Di chỉ Xóm Ốc
Văn hóa Xóm Cồn, hơn 30 năm phát hiện và nghiên cứu
NGUYỄN CÔNG BẰNG
Nguồn
Web baokhanhhoa
Còn tiếp

Văn hóa Xóm Cồn, hơn 30 năm phát hiện và nghiên cứu
1. Ngoài những phát hiện lẻ tẻ của một số nhà khảo cổ người Pháp, đến trước ngày giải phóng (1975), Khánh Hòa hầu như là vùng đất trống đối với khảo cổ học tiền - sơ sử.
Chính phát hiện di chỉ Xóm Cồn của Nguyễn Trọng Hiền, lúc đó là cán bộ Bảo tàng huyện Cam Ranh (năm 1978) và trợ giúp nhiệt tình của ông đã thu hút quan tâm của:
Cán bộ Viện Khảo cổ, Ban Khảo cổ thuộc Viện Khoa học Xã hội TP. HCM, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tới tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Sau nhiều đợt khảo sát, 9-1980, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Khánh (cũ) khai quật di chỉ Xóm Cồn lần thứ nhất với diện tích 79m2.
Đây là khai quật đầu tiên đặt cơ sở quan trọng trong nghiên cứu Văn hóa Xón Cồn cũng như khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Tròn 30 năm từ khai quật đầu tiên, bùi ngùi nhìn lại, chúng ta tưởng nhớ tới các nhà Khảo cổ học dành nhiều thời gian, tâm huyết cho khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Giáo sư Trần Quốc Vượng, ông Nguyễn Trọng Hiền, Tiến sĩ Quang Văn Cậy, Họa sĩ Trịnh Căn, nhà khảo cổ học Trương Hoàng Châu, Tiến sĩ Nguyễn Công Bằng.
2. Các tác giả tham gia khảo sát và khai quật Xóm Cồn đưa nhiều ý kiến khác nhau khi nghiên cứu di chỉ quan trọng này.
Trịnh Sinh và Nguyễn Trọng Hiền xếp Xóm Cồn vào Văn hóa Sa Huỳnh, nhưng lưu ý tới gần gũi về đồ đá giữa nó với các di tích ở Thuận Hải, và đồ gốm với các Văn hóa Hạ Long, Hoa Lộc.
Đặc biệt, tác giả lưu ý tới tầng văn hóa dưới có thể giúp chúng ta tìm hiểu một số vấn đề về các giai đoạn văn hóa sớm trước Văn hóa Sa Huỳnh cổ điển ở vùng này (Trịnh Sinh và Nguyễn Trọng Hiền, 1979).
Trương Hoàng Châu xếp Xóm Cồn thuộc giai đoạn đầu của Văn hóa Sa Huỳnh (Trương Hoàng Châu, 1981).
Nguyễn Duy Tỳ và Bùi Chí Hoàng khẳng định Xóm Cồn là di tích cư trú đầu tiên tìm thấy ở ven biển miền Trung có tính chất giống các cồn sò điệp:
Quỳnh Văn, Quỳnh Hồng, Gò Long Bắc (Nghệ Tĩnh), có niên đại chuyển tiếp từ hậu kỳ đá mới sang sơ kỳ kim khí, khoảng 3.500 - 4.500 năm cách ngày nay (Nguyễn Duy Tỳ, Bùi Chí Hoàng, 1980).
Vũ Công Quý xếp Xóm Cồn vào giai đoạn Sa Huỳnh sơ kỳ của loại hình Phú Khánh - Thuận Hải - Đồng Nai và đặt tên giai đoạn này là Xóm Cồn – Hòa Vinh (Vũ Công Quý, 1991).
Kết quả khai quật năm 1980, chúng tôi coi Xóm Cồn là di tích thuộc sơ kỳ thời đồng thau, tồn tại khoảng thiên niên kỷ II TCN, nhưng khác các tác giả kể trên, chúng tôi coi Xóm Cồn là di tích nằm ngoài hệ thống Văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền, 1983).
Tình hình tư liệu và quan niệm về Văn hóa Sa Huỳnh còn rất hạn chế của những năm 80 thế kỷ XX, những ý kiến đánh giá khác nhau quanh địa điểm Xóm Cồn là điều bình thường và dễ hiểu.
Chính những nhận định khác nhau của nhiều nhà nghiên cứu về Xóm Cồn, một di tích có tầng văn hóa dày hiếm hoi ở Miền Trung:
Niên đại sớm liên quan nguồn gốc Văn hóa Sa Huỳnh là một trong những yếu tố thúc đẩy Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh lần thứ nhất 1981.
Hội thảo này, dù còn có những ý kiến khác nhau nhưng đa số các nhà nghiên cứu tán thành quan niệm:
Văn hóa Sa Huỳnh chỉ tồn tại trong thời đại sắt sớm của Giáo sư Hà Văn Tấn (Hà Văn Tấn, 1983). Chúng tôi cũng định hướng tiếp tục nghiên cứu Xóm Cồn theo quan niệm này.
3. Từ 1988, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin Phú Khánh thực hiện chương trình nghiên cứu dài hạn khảo cổ học tiền - sơ sử trên địa bàn tỉnh.
1989, Phú Khánh tách thành tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, chương trình vẫn tiếp tục trên cả địa bàn hai tỉnh mới.
Ngót chục địa điểm khảo cổ học tiền - sơ sử được phát hiện trong các đợt khảo sát dọc theo các huyện, thị ven biển Phú Yên, Khánh Hòa từ đèo Cù Mông tới vịnh Cam Ranh (Nguyễn Công Bằng và Quang Văn Cậy, 1988).
Qua điều tra, thám sát sơ bộ phát hiện nhiều địa điểm có niên đại và tính chất tương đồng với di chỉ Xóm Cồn.
Nhiều di tích trong số này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin Phú Yên, Khánh Hòa tổ chức khai quật, nghiên cứu.
Năm 1990 là địa điểm Bình Hưng trên đảo cùng tên thuộc xã Cam Bình, huyện Cam Ranh (Quang Văn Cậy, 1991).
Di chỉ Xóm Cồn khai quật lần 2 năm 1991 (Quang Văn Cậy, 1992), cùng năm, di chỉ Gò Ốc và Giồng Đồn thuộc xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu tỉnh Phú Yên cũng được khai quật (Trương Hoàng Châu, 1993).
1993, di chỉ Bích Đầm trên đảo Hòn Tre, TP. Nha Trang được khai quật. Trên đảo Hòn Tre, đoàn khảo sát của Giáo sư Trần Quốc Vượng và Tiến sĩ Lâm Thị Mỹ Dung phát hiện hai địa điểm Bãi Trủ và Đầm Già (Trần Quốc Vượng và Lâm Thị Mỹ Dung, 1990)..
Sau nhiều năm kiên trì khảo sát, khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa, Phú Yên, khoa Sử - Đại học Tổng hợp Hà Nội phát hiện một hệ thống di tích tiền sử phân bổ:
Ven biển Phú Yên, Khành Hòa, trải dài trên 200km từ vũng Cù Mông tới vịnh Cam Ranh.
Hệ thống di tích này bước đầu xác định 8 di tích:
Xóm Cồn, Bình Hưng, Bình Ba, Bích Đầm, Bãi Trủ, Đầm Già (Khánh Hòa), Gò Ốc, Giồng Đồn (Phú Yên).
Các di tích này có môi trường sinh thái, đặc trưng gốm và công cụ giống nhau.. đủ để xác lập văn hóa khảo cổ mới tồn tại trước Văn hóa Sa Huỳnh, đó là Văn hóa Xóm Cồn.
Thuật ngữ Văn hóa Xóm Cồn sử dụng lần đầu để đặt tên cho chuyên khảo nhan đề:
Văn hóa Xóm Cồn với tiền và sơ sử Khánh Hòa do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa ấn hành năm 1993 (Nguyễn Công Bằng và NNK, 1993).
Nội dung và các mối quan hệ của Văn hóa Xóm Cồn cũng được làm rõ hơn trong Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử của Vũ Quốc Hiền năm 1996 (Vũ Quốc Hiền, 1996).
4. Văn hóa Xóm Cồn được xác lập với những đặc trưng cơ bản sau:
- Dù phân bố ở đất liền hay các đảo ven bờ, cư dân Văn hóa Xóm Cồn đều chọn địa điểm là các cồn cát gần mép nước biển làm nơi cư trú.
Biển mà các cư dân Văn hóa Xóm Cồn hướng ra đều là biển kín hay đúng hơn là vũng, vịnh biển. Gắn với những vũng, vịnh này là hệ thống rừng núi liền kề.
Hệ thống rừng núi này vừa là bình phong tự nhiên che chắn gió bão, vừa là môi sinh lý tưởng đối với cư dân Xóm Cồn.
- Ngoại trừ di chỉ Bình Ba vừa có tính chất cư trú, vừa có tính chất mộ táng, các di chỉ khác thuộc Văn hóa Xóm Cồn đến nay đều là di chỉ cư trú trên các cồn cát ven biển.
Trong tầng văn hóa của các di chỉ Văn hóa Xóm Cồn đều tích tụ một khối lượng nhất định vỏ nhuyễn thể biển.
