàn người múa với trang phục đẹp, đội mũ lông chim hoặc bông lau.

Đó còn là lối ca múa cặp đôi giao duyên hay hình ảnh trong nhà sàn mái cong hình thuyền đôi nam nữ ngồi đối diện tay chân giao vào nhau.

Bên cạnh có người đánh trống da giữ nhịp, phải chăng đang thực hành nghi lễ tín ngưỡng phồn thực, Âm Dương giao đãi, cầu mong sinh sôi nảy nở. Cảnh múa hát còn gắn với lao động.

Đôi nam nữ cầm chày giã gạo theo phương thẳng đứng, đầu chày trang trí.

Bên cạnh mỗi đôi giã gạo có một người đánh chiêng hoặc gõ sênh phách giữ nhịp cho tiếng chày mà bản thân tiếng chày cũng có tính tiết tấu.

Cảnh múa đông người theo đội hình hàng dọc, vừa đi vừa múa trong vòng tròn, hướng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ.

Trang phục vũ công là trang phục ngày hội, tay trái cầm đạo cụ, tay phải múa cách điệu.

Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ cũng gặp hình ảnh múa khèn bè của hai vũ công.

Một số nhận xét khái quát về nghệ thuật âm nhạc, múa của người Việt cổ thể hiện qua hoa văn trống đồng Ngọc Lũ.

Trước tiên thấy phong phú, đa dạng trong hình thái biểu hiện hai loại hình nghệ thuật này, luôn trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, về âm nhạc, nổi bật là bộ gõ, chủ đạo là trống đồng ngoài ra còn có trống da, chuông, chiêng, sênh, phách, khèn bè.

Thang âm Mi - Fa - Si giáng định hình tạo bản sắc âm nhạc. Âm nhạc thời ấy thiên về tiết điệu, tiết tấu.

Người Việt cổ hay sử dụng cùng lúc nhiều nhạc cụ và phối âm, phối khí sơ khai, về múa có múa đôi, múa tập thể, đội hình hàng dọc hoặc vòng tròn.

Múa hát giao duyên nam nữ, múa tín ngưỡng, múa sinh hoạt, múa hội hè. Cuối cùng về nguồn gốc có thể nhận định:

Nghệ thuật âm nhạc, múa thời đại Hùng Vương ra đời và gắn bó chặt chẽ với tâm linh, tín ngưỡng, lao động sản xuất của con người thời ấy.

Hà Nam phát hiện trống đồng Ngọc Lũ. Vị thế tiêu biểu, trội vượt đứng đầu dòng trống đồng văn minh Đông Sơn.

Năm 1962, Bác Hồ chăm chú xem trống đồng Ngọc Lũ trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Trống đồng Ngọc Lũ phiên bản theo tỉ lệ 1/1 và 5-10-1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh thay mặt nhà nước và nhân dân Việt Nam trao tặng Liên Hợp Quốc như là biểu tượng văn hóa Việt Nam.

Ngay từ đợt đầu tiên, trống đồng Ngọc Lũ được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật Quốc gia.

(*) Heger, học giả người Áo phân loại các trống đồng phát hiện ở Việt Nam và Hoa Nam (Trung Quốc) theo trật tự niên đại thành 4 loại:

I (Sớm nhất), II, III, IV (muộn nhất).

Ngoài ra phát hiện một trống đồng khác được các nhà khảo cổ học gọi Ngọc Lũ II có niên đại muộn hơn, hoa văn kém phong phú hơn rất nhiều trống đồng Ngọc Lũ I.

9-4-2019

Theo Báo Hà Nam điện tử

Nguồn

Web hanam

Phát hiện thêm trống Đông Sơn có minh văn "Cửu Chân", mang tên "Phú"

Trống đồng Đông Sơn có khắc minh văn cổ: Cửu Chân

TS Nguyễn Việt

Phát hiện bất ngờ trống đồng cổ có minh văn

Cách đây chừng 5, 6 năm, nông dân ở vùng chiêm trũng thuộc thôn Trạch Bái, xã Hòa Lâm huyện Ứng Hòa (Hà Tây cũ) bất ngờ phát hiện trống đồng lớn còn gần như nguyên vẹn trong hố đất đen đào sâu trong tầng đất đen sú vẹt.

Có lẽ nhờ tầng đất chua sú vẹt yếm khí này mà trống bảo tồn nguyên vẹn, gần như mới.

Nhất là lớp vàng óng của thau đồng ẩn bên dưới màng patin mỏng được bảo vệ bởi tầng nhựa cây che phủ khiến chủ nhân không thể tin ngỡ như đồ đồng mới đúc.

Đây là khu vực tập trung di tích Đông Sơn với những khu mộ thân cây khoét rỗng như Nam Chính, Trầm Lộng, Châu Can..

Trống được thông báo đến các thành viên trong hội sưu tầm cổ vật Thăng Long (Hà Nội) và hiện nay nó là một trong số món đồ giá trị, mang lại niền tự hào chính đáng cho anh em trong hội.

Từ 2002, sau khi nghiên cứu dòng chữ Hán trên vành chiếc thạp đồng Đông Sơn có thể của Triệu Đà lưu tại Bảo tàng Barbier-Mueller (Geneva, Thụy Sĩ), tôi đặc biệt lưu tâm đến dấu tích minh văn chữ Hán sớm hay ký tự trên đồ đồng và đồ gốm cổ.

Năm 2005, tôi được anh em trong hội cổ vật Thăng Long cho biết chính trống đồng cổ còn tươi màu vàng óng đó lại có hàng chữ Hán rất khó đọc bên trong lòng vành chân đế.

Chủ nhân từng mời một số nhà Hán Nôm đến xem hộ, nhưng đến nay vẫn chưa thấy bất kỳ thông tin nào về những chữ cổ đó. Gần đây, tôi may mắn có dịp chiêm ngưỡng và nghiên cứu trống này.

Nhân đây, xin chân thành cảm ơn anh Hội, ủy viên ban chấp hành hội cổ vật Thăng Long (Hà Nội) đã giới thiệu, anh Trường chủ nhân của trống cho phép và tạo điều kiện làm việc tốt nhất.

Cũng như anh em nhân viên của anh Trường, những người tận tình giúp tôi trong khảo sát và làm tư liệu trống minh văn này.

Trống đầu tiên có minh văn ở nước ta là trống đồng Đông Sơn do dân khai quật được ở Gò Mả Tre, trong thành Cổ Loa, năm 1982.

Hàng minh văn này được một số nhà khoa học nghiên cứu và công bố.

Đây là trống đồng Đông Sơn thứ hai có minh văn được phát hiện và nghiên cứu ở nước ta.

Ngoài ra như từng được công bố, một số thạp đồng Đông Sơn và khá nhiều đồ đồng, đồ gốm Giao Chỉ thuộc truyền thống Đông Sơn thời Bắc thuộc cũng có khắc minh văn chữ Hán.

Bài viết này tập trung giới thiệu minh văn trên trống đồng quý giá trên.

Vài dòng giới thiệu về trống mang tên "Phú"

Tiện trình bày, bài này tôi gọi trống là trống "Phú". Bởi trên dòng minh văn trên trống, chủ nhân xưa cũng khắc:

"Danh viết Phú" nghĩa: Trống tên là "Phú" (giàu sang, phú quý).

Trống "Phú" thuộc loại cỡ lớn, đường kính miệng 65cm, phần tang rộng nhất tới 71cm.

Chiều cao toàn thân trống là 43cm, thuộc loại trống lùn mang đậm phong cách miền núi (Tây Âu).

Giữa mặt trống là hình mặt trời 12 tia cánh rộng. Ngoài các vành trang trí hình học có 2 vành chính thể hiện 1 vành gồm 4 con thằn lằn (hay cá sấu) còn vành kia là hình 8 chim mỏ dài bay ngược chiều kim đồng hồ.

Mặt trống không tràn gờ mà thu hẹp so với độ nở của tang mỗi bên 3cm.

Tang trống trang trí băng chính gồm 4 thuyền độc mộc đầu và đuôi thuyền cong vút.

Bên trên có 6 người ngồi chèo thuyền giống nhau, 1 người ngồi phía sau cầm lái và 1 người ngồi chèo nhưng có ngọn giáo cắm chúc mũi xuống ở hốc đầu thuyền phía trước.

Tất cả nhìn theo hướng từ trái sang phải (ngược chiều kim đồng hồ). Không thấy bất kỳ con vật nào ở trên trời cũng như dưới nước.

Phần thân thuyền chia thành 8 ô hình chữ nhật, mỗi ô có 2 hình người hóa trang đội mũ lông chim, mang khố dài, mắt quay nhìn theo hướng từ trái sang phải.

Người đứng phía trước, tay cầm rìu (giáo), người đi sau cầm sênh, cả hai nhún theo tư thế nhảy múa. Phía trên đầu là hình chim Lạc bay.

Vành chân trống để trơn, thuộc loại thấp nhưng xòe rộng ngang bằng với chỗ phình nhất của tang trống (khoảng trên dưới 70cm).

Chính ở phần xòe chân trống này, phía bên trong có dãy chữ Hán khắc rất sắc nét.

Dòng minh văn gồm 16 chữ Hán và những thông tin về các đơn vị đo lường thời Đông Sơn

Các chữ Hán khắc bên trong chân đế trống đồng thành hàng ngang đọc chạy dọc từ trên xuống dưới, rất giống tình trạng trống Cổ Loa cả về vị trí lẫn kiểu khắc.

Hình ghép dưới đây do tôi ghép lại từ những đoạn chụp liên hoàn dãy 16 chữ minh văn đó.

Nghiên cứu minh văn thời này tôi từng đề xuất tên gọi cách khắc minh văn không vuông vắn, thừa thiếu nét và nhiều lỗi chính tả này là kiểu "minh văn Nam Việt" để phân biệt với cách khắc minh văn chuyên nghiệp hơn ở Trung Nguyên.

Tuy nhiên, trường hợp ở trống Phú, nhờ độ nguyên vẹn và sắc nét, dòng minh văn này khá dễ đọc, ngoại trừ 2 chữ đầu tiên. Từ chữ thứ 3 trở về sau có thể đọc:

"TRỌNG LỤC QUÂN, NGŨ CÂN, BÁT LẠNG, DANH VIẾT PHÚ, ĐỆ VỊ THẬP NHẤT".

Tạm dịch:

"Trống nặng 6 quân, 5 cân, 8 lạng, tên gọi Phú, thứ bậc số 11."

"Quân" là đơn vị đo lường cổ dùng từ đời Chu đến hết đời Minh. 2 "bình" làm thành 1 quân.

1 bình nặng 15 cân, như vậy 1 quân nặng 30 cân. Đời Tần đúc chuẩn những quả quân có quai để thống nhất đo lường toàn thiên hạ.

Theo đó, mỗi quân nặng 7, 75kg (1 cân đời Tần – Hán khoảng 258 gram). Trống này tương đương Tần – Hán, tức TK. 3-2 TCN, ngang thời Âu Lạc của An Dương Vương.

Đương thời, theo chuẩn đời Tần – Hán, trống có trọng lượng 47, 759kg. Phân tích đơn vị đo lường ở Lĩnh Nam, Giao Chỉ, chúng tôi cũng như một số nhà nghiên cứu Trung Hoa nhận thấy đơn vị đo lường ở Lĩnh Nam và Giao Chỉ đời Tần – Hán có khác biệt so với vùng Trung Nguyên.

Phản ánh tính chất cát cứ, bất phục của các thủ lĩnh Bách Việt phương Nam với chủ trương thống nhất đo lường của triều đình Tần - Hán.

Phân định giá trị các đơn vị đo lường người khắc minh văn thường thêm vào những chữ để quy ước đơn vị đó tính theo vùng nào.

Thông thường đó là những chữ chỉ địa danh hoặc tước hiệu liên quan chủ nhân mang tính vùng gắn với đơn vị đo lường cụ thể của đồ vật có ghi minh văn.

Đồ đồng Nam Việt thường ghi các vùng như "Phiên", "Triết", "Bố".. Thạp đồng Triệu Đà ghi "Long Xoang", tức Long Xuyên, nơi ông làm huyện lệnh.

Trống Cổ Loa và một số đồ đồng khác cùng thời có ghi Tây Vu (đọc chệch của Tây Âu), tên bộ tộc lớn thuộc khối Bách Việt và cũng là tên bộ (huyện) thời Tây Hán.

Tên đơn vị hành chính thời Đông Sơn chủ yếu phiên âm ghép bắt nguồn từ cách gọi bằng hệ thống ngôn ngữ bản địa.

Dùng các bộ thủ hay chữ Hán để ghi nhận chúng thường không nhất thiết gắn nghĩa gốc của âm bản địa đó.

Đôi khi âm đó không có trong chữ Hán. Đọc được các địa danh thời này bằng chữ Hán là khá phức tạp.

2 chữ đầu tiên minh văn khắc rất rõ nét. Giả thiết phục dựng 2 chữ Cửu Chân từ bản gốc minh văn (đọc từ phải qua trái).

Chữ đầu gồm 2 phần:

Phần bên trái hơi chếch xuống dưới gồm 3 vạch ngang và 1 nét sổ thẳng nhú đầu, có thể gần với bộ "vương" hay chữ "chủ".

Phần bên phải hơi chếch lên trên trông giống một nửa bộ "vũ" (lông vũ), gồm 4 nét.

Cách viết chữ "Cửu" (một bên bộ vương, một bên bộ cửu) theo nghĩa lưu cữu, cũ kĩ hay tên loại đá ngọc, khá gần với chữ này.

Ký tự tiểu triện chữ Hán có chữ ghi âm cúi được cho là tiền thân chữ Hợi sau này.

Kiểu ghi âm như vậy xét thấy khá giống phần bên phải hơi chếch lên trên của chữ đầu tiên trên trống "Phú" mà chúng ta đang bàn.

Điều này càng củng cố thêm cách đọc là chữ đầu tiên này là "Cửu" ít nhiều hợp lý.

Chữ thứ 2 rất phức tạp, 18-19 nét. Nửa bên trái khá rõ là chữ "nhật" có đường sổ bên phải kéo dài. Về tự dạng có thể gần với chữ "ngõa".

Vì dự đoán tên địa danh thời Âu Lạc gắn vùng chiêm trũng Mỹ Đức, Phú Xuyên (Hà Tây cũ) nên tôi hướng về những địa danh như Chu Diên, Câu Lậu, Cửu Chân.

Do đó tôi chọn chữ "Chân" nghĩa là phân định phải trái hay tên của dòng họ Chân thời cổ.

Chữ này nhờ có bộ "ngõa" ở bên phải, bên trái là bộ "tứ" (ở trên) + bộ "thổ" (ở dưới) phần nào khá gần gũi với cách "vẽ" chữ của người xưa đối với chữ thứ 2.

"Cửu Chân" mang nặng tính giả định, tuy gần gũi và logic về tự dạng với tính vùng nơi khai quật được trống Phú.

Nếu tạm chấp nhận giả thuyết trên, toàn văn dòng chữ Hán 16 chữ khắc trong vành chân đế trống Phú có thể đọc:

"CỬU CHÂN, TRỌNG LỤC QUÂN, NGŨ CÂN, BÁT LẠNG, DANH VIẾT PHÚ, ĐỆ VỊ THẬP NHẤT"

玖 甄, 重 六 鈞, 五 斤, 八 両, 名 曰 富, 第 未 十 一

Tạm dịch:

Trống của bộ Cửu Chân (), đứng hàng thứ 11 (đệ vị thập nhất), nặng 185 cân rưỡi, tên đặt là "Phú" (giầu có).

Kết luận

Đây là trống Đông Sơn thứ 4 có minh văn được nghiên cứu.

Chiếc thứ nhất khai quật trong mộ Loubowan (Quý Huyện, Quảng Tây, Trung Quốc), chiếc thứ 2 phát hiện ở Indonesia. Chiếc thứ 3 khai quật ở Gò Mả Tre (Cổ Loa, Hà Nội).

Trừ trống ở Indonesia, minh văn khắc trên khuôn đất trước khi rót đồng, chữ in nổi trên rìa mặt trống.

3 chiếc còn lại chữ đều khắc chìm trên phần chân trống sau khi đúc. Số thạp đồng Đông Sơn khắc minh văn theo cách tương tự có 3 chiếc được nghiên cứu và công bố.

