48 Nguyên Tắc Chủ Chốt Của Quyền Lực - Robert Greene

Discussion in 'Tổng Hợp' started by Vân Mây, Jun 24, 2018.

  1. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 39: Đục Nước Béo Cò

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Về mặt chiến lược, cảm xúc và sân hận hết sức phản tác dụng. Bạn phải luôn bình tĩnh và khách quan. Nhưng nếu có thể chọc cho kẻ thù nổi giận trong khi bạn vẫn giữ được bình tĩnh thì rõ ràng bạn được rất nhiều lợi thế. Hãy làm cho đối thủ mất quân bình: Hãy tìm cho ra khe hở trong tính cách của họ để chọc vào, xem như bạn nắm quyền điều khiển.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Tháng giêng 1809, Napoléon vội vã tạm gác những trận đánh với Tây Ban Nha để trở về Paris. Nhóm tình báo vừa xác nhận tin đồn rằng vị bộ trưởng ngoại giao của ông là Talleyrand thông đồng với bộ trưởng công an Fouché để chống lại ông. Về đến kinh thành, Napoléon lập tức triệu tập nội các họp khẩn. Trong không khí căng thẳng, Napoléon đi tới đi lui dông dài bóng gió về bọn âm mưu tạo phản, về lũ đầu cơ lũng đoạn thị trường chứng khoán, về những nhà lập pháp cố tình trì hoãn chính sách - và chính nội các đang phá hoại ông.

    Talleyrand thản nhiên dựa và lò sưởi như thể không có liên quan cả. Nhìn thằng vào mặt viên bộ trưởng, Napoléon nhấn mạnh đến sự mưu phản. Nhưng Talleyrand chỉ mỉm cười, vẻ mặt bình tĩnh nhưng chán chường.

    Thái độ này làm Napoléon điên tiết lên, không dằn lòng được nên thét lên: “Ngươi là tên hèn nhát, không có lòng trung. Với ngươi không có gì là thiêng liêng cả. Ngay cả cha ngươi, ngươi cũng có thể bán. Ta đã ban cho ngươi của cải ngập đầu, vậy mà ngươi không từ bất kỳ việc gì để hãm hại ta”. Các vị bộ trưởng khác nhìn nhau không thể nào tin - chưa bao giờ họ chứng kiến vị đại tướng anh dũng này, người vừa chinh phục hầu hết châu Âu lại trong tình trạng mất bình tĩnh như thế.

    “Lẽ ra ta phải nghiền nát ngươi như kính vỡ,” Napoléon tiếp tục sôi máu. “Ta có thể dễ dàng làm điều đó, nhưng không thèm làm cho bẩn tay. Tại sao ta lại không cho treo cổ ngươi lên công điện Tuileries nhỉ? Nhưng không sao, vẫn còn dịp mà”. Mặt đỏ ngầu, mắt dần lồi ra, Napoléon hét đến hụt hơi: “Nhân tiện ta nói cho biết, ngươi chỉ là cục phân trong chiếc vớ lụa... Còn vợ ngươi thì sao? Ngươi chưa bao giờ báo ta biết rằng San Carlor chính là tình nhân của vợ ngươi sao?” “Quả nhiên, thưa hoàng thượng, thần không hề nghĩ rằng thông tin đó có ảnh hưởng gì đến sự vinh quang của ngài hay của bề tôi này ạ”. Talleyrand điềm nhiên trả lời, không chút bối rối. Chửi bới thêm vài câu nữa, Napoléon bỏ đi. Talleyrand từ từ bước ra cửa với dáng khập khiễng quen thuộc. Trong khi một phụ tá giúp ông mặc áo khoác, ông quay lại các vị bộ trưởng đang sững sờ: “Tội quá, thưa các vị, thật tội khi một người vĩ đại mà lại cư xử khiếm nhã như thế”.

    Tuy rất giận dữ nhưng Napoléon lại không hạ lệnh bắt giữ Talleyrand mà chỉ truất hết quyền hành và trục xuất khỏi chính phủ, cho rằng trừng phạt ông ta bằng cách làm nhục như thế cũng đủ rồi. Napoléon không ngờ những lời lẽ hồ đồ của ông được gió mang đi rất xa – dân chúng biết rõ về việc hoàng đế mất hết tự chủ bị Talleyrand làm bẽ mặt bằng thái độ điềm tĩnh và tự trọng.

    Diễn giải

    Phải còn sáu năm nữa mới diễn ra trận Waterloo, nhưng Napoléon đã bắt đầu xuống dốc, mà cột mốc xâm lược bất thành vào năm 1812 ở Nga. Talleyrand là người đầu tiên nhận thấy sự suy thoái đó, đặc biệt là cuộc chiến phi lý với Tây Ban Nha. Ông ta cho rằng Napoléon phải ra đi để cho tương lai châu Âu được ổn. Từ đó ông bắt tay với Fouché.

    Có thể mưu đó đơn giản chỉ là một cái kế để đẩy Napoléon đến bờ vực. Có thể cả hai chỉ quậy cho nước đục lên, làm hoàng đế mất phương hướng và sa chân. Tất cả mọi người đều chứng kiến việc Napoléon giận quá mất khôn, từ đó tin đồn truyền lan ảnh hưởng nặng nề đến hình ảnh công cộng của ông ta.

    Đó là cái giá phải trả khi ta giận dữ. Thoạt tiên trận lôi đình có thể gây ra sợ hãi, nhưng chỉ với vài người, và khi trời quang mây tạnh thì nhiều hiệu ứng khác mới xuất hiện – ngượng ngùng, khó chịu và hờn ghét. Khi mất bình tĩnh, ta luôn lên án một cách bất công và thái quá. Chỉ cần vài lần như vậy là mọi người bắt đầu tính đến xem ta còn tại vị bao lâu.

    Biết rõ hai vị bộ trưởng quan trọng trong âm mưu tạo phản, Napoléon có quyền nổi giận. Nhưng khi phản ứng sân si và công khai như thế, ông chỉ chứng tỏ được rằng mình thất bại, rằng mình không còn điều khiển được tình thế. Đó là loại hành động của một đứa trẻ phải khóc lên để được nuông chiều. Người mạnh mẽ không bao giờ để lộ điểm yếu đó.

    Trong tình huống kể trên, Napoléon vẫn còn cách khác. Ông có thể đối thoại với họ để hiểu rõ nguyên nhân vì sao họ chống đối. Ông có thể thuyết phục họ. Thậm chí ông vẫn có thể âm thầm thanh toán họ, tống giam hay xử tử để chứng tỏ quyền lực của mình. Không phải nhiều lời, không nên ấu trĩ, không hiệu ứng bất lợi - chỉ cần hạ thủ thất dứt khoát và êm thấm.

    Bạn hãy luôn nhớ rằng cơn giận dữ không bao giờ làm người khác vì sợ mà phải trung thành. Giận dữ chỉ làm người khác khó chịu và nghi ngờ về uy quyền của bạn mà thôi. Những trận bộc phát lôi đình đó để lộ những nhược điểm và báo trước sự sụp đổ.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Vào cuối thập niên 1920, Haile Selassie đã tiến dần đến mục tiêu kiểm soát toàn bộ đất nước Ethiopia. Đang giữ vai trò nhiếp chính cho nữ hoàng Zauditu, người sắp kế vị ngai vàng. Selassie đã bỏ nhiều thời gian và công sức để mài mòn sức chống phá các sứ quân khắp Ethiopia. Giờ đây chỉ còn một trở ngại thực sự cho cơ đồ Selassie: nữ hoàng và chồng của bà, Ras Gugsa. Biết cả hai đều ghét bỏ và muốn tống khứ mình, Selassie liền ra tay trước bằng cách bổ nhiệm Gugsa làm tỉnh trưởng tỉnh cực Bắc Begemeder.

    Suốt nhiều năm Gugsa ẩn nhẫn làm tròn nhiệm vụ, nhưng Selassie vẫn không tin tưởng, vì biết rằng cả hai vợ chồng đều nung nấu phục thù. Vì thời gian cứ trôi nhưng Gugsa vẫn án binh bất động, cơ hội mưu đồ càng lúc càng tăng. Selassie quyết quậy phá cho Gugsa bất ổn, khích hắn động thủ trước khi hắn hoàn toàn chuẩn bị xong.

    Từ nhiều năm nay bộ lạc Azebu Gallas ở miền Bắc luôn tiềm tàng nổi loạn chống lại vương triều, thường xuyên cướp phá và từ chối đóng thuế. Selassie không ra tay dẹp loạn mà cứ để yên cho họ ngày một hùng mạnh. Đến năm 1929 ông lệnh cho Gugsa dẫn quân tiễu phạt. Mặc dù ngoài mặt vâng lệnh nhưng trong lòng giận sôi – Gugsa không chút ác cảm nào đối với dân Azebu Gallas. Vì không thể bất tuân thượng lệnh, anh ta vẫn tổ chức đoàn quân, nhưng song song lại cho người tuyên truyền rằng Selassie thông đồng với giáo hoàng, dự định cải tạo lại đất nước sang Công giáo La Mã, biến Ethiopia thành thuộc địa của Italia. Quân đội của Gugsa ngày càng lớn mạnh, và đã có vài bộ lạc bí mật chấp nhận cùng chiến đấu chống Selassie.

    Tháng 3 năm 1930, đội quân hùng mạnh 35.000 người cất bước, không Bắc tiến để tiễu phạt Azebu Gallas mà lại hướng về thủ đô Addis Ababa. Gugsa giờ đây công khai mở cuộc thánh chiến để hạ bệ Selassie và trả đất nước về cho những người công giáo thực sự. Nhưng anh ta không phát hiện cái bẫy đã giăng sẵn.

    Trước khi lệnh cho Gugsa tiến đánh Azebu Gallas, Selassie đã tranh thủ Giáo hội Ethiopia. Mặt khác, ông ta mua chuộc các đồng minh chủ chốt của Gugsa. Khi đoàn quân Gugsa Nam tiến, máy bay chính phủ rải truyền đơn cho biết các giới chức cao cấp của Giáo hội Ethiopia đã công nhận Selassie là lãnh đạo Công giáo thật sự của đất nước, đồng thời đã rút phép thông công đối với Gugsa vì tội tạo phản. Lập tức tinh thần của đạo hùng binh kia nao núng. Khi giờ tập kết xung trận sắp điểm, chờ mãi vẫn không thấy các cánh quân đồng minh xuất hiện, binh sĩ của Gugsa bắt đầu bỏ trốn hoặc chạy sang hàng ngũ đối phương.

    Phiến quân hoàn toàn sụp đổ. Rus Gugsa không chịu đầu hàng nên tử trận. Nữ hoàng tuyệt vọng và vài ngày sau qua đời. Đến 30 tháng 4, Selassie ban hành tuyên cáo tự phong hoàng đế Ethiopia.

    Diễn giải

    Haile Selassie luôn tính trước nhiều nước. Ông ta biết nếu để Gugsa chọn thời gian và địa điểm tiến hành đảo chính, mối nguy sẽ to hơn là dụ anh ta hành động theo các điều kiện của mình. Vì vậy Selassie khích Gugsa động thủ: Chọc tức tự ái đàn ông bằng cách sai anh ta tiến đánh bộ lạc không thù không oán, mà lại nhân danh người mình ghét nhất. Vì đã dự tính sẵn, Selassie chắc chắn cuộc nổi loạn sẽ chẳng về đâu và còn trở thành cái cớ để thành toán cùng lúc hai địch thủ cuối cùng.

    Đây chính là cốt yếu của Nguyên tắc này: Khi vũng nước còn tĩnh thì đối phương sẽ đủ không gian thời gian sắp xếp lớp lang những động tác mà chúng sẽ khởi sự và kiểm soát. Vì vậy ta phải quậy cho nước vẩn đục, buộc cá phải trồi lên, giục đối phương phải hành động trước khi hoàn toàn sẵn sàng, xem như ta đã giành thế chủ động. Cách hay nhất là thao túng những cảm xúc khó kiểm soát – tự hào, kiêu căng, yêu ghét. Càng sân si, đối phương càng khó kiểm soát tình huống, và cuối cùng sẽ chết đuối vì bị cuốn vào trũng nước xoáy mà ta tạo ra.

    Quốc chủ chớ nên tiến quân trong cơn giận dữ,

    lãnh tụ không được khởi chiến giữa lúc lôi đình

    (Tôn Tử)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Người giận dữ rốt cuộc trông thật lố bịch vì phản ứng của họ quá trớn nếu so với nguyên nhân của cơn giận. Họ nhận thức sự việc quá nghiêm trọng, cường điệu sự xúc phạm mà họ phải chịu. Họ nhạy cảm với mọi đụng chạm nên cho đó là chuyện cá nhân, vì vậy mới nực cười. Mà điều buồn cười hơn nữa chính là việc họ tưởng cơn giận bùng nổ là đồng nghĩa với sức mạnh. Sự thật lại ngược hẳn: Dễ cáu là dấu hiệu của sự yếu kém. Khi ta nổi giận, người khác có thể tạm thời e sợ, nhưng cuối cùng họ hết kính nể ta. Họ cũng nhận ra rằng họ có thể dễ dàng làm ta suy yếu một kẻ ít tự chủ như thế.

    Tuy nhiên giải pháp không phải là đè nén cơn giận hay những phản ứng xúc phạm khác, bởi vì sự đè nén làm tổn hao sinh lực và khiến ta cư xử lạ lùng. Ngược lại, ta cần thay đổi góc nhìn: Phải nhận thức rằng ở lĩnh vực xã hội, và trong trò chơi quyền lực, không gì mang tính cá nhân cả.

    Ai cũng bị cuốn vào một chuỗi sự kiện từ lâu xa đã an bài giây phút hiện tại này. Cơn phẫn nộ của ta thường xuất phát từ các vấn đề thời trẻ nhỏ, từ các vấn đề của cha mẹ, mà vấn đề của cha mẹ lại bắt nguồn từ thời niên thiếu của họ… Cơn phẫn nộ của ta cũng bắt rễ từ sự tương tác với người khác, từ những thất vọng và đau thương chất chồng. Một cá nhân nào đó có vẻ là người chọc giận, nhưng thật ra sự giận dữ này rắc rối hơn nhiều, đi xa hơn nhiều điều mà cá nhân đó gây ra. Nếu có người đùng đùng nổi giận với ta (và có vẻ như quá lố khi so với điều mà ta gây cho họ), ta hãy tự nhủ rằng cơn giận đó không hoàn toàn dành riêng cho ta. Nguyên nhân có thể to lớn hơn, sâu xa hơn, liên quan đến những tổn thương trong quá khứ, và thật ra không đáng để tìm hiểu. Thay vì cho đó là chuyện cá nhân, ta hãy quan niệm rằng sự bột phát giận dữ ấy ngụy trang một nước cờ hiểm, một mưu toan kiểm soát hay tiến công ta, mưu toan được đặt sau bình phong vết thương lòng và cơn uất hận.

    Việc đổi góc nhìn giúp ta chơi trò chơi quyền lực một cách mạnh mẽ và sáng suốt hơn. Thay vì phản ứng quá trớn và mắc mưu vào xúc cảm của thiên hạ, ta nên lợi dụng việc họ mất bình tĩnh để thủ lợi.

    Vào thời Tam quốc khi cuộc chiến đang hồi ác liệt, các phụ tá của Tào Tháo khám phá nhiều tài liệu chứng minh một số tướng soái có thông đồng với địch. Họ trưng bày bằng cớ ra và dục Tháo ra lệnh xử tử, nhưng ông ta chỉ đốt bỏ những tài liệu ấy và không nhắc tới nữa. Vào thời điểm trận đánh đang cao trào, nếu mất bình tĩnh sẽ có hại: Nếu Tháo phẫn nộ và làm lớn chuyện, toàn quân sẽ biết các tướng soái bất trung và tinh thần bị tác động. Tháo giữ được bình tĩnh và quyết định sáng suốt.

    Ta thử so sánh hành động trên với cách mà Napoléon đối xử với Talleyrand: Thay vì chấp nhận vào âm mưu của vị bộ trưởng và xem đó là xúc phạm cá nhân, hoàng đế nên ứng xử như Tháo, cẩn thận ước lượng hậu quả những việc sắp làm. Rốt cuộc, cách đáp trả hay nhất vẫn là phớt lờ Talleyrand, hoặc dần dà đưa ông ta về “đường ngay nẻo chánh” để trừng trị sau.

    Cơn giận dữ chỉ làm ta mất quyền lựa chọn, mà người quyền lực lại không thể lớn mạnh nếu không có quyền lựa chọn. Một khi đã rèn luyện được khả năng không xem mọi việc như là khiêu khích cá nhân, và kiểm soát được phản ứng về mặt cảm xúc, ta đã đưa mình lên vị trí quyền lực: Từ nay trở đi, ta có thể thao túng phản ứng xúc cảm của người khác. Với kẻ dễ bị dao động, ta hãy khích họ động thủ bằng cách chọc vào nam tính, làm họ lầm tưởng sẽ dễ chiến thắng. Ta giả vờ yếu hơn để họ ra tay nhanh chóng mà không kịp suy nghĩ. Một tướng lãnh đạo quân đội tấn công quân thù đông gấp đôi. Ông ra lệnh binh sĩ thắp trăm ngàn bó đuốc khi tiến vào đất địch, hôm sau chỉ thắp một nửa số lượng ấy và ngày kia thắp ba mươi ngàn. Vào đêm hôm đó tướng soái địch tuyên bố quân kia làm đám hèn nhát, chỉ ba ngày sau binh sĩ đã đào ngũ hết nửa. Vì vậy tướng địch để lại phần lớn bộ binh di chuyển chậm, quyết định chớp thời cơ dẫn theo lực lượng trang bị nhẹ tấn công. Tướng này ra lệnh rút lui dụ địch vào hẻm núi, phục kích và tiêu diệt binh tướng địch. Số quân địch còn lại như rắn không đầu nên nhanh chóng đại bại.

    Đối diện kẻ thù đang sôi máu, hành động hay nhất là không hành động. Hãy bắt chước Talleyrand: Không gì làm đối thủ điên tiết bằng việc chứng kiến ta vẫn điềm nhiên tự tại. Nếu thích hợp, ta hãy sắm bộ quý phái, vẻ mặt chán trường, không cần chế giễu hay vênh váo mà chỉ thờ ơ. Lúc đó đối phương sẽ phát sốt gần đứt cầu chì và có những lời nói cử chỉ không thể kiềm chế.

    Hình ảnh

    Ao cá. Ao trong nước lặn cá ẩn mình. Bạn hãy khuấy đục cho cá trồi lên. Khuấy mạnh thêm chúng sẽ nhô lên mặt nước để đớp bất kỳ vật gì trong tầm, kể cả miếng mồi chứa lưỡi câu.

    Ý kiến chuyên gia:

    Nếu địch nóng tính ta hãy chọc giận. Nếu địch ngạo mạn ta hãy khích vào tính tự cao… Có tài dụ địch manh động là người tạo ra tình huống mà địch không cưỡng lại được, lôi kéo địch bằng chính cái điều mà địch chắc chắn sẽ muốn giành lấy. Ta nhử cho địch luôn manh động rồi tấn công bằng tinh binh.

    (Tôn Tử, thế kỉ IV trước công nguyên)

    NGHỊCH ĐẢO

    Hãy cẩn thận khi thao túng xúc cảm của người khác. Luôn tìm hiểu đối phương thật kỹ lưỡng: Có những con cá mà tốt hơn bạn nên để chúng yên dưới đáy ao.

    Giới cầm quyền Tyre, thủ đô nước Phoenicia cổ xưa, tự tin là sẽ chống cự được Alexander đại đế, người từng chinh phục phương Đông những vẫn chưa tiến công Tyre vì thành phố này được bảo vệ bởi vùng biển bao quanh. Họ phái sứ giả đến gặp Alexander bảo rằng mặc dù công nhận ông là hoàng đế nhưng vẫn không cho ông vào Tyre. Tất nhiên điều này khiến ông tức giận và ra lệnh bao vây. Qua bốn tháng, Tyre vẫn đứng vững, cuối cùng Alexander tự nhủ cuộc chiến này là không xứng đáng, tốt hơn nên phái sứ giả đến giảng hòa với Tyre. Nhưng giới cầm quyền Tyre lại quá tự tin khi cho rằng mình đủ sức chống cự, họ từ chối thương lượng và giết sứ giả.

    Giọt nước này làm tràn ly. Alexander không còn quan tâm sẽ tốn hao tốn bao nhiêu thời gian hay binh lực để vây hãm Tyre, vì ông dư sức làm điều đó. Ông ra lệnh tổng tiến công liên tục và chỉ vài ngày sau đã hạ thành, ra lệnh đốt sạch không chừa một thứ gì, rồi bán cư dân làm nô lệ.

    Bạn có thể nhử kẻ mạnh ra khỏi hang và phân tán lực lượng hẳn như người xưa từng làm, nhưng trước đó nhớ cân nhắc kỹ mọi yếu tố xem kẽ hở ở chỗ nào. Nếu địch không có kẽ hở thì bạn sẽ chẳng lợi ích gì khi chọc tức họ, mà còn có thể mất tất cả. Hãy suy xét kỹ lưỡng xem mình đang nhử loại cá nào, và đừng bao giờ khuấy động cá mập.

    Cuối cùng, thỉnh thoảng cũng có lúc việc đùng đùng nổi giận là có ích, với điều kiện là bạn phải ngụy tạo ra cơn giận và kiểm soát được. Lúc ấy bạn có thể lựa chọn nên giận dữ như thế nào, và giận ai. Đừng bao giờ dấy lên những phản ứng về lâu dài sẽ chống lại bạn. Và chỉ nên sử dụng trận lôi đình đó trong những trường hợp rất hiếm, như thế sự giận dữ có hiệu quả và ý nghĩa hơn. Cho dù giận thật hay giận giả, nếu bùng lên quá thường xuyên thì chúng sẽ mất đi sức mạnh.
     
  2. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 40: Làm Chủ Đồng Tiền - Sự Hào Phóng Chiến Lược

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Quà tặng miễn phí là quà nguy hiểm, thường chứa đựng một cạm bẫy hoặc ngụy trang một món nợ. Điều gì đáng giá thì cũng đáng đồng tiền. Phải biết trả tiền để đừng mang ơn, không mặc cảm và khỏi bị bịp. Và kẻ khôn ngoan thường trả đủ tiền – nếu bạn muốn được thứ tốt nhất thì không nên trả rẻ. Hãy chi tiền rộng rãi để cho đồng tiền luân chuyển, vì sự hào phóng là dấu hiệu quyền lực và thu hút quyền lực.

    ĐỒNG TIỀN VÀ QUYỀN LỰC

    Trên lĩnh vực quyền lực, mọi thứ phải được xem xét bằng chi phí, mọi thứ đều có cái giá của nó. Điều gì cho không hoặc được giảm giá thường gây tác động về mặt tâm lý – những cảm giác rắc rối về hàm ân, thỏa hiệp với chất lượng khiến ta không được yên ổn. Những quyền lực phải biết cách bảo vệ những tài nguyên giá trị nhất: sự độc lập và phạm vi thao tác. Khi chấp nhận trả trọn giá, họ giữ mình không bị dính líu vào nhiều chuyện phiền hà và nguy hiểm.

    Thái độ cởi mở và linh động với tiền bạc cũng giúp ta biết được giá trị của sự hào phóng mang tính chiến lược, chẳng qua là biến thể của cái kế khá xưa là “hãy cho khi ta sắp lấy”. Tặng đúng món quà thích hợp ta đặt người nhận vào tư thế chịu ơn. Thiên hạ sẽ mềm lòng vì sự rộng lượng, từ đó dễ bị bịp. Nếu được tiếng là không câu nệ, ta sẽ để ý đến những trò chơi quyền lực của ta. Biết cách ban phát của cải theo đúng chiến lược, ta làm đẹp lòng những triều thần khác, thu phục được họ thành những đồng minh quan trọng.

    Hãy nhìn những bậc thầy về quyền lực – những Caesar, những nữ hoàng Elizabeth, những Michelangelo hoặc Medici: Trong số họ không ai là kẻ keo kiệt. Ngay cả bậc thầy lừa nổi tiếng đều tiêu xài xả láng để bịp thiên hại. Hầu bao thắt chặt quá sẽ không hấp dẫn được ai – khi dấn thân vào một vị chinh phục, Casanova hào phóng xài hết bản thân mình và ví tiền của mình. Người quyền lực hiểu rằng tiền bạc là vật chuyển tải sự biết điều, tính hòa đồng, và món nợ về mặt tâm lý. Họ biến khía cạnh con người của đồng tiền thành vũ khí.

    Trên thế gian này, cứ một người biết bày trò với đồng tiền thì lại có hàng ngàn người khác bị chết cứng khi không chịu sử dụng tiền bạc một cách sáng tạo và chiến lược. Những người loại này ở cực ngược lại với kẻ tài ba, và bạn phải học cách nhận ra họ - hoặc để tránh bản chất độc lập của họ, hoặc để lợi dụng tính khư khư của họ:

    Con hạm tham lam. Con hạm luôn xóa sạch khía cạnh con người nơi đồng tiền. Lạnh lùng và tàn nhẫn, điều mà họ nhìn thấy chỉ là sổ sách quyết toán vô hồn. Xem người khác như con chốt hoặc vật cản ngoại họ trên con đường mưu cầu phú quý, họ sẽ giẫm đạp lên tình cảm con người và như thế mất đi nhiều đồng minh đáng giá. Không ai muốn giao du với con hạm tham lam, vì vậy qua năm tháng họ sẽ bị cô lập, và đây là thường là nguyên nhân làm họ suy sụp.

    Loại người này là mồi ngon của bậc thầy bịp bợm. Bị hấp dẫn bởi đồng tiền dễ kiếm, họ dễ bị dụ vì hầu hết thì giờ đều đầu tư vào những con số (thay vì con người), cho nên họ không biết gì về tâm lý của chính họ. Hoặc bạn tránh xa họ trước khi trở thành nạn nhân, hoặc bạn lợi dụng lòng tham của họ để thủ lợi.

    Con ma mặc cả. Người tài ba đánh giá mọi việc qua giá trị của chúng, không chỉ về mặt tiền bạc mà cả mặt thời gian, phẩm cách và tự tại tâm hồn. Và đó chính là điều mà con ma mặc cả không thể. Phí phạm quá nhiều thời gian quý báu cho việc mặc cả, họ luôn thấp thỏm về khả năng tìm được mới khác với giá thấp hơn. Cuối cùng món hàng mà họ cho là “hời” ấy nhiều khi lại quá tệ, phải tốn tiền sửa lại hoặc thay mới. Chi phí phải trả cho việc cầu tìm cái rẻ đó – không phải lúc nào cũng về mặt tiền bạc mà cả thời gian và binh an tâm hồn – sẽ khiến cho người bình thường chùn bước, nhưng đối với con ma mặc cả thì tự thân sự mặc cả đã là cứu cánh.

    Hai loại người vừa kể trên có vẻ như chỉ làm hại chính họ, nhưng thái độ họ lại có thể lây lan; Nếu không đủ sức kháng cự, bạn sẽ bị lây nhiễm cái cảm giác rằng lẽ ra mình nên lỗ lực tìm kiếm để phát hiện cái rẻ hơn. Bạn không nên cãi lý hoặc cố thay đổi con người họ. Chỉ cần cộng nhẩm thêm chi phí về thời gian, an tĩnh nội tâm, hao hụt tài chính trá hình trong việc tìm câu phi lý ấy.

    Kẻ tàn ác. Những kẻ tàn ác về mặt tài chính thường bày ra nhiều trò quyền lực lại quái gở với đồng tiền nhằm khẳng định thế mạnh. Chẳng hạn họ bắt ta chờ thật lâu để nhận lại số tiền mà họ... nợ ta, vờ nói rằng đã gửi ngân phiếu qua đường bưu điện rồi. Còn khi thuê ta làm việc, họ sẽ can thiệp vào mọi khía cạnh, kiếm chuyện từng chút ta chán ốm. Hình như bọn tàn ác này cho rằng hễ đã trả tiền là họ có quyền lực hành hạ người khác. Nếu lỡ dính dáng với loại người đó, chẳng thà ta chấp nhận thua thiệt một tí về mặt tài chính để rút lui, còn hơn là về lâu về dài sa chân vào những nước cờ tàn phá của họ.

    Người biếu xén bừa bãi. Trên con đường mưu cầu quyền lực, sự hào phóng có chức năng nhất định: Thu hút mọi người, làm mềm lòng họ, biến họ thành đồng minh. Nhưng sự hào phóng này phải mang tính chiến lược, chứ không phải là mục đích tự thân. Trong khi đó người biếu xén bừa bãi chỉ hào phóng vì họ muốn được yêu thương và kính nể. Vì vậy sự rộng lượng của họ rất bừa bãi và thiết yếu đến mức không đạt hiệu quả mong muốn: nếu đụng ai cũng cho thì người nhận đâu cảm thấy gì đặc biệt? Loại người biếu xén bừa bãi có vẻ là mục tiêu hấp dẫn, nhưng nếu liên lụy với họ, bạn sẽ cảm thấy nhu cầu tình cảm vô bờ của trở thành gánh nặng.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    El Dorado ảo tưởng

    Sau khi Francisco Pizarro chinh phục Peru vào năm 1532, vàng từ đế chế Inca bắt đầu đổ vào Tây Ban Nha, và mọi tầng lớp dân chúng đều mơ về việc làm giàu nhanh chóng ở thế giới mới. Mọi người đồn đại chuyện một lãnh tụ thổ dân phía Đông Peru, cứ mỗi năm đều dát bụi vàng đấy mình rồi lặn xuống ao. Chuyện El Dorado, “Người đàn ông vàng” đó được truyền qua nhiều miệng để cuối cùng trở thành đế chế El Dorado, thịnh vượng hơn cả đế chế Inca, với đường phố và nhà cửa rát vàng. Thiên hạ kháo nhau rằng chuyện như vậy rất có thể có thật, bởi vì một người dám phí phạm bụi vàng như trong ao nước chắc chắn phải trị vì một đế chế vàng. Không lâu sau dân Tân Ban Nha đổ xô sang tìm vàng ở vùng Bắc của Nam Mỹ.

    Tháng Hai năm 1541, đoàn thám hiểm lớn nhất do anh của Francisco là Gonzalo Pizarro dẫn đầu rời thủ đô Quito của Ecuador. Hàng ngàn người khí thế hừng hực quyết đòi hỏi cho ra vùng đất vàng. Nhưng có lẽ những thổ dân dọc đường, hoặc là thật tình không biết, hoặc họ muốn giấu đầu mối, nên tất cả đều trả lời chưa bao giờ nghe nói có một vùng đất như vậy. Nổi trận lôi đình, Gonzalo Pizarro tra khảo họ và nếu họ chết thì quăng cho chó ăn. Sự tàn bạo này được nhanh chóng lan truyền, thổ dân hiểu ra rằng cách duy nhất để tránh tai họa là phải thêu dệt nên nhiều chuyện về El Dorado để dẫn Pizarro đi càng xa càng tốt. Chính vì vậy mà cả đoàn thám hiểm lạc vào rừng thiêng.

    Lương thực cạn dần, quần áo tả tơi, vũ khí rỉ sét, giày banh ta-lông, tinh thần xuống dốc. Nhóm lao công thổ dân hoặc đã bỏ mạng hoặc trốn mất, người Tây Ban Nha mất phương hướng ngày càng lạc lối. Họ đã ăn hết thực phẩm, heo gà mang theo từ lâu đã không còn, những con lâm tải đạn và chó săn cũng bị thịt tuốt. Với nhóm người Tây Ban Nha ít ỏi còn lại, Pizarro ra lệnh lần dò theo dòng sông trở về Quito. Cuối cùng sang năm sau, nhóm người còn rơi rớt mới về tới nơi. Sau đó họ mới biết mình đã đi lòng vóng trong rừng sâu hơn một năm trời, phí phạm sinh mạng và tiền bạc mà vẫn không tìm ra El Dorado và mỏ vàng ảo tưởng.

    Diễn giải

    Cho dù đoàn thám hiểm của Pizarro đại bại, Tây Ban Nha vẫn tiếp tục phái nhiều đoàn khác sang Nam Mỹ quyết tìm cho ra El Dorado. Và cũng như Pizarro trước đó, các conquistador tiếp tục đốt phá làng mạc, tra khảo thổ dân, để rồi sau đó chịu khổ sở trăm bề trong rừng thiêng nước độc, và rồi cuối cùng không tìm được chút vàng nào.

    Những cuộc thám hiểm tương tự làm tổn thất hàng triệu sinh mạng của cả thổ dân lẫn người Tây Ban Nha, và sau đó còn góp phần làm sụp đổ đế chế. Vàng trở thành nỗi ám ảnh của nước này. Chút ít vàng do mậu dịch thu được lại chảy về Tây Ban Nha để chi phí cho những chuyến thám hiểm khác, thay vì đầu tư vào nông nghiệp hoặc bất cứ lĩnh vực sản xuất nào khác.

    Có nhiều thị trấn ở Tây Ban Nha không còn bóng người vì tất cả đều đổ xô ra nước ngoài tìm vàng. Nông trại bị bỏ hoang, quân đội tuyển không đủ người cho những cuộc chiến ở châu Âu. Đến cuối thế kỷ XVII, dân số Tây Ban Nha đã giảm hẳn một nửa. Từ 400.000 người, thủ đô Madrid lúc đó chỉ còn lại 150.000. Tây Ban Nha tuột xuống con dốc suy tàn và không bao giờ phục hồi lại nổi.

    Quyền lực đòi hỏi kỷ luật tự giác. Viễn cảnh giàu sang, nhất là loại giàu sang nhanh chóng đánh rất mạnh vào cảm xúc của chúng ta. Kẻ làm giàu nhanh chóng luôn nghĩ rằng giàu thêm cũng dễ. Ảo tưởng ấy khiến cho kẻ tham lam quên mất những gì mà quyền lực thực sự dựa vào: tự chủ, thiện chí của những người xung quanh v.v. Bạn hãy nhớ rằng chỉ trừ một ngoại lệ duy nhất là cái chết, còn thì hoàn toàn không có thay đổi nào xảy ra chớp nhoáng cho vận hội của cuộc đời. Đồng tiền đến nhanh ít khi lưu cữu, bởi vì nó không đặt trên nền tảng nào vững chắc. Đừng để mãnh lực kim tiền dụ bạn ra khỏi thành trì bền vững của quyền lực thật sự. Hãy lấy quyền lực làm mục tiêu và sau đó tiền bạc tự nhiên sẽ tìm tới bạn. Hãy dành El Dorado cho những kẻ dại dột ngông cuồng.

    Tính từng cục gạch

    Hồi đầu thế kỷ XVIII tại Anh không ai nổi trội hơn vợ chồng Công tước Marlborough. Sau nhiều chiến dịch chồng Pháp thành công, công tước được xem là vị tường và nhà chiến lược lỗi lạc nhất châu Âu. Về phần bà công tước, sau nhiều thao tác tinh khôn đã trở thành sủng thần của Nữ hoàng Anne. Trận đánh Blenheim năm 1704 khiến cả nước ca ngợi công tước, và nữ hoàng tưởng thưởng cho ông một vùng đất rộng gần trấn Woodstock cùng với ngân quỹ cần thiết để xây dựng cung điện. Đặt tên là Cung điện Blenheim, công tước chọn kiến trúc sư tài ba là John Vanbrugh.