Sự tích tụ này khác nhau giữa các di tích và không đồng nhất ngay trong cùng một di chỉ.
Có hai loài nhuyễn thể khác đặc trưng, trong các di chỉ thuộc thời đại kim khí ở Việt Nam cho tới nay (1996) mới thấy phổ biến trong tầng Văn hóa Xóm Cồn là Ốc tai tượng (Tridacna sp) và Ốc mặt trăng (Turbo sp).
- Cư dân Văn hóa Xóm Cồn khai thác nguyên liệu đá tại chỗ để chế tác công cụ, đó là loại đá trầm tích biến chất và cuội sông, biển.
Kỹ thuật chủ yếu mà người Xóm Cồn sử dụng để chế tác đồ đá là ghè, đẽo và mài, họ cũng khá thuần thục với kỹ thuật cưa, khoan trong việc chế tác đồ trang sức.
Đặc trưng nổi bật trong sưu tập đồ đá Văn hóa Xóm Cồn là độc tôn của rìu không có vai và sự hiếm hoi của đồ trang sức.
Sự bảo lưu công cụ đá ghè đẽo kiểu Hòa Bình và ưa sử dụng rìu hình thang đốc thu nhỏ, lưỡi xòe cân là đặc điểm đáng lưu ý của cư dân Văn hóa Xóm Cồn.
- Xương động vật và vỏ các loài nhuyễn thể biển rất được người Xóm Cồn chú ý khai thác và thành một trong những nguồn nguyên liệu chính để chế tác công cụ và đồ trang sức.
Người cổ Xóm Cồn đưa kỹ thuật chế tác đá vào chế tác vỏ nhuyễn thể, với một số loại hình lần đầu tiên được tìm thấy ở Việt Nam như công cụ ghè đẽo, lõi vòng từ Ốc tai tượng.
Đặc biệt là công cụ vảy ốc, có thể xem đó như là đặc trưng cơ bản của Văn hóa Xóm Cồn.
- Đa số đồ gốm Xóm Cồn thuộc loại gốm thô vừa phải, xương ít cát thô và vỏ nhuyễn thể, chủ yếu nặn bằng tay.
Loại hình đồ gốm khá đơn giản với hai loại chính là đồ đựng miệng loe không chân đế và đồ đựng có chân đế dạng bát bồng hay cốc chân cao với các loại miệng khá đơn giản.
Nét đặc trưng Văn hóa Xóm Cồn thể hiện rõ trên hoa văn trang trí gốm:
Gốm văn chải chiếm gần như tuyệt đối và chủ yếu gắn với các loại đồ đựng miệng loe không chân đế, hoa văn in chấm với các đồ án độc lập; gốm tô màu và vẽ màu.
Tới hôm nay, cơ bản Văn hóa Xóm Cồn được thừa nhận là văn hóa khảo cổ trước Sa Huỳnh, có nhà nghiên cứu còn cho nó là Văn hóa tiền Sa Huỳnh.
Dù quan niệm thế nào chúng ta cũng thấy nhiều yếu tố của Văn hóa Xóm Cồn còn bảo lưu rõ nét trong Văn hóa Sa Huỳnh.
Đó là kỹ thuật hoa văn in chấm, tô màu trên gốm.. cùng phương thức sống gắn liền với nguồn lực của cả biển và rừng..
4. Hơn 1 thập niên gần đây, khảo cổ học Tiền - sơ sử Khánh Hòa nhiều phát hiện thuộc những giai đoạn khác nhau như Hòa Diêm (Nguyễn Công Bằng, 2005), Văn Tư Đông (Trần Quý Thịnh, Nguyễn Ngọc Quý, 2009), Vĩnh Yên (Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn, 2009)..
Đó là những phát hiện quan trọng đối với khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Tuy không được trực tiếp nghiên cứu nhưng qua các tài liệu công bố, tôi thấy ít nhiều chúng đều có liên quan tới các yếu tố thuộc Văn hóa Xóm Cồn.
Xác lập Văn hóa Xóm Cồn là dấu mốc quan trọng trong nghiên cứu tiền - sơ sử Khánh Hòa, việc tiếp tục nghiên cứu nó trong mối liên hệ tổng thể, đa chiều với những di tích khảo cổ khác ở Khánh Hòa cũng như khu vực miền Trung, theo tôi, vẫn rất hữu ích.
TS. Vũ Quốc Hiền
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Tài liệu dẫn:
- NGUYỄN CÔNG BẰNG 2005. Di tích Hòa Diêm, Khánh Hòa nhìn từ Văn hóa Đồng Nai, Khảo cổ học số 4: 48 - 54.
- NGUYỄN CÔNG BẰNG VÀ QUANG VĂN CẬY, 1998. Những phát hiện mới về Khảo cổ học: 57 -58.
- NGUYỄN CÔNG BẰNG, TRỊNH CĂN, QUANG VĂN CẬY, VŨ QUỐC HIỀN, PHẠM VĂN HOÁN, NGÔ THẾ PHONG, 1993.
Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa, Nha Trang.
- QUANG VĂN CẬY, 1991. Di chỉ Bình Hưng (Khánh Hòa). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 30 - 36.
- QUANG VĂN CẬY, 1992. Kết quả khai quật di chỉ Xóm Còn lần thứ hai năm 1991. Những phát hiện mới về Khảo cổ học: 95 - 100.
- TRƯƠNG HOÀNG CHÂU, 1981. Mấy vấn đề về Văn hóa Sa Huỳnh. Báo cáo tại Hội nghị nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
- TRƯƠNG HOÀNG CHÂU, 1993. Khai quật di chỉ Gò Ốc và di chỉ Giồng Đồn (Phú Yên). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 1 - 24.
- VŨ QUỐC HIỀN, 1983. Di chỉ Xóm Cồn (Phú Khánh). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 39 - 44.
- VŨ QUỐC HIỀN, 1996. Văn hóa Xóm Cồn và vị trí của nó trong thời đại kim khí ven biển miền Trung. Luận án phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử.
- VŨ CÔNG QUÝ 1991. Văn hóa Sa Huỳnh. Nxb, Văn hóa Dân tộc.
- TRỊNH SINH VÀ NGUYỄN TRỌNG HIỀN 1979. Di chỉ Xóm Cồn (Phú Khánh). Những phát hiện mới về khảo cổ học: 150 - 152.
- NGUYỄN KHẮC SỬ, PHAN THANH TOÀN 2009. Di chỉ Vĩnh Yên trong hệ thống khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa. Khảo cổ học số 1: 12 - 24.
- TRẦN QUÍ THỊNH, NGUYỄN NGỌC QUÝ 2009. Di chỉ Văn Tứ Đông (Khanhs Hòa). Tư liệu qua khai quật năm 2006. Khảo cổ học số 1 :3 - 18.
- NGUYỄN DUY TỲ VÀ BÙI CHÍ HOÀNG 1980. Thám sát lại địa điểm Xóm Cồn (Phú Khánh). Những phát hiện mới về khảo cổ học: 147 - 150.
- TRẦN QUỐC VƯỢNG VÀ LÂM THỊ MỸ DUNG 1990. Báo cáo kết quả khảo sát khảo cổ học tại tỉnh Khánh Hòa. Những phát hiện mới về khảo cổ học: 209 - 211.
Nguồn
Web baotanglichsu
Văn hóa Xóm Cồn phát hiện và nghiên cứu muộn hơn nhóm di tích Long Thạnh và Bình Châu, nhưng lại được xác lập thành văn hóa khảo cổ riêng biệt.
Xung quanh nền văn hóa này có nhiều ý kiến thảo luận và một số ý kiến cho rằng Văn hóa Xóm Cồn không thuộc hệ thống Văn hóa Sa Huỳnh.
Nhưng chắc chắn có nhiều đóng góp vào hình thành Văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền 1996).
Sau khi nghiên cứu các di tích, di vật của Văn hóa Xóm Cồn, chúng tôi cho rằng nhiều yếu tố văn hóa của nền văn hóa này đóng góp trực tiếp vào hình thành và phát triển của Văn hóa Sa Huỳnh, đặc biệt là loại hình Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.
Như vậy có thể coi Văn hóa Xóm Cồn là Văn hóa tiền Sa Huỳnh, mà sự hình thành của nó có quan hệ chặt chẽ với vùng hội nhập Dak Lấp - Cầu Sắt.
Nay phát hiện 8 địa điểm thuộc Văn hóa Xóm Cồn. Các di tích này phân bố ở đồng bằng ven biển và đảo ven bờ hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Đây là những đồng bằng nhỏ hẹp, không tách biệt với vùng núi về mặt nguồn gốc phát sinh.
Cư dân Văn hóa Xóm Cồn tụ cư ở những cồn cát trên dải đồng bằng ven biển ấy, hoặc ở trên những hòn đảo không xa bờ.
Kết quả khai quật các di tích Văn hóa Xóm Cồn cho thấy tích tụ văn hóa dày từ 80cm - 110cm, bên trong có chứa vỏ các loài nhuyễn thể, xen lẫn cát phù sa và các di cốt động vật.