Không kể trống Indonesia thì nội dung minh văn khá thống nhất ở chỗ đều chỉ là ghi dấu về trọng lượng, dung lượng, tên gọi và thứ hạng đồ vật.

Kiểm tra đối chiếu với các đồ đồng có minh văn khác trong phạm vi nước Âu Lạc và Nam Việt có thể thấy dù có sử dụng tên các đơn vi dung, lượng Trung Nguyên nhưng nhiều trường hợp không thống nhất về độ lớn như đơn vị của Trung Nguyên.

Điều này củng cố thêm tài liệu chứng tỏ tính độc lập và ý thức bài Hán cao của Âu Lạc và Nam Việt.

Đơn vị trọng lượng Lĩnh Nam quy ra "cân" giao động trong khoảng 250-260 gram trong dân gian và 260-270 gram ở quan xưởng. Dung lượng "thăng" giao động khoảng 190-210 cc (mililitre).

Vùng Phiên Ngung dung lượng nhỏ nhất (khoảng 180 cc/thăng). Khi cân, trọng lượng hiện tại trống "Phú" là 45, 8kg.

Theo số trọng lượng này, nếu chia cho trọng lượng ghi ở minh văn (6 quân 5 cân 8 lạng – tức 185, 5 cân) thì 1 cân đương thời tương đương 252, 5kg, nằm trong khung thấp của "cân" dân gian vùng Âu Lạc, Nam Việt.

4 trống có minh văn thì trống Kur ở Indonesia đúc nổi và chiếm vị trí ở phần liền với tượng cóc, thậm chí ở cả phần giữa các chân cóc.

Rất khó hiểu, vì thông thường khi đúc trống, khuôn tượng cóc cũng như khuôn quai trống là những cụm khuôn đúc rời.

Vì vậy phần hoa văn mà khuôn đúc rời này chiếm chỗ thường bị mất hoặc không còn nguyên vẹn.

3 chiếc còn lại đều khắc minh văn vào sau và đều ở vị trí bên trong vành chân đế trống. Chiếc trống trong mộ La Bạc Loan khoảng TK. 2 TCN.

Chủ nhân có thể là huyện quan của Nam Việt. Minh văn trên trống Cổ Loa có thể xếp khoảng niên đại này. Theo tôi đây là niên đại có thể dùng cho minh văn trên trống "Phú."

Các đồ đồng quý phát hiện trong phạm vi Âu Lạc và Giao Chỉ sau này thường thấy đặt tên.

Bình đồng kiểu Hán có chân đế trổ lỗ, quai dạng thạp Đông Sơn trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ký hiệu LSb17241 có dòng chữ khắc chìm ở viền quanh miệng, có đoạn ghi:

"Danh viết Vạn Tuế" – tên gọi là Vạn Tuế.

Thạp BMM 2505-29 có 22 chữ minh văn có thể của Triệu Đà, có 3 chữ "danh viết Quả". Trống "Phú" này cung cấp thêm trường hợp nữa:

"Danh viết Phú."

Ngoài những chữ Hán thông dụng thì xuất hiện trong minh văn Âu Lạc, Nam Việt, Giao Chỉ những chữ hoàn toàn mới, ghi nhận quá trình tiếp tục nảy sinh văn tự chữ viết để ghi những âm địa danh, các hiện tượng địa lý, nhân văn riêng vùng này.

Chứng kiến hiện tượng "Long Xoang" trên thạp Triệu Đà và ở trống Phú có thể là hiện tượng "Cửu Chân."

Nếu giả thuyết phục dựng của tôi là đúng, Cửu Chân có thể gồm cả phần đất Trường Châu sau này, tức gồm phần Nam lưu vực sông Đáy.

Vùng đất này trong lịch sử từng thuộc Ái Châu và khi địa danh Thanh Hóa hình thành, vùng đất phía Bắc dãy Tam Điệp cũng từng mang tên:

Thanh Hoa ngoại trấn.

Bài nghiên cứu về minh văn chữ Hán thời Đông Sơn đăng trên tạp chí Khảo cổ học, số 5-2007, tôi từng phân tích cách dùng chữ "wei" – với âm Hán Việt:

"Mùi" (trong chuỗi Can Chi 12 con giáp) và "Vị" (trong vị chí Tam Công – chúc đạt được Tam Công, những chức quan cao nhất triều đình).

Chữ "wei" dùng gắn với chữ "đệ", vì thế "đệ vị" (đứng ở thứ vị) có nghĩa hơn là "đệ mùi" (chiếc thứ.. của hạng Mùi). Tôi nghĩ "đệ vị thập nhất" nên dịch:

"Trống này đứng ở hàng thứ 11 trong tổng số tài sản" kê biên.

Cách dùng chữ "Vị - Mùi" thay cho chữ "Vị" trong "vị trí" là bằng chứng ghi âm "Nôm" rất sớm và điển hình ở nước ta, tương tự cách người Nhật dùng chữ "thị" (thì, là, mà) thay cho chữ "thị" (dòng họ, thị tộc) trên minh văn gương đồng ghi tên các dòng họ Trương (thị), Trần (thị).. thời Kofun.

Công thức "đệ vị.." trong đó sử dụng dùng chữ "Vị - Mùi" xuất hiện ổn định trên minh văn Âu Lạc, Giao Chỉ, ít ra là trong 3 trường hợp được chúng tôi nghiên cứu:

Thạp Đông Sơn BMM-2505-29 ở Geneva, trống "Phú" và bình đồng LSb17241 của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Hà Nội, 16-6-2011

Nguồn

Web drnguyenviet

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
72221840_1232694136930836_4949544698734706688_n.jpg


Trống đồng Đông Sơn và nền nông nghiệp cổ đại

TS. Trần Văn Đạt

1. Mở Đầu

Niềm hãnh diện lớn nhất của dân tộc Việt ở Châu Á là xuất hiện nền Văn hóa trống đồng Đông Sơn rực rỡ thời cổ đại trên đất Lạc Việt, trải dài cách nay từ 2.700 đến 1.800 năm.

Đó là nhờ ra đời kim loại đồng và thành quả phát triển kỹ nghệ luyện kim trong nhiều thế kỷ trước đó, qua các nền Văn hóa từ Phùng Nguyên đến Đồng Đậu và Gò Mun trên lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả.

Có lúc, một số nhà khảo cổ học Trung Quốc và Tây phương cho rằng nền Văn hóa Đông Sơn là sản phẩm của nền văn hóa sớm hơn xuất hiện từ các nơi này!

Trống đồng là di vật tiêu biểu cho nền văn minh của người Việt cổ thời dựng nước, ngoài nhiệm vụ nhạc khí[1] còn là biểu tượng quyền lực, lễ hội, tôn giáo..

Do đó, các loại trống đồng được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến nay giúp nhận diện được phần nào bản chất nền văn hóa, xã hội và kinh tế của người Việt thời đại Văn Lang.

Bên cạnh các phát hiện di vật khảo cổ, tài liệu, sách sử nội địa và Trung Quốc mà mức độ chính xác chưa thể xác định tất yếu.

Sự hiện diện của trống đồng tại Việt Nam và phần nào ở vùng Hoa Nam (bị Bắc phương xâm chiếm), xác minh những bằng chứng không thể chối cãi nguồn gốc và nền văn minh cổ xưa của người Lạc Việt mà phương Bắc cố tình che đậy hoặc ngụy tạo để họ dễ bành trướng đồng hóa từ thời Bắc thuộc khởi đầu, lúc bọn đô hộ thực hiện chủ trương bá quyền thâm hiểm.

Các trống đồng phát hiện thời gian qua chỉ là phần nhỏ số lượng Tổ tiên ta ngày xưa kín đáo lưu giữ sau khi kẻ đô hộ thời đó gắt gao cấm sản xuất, tàng trữ và sử dụng.

Họ tịch thu nhiều trống đồng Việt cổ để nấu chảy đúc thành trụ đồng, ngựa hoặc thành khối mang về phương Bắc làm của riêng (Hậu Hán thư).

Chúng ta còn nhớ lời đe dọa đâu đây khắc trên trụ đồng ở địa giới ngày xưa:

"Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" của Mã Viện đời Đông Hán sau khi đánh bại Hai Bà Trưng.

Các trống đồng tìm thấy thời gian qua dù số lượng còn ít cũng cung cấp cho hậu thế hiểu biết nhiều hơn, thực tế hơn về bức tranh lịch sử cụ thể:

Nền văn hóa nổi tiếng một thời, cũng như nền nông nghiệp cổ đại đã phát triển mạnh thời Hùng Vương của người Lạc Việt cách nay gần 1000 năm TCN.

2. Trống đồng và nền Văn hóa Đông Sơn

Trống đồng là biểu tượng nổi bật của Văn hóa Đông Sơn.

Tất cả trống đồng tìm thấy đều thuộc cùng một loại, loại I theo phân loại của F. Heger (1).

Hiện các nhà khảo cổ học Việt Nam thống nhất gọi là trống đồng Đông Sơn (Hình 1).

Những di tích Đông Sơn được Ông L. Pajot, nhân viên thuế quan Pháp tìm thấy, khai quật ở vùng sông Mã, Thanh Hóa năm 1924, sau đó công trình khảo cứu nối tiếp bởi học giả Thụy Điển O. Jansé.

1934, nhà khảo cổ người Áo Heine Geldern đề nghị dùng tên "Văn hóa Đông Sơn" cho nền văn hóa này (2).

Các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục công trình nghiên cứu kể từ 1954.

Di tích Đông Sơn thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa nay, nằm ở hữu ngạn sông Mã.

Nền văn hóa Đông Sơn được khám phá phát nguồn từ vùng Bắc Trung Bộ trên hạ lưu sông Mã và sông Cả đến châu thổ sông Hồng, trải thời gian khoảng 1000 năm, từ giai đoạn sớm TK. 8-7 TCN và kết thúc TK. 1 và 2 SCN.

Nền Văn hóa Đông Sơn là chặng đường phát triển nổi bật của người Việt cổ, tiếp theo các nền văn hóa sớm hơn như Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun, tiền đề thời dựng nước.

Hình 1: Trống Ngọc Lũ và mặt trống (1)

Đến nay, trống đồng được phát hiện gần 1.000 trống lớn nhỏ, không kể những trống vỡ nát (2) trên những địa bàn thuộc phạm vi Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc Trung Bộ và châu thổ sông Hồng).

Và chúng còn thấy ở một số tỉnh như Huế, Gia Lai - Kontum, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang, Bình Dương, Vũng Tàu, Kiên Giang.

Trống đồng Đông Sơn cũng phát hiện ở miền Nam Trung Hoa, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia.

Về hình dáng, trống đồng gồm có mặt trống (nắp) và 3 phần chính:

Tang (phần tiếp giáp mặt trống), thân và chân. Viện Khảo cổ học Việt Nam phân loại trống đống Đông Sơn làm 4 nhóm chính, căn cứ hình dáng và hoa văn trang trí như sau (1 và 2) :

Nhóm A:

Trống có niên đại sớm, kích thước lớn, 3 phần tang, thân và chân phân biệt rõ ràng, cân đối.

Mặt trống nhỏ hơn tang trống. Các vành hoa văn có cảnh người, vật và động vật.

Đây là loại trống to và đẹp nhất của trống đồng Đông Sơn. Tiêu biểu nhóm này là các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa I, Làng Cốc.

Nhóm B:

Trống không cân đối, dáng cao hoặc lùn. Trống nhỏ hơn, hoa văn đơn giản, chỉ còn vành với mấy con chim bay ở mặt và hoa văn hình học.

Nhóm này phát hiện nhiều nhất ở lưu vực sông Mã. Trống này còn gọi trống Mường vì tìm thấy nhiều trong vùng cư trú của dân tộc Mường.

Nhóm C:

Dáng trống cân đối, lưng thẳng, chân cao. Nhiều hoa văn mới xuất hiện.

Có tượng cóc trên mặt và một số trống có trang trí ở phần chân. Tiêu biểu cho nhóm này là các trống Hy Cương, Hữu Chung..

Nhóm D:

Dáng trống thô, lùn thấp hơn các loại trống trên, trông giống nồi lật úp, tang phình rộng, thân hình nón cụt, chân ngắn, nhìn không cân đối. Hoa văn ít và sơ sài hoặc không có hoa văn trên mặt trống.

Kỹ thuật đúc và trang trí đều thô sơ. Tiêu biểu cho nhóm này là các trống Tùng Lâm, Thượng Nông.. Về niên đại chưa rõ, có người cho là loại trống xuất hiện muộn nhất hoặc sớm nhất.

Ngoài ra còn có loại trống có lẽ không thuộc thời gian ra đời và tồn tại của Văn hóa Đông Sơn.

Chúng chỉ tiếp tục truyền thống Đông Sơn, tìm thấy ở những vùng núi, như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La..

3. Trống đồng và nền nông nghiệp cổ đại

Nền nông nghiệp cổ đại thời Hùng Vương là kết quả quá trình phát triển lâu dài, bắt đầu từ nền nông nghiệp sơ khai nước Việt cổ đã xuất hiện vào thời tiền sử khoảng 10.000-8.000 năm trước (thời đại Đá Mới) :

Do ngành khảo cổ học phát hiện phấn hoa và bào tử các loại cây củ đậu, hạt quả.. và khai quật nhiều vỏ sò ốc và dụng cụ ghè đẽo một mặt trong các hang động của Văn hóa Hòa Bình.

Nhờ kinh nghiệm tích tụ từ vô số thế hệ và phát minh các dụng cụ sinh hoạt hàng ngày hiệu quả hơn, như rìu, bàn nghiền, nhíp, dao cắt, lưỡi cày, lưỡi cuốc, thạp chứa nông sản.. bằng:

Đá cuội, đá mài, bằng đồng, sắt tìm được trong các khai quật của các nhà khảo cổ học, nền nông nghiệp tiến hóa không ngừng theo thời gian và không gian từ vùng rừng núi đến nơi đất cao, thung lũng, ven sông rạch và biển cả qua hàng ngàn năm.

Thời Văn hóa Đông Sơn – nền văn hóa nổi tiếng của Văn Lang (hay Lạc Việt) thời kim khí bắt đầu cách nay khoảng 2.700 năm – nền nông nghiệp cổ đại tích lũy một số tiến bộ quan trọng và trở nên nề nếp, xã hội có nhiều sản phẩm dư thừa qua khai quật tìm thấy các hầm ngũ cốc thối nát trong đất, chậu gốm lớn, thạp đồng (1).

Xã hội nông nghiệp có những kỹ thuật tinh xảo, nhất là khi cư dân phát triển mạnh nghệ thuật luyện kim đúc đồng và sau đó khám phá kim loại sắt.

Đó là nền nông nghiệp dùng cày cuốc và sức kéo trâu bò, nông dân biết dùng các công cụ sản xuất thích hợp cho từng loại đất, biết trồng các giống cây khác nhau cho thích hợp từng mùa, như nhiều giống lúa được phát hiện trong các khai quật ở di chỉ Đồng Đậu cách nay hơn 3.000 năm (1).

Thời đại này, nền nông nghiệp lúa nước trở nên thịnh vượng và nước Văn Lang được thành lập, trưởng thành thời Hùng Vương-An Dương Vương.

Bên cạnh đó, cư dân còn trồng những loại nông sản khác, như trám, na, cau, đậu, bầu bí, dâu, vải (1).

Nghề chăn nuôi voi, trâu bò, lợn, gà vịt luôn song song với nghề trồng trọt, vì các di vật như xương, răng và tượng các động vật thường phát hiện ở các di chỉ khảo cổ từ Văn hóa Đa Bút – Phùng Nguyên đến Đông Sơn.

Ngoài ra, nghề săn bắn, đánh bắt cá, bắt ốc sò là nghề phụ, nhưng có vai trò rất đáng kể vào thời kỳ phát triển đất nước.

Một số hoạt động nông nghiệp này được ghi khắc trên các trống đồng Đông Sơn, qua các hình ảnh hoa văn rất điêu luyện và mỹ thuật.

3.1. Hoa văn trống đồng Đông Sơn (Hình 2)

Các hoa văn trang trí trên trống đồng rất đa dạng, thể hiện nhiều góc cạnh xã hội thời cổ đại trong nền Văn hóa Đông Sơn thời Hùng Vương và An Dương Vương.