    Mặc dù khả năng và thẩm mỹ của Vanbrugh không thể chê vào đâu được, song bà công tước vẫn can thiệp vào công việc của kiến trúc sư và ngay cả thợ thuyền trong từng chi tiết. Mặc dù chính quyền trả tiền vật tư song bà vẫn tính từng xu một. Cuối cùng, vì cứ mãi cằn nhằn cử nhử kiến trúc sư, bà làm rạn nứt quan hệ với nữ hoàng nên bị đuổi khỏi hoàng cung và cấm không cho vào triều. Khi dọn đi, bà công tước gỡ sạch tất cả những gì gỡ được, kể cả tay nắm cửa.

    Suốt mười năm sau đó công trình xây dựng tiến hành một lúc lại ngưng vì ngày càng khó giải ngân chính phủ. Bà công tước cho rằng Vanbrugh cố tình hãm hại nên lại càng chi li hơn với từng viên đá cọng kẽm, tố cáo người làm, cai thợ, thầu khoán ăn chặn vật tư. Về phần công tước, vì đã già yếu nên chỉ muốn sớm sủa dọn vào nhà mới để an dưỡng những ngày tháng cuối cùng, nhưng công trình sa lầy vào hàng loạt vụ kiện thưa. Giữa mớ rối bòng bong đó, ông qua đời mà chưa hề ngủ được một đêm nào trong cung điện Blenheim yêu quý.

    Công tước chết đi để lại cho vợ tài sản to lớn, quá dư để hoàn thành cung điện. Nhưng không, bà vẫn tiếp tục vặn vẹo bằng cách giữ lại tiền lương của thầy lẫn thợ, và cuối cùng là cho kiến trúc sư nghỉ việc.

    Diễn giải

    Bà công tước Marlborough dùng tiền để chơi trò quyền lực tàn ác. Bà quan niệm rằng mất tiền bạc là mất quyền uy. Khi cư xử với Vanbrugh, sự méo mó của bà còn tệ hơn thế nữa: vì ông ta là nghệ sĩ lớn nên bà đố kỵ tài sáng tạo và khả năng nổi tiếng quá tầm với của bà. Có thể là bà không có những tài năng đó song lại có đủ tiền bạc đề hành hạ và lạm dụng ông cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất - để cho cuộc đời ông bế mạc luôn.

    Tuy nhiên thú tàn ác ấy phải trả giá kinh khủng. Công trình xây dựng lẽ ra chỉ mười năm giờ ngốn mất hai mươi. Thú tàn ác ấy đã đầu độc nhiều quan hệ quý giá, lưu đày bà công tước khỏi triều đình, làm ông chồng đau lòng tột độ (vốn chỉ muốn sống bình yên ở Blenheim), tạo ra nhiều vụ kiện thưa kéo dài, khiến Vanbrugh tổn thọ hết mấy năm. Sau này hậu thế công nhận Vanbrugh là bậc thiên tài, trong khi xem bà công tước hoàn toàn là thứ rẻ tiền.

    Kẻ tài ba phải có tâm hồn cao thượng, đừng bao giờ để lộ nét đê tiện nào. Và tiền bạc chính là đấu trường hiển nhiên nhất để phô bày sự rộng lượng hay tính nhỏ nhen. Vì vậy bạn nên xài mạnh tay để được tiếng hào phóng, về lâu về dài sẽ mang lại lãi to. Đừng bao giờ để cho sự tủn mủn về tiền bạc che mất tầm nhìn bao quát, khiến bạn không biết thiên hạ đánh giá mình ra sao. Những cảm xúc tiêu cực của họ sau này sẽ làm bạn trả giá đắt hơn. Và nếu muốn can thiệp vào công việc của những người sáng tạo đang làm mướn cho bạn, tốt hơn bạn nên trả công họ thật hậu hĩ. Đồng tiền sẽ làm họ vui vẻ phục tùng tốt hơn là quyền lực.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Đồng tiền và vòng xoay quyền lực

    Là con của một người thợ đóng giày tầm thường, Pietro Aretino đã vươn lên đài danh vọng nhờ tài viết thi văn châm biếm. Nhưng cũng như mọi nghệ sĩ thời Phục hưng, anh ta cần có mạnh thường quân đỡ đầu, giúp anh ta có thể sống thoải mái nhưng ngược lại không can thiệp vào chuyên môn. Aretino quyết thử một chiến lược mới trong trò chơi bảo trợ.

    Rời La Mã đến sống tại Venice nơi mình chưa nổi tiếng, Aretino dùng mớ tiền dành dụm để khoản đãi cả người nghèo lẫn người giàu, bao họ cơm ăn lẫn trò giải trí. Anh ta làm bạn với từng kẻ chèo thuyền, ra tay giúp đỡ người ăn xin, trẻ mồ côi, cô thợ giặt. Thứ dân Venice nhanh chóng đồn đại rằng Aretino không chỉ là văn hào mà còn là người quyền lực – một dạng vương tôn công tử.

    Nghệ sĩ và người quyền thế bắt đầu đến nhà Aretino. Chỉ trong vài năm tiếng tăm anh ta đã nổi như cồn. Không quan lớn nào đến Venice mà không ghé thăm anh ta. Tuy làm tiêu tốn khá nhiều tiền dành dụm, nhưng sự rộng lượng đã mua cho Aretino tiếng tăm và ảnh hưởng – nền tảng của quyền lực. Giới quý tộc cho rằng Aretino phải là người có thế lực, vì anh ta xài tiền như người có thế lực. Và bởi vì thế lực của một người thế lực rất đáng mua nên Aretino trở thành mục tiêu của không biết bao nhiêu là bổng lộc. Vương tôn công tử, thương gia giàu có, thậm chí vua chúa, giáo hoàng đều ưu đãi và muốn kết thân với anh ta.

    Tất nhiên, sự tiêu sài của Aretino chỉ mang tính chiến lược, và chiến lược đó vận hành rất tốt. Đến lúc này anh ta cần tìm ra một nhà tài trợ với túi tiền không đáy. Sau khi nghiên cứu tình hình kỹ lưỡng, Aretino tập trung vào Hầu tước xứ Mantua, và liền viết một bài anh hùng ca riêng cho hầu tước. Đó là thông lệ thời bấy giời: đổi lại một bài ngợi ca đề tặng, tác giả sẽ đều đặn nhận một khoản tiền nho nhỏ, đủ để sống qua ngày và cho ra sản phẩm kế tiếp, và như thế tác giả luôn sống trong tình trạng lệ thuộc.

    Nhưng với Aretino thì khác, anh ta muốn có quyền lực chứ không phải món tiền còm. Anh ta biếu bài anh hùng ca cho hầu tước như là một món quà, chứng tỏ mình không phải là tay bồi bút kiếm tiền độ nhật, qua đó khẳng định người cho và người nhận bình đẳng với nhau.

    Việc tặng quà của Aretino không dừng ở đấy: là bạn thân của hai nghệ sĩ tài danh nhất Venice là điêu khắc gia Sansovino và họa sĩ Titian, Aretino thuyết phục họ tham gia vào chiến lược. Vì vậy khi anh ta gửi tặng một lúc những quà tặng từ ba nghệ sĩ lừng danh ở ba lĩnh vực khác nhau, hầu tước mừng không tả xiết.

    Chiến lược quà cáp vẫn tiếp tục những tháng sau đó – gươm kiếm, yên cương, vật phẩm nghệ thuật. Và cả ba người bạn cũng nhận đồ lại quả của hầu tước. Và chiến lược còn tiến xa thêm: Khi chàng rể của một người bạn của Aretino bị bắt giam ở Mantua, Aretino nhờ hầu tước can thiệp trả tự do. Là thương gia bậc nhất, người bạn của Aretino rất có thế lực ở Venice và sẵn sàng trả ơn bất kỳ lúc nào Aretino cần. Vòng xoay ảnh hưởng ngày càng lan rộng.

    Tuy nhiên về sau mối quan hệ này căng thẳng vì Aretino cho rằng lẽ ra hầu tước phải rộng rãi hơn. Nhưng anh ta không muốn hạ mình xin xỏ hoặc than vãn. Vì việc trao đổi quà tặng đã đặt hai người vào tư thế bình đẳng nên nếu đả động chuyện tiền bạc thì không phải chút nào. Aretino chỉ đơn giản rút lui khỏi vòng thân cận của hầu tước để săn lùng những con mồi giàu có hơn. Đầu tiên anh ta tiếp cận Vua François của nước Pháp, sau đó đến gia đình Medici, rồi Công tước xứ Urbino, kế tiếp là Hoàng đế Charles V và nhiều người khác nữa.

    Cuối cùng, có nhiều sư phụ có nghĩa là ta không phải thần phục riêng ai, từ đó quyền lực của Aretino hình như tương đương với những sư phụ ấy.

    Diễn giải

    Aretino hiểu được hai thuộc tính cơ bản của đồng tiền: Thứ nhất, đồng tiền phải luân chuyển mới phát sinh quyền lực. Điều mà đồng tiền mua không phải là những đồ vật vô tri, nhưng phải là quyền lực đối với mọi người. Khi giữ cho đồng tiền quay vòng không nghỉ, Aretino mua được một vòng xoay ảnh hưởng ngày càng rộng, mà cuối cùng còn mang lại cho anh ta nhiều hơn những gì đã bỏ ra.

    Thứ nhì, Aretino hiểu tính chất chủ chốt của quà tặng. Tặng một món quà, điều đó hàm ý rằng ta cao hơn người nhận, hoặc ít nhất cả hai bình đẳng với nhau. Món quà khiến cho người nhận phải mắc nợ hoặc hàm ân. Ví dụ như khi bạn bè tặng ta món gì miễn phí, chắc chắn là họ hy vọng sẽ được lại quả, và ta lại quả vì ta cảm thấy mắc nợ. (Họ có thể ý thức hoặc không ý thức cơ cấu vận hành này, song theo tập quán thì nó là như vậy)

    Aretino muốn tránh những vướng mắc tương tự. Thay vì làm lính gác nhờ cậy vào cấp trên để kiếm sống, anh ta hành động ngược lại. Thay vì mắc nợ người quyền lực, anh ta làm cho họ phải mắc nợ trước. Đó là mục tiêu của việc tặng quà, xem như nấc thang đưa Aretino lên đài danh vọng. Đến cuối đời, anh ta trở thành cây bút nổi tiếng nhất châu Âu.

    Bạn nên nhớ là tiền bạc có thể quyết định quan hệ quyền lực, nhưng những quan hệ này lại không nhất thiết tùy thuộc vào túi tiền của bạn, mà còn tùy cách bạn xài đồng tiền ấy. Kẻ tài ba tặng cho người khác quà cáp mà không lấy lại tiền vì họ muốn mua ảnh hưởng chứ không cần đồ vật. Nếu vì chưa có tiền tài mà ta phải chấp nhận vị trí thấp kém, có khả năng cả đời ta sẽ không thoát khỏi vị trí ấy. Vậy ta hãy chơi cái trò mà Aretino đã chơi với giới quý tộc Ý: Hãy tưởng tượng mình bình đẳng với họ. Hãy sắm vai vương tôn công tử, hãy ban tặng, hãy mở rộng cửa cho đồng tiền quay vòng, và tạo ra mặt tiền quyền lực qua thuật giả kim biến tiền tài thành danh vọng.

    James Rothschild giải khuây dân chúng

    Không lâu sau khi làm giàu tại Paris hồi đầu thập niên 1820, Nam tước James Rothschild phải đối đầu với một vấn đề nan giải: Làm cách nào mà một người Đức Do Thái giáo, một người hoàn toàn ngoại lai đối với xã hội Pháp lại có thể thu phục được sự kính nể của tầng lớp thượng lưu Pháp nổi tiếng bài ngoại? Là người hiểu rõ thế nào là quyền lực – ông biết tiền tài sẽ mang lại danh vọng, nhưng nếu bị cô lập về mặt xã hội thì cả tiền tài lẫn danh vọng đều không thể lâu bền. Vì vậy ông quan sát xã hội thời bấy giờ, tự hỏi xem điều gì sẽ làm mềm lòng thiên hạ.

    Từ thiện? Dân Pháp không quan tâm. Ảnh hưởng chính trị? Ông đã có rồi, và điều này chỉ làm thiên hạ nghi kỵ ông thêm mà thôi. Cuối cùng ông nhận ra đó chính là sự buồn chán. Trong giai đoạn khôi phục chế độ quân chủ, giới thượng lưu Pháp rất buồn chán, vì vậy Rothschild bắt đầu tiêu xài cực kỳ lớn để giải khuây dân chúng. Ông thuê các kiến trúc sư tài ba nhất nước Pháp thiết kế vườn tược và phòng khiêu vũ; ông mướn Marie-Antoine Carême, tay đầu bếp lừng danh nhất nước Pháp, chuẩn bị các bữa tiệc xa hoa nhất mà Paris chưa từng thấy. Không người Pháp nào có thể cưỡng lại được, cho dù tiệc chủ chính là một người Đức Do Thái giáo. Những buổi dạ tiệc hàng tuần của Rothschild bắt đầu lôi cuốn ngày càng đông khách. Chỉ vài năm sau ông đã nắm được điều duy nhất có thể đảm bảo quyền lực của một kẻ ngoại lai: Sự nhìn nhận xã hội.

    Diễn giải

    Sự hào phóng chiến lược luôn là vũ khí hiệu quả để xây dựng một căn cứ hỗ trợ, đặc biệt đối với một kẻ ngoại lai. Tuy nhiên Nam tước Rothschild còn khôn ngoan hơn thế nữa: Ông biết chính tiền tài là rào chắn giữa mình và dân Pháp, khiến họ thấy ông xấu xa và khó tin. Cách hay nhất để vượt qua rào cản này chính là phung phí những món tiền khổng lồ, một cử chỉ chứng minh ông xem văn hóa và xã hội Pháp còn quan trọng hơn tiền bạc. Điều Rothschild làm cũng giống như một lễ hội potlatch của thổ dân miền Tây-Bắc nước Mỹ: Một bộ lạc da đỏ thỉnh thoảng tiêu phí hết tất cả của cải vào một chuỗi lễ hội và lửa trại để chứng tỏ sức mạnh vượt trội đối với các bộ lạc khác. Nền tảng sức mạnh đó không là tiền bạc, mà chính là khả năng tiêu xài và niềm tin vào tính ưu việt, vốn sẽ tạo lại cho bộ lạc tất cả những gì mà lễ hội potlatch đã hủy hết.

    Rốt cuộc, những buổi dạ hội của Rothschild phản ánh mong muốn hòa nhập không chỉ vào cộng đồng kinh doanh Pháp mà còn vào xã hội. Khi phung phí tiền của vào loại potlatch đó, Rothschild hy vọng chứng tỏ cho dân Pháp thấy sức mạnh của ông còn vượt qua cả tiền bạc để hòa nhập vào lĩnh vực văn hóa quý báu. Khi tiêu xài như vậy, có thể Rothschild đã lấy lòng được xã hội Pháp, nhưng nền tảng hỗ trợ mà ông có được là loại nền tảng mà nếu chỉ có tiền thôi chưa chắc mua nổi. Ông “phung phí” của cải để gìn giữ của cải. Đó là ví dụ ngắn gọn của sự hào phóng chiến lược – khả năng linh động với tiền bạc, làm cho tiền bạc hoạt động hiệu quả, không phải để mua sắm, mà để đắc nhân tâm.

    Chiến lược mạnh thường quân

    Gia tộc Medici của thành phố Florence thời Phục hưng đã xây dựng quyền lực bao la của họ trên tài sản tạo được từ việc kinh doanh ngân hàng. Nhưng đối với dân Florence có truyền thống cộng hòa hàng bao thế kỷ, ý niệm rằng tiền bạc có thể mua quyền lực đã đi ngược lại mọi giá trị dân chủ mà họ hết sức tự hào. Là người đầu tiên trong họ gia tộc De Medici được vang danh, Cosimo tránh né việc đối đầu trực tiếp bằng cách cư xử thật khiêm nhường. Ông ta không bao giờ khoe khoang của cải. Nhưng đến khi đứa cháu nội Lorenzo lớn lên, tài sản của gia tộc đã quá lớn, và ảnh hưởng của họ hiển nhiên đến nỗi không thể che đậy được nữa.

    Lorenzo giải quyết vấn đề theo cách riêng: Triển khai chiến lược làm đãng trí mà giới nhà giàu thường sử dụng. Lorenzo trở thành mạnh thường quân nổi tiếng nhất lịch sử. Không chỉ mạnh tay mua tranh, ông còn sáng lập những trường tập sự tốt nhất Italia cho nghệ sĩ trẻ. Chính tại một trong những ngôi trường đó mà Michelangelo được Lorenzo chú ý, sau đó mời về ăn ở tại nhà. Ông ta cũng khoản đãi Leonardo da Vinci y hệt như vậy. Về dưới trướng Lorenzo, hai bậc danh tài Michelangelo và Leonardo trả ơn bằng cách trung thành với lò nghệ thuật Lorenzo.

    Mỗi khi gặp phải đối thủ, Lorenzo lại sử dụng lá bùa mạnh thường quân. Khi thành phố Pisa đe dọa nổi loạn chống lại Florence vào năm 1472, ông ta liền đổ tiền vào tài trợ cho ngôi trường đại học, trước đây từng là niềm tự hào của Pisa nhưng hiện đang xuống cấp. Dân Pisa không làm gì được trước ngón đòn phù phép đó, vì lòng yêu mến văn hóa của họ được xoa dịu và họ không còn lòng dạ nào để gây chiến nữa.

    Diễn giải

    Chắc chắn Lorenzo rất yêu nghệ thuật, nhưng việc đỡ đầu các nghệ nhân lại là việc làm hết sức thực dụng. Vào thời đó tại Florence, việc kiếm lời từ ngành kinh doanh ngân hàng có lẽ là cách làm giàu bị dè bỉu nhất, đồng thời sức mạnh tài chính đó cũng không mấy được tôn trọng. Ở cực đối diện, nghệ thuật được tôn sùng gần như là một tôn giáo. Lorenzo chi trả cho nghệ thuật để xoa dịu dư luận quần chúng về nguồn gốc xấu xa của tài sản và tạo cho mình một vỏ bọc quý phái. Sự hào phóng chiến lược hiệu quả nhất khi được dùng để xóa mờ một thực tế không mấy thơm tho, đồng thời khoác lên mình một cái áo bào vị nghệ thuật hay tôn giáo.

    Louis XIV thật rộng lượng

    Cặp mắt sắc bén của Vua Louis XIV của nước Pháp rất am tường sức mạnh chiến lược của kim tiền. Thời điểm Louis lên ngôi, giới quý tộc hùng mạnh đã là cái gai chọc vào sườn hoàng gia, và họ luôn sục sôi tạo phản. Vì vậy nhà vua làm cho họ nghèo đi bằng cách buộc họ phải trả rất nhiều tiền để duy trì chức tước trong triều. Qua thời gian, các nhà quý tộc phải dựa vào bổng lộc hoàng gia mới có thể sống nổi, nhờ vậy Louis bỏ túi họ một cách gọn gàng và sạch sẽ.

    Nước cờ tiếp theo của Louis là dùng sự rộng lượng có chiến lược để làm cho giới quý tộc phải quỳ mọp: Mỗi khi phát hiện một triều thần ương ngạnh mà ông muốn thu phục, Louis sẽ dùng tiền để tác động. Trước tiên Louis làm như không biết rằng có hắn trên đời này, điều khiến cho hắn hết sức lo âu. Rồi đột nhiên hắn khám phá ra rằng thằng con trai mình bỗng dưng được bổ nhiệm vào một vị trí có thu nhập cao, hoặc Nhà nước mạnh tay giải ngân cho vùng quê nhà của hắn, hoặc là hắn được tặng một bức tranh trước nay vẫn hằng ao ước. Quà cáp từ tay Louis tuôn ra như suối. Cuối cùng, một thời gian sau Louis sẽ mời nhà quý tộc đó đến để đặt vấn đề về điều mà nhà vua muốn có. Nhà quý tộc ấy vốn trước nay từng thề thốt kiên quyết chống lại hoàng gia, giờ cảm thấy không còn thích chiến đấu. Một món tiền hối lộ thẳng thừng có thể sẽ làm ông nổi giận, nhưng cách lấy lòng của Louis thì êm đẹp hơn nhiều. Biết rằng rễ mềm khó bén trên mảnh đất cằn cỗi khô cứng, Louis làm cho đất xốp trước khi gieo.

    Diễn giải

    Louis biết có một yếu tố cảm xúc bén rễ sâu xa trong thái độ của chúng ta đối với tiền bạc, một yếu tố bắt nguồn từ thời thơ ấu. Khi còn nhỏ, đủ loại cảm giác rắc rối của chúng ta đối với cha mẹ đều xuất phát từ quà cáp, đứa bé lúc ấy đồng hóa món quà với tình yêu và sự tán thành. Và yếu tố cảm xúc đó đâu đã phai tàn. Những kẻ nhận quà biếu hay tiền bạc hoặc hình thức tặng dữ nào đó cũng đột nhiên đều yếu đuối như trẻ con, đặc biệt khi món quà đến từ người có quyền lực. Họ không thể không cởi mở, ý chí của họ tơi ra, như Louis đã làm tơi đất.

    Khả năng thành công sẽ cao hơn khi món quà đến đột xuất. Phải làm sao cho một món quà có vẻ như vậy trước nay chưa ai được tặng, hoặc trước đó người tặng quà lại có thái độ hờ hững với người được tặng. Bạn càng tặng thường xuyên thì hành động tặng càng mất hiệu quả. Bởi vì dần dà người nhận sẽ nghĩ điều đó là đương nhiên, hoặc là họ sẽ bực bội vì mặc cảm với món quà từ thiện. Món quà đột xuất và bất ngờ sẽ thu phục được nhân tâm.

    Cái chén của Fushimiya

    Fushimiya là nhà buôn đồ cổ sống tại Edo (ngày nay là Tokyo) hồi thế kỷ XVII. Ngày kia khi dừng chân tại quán trà ở một làng nhỏ, ông xăm xoi cái chén trà và cuối cùng mua nó mang theo. Một thợ gốm địa phương thấy vậy bèn chờ khách ra khỏi quán, xong chạy đến hỏi bà chủ xem khách là ai. Bà bảo đó là người sành điệu bậc nhất ở Nhật Bản và là nhà buôn đồ cổ được sứ quân Izumo quý mến. Thợ gốm liền ba chân bốn cẳng đuổi theo năn nỉ Fushimiya nhường lại cái chén, vì cho rằng nó phải giá trị lắm thì ông ta mới mua. Fushimiya cười thật thà: „Nó chỉ là cái chén bình thường xứ Bizen, loại giá rẻ. Lý do tôi mua là vì hơi nước nóng lơ lửng thật lạ trên miệng chén nên tôi nghi là nó bị nứt đâu đó“. Nhưng vì người thợ gốm vẫn khẩn khoản nên Fushimiya biếu không cho anh ta.

    Anh ta liền mang cái chén đi khắp nơi để giới am tường trả được giá cao, nhưng người nào cũng bảo đó là chén thường. Anh bỏ bê cơ nghiệp, lúc nào cũng mơ tưởng cái chén sẽ giúp mình thu về khối bạc. Sau cùng anh ta cũng đến cửa hàng của Fushimiya tại Edo. Nhận thấy chỉ vì vô tình mà mình đã làm người khác điêu đứng, nhà buôn bù đắp bằng cách mua lại cái chén với giá 100 đồng vàng ryo. Fushimiya biết chắc cái chén chẳng có giá trị gì, nhưng vì muốn giúp anh thợ gốm thoát được cơn ám ảnh nên hào phóng bù đắp cho.

    Chẳng bao lâu sau, tin đồn về cái chén 100 ryo lan nhanh. Tất cả các tay buôn đồ cổ đều kêu réo Fushimiya, tìm mọi cách để mua lại cái chén. Mặc dù Fushimiya thật thà kể lại hoàn cảnh ông phải bỏ tiền ra nhưng không ai chịu tin, cuối cùng để được yên thân ông ta phải mang ra đấu giá.

    Chỉ mới vào lần bỏ giá đầu tiên đã có hai đồng nghiệp cùng hét 200 ryo, cùng cãi nhau ỏm tỏi và cuối cùng ôm nhau vật nhào, làm đổ bàn khiến cái chén rơi thành nhiều mảnh. Cuộc đấu giá xem như chấm dứt. Fushimiya nhặt nhạnh tất cả, dày công dán lại rồi cất đi. Nhưng nhiều năm sau đó bậc thầy về trà đạo là Matsudaira Furnai đến viếng cửa hàng, đề nghị được xem cái chén truyền thuyết. Sau khi xem xét, ông nói: „Nếu là hàng hóa thì nó chẳng đáng bao nhiêu, nhưng một bậc thầy về trà đạo đánh giá tình cảm và mối tương quan còn cao hơn cả giá trị kim tiền“. Ông bỏ ra món tiền thật lớn để tậu nó. Một cái chén còn thô hơn cả mức bình thường, lại bị vỡ rồi dán lại, vậy mà lại trở thành một trong những đồ vật nổi tiếng nhất nước Nhật.

    Diễn giải

    Trước tiên câu chuyện cho thấy khía cạnh chủ yếu của đồng tiền: Chính con người đã tạo ra tiền bạc và đặt cho nó ý nghĩa và giá trị. Kế đến, với những vật thể như kim tiền, điều mà kẻ anh tài đánh giá cao chính là những tình cảm và xúc cảm hàm chứa bên trong – vì chính những thứ đó mới làm cho đồng tiền đáng để ta sở hữu. Bài học thật đơn giản: Càng thiết thân với tình cảm, thì những quà cáp và hành động hào phóng của bạn càng hiệu quả. Đồ vật nào, hoặc ý niệm nào vận dụng được tình cảm hoặc có được sợi dây cảm xúc sẽ mạnh mẽ hơn đồng tiền mà bạn lãng phí cho một món quà đắt tiền nhưng rỗng tuếch.

    Cái chén của Suzutomo

    Một môn đồ trà đạo giàu có tên là Akimoto Suzutomo có lần giao cho gia nhân 100 đồng vàng ryo, dặn đến nhà buôn đồ cổ mua một cái chén. Đến cửa hàng, gia nhân tự ý mặc cả và mua được cái chén với giá 95 ryo, về nhà khoe lại với chủ.

    „Nhà ngươi thật quá ngu xuẩn!“ Suzutomo mắng, „Một chén trà mà người ta ra giá 100 ryo hẳn phải là vật gia bảo, mà gia đình chỉ buộc lòng bán đi vì quá ngặt nghèo. Và trong trường hợp này họ còn hy vọng có người sẽ trả nó tới 150 đồng vàng. Vậy nhà ngươi là thứ gì mà không đếm xỉa đến tình cảm của người khác? Ngoài ra, vật quý hiếm với giá 100 ryo rất đáng để ta sở hữu, trong khi vật 95 ryo làm ta có cảm giác làng nhàng. Vậy đừng để ta thấy cái chén này nữa!“. Rồi Suzutomo ra lệnh cất đi, không bao giờ mang ra nữa.

    Diễn giải

    Khi cò kè trả giá, có thể bạn tiết kiệm được 5 ryo, nhưng bạn đã gây nên sự xúc phạm và cảm giác rẻ tiền, khiến uy tín bạn bị ảnh hưởng. Mà uy tín lại là phần thưởng cao nhất. Hãy học cách trả trọn mức giá vì cuối cùng bạn sẽ được lợi ở khoản khác.

    Tuấn mã trong quả bầu

    Nhật Bản khoảng cuối thế kỷ XVI. Một nhóm tướng sĩ tiêu khiển bằng trò ngửi mùi đoán nhang. Mỗi người mang theo một vật để làm giải thưởng – cung, tên, yên cương và vài phụ tùng khác của chiến binh.

    Tình cờ sứ quân Date Masamune đi ngang qua nên được mời tham gia. Vật mà ông ta đưa ra để góp phần vào quỹ thưởng là bầu nước treo ở thắt lưng. Ai ai cũng cười xòa vì vật đó đâu đáng gì. Cuối cùng cũng có người tùy tùng bằng lòng nhận quả bầu.

    Tuy nhiên đến khi cuộc chơi kết thúc và nhóm tướng sĩ đang chuyện trò phía bên ngoài lều, Masamune bước ra dẫn con ngựa quý của mình trao cho người tùy tùng. „Đây là con ngựa từ bầu nước chui ra“. Nhóm tướng sĩ sững sờ và tiếc rẻ vì mình đã xem thường quà tặng của Masamune.

    Diễn giải

    Masamune biết đồng tiền có khả năng làm cho mọi người hài lòng. Thực hiện được việc này càng nhiều thì ta càng được người khác ngưỡng mộ. Khi hô biến cho con ngựa từ bầu nước chui ra, xem như bạn đã chứng minh được quyền lực hùng mạnh của mình.

    Hình ảnh:

    Dòng sông. Bạn tưởng được lợi khi xây đập ngăn sông. Tuy nhiên không lâu sau nước ao tù trở thành nhơ nhớp và đầy mầm dịch bệnh. Chỉ những loài ghê tởm nhất mới có thể sống trong vũng nước đọng; không có gì di chuyển đi lại trên mặt nước, mọi mậu dịch đều đình trệ. Hãy phá hủy cái đập. Khi lưu thông và luân chuyển, dòng nước sẽ tạo ra trù phú phì nhiêu và sức mạnh ở quy mô rộng lớn hơn. Sông phải chảy để những điều tốt lành có thể phát triển.

    Ý kiến chuyên gia:

    Một con người vĩ đại mà lại keo kiệt thì trở thành một thằng ngốc vĩ đại, và đối với người ở vị trí cao, không có sự xấu xa nào tai hại bằng tính ích kỷ tham lam. Kẻ bủn xỉn không thể chinh phục đất đai chức tước gì cả, bởi vì hắn không có nguồn bạn bè để góp sức thực hiện ý nguyện của mình. Muốn có bạn, ta không được ôm ấp tài sản của mình mà phải thu phục bạn bè bằng những món quà thích hợp. Đá nam châm tinh vi hút sắt như thế nào thì vàng bạc cũng thu phục được con tim thiên hạ.

    (The Romance of the Rose,

    Guillaume de Lorris, khoảng 1200-1238)

    NGHỊCH ĐẢO

    Người tài ba không bao giờ quên rằng cho vật không chắc chắn phải chứa đựng thủ đoạn. Người nào giúp bạn không công, sau này sẽ đòi hỏi nhiều thứ đáng giá hơn số tiền mà lẽ ra bạn phải trả cho họ. Việc mặc cả luôn che giấu nhiều vấn đề vật chất lẫn tâm lý. Vì vậy bạn hãy học cách trả, và trả cho ngon.

    Mặt khác, nguyên tắc này cũng giúp ta có nhiều cơ hội bịp bợm, nếu ta áp dụng nó từ phía ngược lại. Mời ăn trưa miễn phí thường là món hàng trao đổi của thầy lừa.

    Về mặt này có lẽ không ai hơn Joseph Weil, hỗn danh „The Yellow Kid“. Từ rất sớm, ông ta đã phát hiện ra rằng mình thành công là nhờ vào lòng tham của thiên hạ. „Cái mong muốn được điều gì đó miễn phí“, ông viết „đã làm cho những ai làm ăn với tôi và với các thầy lừa khác phải trả giá rất đắt… Khi người ta rút được kinh nghiệm – chưa biết họ đã rút được chưa – rằng không thể ăn bánh mà không trả tiền, thì tội ác sẽ giảm thiểu và chúng ta sẽ chung sống hài hòa hơn“. Suốt nhiều năm, Weil nghĩ ra nhiều cách để dụ cho người ta ham muốn đồng tiền dễ kiếm. Weil rêu rao ông sẵn sàng tặng miễn phí một số bất động sản cho những ai chịu tốn 25 đôla tiền đăng ký – liệu ai có thể cưỡng lại món hời này? Trò đăng ký dởm này mang về cho Weil hàng ngàn đôla, trong khi ông ta đưa cho các nạn nhân những giấy chứng nhận dởm. Lần khác, ông lại tung tin mua đứt kết quả đua ngựa, hoặc về loại cổ phiếu sắp tăng 200% giá trị chỉ trong vài tuần lễ. Trong khi triển khai câu chuyện, Weil quan sát nạn nhân mở to mắt tưởng tượng ra bữa ăn trưa miễn phí.

    Bài học ở đây là: Dụ nạn nhân với viễn cảnh đồng tiền dễ kiếm. Nhìn chung, thiên hạ muốn làm giàu mà không tốn sức, nên họ sẽ lọt bẫy. Bạn hứa dạy họ cách kiếm tiền nhanh chóng nếu họ chịu bỏ ra một ít học phí, mức học phí này nhân với hàng ngàn nạn nhân thì bạn sẽ giàu to. Lòng tham là thứ dễ dàng làm mờ mắt mọi người, nên ở lĩnh vực này bạn có thể giở được nhiều trò. Và như The Yellow Kid từng nói, một nửa niềm vui đến từ bài học đạo đức ấy: Tham thì thâm.
     
  3. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 41: Thoát Khỏi Bóng Tiền Nhân

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Việc gì diễn ra lần đầu cũng có vẻ hay hơn, độc đáo hơn những gì đến sau. Nếu tiếp nối công việc của một vĩ nhân hoặc có người thân quá nổi tiếng, bạn phải có thành tựu gấp đôi mới mong tỏa sáng hơn họ. Đừng để cái bóng của họ phủ chụp lên bạn, đừng bám víu vào một quá khứ không phải do bạn tạo ra. Hãy xây dựng tên tuổi mình bằng lộ trình khác. Hãy thủ tiêu hình ảnh của bậc tiền bối cao ngạo, bạn mới thu gom quyền lực bằng sự tỏa sáng theo cách của riêng mình.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Năm 1715 khi Louis XIV băng hà sau 55 năm trị vì vẻ vang, mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía đứa cháu cố được chọn kế vị, tức vua Louis XV tương lai. Liệu đứa bé năm tuổi này mai đây có khả năng trở thành vị lãnh đạo vĩ đại như Vua Mặt trời? Louis XIV đã biến một đất nước trên bờ nội chiến thành quyền lực số một ở châu Âu. Tuy những năm cuối cùng trị vì khá khó khăn vì ông đã già yếu, song mọi người vẫn hy vọng đứa cháu sẽ trở thành một lãnh đạo hùng mạnh để mang lại sức sống mới cho đất nước và củng cố tiền đồ mà Louis XIV đã tạo lập.

    Vì vậy những bộ óc lỗi lạc nhất nước Pháp được mời đến dạy dỗ vị vua tương lai, việc giáo dục ngài không còn sót một thứ gì. Nhưng khi lên ngôi vào năm 1726, Louis XV đột ngột thay đổi: Không chịu học hành, không làm theo lời khuyên bảo hoặc chứng tỏ tài năng. Ông ta đứng một mình trên đỉnh một đất nước lớn lao, trong tay biết bao quyền lực và của cải. Ông ta toàn quyền làm theo ý thích.

    Như muôn đời, triều đình cũng rập theo ý thích của kẻ trị vì. Ăn chơi cờ bạc như cơm bữa. Lũ quần thần không quan tâm gì đến tiền đồ tổ quốc, bao nhiêu công sức bỏ ra chỉ để làm đẹp lòng vua, để mưu cầu bổng lộc sao cho phú quý cả đời, tranh giành chức vị nào lao động ít mà hưởng thụ nhiều. Hàng đống ký sinh ùa về triều đình, công nợ ngày càng chồng chất.

    Chưa hết, Louis XV còn nổi tiếng về những vụ tình ái mà nổi bật là hai gương mặt Madame de Pompadour và Madame du Barry. Cả hai đều tha hồ thao túng triều chính vì nhà vua không màng chuyện chính trị. Thời gian qua đi, nhiều tay lừa đảo và lang băm chọn Versailles làm chỗ vinh thân, mê hoặc vua bằng những điều mê tín. Louis XV ngày càng hư đốn.