Đáng lưu ý là trong tích tụ tầng văn hóa không thấy nhiều vỏ điệp, phổ biến nhiều loại ốc như Ốc mặt trăng (Tuybo sp), Ốc tai tượng (Tridacna sp) và một số loài sò ốc khác.
Tích tụ văn hóa này là đặc trưng văn hóa riêng biệt so với các Văn hóa tiền Sa Huỳnh khác.
Nhưng lại là yếu tố văn hóa dễ nhận biết trong loại hình Sa Huỳnh khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.
Đặc trưng văn hóa nổi trội nhất của Văn hóa Xóm Cồn là những hiện vật xương và vỏ nhuyễn thể.
Theo thống kê của những người khai quật, 8 địa điểm văn hóa này đã phát hiện 84 công cụ lao động với vài mũi dùi, mũi lao làm bằng xương hoặc sừng.
Tuyệt đại đa số làm bằng vỏ nhuyễn thể bao gồm các loại hình như công cụ ghè đẽo, công cụ nạo và hòn ghè.
Bên cạnh đó còn có 18 mảnh vòng trang sức bằng vỏ Ốc tai tượng và một số lõi vòng bằng vỏ ốc.
Những hiện vật này phát hiện thấy từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn trong Văn hóa Xóm Cồn.
Điều đặc biệt là các hiện vật này cũng thấy xuất hiện trong địa tầng các di tích Văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ như di tích Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn và di tích Hòa Diêm ở gần vịnh Cam Ranh - Khánh Hòa.
Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á như ở cực Nam Nhật Bản, Đông Đài Loan, Bắc Philippines, Nam Thái Lan.
Bên cạnh những hiện vật bằng vỏ nhuyễn thể, Văn hóa Xóm Cồn còn có các di vật bằng đá, với đặc trưng nổi bật là độc tôn loại rìu, bôn, đục không có vai, phổ biến loại rìu bôn hình thang đốc thuôn nhỏ, mặt cắt ngang hình chữ nhật hoặc thấu kính.
Nét đặc trưng này mang nhiều dấu ấn công cụ đá nhóm di tích Dak Lấp - Cầu Sắt ở khu vực Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ.
Đồ gốm trong Văn hóa Xóm Cồn phổ biến loại hình nồi đáy tròn miệng loe, tạo bởi kỹ thuật nặn tay kết hợp bàn đập - hòn kê.
Trang trí trên đồ gốm chủ yếu văn chải, khắc vạch, in chấm, tô màu.
Loại văn in chấm kiểu zích zắc cũng là nét đặc trưng của hoa văn gốm trong Văn hóa Xóm Cồn.
Loại hoa văn này xuất hiện trong một số loại hình gốm ở di chỉ Lộc Giang (Long An), di chỉ Lung Leng (Tây Nguyên) và ở di chỉ Sam-rông-sen (Cam-pu-chia).
Một loại hoa văn gốm nữa là văn vẽ màu trên nền áo đỏ hoặc da cam với những đường xoắn ốc, gần tương tự hoa văn gốm Ban Chiang.
Điều ghi nhận nữa là ngoài các kiểu dạng nồi gốm, Văn hóa Xóm Cồn còn có một số loại hình bát và đĩa mâm bồng có tô màu đỏ.
Những loại hình đồ gốm này có nhiều nét gần gũi với đồ gốm Sa Huỳnh giai đoạn sớm.
Sự đóng góp của cư dân Văn hóa Xóm Cồn vào quá trình hình thành Văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ là phương thức sống khai thác biển, sử dụng vỏ nhuyễn thể làm công cụ lao động và đồ trang sức.
Những chứng cứ này có thể tìm thấy trong tầng văn hóa các di tích Văn hóa Sa Huỳnh Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn, hay ở di tích Hòa Diêm (Khánh Hòa), đã tạo nét độc đáo, đa dạng cho Văn hóa Sa Huỳnh.
Đồng thời, trong lớp sớm nhất tầng văn hóa di chỉ Xóm Ốc, bên cạnh những hiện vật đặc trưng Long Thạnh đã tồn tại công cụ nạo bằng vảy Ốc mặt trăng, công cụ ghè đẽo bằng vỏ Ốc tai tượng và đồ gốm trang trí văn zích zắc đặc trưng của Văn hóa Xóm Cồn.
Như vậy, Văn hóa Xóm Cồn không phải đóng góp gián tiếp, mà là một trong những nguồn đóng góp trực tiếp vào hình thành và phát triển của Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam.
(Tác giả: Phạm Thị Ninh)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Nguồn:
Web khaocohoc
Khái quát về văn hóa tiền sử và sơ sử Khánh Hòa
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu khoa học ở Trung ương, khảo cổ học ở Khánh Hòa thu được những thành tựu to lớn trong nghiên cứu về giai đoạn tiền sử và sơ sử.
Về cơ bản diễn trình phát triển văn hóa tiền - sơ sử ở Khánh Hòa được biểu hiện qua hai giai đoạn chủ yếu:
Giai đoạn Văn hóa Xóm Cồn và giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh.
Giai đoạn Xóm Cồn (hay Văn hóa tiền Sa Huỳnh ở Khánh Hòa)
Xóm Cồn là một địa điểm thuộc phường Cam Linh, thị xã Cam Ranh.
Di chỉ Xóm Cồn khai quật lần thứ nhất năm 1980 với diện tích 79m2, lần hai năm 1992 với diện tích 92, 75m2.
Hiện vật thu trong các hố khai quật rất phong phú với các công cụ đá (rìu, bôn, công cụ chặt, bàn mài, hòn kê, hòn ghè và mũi khoan), rất nhiều đồ gốm, các loại xương thú, vỏ các loài nhuyễn thể biển ken dày giữa các tầng văn hóa dày trung bình từ 0, 9 - 1, 5m.
Phân tích bào tử phấn hoa trong hố khai quật di chỉ Xóm Cồn, Trần Đình Nhân cho rằng ở đây rất ít bào tử phấn các loại cây ngập mặn.
Chủ yếu là phấn các loài cây họ đậu, niên đại Holocene giữa (Trần Đình Nhân 1993, tr. 120).
Tàn tích động vật tìm được ở Xóm Cồn có trai biển, ốc biển, các động vật có xương sống như cá, rùa, hươu, nai, hoẵng, lợn, trâu bò rừng, cheo cheo, tê giác; đặc biệt có bò nhà (Bosdom) (Vũ Thế Long 1993, tr. 103).
1993, di chỉ Bích Đầm trên đảo Hòn Tre thuộc phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang đã khai quật với diện tích 186m2.
Tầng văn hóa dày 50 - 70cm, cấu tạo từ cát phù sa biển lẫn vỏ nhuyễn thể biển.
Kết quả thu được 81 hiện vật đá, các mũi nhọn làm bằng xương thú và gạc nai, các lõi vòng trang sức từ Ốc tai tượng.
Đồ gốm ở đây chủ yếu là đồ đựng đáy tròn, thân hình cầu dẹt, vai khum ốc tròn hoặc hơi xuôi, miệng loe; một số ít là đồ đựng có chân đế dạng bát bồng hoặc loại hình đồ đựng khác.
Trên các đồ gốm, ngoài văn chải chiếm tuyệt đối, có mặt một số văn thừng biến thể; một số đồ gốm được tô, vẽ màu trước khi nung.
Trên cơ sở đó, các nhà khoa học xác lập văn hóa khảo cổ mang tên:
Văn hóa Xóm Cồn (Nguyễn Công Bằng, Trịnh Căn, Quang Văn Cậy, Vũ Quốc Hiền, Phạm Văn Hoàn và Ngô Thế Phong 1993. Tr. 77).
Như vậy, Văn hóa Xóm Cồn là văn hóa biển tiêu biểu, cầu nối các văn hóa đương thời ở lưu vực sông Đồng Nai với khu vực miền Trung và Tây Nguyên:
Một trong những nguồn hợp tạo dựng văn minh Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ và đây là văn hóa khảo cổ riêng biệt không thể lẫn với bất cứ văn hóa tiền sử nào đã biết đến ở Việt Nam.
Văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hòa
Di chỉ Hòa Diêm
Di chỉ Hòa Diêm thuộc xã Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh, sát bờ biển (cách di chỉ Xóm Cồn khoảng 5km về phía Nam) khai quật 4-1998.
Đây là di chỉ có diện phân bố khá rộng, trong thung lũng khoảng hơn 10.000m2, với những dải cát trải dài theo hướng Đông - Tây, kéo dài vào sát chân núi.
Diện tích 5 hố khai quật (50m2) thu trên 3.000 tiêu bản, chủ yếu đồ gốm.
Đồ gốm ở đây phản ánh nhiều giai đoạn cư trú của cư dân cổ. Đáng chú ý có mặt gốm kiểu Xóm Cồn nằm cạnh gốm Sa Huỳnh.
Rìu đá hầu như vắng mặt (1 tiêu bản), chỉ thu được một số bàn mài có kích thước nhỏ.
Có mặt 6 dọi xe chỉ được làm từ xương, 7 mảnh vòng tay làm từ Ốc tai tượng, 1 vòng làm từ đồ gốm.
Cùng 20 lõi vòng trang sức làm từ vỏ nhuyễn thể biển với những dấu vết khoan cắt rất rõ ràng và mài đều theo hình bán nguyệt (mặt ngoài).