Các hoa văn này xuất hiện trên mặt, tang, thân và ngay cả chân trống đồng, chủ yếu gồm văn mặt trời, văn kỷ hà, văn tả cảnh sinh hoạt và văn hình động vật.

Hình 2: Hình họa mặt trống đồng Ngọc Lũ (12)

- Hoa văn mặt trời có nhiều tia sáng ở trung tâm, từ 8 đến 23 tia (trống Hải Bồi (2)) trên mặt trống, nhưng mặt trời với 12 tia chiếm nhiều nhất. Xen giữa các tia là họa tiết lông công hoặc những đường vạch chéo có hình tam giác lồng vào nhau.

- Hoa văn kỷ hà như văn vòng tròn đồng tâm, vòng tròn tiếp tuyến, vòng tròn kép, văn chữ S, chữ V, văn chấm dải, đường chỉ nhỏ, văn tam giác giữa có vòng tròn, hình răng lược, răng cưa, hồi văn gấp khúc, vạch ngắn song song, các ô dọc.

- Hoa văn tả cảnh sinh hoạt con người:

Nhà sàn mái cong[2], lầu gác, "kho vựa", văn bông lúa, văn xương cá, giàn chiêng, thuyền, cảnh đua thuyền, chiến thuyền, người giã gạo, đánh trống, múa hát, người hóa trang kiểu cờ bay, người và cả thú giao phối..

- Hoa văn hình động vật:

Trâu bò, hươu nai, cóc, sóc, chim bay, chim đậu, gà, chim công, trích, cò, chàng bè (bồ nông), các loại cá, rắn..

Tất cả hoa văn trang trí nêu trên làm nổi bật vẻ đẹp sống động, hiện thực, cách điệu theo thời gian của xã hội đương thời – một bức tranh lịch sử sống thực của người Lạc Việt.

Các hoa văn mặt trời, văn sinh hoạt con người lúc bấy giờ và văn hình động vật của trống đồng mô tả bức tranh nghề nông toàn diện và rõ ràng ngành nông nghiệp cổ đại gồm cả nông, lâm, ngư và súc đạt mức phồn thịnh trong nền Văn hóa Đông Sơn.

Một số trống nổi tiếng như trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ (9), trống Cổ Loa, trống Làng Cốc được lựa chọn mô tả sơ lược sau đây (2) :

Trống Ngọc Lũ[3]:

Trống có hoa văn hình học và hoa văn người, động vật và đồ vật.

Trống có 2 cặp quai gắn vào tang và thân trống. Trống Ngọc Lũ có lẽ là trống đồng đẹp nhất được phát hiện cho đến nay ở Việt Nam.

Mặt:

Chính giữa mặt trống là hình mặt trời 14 tia chiếu xung quanh. Xen giữa các tia là những họa tiết hình tam giác. Trên mặt trống có tất cả 16 vành hoa văn đồng tâm. Các vành 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ.

Các vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3 là những chữ S gãy khúc nối tiếp. Vành 12 và 16 là văn răng cưa.

Vành 6, 8 và 10 là vành có hình người nhảy múa, người giã gạo, động vật diễn hành xung quanh ngôi sao mặt trời và ngược chiều kim đồng hồ (Hình 1, 2 và 3).

Hình 3: Một góc của mặt trống đồng Ngọc Lũ (12)

Tang: Phình ra, nối liền với mặt trống. Có 6 vành hoa văn hình học, các vành 1 và 6 là những đường chấm nhỏ thẳng hàng, vành 2 và 5 là văn răng cưa, vành 3 và 4 là hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song.

Tiếp theo đoạn này là hình 6 chiếc thuyền. Ngoài ra, giữa hai thuyền có một con chó đứng nghểnh mõm lên phía sàn giống như chó săn.

Thân có hình trụ tròn, thẳng đứng, được trang trí hình dây thừng. Chân trống hơi lòe, hình nón cụt, không có trang trí.

Trống Hoàng Hạ[4] (9) :

Trống đồng Hoàng Hạ có kích thước lớn, cao 61, 5cm, đường kính mặt 79cm.

Hoa văn phong phú, gồm hai loại là hoa văn hình học và hình khắc người, động vật và vật thể (Hình 4).

Mặt:

Giữa có hình mặt trời nổi với 16 tia, xung quanh có 15 vành hoa văn:

Các chấm nhỏ thẳng hàng, chữ gãy nối tiếp, vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến song song, văn hình răng cưa.. Hình khắc người và động vật.

Tại vành số 9 chỉ có 14 con chim bay, đó là những hình chim mỏ dài, đuôi và chân đều dài, chim có mào.

- Tang: Vành hoa văn hình học có hình 6 thuyền, xen giữa thuyền là những hình chim có từ 2 đến 4 con.

Về trang sức, tất cả thuyền trưởng đều cầm trống lệnh, vũ sĩ và người cầm lái đều đội mũ lông chim.

Quai trống gồm hai đôi kiểu quai kép, hoa văn dây thừng.

- Thân: Có bố cục và trang trí giống trống Ngọc Lũ.

- Chân: Đúc trơn không vẽ hoa văn.

Hình 4: Trống Hoàng Hạ (9)

- Mặt:

Văn mặt trời 14 tia. Các vành văn chữ S, chấm giải, răng lược, vòng tròn tiếp tuyến. Vành nhà sàn, người nhảy múa, giã gạo, đánh trống.

Vành số 16 chim bay. Trống Cổ Loa (2) (Hình 5 bên trái) : Mặt 73, 8cm, cao 53cm, có 2 đôi quai kép. Nhóm 1a.

- Tang: Các vành văn kỷ hà, vành thuyền bơi và chim.

- Thân: Văn kỷ hà chia ra các ô dọc, trong ô có người nhảy múa.

- Chân: Phía trong có dòng chữ Hán.

- Trống Làng Cốc (2) (Hình 5 bên phải) : Mặt 76, 5cm, chân 81cm (đường kính), cao 61cm. Có 2 đôi quai kép. Nhóm 1a.

- Mặt:

Văn mặt trời 14 tia. Các vành văn vòng tròn tiếp tuyến, hồi văn, vạch ngắn song song. Vành nhà sàn, người nhảy múa, đánh trống. Vành 16 chim bay.

- Tang: Các vành văn kỷ hà. Vành văn 6 thuyền có chiến binh, lầu gác..

- Thân: Có các ô dọc, trong có người nhảy múa.

Hình 5: Trống Cổ Loa và trống Làng Cốc (2)

3.2. Bức tranh lịch sử sinh hoạt nông nghiệp trên trống đồng Đông Sơn

Những hoa văn rất phổ biến:

Hoa văn mặt trời, nhà sàn, người giã gạo, chim cò bay, đàn hươu biểu diễn, thuyền ghe và người đánh trống, nhảy múa, đối đáp (Hình 6) rất phổ biến, có thể tìm thấy dễ dàng trên nhiều trống đồng ở các vành hình tròn trên mặt, tang và đôi khi trên thân trống.

Các hình ảnh đó phác họa bức tranh đồng quê thời kỳ thịnh vượng với chim cò tung bay ngoài đồng ruộng, người dân sinh hoạt với nghề nông trong mưa nắng dưới ánh mặt trời, biết chăn nuôi gia súc, săn bắn, biết đánh bắt cá tôm, trồng trọt.

Nhất là làm vụ lúa theo mùa, biết thu hoạch theo thời tiết và hoan ca chào đón ngày cuối mùa hay chào mừng gạo thóc mới, hò hát giã gạo, nhảy múa dưới trăng.

Họ còn biết trao đổi thương phẩm với nhiều bộ tộc, quốc gia láng giềng bằng hàng hải với các ghe thuyền gỗ vượt sông biển.

Hoa văn phổ biến nhất trên mặt trống đồng Đông Sơn là hình các loại chim, người cũng hóa trang chim, đội mũ gắn lông chim, mũi thuyền có mắt chim tròn, cho biết chim là loài vật Tổ tôn kính của người Lạc Việt.

Hình 6: Hoa văn phổ biến trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (12)

(Mặt trời, nhà sàn, chim bay, hươu từng cặp, người giã gạo, nhảy múa, đánh trống)

Văn mặt trời có nhiều tia ở trung tâm của mặt (nắp) trên hầu hết trống đồng cho thấy người Việt cổ thờ thần mặt trời và sùng bái thiên nhiên:

Mặt trời, lửa, nước, đất, gió, sấm sét, núi non.. vì các hiện tượng "huyền bí" này giúp họ có được đời sống, sinh hoạt hàng ngày, tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Mặt trời cung cấp nguồn năng lượng vô biên để nông dân trồng trọt, nuôi dưỡng, sản xuất và thu hoạch cuối mùa.

Dù lúc đó con người chưa có kiến thức khoa học như ngày nay – chưa biết đến hiện tượng quang hợp của các loài thảo mộc – họ cũng nhận thức được nếu không có nguồn ánh sáng, họ không thể thực hiện các hoạt động sản xuất lương thực để nuôi sống bản thân và gia đình, con người và muôn loài không thể tồn tại lâu dài trên trái đất này.

Từ ngàn xưa người dân luôn hướng nhìn mặt trời, bầu trời xa xăm để mong đợi mưa gió thuận hòa giúp canh tác thuận lợi, mùa màng tươi tốt; mong chờ trời nắng ráo để hoàn tất thu hoạch cuối vụ mau chóng và đúng lúc.

Trông trời, trông đất, trông mây,

Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.

Ngoài ra, trống đồng có nhiều vành hoa văn đồng tâm với nhiều hình chim, trong đó chim chân cao mỏ dài và hình hươu chạy theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, biểu lộ hướng trái đất quay từ Tây sang Đông, thể hiện trình độ thiên văn cao của người Việt cổ.

Trên hầu hết nhạc khí trống đồng, minh khí đều có hình mặt trời chiếu sáng nằm ở tâm điểm mặt trống, như nói lên tầm quan trọng thiết yếu của vầng thái dương đối với con người nông nghiệp qua thời tiết bốn mùa.

Có thể đó là biểu hiện lịch pháp thiên văn cho nền nông nghiệp cổ (Hình 7) (2).

Theo hoa văn trên trống đồng, như trống đồng Hoàng Hạ (Hà Tây cũ), một số nhà khảo cổ nghiên cứu và đánh giá là loại lịch thời Hùng Vương, bức thiên đồ cho phép xác định các ngày tiết trong năm.

Đó là loại lịch ngày âm (Hình 7), kết hợp chu kỳ mặt trăng và mặt trời, bắt nguồn từ văn hóa Bách Việt, mang đậm nét văn hóa nông nghiệp lúa nước ở phương Nam (3).

Số lượng của các tia, chim bay, hươu, thuyền hầu hết là số chẵn, biểu hiện cư dân bấy giờ biết đo đếm.

Số tia 12 chiếm đa số liên quan số tháng trong năm (10). Thời Cổ Đại, Ai Cập cũng có bộ lịch giúp hoạt động nông nghiệp ven sông Nile[5] .

Hoa văn tả cảnh sinh hoạt con người trên trống đồng (Hình 8) hình dung nền nông nghiệp thời cổ đại khá đa dạng.

Các hoa văn người giã gạo, cộng thêm hình ảnh kho chứa, thạp đồng, văn bông lúa (trống số 31 (2)) , chim cò bay, tượng cóc, hình trâu bò, rắn nước, nhất là nam và nữ giã gạo (Hình 9), hò hát đối đáp khá phổ biến trên nhiều trống đồng.

Điều đó và hiện diện của lưỡi cày đồng biểu hiện ngành nông nghiệp lúa nước là nghề chủ yếu cố định của người Việt cổ thời dựng nước.

Nông dân sản xuất lương thực dư thừa, nên có các thạp đồng lớn, trống chậu bằng đồng, vựa thóc trong những nhà khá giả.

Nhờ nghề trồng lúa nước, người Văn Lang đã định cư, không còn lối sống du canh du mục nữa.

Họ tụ tập thành từng làng xóm ven sông rạch, biển hồ, vùng đất cao, đồi núi; nhờ đó tổ chức xã hội ngày càng hoàn chỉnh và lớn mạnh, vững chắc; nước Văn Lang hình thành.

Hình 7: Âm Lịch Việt (trái) và bốn mùa (phải) trên trống đồng Ngọc Lũ (12)

Hình 8:

Số 1: Cò;

2: Chim công;

3: Hươu;

4: Chim trĩ và người đối đáp;

5: Chim trĩ,

6: Chim công, đối đáp và người đánh trống;

7a và 7b: Một góc mặt trống với người giã gạo, ngồi đối đáp trong nhà sàn, hươu, chim cò bay.

8: Người đánh trống, đánh cồng chiêng () hay "kho vựa" tượng trưng trong nhà sàn;

9a và 9b: Vũ múa và các chim công.

Hóa trang cờ bay, khố váy, áo hai vạt ngắn dài của những người giã gạo, vũ công và chiến binh (Hình 9) khắc trên trống đồng cho thấy nghề dệt vải, trồng cây vải, bố đai, trồng dâu nuôi tằm – nghĩa là công nghệ vải sợi phổ biến nhiều nơi trong nước Văn Lang để sản xuất vải sợi làm áo khố che thân, trang trí nội thất, làm cờ xí trong ngày lễ hội, cờ hành quân bảo vệ giang sơn.

Hình 9: Hình họa người giã gạo và thổi khèn trên trống đồng Đông Sơn (9)

Các hoa văn thuyền, thuyền đua, thuyền chiến, xương cá (2), các loại cá, rắn, nhà sàn, lầu gác (2) cho thấy ngành ngư - lâm cũng rất phổ cập trong xã hội bấy giờ.

Nông dân biết khai thác cây rừng làm nhà ở, đóng ghe thuyền dùng trong ngư nghiệp, phương tiện di chuyển, các dụng cụ sinh hoạt hàng ngày, vũ khí gươm giáo chống xâm lăng.

Thời cổ đại, có thể một phần cư dân không nhỏ chuyên sống với nghề biển, sông hồ. Do đó, họ biết khai thác các chiến thuyền để chống ngoại xâm bảo vệ xứ sở, chuyên nghề đánh bắt cá, ốc sò làm đa dạng lương thực hàng ngày.

Ngành hàng hải cũng phát triển từ thời đó, nhiều trống đồng tìm thấy ở miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và vài nước Đông Nam Á.

Hình 10:

Hình trên: Thuyền chiến với những người lính cầm đao, giáo, chó săn, người bắn cung, trống trận.

Hình dưới: Thuyền chiến, binh lính cùng chim, cá, rùa dưới nước.

Các hoa văn hình động vật như chim bay, chim đậu (trĩ, công, chàng bè, trích.), trâu bò (trống số 5 (2)) , gà chó, cóc.. (Hình 10 và 11) trên mặt, tang, thân hoặc chân trống đồng cho thấy nông dân biết thuần dưỡng thú rừng, biết nuôi gia cầm để có thêm thức ăn.

Nhất là nghề nông nghiệp dựa sức trâu bò kéo, làm tăng gia sản lượng thực phẩm, nâng cao hiệu năng trồng trọt.

Phát hiện lưỡi cày đồng và các tượng bò hình khối, hoa văn bò đực cho biết ngành nông nghiệp lúa nước phát triển cao.

Họ biết dùng trâu bò cày xới đất canh tác, nhất là cày ruộng, xới rẫy, một việc nặng nhọc đối với con người khi làm việc trong điều kiện trồng lúa ngập nước và trên đất khô ráo cho canh tác các màu phụ.

Tượng cóc, cóc giao phối trên trống đồng thể hiện mong mỏi của nông dân về mưa thuận gió hòa, vụ mùa thuận lợi.

Con cóc là cậu Ông Trời.

Cóc nghiến răng trời đang nắng thì mưa.

Hình 11:

Trái: Mặt trống có 4 con cóc (9) ;

Phải: Các loài chim trên trống đồng Đông Sơn (11) :

Hàng 1: Chim trĩ trên mái nhà sàn cong, công (trống Ngọc Lũ), cò thìa,

Hàng 2: Gà trên mái nhà sàn tròn (trống Hoàng Hạ), công (trống Miếu Môn),

Hàng 3: Chim trích tím, cò và chàng bè (bồ nông).