    Khẩu hiệu gắn liền với triều đại của ông: „Sau ta là cơn hồng thủy“, thật xác đáng bởi vì sau khi Louis qua đời vì trác táng, tình hình đất nước vô cùng suy thoái. Đứa cháu nội Louis XVI thừa kế một lãnh thổ đang vô vọng trông chờ đổi mới với một bàn tay cứng rắn hơn.

    Diễn giải

    Uy quyền của Vua Mặt trời Louis XIV to lớn như truyền thuyết. Và mặc dù ông có nhiều cung phi, song quyền lực của họ chỉ giới hạn trong phòng ngủ. Triều đình của vị vua này quy tụ những bộ óc sáng giá nhất thời bấy giờ. Louis XIV đưa một đất nước bên bờ vực nội chiến thành thế lực số một ở châu Âu.

    Trái lại, Louis XV là điển hình của những ai thừa hưởng tiền đồ quá lớn, hoặc kẻ tiếp bước một tiền nhân quá vĩ đại. Thoạt trông thì kẻ hậu bối sẽ dễ dàng tiếp tục xây dựng trên nền tảng vững chắc mà bậc tiền bối để lại, nhưng trên lĩnh vực quyền lực thì điều ngược lại là có thật. Trong hầu hết mọi trường hợp, đứa con cưng sẽ tiêu pha vung vít tài sản thừa kế, bởi vì hắn không bắt đầu sự nghiệp bằng nhu cầu lấp đầy những khoảng trống như tiền nhân đã làm. Như Machiavelli từng nói, nhu cầu là động cơ thúc đẩy hành động, và khi không còn nhu cầu thì mọi thứ bị bỏ bê đến rữa nát. Louis XV không thể nào tránh khỏi tính ì. Vì vậy dưới thời ông ta, Versailles không còn là biểu tượng mặt trời chói lọi mà chỉ còn là một cung điện xoàng xĩnh, đại diện cho những gì nông dân căm ghét.

    Louis XV chỉ có một con đường thoát khỏi cái bẫy đang chờ kẻ kế vị của một người như Vua Mặt trời: Về mặt tâm lý, phải bắt đầu từ con số không, chối bỏ quá khứ và di sản, tiến về hướng hoàn toàn mới, tạo ra thế giới của riêng mình. Nếu có quyền chọn lựa, ta nên tránh toàn bộ tình huống sẵn có, đặt mình vào khoảng trống quyền lực, nơi ta là người vãn hồi trật tự giữa chốn hỗn mang mà không bị so sánh với một vì sao khác trong vũ trụ. Quyền lực chỉ đến khi ta có vẻ vĩ đại hơn người khác, vì vậy nếu bị che mờ bởi bóng của tiền nhân, ta sẽ không có được quyền lực đó.

    Nhưng khi bắt đầu thừa kế quyền lực tối cao,

    bọn trẻ nhanh chóng tụt hậu so với cha ông; và thay vì

    cố gắng để sánh kịp cha ông, chúng lại nghĩ rằng một ông hoàng chẳng còn gì để làm ngoài việc trội hơn tất cả mọi người về

    mặt biếng nhác, say mê và mọi thứ lạc thú khác.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Từ thời thanh niên, Alexander (mà sau này được gọi là Đại đế) luôn căm ghét cha mình, Vua Philip xứ Macedonia. Anh ghét lối cai trị cẩn trọng và xảo trá của vua cha, ghét những lời khoa trương, những bàn tiệc thâu đêm với rượu ngon gái đẹp, ghét việc Philip yêu thích xem đấu vật cùng với những trò tiêu tốn thời gian khác. Alexander ý thức rằng mình phải làm ngược lại những hành động của người cha độc đoán: Anh quyết trở thành kẻ táo bạo và liều lĩnh, sẽ ít nói để làm chủ cái lưỡi, sẽ không mất thì giờ vào việc truy tìm những niềm hoan lạc không mang lại vinh quang. Alexander cũng căm ghét việc Philip đã xâm chiếm hầu hết nước Hy Lạp: „Cha tôi sẽ tiếp tục cho đến khi không còn gì đặc biệt để cho tôi chinh phục“. Trong khi con cái những người tài ba khác rất hài lòng thừa hưởng phú quý và sống một cuộc sống khoái lạc, Alexander chỉ muốn vượt qua cha mình, làm lu mờ tên tuổi của ông trong lịch sử bằng những chiến tích lẫy lừng hơn nữa.

    Alexander rất nóng lòng chứng tỏ cho mọi người thấy mình còn hơn cha xa lắc. Một ngày kia có kẻ buôn ngựa từ Thessaly tới bán cho Philip con tuấn mã Bucephalus. Không một chuyên gia nào có thể đến gần con ngựa chứng này và Philip mắng tên lái buôn vì đã dâng một con ngựa bất kham. Đứng nhìn toàn bộ vụ việc, Alexander quắc mắt lớn tiếng phê bình nhiều lần: „Bọn họ sắp mất một con ngựa quý chỉ vì không đủ tài năng và tinh thần để chế ngự nó!“. Nghe con lặp đi lặp lại mãi điều này, Philip phát cáu và thách con nhảy lên lưng ngựa, thầm mong con vật hoang dã kia sẽ làm cho nó ngã và rút ra bài học cay đắng. Nhưng chính Alexander mới là thầy dạy: Không chỉ nhảy được lên lưng ngựa, anh ta còn tùy ý điều khiển con tuấn mã lừng danh mà sau này luôn có mặt cùng Alexander Đại đế trong những cuộc viễn chinh.

    Năm Alexander lên 18 thì Philip bị một triều thần bất mãn ám sát. Khi tin này lan truyền khắp Hy Lạp, từng trấn một thi nhau nổi loạn chống người Macedonia thống trị. Đám quân sư của Philip khuyên Alexander nên hành động cẩn trọng, làm theo gương Philip để chinh phục bằng mưu mô xảo quyệt. Nhưng Alexander gạt hết ngoài tai để làm theo ý mình: Dẫn quân trực chỉ những miền xa xôi hiểm trở nhất, dẹp tan bọn phản loạn và tái thống nhất vương quốc bằng loại bạo lực vô cùng hiệu quả.

    Thông thường, khi chàng thanh niên nổi loạn già đi thì sự chống đối cũng dần phai nhạt và anh ta càng giống với người mà anh ta từng thách thức. Nhưng việc Alexander ghét bỏ cha mình không dừng lại với cái chết của Philip. Khi bình định xong Hy Lạp, anh ta ghé mắt sang Persia, cái giải thưởng mà cha anh chưa thể sờ tới.

    Alexander dẫn 35.000 binh mã sang châu Á để đối đầu với đội quân trên một triệu người của Persia, và cuối cùng đã chiến thắng. Mọi người những tưởng đại đế sẽ dừng lại, vì đó là vinh quang quá lớn đủ để lưu danh hậu thế. Nhưng Alexander nghĩ khác: Việc chinh phục Persia đã là quá khứ và ông ta không bao giờ muốn ngủ quên trên nhành nguyệt quế, không muốn để cho quá khứ tỏa sáng hơn hiện tại. Ông xuất quân nhắm Ấn Độ trực chỉ.

    Diễn giải

    Alexander tượng trưng cho loại người hiếm thấy trong lịch sử: Con của một người tài ba và nổi tiếng nhưng lại vượt qua cả cha mình về mặt vinh quang và quyền lực. Tại sao hiếm thấy? Vì trong hầu hết mọi trường hợp, người cha gom thu đất đai và của cải vì ông ta khởi đầu từ con số không. Ông ta chỉ có một con đường là phải thành công và không có gì để mất. Người cha này có lý khi tin vào chính mình, tin rằng cách của mình là tốt nhất, bởi vì nói cho cùng, cách đó đã thành công.

    Khi một người cha như thế có con, ông ta trở nên độc đoán và áp đặt mọi bài học lên đầu đứa con, vốn bắt đầu cuộc đời theo những hoàn cảnh hoàn toàn khác với khi cha mình bắt đầu. Thay vì để cho con theo hướng mới, ông ta sẽ cố buộc con mình vào nếp cũ, thậm chí nhiều khi thầm mong thằng bé thất bại. Người cha ganh tỵ với sức lực trẻ trung của con cái, luôn muốn điều khiển và thống trị. Con cái của những người cha như vậy thường có khuynh hướng nhút nhát và thận trọng, rất sợ đánh mất những gì cha mình đã gặt hái được.

    Đứa con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi cái bóng của cha, trừ khi áp dụng chiến lược của Alexander: Từ chối quá khứ, tự tạo vương triều, đẩy cha mình vào bóng tối thay vì để ông ta che lấp. Nếu không thể khởi nghiệp từ bàn tay trắng – ta đâu có điên mà từ chối tài sản thừa kế - ít ra ta cũng bắt đầu từ con số không về mặt tâm lý. Chỉ có kẻ yếu đuối mới ngủ quên trên chiến thắng và đầu độc mình bằng quá khứ vinh quang. Thời gian nghỉ ngơi là điều không thể có trong trò chơi quyền lực.

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Tại một số vương quốc cổ xưa như Sumatra và Bengal, sau một thời gian trị vì lâu dài, nhà vua sẽ bị quần thần mang ra xử tử. Một phần vì đây là nghi lễ đổi mới, nhưng cũng là để ngăn ngừa khả năng ông ta trở nên quá hùng mạnh – vì thông thường nhà vua sẽ cố gắng thiết lập một trật tự lâu bền, thiệt thòi cho những gia tộc khác và cho cả con cái mình. Thay vì bảo vệ và lãnh đạo bộ lạc như trong thời chiến, nhà vua có khuynh hướng thống trị. Sau khi bị xử tử, nhà vua sẽ được bộ lạc tôn làm thánh thần. Trong khi đó ngai vàng sẵn sàng đón chào một vị vua mới trẻ trung hơn.

    Thái độ có vẻ mâu thuẫn đối với nhà vua hoặc người cha như vừa kể cũng hiện diện trong truyền thuyết về những anh hùng xuất chúng không biết cha mình là ai. Moses bị bỏ trong bụi cỏ chỉ nên không bao giờ biết cha mẹ là ai. Không có gương mặt tiền nhân để so sánh hoặc hạn chế hành vi, ông ung dụng đạt đến tầm cao quyền lực. Dũng sĩ Hercules có cha không phải là người trần thế, mà là thần Zeus. Đến tuổi trung niên, Alexander Đại đế cho loan tin đồn rằng ông là con của Jupiter Ammon chứ không phải con của Philip vua xứ Macedonia. Những huyền thoại như thế thường loại bỏ ông cha trần thế vì ông tượng trưng cho sức mạnh hủy hoại của quá khứ.

    Quá khứ ngăn cản người anh hùng trẻ tuổi trong việc tạo ra thế giới của riêng mình. Người anh hùng này phải cúi mình trước đấng tiền nhân và tuân thủ tiền lệ với truyền thống. Thành công trong quá khứ buộc phải chuyển tải về hiện tại, cho dù hoàn cảnh đã thay đổi rất nhiều. Quá khứ cũng làm vướng chân người anh hùng trẻ với một di sản mà anh ta rất sợ đánh mất, làm cho anh ta e dè và nhút nhát hơn.

    Có được quyền lực hay không tùy vào việc ta có thể lấp đầy khoảng trống, choán giữ một lĩnh vực đã được trút sạch gánh nặng của quá khứ. Chỉ sau khi hình bóng của ông ta đã được dọn dẹp xong xuôi thì ta mới có đủ không gian cần thiết để sáng tạo và thiết lập một trật tự mới. Để thực hiện việc này ta có nhiều chiến lược khác nhau – những biến thể của việc xử tử nhà vua, nhưng được ngụy trang thành các hình thức dễ chấp nhận hơn về mặt xã hội.

    Có lẽ cách đơn giản nhất để thoát khỏi cái bóng của quá khứ là làm cho nó giảm giá trị, trưng ra sự đối kháng muôn đời giữa các thế hệ, khích lớp trẻ chống lớp già. Muốn vậy ta phải tìm sẵn một gương mặt làm mốc để bêu riếu.

    Khi đứng trước một nền văn hóa kiên cường chống lại mọi đổi thay, Mao Trạch Đông thao túng tâm lý đố kỵ đối với sự hiện diện bao trùm của Khổng Tử. Đánh giá được mối nguy khi phải lạc vào quá khứ, tổng thống Kennedy tìm cách phân biệt triệt để nhiệm kỳ của mình với nhiệm kỳ của người đi trước là Dwight Eisenhower, và cả với thập niên 1950 mà Eisenhower là hình tượng. Chẳng hạn Kennedy không chơi môn golf buồn tẻ và chậm chạp – biểu tượng của sự về hưu và khá giả, niềm đam mê của Eisenhower. Trái lại ông chơi bóng bầu dục ngay trên sân cỏ Nhà trắng. Mọi khía cạnh của chính phủ Kennedy đều phản ánh sinh lực trẻ trung, ngược lại với hình ảnh rề rà nặng nhọc của Eisenhower. Kennedy khám phá một sự thật lâu đời: Tuổi trẻ dễ bày tỏ thái độ đối kháng với tuổi già, vì tuổi trẻ nóng lòng tạo chỗ đứng của riêng mình trong xã hội, đồng thời dị ứng với cái bóng của cha ông.

    Khoảng cách do bạn tạo ra với người đi trước thường đòi hỏi một vài biểu tượng, vài cách tự quảng cáo công khai. Louis XIV từng tạo ra những biểu tượng tương tự khi bác bỏ cung điện truyền thống của các vua Pháp và cho xây dựng cung điện riêng ở Versailles. Vua Philip II của Tây Ban Nha cũng làm như vậy khi tạo ra trung tâm quyền lực của riêng mình – El Escorial, sừng sững giữa chốn đồng không mông quạnh. Nhưng Louis còn đi xa hơn khi không chấp nhận làm giống như các tiên vương: Ông không đội vương miện hay cầm vương trượng và ngồi trên ngai vàng, mà lập ra uy quyền riêng với những biểu tượng và nghi thức của chính ông. Louis đã biến những nghi thức thời cha ông trở thành các di tích buồn cười của quá khứ. Bạn hãy noi gương đó: Đừng để thiên hạ bảo rằng mình chỉ đi theo vết của tiền nhân. Còn nếu cứ theo vết thì bạn sẽ chẳng bao giờ vượt qua họ được. Bạn phải thực sự chứng tỏ sự khác biệt bằng một phong thái và tính biểu tượng làm bạn nổi bật.

    Hoàng đế La Mã Augustus rất hiểu điều này khi kế nhiệm Julius Caesar. Caesar là một vị tướng vĩ đại, một gương mặt rất kịch thường xuyên tổ chức những màn biểu diễn để làm vui dân chúng, một tình nhân cũng vĩ đại khi sẻ chia chăn gối với nữ hoàng Cleopatra. Vì vậy Augustus quyết đua tranh với Caesar không bằng cách vượt qua, mà làm khác ông ta: Augustus đặt quyền lực của mình trên nền tảng của việc trở về với nét đơn giản thuần túy La Mã, khá khắc khổ về phong cách lẫn nội dung. Đối kháng với ký ức về một Caesar vũ bão, Augustus sắm một tư thế trầm lặng và đĩnh đạc tính đàn ông.

    Một khi tiền nhiệm quá bề thế trở thành vấn đề khi hắn đã lấp kín tầm nhìn bằng những biểu tượng của quá khứ, bạn không còn chỗ nào để tạc lấy tên mình. Để xử lý tình huống này, bạn phải tìm ra khoảng trống – những vùng còn để trống trong nền văn hóa mà bạn có thể là gương mặt đầu tiên và chủ chốt sẽ tỏa sáng.

    Khi sắp khởi nghiệp chính khách, Pericles của Athens suy tìm thử xem nền chính trị của thành phố này còn thiếu điều gì. Hầu hết các chính khách lỗi lạc đã liên minh với giới quý tộc và tất nhiên bản thân Pericles cũng có cùng khuynh hướng ấy. Nhưng cuối cùng ông quyết định ngả theo hàng ngũ những người dân chủ. Mặc dù không dính líu gì với những niềm tin của bản thân, song sự lựa chọn đó đã đưa sự nghiệp của ông lên tầm cao mới. Chỉ vì nhu cầu thiết thực, Pericles đã trở thành con người của quần chúng. Thay vì phải ganh đua trong đấu trường đầy dẫy hình ảnh các lãnh tụ vĩ đại của cả quá khứ lẫn hiện tại, ông muốn tạo tên tuổi riêng ở nơi không có cái bóng nào che khuất tên tuổi ấy.

    Khi bắt đầu sự nghiệp, họa sĩ Diego de Velázquez biết mình không thể nào tranh đua về mặt tinh xảo và kỹ thuật với những bậc thầy thời Phục hưng. Ngược lại ông chọn một phong cách mà thời đó cho là thô ráp, một phong cách chưa từng thấy. Và ông lại xuất sắc ở phong cách ấy. Sự mới mẻ của Velázquez đã khích lệ tinh thần nhiều họa sĩ của triều đình Tây Ban Nha, và họ muốn chứng minh mình chia tay với quá khứ. Nhiều người tuy chưa dám táo bạo đoạn tuyệt với truyền thống, nhưng họ âm thầm ngưỡng mộ những ai có thể từ biệt những hình thái cũ và mang lại sức sống mới cho nền văn hóa. Chính vì vậy mà bạn sẽ được nhiều quyền lực khi bước vào khoảng trống.

    Theo chiều dài lịch sử luôn lặp đi lặp lại một điều dại dột làm cản ngại việc mưu cầu quyền lực: Đâm đầu tin rằng hễ người đi trước thành công bằng phương thức A, B và C thì mình cũng sẽ thành công nếu lặp lại phương thức ấy. Cách tiếp cận rập khuôn này sẽ làm khoái chí người không sáng tạo, bởi vì nó dễ làm, đồng thời hấp dẫn tính e dè và sự lười biếng của họ. Nhưng hoàn cảnh thì không bao giờ lặp đi lặp lại y hệt.

    Khi tướng Douglas MacArthur nắm quyền tổng tư lệnh lực lượng Mỹ tại Philippines trong Thế chiến II, một phụ tá trình ông quyển sách ghi lại các phương pháp giúp những vị tổng tư lệnh tiền nhiệm thành công. MacArthur hỏi quyển này có bao nhiêu bản. Sáu, viên phụ tá đáp. “Được, anh thu lượm hết sáu quyển đó rồi đốt bỏ - đốt sạch hết cả sáu. Tôi sẽ không bị ràng buộc với những tiền lệ. Mỗi khi có vấn đề phát sinh tôi sẽ có quyết định tức khắc”. Bạn hãy có cùng chiến lược liều lĩnh như vậy đối với quá khứ: Hãy đốt hết sách, và tự rèn luyện để phản ứng với tình thế mới phát sinh.

    Có thể bạn tưởng mình đã chia ly với hình ảnh của người cha hoặc người tiền nhiệm, nhưng khi dần lớn tuổi, bạn phải luôn cảnh giác nếu không bạn sẽ trở thành cái hình ảnh mà bạn từng chống đối. Khi còn trẻ, Mao Trạch Đông không thích cha mình, và khi chống lại cha, Mao đã tìm thấy bản sắc riêng, cùng với một hệ thống giá trị mới. Nhưng khi già đi, phong cách của ông cha lại âm thầm xâm chiếm. Trước đây cha ông từng đánh giá lao động chân tay cao hơn trí óc, và Mao đã chế giễu thái độ đó. Nhưng khi già đi, Mao vô tình trở về quan điểm của cha và triển khai những ý tưởng lạc hậu lỗi thời bằng cách cưỡng bức cả một thế hệ trí thức Trung Quốc phải đi lao động chân tay, một lỗi lầm như cơn ác mộng khiến chế độ của Mao phải trả giá đắt. Bạn hãy nhớ rằng mình chính là cha mình. Đừng để xảy ra tình trạng phải mất nhiều năm để sáng tạo bản sắc riêng, rồi sau đó mất cảnh giác để cho hồn ma quá khứ hiện về.

    Cuối cùng, như ta đã thấy trong câu chuyện của Louis XV, sự thịnh vượng phì nhiêu có khuynh hướng làm ta lười biếng và ì ạch. Khi quyền lực an toàn rồi thì ta không muốn hành động. Đây là một mối nguy, đặc biệt đối với những ai đạt đến quyền lực và thành công khi còn trẻ. Nhà biên kịch Tennessee Williams chẳng hạn, chỉ nhờ quyển The Glass Menagerie mà một sớm một chiều từ chỗ tối tăm đã vươn lên đài danh vọng.

    “Cuộc sống của tôi trước lần thành công đó”, ông kể lại, “là thứ cuộc sống đòi hỏi ta phải kiên gan, phải bươi cào, nhưng đó là cách sống tốt bởi vì đó là thứ cuộc sống mà cơ thể loài người đã được tạo ra để thích nghi. Tôi không biết đã bỏ ra bao nhiêu sinh lực cho cuộc đấu tranh ấy, mãi cho đến khi kết thúc đấu tranh, cuối cùng cũng được an tâm. Tôi ngồi xuống nhìn quanh và đột nhiên hết sức chán chường”. Williams bị sa sút về mặt tinh thần, nhưng có lẽ trạng thái đó lại cần thiết: Bị dồn tới bờ vực tâm lý, ông lại có thể bắt đầu viết với sinh lực tràn trề như trước và cho ra đời tác phẩm A Streetcar Named Desire. Tương tự như Fyodor Dostyevsky, chỉ khi nào ông lâm vào thế túng thiếu thì mới cảm thấy cần phải sản xuất. Vì vậy ông quyết đem bao nhiêu tiền dành dụm nướng hết vào sòng bạc. Lúc đó ông mới viết được và viết hay.

    Bạn không nhất thiết phải cực đoan như vậy, nhưng hãy chuẩn bị tinh thần trở lại con số không về mặt tâm lý thay vì trở nên mập béo lười nhác bởi vinh hoa. Pablo Picasso luôn thay đổi phong cách tạo hình, thường khi lại đoạn tuyệt với những gì đã giúp ông nổi tiếng trước đó. Biết bao lần vinh quang cũ đã biến ta thành bức tranh biếm họa của chính mình. Người tài ba luôn phát hiện ra những cái bẫy đó. Như Alexander Đại đế, họ luôn đấu tranh để tái tạo mình. Hình ảnh người cha không được phép trở về, hễ thấy là phải thủ tiêu ngay.

    Hình ảnh:

    Người cha. Ông phủ chụp cái bóng to lớn lên bầy con, trù úm chúng trong vòng nô lệ sau khi ông đã ra đi, bằng cách trói buộc chúng với quá khứ, nghiền nát tinh thần tươi trẻ của chúng, ép chúng bước vào lối mòn mệt mỏi mà ông đã qua. Và ông có rất nhiều mánh khóe. Ở mỗi ngã rẽ, bạn phải thủ tiêu hình ảnh ấy và bước ra khỏi cái bóng ám chướng.

    Ý kiến chuyên gia:

    Coi chừng bước vào lối mòn của một vĩ nhân – bạn sẽ phải có thành tựu gấp đôi mới mong vượt qua người ấy. Ai theo bước thì bị xem là bắt chước. Cho dù có đổ bao nhiêu mồ hôi thì họ vẫn không thể rũ bỏ gánh nặng ấy. Phải có tài năng xuất chúng mới tìm ra con đường mới để tỏa sáng, một lộ trình mới để vang danh. Có muôn nẻo dẫn đến sự phi thường, nhưng không phải ai cũng biết. Những lối mới nhất có thể là cam go nhất, song đó lại là lối tắt dẫn đến sự lớn lao.

    (Baltasar Gracián, 1601-1658)

    NGHỊCH ĐẢO

    Cái bóng của một tiền nhiệm vĩ đại có thể hữu ích nếu ta dùng nó làm nước cờ, làm chiến thuật mà ta phải bỏ đi ngay sau khi đạt được quyền lực. Napoléon III đã sử dụng tên tuổi và huyền thoại của ông chú Napoléon Bonaparte để leo lên vị trí tổng thống đầu tiên của nước Pháp, rồi sau đó là hoàng đế. Yên vị trên ngai vàng rồi, ông ta cắt đứt với quá khứ, nhanh chóng chứng tỏ triều đại của ông rất khác, để cho dân chúng không mong chờ ông sẽ có thành tựu đỉnh cao mà Bonaparte đã đạt được.

    Quá khứ thường có nhiều yếu tố đáng giá, nhiều phẩm chất mà ta không dại gì từ bỏ với lý do là ta muốn tạo ra sự khác biệt. Ngay cả Alexander Đại đế cũng nhìn nhận mình chịu ảnh hưởng bởi tài nghệ người cha khi tổ chức quân đội. Nếu không khéo khi khoa trương cách làm khác với tiền nhân, bạn sẽ có vẻ ấu trĩ và thiếu kiềm chế.

    Joseph II, con của nữ hoàng Maria Theresa nước Áo, chơi nổi bằng cách làm ngược lại mẹ - ăn mặc y hệt dân thường, trọ trong khách điếm thay vì cung điện, ra vẻ ta đây là “hoàng đế của quần chúng”. Còn Maria Theresa rất vương giả, nhưng lại được nhân dân mến yêu nhờ lối trị vì khôn ngoan. Nếu bạn đủ trí không và bản năng chỉ đúng đường, thì việc chơi trò nổi loạn sẽ không nguy hiểm. Nhưng nếu chỉ là người xoàng xĩnh như trường hợp Joseph II so với mẹ, tốt hơn bạn nên học tập kinh nghiệm của tiền nhân vì kinh nghiệm đó được đặt trên nền tảng thực tế.

    Cuối cùng, bạn nên để ý đến giới trẻ, những đối thủ quyền lực tương lai. Bạn cố xóa bỏ hình ảnh ông cha như thế nào thì chúng sẽ sớm chơi đúng trò đó, từ bỏ tất cả những gì bạn đạt thành tựu. Bạn nổi trội bằng cách chống lại quá khứ như thế nào thì cũng nên dè chừng thế hệ kế tiếp, không để xổng cây gậy cho chúng đập lên lưng bạn.

    Pietro Bernini là họa sĩ và kiến trúc sư theo trường phái Baroque, và ông có tài đánh hơi các đối thủ trẻ tiềm năng, để rồi sau đó giữ họ mãi trong cái bóng của ông. Ngày kia có người thợ trẻ đẽo đá, tên Francesco Borromini đến trình Bernini xem những bản phác thảo. Nhận ra ngay tài năng của chàng thanh niên, Bernini liền thuê cậu ta làm phụ tá. Dĩ nhiên Francesco rất hài lòng, đâu dè rằng ông chủ đang cố tình giữ mình trong tầm tay để có thể tác động tâm lý, tạo cho anh ta một loại mặc cảm tự ti. Và quả nhiên cho dù Francesco có giỏi giang cách mấy thì chính Bernini mới là người hưởng hết danh lợi. Đây là chiến thuật mà Bernini luôn dùng cả đời: Sợ rằng nhà điều khắc đại tài Alessandro Algardi sẽ soán mất tiếng tăm, Bernini liền sắp xếp để Algardi không thể có đơn đặt hàng, trừ việc làm phụ tá cho ông ta. Và bất kỳ phụ tá nào dám chống lại Bernini hoặc tính chuyện ra riêng, chắc chắn người đó sẽ sạt nghiệp.
     
  4. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 42: Đánh Vào Người Chăn, Đàn Cừu Tan Tác

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nhiều khi vấn đề chỉ xuất phát từ một cá nhân hùng mạnh – tên quậy phá, tay phụ tá ngạo mạn, kẻ đầu độc thiện chí. Nếu bạn chừa đất cho chúng dụng võ, nhiều người khác sẽ bị chúng lôi kéo. Đừng chờ rắc rối từ đó lan ra, đừng thử thương lượng với chúng, vì chúng không còn khả năng cải tạo. Hãy triệt tiêu ảnh hưởng của chúng bằng cách cô lập hay lưu đày. Hãy đánh mạnh vào nguồn rắc rối và bầy cừu sẽ tan tác.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Khoảng cuối thế kỷ VI trước Công nguyên, thành bang Athens truất phế hàng loạt những nhà độc tài từng thống trị đời sống chính trị của thành phố trong nhiều thập niên. Athens thiết lập một nền dân chủ kéo dài hơn trăm năm, nền dân chủ là căn nguyên của sức mạnh và những thành tựu đáng tự hào nhất của thành phố. Nhưng với đà tiến triển của dân chủ, dân Athens phải đối mặt với một vấn đề chưa từng có: Làm sao xử lý những thành phần không quan tâm đến sự gắn kết của một thành phố nhỏ bị lực lượng thù địch vây quanh, những thành phần không tham gia xây dựng niềm vinh quang chung mà chỉ nghĩ đến bản thân, đến tham vọng và mưu đồ cá nhân? Người dân Athens biết nếu để yên, chúng sẽ gieo rắc bất đồng, chia rẽ thị dân, khuấy động bất an dẫn đến suy sụp nền dân chủ.

    Các hình thức trừng phạt tàn bạo không còn thích họp với trật tự mới mẻ và văn minh mà thành phố đã dựng xây. Thay vào đó, người dân Athens tìm ra cách khác thích hợp hơn, ít bạo lực hơn để xử lý bọn ích kỷ kinh niên: Cứ mỗi năm nhân dân lại đổ về nơi họp chợ, viết lên miếng ostrakon (đất nung) tên của người mà mình muốn trục xuất khỏi thành phố. Người nhận được nhiều „phiếu“ nhất sẽ bị lưu đày trong mười năm.

    Năm 490 TCN, tướng Aristides dẫn quân Athens đánh tan quân xâm lược Persia tại trận Marathon nổi tiếng, vì vậy ông được thị dân hết mực tôn sùng. Ngoài tài cầm quân ông còn giỏi giang trong việc phân xử nên được dân chúng gọi là „Kẻ công bằng“. Nhưng vì ông quá đỗi công bằng nên dần dà dân chúng cũng ghét nên cuối cùng lại dùng hình thức ostrakon kể trên để xử lý ông.

    Sau ông, vị tướng giỏi Themistocles sau một thời gian nổi trội cũng phải chịu hình phạt đó.

    Rồi đến phiên Pericles, gương mặt chính trị vĩ đại nhất Athens hồi thế kỷ thứ V, tuy có cố gắng lấy lòng quần chúng nhưng cuối cùng cũng phải ra đi.

    Sau những người lỗi lạc, đến lượt những kẻ hèn mọn hơn cũng chịu cùng số phận. Cuối cùng dân chúng Athens cảm thấy miếng ostrakon đã bị làm dụng nên đình chỉ hình thức này. Cục đất nung đã giúp dân Athens ném ngay vào thành phần đầu não nào có tiềm năng quy tụ những kẻ gây rồi, nhờ đó làm cho đàn cừu phải tan tác không thể trở thành lực lượng hùng mạnh.

    Diễn giải

    Cư dân thành phố Athens cổ có những bản năng xã hội mà ngày nay ta không ngờ, vì qua nhiều thế kỷ chúng đã thui chột. Nhân dân Athens cảm thấy được những mối nguy xuất phát từ lối cư xử phi xã hội.

    Với những người như vậy, họ chọn một giải pháp nhanh gọn và hiệu quả: tống khứ chúng đi.

    Trong bất kỳ nhóm nào, rắc rối thường xuất phát từ một nguồn nhất định, kẻ bất mãn kinh niên luôn dấy lên những bất đồng và lây nhiễm sự bất mãn cho cả nhóm trước khi ta kịp trở tay. Vì vậy ta phải xuất chiêu trước khi đã quá muộn. Trước hết ta phải nhận ra kẻ quấy nhiễu qua sự hiện diện bề thế hoặc bản chất kêu rêu của hắn. Nhận ra rồi, ta đừng cố gắng cải tạo hoặc vỗ yên hắn làm gì vì mọi việc rồi chỉ sẽ tồi tệ thêm. Cũng đừng tiến công hắn dù gián tiếp hay trực tiếp vì bản chất độc địa của hắn sẽ ngầm hại ta. Hãy làm như cư dân Athens: Trục xuất. Cách ly hắn khỏi nhóm trước khi hắn trở thành con mắt bão. Đừng để hắn có thời gian khuấy động bất an và gieo rắc thêm bất mãn. Hãy để mình hắn chịu cho cả nhóm có thể chung sống hòa bình.

    BONIFACE VIII CÔ LẬP DANTE

    Năm 1296 các hồng y của Giáo hội Công giáo quy tụ về La Mã để bầu ra giáo hoàng mới. Họ chọn Hồng y Caetani vì ông thông minh lanh lợi, người như thế sẽ tạo quyền lực hùng mạnh cho Vatican. Lấy tên thánh là Boniface VIII, Caetani nhanh chóng chứng tỏ mình không phụ lòng mong đợi của các hồng y: Ông tính toán các nước cờ rất kỹ lưỡng, và hễ khi đã quyết là làm cho bằng được. Nắm quyền lực trong tay rồi, Boniface nhanh chóng nghiền nát các đối thủ và thống nhất những lãnh địa thuộc giáo hoàng. Các thế lực Âu châu bắt đầu sợ ông và phái sứ giả đến thương lượng. Vua Albrecht nước Áo thậm chí còn cắt đất nhường cho Boniface. Tất cả đều tiến triển theo kế hoạch của giáo hoàng.

    Tuy nhiên còn một vùng chưa chịu khuất phục đó là Tuscany, vùng trù phú nhất nước Ý. Nếu Boniface chiếm đươc Florence, thành phố mạnh nhất của Tuscany thì vùng đất sẽ rơi vào tay ông ta. Nhưng Florence lại là nền cộng hòa đầy tự hào, khó có thể đánh bại. Đến đây giáo hoàng nghiền ngẫm thật kỹ những nước cờ tiếp theo.

    Florence chịu ảnh hưởng của hai nhóm đối lập nhau, nhóm Trắng và nhóm Đen. Nhóm Trắng thuộc về những gia đình chuyên nghề buôn bán, gần đây nhanh chóng thịnh vượng và hùng mạnh. Còn nhóm Đen là những người giàu từ trong trứng nước. Vì được lòng dân, nhóm Trắng kiểm soát Florence khiến nhóm Đen hết sức tức tối, và hằn thù giữa họ ngày càng tăng.

    Boniface nhìn thấy cơ hội trong sự đối đầu này. Ông sẽ âm mưu giúp nhóm Đen chiếm trọn khu trung tâm, và Florence sẽ rơi vào tay ông. Trong khi nghiên cứu tình hình, ông tập trung sự chú ý vào một người tên là Dante Alighieri, một cây bút tài danh và là người ủng hộ cuồng nhiệt cho phe Trắng. Dante rất quan tâm đến chính trị, hết sức tin tưởng vào nền cộng hòa và thường trách cứ các cư dân khác sao quá mềm yếu. Ông ta cũng là nhà hùng biện đệ nhất.

    Năm 1300 khi Boniface bắt đầu mưu đồ chiếm lấy Tuscany, các thị dân theo phe Dante đã bầu ông ta vào vị trí dân cử cao nhất, một trong sáu giáo trưởng của Florence. Suốt nhiệm kỳ sáu tháng Dante đã đứng vững trước sự tấn công của phe Đen, trước mọi mưu toan gây rối của giáo hoàng.

    Sang năm sau Boniface thay đổi kế hoạch: Ông mời Charles de Valois, người em của vua nước Pháp, sang ổn định trật tự ở Tuscany. Charles dẫn quân qua vùng phía Bắc Ý, Florence run rẩy lo sợ. Lúc đó Dante hiện thân như vị cứu tinh duy nhất, hô hào chống lại mọi thương lượng, cố gắng hết sức để trang bị khí tài cho dân Florence nhằm tổ chức kháng chiến chống giáo hoàng và gã bù nhìn người Pháp. Boniface hiểu rằng bất cứ giá nào cũng phải triệt hạ Dante. Vì vậy một mặt ông dùng Charles de Valois để hù dọa, mặt khác ông chìa cành ô-liu thỏa hiệp. Cộng hòa Florence quyết định cử đoàn đại biểu đến La Mã thương lượng hòa bình. Và họ chọn Dante làm trưởng đoàn.