Hố 2 phát hiện ra mộ bằng gốm, bên trong là hài cốt đã cải táng.
Các đặc điểm trên sọ, răng và xương chi thể hiện là cá thể nam có nhiều nét đại chủng Mongoloid (Nguyễn Lân Cường 2000, tr. 128).
Một số loại tô có chân đế chôn theo bên ngoài mộ (đồ tùy táng) có hình dáng đẹp và dưới phần chân đế đục lỗ tròn theo hình tam giác cân và được bố trí thành 3 cụm có khoảng cách đều nhau.
Nhìn chung, gốm ở Hòa Diêm thô, dày, cứng, xương đen, mặt ngoài miết láng, miệng trang trí văn in ấn lỗ, đáy bằng, thân và đáy trang trí văn chải là gốm đặc trưng nhất của Hòa Diêm.
So với Xóm Cồn, gốm Hòa Diêm kém phong phú về chất liệu, song về mô típ hoa văn cũng như kiểu miệng có phần đa dạng hơn và một số chưa thấy xuất hiện trong đồ gốm Xóm Cồn.
4-2002, các nhà khoa học tiến hành khảo sát lại di chỉ Hòa Diêm và mở 3 hố thám sát với diện tích 15m2, phát hiện 2 mộ nồi loại nhỏ.
Trong mộ tìm thấy 1 nồi gốm minh khí miệng loe, cổ thắt, thân phình, đáy bằng.
Có 1 chiếc rìu đồng đặt trong nồi gốm mộ hố 2 thuộc loại rìu lưỡi xòe cân có họng tra cán. Ngoài ra còn thu đồ đá có 54 tiêu bản gồm các loại hình:
Hòn kê, bàn mài, hòn nghiền làm từ cuội sông, trong đó có 2 rìu tứ giác và 1 bàn đập gốm.
Từ những kết quả thu được tại Hòa Diêm cho thấy đây là di chỉ cư trú xen lẫn mộ táng.
Những đặc điểm về di vật ở đây phản ánh tiếp nối văn hóa với một số truyền thống từ Xóm Cồn trong phát triển lên giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh sau này ở Khánh Hòa.
Niên đại di chỉ Hòa Diêm khoảng 2.000 đến 2.500 năm cách ngày nay là bộ phận cấu thành Văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hòa.
Di chỉ mộ chum Diên Sơn
1988, khu mộ chum tại xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh được phát hiện.
Tìm hiểu quanh chum này, các nhà khoa học nhận thấy có ít nhất 4 chiếc (3 chiếc bị vỡ, 1 chiếc còn nguyên vẹn), xử lý tốt, mang về Bảo tàng tỉnh.
1994, tìm thêm được 1 chiếc nữa trong tình trạng bảo quản rất tốt, ở cách địa điểm tìm thấy chum trên khoảng 2m về phía Bắc.
Chum có hình dáng thuôn, vai đứng, miệng loe ngang, đáy tròn hình trứng, cao 82cm, miệng rộng 64cm, thân rộng (quãng giữa) 46cm.
Chum có màu đỏ nhạt, không có hoa văn trang trí, xương gốm rất mỏng, thể hiện kỹ thuật chế tác cao. Bên trong chum chỉ thấy ít than tro màu đen, có khả năng là bộ hài cốt đã hỏa táng.
Bên ngoài, bám quanh chum có 4 nồi bằng gốm, loại nhỏ, đều bằng nhau có màu xám đen, không có hoa văn trang trí. Niên đại của 2 mộ chum này khoảng 2.000 năm trước.
Một số di vật tiêu biểu khác
Đàn đá Khánh Sơn
Phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn ở Khánh Hòa 2-1979 bước đầu khẳng định về tồn tại loại hình nhạc cụ cổ bằng đá và từ đó mở đầu cho quá trình nghiên cứu về đàn đá ở Khánh Hòa nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu âm nhạc, đến 1987, tổng số thanh đàn đá tìm được tại Dốc Gạo lên đến 172 thanh các loại.
Hố thám sát khảo cổ học còn thu 550 mảnh tước tách ra trong quá trình chế tác đàn đá.
Sau phát hiện đàn đá ở Khánh Sơn, những năm tiếp theo tìm thấy đàn đá ở một số tỉnh khác như Đồng Nai, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Phú Yên..
Nhưng Khánh Sơn nổi lên như cái nôi phong phú bậc nhất, công xưởng khổng lồ chế tạo đàn đá thời sơ sử ở Việt Nam được biết đến hôm nay.
Trống đồng Nha Trang
Nay, tại TP. Nha Trang tìm thấy 2 trống đồng khá nguyên vẹn. Chiếc thứ nhất tìm được 26-10-1983 tại số nhà 36/9 đường Đồng Nai, phường Phước Hải.
Chiếc thứ 2 tìm được 4-12-2000 tại số nhà 6A đường Hương Điền, phường Phước Hải. Các nhà khảo cổ học đặt tên là trống Nha Trang I và trống Nha Trang II.
Trống Nha Trang I tìm thấy ở độ sâu khoảng 0, 70m trong tư thế chôn ngửa.
Bên trong có một số mảnh gốm màu đen thuộc Văn hóa Sa Huỳnh. Trống có kích thước: Đường kính mặt 52cm, cao 42m, đường kính chân 57cm.
Trống có những hoa văn trang trí, giữa mặt trống có hình sao 12 cánh đúc nổi, xen giữa các cánh là hoa văn hình lông công cách điệu.
Các hình hoa văn hình học là gạch ngắn song song, vòng tròn chấm giữa, hồi văn gấp khúc. Vành chủ đạo trên mặt trống là hoa văn hình 6 chim Lạc bay ngược chiều kim đồng hồ.
Thân trống trang trí hoa văn hình học đơn giản:
Các cột hoa văn gạch ngắn song song ở lưng trống, băng hoa văn vòng tròn chấm giữa, gạch ngắn song song ở phần tang trống và phần dưới của lưng trống. Hai bên thân trống có hai đôi quai kép tết hình bông lúa.
Trống Nha Trang II tìm thấy ở độ sâu 1, 5m trong tư thế chôn úp xuống, cao 50cm, đường kính mặt trống là 62cm, đường kính chân trống là 67, 5m.
Trong trống Nha Trang II có một số di vật được chôn theo 1 nồi nhỏ bằng gốm, 3 viên gốm làm bằng đất nung hình trụ dẹt, 1 vật hình đầu chim bằng đồng, 1 cuốc sắt, 1 đục sắt và 3 kiếm sắt.
Trống được trang trí các vành hoa văn như sau:
Giữa mặt trống có hình sao nổi 10 cánh, giữa các cánh sao là các hoa văn gạch ngắn song song. Từ trong ra còn có những hoa văn ở vành 1, 4, 7 và 9 là gạch ngắn song song.
Vành 2, 3, 8 là vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến; vành 5 là hoa văn zích zắc hình gần giống ô trám.
Xen giữa các hoa văn này lại có hoa văn hình vòng tròn; vành 6 là hoa văn hình 8 chim mỏ dài, cánh xòe rộng đang bay.
Tang trống trang trí loại hoa văn gạch ngắn, vòng tròn có tiếp tuyến, không thấy hoa văn hình thuyền.
Lưng trống có hoa văn gạch ngắn song song, vòng tròn tiếp tuyến nhưng rất mờ.
Trống có hai đôi quai kép đúc hai bên thân. Trống đúc bằng khuôn hai mang, vết nối mang khuôn còn rõ.
Có thể đây là 2 trống đồng thuộc nền Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, rất giống những trống Đông Sơn tìm được ở:
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta như trống Lũng Xuyên, Thọ Vực, Vĩnh Ninh, Hà Nội.. chế tạo tại vùng Bắc Bộ hoặc Bắc Trung Bộ sau đó đem vào khu vực Khánh Hòa qua những đường khác nhau.
Đó là đường tán phát của trống đồng theo đường ven biển, mà Khánh Hòa là một chặng đường.
Có mặt trống đồng Nha Trang I và Nha Trang II làm diện mạo thời đại kim khí ở Khánh Hòa càng thêm phong phú. Niên đại 2 trống này khoảng 2.000 năm cách ngày nay.
Nay khảo cổ học tiền sử và sơ sử Khánh Hòa từng bước nghiên cứu và trên cơ sở đó có thể xác lập diễn trình phát triển của một vùng đất vào buổi bình minh của loài người.
Hệ thống di tích, di vật ở đây cho thấy, dù mang tính địa phương rõ nét song các văn hóa cổ ở Khánh Hòa vẫn nằm trong dòng chảy chung của các nền văn hóa lớn ở Việt Nam và khu vực, mang đậm sắc thái văn hóa núi rừng, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển - đảo.
Những thành tựu về văn hóa, văn minh mà các nhóm cư dân cổ ở đây đã đạt được qua hàng ngàn năm sẽ tiếp nối ở các giai đoạn sau cao hơn và đó là những đóng góp chung cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam đa dạng, phong phú.