Các hoa văn hươu nai, chim bay, chim đậu, con công, chàng bè, chim trích, cá sấu, chó săn (Hình 2, 3, 10 và 11) cho thấy cư dân Việt cổ vẫn còn một bộ phận không nhỏ sống nghề săn bắn trong rừng núi, vùng sâu vùng xa để có thêm thực phẩm (Hình 11).

Họ có đời sống lưu động, làm nghề du canh để có đủ lương thực sinh tồn.

Nghề du canh này vẫn còn tồn tại đến ngày nay ở vùng Tây Nguyên trung phần và thượng du Bắc Bộ.

Các họa tiết độc đáo mô tả hình ảnh vũ công múa hát, hóa trang trong lễ hội, tục đối đáp (Hình 2 và 8) khắc trên trống đồng, và hoạt cảnh hát hò trong khi chèo thuyền, đánh cá, làm ruộng.. (Hình 9 và 10).

Trong nhà sàn, từng cặp nam nữ ngồi đối diện, lồng tay chân nhau cùng ca hát, đối đáp (Hình 8). Còn có tế trời, tế nước trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ.

Các hình ảnh bơi chèo, múa hát, thổi khèn, ngồi đối đáp, ôm cõng nhau.. cho thấy một xã hội ổn định, thịnh vượng và dân tộc còn chất phác, có đầu óc nghệ thuật, hiếu hòa với tín ngưỡng sùng bái thiên nhiên (2).

Đó là bức tranh lịch sử sống động của xã hội Văn Lang, phồn vinh với sự nổi bật của một nền nông nghiệp tiến bộ:

Nông nghiệp lúa nước. Các hình ảnh cụ thể trên trống đồng Đông Sơn đã rọi sáng thêm các thành quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam trong hơn thế kỷ qua, nhất là minh xác thêm nền nông nghiệp Đông Sơn thoát khỏi tình trạng sơ khai thời tiền sử và trở nên năng động, hiệu quả và nề nếp.

Nhờ đó, cư dân Việt cổ Đông Sơn có đời sống định cư ổn định hơn, có xã hội trật tự dù còn sơ khai và xây dựng nước Lạc Việt (8).

Thật vậy, nền nông nghiệp sơ khai của con người khởi phát trong nền Văn hóa Hòa Bình (cách nay 10.000-8.000 năm).

Trong các nghiên cứu phân tích phấn hoa của nền Văn hóa Hòa Bình, người ta tìm thấy với số lượng cao các giống cây họ đậu (Leguminoceae) ; họ rau muối (Chenopediaceae), họ cà phê (Rubiaceae), họ hòa thảo (Graminae).

Các loài hạt quả như hạt gắm (Gnetum montanum), hạt cọ (Livistona cochinchinensis), hạt côm (Elaeocarpus sylvestris), hạt me (Phyllanthus emblica L), hạt trà (Thea sp), trám tre (Canarium tonkinensis) và trám (Canarium sp) (4).

Do đó, cư dân trên đất Việt cổ biết dùng hoa quả và rau đậu làm thức ăn, bên cạnh săn bắt thú rừng và sò ốc trong thời đại đồ đá mới.

Tiếp theo nền Văn hóa Đa Bút (cách nay khoảng 6.000-3.000), cư dân sống trong môi trường gần biển và cửa sông nên nguồn thức ăn chính là các ốc sò nước lợ chủ yếu là loài hến, hay nước biển như sò gai, điệp, ngao.

Ngoài ra, họ còn săn bắn ở các khu rừng xung quanh mà di vật tìm được như xương răng thú rừng: Hươu, nai, trâu, bò, lợn, nhím..

Điều đáng chú ý là một số nhà nghiên cứu nhận ra vài động vật được con người nuôi dưỡng như trâu và lợn (5 và 6).

Các di vật khảo cổ thu lượm từ nền Văn hóa Đa Bút xác nhận nền nông nghiệp trồng trọt cổ đã xuất hiện sớm hơn trên các vùng ven biển (7).

Đến nền Văn hóa Phùng Nguyên (cách nay 4.500 – 3.500 năm), có những làng định cư lâu dài với đời sống nông nghiệp dùng rìu cuốc đá, chủ yếu trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và đánh cá.

Phát hiện lưỡi liềm đá ở Gò Bông và nhiều rìu nhỏ cho thấy có nền nông nghiệp trồng lúa phát triển ở ruộng nước và trên đất cao (rẫy).

Ngoài ra, còn có các đồ đựng bằng gốm có kích thước lớn để tồn trữ ngũ cốc cho thấy cư dân Phùng Nguyên có đời sống định cư dài lâu, sản xuất ngũ cốc dư thừa trong gia đình.

Người Phùng Nguyên biết chăn nuôi nhiều thú vật mà ta có ngày nay (1).

Nền Văn hóa Đồng Đậu và Gò Mun (cách nay 3.500-2.800 năm) hay thời kỳ tiền Đông Sơn, người ta phát hiện hầm ngũ cốc thối nát, chứng tỏ chủ nhân hầm này sản xuất lúa đủ nuôi gia đình họ, còn dư thừa chứa trong hầm dự trữ (1).

Cư dân Gò Mun quá quen thuộc nghề nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa cùng các hoa màu khác ở ven sườn đồi, gò đất thấp chung quanh khu vực cư trú bên bờ các dòng sông, bờ hồ, các đầm lầy với đất phù sa bồi đắp hàng năm.

Cuộc sống người Gò Mun tiến bộ hơn người Văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu nhờ các công cụ sản xuất bằng đồng thô sơ, có sắc thái riêng biệt và tạo điều kiện thuận lợi cho ra đời nền Văn hóa Đông Sơn tiếp theo và thời kỳ dựng nước.

Đến nền Văn hóa Đông Sơn, nghề trồng lúa nước đạt trình độ cao đáng kể, như thấy tận mắt trên trống đồng Đông Sơn.

Hầu hết trống đồng đều có mặt trời với nhiều tia sáng ở giữa, đó là dấu hiệu của hiểu biết thời tiết vụ mùa trong nông nghiệp.

Các hình ảnh chim cò, rắn, cóc, trâu bò, bông lúa hình dung các ruộng lúa nước. Hình ảnh hoặc hình khối trâu bò cho biết nông dân biết cày bừa ruộng đất.

Hoa văn hai người giã gạo chứng tỏ khâu hậu thu hoạch có bước tiến mới, không còn dùng bàn nghiền đá để chà xát thóc như thuở xưa. Các hình ảnh "kho vựa", thạp đồng lớn, trống chậu bằng đồng cho biết sản xuất lương thực dư thừa.

Nông dân không còn dùng nhiều sức lao động để sửa soạn đất, biết dùng sức kéo trâu bò trong việc cày bừa với lưỡi cày đồng sắt, biết cấy lúa, biết trồng lúa 2 vụ mỗi năm (vụ chiêm và vụ mùa ở giai đoạn cuối Đông Sơn), trồng nhiều lúa nếp hơn lúa tẻ, dùng nhiều loại lúa khác nhau để thích hợp thổ ngơi, khí hậu.

Các nghề luyện kim, thủ công nghệ, nông nghiệp như trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, rau hoa, chăn nuôi, đánh bắt cá tôm, săn bắn, thương thuyền hàng hải..

Họ biết dẫn thủy nhập điền để đảm bảo trồng trọt thành công (8).

Những sinh hoạt nông nghiệp này thể hiện đơn sơ với các nét đúc khắc họa tiết rất nghệ thuật và độc đáo trên các trống đồng Đông Sơn.

Kết Luận

Ngoài các di vật khảo cổ nêu trên, các hoa văn trống đồng Đông Sơn phản ánh trung thực sinh hoạt vật chất, tinh thần và tình cảm rất sống động xã hội thời lập quốc trong nền Văn hóa Đông Sơn cách nay từ 2.700 đến 1.800 năm.

Trong bức tranh lịch sử đó, ngành nông nghiệp gồm cả các khâu nông-lâm-súc-ngư được đúc khắc thể hiện khá rõ qua các hoa văn như người giã gạo, "vựa thóc", văn bông lúa.

Các hoa văn thuyền ghe, xương cá, các loại cá, rắn, nhà sàn, lầu gác; các hoa văn hình hoặc tượng động vật như trâu bò, cóc, chó, gà, cò, chim chàng bè, trích..

Các hoa văn hươu nai, chim bay, chim đậu.

Bên cạnh nghề luyện kim đồng, thau, sắt tinh xảo, nghề nông nghiệp lúa nước cung cấp cho cư dân Lạc Việt đầy đủ lương thực, dụng cụ sinh hoạt hàng ngày trong đời sống kinh tế nông nghiệp phồn thịnh.

Các hoa văn còn thể hiện một dân tộc có tinh thần nghệ thuật cao, bản chất hiếu hòa qua các hoa văn người múa hát, đánh trống, thổi khèn, hóa trang người, thuyền đua, sinh hoạt bơi chèo, ôm cõng nhau, hò hát đối đáp, cờ bay cách điệu..

Đồng thời đất nước và dân tộc này cũng luôn luôn đề cao cảnh giác kẻ thù, sự xâm lăng của phương Bắc, qua các hoa văn trang trí chiến thuyền, người lính chiến với mộc, giáo, mác:

Khắc ghi trên nhiều trống đồng Đông Sơn phát hiện trong các khai quật khảo cổ tại các địa bàn lưu vực sông Cả, sông Mã và châu thổ sông Hồng.

Trần Văn Đạt, Ph. D.

Tài Liệu Tham Khảo:

1. Viện Khảo cổ học, 1999. Thời Đại Kim Khí Nam Bộ. Khảo Cổ Việt Nam, Tập II. NXB Khoa Học Xã Hội, tr. 349-398.

2. Hoàng Xuân Chính, 2012. Đồ đồng Văn hóa Đông Sơn. NXB Văn hóa thông tin, TP/HCM, 238 trang.

3. Lê Thái Dũng. 2010. Tìm hiểu văn hóa thời đại Hùng Vương. NXB. QĐND, Hà Nội, trang 118-121.

4. Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận. 1981. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù. Thần Sa - những di tích của con người thời đại đá. Bắc Thái 1981.

5. Patte, E. 1932. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d'Indochine (BSGI), vol. XIX, pt. 3.

6. Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.

7. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980. Phân tích bào tử phấn hoa ở Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa). Những phát hiện mới (NPHM), Viện Khảo cổ học 1980.

8. Trần Văn Đạt. 2010. Lịch sử trồng lúa Việt Nam. NXB 5 Star Printing, Nam California, Huê Kỳ, 489 trang.

9. Wikipedia

10. Web duongcongnguyen blogspot

11. Nguyễn Duy Xuân. 2011. Trống đồng Đông Sơn.

(web nguyenduyxuan– Nguồn: CINET).

12. Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (Việt Nam văn minh sử, Lê Văn Siêu)

Nguồn

Web tusach. Thuvienkhoahoc

[1] Theo Ông Dương Đình Minh Sơn (Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 7, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội) :

[2] ".. Trống đồng thời Hùng Vương và gọi đó là «Hùng Linh», một báu vật thiêng liêng để thờ cúng và tạo uy quyền cho các tù trưởng, sau này là vua và tướng lĩnh. Hùng Linh chưa khi nào là một nhạc khí của dân tộc Việt."

[3] Nhà sàn mái cong của người Minangkabau: Theo giả thuyết nhà nghiên cứu độc lập Trương Thái Du:

Sau thất bại khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cuối năm 43 một bộ phận người Việt lên thuyền ra khơi và dạt vào Eo biển Malacca nhờ gió mùa Đông Bắc.

Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra (Indonesia) và thành dân tộc Minangkabau ngày nay.

Các nhà nghiên cứu ở Indonesia cũng tán thành giả thuyết người Minangkabau đến từ Việt Nam.

Tộc người này theo chế độ thị tộc mẫu hệ giống người Việt cổ.

Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, em gái của Turun Cicik nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Hai danh xưng này rất giống tên gọi của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Kiến trúc truyền thống Minangkabau là những nhà mái cong vút như cặp sừng trâu, đường nét giống nhà sàn hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn, được gọi là Rumah Gadang.

Cư dân Minangkabau sinh sống bằng nghề trồng lúa từ lâu đời, họ cũng có tục ăn trầu nhuộm răng cùng nhiều nét văn hóa khác gần gũi với người Việt.

Ngày nay có hơn 4 triệu người Minangkabau sinh sống tại tỉnh Tây Sumatra.

[4] Vào khoảng 1893 – 1894, các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số người lúc đắp đê Trần Thủy ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (Lý Nhân, Hà Nam), thấy dưới độ sâu 2 mét của bãi cát bồi có một trống đồng. Các ông đem về cúng vào đình làng Ngọc Lũ, để khi đình đám cúng tế thì mang ra đánh.

7, 8 năm sau có một họa sỹ Pháp đến vẽ đình làng thấy trống, liền báo cho công sứ Hà Nam biết. Nhân có cuộc đấu xảo ở Hà Nội 15-11-1902, công sứ Hà Nam khuyến khích làng Ngọc Lũ (xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, Hà Nam nay) mang trống và nắp thạp lên góp vào đấu xảo.

Sau đó, nhà Bác Cổ Viễn Đông Hà Nội mua lại với giá 550 đồng (Trần Huy Bá. Quản lý văn vật. Nội san của Vụ Bảo tồn Bảo tàng, Hà Nội. Số 12/1965).

[5] Ngày 13-7-1937, dân xóm Nội, thôn Hoàng Hạ (nay xã Văn Hoàng) huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, lúc đào mương lấy nước, tình cờ đào được một trống đồng ở độ sâu 1, 5m dưới lòng đất (9).

[6] Lịch Ai Cập Cổ Đại:

Ở thời cổ đại lịch đóng vai trò cực kỳ quan trọng, giúp con người tồn tại trước thiên nhiên khắc nghiệt.

Người Ai Cập cổ đại sử dụng lịch từ hàng ngàn năm TCN để biết khi nào lũ trên sông Nile sẽ xảy ra, từ đó có biện pháp canh tác phù hợp.

Lịch của người Ai Cập xây dựng để phù hợp với tập quán nông nghiệp và chia thành 3 mùa chính: Ngập lụt, phát triển và thu hoạch.

Mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng chia thành 30 ngày, tất cả 360 ngày 1 năm ngắn hơn thực tế vài ngày.

Người Ai Cập thêm vào 5 ngày giữa mùa thu hoạch và ngập lụt. 5 ngày này được chỉ định riêng là ngày lễ tôn giáo để tôn vinh những người con của các vị thần.

Nguồn

Web baomoi, michaelmossbooks

Còn tiếp
 
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
background-trong-dong-8-min-scaled.jpg


Tìm hiểu về nguồn gốc trống đồng Đông Sơn

Trống đồng Đông Sơn là vật linh, biểu tượng tập trung nhất của những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy nhà nước Văn Lang.

Tìm hiểu sâu về ý nghĩa họa tiết trống đồng Đông Sơn sẽ thấy nền văn hóa và những văn minh xã hội người Việt cổ. Bạn sẽ thấy tự hào khi tặng hoặc được tặng sản phẩm trống đồng.

Từ bao đời nay, trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn và nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang, thành biểu tượng thiêng liêng nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Quê hương trống đồng Đông Sơn là vùng Đất Tổ trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ Việt Nam.

Trống đồng Đông Sơn tồn tại từ TK. 7 TCN đến TK. 6 SCN. Đây là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ.

Tổ tiên ta vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, tạo kỹ thuật luyện kim đồng thau mang đậm yếu tố bản địa người Việt, tạo nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất ở Đông Nam Châu Á.

Những trống đồng Đông Sơn là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước phát triển rực rỡ và tỏa sáng trên lưu vực sông Hồng là sông Cái của Việt Nam, nơi khai sinh dân tộc và đất nước Việt Nam hôm nay.

Theo các nhà nghiên cứu, trống đồng ra đời từ nền Văn hóa Đông Sơn gắn liền thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang.

Địa bàn Phú Thọ là trung tâm Văn hóa Đông Sơn – Văn minh sông Hồng.