    Chức là trưởng đoàn nhưng Dante phải tuân theo ý kiến của số đông. Vì vậy khi gặp gỡ giáo hoàng và bùi tai về những lời phủ dụ, cả đoàn đồng ý thỏa hiệp hòa bình, với điều kiện không khởi chiến và phải để lại một thành viên tiếp tục đàm phán: Đó là Dante.

    Do đó Dante phải ở lại La Mã tiếp tục đàm phán, Florence thất thủ. Phe Trắng không còn ai làm đầu tài tập hợp, vả lại còn bị Charles de Valois dùng tiền của giáo hoàng mua chuộc và gieo rắc bất đồng nên họ nhanh chóng tan hàng rã ngũ. Quân Đen chỉ chờ có thế vùng lên tấn công và tiêu diệt quân Trắng chỉ trong vài tuần. Đến khi quân Đen đã củng cố quyền lực, giáo hoàng mới cho Dante rời La Mã.

    Trên đường về, Dante nghe tin phe Đen lệnh ông anh chóng trình diện để bị kết tội và xét xử. Vì Dante từ chối, họ phán quyết ông ta sẽ bị thiêu sống nếu còn vác thây về Florence. Do vậy Dante phải bắt đầu một cuộc đời lưu đày khốn khổ, lang thang khắp nước Ý, bị thành phố thân yêu ruồng bỏ, ông không bao giờ trở lại Florence.

    Diễn giải

    Boniface biết chắc nếu dụ được Dante rời khỏi thành phố thì Florence sẽ sụp đổ. Ông ta chơi nước cờ cổ xưa – tay kia cầm kiếm, tay này nắm nhành ô-liu hòa bình – và Dante chết ở cửa đó. Khi dụ dân Florence đưa Dante đến La Mã rồi, giáo hoàng tìm mọi cớ để giữ chân. Boniface hiểu rõ một trong những ý niệm chủ yếu trong trò chơi quyền lực: Một cá nhân quyết tâm, một tâm hồn nổi loạn có thể biến đàn cừu thành đàn sói. Vì vậy ông ta cô lập kẻ gây rối. Không còn người chăn dắt để tập hợp chúng lại, bầy cừu nhanh chóng rã đàn.

    Bài học ở đây là: Đừng phí thì giờ đấm đá tứ phía đối với loại kẻ thù trông giống như quái vật nhiều đầu. Hãy tìm cái đầu chủ đạo, dụ hắn đi xa, vì một khi khuất mặt, quyền lực của hắn sẽ không còn hiệu quả. Bạn có thể cô lập hắn về mặt vật thể (lưu đày hoặc biệt phái khỏi triều đình), về mặt chính trị (thu hẹp cơ sở hậu cần), hay tâm lý (chia rẽ hắn với tập thể bằng cách ám chỉ bóng gió, vu khống). Ung thư khởi đi từ một tế bào, bạn hãy cắt bỏ trước khi nó lan rộng.

    CỐT TỦY NGUYÊN TẮC

    Trước đây, nguyên cả quốc gia do một ông vua với một nhóm quần thần lèo lái. Chỉ có thành phần ưu tú mới có quyền tham gia. Trải qua nhiều thế kỷ, dần dà quyền lực được phân bố và dân chủ hóa. Tuy nhiên việc này tạo ra một suy nghĩ sai lầm phổ biến là những nhóm nhỏ không còn là trung tâm quyền lực, vì quyền lực đã được phân nhỏ trong dân. Nhưng thật ra quyền lực chỉ thay đổi về mặt số lượng chứ thể chất vẫn y nguyên. Số nhà độc tài quyết định sự sống chết của hàng triệu con người có lẽ đã giảm bớt, song vẫn còn đó hàng ngàn nhà “độc tài con” cai quản những lĩnh vực khó thấy hơn, áp đặt ý muốn của họ qua trò chơi quyền lực gián tiếp, qua sự mị dân v.v. Nhóm nào cũng có hiện tượng quyền lực nằm trong tay một hai người, vì có một lĩnh vực mà bản chất con người không hề thay đổi: Thiên hạ sẽ quy tụ quanh một tính cách mạnh mẽ như hành tinh xoay quanh mặt trời.

    Nếu suy nghĩ sai lầm như vậy, bạn sẽ tiếp tục vi phạm một chuỗi sai lầm, tiêu tốn sức lực và thời gian, và không bao giờ đánh trúng mục tiêu. Người tài ba không phí thời gian. Nhìn bề ngoài họ có vẻ chấp nhận cuộc chơi – tuyên bố rằng quyền lực được chia sẻ cho đám đông – nhưng bên trong họ vẫn âm thầm dò xét vài người quyền lực trong nhóm. Họ sẽ tác động đến những đối tượng đó. Khi có rắc rối, họ dò tìm tác nhân tiềm tàng để cô lập hoặc trục xuất hắn.

    Trong khi tiến hành trị liệu theo kiểu gia đình, bác sĩ Milton H. Erickson khám phá rằng nếu sinh hoạt của gia đình bị rối loạn, thì chắc chắn sẽ có một người gây rối. Suốt quá trình trị liệu, ông sẽ cô lập quả táo ôi ấy một cách tượng trưng bằng cách cho hắn ngồi riêng ra, cho dù chỉ cách người khác vài gang tay. Dần dà các thành viên gia đình sẽ nhận ra rằng đấy mới là nguồn gây rối.

    Một khi bạn đã chỉ ra được thủ phạm cho cả nhóm thấy thì bài toán xem như gần giải xong. Tìm ra người đầu tàu là công việc rất quan trọng. Bạn nên nhớ rằng kẻ gây rối luôn tìm cách ẩn nấp trong nhóm, nghi trang hành động của mình giữa hành động người khác. Chỉ cho mọi người thấy được điều đó, hắn sẽ mất khả năng khuấy đảo.

    Yếu tố chủ chốt trong các trò chơi chiến lược là phải cô lập được sức mạnh của đối phương. Ở môn cờ vua ta cố chiếu bí quân cờ. Với trò gô (cờ vây) của Trung Quốc, ta tìm cách cô lập lực lượng đối phương trong từng khoảnh nhỏ, khiến chúng không di chuyển được và mất hiệu quả. Thường thì sẽ tốt khi ta cô lập đối thủ hơn là hủy diệt, để không bị lên án là tàn bạo. Tuy nhiên kết quả vẫn như nhau vì trong trò chơi quyền lực, cô lập nghĩa là chết.

    Hình thức cô lập hiệu quả nhất là cách ly đối phương với nền tảng sức mạnh của hắn. Khi muốn khử một kẻ thù nằm trong thành phần ưu tú đang cầm quyền, Mao Trạch Đông không trực tiếp đối đầu với hắn. Ông âm thầm tìm cách cô lập hắn, chia rẽ các đồng minh khiến họ bỏ rơi hắn. Khi không được sự ủng hộ, hắn sẽ tự động suy sụp.

    Sự hiện diện và vẻ bề ngoài rất quan trọng trong trò chơi quyền lực. Muốn quyến rũ, nhất là vào giai đoạn ban đầu, ta phải thường xuyên có mặt, hoặc ta tạo cho được cảm giác thường xuyên ấy. Nếu vắng mặt nhiều quá thì sức quyến rũ sẽ tan mất.

    Thủ tướng Robert Cecil của Nữ hoàng Elizabeth nước Anh có hai đối thủ: Bá tước vùng Essex và Sir Walter Raleigh. Cecil bày mưu lập kế để biệt phái hai người thi hành một nhiệm vụ chống lại Tây Ban Nha. Khi hai sủng thần này đã đi rồi, Cecil quấn những vòi bạch tuộc quanh nữ hoàng, củng cố vị trí cố vấn hàng đầu của mình, đồng thời làm giảm tình cảm của nữ hoàng dành cho bá tước và Raleigh. Ở đây ta học được hai điều: Thứ nhất, vắng mặt khỏi triều đình rất có hại và ta không bao giờ nên rời sân khấu trong tình huống xáo trộn, bởi vì sự vắng mặt ấy tượng trưng cho sự mất quyền lực và dẫn tới việc mất quyền lực. Thứ hai, ngược lại nếu ta dụ dỗ được các đối thủ rời xa triều đình vào những lúc dầu sôi lửa bỏng, xem như ta bớt được phần nào gánh nặng.

    Sự cô lập còn nhiều công dụng chiến lược khác. Khi quyến rũ người khác, bạn nên cố tách họ ra khỏi bối cảnh xã hội thường ngày. Khi bị cô lập như thế họ sẽ là con mồi dễ bị hạ, và sự hiện diện của bạn sẽ mạnh lên bội lần. Những bậc thầy lừa cũng thường đưa con mồi đến những môi trường mới, khiến họ cảm thấy yếu đuối hơn và dễ sa ngã trước cạm bẫy.

    Nhiều khi bạn gặp phải trường hợp người tài ba tự ý tách rời khỏi tập thể. Có lẽ họ đã quá tự cao tự đại và nghĩ rằng vị trí của mình cao tột, có lẽ họ đã đánh mất thói quen giao thiệp với dân thường. Chính thái độ này đưa họ vào thế nguy hiểm. Bạn rất dễ thao túng dạng người như vậy, cho dù họ hùng mạnh cách mấy.

    Hoàng đế Nicholas và hoàng hậu Alexandra của nước Nga mất đi nhiều quyền lực về tay tu sĩ Rasputin vì họ cực kỳ cách ly với nhân dân. Đặc biệt Alexandra là người nước ngoài nên lại càng xa lánh thường dân Nga. Rasputin tận dụng nguồn gốc nông dân của mình để lấy lòng hoàng hậu vì ông ta biết Alexandra vô cùng khát khao được liên lạc với thần dân. Khi đã lọt vào vòng trong của triều đình, Rasputin biến mình trở nên người không thể thiếu, nhờ đó ông nắm được rất nhiều quyền lực. Biết rõ rằng hoàng đế nhất nhất đều nghe lời vợ, Rasputin nhắm thẳng vào hoàng hậu mà thao túng, và khám phá ra rằng mình không cần cô lập người phụ nữ này, bởi vì bà đã tự cô lập rồi.

    Chiến lược của Rasputin có thể giúp ta đạt tầm cao quyền lực: Hãy luôn suy tìm người nắm giữ vị trí cao nhưng hay bị cô lập. Họ dễ bị dụ dỗ, sẵn sàng ngả vào vòng tay ta như quả táo rơi, lại có thể là bệ phóng giúp ta thăng tiến.

    Lý do cuối cùng khiến ta nhắm vào kẻ chăn dắt là vì hành động tiến công hắn sẽ khiến đàn cừu tan nát hết tinh thần. Khi Hernando Cortés và Francisco Pizarro dẫn đoàn quân nhỏ tấn công các đế chế Inca và Aztec, họ không dại dột mở một lúc nhiều mặt trận, mà chỉ lập mưu bắt cóc hai vị lãnh tụ thổ dân là Moctezuma và Atahualpa. Quân thổ dân có đông cách mấy cũng như rắn mất đầu nên đế chế của họ sớm tan tác. Mất lãnh đạo là mất trọng tâm, không còn gì để xoay quanh thì mọi thứ sẽ sụp đổ. Bạn hãy nhắm vào con chim đầu đàn mà bắn, rồi để ý đến những thời cơ phát sinh từ tình trạng rối loạn sắp diễn ra.

    Hình ảnh:

    Một đàn cừu. Đừng phí thì giờ để thử ăn cắp một hai con, đừng để rủi ro thương tổn tay chân khi chọc mấy con chó canh giữ. Hãy nhắm thẳng gã chăn cừu, dụ hắn ra xa và lũ chó sẽ đi theo. Hạ gục hắn rồi, đàn cừu sẽ tan tác.

    Ý kiến chuyên gia:

    Nếu giương cung, hãy giương cái căng nhất. Nếu dùng tên, hãy dùng tên dài nhất. Muốn bắn kỵ sĩ, hãy bắn ngựa hắn trước. Muốn bắt băng cướp, hãy bắt kẻ đầu sỏ. Đất nước có biên cương thì việc giết chóc cũng có giới hạn. Nếu có thể ngăn chặn đà tiến công của địch (bằng một cú vào đầu đàn), sao lại phải gây thương vong hơn mức cần thiết?

    (Thi sĩ Trung Quốc Đỗ Phủ, thế kỷ VIII)

    NGHỊCH ĐẢO

    Machiavelli từng viết: „Nếu muốn hại ai, thì phải hại như thế nào để ta không sợ hắn trả thù“. Nếu ra tay cô lập đối thủ, ta phải bảo đảm hắn không có cách trở quẻ. Nói cách khác, nếu muốn áp dụng nguyên tắc này, ta chỉ áp dụng khi ở thế thượng phong để khỏi phải lo sợ gì hắn thù ghét.

    Andrew Johnson là người kế vị Tổng thống Abraham Lincoln. Nhận thấy tướng Ulysses Grant chính là kẻ phá rối trong nội các, Johnson cô lập để ép Grant phải rút lui. Tuy nhiên vị tướng phản ứng lại bằng cách thành lập một cơ sở hỗ trợ trong đảng Cộng hòa, và rốt cuộc trở thành vị tổng thống kế tiếp. Nếu khôn ngoan hơn, Johnson đã giữ Grant lại trong nội các để dễ trông chừng hơn, và ông ta sẽ ít có đất dụng võ, lại không nuôi chí căm thù. Ngoài ra Johnson còn có thể mài mòn dần cơ sở ủng hộ Grant, chờ thời cơ chặt dứt khoát một nhát thật nhanh gọn khiến đối thủ không kịp trở tay.
     
  5. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 43: Thao Túng Tâm Và Trí

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hành động cưỡng ép sẽ tạo ra lực dội ngược, có rủi ro phương hại đến ta. Ta nên dụ dỗ người khác tự ý noi theo con đường ta đi. Người đã bị cám dỗ sẽ trở thành quân cờ trung tín. Muốn vậy, ta phải tác động đến tâm lý và nhược điểm cá nhân. Hãy làm họ mềm lòng bằng cách tác động đến xúc cảm, đến những gì thân thương với họ, đến những gì họ khiếp sợ.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Vào cuối triều đại Louis XV, cả nước Pháp vô vọng trông chờ đổi mới và người được chọn để kế vị là đứa cháu nội. Khi nhà vua Louis XVI tương lai cưới cô con gái 15 tuổi của nữ hoàng nước Áo, dân Pháp tin tưởng tương lai sẽ xán lạn hơn. Cô dâu mới Marie Antoinette thật xinh đẹp và đầy nhựa sống. Sự hiện diện của nàng lập tức làm thay đổi không khí của triều đình vốn khá ô uế vì sự trác táng của Louis XV.

    Khi lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng trên chiếc xe ngựa, dân chúng xếp hàng vỗ tay hoan nghênh khiến nàng cảm động viết thư về quê hương, báo mẹ biết rằng thật sung sướng khi được mọi người yêu mến.

    Khi Louis XV băng hà và chồng nàng lên ngôi vua, Marie Antoinette lại sa đà vào điều yêu thích nhất: Tiêu xài hoang phí cho lễ hội tiệc tùng, quần áo thời trang và những cách chưng diện cầu kỳ nhất. Hoàng hậu tiêu phí mà không cần biết ai sẽ trả và trả bao nhiêu.

    Marie Antoinette mê nhất là việc thiết kế và xây dựng một khu vườn Địa đàng riêng cho mình tại điện Petit Trianon, nằm gần điện Versailles với cả rừng cây riêng. Vườn địa đàng này phải càng „tự nhiên“ càng tốt, kể cả việc dùng tay ghép từng mảng rêu vào cây và đá. Để cho phân cảnh đồng quê thêm phần sống động, hoàng hậu mướn người vào vắt sữa cho những con bò béo tốt nhất nước Pháp. Bà cũng mướn nhiều người mặc quần áo và đóng vài thôn nữ giặt áo bên bờ suối, nông dân làm pho-mát trong trang trại, người chăn cừu thắt những dải lục quanh cổ từng con.

    Khi thăm chuồng, bà bảo những cô gái vắt sữa phải hứng sữa bằng bình sứ, sản phẩm của hầm lò hoàng gia. Rồi Marie Antoinette lại đi hái hoa trong khu rừng bao quanh Petit Trianon, ngắm những „nông dân đảm đang“ làm „việc đồng áng“. Vùng đất đó trở thành một thế giới riêng biệt, với cộng đồng chỉ gồm một số người tuyển chọn.

    Cứ mỗi lần bà đỏng đảnh là quốc khố vơi đi một chút, trong khi nước Pháp đang đói khổ và phẫn uất ngày một tràn lan trong dân. Ngay cả những quần thần thân cận cũng bất mãn. Hoàng hậu chưa bao giờ làm một việc gì cho dân vui lòng, vì luôn nghĩ rằng nghĩa vụ của dân là phải yêu mến mình và mình không có bổn phận phải đáp trả.

    Năm 1784 hoàng hậu dính líu vào một xì-căng-đan. Nằm trong một kịch bản lừa đảo, chuỗi hạt kim cương đắt tiền nhất châu Âu được mua dưới tên bà. Trong khi tên lừa đảo bị đem ra xem xét, sự xa hoa của Marie Antoinette đã phải công khai: Nhân dân đã biết về những khoản mà hoàng hậu phí phạm cho vòng vàng, quần áo và những dạ tiệc hóa trang. Họ đặt cho bà hỗn danh „Bà thâm lạm“ và từ đó trở đi bà trở thành tâm điểm cho nhân dân nguyền rủa. Mỗi lần xuất hiện ở ô dành riêng trong nhà hát, bà bị dân huýt sáo phản đối. Ngay cả triều đinh cũng quay lưng với bà. Bởi vì trong lúc bà tiêu xài hoang phí thì đất nước đang trên đà phá sản.

    Năm năm sau, Cách mạng Pháp nổ ra. Hoàng hậu không chút sợ hãi, mà hình như bà cho rằng cứ để bọn chúng nổi loạn một tí, chẳng bao lâu sau ai sẽ về nhà nấy thôi, và ta sẽ tiếp tục cuộc đời khoái lạc này. Năm đó nhân dân tiến chiếm điện Versailles và buộc hoàng gia phải về Paris cư ngụ. Tuy phe nổi dậy thắng thế song đó cũng là dịp để cho hoàng hậu hàn gắn những vết thương trong dân, đồng thời thiết lập mối liên lạc với quần chúng. Nhưng không, hoàng hậu vẫn chưa tiêu hóa được bài học và không thèm ra khỏi cửa.

    Đến năm 1792 khi lực lượng cách mạng tuyên bố chấm dứt chế độ quân chủ, hai vợ chồng Louis XVI di chuyển chỗ ở từ cung điện sang nhà đá. Năm sau Louis ra tòa, bị tuyên bố có tội và mang ra xử trảm. Trong khi Marie Antoinette chờ đến phiên mình, hầu như chẳng có ai đứng ra bào chữa hay bảo vệ - không người nào trong đám bạn bè cũ ở triều đình, không ông hoàng bà chúa có thế lực nào ở châu Âu, thậm chí gia đình bà ở Áo cũng không, kể cả ông anh đang ngồi trên ngai vàng. Bà bị tất cả mọi người tẩy chay. Tháng 10 năm 1793, đến khi quỳ gối trước máy chém, Marie Antoinette vẫn ngẩng cao đầu thách thức và không chút ăn năn.

    Diễn giải

    Từ khi còn bé ở quê nhà Áo quốc, Marie Antoinette đã quen được nuông chiều. Rồi sau này về làm dâu nước Pháp nàng cũng là tâm điểm của mọi sự quan tâm. Marie Antoinette chưa bao giờ học cách lấy lòng dân chúng, hoặc bắt được tần số tâm lý của họ. Chính vì vậy càng ngày nàng càng trở nên một quái vật vô cảm.

    Marie Antoinette trở thành tâm điểm cho sự bất mãn của cả một đất nước, bởi vì nhân dân rất dễ nổi giận đối với một người không tự cải thiện, cho dù chỉ để làm màu. Và đừng tưởng Marie Antoinette đại diện cho một thời đại đã qua hoặc giả xưa nay hiếm. Loại người như bà ngày nay rất nhiều, chuyên sống trong cái bọt bóng tự mình tạo ra, những tưởng mình là ông hoàng bà chúa bẩm sinh, vì vậy ai ai cũng phải chú ý đến. Họ bất chấp bản tính của mọi người, nhưng lại mang tính khí của mình ra đè bẹp người khác, theo kiểu ngạo mạn của Marie Antoinette. Được nuông chiều từ bé, đến khi lớn lên họ nghĩ rằng mọi thứ phải đến với mình. Tự tin vào sức quyến rũ sẵn có, họ không chút nỗ lực để thuyết phục ai cả.

    Ở lĩnh vực quyền lực thái độ như thế rất tai hại. Vì vậy bạn phải cố gắng tìm hiểu những người xung quanh, đánh giá tâm lý riêng biệt từng người, tìm lời lẽ thích hợp để dẫn dụ họ. Càng giữ vị trí cao thì bạn lại càng phải dò tìm tần số thích hợp của các tầng lớp bên dưới, để tạo ra một nền tảng ủng hộ mình duy trì vị trí cao tột ấy. Không có được nền tảng này, quyền lực của bạn sẽ loạng choạng, và chỉ cần thời vận thay đổi chút đỉnh là cấp dưới vô cùng hân hoan tiếp tay đánh đổ bạn.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Vào năm 225, Gia Cát Lượng làm quân sư và thừa tướng cho chúa công nước Thục ở Trung Quốc. Lúc đó nước Tào Ngụy từ phía Bắc dốc toàn lực đánh xuống nước Thục và điều tồi tệ là Tào Ngụy liên minh với bọn rợ ở biên cương phía Nam của Thục do vua Mạnh Hoạch cầm đầu. Xem như cả Nam Bắc đều có biến, đặt Lượng vào tình thế nguy nan.

    Lúc Lượng sắp dẫn quân Nam tiến tiễu phạt bọn rợ, một trí giả nói với ông ta rằng sẽ không thể dùng bạo lực để bình định phương Nam. Theo trí giả này, Lượng hoàn toàn có khả năng chiến thắng Mạnh Hoạch, nhưng khi dẫn quân ngược lên phía Bắc chống Tào Ngụy, vị vua rợ này lại tiếp tục quấy nhiễu. „Tốt hơn ta nên chinh phục con tim hơn là thành quách“, vị trí giả khuyên, „tốt hơn ta nên dùng con tim hơn là vũ khí“. „Ngươi đã đọc được ý ta“, Lượng đáp.

    Như Lượng đã tiên đoán, Mạnh Hoạch xuất kích rất hùng mạnh. Nhưng trước đó quân sư đã giăng bẫy và bắt được vua rợ. Thay vì trừng phạt hoặc hành quyết tất cả tù binh, Lượng tách riêng vua tôi ra, khoản đãi binh lính địch, rồi bảo họ: „Các người đều là người chính trực. Ta biết rằng ai cũng có cha mẹ, vợ con đang trông chờ ở nhà. Chắc họ đang khóc thương số phận người chồng, người cha. Ta sẽ trả tự do để các ngươi có thể về đoàn tụ với gia đình và an ủi họ“. Tất cả tù binh đều rưng rưng cảm tạ Lượng. Sau đó Lượng cho vời Mạnh Hoạch tới: „Nếu ta trả tự do, ngươi sẽ làm gì?“ „Ta sẽ tập hợp quân đội lại và quyết sống mái với ngươi một trận ra trò. Nếu lần sau mà bắt được ta, ta mới tâm phục khẩu phục“, vị vua rợ đáp. Lượng thả Mạnh Hoạch và ban cho tuấn mã yên cương. Khi các tướng ngạc nhiên hỏi tại sao, Lượng bảo: „Ta có thể bắt người này dễ dàng như lấy đồ trong túi áo, nhưng ta muốn chinh phục hắn bằng tấm lòng. Được như vậy, biên cương phía Nam sẽ tự bình định“.

    Như đã nói, Mạnh Hoạch tấn công lần nữa. Nhưng các phó tướng mà Lượng đã trả tự do lại nổi loạn, bắt sống vua nộp cho Lượng. Khi được Lượng lặp lại câu hỏi trước, vua rợ bảo ông ta chưa thua, mà chẳng qua chỉ bị các tướng làm phản bắt sống, vì vậy Lượng bằng lòng thả ông ta ra để so tài lần nữa, nếu khi đó thua, ông mới cúi đầu khâm phục.

    Những tháng kế tiếp Mạnh Hoạch bị bắt và thả đến lần thứ năm, dần dà binh sĩ của vua rợ bất mãn. Lần nào họ cũng được Lượng đối xử tử tế, vì vậy không còn tâm trí đâu mà chiến đấu nữa. Khi bị bắt lần thứ sáu, Mạnh Hoạch lại hứa đến lần thứ bảy mới đầu hàng. Lượng bằng lòng, nhưng bảo rằng đến lần sau thì sẽ không tha nữa.

    Ngay sau đó Mạnh Hoạch cùng đám tàn binh rút về cố thủ ở chốn hiểm trở của xứ Ô Qua. Thất bại quá nhiều lần, giờ đây ông ta chỉ còn hy vọng duy nhất là vua Ngột Đột Cốt xứ Ô Qua, cùng với đoàn quân hùng mạnh và nổi tiếng bạo tàn. Những chiến binh này mặc bộ giáp bằng loại thảo mộc đặc biệt nhúng dầu rồi phơi khô trở thành cứng chắc, tên không thể nào bắn thủng.

    Mạnh Hoạch ra sức thuyết phục nên vua Ngột Đột Cốt chuẩn thuận xuất đại quân nhắm về hướng Lượng đóng binh mà thẳng tiến. Khí thế hừng hực của đại quân khiến phe Lượng bị nao núng nên vừa chống đỡ vừa tìm đường tháo lui. Nhưng thật ra đó chỉ là cái kế của quân sư Gia Cát Lượng: Khi đại quân Ngột Đột Cốt lọt thỏm vào hẻm núi, Lượng sai người đốt bùi nhùi và cây khô thành một biển lửa. Áo giáp của đại quân Ngột Đột Cốt tẩm dầu nên trở thành nhiên liệu lý tưởng, tất cả đều bỏ mạng.

    Lần này khi bắt được Mạnh Hoạch, Lượng quá chán nên không thèm ngó mặt hắn, chỉ gửi sứ giả đến thông báo là sẽ tiếp tục tha cho hắn về mà tuyển mộ lại quân đội mới để đánh tiếp. Mạnh Hoạch khẩn khoản xin gặp Lượng, bổ nhào xuống đất quỳ trước quân sư mà thề sống thề chết tâm phục khẩu phục, hứa chắc rằng không chỉ ông ta mà cả đời con đời cháu sẽ luôn trung thành với Lượng.

    Lượng bày tiệc thết đãi Mạnh Hoạch, phục hồi ngai vàng và trả lại những vùng đất đã tịch thu cho ông ta, sau đó dẫn quân về mà không lưu lại lực lượng chiếm đóng nào. Lượng không bao giờ trở lại nữa – Mạnh Hoạch đã trở thành liên minh trung thành và kiên định nhất.

    Diễn giải

    Lượng có hai lựa chọn: Hoặc thử nghiền nát quan rợ ở phương Nam bằng một trận tổng lực tàn sát, hoặc kiên nhẫn thu phục chúng dần dần. Hầu hết những ai hùng mạnh hơn địch thủ sẽ chọn phương án thứ nhất, nhưng người thật tài ba sẽ tính cao hơn: Cách thứ nhất có lẽ dễ dàng và nhanh chóng, nhưng về lâu dài kẻ thủ vẫn nuôi hận trong tâm. Lúc ấy ta sẽ mất thời gian và sức lực để bảo vệ thành quả, và như thế lại rơi vào thế bị động. Tuy khó hơn, nhưng lựa chọn thứ nhì không chỉ giúp ta an tâm mà còn biến kẻ thù thành đồng minh.

    Mỗi khi đối mặt với tình huống, ta thử lui một bước để có thời gian tính toán và hòa âm theo tông độ xúc cảm của đối phương, từ đó suy ra nhược điểm tâm lý của họ. Ở đây, ta càng mạnh tay thì họ càng kháng lại. Phát hiện được sợi dây tình cảm rồi, ta sẽ làm mềm lòng họ. Ta không chỉ thao túng sự sợ hãi, mà cả những gì họ yêu quý – tự do, gia đình…v.v. Đoạt được trái tim họ rồi, ra sẽ có được người bạn và đồng minh trung tín.

    Các chính quyền chỉ nhìn thấy con người như đám đông; nhưng

    con người, vì không đồng đều, nên không phải là tổ chức mà là cá nhân… Vương quốc của chúng ta nằm trong tâm trí của từng người.

    (Seven Pillars of Wisdom, T. E. Lawrence, 1888-1935)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Trong trò chơi quyền lực, xung quanh bạn là những người hoàn toàn không có động cơ nào để giúp bạn, trừ khi họ phải được lợi lộc nào đó. Và nếu bạn không có món gì để thỏa mãn tính tư lợi ấy, có thể họ sẽ đố kỵ, bởi vì họ xem bạn là người cạnh tranh, thêm một người làm họ phí thì giờ. Muốn vượt qua thái độ lạnh lùng ấy bạn phải có chìa khóa mở cánh cửa tâm và trí họ, dụ họ vào sân chơi của bạn, nếu cần có thể mời họ nhậu một lần. Nhưng hầu hết mọi người lại không nhận biết ra khía cạnh vừa kể. Mỗi khi gặp đối tượng mới, thay vì lui một bước để có đủ khoảng cách tìm hiểu đối tượng ấy, họ lại chỉ nói về mình, muốn áp đặt ý chí và tiên kiến của mình. Họ lý luận, khoa trương, trình diễn quyền lực. Có lẽ họ không ngờ rằng mình đang tạo ra một kẻ thù, một kẻ đối kháng, bởi vì không có gì tức bằng cái cảm giác cá nhân của mình bị phớt lờ, tính cách mình xem như vô nghĩa.

    Tóm lại, cốt yếu của việc thuyết phục là làm mềm lòng đối phương, rồi nhẹ nhàng làm họ sụp đổ. Ta tiến công họ bằng cách thao túng hai lĩnh vực cảm xúc và trí năng của họ. Hãy để ý xem họ khác với những người xung quanh ở điểm nào (tâm lý cá nhân) và họ chia sẻ điều gì với người khác (phản ứng cảm xúc cơ bản). Ta nhắm vào loại xúc cảm cơ bản như yêu, ghét, ganh tỵ. Thao túng được những tình cảm này, ta sẽ giảm thiểu sự tự chủ của họ, khiến họ dễ bị thuyết phục hơn.

    Khi muốn thuyết phục một vị tướng tài phe đối phương đừng liên minh với Tào Tháo, Gia Cát Lượng không nói về tính tàn ác của Tháo hay chê bai tài cầm binh, mà chỉ nhẹ nhàng báo tướng ấy biết vợ ông ta bị Tháo dụ dỗ. Mao Trạch Đông cũng hành động tương tự khi muốn giật dây cảm xúc của quần chúng, nói lên điều mà họ quan tâm sâu sắc, khuyến khích họ thổ lộ hết cõi lòng trước tập thể. Khi muốn triển khai kế hoạch mới, thay vì mô tả những điều đao to búa lớn, Mao chỉ nói với dân chúng những gì sơ đẳng nhất, ảnh hưởng lên họ sát sườn nhất. Bạn đừng tưởng chiến thuật này chỉ thích hợp với người vô học hoặc dốt chữ - nó hiệu quả với mọi tầng lớp. Tất cả chúng ta ai cũng là người trần và phải đối diện với số đông đáng sợ, và ai cũng muốn có quyến thuộc, có nơi nương náu về tình cảm. Bạn cứ giật những sợi dây cảm xúc ấy là chiếm được con tim.

    Cách hay nhất là làm như Gia Cát Lượng khi ông ban cho tù binh thực phẩm và tự do, trong khi họ những tưởng cuộc đời bế mạc. Bạn hãy chơi trò tương phản ấy: làm họ sợ điếng, xong lại sướng rên. Khi họ tưởng bị hành hình mà bạn lại cho hoan lạc thì chắc chắn bạn sẽ thành công.

    Nhiều khi một cử chỉ tượng trưng cũng đủ khơi gợi cảm tình và thiện chí. Ví dụ một cử chỉ khổ nhục – ta cũng đau nỗi đau của ngươi – sẽ làm mọi người đồng cảm với bạn, cho dù nỗi đau của bạn chỉ để làm cảnh hoặc không thấm tháp gì so với họ. Khi mới đến với một nhóm, bạn hãy làm cử chỉ thiện chí để lấy lòng, để sau này gặp việc khó khăn thì họ mới nhiệt tình giúp bạn.

    Khi chiến đấu chống phe Thổ Nhĩ Kỳ trong sa mạc Trung Đông hồi Thế chiến I, T. E. Lawrence chừng như đốn ngộ: Ông ta nhận ra rằng chiến tranh quy ước không còn giá trị. Người lính như chìm mất giữa đạo quân mênh mông, nhận lệnh chiến đấu như một người máy. Ông ta muốn thay đổi hoàn toàn. Với ông, tâm trí của mỗi người lính là một vương quốc mà ông phải chinh phục. Một người lính dấn thân, có động cơ tinh thần sẽ chiến đấu dũng cảm hơn và sáng tạo hơn một bù nhìn.

    Cảm nhận của Lawrence vẫn đúng cho thế giới ngày nay, khi quá nhiều người trong xã hội cảm thấy bơ vơ lạc lõng và hoài nghi. Chính vì hành động dùng vũ lực tiến công họ trực diện sẽ nguy hiểm và phản tác dụng. Hãy thuyết phục họ, khiến họ nhiệt tình đi theo đại nghĩa, như thế công việc của ta sẽ dễ dàng hơn, và sau này sẽ có nhiều cơ hội để ta cám dỗ. Muốn vậy ta phải đánh vào tâm lý từng người. Đừng tưởng hễ chiến thuật này hiệu quả với một người thì cũng sẽ hiệu quả với người khác. Trước hết ta phải làm sao cho họ cởi mở cõi lòng. Càng nói nhiều, họ sẽ cung cấp cho ta nhiều thông tin quý giá về những gì yêu ghét – những nút bấm và cần gạt để ta điều khiển họ.

    Cách nhanh nhất để làm thiên hạ yên lòng là chứng minh, càng đơn giản càng tốt, cho họ thấy điều lợi lộc. Tư lợi là động cơ hùng mạnh nhất: Đại nghĩa có thể thu phục nhân tâm, nhưng một khi đợt sóng phấn khích đầu tiên đã qua rồi thì nhiệt tình sẽ xỉu xuống – trừ khi phải được lợi lộc gì đó. Vì vậy tư lợi mới là nền tảng vững chắc hơn. Đại nghĩa hiệu quả nhất là loại đại nghĩa sử dụng bức rèm nhân nghĩa che hờ mối tư lợi hiển nhiên. Sau này đại nghĩa tha hồ lu mờ, nhưng chính mối tư lợi sẽ nuôi dưỡng sự ăn chia đó.