Chính phát hiện di chỉ Xóm Cồn của Nguyễn Trọng Hiền, lúc đó là cán bộ Bảo tàng huyện Cam Ranh (năm 1978) và trợ giúp nhiệt tình của ông đã thu hút quan tâm của:
Cán bộ Viện Khảo cổ, Ban Khảo cổ thuộc Viện Khoa học Xã hội TP. HCM, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tới tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Sau nhiều đợt khảo sát, 9-1980, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Khánh (cũ) khai quật di chỉ Xóm Cồn lần thứ nhất với diện tích 79m2.
Đây là khai quật đầu tiên đặt cơ sở quan trọng trong nghiên cứu Văn hóa Xón Cồn cũng như khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Tròn 30 năm từ khai quật đầu tiên, bùi ngùi nhìn lại, chúng ta tưởng nhớ tới các nhà Khảo cổ học dành nhiều thời gian, tâm huyết cho khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Giáo sư Trần Quốc Vượng, ông Nguyễn Trọng Hiền, Tiến sĩ Quang Văn Cậy, Họa sĩ Trịnh Căn, nhà khảo cổ học Trương Hoàng Châu, Tiến sĩ Nguyễn Công Bằng.
2. Các tác giả tham gia khảo sát và khai quật Xóm Cồn đưa nhiều ý kiến khác nhau khi nghiên cứu di chỉ quan trọng này.
Trịnh Sinh và Nguyễn Trọng Hiền xếp Xóm Cồn vào Văn hóa Sa Huỳnh, nhưng lưu ý tới gần gũi về đồ đá giữa nó với các di tích ở Thuận Hải, và đồ gốm với các Văn hóa Hạ Long, Hoa Lộc.
Đặc biệt, tác giả lưu ý tới tầng văn hóa dưới có thể giúp chúng ta tìm hiểu một số vấn đề về các giai đoạn văn hóa sớm trước Văn hóa Sa Huỳnh cổ điển ở vùng này (Trịnh Sinh và Nguyễn Trọng Hiền, 1979).
Trương Hoàng Châu xếp Xóm Cồn thuộc giai đoạn đầu của Văn hóa Sa Huỳnh (Trương Hoàng Châu, 1981).
Nguyễn Duy Tỳ và Bùi Chí Hoàng khẳng định Xóm Cồn là di tích cư trú đầu tiên tìm thấy ở ven biển miền Trung có tính chất giống các cồn sò điệp:
Quỳnh Văn, Quỳnh Hồng, Gò Long Bắc (Nghệ Tĩnh), có niên đại chuyển tiếp từ hậu kỳ đá mới sang sơ kỳ kim khí, khoảng 3.500 - 4.500 năm cách ngày nay (Nguyễn Duy Tỳ, Bùi Chí Hoàng, 1980).
Vũ Công Quý xếp Xóm Cồn vào giai đoạn Sa Huỳnh sơ kỳ của loại hình Phú Khánh - Thuận Hải - Đồng Nai và đặt tên giai đoạn này là Xóm Cồn – Hòa Vinh (Vũ Công Quý, 1991).
Kết quả khai quật năm 1980, chúng tôi coi Xóm Cồn là di tích thuộc sơ kỳ thời đồng thau, tồn tại khoảng thiên niên kỷ II TCN, nhưng khác các tác giả kể trên, chúng tôi coi Xóm Cồn là di tích nằm ngoài hệ thống Văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền, 1983).
Tình hình tư liệu và quan niệm về Văn hóa Sa Huỳnh còn rất hạn chế của những năm 80 thế kỷ XX, những ý kiến đánh giá khác nhau quanh địa điểm Xóm Cồn là điều bình thường và dễ hiểu.
Chính những nhận định khác nhau của nhiều nhà nghiên cứu về Xóm Cồn, một di tích có tầng văn hóa dày hiếm hoi ở Miền Trung:
Niên đại sớm liên quan nguồn gốc Văn hóa Sa Huỳnh là một trong những yếu tố thúc đẩy Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh lần thứ nhất 1981.
Hội thảo này, dù còn có những ý kiến khác nhau nhưng đa số các nhà nghiên cứu tán thành quan niệm:
Văn hóa Sa Huỳnh chỉ tồn tại trong thời đại sắt sớm của Giáo sư Hà Văn Tấn (Hà Văn Tấn, 1983). Chúng tôi cũng định hướng tiếp tục nghiên cứu Xóm Cồn theo quan niệm này.
3. Từ 1988, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin Phú Khánh thực hiện chương trình nghiên cứu dài hạn khảo cổ học tiền - sơ sử trên địa bàn tỉnh.
1989, Phú Khánh tách thành tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, chương trình vẫn tiếp tục trên cả địa bàn hai tỉnh mới.
Ngót chục địa điểm khảo cổ học tiền - sơ sử được phát hiện trong các đợt khảo sát dọc theo các huyện, thị ven biển Phú Yên, Khánh Hòa từ đèo Cù Mông tới vịnh Cam Ranh (Nguyễn Công Bằng và Quang Văn Cậy, 1988).
Qua điều tra, thám sát sơ bộ phát hiện nhiều địa điểm có niên đại và tính chất tương đồng với di chỉ Xóm Cồn.
Nhiều di tích trong số này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp Sở Văn hóa - Thông tin Phú Yên, Khánh Hòa tổ chức khai quật, nghiên cứu.
Năm 1990 là địa điểm Bình Hưng trên đảo cùng tên thuộc xã Cam Bình, huyện Cam Ranh (Quang Văn Cậy, 1991).
Di chỉ Xóm Cồn khai quật lần 2 năm 1991 (Quang Văn Cậy, 1992), cùng năm, di chỉ Gò Ốc và Giồng Đồn thuộc xã Xuân Lộc, huyện Sông Cầu tỉnh Phú Yên cũng được khai quật (Trương Hoàng Châu, 1993).
1993, di chỉ Bích Đầm trên đảo Hòn Tre, TP. Nha Trang được khai quật. Trên đảo Hòn Tre, đoàn khảo sát của Giáo sư Trần Quốc Vượng và Tiến sĩ Lâm Thị Mỹ Dung phát hiện hai địa điểm Bãi Trủ và Đầm Già (Trần Quốc Vượng và Lâm Thị Mỹ Dung, 1990)..
Sau nhiều năm kiên trì khảo sát, khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa, Phú Yên, khoa Sử - Đại học Tổng hợp Hà Nội phát hiện một hệ thống di tích tiền sử phân bổ:
Ven biển Phú Yên, Khành Hòa, trải dài trên 200km từ vũng Cù Mông tới vịnh Cam Ranh.
Hệ thống di tích này bước đầu xác định 8 di tích:
Xóm Cồn, Bình Hưng, Bình Ba, Bích Đầm, Bãi Trủ, Đầm Già (Khánh Hòa), Gò Ốc, Giồng Đồn (Phú Yên).
Các di tích này có môi trường sinh thái, đặc trưng gốm và công cụ giống nhau.. đủ để xác lập văn hóa khảo cổ mới tồn tại trước Văn hóa Sa Huỳnh, đó là Văn hóa Xóm Cồn.
Thuật ngữ Văn hóa Xóm Cồn sử dụng lần đầu để đặt tên cho chuyên khảo nhan đề:
Văn hóa Xóm Cồn với tiền và sơ sử Khánh Hòa do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa ấn hành năm 1993 (Nguyễn Công Bằng và NNK, 1993).
Nội dung và các mối quan hệ của Văn hóa Xóm Cồn cũng được làm rõ hơn trong Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử của Vũ Quốc Hiền năm 1996 (Vũ Quốc Hiền, 1996).
4. Văn hóa Xóm Cồn được xác lập với những đặc trưng cơ bản sau:
- Dù phân bố ở đất liền hay các đảo ven bờ, cư dân Văn hóa Xóm Cồn đều chọn địa điểm là các cồn cát gần mép nước biển làm nơi cư trú.
Biển mà các cư dân Văn hóa Xóm Cồn hướng ra đều là biển kín hay đúng hơn là vũng, vịnh biển. Gắn với những vũng, vịnh này là hệ thống rừng núi liền kề.
Hệ thống rừng núi này vừa là bình phong tự nhiên che chắn gió bão, vừa là môi sinh lý tưởng đối với cư dân Xóm Cồn.
- Ngoại trừ di chỉ Bình Ba vừa có tính chất cư trú, vừa có tính chất mộ táng, các di chỉ khác thuộc Văn hóa Xóm Cồn đến nay đều là di chỉ cư trú trên các cồn cát ven biển.
Trong tầng văn hóa của các di chỉ Văn hóa Xóm Cồn đều tích tụ một khối lượng nhất định vỏ nhuyễn thể biển.
Sự tích tụ này khác nhau giữa các di tích và không đồng nhất ngay trong cùng một di chỉ.
Có hai loài nhuyễn thể khác đặc trưng, trong các di chỉ thuộc thời đại kim khí ở Việt Nam cho tới nay (1996) mới thấy phổ biến trong tầng Văn hóa Xóm Cồn là Ốc tai tượng (Tridacna sp) và Ốc mặt trăng (Turbo sp).
- Cư dân Văn hóa Xóm Cồn khai thác nguyên liệu đá tại chỗ để chế tác công cụ, đó là loại đá trầm tích biến chất và cuội sông, biển.