Đỉnh cao hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Đền Hùng có kích thước trống loại 1 lớn nhất từ trước đến nay phát hiện năm:

1990 tại đồi Khuôn Muồi, một làng cổ ngay sát chân núi Nghĩa Lĩnh, nơi có đền thờ các Vua Hùng có công dựng nước.

Điều đó chứng minh trống đồng Đền Hùng là vật linh thiêng được nhà nước Văn Lang dùng làm linh vật mỗi khi tế lễ, hội hè tại khu DTLS Đền Hùng.

Trống đồng phát hiện ở đồi Khuôn Muồi cùng nhiều trống đồng loại 1 khác được tìm thấy trên dải đất Việt Nam là những tư liệu vô cùng quý báu và có vị trí linh thiêng trong đời sống tâm linh người Việt.

Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm văn minh nông nghiệp phát triển, hiện vật vô cùng quý báu, một trong những niềm tự hào lớn của văn hóa Việt Nam.

Ý nghĩa mặt trống đồng Đông Sơn.

Ở mặt trống đồng Đông Sơn cũng như tang trống và thân trống đều có trang trí hoa văn chia thành hai loại:

Một loại là hoa văn hình học, một loại là hoa văn hiện thực.

Hình hoa văn hiện thực là người hay động thực vật, đây là mảng hoa văn chủ đề mà người xưa muốn gửi gắm vào đó những suy nghĩ tâm tư, ước nguyện của mình về cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Những hoa văn hình học như chấm nhỏ thẳng hàng, vạch chéo và vạch thẳng song song, hình răng cưa, vòng tròn, hình chữ S mang tính chất làm nền cho hoa văn hiện thực.

Trên mặt trống đồng Đông Sơn

Trên mặt trống đồng ở chính giữa là ngôi sao 14 cánh tượng trưng là mặt trời của những cư dân trồng lúa nước, khoảng cách giữa các ngôi sao là họa tiết hình lông công.

Có thể phân tích họa tiết các cánh mặt trời và hoa văn giữa các cánh theo văn hóa phồn thực cho sinh thực khí nam và nữ.

Sau đó là 16 vòng hoa văn trang trí bằng nhiều hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau.

Các vòng 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ. Các vòng 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến.

Vành 3 là những chữ gãy khúc nối tiếp. Vòng 12 và 16 là văn răng cưa. Vòng 6, 8 và 10 là vành có hình người, động vật diễu hành xung quanh ngôi sao và ngược chiều kim đồng hồ.

Hình người:

Người có thể đang mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai phía, vừa đi vừa múa, có người tay cầm rìu, có người thổi khèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim.

Hoặc có thể người đang quay mặt về phía nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày giã vào một chiếc cối, đầu chày có trang trí lông chim.

Hình nhà:

Dựa theo những hình khắc trên trống đồng thấy có 2 loại hình kiến trúc là nhà sàn mái cong và nhà sàn mái tròn.

Nhà có 2 cột chống phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa có kê thang để lên sàn. Nhà mái tròn thường có một người hoặc không có người đứng giữa cửa, hai bên của có chắn phên.

Nhà mái tròn có thể liên quan đến tín ngưỡng và tạm gọi là "nhà thờ". Còn những nhà có mái cong như hình thuyền lại có nhiều người có thể liên hệ rằng đó là "nhà ở."

Hai góc mái có những đường hồi hoa văn trang trí. Có thể nói nhà sàn là loại hình kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt. Nó là cội nguồn của những đình Việt. Ngoài ra còn cho ta thấy tiết khí trong năm.

Suy ngẫm về biểu tượng trống đồng Đông Sơn

(HQ Online) - Hai biểu tượng nổi bật nhất trên trống đồng Lạc Việt hay Đông Sơn là hình mặt trời ở trung tâm mặt trống và hình đàn chim mỏ dài bay quanh.

Hình mặt trời là biểu tượng cho nữ thần mặt trời, vị thần lớn nhất xã hội mẫu hệ.

Xã hội Việt cổ, từ thời Hùng Vương qua thời An Dương Vương đến tận thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu là xã hội mẫu hệ, trong những hoàn cảnh đặc biệt, thành xã hội mẫu quyền.

Xã hội ấy, con cái sống theo mẹ, chỉ biết Tổ tiên đằng mẹ và thừa kế tài sản của họ hàng bên mẹ. Con trai khi nhỏ ở với mẹ, lớn lấy vợ ở nhà vợ (như Trọng Thủy ở nhà Mỵ Châu).

Mặt khác, đàn ông vẫn có thể là chủ của làng, vua của nước như Hùng Vương, An Dương Vương, dù ít nhiều chịu sự chi phối của mẹ hay chị em gái.

Đàn chim bay quanh mặt trời là loài cò trắng, bao đời luôn gắn bó ruộng đồng nước Việt, thành biểu tượng cho người mẹ Việt trong ca dao, dân ca.

Loài chim ấy được học giả Đào Duy Anh gọi là chim Lạc, vật Tổ của người Lạc Việt.

Đúng vậy, nhưng nói cho rõ ràng đầy đủ hơn, đó là biểu tượng cho Bà Tổ Chim, sau trong truyền thuyết Họ Hồng Bàng hóa thành Bà Tổ Âu Cơ.

Rất có thể, các tên gọi Bạch Hạc của vùng Đất Tổ, Mê Linh của quê Hai Bà Trưng có liên hệ cội nguồn Bà Tổ Chim/ Cò Trắng đó.

Gắn tín ngưỡng thờ Bà Tổ Chim ấy trên mặt các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ thấy những người - chim, đội mũ hình đầu chim, cắm lông chim; nhà hình chim, các thuyền hình chim.

Những dải hoa văn chữ S gắn các đường tròn đồng tâm có chấm thể hiện đầu hay mắt chim, các mô típ chữ S gấp khúc cách điệu hình chim bay..

Biểu tượng cho Ông Tổ Rồng hay Lạc Long Quân là hình đầu cá sấu (giao long) trên đầu các thuyền trên trống Ngọc Lũ, hình cá sấu trên trống Phú Xuyên, hình rái cá trên trống Miếu Môn, hình ếch trên trống Hi Cương, hình rùa trên trống Bình Yên..

Tất cả đều là các biểu tượng của nước, những hiện thân khác nhau của Thần Nước, sau được gọi chung là Rồng.

Gắn tín ngưỡng thờ Ông Tổ Rồng là nhà mái cong lồi hình rùa, nhà dành riêng cho các chàng trai đàn ông trong làng, cũng là nhà làng, tạo thế cân bằng với nhà chim - nhà ở riêng của các gia đình mẫu hệ.

Nhà đó là tiền thân của đình Việt, sau này là tổng hòa hai dạng nhà chim - rồng Đông Sơn với các đầu đao cong vút bên ngoài và bộ vì kèo kẻ chuyền cong lồi bên trong.

Gắn tín ngưỡng Bố Rồng - Mẹ Chim ấy là thuyền tổng hòa hình rồng-chim trên các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ.

Đó là các thuyền hồn đưa hồn người chết về vùng Đất Tổ, tiền thân của các thuyền hồn bằng giấy hay đèn hoa thả trên sông ra biển trong các lễ cầu siêu thoát cho người chết và tốt lành cho người sống ngày nay.

Hùng Vương là con cả trong 100 con của Lạc Long - Âu Cơ, theo mẹ lên núi. Chữ Hùng 雄chỉ Vua Hùng có bộ chuy chỉ chim mẹ.

Xét hai chữ Hồng Bàng, chữ Hồng 鴻 chỉ một loài chim nước, tên Việt là giang, tên Hán- Việt là hồng hay hồng hạc; chữ Bàng龐chỉ một loài rồng.

Như vậy, tên gọi Hồng Bàng chỉ những người có dòng dõi Chim - Rồng, phù hợp tín ngưỡng Bà Tổ Chim Âu Cơ - Ông Tổ Vua Rồng Lạc cũng như các cách gọi "Con Lạc - Cháu Hồng", "Con Rồng Cháu Tiên" của người Việt bao đời.

Tục hát Xoan, di sản vùng Đất Tổ, các cô gái đội khăn mỏ quạ, mặc áo dài, đôi tay múa dẻo. Tấm khăn mỏ quạ đó là biến thể của mũ hình đầu chim thời Đông Sơn.

Tên gọi "khăn mỏ quạ" bắt nguồn từ màu khăn đen và dáng khăn như mỏ chim. Đôi tay lúc xòe lúc uốn gợi về điệu múa chim xưa.

Nữ phục quan họ Bắc Ninh, khăn mỏ quạ đi cùng nón thúng quai thao hình mặt trời và áo tứ thân tha thướt như cánh chim, tất cả mang thần thái những người-chim trên trống đồng.

Đối ứng với khăn mỏ quạ, rất có thể, dạng khăn xếp đội đầu của nam giới Việt sau này là dấu tích dạng khăn mô phỏng dáng cuộn mình hay đuôi hình xoáy ốc của Ông Tổ Rồng (cá sấu/rắn).

Đặc biệt, trống sớm Ngọc Lũ, Hoàng Hạ có hình những người đánh trống đồng kiểu giã gạo, tương tự cách đánh trống đồng của người Mường như từng thấy trong lễ hội Đền Hùng.

Đó là hai bằng chứng khảo cổ và dân tộc học cho thấy nguyên mẫu chính của trống đồng Đông Sơn là cối giã gạo lưng eo, một công cụ, một nhạc cụ cũng là biểu tượng của đàn bà, của sức mạnh sinh sôi nảy nở và no ấm.

Càng ngắm càng so sánh càng suy ngẫm, càng hiểu vì sao trong lịch sử, trống đồng Đông Sơn (còn gọi trống Heger I) và hậu duệ của chúng (trống Heger II, III, IV) từng được coi là "nhà" của Tổ tiên trong hội lễ; tiếng trống đồng là tiếng nói của Tổ tiên; hình dáng và hoa văn trống là các biểu tượng của Tổ tiên.

Cần nhấn mạnh nước ta từ Văn Lang xưa đến Việt Nam nay luôn là nước của nhiều tộc người cùng khối Bách Việt.

Trống đồng, dù tên gọi thế nào, luôn là tài sản chung của người Bách Việt thời Đông Sơn và của nhiều tộc người ở các thời sau.

Vì thế, nhiều biểu tượng trên trống đồng Đông Sơn là gốc của nhiều biểu tượng văn hóa các tộc người ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á.

Ví dụ, chị em của dạng khăn mỏ quạ Việt có thể thấy ở người Tày, Thái Đen; anh em của đình Việt là nhà rông Ba Na, nhà Gươl Katu..

Với tâm thức đó, ngẫm suy các biểu tượng trên trống đồng, thành kính hướng tâm về Lễ Giỗ Tổ Vua Hùng - Quốc Lễ Việt Nam.

Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn

Trống đồng Đông Sơn có chức năng nhạc khí và những chức năng khác như làm biểu tượng cho quyền lực, tôn giáo.

Sản phẩm nền văn minh nông nghiệp và là biểu tượng của những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội nước Văn Lang.

Đặc trưng tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn

Văn hóa Đông Sơn ra đời là kết quả hội tụ nhiều văn hóa rực rỡ trước Văn hóa Đông Sơn thuộc thời đại đồng thau trong quá trình chiếm lĩnh vùng đồng bằng các sông lớn ở miền Bắc Việt Nam, chủ yếu là lưu vực sông Hồng.

Phạm vi phân bố Văn hóa Đông Sơn trên cơ bản ở miền Bắc Việt Nam.

Ra đời kỹ thuật đồ sắt giúp kỹ thuật luyện đồng thau sau này hoàn thiện.

Mọi tinh hoa văn hóa của người Việt cổ đều tập trung vào thể hiện kiểu dáng và hoa văn trên đồ đồng.

Các trống đồng tìm thấy phần nào giúp thế hệ ngày nay biết nhiều hơn về lịch sử – một nền văn hóa sơ khai phát triển mạnh dưới thời Hùng Vương của người Lạc Việt.

Hằng trăm di tích cùng các di vật đồ sộ được phát hiện - nghiên cứu, minh chứng sinh động cho nguồn gốc, phát triển liên tục từ các Văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun), đến đỉnh cao Văn hóa Đông Sơn và văn minh Đại Việt.

Trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam phần lớn lưu tại Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (số 214 Trần Quang Khải, Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội). Một số còn lưu lạc ở Bảo tàng nước ngoài (Pháp, Thụy Điển).

Ngoài ra còn một số trống được nhắc ở vài tài liệu xuất bản, nhưng tư liệu miêu tả, nơi lưu giữ không rõ ràng, như trống Ngọc Hà, Tuần Giáo, Cốc Lếu, Xi Ma Cai, Núi Gôi II, Mật Sơn II, Nghĩa Lộ.. Vì vậy không xếp những trống này vào danh sách trống đồng Đông Sơn.

Trống đồng Đông Sơn tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn, sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ.

Những trống đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hòa thể hiện trình độ rất cao về kỹ thuật – nghệ thuật luyện kim (đồng thau).

Đặc biệt là những hoa văn phong phú khắc họa, tả chân thật sinh hoạt của con người, phản ánh rõ nét nền văn minh nông nghiệp thời kỳ dựng nước.

Hoa văn không đơn thuần chỉ là trang trí

Hoa văn trang trí Đông Sơn mang tính biểu tượng, ước lệ và cách điệu cao, các đường nét hoa văn khúc triết, đơn giản nhưng sinh động, tự nhiên (hình chữ S, hình người, chim, thú, nhà, thuyền).

Giữa mặt trống là hình mặt trời hay ngôi sao 12 cánh hoặc 14 cánh (phần nhiều 12 cánh).

Xung quanh có 12 vòng đồng tâm, mỗi vòng đều có hình trang trí, 3 vòng trang trí hình người và vật, 1 vòng có hình hươu và chim xen kẽ, 1 vòng có hình loại chim ăn cá, con đứng, con bay, một số nhà khảo cổ học nói những hình chim trang trí trên mặt trống là chim Lạc, vật Tổ của người Lạc Việt.

Thân trống thường có hình thuyền, hình vũ nữ, hình một số chim, thú thông thường chỉ có hoa văn hình học (vạch, chấm nhỏ, vòng chỉ trơn, vòng tròn chấm giữa tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến. Quai trống thường làm theo hình dây thừng bện.

Hình ảnh mặt trống giàu yếu tố trang trí, mỗi hình đều có ý nghĩa nhất định.

Những hình vẽ trên mặt trống đồng được coi như một quyển Âm Lịch, nhìn vào các biểu tượng người ta đoán biết thời tiết, bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông). Xin điểm kĩ vài hình ảnh làm minh chứng:

Hình người:

Mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai phía, vừa đi vừa múa, có người cầm rìu, có người thổi khèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim.

Hoặc có thể người đang quay mặt về phía nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày, đầu chày có trang trí lông chim.

Hình nhà:

Hai loại hình nhà sàn (loại mái cong và mái tròn). Nhà sàn là loại kiến trúc chủ yếu của người Lạc Việt. Nó là cội nguồn của những đình Việt nay.

Hình thuyền:

Nhiều trống đồng hình thuyền chạm khắc trên tang trống cho thấy kỹ thuật đi biển của người Việt xưa đạt mức khá cao.

Hình thuyền trưởng dùng trống đồng và dụng cụ đo góc độ và phương giác dựa các vì sao để tìm phương hướng ở thời kỳ mà các nhà hàng hải chưa sáng chế ra địa bàn.

Mỗi thuyền đều có một người cầm lái đầu đội mũ lông chim, tay lái có trang sức lông chim. Trên sàn thuyền có một người bắn cung, không đội mũ lông chim mà búi tóc, đó là những thủy binh đánh xa. Họa tiết này chứng minh cuộc sống sông nước của cha ông ta.

Mặt trống thể hiện tiết khí trong năm, chẳng hạn tiết Đông chí:

Gặp trên đường bán kính từ trung tâm bông hoa kéo ra, hình vẽ nhà sàn, hai vợ chồng chim trên nóc mái, và trong nhà có 3 người đang nằm vừa ngồi nhỏm dậy.

Góc phải nhà sàn ở mặt đất có cái gì như cối nằm nghiêng. Góc trái có đứa nhỏ gõ vào thứ như trống con, có vẻ để báo thức.