    Tầng lớp giỏi giang nhất để động viên tâm trí mọi người thường là nghệ sĩ, trí thức, hoặc những ai có chất thi phú lãng mạn. Như thế bởi vì ý tưởng dễ truyền đạt bằng hình ảnh và ẩn dụ. Vì vậy ta nên thủ sẵn trong túi một vài nghệ sĩ hoặc trí giả có khả năng tác động cụ thể đến tâm trí mọi người. Vua chúa luôn nuôi sẵn cả đàn người cầm bút: Frederick Đại đế thì có Voltaire, Napoléon có Goethe. Ngược lại, vì không tranh thủ được những tác giả có trọng lượng như Victor Hugo nên Napoléon III cũng không tranh thủ được quần chúng. Vì vậy sẽ nguy hiểm khi ta làm mất lòng những người có tài phát biểu, và sẽ có lợi khi ta vỗ an và khai thác họ.

    Cuối cùng, ta nên tranh thủ số đông. Nền tảng hỗ trợ của ta càng rộng lớn thì quyền lực của ta càng kiên cố. Ta phải luôn tranh thủ thêm nhiều đồng minh ở mọi quy mô – sẽ có lúc ta dùng đến họ.

    Hình ảnh:

    Lỗ khóa. Người ta xây tường để không cho bạn vào, vì vậy bạn đừng dùng sức mạnh để chọc thủng bức tường ấy – bạn sẽ phát hiện rằng trong tường còn những bức tường khác nữa. Nhưng tường có cửa, cửa dẫn vào tâm hồn và trí óc, mỗi cửa đều có lỗ khóa nhỏ xíu. Hãy nhìn qua lỗi nhỏ ấy để tìm xem chìa nào mở được, rồi bạn sẽ có lối vào tâm trí họ mà không cần có những biểu lộ đáng ghét của việc đột nhập bằng sức mạnh.

    Ý kiến chuyên gia:

    Hiểu được cái tâm của đối tượng cần phải thuyết phục là điều khó nhất trong động tác thuyết phục, hiểu để tìm ra cách diễn đạt thích hợp… Vì vậy những ai định thuyết phục trước cửu trùng phải quan sát thật kỹ tình cảm ái ố của quân vương, những ước mơ và lo ngại thầm kín trước khi chinh phục trái tim ngài.

    (Hàn Phi Tử)

    NGHỊCH ĐẢO

    Nguyên tắc này không có phép nghịch đảo.
     
  6. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 44: Hiệu Ứng Gương Soi

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Gương soi phản ánh thực tế, mà cũng là dụng cụ hiệu quả để bạn đánh lừa: Khi bạn làm chiếc gương soi cho đối thủ, nghĩa là hành động y hệt chúng, chúng sẽ không hiểu nổi bạn định làm gì. Hiệu ứng gương soi chế giễu và làm chúng bẽ mặt, khích cho chúng phản ứng quá trớn. Cầm gương soi tâm hồn chúng, chúng sẽ có cảm tình vì tưởng bạn chia sẻ các nguyên tắc của chúng. Cầm gương soi hành động của chúng, bạn sẽ dạy cho chúng một bài học.

    PHÂN LOẠI HỌC SƠ BỘ VỀ CÁC HIỆU ỨNG GƯƠNG SOI

    Gương soi có thể nhiễu loạn chúng ta. Nhìn ảnh mình trong gương, rất thường khi ta trông thấy những gì muốn thấy – thứ hình ảnh làm ta hài lòng nhất. Ta không muốn nhìn quá gần vì không muốn thấy tàn nhang hay nếp nhăn. Nhưng nếu cố gắng thật kỹ, đôi khi ta có cảm giác nhìn thấy mình như cách người khác nhìn thấy, như một người giữa muôn người, như một đối tượng hơn là chủ thể. Cảm giác này làm ta rùng mình – ta đã nhìn thấy chính mình, từ phía ngoài, ngoại trừ tinh thần, linh hồn và các ý tưởng chiếm chỗ trong ý thức ta. Ta là một vật thể.

    Sử dụng hiệu ứng gương soi, ta tái tạo một cách tượng trưng khả năng kể trên, bằng cách phản chiếu hành động của người khác, bắt chước cử chỉ của họ để làm họ bất an và nổi giận. Họ giận vì cảm thấy bị chế giễu, bị nhân bản như một đồ vật, một hình ảnh không hồn. Hoặc ta cũng sử dụng hiệu ứng gương soi nhưng khác đi một chút, họ sẽ cảm thấy bị vô hiệu hóa vì ta đã phản ánh được những ước mơ và khao khát của họ. Trong cả hai trường hợp vừa kể, khi đối thủ cảm thấy bất lực hay giận dữ, ta đều có thể tranh thủ để giật dây hay dụ dỗ họ. Cách làm này hiệu quả bởi vì nó tác động vào những cảm xúc sơ khai nhất.

    Trên lĩnh vực quyền lực, gương soi có bốn loại hiệu ứng hoặc tác dụng:

    Tác dụng vô hiệu hóa. Thần thoại Hy Lạp kể về quái nhân Medusa lấy rắn làm tóc và có gương mặt xấu xí ghê rợn, đến nỗi hễ ai nhìn vào là lập tức biến thành tượng đá. Nhưng dũng sĩ đa mưu Perseus đã đánh bóng tấm khiên sáng như gương, rồi nhìn vào đó để chặt đầu Medusa. Trong trường hợp này tấm khiên đóng vai trò gương soi, bởi vì gương soi cũng là một loại lá chắn: Mesuda không thể nhìn thấy Perseus mà chỉ thấy hành động của chính mình.

    Đó là điểm cốt yếu của tác dụng vô hiệu hóa: Hãy làm những gì đối thủ làm, theo sát hành động của chúng, rồi chúng không thể ngờ chủ tâm ta là gì – chúng đã bị tấm gương làm lóa mắt. Trước kia, đối thủ thường lên kế hoạch đối phó với ta bằng cách dựa vào tính cách riêng của ta. Giờ ta làm chúng hụt hẫng vì khi nhìn vào chúng chỉ thấy chúng mà thôi.

    Nhớ lại hồi còn bé, ta thường nổi đóa khi ai đó chọc tức bằng cách lặp lại y hệt những gì ta nói – chỉ một lúc sau là ta muốn đấm cho kẻ ấy một quả. Với người trưởng thành, nếu biết khéo léo ta sẽ làm họ tức điên. Ta dùng tấm khiên che đậy mọi chiến lược và đặt bẫy sẵn, hoặc giả xô đối thủ vào chính những chiếc bẫy chúng giăng sẵn cho ta.

    Kỹ thuật hiệu quả này được dùng trong các chiến lược quân sự từ thời Tôn Tử, còn ngày nay nó thường xuất hiện trong những chiến dịch tranh cử. Ngoài ra nó còn hữu ích khi nghi trang được những tình thế mà ta hoàn toàn chưa có chiến lược nào cả. Đó là tấm Gương soi của Chiến binh.

    Phiên bản nghịch đảo của tác dụng vô hiệu hóa là Bóng ma: Ta theo dõi từng cử chỉ của đối phương nhưng đối phương không hề thấy ta. Nhờ đó ta thu nhặt được những thông tin có khả năng vô hiệu hóa chúng sau này, khi ta đủ sức cản phá mọi hành động của chúng.

    Tác dụng Narcissus. Chàng trai Narcissus nhìn một hình ảnh phản chiếu trên mặt nước hồ thu và đâm lòng yêu tha thiết. Khi phát hiện ra đó chính là hình ảnh của mình, chàng không thể thực hiện trọng vẹn động tác yêu nên quẫn chí nhảy xuống tự tử. Tất cả chúng ta đều có vấn đề tương tự: Trong vô thức, chúng ta tha thiết yêu mến chính mình, nhưng vì không thể có một đối tượng cụ thể bên ngoài nên tình yêu đó không bao giờ được thỏa mãn và lúc nào cũng thao thức.

    Ta tận dụng hiểu biết này để nhìn sâu vào tâm hồn kẻ khác, thăm dò những ước mơ thầm kín, những chuẩn mực, sở thích, tâm trạng. Rồi ta phản ánh lại cho họ, ta biến mình thành gương soi. Khả năng này giúp ta điều khiển được họ, thậm chí họ có thể thoáng cảm tình với ta.

    Đây là khả năng bắt chước người khác, không chỉ về vẻ bề ngoài, mà cả về mặt tâm lý. Đòn này hiệu quả vì tác động đến tình yêu của một đứa trẻ dành cho chính bản thân, loại tình yêu không được thỏa mãn. Thông thường, người đời khoái kể cho ta nghe về kinh nghiệm hoặc khẩu vị, sở thích của họ. Ít khi nào họ chịu khó nhìn mọi việc qua chính nhãn quan của ta. Tuy rõ chán, nhưng thái độ đó lại là thời cơ cho ta: Hãy phản ánh cho họ thấy là ta hiểu được tình cảm sâu lắng của họ, họ sẽ mềm lòng nghe theo những gợi ý và đề nghị của ta. Ít ai cưỡng nổi cái cảm giác rằng tình cảm tinh tế của mình được phản chiếu một cách hài hòa như vậy, ngay cả khi sự phản chiếu đó là do ta cố ý dựng lên nhằm mục đích lừa đảo.

    Tác dụng Narcissus hữu ích trên cả hai bình diện đời sống xã hội và kinh doanh, cung cấp cho ta tấm Gương soi của Kẻ quyến rũ và Gã cận thần.

    Tác dụng Đạo đức. Khả năng của lý lẽ rất hạn chế và thường khi đưa đến kết quả ngược lại với điều ta mong muốn. Như Gracián từng nói: “Sự thật dễ thấy nhưng khó nghe”. Tác dụng đạo đức rất tốt để chứng mình ý tưởng của ta qua hành động. Nói cách khác, là ta sẽ dạy cho đối thủ một bài học bằng cách cho chúng nếm mùi bếp núc của chúng.

    Với Tác dụng Đạo đức, ta phản ánh lại đúng những gì mà người khác đã làm với ta. Và nên làm sao để họ ý thức được rằng ta đang thực hành chính xác những gì họ đã làm. Để cho họ biết rằng điều họ làm thực sự không chút nào thú vị, chứ nếu chỉ nghe ta than phiền thì họ chẳng những không tin mà còn bực mình. Như vậy khi nếm được kết quả của hành động trước đó được phản chiếu lại, họ mới ý thức hết những tổn thương mà người khác phải gánh chịu. Kỹ thuật này thường được dùng bởi những nhà giáo dục, tâm lý và những ai phải xử lý những cung cách không dễ ưa và không ý thức. Đây là Gương soi của Giáo viên. Trong cung cách người ta đối xử với bạn, cho dù có hay không có việc sai trái, bạn vẫn có lợi khi phản ánh hành động của họ, sao cho họ cảm thấy xấu hổ.

    Tác dụng Ảo ảnh. Gương soi dễ đánh lừa, vì chúng làm cho ta có cảm tưởng rằng mình đang nhìn thế giới thực. Thật ra ta chỉ nhìn một miếng ve trai, và hơn nữa trong gương soi, mọi thứ đều đảo ngược.

    Sở dĩ nói Tác dụng Ảo ảnh là vì nó tạo ra một bản sao chép hoàn hảo của một vật thể, một nơi chốn, một con người. Nhưng thiên hạ tưởng nó là thật vì nó có bề ngoài rất thật. Đây là kỹ thuật ưa chuộng của các thầy lừa, hoặc nơi nào đòi hỏi sự ngụy trang. Đây là Gương soi của Kẻ lừa đảo.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Mưu mẹo Fouché

    Tháng Hai năm 1815, Hoàng đế Napoléon đào thoát khỏi đảo Elba và trở về Paris bằng cuộc hành quân làm nức lòng cả nước. Đi đến đâu ông cũng tập hợp được binh sĩ và nhân dân đủ mọi tầng lớp, và cuối cùng đã đánh đuổi được người kế nhiệm là vua Louis XVIII khỏi ngai vàng. Tuy nhiên sau đó ông phải đối mặt với nhiều khó khăn: Tình hình nước Pháp hoàn toàn thay đổi, đất nước suy kiệt và tan hoang, không còn bất kỳ đồng minh nào ở châu Âu, các bộ trưởng quan trọng và trung thành nhất đều lẩn trốn hoặc rời nước Pháp. Từ chế độ cũ chỉ còn lại một người – Joseph Fouché, cựu bộ trưởng công an. Trước khi còn tại vị, Napoléon từng nhờ Fouché thực hiện tất cả những công tác thuộc loại bẩn thỉu, nhưng thật ra ông chưa bao giờ biết tường tận về vị bộ trưởng này. Tuy tổ chức cả một đội quân mật thám để theo dõi toàn bộ nội các, song Napoléon không thu thập được thông tin hữu ích nào về Fouché. Nếu bị hoàng đế rầy rà về việc nào đó không chu toàn, Fouché sẵn sàng nhìn nhận, gật gù, mỉm cười rồi thay đổi màu sắc như một con tắc kè, tùy theo tình huống. Thoạt tiên thì lối ứng xử đó cũng làm Napoléon thấy dễ chịu và dễ thương, song về lâu về dài hoàng đế lại hoang mang vì cảm thấy con người trơn như lươn ấy luôn qua mặt mình. Đã đôi lần ông thải hồi tất cả các bộ trưởng quan trọng, kể cả Talleyrand, nhưng chưa bao giờ đụng đến Fouché. Vì vậy khi trở lại nắm quyền lực vào năm 1815 và cần được ủng hộ, Napoléon lại tái chỉ định Fouché làm bộ trưởng công an.

    Vài tuần sau, bọn mật thám báo cho Napoléon biết Fouché bí mật tiếp xúc với các phần tử nước ngoài, kể cả Metternich nước Áo. Tuy muốn bắt Fouché nhưng Napoléon còn chờ có bằng chứng xác thực. Tháng Tư năm đó, mật vụ bắt được một người đến từ Vienna để trao thư cho Fouché. Khi bị đe dọa xử tử, người này thú nhận bức thư là của Metternich viết bằng loại mực vô hình, với nội dung là triệu tập các gián điệp học tại Basel. Tương kế tựu kế, Napoléon cho mật vụ xâm nhập buổi họp này để nắm bằng chứng liên quan đến Fouché.

    Tuy nhiên vài ngày sau, tay mật vụ đó trở về báo cáo Napoléon rằng trong buổi họp hoàn toàn không một tình tiết nào có thể dùng để chống lại Fouché. Hình như là các thành viên buổi họp lại nghi Fouché chơi màn gián điệp nhị trùng, như thể vị bộ trưởng này thật ra trung thành với Napoléon. Về phần mình, Napoléon nghĩ rằng một lần nữa Fouché đã khéo léo qua mặt mình.

    Sáng hôm sau khi đến viếng hoàng đế, Fouché ra vẻ như vừa sực nhớ một chuyện: „A, thưa ngài, tôi quên báo ngài biết cách nay mấy hôm tôi nhận được thư của Metternich… Lúc ấy tôi mải suy tính nhiều chuyện quan trọng hơn. Hơn nữa, người đưa thư cũng quên đưa tôi loại mực làm hiện chữ lên… Đây là bức thư nguyên thủy“. Biết chắc ông ta đang giỡn mặt, Napoléon bùng nổ: „Mi là tên phản bội! Lẽ ra ta phải ra lệnh treo cổ ngươi“. Hoàng đế tiếp tục la lối gào thét, nhưng không thể làm gì vì không có bằng chứng. Fouché chỉ biểu lộ sự ngạc nhiên trước cơn giận dữ của Napoléon, nhưng trong lòng ông lại mỉm cười, vì từ đầu đến cuối ông luôn chơi trò gương soi.

    Diễn giải

    Suốt từ nhiều năm, Fouché biết Napoléon luôn cho mật thám theo dõi những gương mặt quyền lực, nhờ đó mới tai qua nạn khỏi bằng cách cho mật thám của mình theo dõi mật thám của Napoléon, từ đó vô hiệu hóa mọi hành động tiềm năng của hoàng đế. Trường hợp cuộc gặp mặt Basel, chính Fouché đã dàn dựng mọi thứ để có vẻ như ông ta là người trung chính.

    Trong giai đoạn hỗn mang, Fouché không chỉ củng cố quyền lực mà còn phát đạt là nhờ soi rọi những người xung quanh. Trong thời kỳ Cách mạng Pháp ông ta theo phe Jacobin cực đoan; sau giai đoạn Terreur lại là người cộng hòa; đến khi dưới trướng Napoléon ông lại trở thành kẻ bảo hoàng tâm huyết, đến mức Napoléon ban cho làm công tước xứ Otranto. Trong khi phục vụ, ông ta luôn sử dụng hiệu ứng soi để tiên đoán các kế hoạch và ý định của Napoléon.

    Hiệu ứng này có ích bởi vì trước hết thiên hạ tưởng bạn nhất trí với họ. Thứ hai, nếu lỡ họ có nghi ngờ chủ tâm sâu xa của bạn thì bạn dùng gương soi làm lá chắn, khiến họ không biết thực chất vấn đề. Ngoài ra bạn còn tiết kiệm được năng lượng tinh thần: khi phản ánh hành động của kẻ khác, bạn sẽ có không gian cần thiết để triển khai chiến lược của riêng mình.

    Alcibiades

    Từ khi khởi đầu sự nghiệp, vị tướng và chính khách tài ba Alcibiades của Athens (450-404 TCN) sử dụng một vũ khí tuyệt vời để tiến thân trên bậc thang quyền lực. Mỗi lần gặp gỡ đối tác, ông luôn để ý tâm trạng và sở thích của họ, rồi cẩn thận lựa chọn lời nói và hành động thích hợp để phản chiếu những mong muốn sâu kín nhất. Ông thuyết phục họ bằng cách làm họ nghĩ rằng quan niệm của họ xuất sắc hơn người, rằng ông sẽ lấy họ làm gương hoặc giúp họ thành tựu nguyện vọng.

    Bản thân triết gia Socrates cũng bị chinh phục. Alcibiades đại diện cho những gì trái lại với lý tưởng của Socrates, vốn nhấn mạnh đến tính đơn giản và chính trực: Alcibiades sống buông thả và không theo nguyên tắc đạo đức nào cả. Tuy nhiên mỗi lần đối diện Socrates ông lại phản ánh sự đúng mực của nhà hiền triết, ăn uống đạm bạc, bách bộ cùng Socrates suốt những khoảng đường dài, chỉ nói chuyện về triết học và đạo đức. Không phải là Socrates vô tình bị Alcibiades lừa, không phải là ông không biết về cách luông tuồng của Alcibiades, nhưng chính điều đó đã khiến ông sụp bẫy: Socrates cảm thấy chỉ khi nào mình hiện diện thì Alcibiades mới tuân chịu một âm hưởng đạo đức, chỉ mình ta mới có loại quyền lực đó đối với hắn. Chính cảm giác này đã đầu độc Socrates, cho nên sau đó ông trở thành người ủng hộ và hâm mộ Alcibiades hết mình, thậm chí có lần liều mạng cứu nguy Alcibiades trong một trận đánh.

    Dân chúng Athens xem Alcibiades là nhà hùng biện đệ nhất, vì ông ta có khả năng xuất sắc là rà đúng đài của người đối diện, biết rõ ước mơ của họ, phản ánh đúng những gì họ đang khao khát. Ông ta biết thanh niên Athens khát khao chinh phục những vùng đất mới cho chính mình, thay vì phải sống dưới cái bóng vinh quang của tổ tiên. Và Alcibiades cũng hiểu được niềm hoài cảm của các cựu chiến binh, luôn nhớ về những năm tháng hào hùng khi Athens chỉ huy Hy Lạp chiến đấu với Persia để xây dựng đế chế. Vì vậy Alcibiades soạn ra những bài diễn văn hùng hồn cổ xúy việc xâm lăng đảo Sicily, và mọi người đều nhất trí kế hoạch của ông ta. Alcibiades được chỉ định là thống soái.

    Tuy nhiên trước khi ông thống lĩnh binh mã ra trận, ở hậu phương có miệng mồm gièm pha rằng Alcibiades đã mạo phạm đến các bức tượng thần linh. Ông ta biết nếu trở về thì sẽ trúng kế, bị bắt và xử tử. Vì vậy vào phút chót ông rời bỏ hàng ngũ để đầu quân cho đối thủ truyền kiếp của Athens là thành bang Sparta. Tất nhiên cư dân Sparta hoan nghênh người tài ba này, song họ vẫn e ngại về cách sống của ông. Trong khi Alcibiades thích xa hoa thì cư dân Sparta thuộc nòi chiến binh nên sống thật khắc kỷ như trong quân ngũ, vì vậy họ sợ người mới tới sẽ làm gương xấu cho con em họ. Tuy nhiên sau đó họ nhẹ hẳn cõi lòng khi nhận thấy ông ta khác với lời đồn đại: Alcibiades để tóc tự nhiên như họ chứ không cắt cúp kiểu cọ, ông ta tắm bằng nước lạnh, ăn bánh mì thô và xúp đen, mặc loại quần áo đơn giản nhất. Với người Sparta, điều đó có nghĩa là Alcibiades đã nhìn nhận cách sống của họ đúng đắn hơn của Athens. Là người cao quý hơn bản thân họ, ông đã chọn trở thành cư dân Sparta cho dù đó không phải là quê hương ông, và do đó ông xứng đáng được họ tôn vinh trọng vọng. Thành bang Sparta phải lòng Alcibiades và trao cho ông nhiều quyền hành to lớn. Song mặc dù là kẻ hùng biện đại tài, Alcibiades lại không biết điều tiết sức quyến rũ của mình. Chẳng bao lâu sau hoàng hậu Sparta có bầu với ông ta. Alcibiades buộc phải bỏ của chạy lấy người.

    Lần này Alcibiades chạy tuốt sang Persia, thoắt một cái chuyển từ cung cách đạm bạc Sparta sang lối sống Ba Tư xa hoa đến từng chi tiết một. Tất nhiên người Persia rất đẹp lòng khi chứng kiến một người Hy Lạp tầm cỡ Alcibiades lại ưa chuộng văn hóa của họ hơn của chính ông ta, và từ đó Alcibiades lại tiếp tục được trọng vọng, bổng lộc và quyền lực. Một khi đã bị lóa mắt vì hiệu ứng gương soi, người Persia không nhận ra rằng đằng sau tấm lá chắn đó, Alcibiades đang chơi trò hai mang, bí mật giúp Athens chống lại Sparta.

    Diễn giải

    Ngay từ những bước đầu sự nghiệp, Alcibiades có một khám phá giúp ông thay đổi toàn bộ cách tiếp cận quyền lực: Biết rằng mình có tính cách mạnh mẽ và độc đáo, tuy nhiên khi lý luận nảy lửa để thuyết phục, ông lôi kéo chỉ được vài người nhưng lại làm số đông xa lánh. Từ đó ông suy ra rằng để thu phục nhân tâm, thay vì áp đặt những màu sắc của mình, ta nên tiếp thu màu sắc của thiên hạ, như một con tắc kè. Một khi đã bị mờ mắt, họ sẽ không thể nhận ra mọi thủ đoạn tiếp theo của Alcibiades.

    Bạn nên nhớ rằng việc yêu lấy bản thân mình, đó là cái chăn mà ai ai cũng quấn. Khi ta định áp đặt cái tôi của mình, mọi người sẽ kháng cự ngay. Tuy nhiên, nếu ta chơi trò phản ánh như gương soi thì thiên hạ sẽ khoái chí, vì họ đang chứng kiến một bản sao của tâm hồn họ. Ta đã tạo ra toàn bộ bản sao đó, vậy hãy dùng nó để dụ dỗ và thao túng họ.

    Tuy nhiên nếu sử dụng gương soi một cách cẩu thả thì rất nguy. Khi Alcibiades hiện diện, mọi người cảm thấy mình lớn mạnh hơn, như thể cái tôi của họ được nhân đôi. Nhưng khi vắng ông, họ lại cảm thấy trống rỗng và nhỏ bé, và khi chứng kiến ông phản ánh đối thủ của họ y hệt một kiểu như đối với mình, họ cảm thấy bị phản bội. Vì Alcibiades lạm dụng hiệu ứng gương soi nên mọi người thấy nhàm chán, vì vậy ông luôn phải xoành xoạch thay đổi chỗ ở. Gương soi của Kẻ quyến rũ phải được sử dụng hết sức cẩn thận và có lựa chọn.

    Chinh phục vị Vua Mặt trời

    Năm 1652 khi chồng vừa qua đời, bà Nam tước Mancini đưa gia đình từ La Mã đến Paris, nơi bà có thể dựa vào thế lực và sự bao bọc của ông anh là Hồng y Mazarin, đang giữ chức thủ tướng Pháp. Bà nam tước có năm người con gái, trong đó có hết bốn người đã làm triều đình sững sờ vì vẻ đẹp và trí thông minh. Mọi người gọi những cháu gái tài sắc của Hồng y Mazarin là Mazarinette, và các cô được mời tham dự hầu hết các buổi họp mặt quan trọng trong triều.

    Chỉ có cô Marie Mancini là không may, kém duyên kém sắc hơn, và cuối cùng lại bị gia đình ghét bỏ vì làm hỏng hình ảnh chung. Gia đình khuyên cô nên vào tu viện để khỏi chướng tai gai mắt nhưng cô từ chối. Ngược lại cô siêng năng học tập, nghiên cứu tiếng Latinh và Hy Lạp, hoàn chỉnh tiếng Pháp, ôn luyện kỹ năng âm nhạc. Trong những lần hiếm hoi được gia đình cho phép đi theo tham dự buổi chầu, Marie rèn luyện nghệ thuật lắng nghe, đánh giá mỗi người qua từng nhược điểm và khát khao dồn nén. Đến năm 1657 Marie 18 tuổi gặp gỡ vị vua Louis XIV tương lai kém nàng một tuổi. Nàng quyết định tìm cách làm cho chàng trai này phải yêu mình, để cho gia đình biết mặt.

    Việc này xem ra là nhiệm vụ bất khả thi đối với một thiếu nữ tầm thường, song Marie quyết chí quan sát Louis thật tỉ mỉ. Yếu tố đầu tiên cô nhận ra là Louis không ưa tính bông phèng của các bà chị mình, và cũng căm ghét luôn những cú vận động chính trị nhỏ nhen đang tiếp diễn quanh ngài. Marie biết Louis có tâm hồn lãng mạn – ngài thích đọc tiểu thuyết phiêu lưu, một mực đòi đi đầu đội quân diễu hành, nuôi dưỡng lý tưởng cao đẹp và đam mê vinh quang. Triều đình không thỏa những mơ ước ấy, vì triều đình lúc đó là một thế giới tầm phào và nông cạn làm ngài chán phèo.

    Marie biết muốn tiến vào con tim ngài, cô phải hình thành một tấm gương soi phản ánh được những ước mơ và khát khao vinh quang của tuổi trẻ. Để bắt đầu cuộc hành trình này, cô lập tức lao mình vào thế giới của những quyển tiểu thuyết, thi ca, và kịch nghệ mà cô biết là nhà vua trẻ ngấu nghiến say mê. Khi Louis bắt đầu nói chuyện với nàng, ông ngạc nhiên thích thú vì nàng nói lên được những điều khuấy động lòng ngài. Nàng thỏa niềm khao khát vinh quang của ngài bằng cách tạo ra hình ảnh của một vị vua nhân từ và quảng đại mà ngài đang xây dựng. Nàng kích thích trí tưởng tượng của ngài.

    Khi vị Vua Mặt trời tương lai càng lúc càng đầu tư thời gian để gần gũi trò chuyện với Marie, mọi người hiểu ra là ngài đã yêu người thiếu nữ ít có cơ may nhất triều đình. Mẹ và các chị nàng ớn lạnh khi thấy ngài chiếu cố Marie tận tụy. Ngay cả đi chiến dịch quân sự ngài cũng cho nàng tháp tùng và còn ưu ái bố trí một chỗ thật tốt để nàng chứng kiến cảnh ngài oai phong tiến vào trận mạc. Thậm chí Louis còn hứa sẽ cưới nàng và tôn lên ngôi hoàng hậu.

    Tuy nhiên Mazarin không bao giờ để cho nhà vua cưới cháu gái của ông ta, vì Marie không có ích cho nền ngoại giao nước Pháp. Nhà vua phải thành hôn với một công chúa của Tây Ban Nha hoặc Áo Quốc. Năm 1658 Louis phải nhượng bộ sức ép và đoạn tuyệt với quan hệ lãng mạn đầu tiên của đời mình. Nhà vua miễn cưỡng lắm mới ưng thuận, và vào lúc cuối đời ngài vẫn nhìn nhận rằng chưa bao giờ yêu ai hơn Marie Mancini.

    Diễn giải

    Marie Mancini đã thực hiện trò chơi quyến rũ thật hoàn hảo. Trước tiên nàng giữ khoảng cách để quan sát con mồi. Nơi người khác, ít khi nào tiến trình quyến rũ đi xa hơn bước đầu tiên bởi vì họ hung hăng quá. Bước đầu tiên luôn phải là bước lùi. Với khoảng cách thích hợp, Marie nhận ra những gì làm nhà vua khác với đám đông xung quanh. Bước tiếp theo của nàng là tìm cách phản ánh được những khát khao thầm kín của Louis, để ngài thoáng thấy hình ảnh mà ngài có thể vươn tới – một vị vua vĩ đại thần thánh!

    Tấm gương soi đó có nhiều chức năng: Thỏa mãn cái tôi của Louis khi tạo ra một phiên bản thứ hai để ngài nhìn ngắm, và tấm gương cũng độc quyền tập trung vào ngài, tạo cho ngài cảm giác rằng Marie chỉ hiện diện cho mỗi mình ngài. Bị vây quanh bởi một đám quần thần mà tâm trí chỉ nghĩ duy nhất đến tư lợi, nhà vua không thể không cảm động trước tấm lòng của Marie. Cuối cùng gương soi của Marie cũng dựng nên một lý tưởng cho nhà vua đeo đuổi: Chàng hiệp sĩ cao quý của triều đình Trung cổ. Với một tâm hồn vừa lãng mạn và tham vọng, thật không có loại men nào gây say bằng một bóng hồng biết duy trì một hình ảnh phản chiếu chính mình, hình ảnh đã được lý tưởng hóa. Thật ra chính Marie là kẻ đã tạo ra hình ảnh của Vua Mặt trời.

    Đó là quyền năng tấm Gương soi của Kẻ quyến rũ: Thể hiện phong vị và lý tưởng của đối tượng, làm cho đối tượng nghĩ rằng ta quan tâm đến tính cách tâm lý của hắn ta, loại quan tâm dứt khoát dễ thương hơn bất kỳ hành động theo đuổi nào quá nóng sốt.

    Bạn hãy tìm hiểu xem đối tượng khác với những người xung quanh ở những điểm nào, rồi cầm gương lên mà soi và làm bật những điểm đó ra. Hãy thỏa mãn những ước mơ về quyền lực và sự cao cả bằng cách phản chiếu lý tưởng của đối tượng, chắc chắn đối tượng sẽ đầu hàng.

    Ivan Bạo chúa

    Năm 1538 khi mẹ Helena qua đời, cậu bé Ivan tám tuổi (sau này được gọi là Ivan Bạo chúa) hoàn toàn mồ côi. Suốt 5 năm sau đó, Ivan bất lực đứng nhìn giai cấp vương tôn, gọi là boyar, gieo rắc kinh hoàng khắp đất nước. Bọn chúng táo tợn đến mức chế giễu cả Ivan, buộc cậu đội vương miện và cầm trượng để ngồi làm vì trên ngai vàng. Khi cậu bé bất an ngồi nhấp nhứ ở rìa ngai, bọn chúng cả cười và nhấc bổng cậu lên, chuyền bổng từ người này sang người khác, để cho cậu thấm thía sự bất lực của mình.

    Năm lên 13 tuổi Ivan mưu sát tên boyar đầu đàn và lên ngai trị vì. Nhiều thập niên tiếp theo, tuy ra sức khống chế ảnh hưởng của chúng song Ivan vẫn không thành công. Nỗ lực đổi mới nước Nga và đánh bại kẻ thù đã làm Ivan kiệt sức. Trong khi đó nhân dân lại than vãn về những cuộc chiến không dứt, về công an mật vụ, về lũ boyar bạo tàn. Cả những bộ trưởng cũng nghi ngờ các biện pháp của Ivan. Cuối cùng không chịu nổi nữa, năm 1564 Ivan tạm thời rời bỏ ngai vàng, đưa quần thần và nhân dân vào cái thế phải năn nỉ ông trở lại chấp chính. Lúc này ông lại đẩy kịch bản thêm một bước táo bạo hơn: Tuyên bố thoái vị.

    Ivan chỉ định tướng Simeon Bekhulatovich lên thay thế ông trong điện Kremlin. Ông cố tình đưa lên ngôi một người Tartar, và đối với thần dân đó là điều sỉ nhục, vì người Nga xem người Tartar là thứ thấp hèn phản phúc. Nhưng Ivan vẫn nhất mực và còn yêu cầu tất cả dân Nga phải tuân theo hoàng đế mới. Trong khi đó ông lại sinh sống trong một ngôi nhà bình thường ở ngoai ô Moscow, thỉnh thoảng ghé thăm cung điện, cúi mình thi lễ trước ngai vàng, ngồi chung với đám boyar và kính cẩn xin Simeon ban ơn phước.

    Theo năm tháng, mọi người thấy rõ rằng Simeon chỉ là một loại phiên bản của Ivan. Ông ta ăn mặc như Ivan, nói năng và hành động như Ivan nhưng không có thực quyền, bởi vì không ai vâng lời ông ta cả. Bọn boyar thấy được sự liên hệ này: Họ làm cho Ivan cảm thấy mình là một người yếu thế đi đòi hỏi ngai vàng, vì vậy bây giờ Ivan chơi hiệu ứng gương soi bằng cách đặt lên ngai vàng một gã yếu thế y như vậy.

    Suốt hai năm dài Ivan tiếp tục soi rọi cho nhân dân Nga thấy hình ảnh của Simeon. Tấm gương nói: Chính sự than vãn và bất tuân của các người đã làm ta trở thành vị hoàng đế không quyền, vì vậy ta soi ngược lại cho các ngươi thấy thế nào là một hoàng đế không có thực quyền. Các ngươi đã đối xử với ta thiếu tôn kính, vì vậy ta sẽ làm y hệt như vậy với các ngươi để nước Nga trở thành trò cười của cả thế giới.

    Đến năm 1577, không chịu nổi trước sức ép đó, cả bọn boyar lẫn người dân đều nhân danh nước Nga năn nỉ Ivan trở lại ngai vàng. Từ đó ông lên trị vì cho đến khi băng hà vào năm 1584, mọi âm mưu, than thở, suy đoán tài lanh đều biến mất cùng với Simeon.

    Diễn giải

    Năm 1564 sau khi đe dọa thoái vị, Ivan được trao cho quyền lực tuyệt đối. Nhưng quyền lực này bị xén bớt dần khi từng giai tầng trong xã hội – bọn boyar, giáo hội, chính phủ - đều đòi thêm quyền. Những cuộc chiến chống ngoại xâm đã làm đất nước kiệt lực, xào xáo nội bộ tăng cao, trong khi mọi nỗ lực của Ivan để sắp xếp đều bị chế giễu. Nước Nga trở thành một lớp học huyên náo, nơi đám học trò công khai chế nhạo ông thầy. Nếu thầy than phiền hoặc lớn tiếng thì học trò càng làm hư. Thầy phải dạy cho chúng một bài học, dùng gậy chúng đập ngược lại lưng chúng. Simeon Bekbulatovich chính là tấm gương soi mà Ivan dùng vào việc ấy.

    Sau hai năm lấy ngai vàng làm trò cười cho thiên hạ, người dân Nga đã thấm thía bài học. Họ muốn khôi phục Nga hoàng, trao cho ông mọi phẩm cách và lễ kính mà tước vị đó luôn phải có. Nhờ vậy cho đến cuối triều đại, Ivan và nước Nga luôn cơm lành canh ngọt.