Kỹ thuật chủ yếu mà người Xóm Cồn sử dụng để chế tác đồ đá là ghè, đẽo và mài, họ cũng khá thuần thục với kỹ thuật cưa, khoan trong việc chế tác đồ trang sức.
Đặc trưng nổi bật trong sưu tập đồ đá Văn hóa Xóm Cồn là độc tôn của rìu không có vai và sự hiếm hoi của đồ trang sức.
Sự bảo lưu công cụ đá ghè đẽo kiểu Hòa Bình và ưa sử dụng rìu hình thang đốc thu nhỏ, lưỡi xòe cân là đặc điểm đáng lưu ý của cư dân Văn hóa Xóm Cồn.
- Xương động vật và vỏ các loài nhuyễn thể biển rất được người Xóm Cồn chú ý khai thác và thành một trong những nguồn nguyên liệu chính để chế tác công cụ và đồ trang sức.
Người cổ Xóm Cồn đưa kỹ thuật chế tác đá vào chế tác vỏ nhuyễn thể, với một số loại hình lần đầu tiên được tìm thấy ở Việt Nam như công cụ ghè đẽo, lõi vòng từ Ốc tai tượng.
Đặc biệt là công cụ vảy ốc, có thể xem đó như là đặc trưng cơ bản của Văn hóa Xóm Cồn.
- Đa số đồ gốm Xóm Cồn thuộc loại gốm thô vừa phải, xương ít cát thô và vỏ nhuyễn thể, chủ yếu nặn bằng tay.
Loại hình đồ gốm khá đơn giản với hai loại chính là đồ đựng miệng loe không chân đế và đồ đựng có chân đế dạng bát bồng hay cốc chân cao với các loại miệng khá đơn giản.
Nét đặc trưng Văn hóa Xóm Cồn thể hiện rõ trên hoa văn trang trí gốm:
Gốm văn chải chiếm gần như tuyệt đối và chủ yếu gắn với các loại đồ đựng miệng loe không chân đế, hoa văn in chấm với các đồ án độc lập; gốm tô màu và vẽ màu.
Tới hôm nay, cơ bản Văn hóa Xóm Cồn được thừa nhận là văn hóa khảo cổ trước Sa Huỳnh, có nhà nghiên cứu còn cho nó là Văn hóa tiền Sa Huỳnh.
Dù quan niệm thế nào chúng ta cũng thấy nhiều yếu tố của Văn hóa Xóm Cồn còn bảo lưu rõ nét trong Văn hóa Sa Huỳnh.
Đó là kỹ thuật hoa văn in chấm, tô màu trên gốm.. cùng phương thức sống gắn liền với nguồn lực của cả biển và rừng..
4. Hơn 1 thập niên gần đây, khảo cổ học Tiền - sơ sử Khánh Hòa nhiều phát hiện thuộc những giai đoạn khác nhau như Hòa Diêm (Nguyễn Công Bằng, 2005), Văn Tư Đông (Trần Quý Thịnh, Nguyễn Ngọc Quý, 2009), Vĩnh Yên (Nguyễn Khắc Sử, Phan Thanh Toàn, 2009)..
Đó là những phát hiện quan trọng đối với khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa.
Tuy không được trực tiếp nghiên cứu nhưng qua các tài liệu công bố, tôi thấy ít nhiều chúng đều có liên quan tới các yếu tố thuộc Văn hóa Xóm Cồn.
Xác lập Văn hóa Xóm Cồn là dấu mốc quan trọng trong nghiên cứu tiền - sơ sử Khánh Hòa, việc tiếp tục nghiên cứu nó trong mối liên hệ tổng thể, đa chiều với những di tích khảo cổ khác ở Khánh Hòa cũng như khu vực miền Trung, theo tôi, vẫn rất hữu ích.
TS. Vũ Quốc Hiền
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Tài liệu dẫn:
- NGUYỄN CÔNG BẰNG 2005. Di tích Hòa Diêm, Khánh Hòa nhìn từ Văn hóa Đồng Nai, Khảo cổ học số 4: 48 - 54.
- NGUYỄN CÔNG BẰNG VÀ QUANG VĂN CẬY, 1998. Những phát hiện mới về Khảo cổ học: 57 -58.
- NGUYỄN CÔNG BẰNG, TRỊNH CĂN, QUANG VĂN CẬY, VŨ QUỐC HIỀN, PHẠM VĂN HOÁN, NGÔ THẾ PHONG, 1993.
Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Sở Văn hóa - Thông tin Khánh Hòa, Nha Trang.
- QUANG VĂN CẬY, 1991. Di chỉ Bình Hưng (Khánh Hòa). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 30 - 36.
- QUANG VĂN CẬY, 1992. Kết quả khai quật di chỉ Xóm Còn lần thứ hai năm 1991. Những phát hiện mới về Khảo cổ học: 95 - 100.
- TRƯƠNG HOÀNG CHÂU, 1981. Mấy vấn đề về Văn hóa Sa Huỳnh. Báo cáo tại Hội nghị nghiên cứu Văn hóa Sa Huỳnh, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
- TRƯƠNG HOÀNG CHÂU, 1993. Khai quật di chỉ Gò Ốc và di chỉ Giồng Đồn (Phú Yên). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 1 - 24.
- VŨ QUỐC HIỀN, 1983. Di chỉ Xóm Cồn (Phú Khánh). Thông báo khoa học, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: 39 - 44.
- VŨ QUỐC HIỀN, 1996. Văn hóa Xóm Cồn và vị trí của nó trong thời đại kim khí ven biển miền Trung. Luận án phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử.
- VŨ CÔNG QUÝ 1991. Văn hóa Sa Huỳnh. Nxb, Văn hóa Dân tộc.
- TRỊNH SINH VÀ NGUYỄN TRỌNG HIỀN 1979. Di chỉ Xóm Cồn (Phú Khánh). Những phát hiện mới về khảo cổ học: 150 - 152.
- NGUYỄN KHẮC SỬ, PHAN THANH TOÀN 2009. Di chỉ Vĩnh Yên trong hệ thống khảo cổ học tiền - sơ sử Khánh Hòa. Khảo cổ học số 1: 12 - 24.
- TRẦN QUÍ THỊNH, NGUYỄN NGỌC QUÝ 2009. Di chỉ Văn Tứ Đông (Khanhs Hòa). Tư liệu qua khai quật năm 2006. Khảo cổ học số 1 :3 - 18.
- NGUYỄN DUY TỲ VÀ BÙI CHÍ HOÀNG 1980. Thám sát lại địa điểm Xóm Cồn (Phú Khánh). Những phát hiện mới về khảo cổ học: 147 - 150.
- TRẦN QUỐC VƯỢNG VÀ LÂM THỊ MỸ DUNG 1990. Báo cáo kết quả khảo sát khảo cổ học tại tỉnh Khánh Hòa. Những phát hiện mới về khảo cổ học: 209 - 211.
Nguồn
Web baotanglichsu
Văn hóa Xóm Cồn phát hiện và nghiên cứu muộn hơn nhóm di tích Long Thạnh và Bình Châu, nhưng lại được xác lập thành văn hóa khảo cổ riêng biệt.
Xung quanh nền văn hóa này có nhiều ý kiến thảo luận và một số ý kiến cho rằng Văn hóa Xóm Cồn không thuộc hệ thống Văn hóa Sa Huỳnh.
Nhưng chắc chắn có nhiều đóng góp vào hình thành Văn hóa Sa Huỳnh (Vũ Quốc Hiền 1996).
Sau khi nghiên cứu các di tích, di vật của Văn hóa Xóm Cồn, chúng tôi cho rằng nhiều yếu tố văn hóa của nền văn hóa này đóng góp trực tiếp vào hình thành và phát triển của Văn hóa Sa Huỳnh, đặc biệt là loại hình Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.
Như vậy có thể coi Văn hóa Xóm Cồn là Văn hóa tiền Sa Huỳnh, mà sự hình thành của nó có quan hệ chặt chẽ với vùng hội nhập Dak Lấp - Cầu Sắt.
Nay phát hiện 8 địa điểm thuộc Văn hóa Xóm Cồn. Các di tích này phân bố ở đồng bằng ven biển và đảo ven bờ hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Đây là những đồng bằng nhỏ hẹp, không tách biệt với vùng núi về mặt nguồn gốc phát sinh.
Cư dân Văn hóa Xóm Cồn tụ cư ở những cồn cát trên dải đồng bằng ven biển ấy, hoặc ở trên những hòn đảo không xa bờ.
Kết quả khai quật các di tích Văn hóa Xóm Cồn cho thấy tích tụ văn hóa dày từ 80cm - 110cm, bên trong có chứa vỏ các loài nhuyễn thể, xen lẫn cát phù sa và các di cốt động vật.
Đáng lưu ý là trong tích tụ tầng văn hóa không thấy nhiều vỏ điệp, phổ biến nhiều loại ốc như Ốc mặt trăng (Tuybo sp), Ốc tai tượng (Tridacna sp) và một số loài sò ốc khác.
Tích tụ văn hóa này là đặc trưng văn hóa riêng biệt so với các Văn hóa tiền Sa Huỳnh khác.
Nhưng lại là yếu tố văn hóa dễ nhận biết trong loại hình Sa Huỳnh khu vực đảo ven bờ Nam Trung Bộ.