Ta hiểu trải qua mùa đông, các loài vật ngủ vùi đến ngày đông chí mới tỉnh dậy, mầm các loài hoa lá trên cành cũng đến ngày ấy mới "ngồi dậy." Cả đến cối nằm ngủ mãi có lẽ cũng sắp được dựng dậy để làm việc.

Tiết hạ chí:

Đối điểm của đông chí bên kia vòng tròn, trên cùng đường kính.. vẫn gặp những nhà sàn ấy, khác là trên nóc mái chỉ có 1 chim trống, con mái dường như ở nhà ấp trứng.

Từ hình ảnh này người xưa quan niệm "mùa hè phải đóng bè làm phúc; không được phá phách các tổ chim; bắt được chim còn phải phóng sinh nó đi, để nó về nuôi vợ con nó."

Đây là truyền thống tốt đẹp còn mãi đến thế hệ chúng ta ngày nay.

Vòng thứ 8 (tính từ tâm điểm) gồm hai nhóm, mỗi nhóm có 10 hươu cách nhau bằng 2 tốp chim xòa cánh bay (1 tốp 6 con và 1 tốp 8 con).

Cứ 1 hươu đực đến 1 hươu cái. Đó là những hình vẽ con vật tượng trưng. Chẳng hạn:

Gà (thuộc lớp chim) chỉ đi ăn ban ngày, hươu ăn đêm trăng sáng.

Người xưa tính được 6 đêm vào đầu tháng (từ mồng 1 đến mồng 6) và 8 đêm cuối tháng (từ 22 đến 30) không có trăng.

Họ suy ra 6 đêm đầu tháng và 8 đêm cuối tháng sẽ không đi săn thú được, vì không có trăng.

Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính:

Mồng 1 lưỡi trâu – mồng 2 lưỡi gà – mồng 3 lưỡi liềm – mồng 4 câu liêm – mồng 5 liềm vật – mồng 6 phạt cỏ – mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.

Tuần trăng sáng được tính:

Mười rằm trăng náu – 16 trăng treo – 17 trải giường chiếu – 18 giương cạm – 19 bịn rịn – 20 giấc tốt – 21 nửa đêm.. Những ngày còn lại không trăng không cần tính.

Vòng 10 gồm 36 chim được cách điệu, xếp cùng chiều (18 con đậu và 18 con bay). Chim bay là loại chim mỏ dài, có mào, đuôi và chân dài, mình gầy thuộc loại cò, sếu hoặc vạc.

Chim đậu có nhiều loại. Con mỏ ngắn vênh lên, con mỏ dài chúc xuống, phần đông là chim ngậm mồi. Các con chim đậu đều có đuôi ngắn. Ngoài những hoa văn trên, rìa mặt trống có một số vết những con kê còn để lại khi đúc trống.

Phần trên cùng tang trống là đoạn tiếp giáp mặt trống có 6 vòng hoa văn hình học. Các vòng 1 và 6 là những đường chấm nhỏ thẳng hàng, vòng 2 và 5 là hoa văn răng cưa, đỉnh quay về hai phía có những chấm nhỏ xem kẽ, vòng 3 và 4 là hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối nhau bằng những tiếp tuyến song song.

Tiếp theo đoạn này là hình 6 thuyền, chuyển động từ trái sang phải, xen giữa các thuyền là hình chim đứng. Chim có từ 1 đến 3 con. Đứng giữa thuyền là người chỉ huy cầm trống đang điều khiển.

Mũi thuyền có từ 1 đến 2 người tay cầm vũ khí như giáo hoặc rìu chiến, đó là những thủy binh đánh gần. Mỗi thuyền đều có một người cầm lái đầu đội mũ lông chim cao, tay lái có trang sức lông chim.

Trên sàn thuyền có một người bắn cung, không đội mũ lông chim mà búi tóc, đó là những thủy binh đánh xa. Họa tiết này chứng minh cho ta thấy cuộc sống sông nước của cha ông ta.

Phần dưới của tang trống là 3 vòng hoa văn hình học. Chân trống không có trang trí. Qua các mô típ chạm khắc trên trống tái hiện cho thấy nền văn hóa và những văn minh của xã hội Lạc Việt.

Trống đồng không chỉ là bảo vật văn hóa Việt Nam mà còn là điểm hội tụ hồn thiêng sông núi hình thành từ thời Hùng Vương dựng nước và tích tụ tinh hoa dân tộc trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ thời các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.

Những trống đồng Đông Sơn phát hiện trên khắp lãnh thổ nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho tinh hoa văn hóa cũng như ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.

Suốt hàng nghìn năm, những chiếc trống là vật tượng trưng cho tinh hoa văn hóa, ý chí quật cường của dân tộc ta.

Nghi lễ cũng như dịp hội hè vui vẻ, tiếng trống đồng trầm hùng vang vọng tạo không khí uy nghi, làm tăng lòng tự hào dân tộc và làm kẻ thù phải khiếp sợ.

Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam lưu giữ một số lớn trống đồng Đông Sơn – có thể nói đây là bộ sưu tập lớn nhất thế giới.

Những hình ảnh họa tiết trên trống đồng đến nay vẫn nguyên giá trị thẩm mỹ.

Sắp xếp trên mặt và thân trống đều theo một quy ước, một trật tự, chiều hướng ổn định, ta không thể tự thay đổi được.

Tất cả hình ảnh không chi tiết thừa. Những hình người, hình chim, hươu.. xếp theo hàng luôn theo hướng đi của mặt trời, nhìn trên mặt trống đồng là ngược chiều kim đồng hồ.

Thực tế vẫn có vài nơi dùng họa tiết mặt trống đồng để trang trí lại hay đặt ngược. Ví dụ:

Bìa phụ cuốn sách "Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc" (NXB Văn hóa dân tộc -1996) con chim quay đầu theo chiều kim đồng hồ, như thế là ngược.

Trang Văn học Nghệ thuật của Đài Phát thanh Truyền hình Thái Nguyên nhiều năm nay vẫn để biểu tượng trống đồng quay ngược (theo chiều kim đồng hồ).

Gia Bảy

Nguồn

Web vannghethainguyen

Web catdang

Còn tiếp
 
Chỉnh sửa cuối:
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
20622141_704471649753090_3440916089138268643_n.jpg


Tìm hiểu cách thức sử dụng trống đồng Đông Sơn qua tư liệu khảo cổ học và dân tộc học

Trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất Văn hóa Đông Sơn. 90 năm qua, từ ngày phát hiện Văn hóa Đông Sơn, trống đồng Đông Sơn luôn được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu về tất cả khía cạnh.

Về chức năng cũng như cách thức sử dụng trống đồng Đông Sơn vẫn chưa thực sự đồng nhất quan điểm.

Có ý nói đây đơn thuần là nhạc khí, có ý kiến cho là vật biểu trưng quyền lực hoặc vừa là nhạc khí vừa là biểu trưng quyền lực.

Xét về chung mọi ý kiến, trống đồng là nhạc khí được nhiều người công nhận hơn cả.

Nhạc khí dùng nó ra sao? Vấn đề này các nhà khoa học dày công nghiên cứu, chủ yếu dựa các tư liệu về khảo cổ học và dân tộc học.

Thông qua tư liệu khảo cổ học

Trên khía cạnh khảo cổ học, nghiên cứu cách thức sử dụng trống đồng như nhạc khí căn cứ ở các đặc điểm trên bề mặt trống như cấu tạo, hiện trạng và hoa văn trên trống.

Về đặc điểm:

Những trống đồng Văn hóa Đông Sơn đều thuộc loại I theo cách phân loại của F. Heger. Kết cấu trống đồng Đông Sơn:

Mặt, tang, thân và chân.

Mặt trống hình tròn, giữa mặt đúc nổi hình mặt trời 12 đến 18 tia, xung quanh trang trí nhiều băng hoa văn.

Tang trống hơi phình ra, nối liền mặt trống; thân trống hình trụ tròn thẳng đứng; phần chân hơi loe thành hình nón cụt.

Có 4 quai chia làm 2 cặp gắn vào tang và phần giữa trống, trang trí hình bện thừng.

Vị trí đánh (gõ) trống chính là giữa mặt trống bởi chỗ này đúc nổi hình mặt trời dày hơn để chịu nhiều tác động của vật đánh (dùi), các tia mặt trời làm lan tỏa âm thanh ra xung quanh.

Phần tang và thân trống có thể được đánh để tạo những đặc điểm âm thanh khác nhau. Ngoài ra, trống còn có thùng cộng hưởng độc đáo:

Phần tang phình, phần thân và chân loe ra giúp trống âm thanh vang xa, từ những âm thanh ban đầu nhân lên về mặt cường độ.

Một điều cần lưu ý là 4 quai trống đúc đối xứng khá dày và chắc chắn. Điều này liên tưởng trống được luồn dây để treo lên trong quá trình sử dụng.

Về hiện trạng:

Sau hàng nghìn năm tồn tại, nhiều trống đồng tìm thấy tương đối nguyên vẹn. Xem xét hiện trạng nhiều trống đồng, thấy phần lớn ở giữa mặt những trống, vị trí in nổi của mặt trời nhiều tia thường nhẵn, rỗ, hoặc bị biến dạng.

Nguyên nhân có thể do tác động thường xuyên của dùi? Điều này một lần nữa minh chứng trống chủ yếu được đánh/gõ vào vị trí chính giữa mặt trống.

Nhiều tài liệu khảo cổ học, khi nhắc tới cách thức sử dụng trống đồng, phần lớn các tác giả đều dựa những họa tiết hoa văn trang trí trên trống.

Xem xét trên bề mặt các trống như trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, trống Cổ Loa và trống Sông Đà.. có thể thấy bề mặt mỗi trống đều có 2 cảnh người đánh trống đối xứng nhau qua tâm.

Theo đó thì giàn trống thường có 4 chiếc cạnh nhau, phía trên là 4 người trong tư thế ngồi hoặc đứng dùng 1 cây dài để gõ thẳng đứng lên mặt trống.

Theo Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (NXB. Khoa học Xã hội năm 1994), người xưa còn đào hố rộng ra để trống ở lơ lửng giữa hố, giúp âm thanh đã mạnh lại mạnh hơn. Những hố cộng hưởng này còn thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.

Những tư liệu dân tộc học

Hiện nay, ở Việt Nam còn có một số dân tộc thiểu số sử dụng trống đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng, tiêu biểu như người Mường, người Lô Lô, người Pu Péo..

Đây là tư liệu quan trọng để đối sánh, so sánh tìm ra phương pháp sử dụng trống đồng như một nhạc khí của cư dân Việt cổ.

Cách đánh trống đồng của dân tộc Mường hiện nay tương đối giống mô tả trên mặt các trống đồng kể trên, tức theo lối giã gạo.

Người Mường cũng dùng những dùi trống dài như chày giã gạo với khoảng 3 – 4 người đứng xung quanh để đánh vào mặt trống theo hướng thẳng đứng.

Cách đánh này chủ yếu mang tính tượng trưng của tiết tấu vũ điệu hơn là về hiệu quả âm thanh. Có thể hiểu tư thế để úp nằm của nó để tiện cho nhiều người diễn tấu cùng lúc.

Thực tế, người Mường đặt trống trên giá gỗ thấp gồm hai thanh gỗ bắt chéo hình chữ thập làm sàn kê, có bốn chân ngắn để bớt hạn chế về nguyên tắc âm thanh.

Theo cuốn Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (NXB. Văn hóa Dân tộc, 1997) phương thức diễn tấu trống đồng của các tộc khác như Lô Lô và Pu Péo tương đối giống với các dân tộc ở Hoa Nam (Trung Quốc).

Ngày nay, đồng bào Lô Lô nhiều vùng còn giữ những bộ trống đồng, mỗi bộ gồm: Trống đực (nhỏ hơn) và trống cái (to hơn). Trống có bốn quai bố trí thành từng cặp đối xứng nhau qua trục thân.

Mặt và tang trang trí hoa văn nét nổi. Chính giữa mặt trống là hoa văn hình mặt trời với 12 tia. Trống đồng là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của người Lô Lô, tộc trưởng cất giữ trống đồng cho dòng họ, bảo quản bằng cách chôn xuống đất.

Khi nào dùng mới đào lên. Khi dùng trống, họ đặt hai trống (đực và cái) treo quay mặt trống vào nhau.

Người đánh trống đứng ở giữa cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống và có tới 36 điệu đánh trống. Trống đánh giữ nhịp cho các điệu múa dân gian.

Hiện nay, người Pu Péo chỉ dùng trống đồng trong lễ làm chay. Giống người Lô Lô, trống của người Pu Péo có bộ gồm trống đực, trống cái. Bình thường cất trống trên sàn gác.

Trước khi dùng phải cúng từng trống với lễ vật là hai bát rượu, con gà. Cúng xong, đổ rượu lên mặt trống rồi mới treo trống.

Trống treo ở cạnh cửa ra vào ở gian giữa, trống đực treo bên trái, trống cái treo bên phải. Hai mặt trống quay vào nhau.

Người đánh trống phải là đàn ông đứng ở giữa dùng củ chuối gõ vào hai mặt trống theo điều khiển của thầy cúng. Người ta đánh trống, vui múa suốt một đêm một ngày.

Đồng bào tin hồn ngô lúa rất sợ tiếng trống vì thế chỉ làm chay sau khi mùa màng thu hoạch xong.

Nhưng nếu vì hoàn cảnh phải dùng trống sớm hơn thì chỉ được đánh ba tiếng trống – trống đực đánh một tiếng, trống cái hai tiếng.

Cách đánh trống của người Lô Lô và Pu Péo cho thấy một phần cách nhìn này đối với từng cặp trống đực – cái có cao độ khác nhau.

Vài nhận xét

Trống đồng là nhạc khí, vị trí để tác động lên trống chủ yếu là trung tâm mặt trống, nơi có hình mặt trời đúc khá dày.

Tạo những âm thanh khác nhau, có thể những vị trí xung quanh đó, gồm cả tang và thân trống được tận dụng để tác động.

Về tư thế, trống đồng đánh dựa trên kiểu chính:

Thứ nhất, ngửa mặt trống lên và tác động thẳng đứng xuống trung tâm mặt trống.

Phía dưới chân trống có thể kê lên cao hoặc tạo những "hố cộng hưởng." Cách này chủ yếu mang tính diễn tấu, không mang lại hiệu quả về âm thanh.

Thứ 2, trống buộc dây vào quai và treo lên, người đánh dùng dùi tác động vào mặt hoặc thân và tang trống.

Cách này có thể tạo hiệu quả về âm thanh hơn và hiện nay vẫn còn được một số dân tộc thiểu số sử dụng.

Tùy thuộc kiểu đánh trống mà vật tác động lên trống (dùi) dài ngắn khác nhau. Những dùi làm bằng gỗ, đầu bọc vải để hạn chế làm biến dạng hoa văn trên trống.

Trải trên dưới 2000 năm, bảo lưu những nét đặc trưng từ thời Đông Sơn cũng có nhiều nét văn hóa đã mất, trong đó có phong tục đánh và sử dụng trống đồng.

Phục dựng lại truyền thống đánh trống đồng ở người Việt hiện nay còn nhiều quan điểm và luận giải khác nhau.

Phương pháp tiếp cận liên ngành khảo cổ học và dân tộc học, chúng ta có thể tìm hiểu về cách thức đánh trống đồng của người Việt cổ tương đối toàn diện.

Bài viết này chỉ có thể đưa ra những tư liệu mang tính chất gợi mở. Tương lai cần có những nghiên cứu thêm về vấn đề này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Minh Huyền 1996. Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng. Nxb. KHXH, Hà Nội.

2. Hán Văn Khẩn (Chủ biên) 2008. Cơ sở Khảo cổ học. Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Đình Khoa 1983. Các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. KHXH, Hà Nội.

4. Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1994. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Nxb. KHXH, Hà Nội.

5. Phạm Huy Thông (Chủ biên) 1990. Dong Son Drums in Viet Nam. Nxb. KHXH, Hà Nội.

6. Viện dân tộc học 1987. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Nxb. KHXH, Hà Nội.

7. Nhiều tác giả 1999. Phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Nxb. Văn hóa – Dân tộc, Hà Nội.

Nguồn

Web covatvietnam

Phân biệt Trống Đồng Ngọc Lũ và Trống Đồng Đông Sơn

Trống đồng là sản phẩm nền văn minh nông nghiệp phát triển, di vật tiêu biểu nền văn hóa người Việt cổ thời dựng nước.