    Ta phải hiểu rằng người dân bị khóa chặt bởi kinh nghiệm bản thân. Khi ta than vãn rằng họ vô cảm, họ sẽ tỏ vẻ thấu hiểu, nhưng bên trong thì vẫn vô cảm và còn kháng cự nhiều hơn. Mục đích của quyền bính luôn là giảm thiểu sự kháng cự của kẻ khác đối với ta. Vì vậy ta phải dùng mánh khóe, chẳng hạn như phải dạy cho họ một bài học.

    Thay vì đăng đàn diễn thuyết, ta hãy tạo ra một loại gương soi rọi lối cư xử của họ. Lúc đó họ sẽ có hai lựa chọn: Hoặc là phớt lờ ta, hoặc họ sẽ bắt đầu suy nghĩ về tự thân. Và cho dù họ có phớt lờ chăng nữa thì xem như ta đã gieo được hạt mầm vào vô thức họ, sau này nó sẽ đâm chồi. Khi soi rọi lối cư xử của họ, ta không ngại gì mà tiện thể thêm thắt chút châm biếm hoặc phóng đại như Ivan đã từng làm bằng cách đưa lên ngôi một người Tartar – xem như một chút dầu mỡ để mở mắt họ ra, làm cho họ thấy được những hành động ngớ ngẩn của họ.

    Bác sĩ Erickson và đấng Christ

    Bác sĩ Milton H. Erickson, người tiên phong trong lĩnh vực tâm lý trị liệu chiến lược, có lối giáo dục bệnh nhân một cách gián tiếp nhưng rất hiệu quả, bằng cách tạo ra một dạng hiệu ứng gương soi. Ông xây dựng mô hình tương đồng để người bệnh thấy sự thật của căn bệnh, nhờ đó họ không cưỡng lại điều ông muốn thay đổi. Chẳng hạn khi xử lý những cặp vợ chồng than phiền về vấn đề tình dục, bác sĩ Erickson khám phá rằng lối tâm lý trị liệu theo kiểu truyền thống bằng cách nêu lên vấn đề và cho bệnh nhân trực tiếp đối đầu, chỉ làm cho cả hai vợ chồng lui về thế thủ và mâu thuẫn giữa họ thêm gay gắt. Thay vào đó, ông từ từ dẫn dụ cả hai vào những chủ đề, thường là chủ đề tầm phào nhưng có liên hệ gần xa với mâu thuẫn tình dục.

    Ở suất trị liệu đầu tiên, ông cho cả hai nói về thói quen ăn uống, đặc biệt là bữa ăn tối. Bà vợ chỉ thích kiểu ăn thong thả - uống tí gì đó trước khi ăn, mọi thứ phải làm từ từ thật văn minh. Còn người chồng thì muốn ăn ngay món chính với đĩa càng to càng tốt. Trong lúc cuộc nói chuyện tiếp diễn, họ dần nhận ra những điểm tương đồng với vấn đề phòng the. Tuy nhiên ngay lúc mà họ kết nối được liên hệ đó thì bác sĩ lại thay đổi chủ đề, tránh bàn bạc vấn đề thực sự.

    Cả hai vợ chồng nghĩ rằng bác sĩ mới bắt đầu hiểu họ và sẽ xử lý vấn đề ngay lần gặp mặt tiếp theo. Nhưng vào cuối suất trị liệu đó, Erickson dặn họ vài ngày sau phải sắp xếp một bữa ăn tối như thế nào mà cung cách ăn uống của cả hai đều được thỏa mãn: Bà vợ sẽ được nhấm nháp chầm chậm, trong khi ông chồng tự do chơi từng đĩa bự mà ông mong muốn. Không biết rằng mình đang hành động theo sự điều khiển tinh vi của bác sĩ, hai vợ chồng bước vào tấm gương soi rọi vấn đề của họ, nơi mà họ sẽ tự tìm ra giải pháp, kết thúc buổi tối hạnh phúc như ý vị bác sĩ – bê luôn tấm gương soi ấy vào giường.

    Khi phải xử lý các vấn đề trầm trọng hơn, chẳng hạn như thế giới của bệnh tâm thần phân liệt tự tạo, bác sĩ Erickson luôn cố đột nhập gương soi để hành động ngay trong đó. Có lần ông gặp trường hợp một bệnh nhân cứ cho mình là Jesus Christ – quấn chăn quanh mình làm y áo, thuyết giảng những chuyện trăng sao, pháo kích các bác sĩ y tá và bệnh nhân khác bằng sấm giảng Ky-tô. Không phương pháp hay thuốc men nào trị được trường hợp này, cho đến ngày kia Erickson đến gặp anh ta và nói: “Tôi biết anh có kinh nghiệm của một người thợ mộc”. Vì tự xưng là Christ nên anh ta phải nhìn nhận điều đó. Erickson lập tức yêu cầu anh ta đóng cho một loạt kệ sách và những đồ dùng hữu ích khác. Ở những tuần kế tiếp, khi tiếp tục đục đẽo cưa bào, anh ta ít có thì giờ nhớ nghĩ đến những ảo tưởng về đáng cứu thế và tập trung hơn vào việc làm. Vì công việc thợ mộc chiếm ưu thế, một dịch chuyển tinh thần diễn ra: Những ảo tưởng tôn giáo vẫn còn đó, song chúng thoải mái chìm dần vào bối cảnh, nhờ đó người bệnh có thể thích nghi với tập thể, với xã hội.

    Diễn giải

    Con người có thể liên lạc bằng ẩn dụ và biểu tượng, vốn cũng là cơ sở của ngôn ngữ. Ẩn dụ là một loại gương soi rọi cái thực và cái cụ thể, và nếu so với việc mô tả thì thường khi gương soi lại nói lên rõ hơn và sâu hơn. Khi ta đứng trước ý chí khó uốn nắn của người khác, sự truyền đạt trực tiếp thường chỉ làm tăng sức đối đầu.

    Điều này rõ hơn hết khi ta than phiền về cung cách ứng xử của người khác, đặc biệt ở những lĩnh vực nhạy cảm như chăn gối phòng the. Ta sẽ có cơ may thực hiện một thay đổi bền vững hơn nếu bắt chước bác sĩ Erickson mà xây dựng một bản tương tự, một tấm gương soi tượng trưng cho tình huống, rồi từ từ dẫn lối người kia. Cả Đức Jesus Christ cũng hiểu rằng phải phát biểu kiểu dụ ngôn là cách tốt nhất để giáo dục, vì qua đó ta tạo điều kiện cho người khác tự khám phá sự thật.

    Khi phải xử lý những ai lạc lối trong những trầm tư của thế giới ảo (kể cả những người không sống trong bệnh viện tâm thần), bạn đừng xô đẩy họ vào thực tế bằng cách đập tan tấm gương của họ. Ngược lại bạn nên bước vào thế giới của họ để hành động, theo những quy ước của riêng họ, nhẹ nhàng hướng dẫn họ ra khỏi cái nhà kính mà họ đã lạc vào.

    Rikyu sụp hố

    Takeno Sho-o là bậc thầy về trà đạo, sống ở Nhật Bản ở thế kỷ XVI. Ngày kia khi ông đi dạo, ông nhìn thấy một thanh niên đang tưới hoa gần cổng ra vào. Có hai điều khiến Sho-o phải chú ý – thứ nhất, phong cách làm việc của chàng thanh niên rất tao nhã, và thứ hai là loại hoa hồng Sharon trong vuờn đang rộ nở trông đẹp tuyệt trần. Sho-o dừng chân, tự giới thiệu với chàng thanh niên và biết tên anh ta là Sen no Rikyu. Dù muốn ở lại nhưng công việc cần kíp khiến Sho-o phải kiếu từ. Rikyu mời khách sáng mai đến dùng với mình một chén trà và Sho-o vui mừng nhận lời.

    Sáng hôm sau khi đến trước cổng, Sho-o rụng rời nhận thấy trong vườn không còn một chiếc hoa hồng nào. Mục đích hàng đầu của ông là đến ngắm hoa, vì hôm qua ông không đủ thì giờ thưởng ngoạn. Quá thất vọng ông định quay về, nhưng ra đến cổng ông lại dừng chân, ngẫm nghĩ một lúc rồi quyết định bước vào trà thất. Ngay ở ngưỡng cửa ông đã hết sức sững sờ: Trước mặt ông là một chậu hoa treo lủng lẳng từ trần nhà, và trong đó chỉ có một cành Sharon duy nhất, cành hồng đẹp nhất vườn. Hóa ra Sen no Rikyu đã đọc được ý khách, và qua cử chỉ hùng hồn này đã chứng tỏ rằng ngày hôm đó chủ và khách sẽ vô cùng hòa hợp.

    Sau này Sen no Rikyu trở thành trà chủ lỗi lạc nhất nước Nhật, và dấu ấn của ông chính là khả năng tuyệt vời để hòa hợp với khách tân.

    Ngày kia được mời dự tiệc trà với Yamashina Hechigwan, một môn đồ trà đạo nổi tiếng với máu khôi hài. Khi đến nhà Hechigwan, Rikyu thấy cổng đóng im ỉm, vì vậy ông tự tay mở để bước vào tìm kiếm chủ nhân. Phía bên trong cổng, ông thấy ai đó dã đào sẵn cái hố rồi che bằng vải bạt, khảo đất lên trên. Biết rõ Hechigwan định đùa một phát ra trò, Rikyu chủ động sa chân vào hố làm quần áo lấm lem bùn đất.

    Hốt hoảng ra mặt, Hechigwan chạy ra đỡ Rikyu vào bồn tắm, vì lý do nào đó đã chuẩn bị sẵn từ bao giờ. Tắm xong, Rikyu đến dự tiệc trà với chủ, cùng cười vui về sự kiện vừa rồi. Sau này Rikyu kể lại với một người bạn là ông từng nghe đồn về máu đùa dai của Hechigwan, nhưng vì ông chiều lòng bè bạn nên cố tình sập hố để bảo đảm buổi trà đạo được thành công. Ông kết luận: “Không thể có trà đạo khi chủ và khách không hòa hợp với nhau”.

    Diễn giải

    Sen no Rikyu không phải là thầy bói cũng chẳng phải là thầy bùa – ông chỉ quan sát những người xung quanh, chú ý những cử chỉ nhỏ nhặt biết nói lên niềm khát khao thầm kín, từ đó tái hiện hình ảnh của nỗi khát khao ấy. Sho-o chưa kịp nói về hồng thì Rikyu đã đọc được điều đó trong mắt khách. Còn nếu phản chiếu ý muốn của một người có nghĩa là đưa chân và hố thì ta cứ việc. Sức mạnh của Rikyu nằm trong việc sử dụng khéo léo tấm Gương soi của Gã cận thần, giúp ông có vẻ như đọc được suy nghĩ của người khác.

    Bạn hãy tập sử dụng nhuần nhuyễn loại gương soi này, hãy quan sát tia nhìn của người xung quanh, theo dõi hành vi của họ, vì chúng là hàn thử biểu của niềm vui nỗi buồn, trung thực hơn cả lời nói. Đừng bỏ qua bất kỳ chi tiết nào, tìm xem những gì nằm dưới mặt nước, rồi bạn biến mình thành tấm gương soi của cái tôi ẩn nấp của họ. Đó là mấu chốt của sức mạnh. Vậy một lần nữa bạn hãy nhớ: Sự truyền thông vô ngôn chứa đựng nhiều sức mạnh nhất.

    Yellow Kid Weil

    Thầy lừa Yellow Kid Weil là người sử dụng loại Gương soi của Kẻ lừa đảo nhuần nhuyễn nhất trong các bậc thầy lừa đảo. Vố táo bạo nhất là lần Weil dựng cảnh một ngân hàng tại Muncie, bang Indiana. Khi đọc báo biết đến ngày nào đó ngân hàng Merchant Bank di dời trụ sở, Weil tự nhủ đây là cơ hội không thể bỏ qua.

    Ông ta thuê toàn bộ trụ sở ngân hàng với đầy đủ trang trí nội thất, bàn ghế văn phòng, khu vực thu ngân… v.v. Rồi ông mua loại bao đựng tiền, viết tên nhiều ngân hàng lên đó, đổ đấy rông-đền kim loại vào, rồi sắp xếp chúng trông thật ấn tượng ở phía sau các quầy thu ngân, chen lấn với hàng chục bó bạc chẻ bằng giấy báo cắt nhỏ. Rồi ông đi thuê một đám bá vơ về cho đủ bộ sậu nhân viên, thậm chí còn mướn cả một tay đầu gấu đóng vai bảo vệ.

    Tự xưng là môi giới của đợt đầu tư vào chứng từ tài chính mà ngân hàng đang chào mời, Weil sẽ câu con mồi giàu có thích hợp. Ông sẽ đưa con mồi đến ngân hàng và đòi gặp chủ tịch. Cán bộ ngân hàng bảo hai người phải chờ, điều càng làm cho màn kịch thêm phần trung thực – muốn gặp chủ tịch ai cũng phải chờ. Trong khi chờ, con mồi bị mê hoặc bởi sinh hoạt nhộn nhịp xung quanh, khách hàng ra vào tới tấp, nhân viên nháo nhào tới lui, khách ra về còn gật đầu chào anh bảo vệ lực lưỡng. Quá tin tưởng, con mồi ký gửi hàng chục ngàn đôla mà không việc gì phải lo ngại.

    Sau đó Weil còn chơi trò này với một câu lạc bộ du thuyền không người, một trụ sở môi giới bỏ hoang, một văn phòng bất động sản trong thời kỳ di chuyển và một sòng bạc hoàn toàn có thật.

    Diễn giải

    Việc phản chiếu thực tại cung cấp cho ta nhiều khả năng lừa bịp. Con người có nhu cầu phải tin vào điều gì đó, và bản năng đầu tiên của họ là tin cậy một mặt tiền được chăm chút kỹ. Nói cho cùng thì chúng ta không thể đi lòng vòng trong xã hội này để nghi ngờ hết điều này đến điều nọ, vì như thế mất sức lắm. Ta thường chấp nhận vẻ bề ngoài, và đó là sự cả tin dễ bị thao túng.

    Ở trò chơi này, giây phút đầu tiên là quan trọng nhất. Nếu thoạt nhìn qua gương mà con mồi không chút nghi ngờ thì hắn sẽ không nghi ngờ nữa. Một khi đã bước chân vào ngôi nhà những chiếc gương soi do ta dựng lên, họ sẽ không còn khả năng phân biệt thực hư, và ta càng dễ lừa họ.

    Hình ảnh:

    Tấm khiên của Perseus. Được đánh bóng như mặt gương, nó che không cho quái thú Medusa thấy vị anh hùng, nhưng anh hùng lại nhìn vào đấy để ra tay. Nấp sau gương soi đó, ta có thể lừa bịp, bắt chước và chọc tức. Chỉ một phát ta chặt phăng cái đầu mất cảnh giác của Medusa.

    Ý kiến chuyên gia:

    Nhiệm vụ của chiến dịch quân sự là giả trang phù hợp với chủ đích của địch… trước tiên là làm điều chúng muốn, tinh vi đón ý chúng. Giữ vững kỷ luật và thích nghi với kẻ thù… Do đó thoạt tiên ta giống như thiếu nữ để địch chịu mở cửa thành, kế tiếp ta lại là con thỏ xổng chuồng, nên địch không thể chặn chân ta.

    (Tôn Tử, thế kỷ IV trước công nguyên)

    CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG TÌNH HUỐNG BỊ SOI NGƯỢC

    Gương soi chứa nhiều sức mạnh nhưng cũng đựng lắm mối nguy, trong đó có tình huống bị soi ngược – loại tình huống dường như phản chiếu một hoàn cảnh trước đó, hoặc rất giống một hoàn cảnh trước đó, nhất là ở bề mặt. Ta lâm vào tình thế tương tự mà không hoàn toàn hiểu hết về nó, trong khi những người xung quanh lại am tường, so sánh nó và ta với bất cứ việc gì xảy ra trước đó. Trong hầu hết mọi trường hợp ta bị thiệt hại bởi sự so sánh đó, vì thiên hạ thấy ta có vẻ dở hơn người tiền nhiệm, hoặc giả ta bị hoen ố bởi những điều liên tưởng mà người tiền nhiệm đã để lại sau lưng.

    Năm 1864 nhà soạn nhạc Richard Wagner dọn đến Munich ở theo lệnh vua Ludwig II của xứ Bavaria (nay là bang miền Nam của Đức). Ludwig là người hâm mộ Wagner sâu đậm nhất, đồng thời là người người đỡ đầu rộng rãi nhất. Chính sự ủng hộ đặc biệt này làm Wagner trở nên ngông cuồng. Khi đế ngụ tại Munich dưới sự bảo hộ của nhà vua, Wagner muốn ở đâu và làm gì tùy ý.

    Ông ta thích ở trong ngôi nhà xa hoa, nhà vua mua tặng ngay. Ngôi nhà này gần nhà cũ của Lola Montez, một kỹ nữ nổi tiếng từng làm cho ông nội của Ludwig II thất điên bát đảo đến độ phải thoái vị. Mọi người cảnh báo Wagner coi chừng ảnh hưởng bởi những suy nghĩ mang tính liên tưởng không tốt, nhưng ông chỉ phì cười. Tuy nhiên không lâu sau nhân dân Munich bắt đầu bực bội với tất cả những ân sủng và tiền tài của vua dành cho Wagner, và họ gọi ông là „Lola hai“ hoặc „Lolotte“. Có lẽ ông vô tình bước vào vết xe đổ của nàng kỹ nữ - ném tiền qua cửa sổ, can thiệp vào những lĩnh vực vượt ngoài chuyên môn của mình, thậm chí xen vào chính trị và cố vấn nhà vua bổ nhiệm nội các. Trong khi đó tình thương mà Ludwig dành cho Wagner có vẻ quá nóng bỏng và không tương xứng với một vị vua – cũng giống như thứ tình cảm mà người ông nội đã dành cho Lola Montez.

    Cuối cùng các bộ trưởng đành phải viết cho Ludwig một tối hậu thư: „Bệ hạ đang đứng trước ngã ba đường định mệnh: Bệ hạ phải lựa chọn giữa một bên là tình yêu và lòng tôn kính của nhân dân trung thành, còn bên kia là ‚tình bạn‘ với Richard Wagner“.

    Tháng Mười hai năm 1865, Ludwig phải ân cần yêu cầu bạn mình ra đi và đừng bao giờ trở lại. Wagner đã vô tình đặt mình vào tầm phản chiếu của Lola Montez. Mọi hành động của ông đều làm cho người dân lãnh đạm vùng Bavaria nhớ tới người đàn bà đáng sợ kia.

    Hãy tránh đừng để bị dính vào kiểu liên tưởng như vậy. Nếu bị phản chiếu ta sẽ mất bớt hoặc mất hẳn quyền kiểm soát đối với những gì bị soi ngược, những hoài niệm và mọi người gắn kết vào ta. Và bất cứ tình huống nào ngoài tầm kiểm soát đều gây nguy hiểm. Cho dù cá nhân hoặc tình huống được soi rọi có những liên hệ tích cực thì ta vẫn thiệt thòi vì không thể sánh bằng với họ, bởi vì quá khứ thường có vẻ vĩ đại hơn hiện tại. Nếu tình cờ thấy mọi người liên hệ mình với một con người hay sự kiện của quá khứ, ta hãy cố hết sức mình để tách khỏi ký ức đó và đập vụn gương phản chiếu.
     
  7. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 45: Ngụy Trang Sự Đổi Mới Dưới Vỏ Bọc Truyền Thống

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nói chung, mọi người đều hiểu biết là cần phải đổi mới, nhưng chỉ hiểu một cách trừu tượng, còn trong cuộc sống hàng ngày, tất cả mọi người đều là sinh vật của thói quen. Đổi mới quá nhiều sẽ gây chấn động và dẫn đến nổi loạn. Nếu bạn vừa vươn tới vị trí quyền lực hoặc bạn là kẻ ngoại đạo cố dựng xây cơ sở quyền lực, bạn hãy tỏ rõ cho mọi người thấy rằng mình kiêng nể cách làm truyền thống. Nếu thật sự cần thay đổi, bạn hãy làm sao để mọi người cảm thấy quá khứ được cải thiện một cách dễ chịu.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Vào đầu thập niên 1520, Vua Henry VIII của nước Anh quyết định ly dị vợ là Cartherine xứ Aragon vì bà không sinh được cho ông một mụn con trai nào, và ngoài ra ông lại phải lòng người đẹp Anne Boleyn. Giáo hoàng Clement VII không cho phép ly dị và đe dọa rút phép thông công đối với Henry. Bộ trưởng quyền thế nhất nội các lúc đó là Hồng y Wolsey cũng không tán đồng ly dị nên chỉ ậm ừ, sau đó ông bị truất phế và mất mạng.

    Một thành viên nội các là Thomas Cromwell không chỉ ủng hộ vua, mà còn đề ra ý tưởng để thực hiện ly dị: đoạn tuyệt với quá khứ. Ông thuyết phục nhà vua cắt đứt quan hệ với La Mã để trở thành người đứng đầu Giáo hội Anh Quốc tân lập, sau đó tha hồ ly dị Catherine và cưới Anne. Henry nghe theo và thưởng công Cromwell bằng cách biến người con của thợ rèn thành cố vấn hoàng gia.

    Năm 1534 Cromwell được bổ nhiệm là thư ký riêng của vua, và với tư cách là quyền lực phía sau ngai vàng, ông trở thành người hùng mạnh nhất Anh Quốc. Nhưng với ông, việc đoạn tuyệt với La Mã còn có ý nghĩa quan trọng hơn là sự thỏa mãn thú vui với La Mã còn có ý nghĩa quan trọng hơn là sự thỏa mãn thú vui trần thế của đức vua: Cromwell muốn thiết lập một hệ thống Tin Lành ở Anh, đánh đổ thế lực của Giáo hội Công giáo và gom thu của cải tài sản của Giáo hội về cho vua và chính phủ. Ngay trong năm đó ông phát động cuộc khảo sát đại trà các nhà thờ và tu viện, và phát hiện rằng tiền bạc và tài sản mà các nhà thờ tích trữ qua bao thế kỷ còn nhiều hơn ông tưởng.

    Để chứng minh cho kế hoạch của mình, Cromwell loan truyền tin đồn về việc các tu viện tham nhũng, lạm dụng quyền hành, bóc lột dân chúng. Được phép của Nghị viện, ông lần lượt phá vỡ, tịch thu tài sản và khai tử từng tu viện. Song song với đó, Cromwell buộc mọi người theo đạo Tin Lành, đưa nhiều cải cách vào trong nghi thức tôn giáo và trừng phạt những ai còn bám lấy Công giáo. Gần như chỉ đầu hôm sớm mai là cả nước Anh đều chuyển sang tôn giáo chính thức mới.

    Cả nước chìm trong sợ hãi. Nhiều người tuy cũng từng rên xiết dưới sự thống trị trước đây của Giáo hội Công giáo, nhưng dù sao hầu hết dân Anh cũng có ràng buộc chặt chẽ với nghi thức và đường lối Công giáo. Họ sững sờ chứng kiến cảnh các nhà thờ bị đập bỏ, thánh tượng bị phá hủy, của cải bị tịch thu. Trước đây những người nghèo được tu viện cưu mang, giờ họ phải tràn ra đường. Cộng với số lượng tu sĩ bị đuổi khỏi tu viện, hàng ngũ giới ăn xin càng đông đảo. Hơn nữa, Cromwell còn tăng thuế để có tiền trang trải cho việc cải cách tôn giáo.

    Năm 1536 nhiều cuộc nổi loạn khốc liệt ở miền Bắc nước Anh suýt nữa đã lật đổ được Henry. Tuy đã dẹp được loạn nhưng giờ đây nhà vua bắt đầu phải trả giá cho những cải cách của Cromwell. Bản thân ông cũng không muốn đi xa đến thế - điều ông cần chỉ là ly dị. Giờ đây đến phiên Cromwell bất an chứng kiến nhà vua từ từ cản trở những gì ông ta đã thay đổi, phục hồi các bí tích Công giáo cùng với những nghi lễ khác mà ông từng đặt ra ngoài vòng pháp luật.

    Cảm thấy mình đang bị thất sủng, Cromwell quyết lấy lòng chủ nhân bằng một nước cờ táo bạo: Tìm vợ mới cho vua. Vợ thứ ba của Henry là Jane Seymour đã chết trước đó vài năm và nhà vua mòn mỏi tìm kiếm một hoàng hậu mới. Cromwell giới thiệu với vua một công chúa nước Đức là Anne xứ Cleves, mà lại là người theo đạo Tin Lành. Cromwell lệnh cho họa sĩ Holbein thực hiện bức chân dung của nàng, chỉnh sửa thêm thắt sao cho vua mê tít. Ngắm tranh, Henry gật đầu ngay và ra lệnh tổ chức lễ cưới. Cromwell được vua chiếu cố trở lại.

    Rủi thay, vì bức tranh được Holbein vẽ theo sự chỉ đạo của Cromwell với tính lý tưởng hóa rất cao nên khi gặp người thật việc thật thì Henry hết sức não lòng. Sự căm ghét của vua đối với Cromwell – thoạt tiên vì những cải cách cực đoan, giờ lại còn cáp mình với một cô vợ không đẹp và theo Tin Lành – không thể nào kiềm chế được nữa. Tháng Sáu năm 1540, Cromwell bị bắt và kết án là tên Tin Lành cực đoan và dị giáo, để rồi sau đó bị xử trảm trước đám đông hò reo tở mở.

    Diễn giải

    Thomas Cromwell suy nghĩ rất đơn giản: Đập tan thế lực và tài sản của giáo hội, sau đó thiết lập đạo Tin Lành. Và ông sẽ cấp tập tiến hành không thương tiếc trong thời gian ngắn. Tuy biết rằng việc cải cách nhanh chóng như thế sẽ tạo ra đau thương và căm phẫn, song ông nghĩ là những cảm giác ấy sẽ phôi pha theo năm tháng. Quan trọng hơn, khi tự đồng nhất với cải cách, ông sẽ trở thành người lãnh đạo trật tự mới, khiến nhà vua phải phụ thuộc ông ta. Nhưng chiến lược của ông có vấn đề: Tựa như quả cầu bi-da va quá mạnh vào mép bàn, công cuộc cải cách có nhiều cú giật và „ca-rôm“ mà ông không hề ngờ tới.

    Người phát động cải cách thường trở thành vật bung xung cho đủ loại bất mãn. Và cuối cùng phản ứng đối với cải cách sẽ quay lại đập lên lưng anh ta, bởi vì con người thường bất an trước đổi thay, cho dù thay đổi để được tốt hơn. Vì thế giới này luôn đầy dẫy bất ổn và đe dọa, chúng ta bám lấy những gì quen thuộc, tạo ra thói quen và nghi thức để cảm thấy được an toàn hơn. Nếu vẫn còn trừu tượng, sự đổi thay có thể dễ chịu và thậm chí được mong ước. Nhưng khi trở thành cụ thể, và hơn nữa lại thay đổi quá nhiều thì sẽ phát sinh lo âu, âm ỉ dưới bề mặt, rồi cuối cùng sẽ bùng nổ.

    Bạn đừng bao giờ đánh giá thấp tính bảo thủ của những người xung quanh. Tính bảo thủ ấy rất hùng mạnh và ẩn nấp trong hầm. Bạn đừng để một ý tưởng hấp dẫn làm mờ lý trí: Bạn không thể buộc người khác có cùng thế giới quan với mình thì bạn cũng không thể lôi kéo họ vào một tương lai có quá nhiều thay đổi gây đau đớn. Họ sẽ nổi loạn. Nếu cần phải đổi mới, bạn hãy lường trước mọi phản ứng để tìm cách nghi trang mọi thay đổi và làm cho liều thuốc đắng ấy đỡ đắng hơn.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Hồi thập niên 1920, Mao Trạch Đông biết rõ hơn ai hết việc Cộng sản chiến thắng ở Trung Quốc là điều gần như là không thể. Quân số nhỏ, ngân quỹ hạn chế, thiếu kinh nghiệm quân sự, khí tài ít, đảng Cộng sản không thể nào thành công trừ khi lấy lòng được thành phần nông dân đông mênh mông của Trung Quốc. Nhưng trên thế giới này, còn ai bảo thủ hơn, bám chặt hơn vào gốc rễ hơn là nông dân Trung Quốc? Nền văn minh cổ xưa nhất hành tinh này có một lịch sử không bao giờ chịu nới lỏng quyền lực cho dù cuộc cách mạng có tàn bạo cách mấy. Đến thập niên 1920 rồi mà những quan niệm của Khổng Tử vẫn còn tươi mới như hồi thế kỷ thứ VI trước công nguyên, thời vị thầy này sinh tiền. Liệu những đàn áp của chế độ đương thời có đủ sức làm cho nông dân từ bỏ các giá trị đạo đức thâm căn cố đế của quá khứ để tán thành một chủ nghĩa Cộng sản vĩ đại nhưng còn xa lạ?

    Mao chọn giải pháp: Khoác chiếc áo quá khứ lên bản thân cuộc cách mạng, khiến cho nhân dân thấy nó dễ thở và chính đáng. Một trong những quyển sách mà Mao thích nhất là cuốn tiểu thuyết Thủy Hử rất phổ biến, kể lại kỳ tích của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc chống lại triều đình tham nhũng quan liêu. Vào thời niên thiếu của mao, thuyết giáo của Khổng Tử thống lĩnh nhấn mạnh vào quan hệ và tôn ti trật tự của gia đình. Nhưng Thủy Hử lại đề cao tinh thần huynh đệ trong băng nhóm, và đại nghĩa quy tụ tất cả mọi thành phần xã hội, vượt qua quan hệ huyết thống. Quyển tiểu thuyết này gây cảm xúc rộng sâu đều khắp trong nhân dân Trung Quốc, vốn cảm khải kẻ dưới cơ. Vì vậy thỉnh thoảng Mao làm cho họ liên tưởng quân đội cách mạng của mình với những người anh em Lương Sơn trong Thủy Hử. Mao muốn mọi người thấy cuộc chiến của mình giống như sự xung đột muôn đời giữa giai cấp nông dân bị áp bức với vị hoàng đế xấu xa. Ông làm cho người dân thấy dường như quá khứ đã bao trùm và chính thống hóa đại nghĩa Cộng sản. Nông dân sẽ an tâm, thậm chí ủng hộ đoàn thể nào có nguồn gốc gắn liền với quá khứ.

    Ngay cả khi đã cầm quyền, Mao vẫn tiếp tục gắn liền đảng với quá khứ. Với đám đông quần chúng, Mao cho thấy mình không phải là một Lenin Trung Quốc, mà là một Gia Cát Lượng tân thời, vị quân sư lừng danh trong quyển Tam Quốc chí. Còn hơn là một vị tướng tài, Lượng còn là nhà thơ, triết gia và gương mặt đạo đức cứng rắn. Vì vậy Mao cũng tỏ ra mình là một nhà thơ-chiến sĩ như Lượng, người biết kết hợp chiến lược với triết học và rao giảng những chuẩn mực đạo đức mới. Ông muốn nhân dân thấy mình hiện ra như một anh hùng từ truyền thống Trung Quốc vĩ đại của các chính khách chiến binh.

    Sau đó những gì Mao nói lên hay viết ra đều tham chiếu đến giai đoạn quá khứ hào hùng của đất nước. Chẳng hạn như ông nhắc lại việc Tần Thủy Hoàng thống nhất lãnh thổ hồi thế kỷ thứ III trước công nguyên. Vị hoàng đế này từng đốt sách Khổng Tử, củng cố và hoàn tất việc xây dựng Vạn lý Trường thành. Cũng như Tần Thủy Hoàng, Mao đã thống nhất đất nước, đã theo đuổi những cải cách táo bạo. Trước nay người dân vẫn xem Tần Thủy Hoàng là bạo chúa với triều đại ngắn ngủi. Mao đã khôn ngoan tránh né việc đó, đồng thời thể hiện lại vai trò của Tần Thủy Hoàng, làm cho người dân Trung Quốc ngày nay thấy chuyện ông làm là chính đáng.

    Trong nội bộ đảng Cộng sản nổ ra cuộc đối đầu giữa Mao và Lâm Bưu. Để cho dân chúng thấy rõ điểm dị biệt giữa triết lý của mình với của Lâm, một lần nữa Mao lại khai thác quá khứ: Ông hình tượng hóa Lâm như là một Khổng Tử, người mà Lâm hay trích dẫn. Ngược lại Mao tự liên hệ mình với phong trào tuân thủ pháp quyền xưa kia của Hàn Phi Tử. Môn đồ của triết gia này không phục Khổng Tử mà chủ trương dùng bạo lực để tạo ra trật tự mới. Họ sùng bái quyền lực. Để tăng thêm trọng lượng, Mao phát động tuyên truyền trên toàn quốc chống Khổng Tử, dùng sự đối đầu giữa học thuyết Khổng Tử và chủ trương pháp quyền để cổ xúy thanh niên dấn thân vào một loại nổi loạn điên cuồng chống lại thế hệ đi trước. Toàn cảnh hùng vĩ đó thật ra che đậy một sự tranh giành quyền lực tầm thường, và một lần nữa Mao lại tranh thủ được lòng quần chúng, đồng thời chiến thắng kẻ thù.[11]

    Diễn giải

    Nhân dân Trung Quốc rất gắn bó với quá khứ. Đứng trước cản ngại lớn lao đó, Mao đề ra chiến lược khá đơn giản: Thay vì chống lại, ông ta lại lợi dụng quá khứ, gắn liền các đảng viên Cộng sản với các hình ảnh trong lịch sử Trung Quốc. Mang chiến trận thời Tam quốc lồng vào cuộc tranh đấu giữa Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc, Mao tự xem như một Gia Cát Lượng tân thời. Như những bậc đế vương từng làm, Mao hoan nghênh việc quần chúng tôn sùng một gương mặt nổi bật nào đó, vì ông hiểu rằng đấy là điều không thể thiếu để xã hội hoạt động tốt. Sau khi sai lầm trầm trọng của cú Đại nhảy vọt với ý định áp đặt cả nước phải hiện đại hóa rồi sau đó thất bại thảm hại, Mao không bao giờ lặp lại lỗi lầm: Từ đó về sau, những thay đổi triệt để phải được bọc trong lớp áo an lành của quá khứ.

    Ta phải nhớ rằng quá khứ có sức mạnh đáng gờm, vì những gì đã qua đều có vẻ vĩ đại hơn hiện tại. Tục lệ và lịch sử tạo trọng lượng cho các hành động quá khứ. Ta hãy tận dụng điều đó để thủ lợi. Khi phá hủy điều gì đó mà thiên hạ đã quen thuộc, xem như ta vừa tạo ra khoảng trống và thiên hạ rất sợ sự hỗn loạn sắp ùa vào để lấp đầy khoảng trống đó. Nhất định ta không được để sự lo sợ ấy xảy ra. Hãy mượn sức nặng và tính chính đáng của quá khứ, cho dù quá khứ xa hay gần cũng được, miễn làm sao nó tạo ra được một cảm giác thân thương và an ủi. Sự vay mượn này cũng cung cấp cho ta nhiều liên hệ lãng mạn, củng cố sự hiện diện của ta, và trên hết là che đậy được những đổi thay mà ta tạo ra.