Đặc trưng văn hóa nổi trội nhất của Văn hóa Xóm Cồn là những hiện vật xương và vỏ nhuyễn thể.
Theo thống kê của những người khai quật, 8 địa điểm văn hóa này đã phát hiện 84 công cụ lao động với vài mũi dùi, mũi lao làm bằng xương hoặc sừng.
Tuyệt đại đa số làm bằng vỏ nhuyễn thể bao gồm các loại hình như công cụ ghè đẽo, công cụ nạo và hòn ghè.
Bên cạnh đó còn có 18 mảnh vòng trang sức bằng vỏ Ốc tai tượng và một số lõi vòng bằng vỏ ốc.
Những hiện vật này phát hiện thấy từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn trong Văn hóa Xóm Cồn.
Điều đặc biệt là các hiện vật này cũng thấy xuất hiện trong địa tầng các di tích Văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ như di tích Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn và di tích Hòa Diêm ở gần vịnh Cam Ranh - Khánh Hòa.
Ngoài ra còn thấy xuất hiện ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á như ở cực Nam Nhật Bản, Đông Đài Loan, Bắc Philippines, Nam Thái Lan.
Bên cạnh những hiện vật bằng vỏ nhuyễn thể, Văn hóa Xóm Cồn còn có các di vật bằng đá, với đặc trưng nổi bật là độc tôn loại rìu, bôn, đục không có vai, phổ biến loại rìu bôn hình thang đốc thuôn nhỏ, mặt cắt ngang hình chữ nhật hoặc thấu kính.
Nét đặc trưng này mang nhiều dấu ấn công cụ đá nhóm di tích Dak Lấp - Cầu Sắt ở khu vực Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ.
Đồ gốm trong Văn hóa Xóm Cồn phổ biến loại hình nồi đáy tròn miệng loe, tạo bởi kỹ thuật nặn tay kết hợp bàn đập - hòn kê.
Trang trí trên đồ gốm chủ yếu văn chải, khắc vạch, in chấm, tô màu.
Loại văn in chấm kiểu zích zắc cũng là nét đặc trưng của hoa văn gốm trong Văn hóa Xóm Cồn.
Loại hoa văn này xuất hiện trong một số loại hình gốm ở di chỉ Lộc Giang (Long An), di chỉ Lung Leng (Tây Nguyên) và ở di chỉ Sam-rông-sen (Cam-pu-chia).
Một loại hoa văn gốm nữa là văn vẽ màu trên nền áo đỏ hoặc da cam với những đường xoắn ốc, gần tương tự hoa văn gốm Ban Chiang.
Điều ghi nhận nữa là ngoài các kiểu dạng nồi gốm, Văn hóa Xóm Cồn còn có một số loại hình bát và đĩa mâm bồng có tô màu đỏ.
Những loại hình đồ gốm này có nhiều nét gần gũi với đồ gốm Sa Huỳnh giai đoạn sớm.
Sự đóng góp của cư dân Văn hóa Xóm Cồn vào quá trình hình thành Văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực đảo ven bờ là phương thức sống khai thác biển, sử dụng vỏ nhuyễn thể làm công cụ lao động và đồ trang sức.
Những chứng cứ này có thể tìm thấy trong tầng văn hóa các di tích Văn hóa Sa Huỳnh Xóm Ốc, Suối Chình trên đảo Lý Sơn, hay ở di tích Hòa Diêm (Khánh Hòa), đã tạo nét độc đáo, đa dạng cho Văn hóa Sa Huỳnh.
Đồng thời, trong lớp sớm nhất tầng văn hóa di chỉ Xóm Ốc, bên cạnh những hiện vật đặc trưng Long Thạnh đã tồn tại công cụ nạo bằng vảy Ốc mặt trăng, công cụ ghè đẽo bằng vỏ Ốc tai tượng và đồ gốm trang trí văn zích zắc đặc trưng của Văn hóa Xóm Cồn.
Như vậy, Văn hóa Xóm Cồn không phải đóng góp gián tiếp, mà là một trong những nguồn đóng góp trực tiếp vào hình thành và phát triển của Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam.
(Tác giả: Phạm Thị Ninh)
(Nguồn: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2013)
Nguồn:
Web khaocohoc
Khái quát về văn hóa tiền sử và sơ sử Khánh Hòa
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, được giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu khoa học ở Trung ương, khảo cổ học ở Khánh Hòa thu được những thành tựu to lớn trong nghiên cứu về giai đoạn tiền sử và sơ sử.
Về cơ bản diễn trình phát triển văn hóa tiền - sơ sử ở Khánh Hòa được biểu hiện qua hai giai đoạn chủ yếu:
Giai đoạn Văn hóa Xóm Cồn và giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh.
Giai đoạn Xóm Cồn (hay Văn hóa tiền Sa Huỳnh ở Khánh Hòa)
Xóm Cồn là một địa điểm thuộc phường Cam Linh, thị xã Cam Ranh.
Di chỉ Xóm Cồn khai quật lần thứ nhất năm 1980 với diện tích 79m2, lần hai năm 1992 với diện tích 92, 75m2.
Hiện vật thu trong các hố khai quật rất phong phú với các công cụ đá (rìu, bôn, công cụ chặt, bàn mài, hòn kê, hòn ghè và mũi khoan), rất nhiều đồ gốm, các loại xương thú, vỏ các loài nhuyễn thể biển ken dày giữa các tầng văn hóa dày trung bình từ 0, 9 - 1, 5m.
Phân tích bào tử phấn hoa trong hố khai quật di chỉ Xóm Cồn, Trần Đình Nhân cho rằng ở đây rất ít bào tử phấn các loại cây ngập mặn.
Chủ yếu là phấn các loài cây họ đậu, niên đại Holocene giữa (Trần Đình Nhân 1993, tr. 120).
Tàn tích động vật tìm được ở Xóm Cồn có trai biển, ốc biển, các động vật có xương sống như cá, rùa, hươu, nai, hoẵng, lợn, trâu bò rừng, cheo cheo, tê giác; đặc biệt có bò nhà (Bosdom) (Vũ Thế Long 1993, tr. 103).
1993, di chỉ Bích Đầm trên đảo Hòn Tre thuộc phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang đã khai quật với diện tích 186m2.
Tầng văn hóa dày 50 - 70cm, cấu tạo từ cát phù sa biển lẫn vỏ nhuyễn thể biển.
Kết quả thu được 81 hiện vật đá, các mũi nhọn làm bằng xương thú và gạc nai, các lõi vòng trang sức từ Ốc tai tượng.
Đồ gốm ở đây chủ yếu là đồ đựng đáy tròn, thân hình cầu dẹt, vai khum ốc tròn hoặc hơi xuôi, miệng loe; một số ít là đồ đựng có chân đế dạng bát bồng hoặc loại hình đồ đựng khác.
Trên các đồ gốm, ngoài văn chải chiếm tuyệt đối, có mặt một số văn thừng biến thể; một số đồ gốm được tô, vẽ màu trước khi nung.
Trên cơ sở đó, các nhà khoa học xác lập văn hóa khảo cổ mang tên:
Văn hóa Xóm Cồn (Nguyễn Công Bằng, Trịnh Căn, Quang Văn Cậy, Vũ Quốc Hiền, Phạm Văn Hoàn và Ngô Thế Phong 1993. Tr. 77).
Như vậy, Văn hóa Xóm Cồn là văn hóa biển tiêu biểu, cầu nối các văn hóa đương thời ở lưu vực sông Đồng Nai với khu vực miền Trung và Tây Nguyên:
Một trong những nguồn hợp tạo dựng văn minh Sa Huỳnh ở Nam Trung Bộ và đây là văn hóa khảo cổ riêng biệt không thể lẫn với bất cứ văn hóa tiền sử nào đã biết đến ở Việt Nam.
Văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hòa
Di chỉ Hòa Diêm
Di chỉ Hòa Diêm thuộc xã Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh, sát bờ biển (cách di chỉ Xóm Cồn khoảng 5km về phía Nam) khai quật 4-1998.
Đây là di chỉ có diện phân bố khá rộng, trong thung lũng khoảng hơn 10.000m2, với những dải cát trải dài theo hướng Đông - Tây, kéo dài vào sát chân núi.
Diện tích 5 hố khai quật (50m2) thu trên 3.000 tiêu bản, chủ yếu đồ gốm.
Đồ gốm ở đây phản ánh nhiều giai đoạn cư trú của cư dân cổ. Đáng chú ý có mặt gốm kiểu Xóm Cồn nằm cạnh gốm Sa Huỳnh.
Rìu đá hầu như vắng mặt (1 tiêu bản), chỉ thu được một số bàn mài có kích thước nhỏ.
Có mặt 6 dọi xe chỉ được làm từ xương, 7 mảnh vòng tay làm từ Ốc tai tượng, 1 vòng làm từ đồ gốm.
Cùng 20 lõi vòng trang sức làm từ vỏ nhuyễn thể biển với những dấu vết khoan cắt rất rõ ràng và mài đều theo hình bán nguyệt (mặt ngoài).
Hố 2 phát hiện ra mộ bằng gốm, bên trong là hài cốt đã cải táng.
