Ngục Trung nhật ký - Hồ Chí Minh Ngục trung nhật ký là tập thơ gồm các bài chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29-8-1942 đến ngày 10-9-1943 dưới dạng một quyển sổ tay nhỏ. Tác phẩm được nhiều người đánh giá là một thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cách nhìn là một nhà thơ. Đến nay tác phẩm đã được xuất bản nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật.. Ngày 1-10-2012, thủ tướng đã ra quyết định công nhận đây là bảo vật quốc gia. Nguồn: Thi Viện.
Vô đề (I) 無題 • Không đề (I) Thể thơ: Ngũ ngôn tứ tuyệt Thời kỳ: Hiện đại 無題 身体在獄中, 精神在獄外。 欲成大事業, 精神更要大。 Vô đề (I) Thân thể tại ngục trung, Tinh thần tại ngục ngoại. Dục thành đại sự nghiệp, Tinh thần cánh yếu đại. Dịch nghĩa Thân thể ở trong ngục, Tinh thần ở ngoài ngục; Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao. Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 Nam Trân: Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao; Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần phải càng cao.
Khai quyển 開卷 • Mở đầu tập nhật ký Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Thời kỳ: Hiện đại 開卷 老夫原不愛吟詩, 因為囚中無所為。 聊借吟詩消永日, 且吟且待自由時。 Khai quyển Lão phu nguyên bất ái ngâm thi, Nhân vị tù trung vô sở vi. Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật, Thả ngâm thả đãi tự do thì. Dịch nghĩa Già này vốn không thích ngâm thơ, Nhân vì trong ngục không có gì làm. Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài, Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu 在足榮街被扣留 • Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Thời kỳ: Hiện đại 在足榮街被扣留 足榮卻使余蒙辱, 故意遲延我去程。 間諜嫌疑空捏造, 把人名譽白犧牲。 Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu Túc Vinh khước sử dư mông nhục, Cố ý trì diên ngã khứ trình. Gián điệp hiềm nghi không niết tạo, Bả nhân danh dự bạch hy sinh. Dịch nghĩa Phố tên Túc Vinh mà khiến ta mang nhục, Cố ý làm chậm trễ hành trình của ta. Bày đặt ra trò tình nghi gián điệp, Không dưng làm mất danh dự của người. Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy “mông nhục” (mang nhục) đối lại với “túc vinh” (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục 入靖西縣獄 • Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Thời kỳ: Hiện đại 入靖西縣獄 獄中舊犯迎新犯, 天上晴雲逐雨雲。 晴雨浮雲飛去了, 獄中留住自由人。 Nhập Tĩnh Tây huyện ngục Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm Thiên thượng tình vân trục vũ vân Tình vũ phù vân phi khứ liễu Ngục trung lưu trú tự do nhân Dịch nghĩa Trong ngục tù cũ đón tù mới, Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa. Mây tạnh, mây mưa, mấy đám mây nổi bay đi hết, Chỉ còn lại người tự do trong ngục. Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Thế lộ nan 世路難 Đường đời hiểm trở 世路難 走遍高山與峻岩, 那知平路更難堪。 高山遇虎終無恙, 平路逢人卻被監。 余原代表越南民, 擬到中華見要人。 無奈風波平地起, 送余入獄作嘉賓。 忠誠我本無心疚, 卻被嫌疑做漢奸。 處世原來非易易, 而今處世更難難。 Thế lộ nan Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham, Na tri bình lộ cánh nan kham. Cao sơn lộ hổ chung vô dạng, Bình lộ phùng nhân khước bị giam. Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân, Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân. Vô nại phong ba bình địa khởi, Tống dư nhập ngụ tác gia tân. Trung thành ngã bản vô tâm cứu, Khước bị hiềm nghi tố Hán gian. Xử thế nguyên lai phi dị dị, Nhi kim xử thế cánh nan nan. Dịch nghĩa Đi khắp non cao và núi hiểm, Nào ngờ đường phẳng lại khó qua; Núi cao gặp hổ rút cục vẫn không việc gì, Đường phẳng gặp người lại bị bắt! Ta vốn là đại biểu của dân Việt Nam, Định đến Trung Hoa gặp nhân vật trọng yếu; Không dưng đất bằng nổi sóng gió, Đưa ta vào làm "khách quý" trong tù. Vốn trung thực thành thật, ta không có điều gì thẹn với lòng, Thế mà bị tình nghi là Hán gian; Việc xử thế vốn không phải là dễ, Lúc này, xử thế càng khó khăn hơn. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Tảo 早 • Buổi sớm 早 太陽每早從牆上, 照著龍門門未開。 籠裡現時還黑暗, 光明卻已面前來。 早起人人爭獵虱, 八鐘響了早餐開。 勸君且吃一個飽, 否極之時必泰來。 Tảo Thái dương mỗi tảo tòng tường thướng, Chiếu trước lung môn môn vị khai. Lung lý hiện thời hoàn hắc ám, Quang minh khước dĩ diện tiền lai. Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt, Bát chung hưởng liễu tảo xan khai. Khuyến quân thả ngật nhất cá bão, Bĩ cực chi thì tất thái lai. Dịch nghĩa Mỗi sớm, mặt trời vượt lên khỏi đầu tường, Chiếu tới cửa nhà lao, cửa chưa mở; Giờ đây trong lao còn đen tối, Nhưng ánh sáng đã bừng lên phía trước mặt. Sớm dậy, mọi người đua nhau bắt rận, Chuông điểm tám giờ, bữa cơm sáng bắt đầu; Khuyên anh hãy cứ ăn no, Khổ đến tột cùng, vui ắt tới. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
Ngọ 午 • Buổi trưa 午 獄中午睡真舒服, 一睡昏昏幾句鐘。 夢見乘龍天上去, 醒時才覺臥籠中。 Ngọ Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục, Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung. Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ, Tỉnh thời tài giác ngoạ lung trung. Dịch nghĩa Trong nhà lao, giấc ngủ trưa thật khoan khoái, Một giấc say sưa suốt mấy tiếng liền; Mơ thấy cưỡi rồng bay lên trời, Khi tỉnh dậy mới biết mình vẫn nằm trong ngục.
Vấn thoại 問話 • Lời hỏi Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong Thời kỳ: Hiện đại 問話 社會的兩極, 法官與犯人。 官曰你有罪, 犯曰我良民。 官曰你說假, 犯曰我言真。 法官性本善, 假裝惡狺狺。 要入人於罪, 卻假意慇懃。 這兩極之奸, 立著公理神。 Vấn thoại Xã hội đích lưỡng cực, Pháp quan dữ phạm nhân. Quan viết: nhĩ hữu tội, Phạm viết: ngã lương dân. Quan viết: nhĩ thuyết giả, Phạm viết: ngã ngôn chân. Pháp quan tính bản thiện, Giả trang ác ngân ngân. Yếu nhập nhân ư tội, Khước giả ý ân cần. Giá lưỡng cực chi gian, Lập trước công lý thần. Dịch nghĩa Hai cực của xã hội, Quan toà và phạm nhân; Quan bảo: anh có tội, Phạm nhân thưa: tôi dân lành; Quan bảo: anh nói dối, Phạm nhân thưa: tôi nói thật; Quan toà tính vốn thiện, Lại hầm hầm giả làm bộ ác; Muốn khép người vào tội, Lại ra vẻ ân cần; Giữa hai cực này, Có thần công lý đứng. Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000