    Phải quan niệm rằng không có gì khó hơn, không có gì làm

    cho thành công xa vời hơn, không có gì nguy hiểm hơn,

    là việc khởi động một trật tự mới cho mọi việc.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Tâm lý con người có nhiều tính lưỡng diện, chẳng hạn như trong khi ý thức được sự cần thiết phải thay đổi, rằng các cá nhân và định chế thỉnh thoảng phải đổi mới, nhưng con người vẫn cảm thấy khó chịu và bất an khi những thay đổi ấy ảnh hưởng đến cá nhân họ. Tuy biết thay đổi là cần thiết, song sâu thẳm bên trong, họ vẫn bám lấy quá khứ. Những đổi thay trừu tượng hoặc hời hợt sẽ được hoan nghênh, nhưng nếu làm xáo trộn tập quán hoặc thói thường sẽ bị họ phản đối.

    Không có cuộc cách mạng nào qua đi mà không có những phản ứng mạnh về sau, bởi vì về lâu về dài cái khoảng trống do nó tạo ra sẽ làm cho con người bị bất an, và trong vô thức họ gắn kết sự bất an này với cái chết và sự hỗn loạn. Cơ hội thay đổi và đổi mới cám dỗ người ta đi theo cách mạng, nhưng một khi lòng nhiệt thành lắng xuống, họ ở lại với một cõi vắng trong tâm hồn. Hoài niệm quá khứ, họ mở cánh cửa cho quá khứ trở về.

    Machiavelli cho rằng người ra giảng và thực hiện đổi mới chỉ có thể sống sót một khi tay có cầm vũ khí: Trước sau gì quần chúng cũng hoài cổ, và lúc đó ta phải sẵn sàng dùng vũ lực. Nhưng người rao giảng đó sẽ không thể tồn tại, trừ khi là phải tạo ra một hệ thống giá trị và nghi thức mới để thay thế hệ thống cũ, để vỗ an âu lo của những thành phần sợ thay đổi. Sẽ dễ dàng và ít đổ máu hơn nếu ta thực hiện một loại trò lừa. Bạn muốn cổ xúy thay đổi đến mức nào cũng được, và thậm chí cứ thực hiện đổi mới, nhưng phải làm mọi người an lòng bằng cách phủ lên những thay đổi đó một lớp áo cố sự và truyền thống.

    Vương Mãng, vị hoàng đế trị vì trên đất Trung Hoa từ năm 8 đến 23, nổi lên từ một thời kỳ lịch sử biến động dữ dội, và dân chúng khao khát trật tự xã hội, loại trật tự mà Khổng Tử mang đến cho họ. Tuy nhiên hai thế kỷ trước đó Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh thiêu hủy toàn bộ các tác phẩm Khổng giáo. Ít lâu sau có tin đồn rằng vài bộ sách vẫn sống sót vì được giấu dưới nền nhà Khổng Tử. Có thể những bộ sách ấy không phải là nguyên tác, song Vương Mãng đã nắm được cơ hội: Trước tiên ông ra lệnh tịch thu, sau đó sai người chèn thêm vào vài đoạn thích hợp với những thay đổi mà ông đang áp dụng cho đất nước. Khi được phổ biến ra công chúng thì dường như những gì Khổng Tử viết đều phù hợp với những cải cách của Vương Mãng, nhờ đó nhân dân cảm thấy an lòng và chấp nhận chúng dễ dàng hơn.

    Bạn nên nhớ rằng chính vì quá khứ đã chết và được chôn vùi nên bạn tự do diễn giải nó. Bạn chỉnh sửa chắp và đôi chút cho phù hợp với sự nghiệp của mình. Quá khứ là văn bản mà bạn tùy nghi viết thêm những dòng cần thiết.

    Một cử chỉ đơn giản như sử dụng một chức vị xưa, hoặc nhóm người của ta có cùng số thành viên với một nhóm nổi tiếng trong lịch sử sẽ nối kết ta với quá khứ và nâng đỡ ta bằng thẩm quyền của lịch sử. Như Machiavelli đã ghi nhận, người La Mã từng dùng mẹo đó khi chuyển đổi từ chế độ quân chủ sang cộng hòa. Đành rằng họ đã thiệt lập ra hai thượng quan chấp chính thay vào chỗ của vua, nhưng vì trước đây vua được một nhóm 12 hình sử viên phục vụ nên họ vẫn giữ nguyên con số đó để phục vụ các quan chấp chính. Trước đây vua từng tự tay cử hành nghi thức thức tế hy hàng năm, trong một lễ hội hoành tráng làm nức lòng dân chúng, bây giờ nền cộng hòa vẫn lưu dụng tập tục đó, chỉ thay đổi chút đỉnh là chuyển việc tế lễ cho một chủ lễ mà họ gọi là Vua buổi tế lễ. Những hành động giống nhau đó làm dân chúng hài lòng, để cho họ khỏi yêu cầu phục hồi nền quân chủ.

    Một chiến lược khác để nghi trang thay đổi là tuyên bố công khai và rình rang sự ủng hộ đối với các chuẩn mực quá khứ. Hãy tỏ ra mình cúc cung tận tụy với truyền thống, và sẽ ít ai chú ý thấy ta chẳng truyền thống chút nào. Thành phố Florence thời Phục hưng tự hòa về nền cộng hòa mấy trăm năm tuổi, do đó rất nghi kỵ những ai không tôn trọng truyền thống ấy. Cosimo de Medici khoa trương sự ủng hộ nhiệt tình đối với nền cộng hòa, trong khi thật ra ông âm thầm xoay xở để gia tộc quyền thế của mình nắm hết Florence. Về hình thức, họ Medici duy trì cái vẻ bề ngoài của nên cộng hòa, nhưng bên trong họ tước hết quyền lực của định chế ấy.

    Khoa học tự cho mình là tiên phong trong việc đi tìm sự thật, chống lại mọi hình thức bảo thủ và phi lý của tập quán. Đó là nền văn hóa của sự đổi mới. Thế nhưng khi trình bày những ý tưởng về sự tiến hóa, Charles Darwin gặp phải sự chống đối quyết liệt của chính các đồng nghiệp khoa học gia hơn là từ thẩm quyền tôn giáo. Các lý thuyết của ông thách thức quá nhiều định kiến. Jonas Salk cũng đâm đầu vào cùng một loại vách tường như vậy khi ông thuyết trình về những đổi mới cấp tiến trong lĩnh vực miễn dịch học. Max Planck cũng không dễ dàng gì hơn với công cuộc cách mạng hóa môn vật lý. Viết về sự chống đối dữ dội ấy, Planck chua xót: „Một sự thật mới về khoa học không chiến thắng bằng cách thuyết phục những người phản đối và giúp cho họ thấy được ánh sáng, nhưng chiến thắng khi những người phản đối đó chết già, và một thế hệ trẻ lớn lên dần dà quen thuộc với sự thật ấy“.

    Giải pháp cho thái độ bảo thủ đó là ta phải đóng vai người vận động không khéo, nói xuôi chiều truyền thống. Trong cuộc cách mạng của mình, ta hãy suy tìm những yếu tố có thể nhào nặn để chúng có vẻ liên hệ với quá khứ. Hãy nói đúng điều cần nói, khoa trương sự tuân thủ, trong khi vẫn để cho những lý thuyết thực hiện công việc cấp tiến của chúng. Hãy đóng thật giỏi màn kịch cung kính lễ nghi quá khứ.

    Điều cuối cùng cần nhắc nhở là người tài ba luôn chú ý đến tâm trạng chung của thời đại. Nếu công cuộc đổi mới đi trước thời đại quá xa thì sẽ ít ai hiểu được, vì vậy sẽ dấy lên lo âu và bị hiểu lầm. Tính đổi mới của những thay đổi mà ta định cổ xúy sẽ bị đánh giá thấp hơn là thực tế. Cuối cùng Anh Quốc cũng trở thành một nước theo đạo Tin Lành như Cromwell mong muốn, nhưng phải mất đến một thế kỷ cho nó chuyển mình dần.

    Vậy ta hãy để ý đến thời thế. Nếu phải hành động trong buổi nhiễu nhương, ta hãy ca bài trở về với truyền thống dân tộc, về với quá khứ hào hùng, với nghi thức cố hữu, với sự an tâm ấm cúng. Ngược lại, trong thời đình trệ ta hãy chơi nước cờ đổi mới và cách mạng – nhưng hãy dè chừng những gì mình khuấy động. Ít khi nào những kẻ kết thúc cuộc cách mạng lại chính là người từng khởi động nó. Ta sẽ không thành công với trò chơi nguy hiểm ấy nếu không chặn đứng được phản ứng ắt có. Chặn đứng bằng cái vỏ bọc về với cội nguồn.

    Hình ảnh:

    Con mèo. Là sinh vật của thói quen, mèo thích sự ấm cúng quen thuộc. Hãy làm xáo trộn thói thường của nó, phá vỡ không gian của nó, mèo sẽ loạn thần kinh và không thể sai khiến. Mang nó trở về những lệ thường là nó sẽ dịu ngay thôi. Nếu cần thiết phải thay đổi, bạn lừa mèo bằng cách cho nó ngửi mùi hương của quá khứ, đặt những vật dụng thân quen vào những chỗ đã từng có nó.

    Ý kiến chuyên gia:

    Ai có ý muốn hoặc ý định đổi mới chính quyền của một Nhà nước, mong những đổi mới ấy được chấp nhận, thì người đó ít ra phải được vẻ tương đồng với những hình thái cũ; sao cho nhân dân thấy định chế không có gì thay đổi, mặc dù thực tế chúng hoàn toàn khác xưa. Bởi vì đại đa số loài người đều hài lòng với vẻ bề ngoài, chừng như cái vẻ ấy là thực tế.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    NGHỊCH ĐẢO

    Quá khứ là một thây ma mà ta tùy cơ dùng như thế nào cho thích hợp. Nếu những sự kiện vừa diễn ra trong quá khứ gần đây lại quá đau thương và khắc nghiệt thì ta đừng liên hệ tí ti gì đến mình, nếu không sẽ là tự sát. Khi Napoléon lên nắm quyền, cuộc cách mạng Pháp vẫn còn nóng hỏi trong tâm tưởng mọi người. Nếu cái triều đình ông vừa thiết lập lại giống triều đình xa hoa của Louis XVI và Marie Antoinette hẳn triều thần suốt ngày ngai ngái lo cho cái cổ của họ. Ngược lại, Napoléon lập ra một triều đình đặc biệt điều độ và không chút phô trương. Đó là triều đình của một người từng ca ngợi đạo đức lao động và quân sự. Hình thức mới này có vẻ thích hợp và trấn an.

    Nói cách khác, ta luôn phải để ý đến thời thế. Nhưng phải nhớ là nếu thực hiện một thay đổi táo bạo so với quá khứ, ta không được tạo ra một khoảng trống hoặc điều gì đó giống như khoảng trống; nếu không, ta sẽ gieo rắc kinh hoàng. Thậm chí nếu phải chọn thì mọi người chẳng thà chọn những sự kiện lịch sử đau lòng mới xảy ra gần đây thôi, còn hơn là một khoảng trống hun hút. Nếu lỡ có khoảng trống thì ta hãy lấp đầy nó bằng những hình thể và nghi thức mới. Dần dà chúng sẽ xoa dịu và trở thành thân quen, từ đó củng cố vị trí của ta giữa quần chúng.

    Cuối cùng, nghệ thuật, thời trang và công nghệ có vẻ là những cái bệ phóng cho quyền lực, bằng cách đoạn tuyệt dứt khoát với quá khứ và thể hiện mình là kẻ tiên phong. Thật ra loại chiến lược như thế có khả năng tạo nên sức mạnh to lớn, nhưng cũng đi kèm nhiều rủi ro. Trước sau gì những đổi mới của ta cũng bị một người khác làm cho cũ. Người đó tươi trẻ hơn, sẽ chọn một hướng đột ngột mới, làm cho sự cách tân của ta mới vừa hôm qua thì hôm nay đã trông mệt mỏi và vô vị. Xem như muôn thuở ta chơi trò đuổi bắt, quyền lực của ta mong manh và ngắn ngủi. Ta nên chuộng loại quyền lực xây dựng trên điều gì đó vững chãi hơn. Sử dụng quá khứ, chắp và truyền thống, hí lộng với điều quy ước để lũng đoạn, công trình của ta sẽ nhận được điều gì đó tốt hơn là sự hấp dẫn nhất thời. Các giai đoạn đổi mới đầy say mê che đậy sự thật rằng trước sau gì người ta cũng hoài cố sự. Rốt cuộc thì việc sử dụng quá khứ sẽ có ích cho ta hơn là đoạn tuyệt hoàn toàn với những gì đã qua.
     
  8. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 46: Đừng Tỏ Ra Quá Hoàn Hảo

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tỏ ra giỏi giang hơn người là một điều nguy hiểm, nhưng nguy hiểm nhất là chứng tỏ mình không có lỗi lầm hay nhược điểm. Sự đố kỵ sẽ sinh ra kẻ thù thầm lặng. Biết khôn, bạn nên thỉnh thoảng giả vờ phạm lỗi hoặc thú nhận một vài thói xấu vô hại, như thế để người khác không đố kỵ, và bạn sẽ có vẻ phàm phu hơn, dễ gần gũi hơn. Chỉ có thần thánh và người chết mới có vẻ hoàn hảo mà không bị trừng phạt.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Joe Orton gặp Kenneth Halliwell tại Học viện Hoàng gia Kịch nghệ London năm 1953, khi họ cùng đăng ký theo học. Họ nhanh chóng trở thành tình nhân và dọn về ở chung. Năm đó Halliwell 25 tuổi, lớn hơn Orton bảy tuổi và cũng tự tin hơn. Nhưng vì cả hai đều không có tài diễn xuất, nên sau khi tốt nghiệp, họ quyết bỏ nghề diễn và cộng tác với nhau để viết văn. Gia tài do Halliwell thừa hưởng có thể đủ cho hai người sống một vài năm mà không phải vất vả tìm việc, và trong giai đoạn đầu, anh ta là đầu tàu cho các truyện ngắn và tiểu thuyết. Halliwell đọc, Orton đánh máy, thỉnh thoảng thêm thắt vào vài dòng ý tưởng. Những nỗ lực ban đầu của họ cũng thu hút được vài đại lý văn học, nhưng không được lâu.

    Cuối cùng gia sản cũng cạn kiệt và cả hai cùng phải đi tìm việc. Họ cộng tác ít hồ hởi, ít thường xuyên hơn. Tương lai thật ảm đạm.

    Năm 1957 Orton bắt đầu viết riêng, nhưng phải mất 5 năm nữa thì anh ta mới có tiếng nói. Lúc đó cả hai chàng đều vừa ngồi tù sáu tháng về tội bôi bẩn một số sách trong cửa hàng. Ra tù, Orton quyết sáng tác kịch biếm để tỏ rõ sự khinh miệt đối với xã hội Anh Quốc. Nhưng lúc ấy hai người đổi vai nhau: Orton sáng tác và Halliwell thêm mắm muối.

    Giữa thập niên 1960 Joe Orton bắt đầu thành công rực rỡ. Đơn đặt hàng từ mọi phía đổ về, kể cả từ nhóm Beatles.

    Mọi thứ đều có vẻ đi lên, chỉ trừ quan hệ giữa hai người. Tuy vẫn sống chung, nhưng trong khi Orton thành công thì Halliwell lại tuột dốc. Nhìn tình nhân trở thành tâm điểm chú ý, anh ta cảm thấy tủi thân khi chỉ là trợ lý riêng cho nhà biên kịch. Vai trò đồng cộng tác ngày nào giờ đây càng nhỏ nhoi dần. Vào thập niên trước, anh ta dùng tiền thừa kế để nuôi Orton, còn bây giờ thì Orton nuôi lại anh ta. Ở những bữa tiệc hoặc gặp gỡ bạn bè, mọi người tự nhiên vây quanh Orton vì chàng ta đẹp trai, duyên dáng và hầu như luôn sôi nổi. Trái lại Halliwell lại hói và vụng về, hơn nữa sự co cụm của anh ta làm mọi người xa lánh.

    Orton càng thành công thì vấn đề giữa hai người càng trầm trọng. Thái độ của Halliwell khiến cuộc sống chung trở thành không thể. Orton cho biết muốn chia tay, và tuy có nhiều mối tình khác song cuối cùng vẫn trở về với người bạn và người tình cũ. Anh ta rán giúp Halliwell khởi một sự nghiệp mới, làm họa sĩ, thậm chí thương lượng với một triển lãm để trưng bày tranh của Halliwell. Nhưng cuộc trưng bày thất bại và như thế lại càng làm cho Halliwell thêm tự ti.

    Năm 1967, chỉ vài ngày sau khi giúp Orton hoàn chỉnh kiệt tác What the Butler Saw, Halliwell dùng búa đập vào đầu Orton cho đến chết, sau đó uống 21 viên thuốc ngủ tự tử.

    Diễn giải

    Mặc dù Halliwell muốn mọi người tin rằng sự suy sụp tinh thần kia là do bệnh tâm thần, nhưng qua những ghi chép để lại của hai người thì chính sự ganh tỵ thuần túy và đơn giản mới là tác nhân chính. Nhật ký của hai người cho thấy rõ điều đó.

    Orton càng thành công thì Halliwell càng cay đắng. Cuối cùng có lẽ điều mà Halliwell muốn nhất chính là sự thất bại của Orton, sao cho hai người đồng cam cộng khổ như hồi những ngày xưa thân ái. Khi sự thật trái ngược hẳn – Orton lại càng thành công và được lòng công chúng – Halliwell thực hiện điều duy nhất có thể là làm cho cả hai ngang bằng như cũ.

    Joe Orton chỉ hiểu được một phần sự suy sụp của người bạn tình. Việc anh ta giúp bạn khởi nghiệp họa sĩ được Halliwell ghi nhận như là hành động từ thiện để khỏa lấp sự cắn rứt. Về cơ bản Orton có hai giải pháp cho vấn đề. Hoặc hạ bớt mức độ thành công của mình, cố tình phạm phải vài lỗi, làm lệch hướng cơn ghen tỵ của Halliwell. Hoặc giả nếu đánh giá đúng thực chất vấn đề, Orton phải lánh xa, như thể Halliwell là con rắn độc. Mà thực tế Halliwell là con rắn độc của lòng đố kỵ. Một khi tính xấu này đã nhiễm vào người nào đó thì bất kỳ những gì ta làm đều khiến người ấy thêm đố kỵ, mỗi ngày mưng mủ thêm. Cuối cùng người ganh tỵ cũng sẽ ra tay.

    Chỉ một thiểu số mới thành công trong ván cờ của cuộc đời, và nhất thiết thiểu số ấy sẽ làm cho người khác ganh tỵ. Một khi ta đã thành công thì thành phần đáng sợ nhất là những người ở gần ta nhất, những bạn bè và người quen mà ta vừa vượt qua. Cảm giác tự ti gặm nhấm họ, càng nghĩ đến thành công của ta, họ càng cảm thấy mình bế tắc. Sự ganh tỵ mà triết gia Kierkegaard gọi là “lòng thán phục bất hạnh” sẽ bám chặt. Có thể ta không trông thấy nó, nhưng một ngày nào đó ta sẽ nếm mùi – trừ khi ta biết cách đánh lạc hướng bằng những hy sinh, “vật tế” nho nhỏ cho những vị thần của thành công. Hoặc là thỉnh thoảng ta tiết chế bớt những thành công, cố tình để lộ ra một hỏng hóc, nhược điểm hoặc lo âu, hay là bảo rằng mình thành công chỉ vì nhờ may mắn. Hoặc đơn giản là nên tìm bạn khác mà chơi. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của lòng ganh tị.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Giai cấp thương gia và các phường hội thủ công, những thành phần đã làm giàu cho thành Florence thời Trung cổ cũng đã tạo ra nền cộng hòa để bảo vệ họ đối với sự áp bức của giới quý tộc. Vì những chức vụ cao cấp chỉ có nhiệm kỳ vài tháng, không ai có thể thống trị lâu dài, không sợ độc tài hay bạo chúa. Gia tộc Medici sống nhiều thế kỷ dưới chế độ đó mà không làm điều gì quá nổi bật. Họ xuất thân từ nghề bào chế thuốc rất khiêm nhường, và là những công dân trung lưu đặc trưng. Phải đến cuối thế kỷ XIV, khi Giovanni de Medici dành dụm được một gia sản nho nhỏ nhờ kinh doanh ngân hàng thì họ Medici mới ló dạng như là một thế lực mà mọi người phải tính đến.

    Giovanni qua đời để lại cơ nghiệp cho người con trai Cosimo. Là thương nhân tài ba, Cosimo phát triển doanh nghiệp gia đình và từ đó mọi người biết đến Medici như là một trong những dòng họ kinh doanh tài chính hàng đầu tại châu Âu. Nhưng tại Florence họ có một kình địch: Cho dù Florence theo thể chế cộng hòa, nhưng qua năm tháng gia tộc Albizzi đã khéo xoay xở để thao túng chính quyền. Cosimo không chống lại gia đình Albizzi mà còn ủng hộ họ.

    Gia đình Albizzi bắt đầu phô trương quyền lực, trong khi Cosimo vẫn điềm đạm ngồi yên ở hậu trường. Nhưng Albizzi lo sợ về thực lực tài chính của gia đình Medici nên họ chụp Cosimo cái mũ là mưu toan lật đổ nền cộng hòa, và họ giật dây chính quyền bắt giam Cosimo. Khi bị xử phải lưu đày biệt xứ, Cosimo không kháng án mà chỉ lặng lẽ giã từ.

    Một thời gian sau thế lực Albizzi quá mạnh và dân chúng lo sợ một chế độ độc tài đang ló dạng. Trong khi đó, mặc dù ở xa nhưng Cosimo vẫn âm thầm làm giàu và dùng tiền của để tác động đến nội bộ thành Florence. Khi nội chiến xảy ra, trong cơn biến động Albizzi bị lật đổ và lưu đày. Cosimo trở lại Florence nhưng lại đối diện tình thế lưỡng nan: Nếu bắt tay vào làm những việc lớn, mọi người lại sẽ bất an và ganh tỵ. Ngược lại, nếu đứng ngoài lề, khoảng trống quyền lực sẽ bị chiếm bởi một gia tộc khác, rồi họ sẽ tìm cách hãm hại họ Medici.

    Cosimo giải quyết vấn đề bằng hai mũi giáp công: Một mặt ông bí mật dùng tiền mua chuộc những người có thế lực nhất, mặt khác ông cài đồng minh thuộc tầng lớp trung lưu vào chính quyền. Cosimo còn liên kết với các ngân hàng để âm thầm mua lại hết tài sản của những kẻ hay kêu rêu. Như thế Florence chỉ là nền cộng hòa trên danh nghĩa, thật ra Cosimo đã nắm quyền điều khiển.

    Tuy quyền lực như vậy nhưng Cosimo vẫn sắm một vẻ bề ngoài rất bình dân. Ông ăn mặc khiêm tốn, thay vì rình rang xe cộ thì ông lại lội bộ trên những đường phố của Florence chỉ với một tùy tùng duy nhất, cung kính cúi chào các thẩm phán hoặc những công dân cao tuổi. Suốt 30 năm điều khiển mọi vấn đề ngoại giao của Florence nhưng Cosimo chưa bao giờ công khai nhắc tới những vụ việc công cộng. Ông sẵn sàng làm từ thiện, trong khi vẫn giữ liên lạc với giới thương buôn. Ông tài trợ xây dựng những loại công sở nào làm cho cư dân cảm thấy tự hào về thành phố của họ. Khi xây cung điện, ông khôn khéo chọn vùng ngoại ô chứ không phô trương thanh thế ở trung tâm Florence. Lúc họa sĩ tài danh Brunelleschi gợi ý phác thảo các chi tiết trang trí, Cosimo lịch sự từ chối và sử dụng bản vẽ một mô hình khiêm nhường hơn, của một họa sĩ ít nổi tiếng hơn, xuất thân từ tầng lớp trung bình ở Florence. Có xem cung điện đó mới đánh giá được chiến lược của Cosimo – bề ngoài hết sức đơn giản, bên trong thật thanh lịch và tráng lệ.

    Cosimo qua đời sau ba mươi trị vì. Cư dân Florence định xây lăng và tổ chức lễ tang long trọng, nhưng khi hấp hối ông vẫn yêu cầu được chôn cất đơn giản và không phô trương phù phiếm. Khoảng sáu mươi năm sau, Machiavelli ca ngợi Cosimo như là người khôn ngoan nhất trong số những hoàng thân.

    Diễn giải

    Là bạn thân của Cosimo, có lần người bán sách tên Vespasiano da Bisticci viết: “Mỗi khi muốn thành tựu điều gì, Cosimo lo liệu để càng ít bị ganh tỵ càng tốt, để thiên hạ thấy rằng sáng kiến là của người khác chứ không phải của anh ta”. Một trong những câu nói ưa thích của Cosimo là “Lòng ganh tỵ là thứ cỏ dại mà ta không nên tưới nước”. Biết rõ sức mạnh của lòng ganh tỵ trong môi trường dân chủ, Cosimo không để cho người khác thấy mình quá bề thế. Điều này không có nghĩa là ta phải bóp nghẹt tính cách cao nhã, chỉ để lại những cái nết xoàng xĩnh, mà vấn đề là phải đóng kịch cho khéo, để cho người xung quanh thấy ta cũng có cùng phong cách và chuẩn mực đạo đức với họ. Ta liên minh với cấp dưới, rồi đưa họ lên vị trí quyền lực để sau này tranh thủ sự ủng hộ của họ lúc cần thiết. Hãy để cho thiên hạ thấy rằng ta làm theo ý họ, như thể họ mạnh hơn ta.

    Đừng dại dột nghĩ rằng mọi người sẽ kính nể khi ta khoe ra những phẩm chất đã giúp ta vượt trội họ. Làm cho kẻ khác nhận thức vị trí thấp kém của họ, ta chỉ dấy lên “lòng thán phục bất hạnh”, hay lòng ganh tỵ, vốn sẽ cắn rứt và dần dà giục họ hại ta.

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Con người rất khó tiêu hóa mặc cảm thua kém đồng loại. Đứng trước người nào giỏi hơn, khéo hơn, mạnh hơn, ta thường bối rối và khó chịu. Như thế bởi vì chúng ta thường đánh giá bản thân quá cao, để rồi khi chạm trán những người giỏi giang hơn ta mới vỡ lẽ ra rằng mình xoàng xĩnh quá, hoặc ít nhất cũng không giỏi giang như vẫn tưởng. Sự bối rối ấy sẽ dấy lên nhiều cảm xúc không tốt. Thoạt tiên ta ganh tỵ: Phải chi ta giỏi ta mạnh như gã kia, chắc chắn ta sẽ hạnh phúc lắm. Lòng ganh tỵ không vỗ an được tâm ta, cũng không giúp ta giỏi bằng kẻ nọ. Tuy nhiên ta cũng không dám thú nhận là mình ganh tỵ, bởi vì xã hội chê bai điều đó – ganh tỵ có nghĩa là nhìn nhận mình thua kém. Với bạn bè thân thiết có thể ta tâm sự về những ước mơ không tròn, nhưng không bao giờ ta dám bảo là ta ganh tỵ. Vì vậy cái tình cảm xấu xí ấy nằm âm ỉ dưới bề mặt. Ta ngụy trang nó bằng nhiều cách, chẳng hạn như tìm cách chỉ trích kẻ đã làm ta ganh tỵ: Ta bảo rằng hắn có tài nhưng không có đức, hoặc hắn thành đạt là nhờ ăn gian. Ngược lại, nếu không chê bai thì ta cũng khen hắn quá trớn – đó cũng là một cách để nghi trang lòng ganh tỵ.

    Có nhiều cách để xử lý loại tình cảm âm thầm tàn phá này. Thứ nhất, ta phải chấp nhận rằng kẻ giỏi hơn, không ở mặt này cũng ở mặt khác và ta cũng phải chấp nhận rằng quả thực mình đang ganh tỵ. Sau đó ta dùng tình cảm này làm động cơ rèn luyện để trong tương lai sẽ bằng hoặc hơn người kia. Nếu để thấm vào trong, sự ganh tỵ sẽ nhiễm độc tâm hồn, nhưng nếu hướng ra ngoài, nó sẽ đưa ta lên tầm cao mới.

    Thứ hai, nên nhớ rằng mỗi khi ta đạt được thành tựu gì thì những người dưới cơ sẽ ganh tỵ ta. Tuy không để lộ ra, song điều đó là chắc chắn. Ta thử suy tìm những gì nấp phía sau lời chỉ trích, câu nhận xét mỉa mai, những dấu hiệu đâm sau lưng, lời ngợi khen thái quá đang rắp ranh xô ta vào bẫy, hoặc cặp mắt đen vì uất ức. Một nửa vấn đề liên quan đến ganh tỵ phát sinh vì ta nhận thức quá trễ.

    Cuối cùng, phải tính đến khả năng những người ganh ta trước sau gì cũng âm thầm hại ta. Họ sẽ đặt chướng ngại vật trên lộ trình ta đi, những vật cản mà ta không thấy hoặc không biết xuất xứ. Như vừa nói, đến khi nhận thức được thì đã muộn: Lúc này nếu ta xin lỗi, ra bộ hèn kém, hành động tự vệ thì chỉ tổ làm rách việc thêm mà thôi. Tránh tạo ra lòng ganh tỵ thì dễ hơn nhiều, nếu so với việc để nó phát sinh rồi mời tìm cách giải quyết, vì vậy ta phải tìm cách ngăn chặn đừng cho nó sinh ra và tăng trưởng. Thông thường, chính những hành động vô tình mới làm cho người khác ganh tỵ. Do đó ta phải tập ý thức những hành động hoặc tính chất nào khả dĩ dấy lòng ganh tỵ để dập tắt chúng từ trong trứng nước.

    Theo Kierkegaard, có loại người cố tình tạo ra sự ganh tỵ. Loại dễ thấy nhất là những người nổ tía lia khi vừa thành tựu được điều gì đó. Họ khoái làm cho người khác cảm thấy thua kém. Loại này xem như hết thuốc chữa. Còn loại người khác thì làm cho thiên hạ ganh một cách tinh vi hơn, vô thức hơn và chỉ đáng trách một phần. Ví dụ như những tài năng thiên bẩm.

    Sir Walter Raleigh là một trong những gương mặt sáng chói nhất của triều đình Nữ hoàng Elizabeth nước Anh. Ông ta giỏi giang ở nhiều lĩnh vực như khoa học, thơ ca, lãnh đạo, kinh doanh, hàng hải, và trên hết là người đẹp trai, bạo dạn, nói năng duyên dáng được nữ hoàng sủng ái. Tuy nhiên đi đến đâu ông cũng bị người khác cản trở. Cuối cùng ông bị thất sủng trầm trọng, thậm chí đi tù và bị xử trảm.

    Raleigh là nạn nhân của sự ganh tỵ từ những triều thần khác. Như thế bởi vì ông ta không làm gì để che đậy bớt tài năng và phẩm chất, ngược lại còn để chúng bao trùm khắp mọi người, tưởng rằng như thế người ta sẽ thấy mình uyên bác mà kính phục. Ngược lại, thái độ đó chỉ làm người ta ghét thầm, những người cảm thấy thua kém sẵn sàng làm mọi thứ để hạ bệ ông ngay khi ông vấp ngã hoặc phạm phải sai lầm nhỏ nhất.

    Sự ganh tỵ mà Sir Walter Raleigh làm dấy lên là loại xấu xa nhất: Nó lóe lên khi các triều thần khác đối diện với tài năng thiên phú đang độ nở hoa của ông ta. Tiền bạc có thể kiếm ra, quyền lực có thể đạt tới, nhưng trí thông minh, ngoại hình duyên dáng, sức quyến rũ tự nhiên – những phẩm chất này làm sao đạt được?

    Những ai tự nhiên mà hoàn hảo thì hãy cố che giấu bớt tinh hoa, thỉnh thoảng nhớ vờ phô ra một vài lỗi nhỏ để lòng ganh tỵ của người khác không có chỗ bám. Có một sai lầm rất vô tư và phổ biến là tưởng sẽ lấy lòng thiên hạ bằng tài năng tự nhiên của mình, nhưng thực tế chỉ làm thiên hạ ghét.

    Trên lĩnh vực quyền lực, nguy hiểm xuất hiện cùng lúc với vận may bất chợt – một thăng tiến bất ngờ, một thành công hay thắng lợi từ trên trời rơi xuống. Chắc chắn vận may này sẽ làm cho các đồng liêu ganh tỵ.

    Năm 1651 khi được đề bạt lên chức hồng y, Tổng giám mục Retz biết rõ là nhiều cựu đồng sự sẽ ganh tỵ mình. Ông làm đủ cách để giảm thiểu công lao và bảo đó chỉ nhờ may mắn. Để cho mọi người vừa lòng, ông cư xử khiêm cung như thể không có gì thay đổi. Ông ghi chép rằng cung cách ấy “có hiệu quả tốt vì đã giảm thiểu sự ganh tỵ quanh tôi”. Bạn hãy theo gương đức hồng y Retz. Hãy tinh tế làm cho mọi người biết rằng bạn chỉ may mắn, để họ thấy là họ cũng có thể may mắn như bạn và từ đó sẽ bớt ganh tỵ. Hãy cẩn thận đừng để thiên hạ đánh giá là bạn giả bộ khiêm nhường, nếu không họ sẽ ganh và ghét bạn nhiều thêm. Và nên nhớ rằng, cho dù bạn đang giữ vị trí cao, nhưng việc làm cho người khác ghét hoàn toàn không lợi lộc gì cả. Quyền lực cần có nền tảng ủng hộ kiên cố và rộng khắp, điều mà lòng ganh tỵ có thể âm thầm phá hủy.

    Bất kỳ loại quyền lực chính trị nào cũng dấy lên sự ganh tỵ, và để phòng tránh, ta nên tỏ ra là người không có tham vọng. Khi Ivan Bạo chúa qua đời, Boris Godunov biết rằng mình là người duy nhất còn lại trên sân khấu chính trị có khả năng lèo lái đất nước. Nhưng nếu quá hăm hở lao vào vị trí này thì các boyar sẽ ganh ghét, vì vậy ông ta từ chối vương miện, không chỉ một mà nhiều phen. Ông đợi nhân dân yêu cầu nhiều lần.

    George Washington cũng dùng chiến lược này thật hiệu quả, lần đầu là không nhận chức tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ, lần thứ hai là khước từ chiếc ghế tổng thống. Cả hai lần ông đều được lòng thiên hạ, vì họ không thể ganh tỵ cái quyền lực mà chính họ đã khăng khăng giao cho người từng từ chối.

    Theo Sir Francis Bacon, một cây bút đồng thời là chính khách thời nữ hoàng Elizabeth, người tài ba nên làm cho mọi người thương cảm khi thấy trách nhiệm của họ giống như một gánh nặng mà họ phải hy sinh đảm nhận. Lòng dạ nào đi ganh tỵ với một người ghé vai đỡ lấy trọng trách vì lợi ích công cộng? Hãy ngụy trang quyền lực của bạn thành một sự hy sinh thay vì là nguồn hạnh phúc. Hãy phóng đại những nỗi nhọc nhằn, để chuyển một nguy hiểm tiềm tàng (ganh tỵ) thành sự đồng cảm (tội nghiệp).

    Ngoài ra ta nên gợi ý cho mọi người biết rằng vận may của ta sẽ có lợi cho họ. Muốn vậy ta phải mở hầu bao, như Cimon, một vị tướng giàu có ở thành Athens cổ, người đã tung tiền ra tứ phía để dân chúng không ganh tỵ với ảnh hưởng chính trị của ông. Ông tốn kém khá nhiều vào việc này, nhưng cuối cùng đã thoát được sự tẩy chay và án lưu đày.