Các đặc điểm trên sọ, răng và xương chi thể hiện là cá thể nam có nhiều nét đại chủng Mongoloid (Nguyễn Lân Cường 2000, tr. 128).
Một số loại tô có chân đế chôn theo bên ngoài mộ (đồ tùy táng) có hình dáng đẹp và dưới phần chân đế đục lỗ tròn theo hình tam giác cân và được bố trí thành 3 cụm có khoảng cách đều nhau.
Nhìn chung, gốm ở Hòa Diêm thô, dày, cứng, xương đen, mặt ngoài miết láng, miệng trang trí văn in ấn lỗ, đáy bằng, thân và đáy trang trí văn chải là gốm đặc trưng nhất của Hòa Diêm.
So với Xóm Cồn, gốm Hòa Diêm kém phong phú về chất liệu, song về mô típ hoa văn cũng như kiểu miệng có phần đa dạng hơn và một số chưa thấy xuất hiện trong đồ gốm Xóm Cồn.
4-2002, các nhà khoa học tiến hành khảo sát lại di chỉ Hòa Diêm và mở 3 hố thám sát với diện tích 15m2, phát hiện 2 mộ nồi loại nhỏ.
Trong mộ tìm thấy 1 nồi gốm minh khí miệng loe, cổ thắt, thân phình, đáy bằng.
Có 1 chiếc rìu đồng đặt trong nồi gốm mộ hố 2 thuộc loại rìu lưỡi xòe cân có họng tra cán. Ngoài ra còn thu đồ đá có 54 tiêu bản gồm các loại hình:
Hòn kê, bàn mài, hòn nghiền làm từ cuội sông, trong đó có 2 rìu tứ giác và 1 bàn đập gốm.
Từ những kết quả thu được tại Hòa Diêm cho thấy đây là di chỉ cư trú xen lẫn mộ táng.
Những đặc điểm về di vật ở đây phản ánh tiếp nối văn hóa với một số truyền thống từ Xóm Cồn trong phát triển lên giai đoạn Văn hóa Sa Huỳnh sau này ở Khánh Hòa.
Niên đại di chỉ Hòa Diêm khoảng 2.000 đến 2.500 năm cách ngày nay là bộ phận cấu thành Văn hóa Sa Huỳnh ở Khánh Hòa.
Di chỉ mộ chum Diên Sơn
1988, khu mộ chum tại xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh được phát hiện.
Tìm hiểu quanh chum này, các nhà khoa học nhận thấy có ít nhất 4 chiếc (3 chiếc bị vỡ, 1 chiếc còn nguyên vẹn), xử lý tốt, mang về Bảo tàng tỉnh.
1994, tìm thêm được 1 chiếc nữa trong tình trạng bảo quản rất tốt, ở cách địa điểm tìm thấy chum trên khoảng 2m về phía Bắc.
Chum có hình dáng thuôn, vai đứng, miệng loe ngang, đáy tròn hình trứng, cao 82cm, miệng rộng 64cm, thân rộng (quãng giữa) 46cm.
Chum có màu đỏ nhạt, không có hoa văn trang trí, xương gốm rất mỏng, thể hiện kỹ thuật chế tác cao. Bên trong chum chỉ thấy ít than tro màu đen, có khả năng là bộ hài cốt đã hỏa táng.
Bên ngoài, bám quanh chum có 4 nồi bằng gốm, loại nhỏ, đều bằng nhau có màu xám đen, không có hoa văn trang trí. Niên đại của 2 mộ chum này khoảng 2.000 năm trước.
Một số di vật tiêu biểu khác
Đàn đá Khánh Sơn
Phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn ở Khánh Hòa 2-1979 bước đầu khẳng định về tồn tại loại hình nhạc cụ cổ bằng đá và từ đó mở đầu cho quá trình nghiên cứu về đàn đá ở Khánh Hòa nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu âm nhạc, đến 1987, tổng số thanh đàn đá tìm được tại Dốc Gạo lên đến 172 thanh các loại.
Hố thám sát khảo cổ học còn thu 550 mảnh tước tách ra trong quá trình chế tác đàn đá.
Sau phát hiện đàn đá ở Khánh Sơn, những năm tiếp theo tìm thấy đàn đá ở một số tỉnh khác như Đồng Nai, Lâm Đồng, Ninh Thuận và Phú Yên..
Nhưng Khánh Sơn nổi lên như cái nôi phong phú bậc nhất, công xưởng khổng lồ chế tạo đàn đá thời sơ sử ở Việt Nam được biết đến hôm nay.
Trống đồng Nha Trang
Nay, tại TP. Nha Trang tìm thấy 2 trống đồng khá nguyên vẹn. Chiếc thứ nhất tìm được 26-10-1983 tại số nhà 36/9 đường Đồng Nai, phường Phước Hải.
Chiếc thứ 2 tìm được 4-12-2000 tại số nhà 6A đường Hương Điền, phường Phước Hải. Các nhà khảo cổ học đặt tên là trống Nha Trang I và trống Nha Trang II.
Trống Nha Trang I tìm thấy ở độ sâu khoảng 0, 70m trong tư thế chôn ngửa.
Bên trong có một số mảnh gốm màu đen thuộc Văn hóa Sa Huỳnh. Trống có kích thước: Đường kính mặt 52cm, cao 42m, đường kính chân 57cm.
Trống có những hoa văn trang trí, giữa mặt trống có hình sao 12 cánh đúc nổi, xen giữa các cánh là hoa văn hình lông công cách điệu.
Các hình hoa văn hình học là gạch ngắn song song, vòng tròn chấm giữa, hồi văn gấp khúc. Vành chủ đạo trên mặt trống là hoa văn hình 6 chim Lạc bay ngược chiều kim đồng hồ.
Thân trống trang trí hoa văn hình học đơn giản:
Các cột hoa văn gạch ngắn song song ở lưng trống, băng hoa văn vòng tròn chấm giữa, gạch ngắn song song ở phần tang trống và phần dưới của lưng trống. Hai bên thân trống có hai đôi quai kép tết hình bông lúa.
Trống Nha Trang II tìm thấy ở độ sâu 1, 5m trong tư thế chôn úp xuống, cao 50cm, đường kính mặt trống là 62cm, đường kính chân trống là 67, 5m.
Trong trống Nha Trang II có một số di vật được chôn theo 1 nồi nhỏ bằng gốm, 3 viên gốm làm bằng đất nung hình trụ dẹt, 1 vật hình đầu chim bằng đồng, 1 cuốc sắt, 1 đục sắt và 3 kiếm sắt.
Trống được trang trí các vành hoa văn như sau:
Giữa mặt trống có hình sao nổi 10 cánh, giữa các cánh sao là các hoa văn gạch ngắn song song. Từ trong ra còn có những hoa văn ở vành 1, 4, 7 và 9 là gạch ngắn song song.
Vành 2, 3, 8 là vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến; vành 5 là hoa văn zích zắc hình gần giống ô trám.
Xen giữa các hoa văn này lại có hoa văn hình vòng tròn; vành 6 là hoa văn hình 8 chim mỏ dài, cánh xòe rộng đang bay.
Tang trống trang trí loại hoa văn gạch ngắn, vòng tròn có tiếp tuyến, không thấy hoa văn hình thuyền.
Lưng trống có hoa văn gạch ngắn song song, vòng tròn tiếp tuyến nhưng rất mờ.
Trống có hai đôi quai kép đúc hai bên thân. Trống đúc bằng khuôn hai mang, vết nối mang khuôn còn rõ.
Có thể đây là 2 trống đồng thuộc nền Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, rất giống những trống Đông Sơn tìm được ở:
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta như trống Lũng Xuyên, Thọ Vực, Vĩnh Ninh, Hà Nội.. chế tạo tại vùng Bắc Bộ hoặc Bắc Trung Bộ sau đó đem vào khu vực Khánh Hòa qua những đường khác nhau.
Đó là đường tán phát của trống đồng theo đường ven biển, mà Khánh Hòa là một chặng đường.
Có mặt trống đồng Nha Trang I và Nha Trang II làm diện mạo thời đại kim khí ở Khánh Hòa càng thêm phong phú. Niên đại 2 trống này khoảng 2.000 năm cách ngày nay.
Nay khảo cổ học tiền sử và sơ sử Khánh Hòa từng bước nghiên cứu và trên cơ sở đó có thể xác lập diễn trình phát triển của một vùng đất vào buổi bình minh của loài người.
Hệ thống di tích, di vật ở đây cho thấy, dù mang tính địa phương rõ nét song các văn hóa cổ ở Khánh Hòa vẫn nằm trong dòng chảy chung của các nền văn hóa lớn ở Việt Nam và khu vực, mang đậm sắc thái văn hóa núi rừng, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển - đảo.
Những thành tựu về văn hóa, văn minh mà các nhóm cư dân cổ ở đây đã đạt được qua hàng ngàn năm sẽ tiếp nối ở các giai đoạn sau cao hơn và đó là những đóng góp chung cho nền văn hóa các dân tộc Việt Nam đa dạng, phong phú.
NGUYỄN CÔNG BẰNG
Nguồn
Web baokhanhhoa
Còn tiếp