Nổi bật trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn với họa tiết hoa văn vô cùng tinh xảo độc đáo, thể hiện sáng tạo đỉnh cao nghệ thuật từ những buổi đầu sơ khai nền văn minh, văn hóa Âu Lạc.

Vậy giữa trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn, đâu mới là cái nôi nền văn minh lúa nước? Sự khác nhau giữa 2 loại trống ấy thế nào?

Làm thế nào để nhận biết và phân biệt chúng dễ nhất? Hãy cùng Đồ Đồng Quang Hà tìm hiểu câu trả lời qua bài viết:

Nguồn gốc Trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn

Những tranh cãi về nguồn gốc ra đời trống đồng Đông Sơn

Về nguồn gốc ra đời trống đồng Đông Sơn, có 3 luồng ý kiến khác nhau.

Phương Tây, người ta biết về trống đồng từ 1682 nhưng mãi TK. 19 mới có học giả bàn về trống đồng: Điển hình như học giả Hirth (1890) cho trống đồng của Trung Quốc; học giả De Grooth (1901) cho nguồn gốc trống đồng của Việt Nam.

Tới các học giả Trung Quốc cho quê hương của trống đồng ở Vân Nam, Trung Quốc.

Nhưng các nhà khảo cổ học Việt Nam khẳng định xuất thân trống đồng ở vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Bộ Việt Nam.

Chưa kết luận nào chắc chắn và được công nhận nhưng bài viết đi theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam phân tích về nguồn gốc trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn.

Nguồn gốc trống đồng Ngọc Lũ

Bàn trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn, người ta cho trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn đều là dòng trống cổ nhất Việt Nam.

Trống đồng Ngọc Lũ phát hiện 1893-1894, do một số nông dân đi đắp đê ở hữu ngạn sông Hồng tìm thấy, các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số người khác đắp đê ở xã Như Trác huyện Nam Xang (Lý Nhân) hữu ngạn sông Hồng.

Trống đồng được cúng vào đình làng Ngọc Lũ, để khi có đình đám cúng tế thì dùng.

1902, nhân cuộc đấu xảo ở Hà Nội, trống trưng bày, Viện Viễn Đông Bác Cổ mua lại, lưu ở Bảo tàng Lịch Sử. Đây là nhạc cụ cổ nhất dòng trống đồng Đông Sơn

Trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn khác nhau thế nào?

Nếu không am hiểu sâu, rất nhiều người nhầm lẫn giữa trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn vì hai mẫu trống này khá giống nhau về ngoại hình và một số hoa văn, họa tiết.

Trống đồng Đông Sơn

Trống có sao 8, 10 hoặc 12 cánh, bao quanh là 10 vòng hoa văn hình người, vật, động vật và hoa văn hình học.

Hoa văn hình học thường thấy:

Đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn, vòng tròn chấm giữa tiếp tuyến, vòng tròn đồng tâm chấm giữa có tiếp tuyến, hoa văn hình chữ gãy khúc, hoa văn răng cưa và vạch ngắn song song, và các chữ của người Việt cổ, hình ảnh về con người như trai gái giã gạo, múa hát, các chiến binh trên thuyền.

Thân trống thường có họa tiết hình thuyền, hình vũ sĩ, hình một số chim, thú thông thường thì chỉ có hoa văn hình học. Quai trống thường làm theo hình dây thừng bện.

Trống đồng Đông Sơn phân loại theo phân bố của những hình khắc và hoa văn trên trống, gồm 4 loại. Trong đó, trống đồng Ngọc Lũ là loại cổ và là "đứa con đầu tiên" của trống đồng Đông Sơn.

Trống đồng Ngọc Lũ

Đặc trưng trống đồng Ngọc Lũ là có lớp patin xanh ngả xám, gồm các bộ phận:

Mặt trống, tang trống, thân trống và chân trống.

Mặt trống đồng đúc nổi hình ngôi sao 12 cánh (trống đồng Ngọc Lũ cổ) hoặc 14 cánh bao quanh núm tròn nổi để đánh trống. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình lông công. Tiếp đó là 16 vành hoa văn:

Chấm nhỏ, vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến, những hàng chữ ∫ gẫy khúc nối tiếp, văn răng cưa, hình người hóa trang lông chim nhảy múa, người giã gạo chày đôi, người đánh trống, nhà sàn mái cong, hươu đang đi cùng chim mỏ ngắn bay và chim mỏ dài đứng.

Tang trống gồm có 6 vành hoa văn hình học là những đường chấm nhỏ thẳng hàng, văn răng cưa, hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối nhau bằng những tiếp tuyến song song và có 1 hàng 6 thuyền chở chiến binh cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm cá, chó săn thể hiện cách điệu.

Thân trống có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo 6 ô hình chữ nhật. Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, cầm vũ khí vừa đi vừa múa.

Phần dưới của thân là 3 vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ.

Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn. Giữa tang trống và thân trống là hai đôi quai có hoa văn bông lúa. Chân trống có hình nón cụt và không trang trí hoa văn nào.

Trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Đông Sơn có những họa tiết rất tinh xảo, thể hiện sáng tạo của người Việt có từ xa xưa và mang nhiều giá trị biểu tượng lớn.

Mang nhiều đặc trưng văn hóa nên trống đồng Ngọc Lũ được các nghệ nhân đúc đồng Quang Hà chế tác thành các mẫu trống đồng từ lớn đến nhỏ, mặt trống đồng, tranh trống đồng trang trí rất đẹp, sang trọng.

Nguồn

Web dongmynghe

Đúc thành công trống đồng Đông Sơn

Cuối 2005, các nhà khoa học đến làng nghề Trà Đông, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa để tận mắt xem các nghệ nhân làng đúc thực nghiệm trống đồng Đông Sơn theo đúng phương pháp truyền thống.

Tham quan diễn ra sau tọa đàm "Phục hồi nghề đúc đồng truyền thống Đông Sơn" tổ chức tại TP. Thanh Hóa 30-31-12-2005:

Các nhà khoa học thuộc Viện Khảo cổ, Viện BTLSVN, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, Viện Sử học Việt Nam, Hội Cổ vật Thanh Hóa, Hội Sử học và Bảo tàng Thanh Hóa.

Những sản phẩm vừa đúc là trống đồng hoàn chỉnh, không hàn gắn, chắp vá, hoa văn tương đối sắc nét, đánh mặt trống có tiếng ngân vang không bị rè là thành công lớn.

2-1, ông Bùi Tá Sơn - Giám đốc cơ sở phục hồi nghề đúc đồng truyền thống Đông Sơn:

Ông cùng các nghệ nhân đúc đồng làng Trà Đông, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa phiên bản thành công trống đồng Ngọc Lũ sau 2 lần đúc thử thất bại.

Phiên bản trống cao 73cm, đường kính mặt trống rộng 60cm, trọng lượng 115kg.

Do một số trục trặc về pháp lý nên phiên bản trống đồng này chưa hoàn toàn giống trống đồng Ngọc Lũ mà có pha trộn về hoa văn trống đồng Ngọc Lũ và trống đồng Hoàng Hạ.

Hiện phiên bản trống đồng Ngọc Lũ chuyển cho UNESCO.

Nơi đúc trống là làng nghề giữa khu vực tìm nhiều trống đồng, nơi có truyền thống đúc đồng, nay không ngừng hoạt động.

Nhiều khả năng làng nghề này có kinh nghiệm đúc trống từ thời Văn hóa Đông Sơn. So phương pháp đúc của người Việt xưa, phương pháp nghệ nhân nay khá nhiều điểm tương đồng:

1. Cách làm khuôn cũng là 3 mang ngoài, gồm 1 khuôn mặt, 2 khuôn thân. Khuôn trong, còn gọi "thao" khi ghép với khuôn ngoài được bộ khuôn hoàn chỉnh.

Các nghiên cứu dấu vết đúc các trống Đông Sơn thể hiện cách đúc bằng bộ khuôn như vậy, dấu vết là các đường chỉ nổi còn lại trên trống Đông Sơn thành phẩm.

2. Làm khuôn là chất liệu truyền thống, gồm thành phần cơ bản là đất sét, vỏ trấu.

Những địa điểm khảo cổ học thuộc Văn hóa Đông Sơn như Làng Cả (Phú Thọ) phát hiện khuôn đúc bằng đất nung cho thấy người xưa đúc đồng bằng những khuôn đúc có các thành phần như vậy.

3. Việc chọn hợp kim đồng - thiếc - chì cũng là hợp kim người xưa dùng đúc trống Đông Sơn.

4. Tạo hệ thống các con kê định vị để đóng vào khuôn mặt và khuôn ngoài trống cũng là cách người xưa làm để tránh khuôn xê dịch khi rót đồng. Điều này thể hiện rõ nét trên dấu vết số lượng lớn trống Đông Sơn.

Trà Đông một thời là làng nghề nổi tiếng, vài chục năm trước, làng có vài trăm hộ gia đình sống bằng nghề đúc đồng cung cấp hàng loạt đồ gia dụng cho miền ngược lẫn miền xuôi.

Làng có đền thờ ông Tổ nghề đúc đồng Khổng Minh Không. Làng nghề nay đang đứng trước nguy cơ xóa sổ trong cơn lốc kinh tế thị trường. Hiện còn 22 gia đình còn "nổi lửa" lò đúc.

Nguồn

Web khoahoc. Tv

Còn tiếp
 
Chỉnh sửa cuối:
41 ❤︎ Bài viết: 152 Tìm chủ đề
Trống đồng Hoàng Hạ có đường kính 79 cm, cao 61, 5 cm, do dân làng Hoàng Hạ (Hà Đông) đào được ở độ sâu 1, 5 m vào tháng 3 năm 1937. Nay trống được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Trống đồng Hoàng Hạ có nhiều điểm tương đồng với trống đồng Ngọc Lũ cả về hình dáng và hoa văn.

71549366_1235141460019437_1996146974927093760_n.jpg


Trống đồng Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam thuở dựng nước

Phần I:

Khái quát nghiên cứu, phân loại trống đồng ở quốc tế

Trống đồng phân bổ rất rộng, nhiều kiểu dáng khác nhau, tồn tại những thời gian sớm muộn khác nhau, do những người khác nhau tạo ra.

Đây là nhận định hết sức quan trọng được hầu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận. Đến nay, trống đồng phát hiện được ở các nước Đông Nam Á:

Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia, Thái Lan, Hoa Nam.

Hoa Hạ và Ấn Độ không phải khu vực phân bố của trống đồng. Dù có ở nhiều quốc gia, nhưng không phải tất cả các nước đó đều đúc trống đồng.

Phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho chỉ có 2 trung tâm trống đồng là Bắc Việt Nam và Vân Nam Trung Quốc là 2 khu vực có trình độ luyện kim sớm và cao trong thiên niên kỷ thứ I TCN.

Các khu vực khác phát triển muộn hơn hoặc do buôn bán trao đổi, ban tặng mà có.

Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tiến hành phân trống đồng thành các loại hình khác nhau. Đáng chú ý là cách phân loại của nhà khảo cổ học người Áo F. Heger từ những năm 1902.

Công trình "Những trống kim khí cổ ở Đông Nam Á", ông phân trống đồng thành 4 loại chính và các loại hình trung gian.

Trống loại I có 3 phần tang, thân và chân phân biệt rõ ràng cân đối là loại trống có niên đại sớm nhất và trang trí đẹp nhất, phát hiện nhiều nhất ở Bắc Việt Nam và Hoa Nam, tiêu biểu là loại trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ nước ta.

Trống loại II muộn hơn, có 3 phần tang, thân và chân trống phân biệt không thật rõ ràng trang trí các vành văn hoa chanh, văn đồng tiền, phát hiện nhiều trong vùng đồng bào Mường sinh sống từ Phú Thọ đến Nghệ An và miền Nam Trung Quốc.

Trống loại III kiểu dáng hơi khác, mặt trống tràn rộng ra ngoài, tang, thân và chân gần hình ống, phân bố chủ yếu ở vùng Shan Miến Điện, cho đến những năm cuối TK. XIX vẫn còn sản xuất.

Trống loại IV gần giống kiểu dáng loại I nhưng thấp nhỏ, trang trí 12 con giáp, hoa văn tiền đồng và chữ Hán, phân bố chủ yếu ở vùng dân tộc Hoa Nam, những năm đầu TK. XX người dân vùng này vẫn sử dụng trong các dịp lễ.

Các nhà khảo cổ học người Pháp trước đây như V. Goloubev, Parmentier và nhiều nhà khảo cổ học trong nước đều sử dụng cách phân loại của F. Heger.

Các nhà khảo cổ học Trung Quốc từ rất sớm nghiên cứu phân loại trống đồng.

Trịnh Sinh Hứa với cuốn "Lược khảo về trống đồng" xuất bản năm 1937. Văn Hựu với cuốn "Sưu tập trống đồng cổ" xuất bản năm 1957.

Những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu như Khâu Trung Luận, Tường Đình Du, Lỹ Vĩ Khanh, Hoàng Tăng Khánh.. phân trống đồng thành 7 hay 8 loại khác nhau:

Vạn Gia Bá, Thạch Trại Sơn, Lĩnh Thủy Xung, Tuấn Nghĩa, Ma Giang, Bắc Lưu, Linh Sơn, Tây Minh.

Các loại hình này cũng nằm trong 4 loại chính và các loại trung gian của phân loại F. Heger, nhưng dùng địa điểm phát hiện các trống đồng tiêu biểu làm đại diện.

Khác nhau cơ bản là các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho loại hình Vạn Gia Bá là loại trống đồng trang trí giản đơn, không có các vành hoa văn đẹp thuộc giai đoạn sớm nhất, các nhà nghiên cứu chúng ta thì cho loại đó thuộc loại muộn nhất trong trống loại I Heger.

Trống thuộc loại I Heger có niên đại TK. V TCN đến TK I-III SCN.

Đáng chú ý ban đầu hầu hết trống đồng đều phát hiện ngẫu nhiên trong lòng đất hoặc trong các đền chùa.

Nên không xác định được tính chất văn hóa cũng như tộc thuộc của chúng, như các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Miếu Môn..

Sau này, khi phát hiện nhiều di tích khảo cổ thời kim khí trên lưu vực sông Hồng, sông Mã và đặc biệt là Văn hóa Đông Sơn xác lập thì nghiên cứu trống đồng có nhiều thuận lợi.

Giống nhau một cách kỳ lạ giữa hoa văn trang trí trên trống đồng và trên đồ đồng Văn hóa Đông Sơn như thạp, thố, rìu giáo, tấm che ngực..

Và đặc biệt trong một số mộ táng như mộ thuyền Việt Khê, khu mộ Làng Cả, Làng Vạc hay trong một số di chỉ Văn hóa Đông Sơn phát hiện được trống đồng to cũng như trống đồng minh khí thì trống đồng được xác nhận là hiện vật tiêu biểu Văn hóa Đông Sơn.

Hầu hết các nhà nghiên cứu trong nước đều xem trống đồng loại I Heger phát hiện ở Việt Nam hầu hết là trống đồng Đông Sơn, đề nghị gọi chúng là trống đồng Đông Sơn.

Không phải tất cả trống đồng phát hiện ở ta đều thuộc trống đồng Đông Sơn, nhưng muộn hơn và có quan hệ gần xa với trống đồng Đông Sơn.

Ngoài trống đồng Đông Sơn, nước ta phát hiện nhiều loại trống đồng như trống Heger loại II, còn gọi trống Mường vì được phát hiện ở vùng người Mường cư trú và trong các mộ Mường.

Theo GS Hoàng Xuân Chinh, người Mường không phải là người đúc trống đồng. Trống của họ do triều đình phong kiến Việt Nam tặng cho các quan lang, quý tộc Mường.

Đến nay, nước ta là khu vực có trống loại I Heger phân bổ đậm đặc nhất. Trống đồng Đông Sơn phát hiện ngày một nhiều.

1975, cả nước chỉ phát hiện 65 chiếc. Năm 1985 có 144 chiếc; năm 1995 có 190 chiếc.

Hàng năm đều phát hiện; đây là số liệu thống kê chính thức được thông báo trong các hội nghị khảo cổ học hàng năm.

Một số địa phương liên tục phát hiện trống đồng Đông Sơn như Thanh Hóa, Hà Tây (cũ), Đắc Lắc. Riêng Lào Cai năm 1993, 1994 phát hiện 19 chiếc.

Tỉnh Đắc Lắc chỉ trong vài ba năm gần đây, phát hiện được 6, 7 chục trống đồng Đông Sơn. Ước tính cả nước phát hiện trên 500 trống đồng Đông Sơn.

Chưa kể hàng vài trăm trống minh khí. Hiện nhiều nhà sưu tầm cổ vật trong nước thích sưu tập lưu giữ trống đồng Đông Sơn. Có người lưu vài chiếc, có người lưu giữ hàng hai chục chiếc.

Phát hiện nhiều trống đồng Đông Sơn làm thay đổi nhận định của một số nhà nghiên cứu trống đồng cổ Trung Quốc.

GS Hoàng Xuân Chinh nhiều lần đến thăm quan bảo tàng các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Quý Châu, Thượng Hải, Bảo tàng Dân tộc Bắc Kinh.. thấy Trung Quốc cũng phát hiện khá nhiều trống đồng.

Nhưng chủ yếu là trống loại II và loại IV theo phân loại của Heger. Trống đồng loại I không có nhiều và phát hiện được ở Vân Nam, Quảng Tây. Còn Quý Châu, Quảng Châu thuộc Hoa Nam nhưng đến nay chỉ mới phát hiện được vài chiếc.

Vài năm trước, khi GS Tưởng Đình Du Chủ tịch Hội Nghiên cứu trống đồng Trung Quốc cổ sang thăm nước ta.

Sau khi tham quan một số bảo tàng có trưng bày trống đồng như BTLSQG Việt Nam, Bảo tàng Hà Tây (cũ), Bảo tàng Thanh Hóa..

Tọa đàm trước lúc về nước, ông phát biểu miền Bắc Việt Nam và Vân Nam - Trung Quốc là 2 trung tâm trống đồng thế giới.

Quan điểm này hoàn toàn khác quan điểm của GS cũng như giới nghiên cứu trống đồng Trung Quốc.

Trước đó, tại hội thảo quốc tế về trống đồng ở Nam Ninh, các nhà nghiên cứu Trung Quốc nhận định:

"Trống đồng khu vực Bắc Bộ Việt Nam tương đối tập trung cũng chỉ là một quả dưa tương đối lớn kết trên vô số nhánh của phát triển trống; gốc của nhánh dưa này vẫn ở tỉnh Vân Nam nước ta" ()

Nhưng thực tế, sự có mặt số lớn trống đồng Đông Sơn nước ta đã đánh bại tư tưởng sô vanh bành trướng trong nhận định phiến diện, thiếu căn cứ khoa học trên của các nhà nghiên cứu Trung Quốc.

Kỳ sau: Phần II: Trống đồng Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam thuở dựng nước

Minh Vượng (Sưu tầm & tổng hợp)

Nguồn:

- Tuyển tập Hội thảo khoa học trống đồng với văn hóa Việt Nam – Hà Nội, 2008.

- Đồ đồng Văn hóa Đông Sơn, Hoàng Xuân Chinh - NXB. VHTT TP HCM-2012.

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Nguồn

Web baotanglichsu

Trống đồng Đông Sơn, hiện vật tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam thuở dựng nước (Phần II và hết)

Trống đồng Đông Sơn tồn tại gần 1 thiên niên kỷ nên về kiểu dáng có những biến đổi nhất định. Những năm gần đây, nhất là mấy năm giới khảo cổ và sử học nước ta tập trung nghiên cứu thời dựng nước của các Vua Hùng, các nhà khảo cổ học nghiên cứu sắp xếp, hệ thống hóa để tìm ra quy luật diễn biến trống đồng Đông Sơn.

Ngoài các bài đăng trong số 2, số 13 và 14 tạp chí khảo cổ học chuyên đề trống đồng, xuất hiện một số công trình chuyên khảo về trống đồng.

Đó là cuốn "Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam" của 2 tác giả Nguyễn Văn Huyên và Hoàng Vinh xuất bản giới thiệu 52 trống lớn và 53 trống minh khí khi phát hiện ở Việt Nam, không kể 13 trống thất lạc hoặc chưa xác minh được.

Năm 1987, các tác giả Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên và Trịnh Sinh trong cuốn "Trống đồng Đông Sơn" giới thiệu 144 trống đồng Đông Sơn, cùng đề cập đến một số trống đồng Đông Sơn phát hiện được ở các nước Đông Nam Á.

Công phu hơn cả là công trình nghiên cứu tập thể của Viện Khảo cổ học do GS Phạm Huy Thông chủ trì:

"Trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam" bằng hai ngôn ngữ Anh - Việt xuất bản năm 1990, giới thiệu 118 trống lớn, 6 trống minh khí với đủ bản vẽ và ảnh.

Đây có thể coi là công trình công bố đầy đủ, cập nhật về trống đồng Đông Sơn bấy giờ.

Trên cơ sở nguồn tư liệu đó, nhiều vấn đề về trống đồng Đông Sơn được đề cập đến, nhất là vấn đề phân loại trống đồng.

Về kiểu dáng trống đồng Đông Sơn phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho có một dạng là trống thấp lùn, một dạng là trống cao gầy. Nhưng mối quan hệ giữa hai dạng kiểu dáng này thì chưa sáng tỏ.

Diễn biến của trống trước hết thể hiện trên mặt trống. Loại trống sớm như Ngọc Lũ, Cổ Loa, Hoàng Hạ có mặt trống nhỏ hơn tang trống. Trống càng muộn, mặt trống càng rộng ra, loại muộn nhất mặt trống tràn ra ngoài tang trống.

Những loại trống sớm trên mặt trống chưa có các nhóm tượng cóc, loại trống muộn trên mặt trống có gắn tượng cóc ngồi theo chiều ngược kim đồng hồ, có loại là tượng cóc đơn, có loại là tượng cóc cõng nhau.

Đó là về kiểu dáng, về hoa văn trang trí trên mặt, tang và thân trống cũng có những diễn biến nhất định.

Trước hết những trống sớm, hoa văn trang trí phong phú, ngoài các loại hoa văn kỷ hà như văn vòng tròn đồng tâm, vòng tròn đơn, vòng tròn kép, vòng tròn tiếp tuyến, văn răng cưa, văn răng lược, hồi văn.. còn có các vành hoa văn về động vật như chim bay, chim đứng rình mồi, hươu nai chạy, bò u, cá sấu..

Đặc biệt là hoa văn tả cảnh sinh hoạt con người như cảnh giã gạo đôi, đánh trống, đánh chiêng, trẻ em chơi trồng nụ trồng hoa, cảnh nhảy múa, đua thuyền, thuyền chiến v. V..

Những hoa văn này khắc vẽ rất hiện thực sinh động. Những trống muộn có xu hướng giảm dần hoa văn và ngày càng cách điệu.

Cảnh người hóa trang nhảy múa trông giống cờ lau bay, không rõ hình người. Và một số trống không còn các vành hươu, nai xuất hiện.

Ngay cả vành tả cảnh sinh hoạt trên mặt trống cũng không còn, chỉ còn hoa văn kỷ hà cùng 1 vành có 4 hoặc 6 chim bay theo chiều ngược kim đồng hồ, tang trống không còn vành thuyền chiến hoặc đua thuyền.

Hoa văn kỷ hà cũng trang trí theo quy trình chặt chẽ, trống nào trang trí văn răng lược thì không có văn răng cưa.

Hoặc trái lại có văn răng cưa thì không có văn răng lược; không bao giờ trang trí lẫn lộn văn răng lược và văn răng cưa với nhau.

Trên cơ sở diễn biến kiểu dáng và hoa văn trang trí, các nhà khảo cổ học nước ta phân loại trống đồng Đông Sơn thành các loại hình có niên đại sớm muộn khác nhau.

Nhóm trống Ngọc Lũ đẹp nhất, niên đại sớm nhất. Nhóm trống muộn nhất có kích thước nhỏ, chế tạo thô thiển, hoa văn trang trí cực đơn giản, thường chỉ có văn mặt trời.

Tiêu biểu cho loại này là trống Thượng Nông, trống Đào Xá, trống Tùng Lâm.

Giữa 2 nhóm trống đó là nhóm trống có kích thước tương đối nhỏ, hoa văn đơn giản chỉ còn vành hoa văn chim bay.

Nhóm này có số lượng tương đối lớn, tiêu biểu là trống Định Công, trống Quảng Thắng, trống Bình Đà. Nhóm trống này kích thước tương đối lớn.

Mặt trống hơi chườm ra ngoài tang trống và có khối lượng cóc trên mặt trống, hoa văn trang trí trên mặt trống cách điệu cao như kiểu cờ bay; tiêu biểu là trống Hữu Chung, trống Lạc Long, trống Phú Phương..

Qua các phân tích trên, có thể thấy:

Từ trong hàng ngàn, hàng vạn trống đồng phân bổ trên vùng rộng lớn của Đông Nam Á, các nhà khảo cổ nhận biết ra được trống đồng loại 1 Heger.

Trên cơ sở phân tích kiểu dáng và phong cách hoa văn trang trí cùng trang phục của các hình người trang trí trên trống đồng loại I Heger nhận ra khác biệt của trống đồng Đông Sơn khác với trống đồng loại I Heger của tộc Điền Vân Nam, Trung Quốc.

Từ đó đi đến xác định trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu của người Việt cổ thời dựng nước đầu tiên của dân tộc.

Quá trình phát triển hàng mấy trăm năm, trống đồng Đông Sơn có diễn biến nhất định về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí, nhưng vẫn giữ kiểu dáng và các loại hoa văn cơ bản.

Đó là những đặc trưng cơ bản của truyền thống văn hóa Việt cổ mà nay chúng ta vẫn còn bắt gặp trong các đường trang trí trên váy Mường, trên các nhạc cụ của người Việt v. V..

Có thể nói trống đồng Đông Sơn là tinh hoa của cuộc sống Đông Sơn, phản ánh trí tuệ, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Đông Sơn.

Có thể xem trống đồng Đông Sơn là hiện vật tiêu biểu văn minh Đông Sơn, cũng là văn minh Việt Nam thuở dựng nước.

Minh Vượng (Sưu tầm & tổng hợp)

Nguồn:

- Tuyển tập Hội thảo khoa học trống đồng với văn hóa Việt Nam – Hà Nội, 2008.

- Đồ đồng Văn hóa Đông Sơn, Hoàng Xuân Chinh - NXB. VHTT. TP HCM-2012.

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Nguồn

Web baotanglichsu

Cận cảnh trống đồng Đông Sơn đẹp nhất Việt Nam

Có thể nói trống đồng Ngọc Lũ I là kiệt tác sáng tạo trong thời cực thịnh Văn hóa Đông Sơn.

Lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội, trống đồng Ngọc Lũ I là trống đồng đẹp nhất của Văn hóa Đông Sơn từng tìm thấy từ trước đến nay.

Trống còn khá nguyên vẹn, hình dáng cân đối, đường kính 79cm, cao 63cm. Trống chia làm 3 phần:

Tang trống nở phình, thân trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt hơi choãi.

Nét đặc sắc nhất của trống đồng Ngọc Lũ I là hệ thống hoa văn hết sức phong phú, chia làm 2 loại là hoa văn hình học và hoa văn người, động vật và đồ vật.

Chính giữa mặt trống là hình ngôi sao nổi 14 cánh. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình tam giác.

Có ý kiến cho rằng họa tiết trang trí giữa các cánh sao thể hiện hình tượng sinh thực khí nữ theo quan niệm phồn thực của người Việt cổ.

Từ trong ra ngoài mặt trống có tất cả 16 vành hoa văn đồng tâm bao bọc nhau. Các vành 1, 5, 11 và 16 là những hàng chấm nhỏ.

Các vành 2, 4, 7, 9, 13 và 14 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3 là những hình học gãy khúc nối tiếp.

Vành 12 và 16 là văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10 là vành có hình người, động vật được xếp xung quanh ngôi sao và ngược chiều kim đồng hồ.

Hình người trên mặt trống thể hiện ở dạng mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai phía, vừa đi vừa múa, có người tay cầm rìu, có người thổi kèn, có người cầm giáo, cán giáo có trang trí lông chim. Hoặc có thể người đang quay mặt về phía nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đôi trai gái đang cầm chày giã vào cối, đầu chày có trang trí lông chim.

Hình nhà: Hai dạng, thứ nhất là hình nhà liên quan đến nghi lễ tôn giáo, mái hình cung, hai đầu là hai trụ đứng để chắn phên.

Thứ hai là nhà hình thang nóc cong lên như hình thuyền, hai đầu có hình chim mắt to, hai bên có cột chống đỡ.

Nóc nhà có hai con chim đậu, một con trông giống hình chim công, một con trông giống hình gà trống..

Về hình tượng động vật, vành 8 gồm hai nhóm, mỗi nhóm 10 con hươu cách nhau bằng 2 tốp chim bay, 1 tốp 6 con và 1 tốp 8 con. Cứ 1 con hươu đực thì đến 1 con hươu cái.

Vành 10 gồm 36 con chim, 18 con chim đậu và 18 con chim đang bay.

Chim bay là loại chim mỏ dài, có mào, đuôi và chân dài, mình gầy thuộc loại cò, sếu hoặc vạc, thường gọi là chim Lạc. Chim đậu có nhiều loại.

Con mỏ ngắn vênh lên, con mỏ dài chúc xuống, phần đông là chim ngậm mồi. Các con chim đậu đều có đuôi ngắn.

Tang trống là hộp cộng hưởng khuếch đại âm thanh. Phần trên có 6 vành hoa văn hình học. Vành 1 và 6: Những đường chấm nhỏ thẳng hàng.

Vành 2 và 5: Văn răng cưa. Vành 3 và 4: Hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song.

Phần dưới tang trống là 6 thuyền chuyển động từ trái sang phải, chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm cá, chó săn thể hiện theo lối cách điệu.

Có 4 quai chia làm 2 cặp gắn vào tang và phần thân trống, trang trí hình bện thừng hoặc bông lúa.

Phần giữa của thân có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình chữ nhật.

Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa múa.

Phần dưới thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ.

Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn. Chân trống không có trang trí.

Trống đồng Ngọc Lũ I phát hiện khoảng năm 1893 - 1894 dưới độ sâu 2 mét của bãi cát bồi khi các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số người khác đắp đê Trần Thủy ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (phủ Lý Nhân, Hà Nam). Các ông đem về cúng vào đình làng Ngọc Lũ, để khi có đình đám cúng tế thì dùng.

Năm 1902 nhân cuộc đấu xảo ở Hà Nội, trống được trưng bày.

Viện Viễn Đông Bác Cổ bèn xuất 550 đồng bạc Đông Dương mua lại và lưu trữ ở Hà Nội.

Các nhà nghiên cứu xác định trống đồng Ngọc Lũ I có niên đại 2.500 năm trước, xếp vào loại H1 - Heger (theo phân loại dựa trên 165 trống đồng được biết đến thời điểm ấy của học giả F. Héger - người Áo - năm 1902).

H1 là loại trống đồng "cổ nhất, cơ bản nhất và từ loại này mà các loại khác ra đời." Ngọc Lũ là một trong số không nhiều trống đồng giữ vai trò ấy.

Văn hóa Đông Sơn, trống đồng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của người Việt cổ. Về cơ bản trống là nhạc khí dùng trong những lễ tiết lớn của cả cộng đồng.

Trống đồng còn dùng trong lễ mai táng chôn theo người chết, trong lễ hội cầu mùa và là biểu tượng quyền lực của tầng lớp thống trị thời Hùng Vương dựng nước.

Có thể nói trống đồng Ngọc Lũ I là kiệt tác được sáng tạo trong thời cực thịnh của Văn hóa Đông Sơn.

Hiện vật lịch sử mang tính biểu tượng của văn hóa dân tộc này được công nhận Bảo vật Quốc gia Việt Nam.

Nguồn

Web khoahocphattrienvietnam

Còn tiếp
 
Chỉnh sửa cuối:

Những người đang xem chủ đề này

Xu hướng nội dung

Back