    Họa sĩ Turner lại nghĩ ra cách khác để phòng chống sự ganh tỵ của các đồng nghiệp mà ông cho là trở ngại lớn nhất đối với sự thành đạt của ông. Turner biết tài bố trí màu sắc của tranh mình làm cho các đồng nghiệp ngại không dám treo tranh của họ kề bên. Ông biết sự e ngại đó sẽ biến thành ganh tỵ, khiến sau này ông khó lòng tìm được gallery để trưng bày. Vì vậy thỉnh thoảng ông dùng muội khói làm màu sắc xỉn đi để các đồng nghiệp an tâm hơn.

    Muốn đánh lạc hướng sự ganh tỵ, Gracián khuyên kẻ quyền lực nên phô bày ra một tật vô hại nào đó, một hớ hênh nho nhỏ về mặt xã hội, một điểm yếu dễ thương. Hãy quăng cho bọn ganh tỵ chút gì đó để xơi tái, để họ không phanh phui những gì thực tế mới quan trọng. Đã đành ta phải đóng trò với vẻ bề ngoài, nhưng cuối cùng ta vẫn được điều mình muốn: quyền lực thật sự. Tại vài quốc gia Ả Rập, người ta làm giống như Cosimo de Medici để tránh bị ganh tỵ: Sự giàu có chỉ được phô trương bên trong căn nhà.

    Ngoài ra ra còn nên cẩn thận với loại ganh tỵ được ngụy trang. Ai khen ta thái quá, chắc chắn người đó đang ganh tỵ với ta. Hoặc là họ đang dàn dựng kịch bản để lật đổ ta – vì ta không thể nào vươn tới tầm cao của những lời khen phóng đại ấy – hoặc họ đang mài dao sau lưng ta.

    Mặt khác, những ai công kích ta thái quá, luôn công khai chỉ trích ta có khả năng cũng đang ganh tỵ. Vậy ta hãy cố gắng nhận ra rằng những lối ngụy trang kể trên chỉ là lòng ganh tỵ trá hình, để không lọt vào trận đồ bôi tro trát trấu lẫn nhau, để không bị trúng đòn chỉ trích của địch rồi sau đó lại ôm hận khổ sở. Cách báo thù hay nhất là cứ phớt lờ, xem như chúng không hề có mặt trên đời.

    Bạn đừng thử giúp hoặc chiếu cố kẻ ganh tỵ, kẻo họ lại nghĩ là bạn trịch thượng. Khi tìm giúp Halliwell một gallery để trưng bày tranh, Orton chỉ làm cho người tình thêm mặc cảm và ganh ghét. Một khi ganh tỵ đã lộ bộ mặt thật ra rồi, giải pháp duy nhất thường là tránh né bọn ganh ghét, bỏ mặc chúng nung nấu trong chính cái địa ngục do chúng tạo ra.

    Điều cuối cùng cần lưu ý là có những môi trường thuận lợi cho ganh tỵ phát sinh hơn môi trường khác. Thói xấu ấy trầm trọng hơn giữa các đồng nghiệp và đồng liêu, nơi người ta thường dựng lên bức bình phong bình đẳng. Sự ganh tỵ cũng hết sức nguy hại ở những môi trường dân chủ, nơi mọi người không thích sự phô trương quyền lực. Bạn phải hết sức nhạy bén trong những môi trường như vậy. Nhà làm phim Ingmar Bergman bị giới thẩm quyền thuế má Thụy Điển săn đuổi vì ông quá nổi trội ở một đất nước mà mọi người xét nét sự nổi trội hơn hẳn. Ở những trường hợp như vậy hầu như không thể nào thoát khỏi sự ganh tỵ, do đó ta không thể làm gì hơn là chấp nhận nó một cách tao nhã và đừng xem đó là chuyện cá nhân. Thoreau từng viết rằng “Ganh tỵ là thứ thuế má mà mọi sự ưu tú nào cũng phải trả”.

    Hình ảnh:

    Vườn đầy cỏ dại. Có thể là bạn không nuôi trồng chúng, nhưng chúng vẫn phát triển nhờ lượng nước mà bạn tưới kiểng. Có thể bạn không biết chúng bành trướng bằng cách nào, nhưng chúng vẫn bành trướng, cao kều và xấu xí, làm cho những gì tươi đẹp không đơm hoa được. Vậy bạn đừng tưới bừa bãi, nếu không sẽ quá muộn. Hãy hủy diệt mớ cỏ dại của lòng ganh tỵ bằng cách cúp nguồn sống của chúng.

    Ý kiến chuyên gia:

    Thỉnh thoảng bạn nên hé lộ một khuyết điểm vô hại của con người mình. Vì bọn ganh tỵ nhất sẽ bảo cái tội của người hoàn hảo nhất là không có tội. Họ trở thành một loại thần Argus, mở to trăm mắt soi mói cho ra cái lỗi nằm trong sự hoàn chỉnh – đó là niềm ai ủi duy nhất của họ. Đừng để lòng ganh tỵ òa vỡ nọc độc – hãy vờ hé lộ những lỗ hổng trong sự dũng cảm hoặc trí tuệ, xem như ngăn chặn trước lòng ganh tỵ. Như thế bạn vung vẩy chiếc áo choàng đỏ trước Cặp sừng của Ganh tỵ, nhằm cứu vãn sự bất tử của mình.

    (Baltasar Gracián, 1601-1658)

    NGHỊCH ĐẢO

    Lý do ta phải dè chừng bọn ganh tỵ là vì chúng quá tiểu nhân và sẽ tìm ra vô số cách để phá hoại ta. Nhưng nếu rào đón quanh chúng quá kỹ lưỡng nhiều khi lại làm chúng càng thêm ganh tỵ. Chúng có tri giác rằng ta đang cẩn trọng và xem đó là một dấu hiệu khác của việc ta hơn chúng. Chính vì thế mà ta phải hành động trước khi lòng ganh tỵ bám rễ.

    Tuy nhiên một khi ganh tỵ đã phát sinh rồi, cho dù có phải do ta hay không thì đôi lúc tốt hơn ta nên có cách tiếp cận ngược lại: Bày tỏ thái độ xem thường cao độ đối với bọn hay ganh tỵ. Thay vì che đậy những phẩm chất của mình, ta càng cho chúng hiển nhiên hơn. Cứ mỗi lần thành công, ta lại làm cho lòng bọn ganh ghét phải quặn lên vì đau đớn. Vận may của ta trở thành địa ngục trần gian của chúng. Nếu ta đạt được một địa vị bất khả lung lay, lòng ganh tỵ sẽ hoàn toàn vô hiệu.

    Đó là cách mà Michelangelo đã chiến thắng tên kiến trúc sư Bramante độc địa. Tên này ganh tài nghệ tuyệt luân của Michelangelo, nên khi ông thiết kế nhà mồ cho chính mình, hắn bịa chuyện với Giáo hoàng Julius để chụp mũ Michelangelo khiến dự án không thành. Thâm độc hơn, hắn còn xui giáo hoàng giao Michelangelo phải nhận một công trình không thể nào thực hiện nổi, hễ ai dây vào chỉ có mà thân bại danh liệt: vẽ những bức bích họa của nhà nguyện Sistine. Công trình này chắc chắn sẽ ngốn mất nhiều năm quý báu của Michelangelo, và trong thời gian đó ông sẽ chẳng làm được việc gì khác. Hơn nữa, Bramante cho rằng Michelangelo chỉ giỏi điêu khắc chứ không giỏi vẽ, vì vậy công trình Sistine sẽ làm ông sụp đổ.

    Phát hiện ra cái bẫy, Michelangelo thoái thác nhưng giáo hoàng cứ khăng khăng, vì vậy ông im lặng chấp hành. Quyết không để lòng ganh tỵ của Bramante chiến thắng, Michelangelo trổ hết tài năng, và kết quả là công trình Sistine đã lưu danh hậu thế.
     
  9. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 47: Biết Chiến Thắng Và Biết Dừng Lại

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thời điểm vinh quang thường là thời điểm nguy hiểm nhất. Trong cơn sốt chiến thắng, lòng ngạo mạn và sự tự tin quá lố sẽ thúc đẩy ta vượt quá mục tiêu ban đầu, và khi đó ta sẽ còn tạo ra nhiều kẻ thù hơn là số mà ta vừa đánh bại. Đừng để thành công làm đầu óc ta quay cuồng. Không có gì thay thế được chiến lược và có kế hoạch kỹ lưỡng. Ta hãy đặt ra một mục tiêu, và khi đạt được rồi thì nên dừng lại.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Năm 559 TCN, chàng thanh niên tên Cyrus tập hợp một đạo quân khổng lồ từ những bộ lạc sống rải rác khắp Persia, rồi tiến công chính ông nội mình là Astyages, vua xứ Medea. Cyrus dễ dàng chiến thắng Astyages, tự phong vua xứ Medea và Persia, và bắt đầu dựng lên đế chế Persia. Chiến thắng nhanh chóng tiếp nối chiến thắng. Cyrus hạ Croesus vua Lydia, chinh phục quần đảo Ionia cùng các vương quốc nhỏ khác. Sau đó dẫn quân nghiền nát Babylon. Giờ đây mọi người gọi ông là Đại đế, Vua của Hoàn cầu.

    Sau khi chiếm đoạt của cải thành Babylon, Cyrus ghé mắt về phía Đông, về hướng các bộ lạc Massagetai, dòng giống chiến binh do nữ hoàng Tomyris cầm đầu. Những bộ lạc này không có nhiều của cải như Babylon, nhưng Cyrus vẫn quyết tâm tấn công vì tin rằng minh là siêu nhân bất bại. Massagetai sẽ đại bại, đế chế của ông ta sẽ rộng thêm.

    Cyrus đóng quân bên dòng sông Araxes, cửa ngõ dẫn vào vương quốc Massagetai. Nữ hoàng Tomyris phái sứ giả đến trao thư, đề nghị cả đôi bên đều rút quân để tránh một cuộc chiến tương tàn. Để tỏ thiện chí, nữ hoàng cho quân mình rút trước. Cyrus vẫn cho quân tiến sang bờ bên kia, hạ trại, sai quân dựng nhiều bàn tiệc dài, đầy ắp những cao lương mỹ vị cùng với rượu ngon, những thứ mà các bộ lạc bán sơ khai Massagetai chưa bao giờ biết tới. Chỉ để lại một toán quân nhỏ canh phòng, Cyrus lệnh đại quân rút về phía bờ sông. Chẳng mấy chốc, đông đảo quân Massagetai tấn công và giết hết toán quân nhỏ Persia, rồi sẵn rượu thịt, họ chè chén một bữa no say, sau đó lăn đùng ra ngủ. Đại quân Persia quay lại tấn công, tha hồ chém giết và bắt sống tướng soái Spargapises, con trai của nữ hoàng Tomyris.

    Nghe tin này, nữ hoàng lập tức sai sứ giả đến dâng thư cầu hòa và cống nạp một phần ba lãnh thổ Massagetai, với điều kiện Cyrus trao trả tự do lại cho con bà và lập tức lui quân, nếu không bà thề sẽ làm cho máu đổ nhiều đến nỗi quân Persia uống không hết. Cyrus cả cười, từ chối trao trả người con và quyết định nghiền nát quân Massagetai.

    Biết rằng sẽ không được thả, hoàng tử Spargapises tự sát vì không chấp nhận nỗi nhục bị giam cầm. Tin này vừa tới tai, nữ hoàng nổi trận lôi đình, quy tụ tất cả lực lượng trên khắp vương quốc, và xuất quân trong khí thế căm hờn. Sau trận chiến khốc liệt và đẫm máu, sự phẫn uất đã thúc giục quân Massagetai chiến đấu, và cuối cùng họ tàn sát quân Persia, giết chết Cyrus.

    Sau khi Cyrus qua đời, đế chế Persia tan rã. Chỉ một hành động ngạo mạn đã hủy hoại hết tất cả công trạng của một đại vương.

    Diễn giải

    Không có gì làm ra say hơn là men chiến thắng, thật không có gì nguy hiểm hơn.

    Cyrus đã dựng xây cơ đồ trên nền tảng hoang tàn của đế chế cũ. Một thế kỷ trước đó, đế chế Assyria hùng mạnh đã hoàn toàn bị hủy diệt, cũng chỉ vì đi quá xa đến quên mất cả mục tiêu ban đầu đã đặt ra. Say men chiến thắng, người Assyria tàn phá tất cả đô thị nằm trên đường họ đi, tạo ra vô số kẻ thù, những người sau này đã đoàn kết lại để đánh bại họ.

    Cyrus đã quên hay không biết bài học Assyria? Cho dù mọi người khuyên can, ông ta vẫn không ngại xúc phạm đến một nữ hoàng. Chiến thắng nối tiếp chiến thắng đã khiến ông mất trí, che mờ hết lương tri. Thay vì củng cố một đế chế trên thực tế đã quá rộng lớn, ông vẫn muốn tiếp tục chinh phục vì tin vào khả năng bất bại của mình.

    Bạn nên nhớ: Trong lĩnh vực quyền lực, hãy để lý trí hướng dẫn hành động. Đừng để một phút giây phấn khích phá hoại cả một công trình. Khi đã đạt đến thành công rồi, bạn hãy lùi lại một bước. Hãy thận trọng. Trong chiến thắng có phần không nhỏ của những điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt, vì vậy bạn đừng chỉ đơn thuần lặp đi lặp lại những động tác cũ. Lịch sử vẫn còn đầy ra đó những tàn tích của các đế chế liệt oanh, những thây ma của các lãnh đạo không biết dừng đúng lúc và củng cố những gì mình chiếm hữu.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Trong lịch sử, vị trí mong manh và bấp bênh nhất thuộc về vương phi. Vương phi không có nền tảng quyền lực thật sự hoặc chính thống nào để lui về nương tựa khi gặp rắc rối. Chung quanh nàng là hàng tá triều thần ganh tỵ nóng lòng làm cho nàng thất sủng. Và cuối cùng, vì nguồn quyền lực của nàng thường là vẻ đẹp thể xác, cho nên với hầu hết các vương phi, sự xuống dốc ấy là không tránh khỏi.

    Vào giai đoạn đầu tiên khi mới lên ngôi, Vua Louis XV nước Pháp đã có nhiều vương phi, và mỗi người chỉ được chiếu cố chừng vài năm. Rồi đến phiên Madame de Pompadour, một cô gái trung lưu tên thật là Jeanne Poisson, mà khi mới lên chín tuổi, đã được thầy bói báo trước là sẽ trở thành đệ nhất vương phi. Đây chừng như là điều không tưởng, bởi vì hầu hết các vương phi đều xuất thân từ gia đình quý tộc. Tuy nhiên Jeanne vẫn tin lời thầy bói, và niềm tin trở thành nỗi ám ảnh. Cô gái bắt đầu học hỏi những gì mà một vương phi cần phải biết - âm nhạc, khiêu vũ, kịch nghệ, cưỡi ngựa - và ở môn nào cô cũng xuất sắc. Đến tuổi trưởng thành, Jeanne lập gia đình với một người quý tộc cấp thấp, nhờ đó nàng mới có quyền bước chân vào những salon sang trọng của Paris. Nét đẹp, tài năng, duyên dáng, và trí thông minh của nàng bỗng chốc được đồn xa.

    Trở thành bạn thân của Voltaire, Montesquieu, và những bộ óc vĩ đại khác của thời ấy, nhưng Jeanne không bao giờ quên cái mục tiêu mà nàng đã vạch ra từ hồi còn con gái: chiếm đoạt trái tim hoàng thượng. Chồng nàng có một lâu đài trong rừng nơi nhà vua thường lui tới săn bắn, và nàng cũng thường xuyên lưu lại đó khá lâu. Quan sát đường đi nước bước của vua như diều hâu rình mồi, nàng quyết tạo điều kiện để cho vua “tình cờ” gặp, khi nàng đang bách bộ với chiếc váy đẹp nhất, hoặc dạo chơi trong cỗ xe lộng lẫy nhất. Sau đó nhà vua để ý nàng, tặng nàng những thú rừng vừa săn được.

    Khi vương phi tại vị là nữ công tước Châtearoux vừa qua đời, Jeanne tăng nhịp tấn công. Nhà vua đến đâu cũng gặp nàng: Trong vũ hội hóa trang ở Versailles, tại nhà hát opéra, bất cứ nơi nào mà “định mệnh” đã run rủi hai người gặp nhau, nàng đều phô bày tài nghệ phong phú. Nhà vua không cưỡng nổi và cô gái trung lưu 24 tuổi trở thành đệ nhất vương phi. Và vì một số triều thần tức tối tại sao vua lại chọn một thiếu phụ tầng lớp thấp kém như vậy, nên ngài phong cho nàng chức hầu tước. Từ đó về sau, mọi người gọi nàng là Madame de Pompadour.

    Nhà vua là loại người dễ dàng cảm thấy ngột ngạt bực bội khi buồn chán, vì vậy bà Pompadour hiểu rằng muốn quyến rũ ngài là phải giải khuây. Bà tổ chức nào là dạ tiệc, săn bắn, sân khấu, và tất cả những thứ nào làm đẹp lòng vua khi ngài bước ra khỏi giường. Bà trở thành mạnh thường quân, đồng thời là người cầm cân nảy mực cho mọi thời trang và phong vị toàn nước Pháp. Với kẻ ganh tỵ, bà vuốt ve bằng cung cách lịch sự, duyên dáng, và quyến rũ. Điều bất ngờ là bà kết thân với hoàng hậu, yêu cầu Louis XV năng chăm sóc và đối xử tử tế hơn với vợ mình. Ngay cả hoàng tộc cũng phải miễn cưỡng ủng hộ bà Pompadour. Được nhà vua phong chức công tước, ảnh hưởng của bà càng lớn. Ảnh hưởng ấy lan rộng sang lĩnh vực chính trị, nơi bà thực sự là một bộ trưởng ngoại giao không danh nghĩa.

    Năm 1751 khi đạt đến đỉnh cao quyền lực, bà Pompadour bị cơn khủng hoảng trầm trọng đầu tiên. Cơ thể bị suy yếu bởi gánh nặng của vị trí, càng ngày bà càng cảm thấy khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu phòng the. Thông thường, đây là thời điểm mà một vương phi bắt đầu kết thúc sự nghiệp. Nhưng bà Pompadour có chiến lược khác: Khuyến khích vua lập ra một dạng nhà chứa, gọi là Parc aux Cerfs, ngay trên khu đất hoàng cung Versailles. Ở đó nhà vua trung niên có thể quan hệ với những giai nhân xuất sắc nhất vùng.

    Bà Pompadour khôn khéo biết rằng vua không thể nào thiếu nét quyến rũ và sự nhạy bén chính trị của bà. Vì vậy bà không sợ gì một mỹ nhân 16 tuổi hoàn toàn không chút quyền lực, kinh nghiệm và sức hấp dẫn như mình. Bà không sợ bị soán mất vị trí trong phòng ngủ, khi và vẫn là người phụ nữ quyền lực nhất nước Pháp. Để củng cố vị trí đó, bà càng thân thiết hơn nữa với hoàng hậu, cùng đi dự thánh lễ với hậu. Tuy những kẻ ganh tỵ trong cung muốn hất chân bà Pompadour, song nhà vua vẫn duy trì vị thế cho bà, vì ngài cần đến tài vỗ an mọi sự của bà.

    Diễn giải

    Ý thức tính phù du của khả năng quyến rũ, một vương phi thường khi tất tả thực hiện mưu đồ sau khi được vua sủng ái: Trước hết cố gắng vơ vét tiền của càng nhiều càng tốt để lo hậu vận, sau đó thẳng tay trừng trị các đối thủ trong cung, nhằm bành trướng quy mô quyền lực. Nói tóm lại, vị trí bấp bênh đó thường buộc vương phi phải hành động theo lòng tham và oán hận, vốn thường là động cơ khiến nàng thất sủng. Madame de Pompadour thành công ngay chỗ kẻ khác thất bại, vì bà không thúc ép vận may. Thay vì trù dập triều thần, bà lại tìm cách lấy lòng họ. Bà không bao giờ để lộ tí lòng tham hay ngạo mạn. Khi không còn khả năng làm tròn bổn phận phòng the, bà hoàn toàn không phiền khi có người thay thế. Ngược lại bà tuyển những thôn nữ đẹp nhất vùng vào hậu cung cho vua giải trí, biết rằng trước sau gì ngài cũng chán vì các ả kia quê mùa kém trí.

    Thành công thường làm lu mờ lý trí. Nó làm ta tưởng chừng mình bất bại, khiến ta quá nhạy cảm và khó thân thiện khi có người thách thức quyền lực. Thành công làm ta bớt đi khả năng thích nghi với tình thế. Dần dà ta sẽ nghĩ rằng thành công là nhờ nghị lực của mình, chứ không do chiến lược và kế hoạch. Đó là điều sai lầm.

    Hãy bắt chước Madame de Pompadour, cần nhớ rằng khoảnh khắc vinh quang là khoảnh khắc mà ta cần vận dụng sự khôn ngoan và chiến lược nhiều nhất, nhằm củng cố cơ sở quyền lực, nhìn nhận vai trò của may mắn và hoàn cảnh đối với thành công, đồng thời cảnh giác trước mọi đổi thay trong thời vận. Chính lúc vinh quang là lúc ta cần áp dụng trò chơi của triều thần, đồng thời chú ý hơn nữa đến những nguyên tắc của quyền lực.

    Mối nguy to lớn nhất xuất hiện vào khoảng khắc vinh quang.

    (Napoléon Bonaparte, 1769-1821)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Quyền lực có nhịp điệu và khuôn mẫu của riêng mình. Chiến thắng trong cuộc chơi này là những ai kiểm soát được những khuôn mẫu và tùy nghi biến đổi chúng, và họ vẫn giữ vững nhịp điệu trong khi kẻ khác lại lạc bước. Cốt lõi của chiến lược là kiểm soát được điều sắp xảy ra, trong khi cơn phấn chấn của vinh quang sẽ làm ta mất quyền kiểm soát theo hai cách. Thứ nhất, ta thành công là nhờ một khuôn mẫu, mà ta lại có khuynh hướng lặp lại khuôn mẫu ấy. Ta sẽ cố chuyển động theo cùng hướng cũ mà không thèm dừng lại xem đó còn là hướng tốt nhất với ta hay không.

    Thứ hai, thành công sẽ có chiều hướng làm mờ tâm trí, và ta bị tình cảm điều khiển. Tự cho rằng mình bất bại, ta sẽ hành động hung hăng hơn, có khả năng làm đổ vỡ tất cả sự vinh quang vừa đạt tới.

    Bài học ở đây là: Người tài ba phải thay đổi nhịp điệu và khuôn mẫu, chỉnh sửa lộ trình, thích nghi tình thế, tùy cơ ứng biến. Thay vì để cho cái trớn tiếp tục đẩy mình đi tới, người tài ba sẽ biết dừng lại quan sát tình hình. Họ tự trấn tĩnh, tạo một khoảng lùi để suy xét tận tường mọi diễn biến, xem xét vai trò của hoàn cảnh và vận may đối với thành công. Tại các trường dạy cưỡi ngựa, câu nói được lặp đi lặp lại là ta phải có khả năng tự điều khiển trước khi điều khiển được con ngựa.

    Trong cuộc chơi quyền lực, vận đỏ và hoàn cảnh luôn có vai trò không nhỏ. Điều này là tất yếu và làm cho cuộc chơi thú vị hơn. Nhưng cho dù ta có nghĩ như thế nào, thì vận may vẫn nguy hiểm hơn vận rủi. Vận rủi sẽ dạy ta nhiều bài học về tâm kiên nhẫn, phối hợp thời biểu, và chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất. Vận may làm ta lạc vào lối ngược lại, khiến ta tự hào cho rằng sự giỏi giang sẽ giúp mình chiến thắng. Chắc chắn thời vận sẽ đổi thay, và khi điều đó xảy ra ra sẽ hoàn toàn hụt hẫng.

    Người nào liên tiếp thành công có thể bị nhiễm một loại sốt, và ngay khi cả họ cố trấn tĩnh thì cấp dưới lại ép họ vượt quá mục tiêu, sa chân vào vùng nước xoáy. Với dạng cấp dưới hay xúi giục như vậy, bạn phải có cách xử lý. Chứ nếu chỉ đơn giản ca bài tiết chế thì họ sẽ bảo mình yếu đuối và không biết nhìn xa trông rộng. Quyền lực của bạn có thể giảm nếu họ thấy bạn thắng rồi mà không dám đánh nữa.

    Khi thủy quân của tướng Pericles liên tục chiến thắng trên vùng Biển Đen vào năm 436 TCN, nhân dân thành Athens vô cùng phấn khởi và thúc giục ông tiếp tục đánh nhanh đánh mạnh. Họ mơ ước chinh phục Ai Cập, nghiền nát Persia, tiến chiếm Sicily. Một mặt, Pericles điều tiết bớt các cảm xúc nguy hiểm của dân chúng bằng cách cảnh báo về mối nguy khinh địch. Mặt khác ông thỏa lòng họ bằng những chiến trận nhỏ mà ông biết chắc chiến thắng dễ dàng, đồng thời ra vẻ như để dành tổng lực cho chiến dịch to lớn sau cùng. Hậu thế chỉ biết được tài khéo léo của ông trong cuộc chơi này, sau khi ông qua đời, khi những kẻ mị dân khác lên cầm quyền, thúc đẩy Athens tiến công Sicily, và chỉ trong thời gian ngắn đã hủy diệt nguyên cả đế chế.

    Nhịp điệu quyền năng thường khi đòi hỏi ta phải luân phiên sử dụng sức mạnh và mánh khóe. Quá nhiều bạo lực sẽ tạo ra phản ứng, quá nhiều mánh khóe, cho dù quỷ quyệt cách mấy, cuối cùng cũng lòi đuôi. Tại Nhật Bản hồi thế kỷ XVI, vâng lệnh sứ quân Oda Nobunaga, vị tướng (và là Nhật hoàng tương lai) Hideyoshi xuất quân và mang về chiến thắng vang dội khi đánh bại bạo quân vĩ đại của tướng Yoshimoto. Lúc ấy sứ quân muốn Hideyoshi thừa thắng xông lên nghiền nát thêm một kẻ thù hùng mạnh, nhưng Hideyoshi nhắc sứ quân nhớ một thành ngữ xưa: “Khi vừa thắng một trận đánh, nhớ thắt chặt dây buộc nón trận”. Hideyoshi cho rằng đây là lúc mà sứ quân nên chuyển từ sức mạnh sang mưu kế và nghi binh, tạo ra một loạt liên minh hỏa mù đẻ đâm bị thóc thọc bị gạo.

    Những người vượt quá mục tiêu ban đầu thường là để làm đẹp lòng chủ nhân. Nhưng khi nỗ lực thái quá, chính chủ nhân sẽ nghi ngờ bạn. Đã nhiều lần, một số tướng lãnh dưới quyền vua Philip xứ Macedon bị thất sủng và giáng chức ngay sau khi chiến thắng vinh quang. Philip e rằng chỉ cần một vinh quang như thế nữa thôi, thì vị tướng kia sẽ trở thành kình địch của mình.

    Khi phục vụ cho chủ, bạn nên khôn ngoan giới hạn các chiến thắng của mình, để cho chủ công hưởng hết vinh quang, đừng làm hắn ta chột dạ. Và bạn cũng nên lập ra một khuôn phép phục tùng nghiêm chỉnh để được hắn tin dùng. Vào thế kỷ IV trước công nguyên, một vị tiểu tướng dưới trướng thống soái Ngô Khởi[12] bỗng dưng hăng tiết lên, thúc ngựa xung phong khi chưa có pháo lệnh, và lúc quay về khoái trá ném xuống đất mấy cái đầu của tướng địch. Anh ta tự hào về tài chém tướng trong chớp mắt, nhưng Ngô Khởi tuyệt nhiên không ấn tượng. “Đúng là một vị tướng tài,” ông thở dài khi lệnh cho binh sĩ mang tiểu tướng kia ra chém đầu, “nhưng bất tuân quân lệnh”.

    Còn một tình huống khác mà một thành công nhỏ có thể làm hỏng cơ may cho một thành công lớn hơn, đó là khi chủ nhân chiếu cố ta: Lúc ấy có thể là dại dột nếu ta đòi hỏi thêm. Ta sẽ bị đánh giá là dễ dao động - ta cảm thấy như thế là chưa đủ, và cố gắng vơ vét càng nhiều càng tốt khi có dịp, một dịp may có thể không lặp lại. Cách hay nhất là ta lịch sự đón nhận ân huệ đó rồi lui bước. Những đặc ân khác sau này sẽ tự đến mà ta không phải đòi hỏi.

    Cuối cùng, điều quan trọng là biết chọn thời điểm để dừng. Điều gì đến sau cùng sẽ khiến mọi người ghi nhớ như một loại dấu chấm than. Lúc tốt nhất để dừng lại và ra đi là sau khi chiến thắng. Chứ còn tiếp tục thì hiệu quả sẽ giảm thiểu, thậm chí biết đâu sau đó ta bại trận. Đối với công tác thẩm vấn, giới luật sư thường khuyên “Luôn dừng lại sau khi chiến thắng.”

    Hình ảnh:

    Icarus rơi từ trời cao. Ông cha Dedalus đã dùng sáp dán lông vũ vào nhau để chế ra những cặp cánh giúp hai cha con bay thoát khỏi mê cung có quái thú Minotaur. Say sưa bay lượn, Icarus bay càng lúc càng cao, cho đến khi tia nắng mặt trời làm chảy sáp rớt lông, và anh ra rơi tòm chí tử.

    Ý kiến chuyên gia:

    Các vương tôn và những nền cộng hòa nên hài lòng với vinh quang, bởi khi muốn được thêm, họ thường thất bại. Việc sử dụng ngôn ngữ sỉ nhục nhắm vào kẻ thủ phát xuất từ sự ngạo mạn của vinh quang, hoặc từ ảo vọng chiến thắng, vốn cuối cùng sẽ làm người ta sai lầm cả trong lời nói và hành động, bởi vì khi ảo vọng này làm lý trí lu mờ, nó cũng khiến họ đi quá mục tiêu, và xui họ hy sinh một giá trị chắc chắn để đổi lấy điều được tin là giá trị hơn, nhưng thật bấp bênh.

    (Niccolò Machiavelli, 1469-1527)

    NGHỊCH ĐẢO

    Như Machiavelli từng khuyên: hoặc là ta tận diệt kẻ thù, hoặc là tha cho nó toàn mạng. Trừng phạt nửa vời chỉ làm hắn tăng lòng căm hận và tìm cách báo thù. Vì vậy hễ đánh địch là đánh cho tan nát không thể tồn tại. Ta nên dằn lòng trong giây phút chiến thắng, nhưng như thế không phải để không nghiền nát kẻ thù, mà để đừng tiến công những đối thủ khác một cách vô ích. Ta không khoan dung với kẻ thù, nhưng cũng đừng tạo ra kẻ thù mới bằng hành động thái quá.

    Sau khi chiến thắng, nhiều người tăng cường cảnh giác vì họ thấy là chiến thắng đã mang lại cho họ thêm nhiều của cải để canh chừng và bảo vệ. Ta cũng nên cảnh giác, nhưng đừng để sự cảnh giác này làm mình do dự, hoặc mất khí thế, mà chỉ dùng sự cảnh giác làm dây cương hãm bớt tính nông nổi. Cái khí thế này thường được đánh giá quá cao. Thành công là do ta, và nếu thành công nối tiếp thành công, thì đó là kết quả việc của ta làm. Chứ nếu tin vào khí thế, ta sẽ bị xúc cảm tác động, làm chậm các động tác chiến lược, và có khuynh hướng lặp lại những phương pháp cũ. Hãy nhường cái khí thế đó cho những ai không thể tin cậy vào điều gì tốt hơn.
     
  10. Vân Mây Người từ trên trời rơi xuống

    Messages:
    206
    Nguyên tắc 48: Thiên Hình Vạn Trạng

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nếu bạn chọn cho mình một hình thể cố định, một kế hoạch hiển nhiên, xem như bạn vạch áo cho người ta xem lưng. Trái lại, bạn nên luôn chuyển động và thay hình đổi dạng. Hãy chấp nhận thực tế rằng không có gì cố định và không nguyên tắc nào bất di bất dịch. Cách phòng thủ tốt nhất là phải linh hoạt như nước, không có hình thù nhất định. Đừng bao giờ ỷ lại vào tính ổn định hoặc trật tự lâu bên. Mọi thứ đều thay đổi.

    VI PHẠM NGUYÊN TẮC

    Vào thế kỷ XVIII trước công nguyên, các thành bang ở Hy Lạp lớn mạnh đến mức không còn đủ đất đai cho dân số ngày một gia tăng. Họ bèn nhìn ra biển, đi thiết lập thuộc địa ở vùng Tiểu Á, Sicily, bán đảo Italia, ngay cả châu Phi. Nhưng thành Sparta lại bị núi non vây quanh, không có lối trổ ra Địa Trung Hải, nên dân chúng Sparta không phải là dân đi biển. Vì vậy họ buộc lòng phải gây hấn với những thành bang chung quanh, trong một chuỗi những xung đột dữ dội kéo dài hơn trăm năm, với kết quả là họ thu gom được một vùng đất rộng lớn cho cư dân canh tác. Tuy nhiên giải pháp này lại tạo ra bài toán mới: Làm sao giữ vững và duy trì trật tự ở những vùng chiếm đóng? Dân số những vùng ấy đông gấp mười dân Sparta, chắc chắn ngày nào đó sẽ diễn ra trận phục thù khủng khiếp.

    Đối cùng, Sparta phải hình thành một xã hội hướng về thuật chiến tranh. Dân Sparta phải mạnh hơn, cứng rắn hơn, hung hãn hơn những người láng giềng. Chỉ có cách này họ mới tiếp tục sống còn và ổn định.

    Khi vừa lên bảy, đứa bé trai thành Sparta sẽ bị bắt khỏi gia đình để đưa vào một loại câu lạc bộ quân sự, nơi huấn luyện nó chiến đấu và sinh hoạt theo kỷ luật sắt. Ngủ trên giường cứng lót sậy, chỉ được phát cho một bộ áo ngoài mặc suốt cả năm, không được học hỏi hay thực hành bất kỳ bộ môn văn hóa nghệ thuật nào. Tất nhiên cư dân thành Sparta không được biết đến âm nhạc, và chỉ cho phép bọn nô lệ sản xuất ra những sản phẩm tiểu thủ công nào tối cần cho sinh hoạt. Những kỹ năng duy nhất được dạy là kỹ năng quân sự. Đứa bé nào trông yếu ớt sẽ bị bỏ cho chết đói trong hang động trên núi. Sparta không cho phép bất kỳ hình thức mậu dịch hay tiền tệ nào, vì họ tin rằng tiền tài chỉ gây ra chia rẽ và ích kỷ, làm suy yếu kỷ luật chiến binh. Nguồn thu nhập duy nhất được cho phép là nông nghiệp, hầu hết trên những cánh đồng thuộc sở hữu nhà nước.

    Đầu óc đơn giản của cư dân thành Sparta giúp họ hình thành binh chủng bộ binh hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Họ đánh đâu thắng đó, vinh quang nối tiếp vinh quang nhưng chưa bao giờ nghĩ đến việc lập ra đế chế. Họ chỉ muốn giữ vững những gì đã chiếm được, và bảo vệ những vùng đất ấy chống ngoại xâm. Hàng chục năm có thể qua đi mà không xảy ra chút thay đổi nào trong chế độ đã duy trì thành công nguyên trạng của Sparta.

    Trong khi đó một thành bang khác cũng lớn mạnh không kém Sparta: Athens. Thành bang này được lợi thế bờ biển, chủ yếu là để giao thương hơn là tạo lập thuộc địa, vì vậy dân Athens trở thành thương nhân tài ba. Không cứng nhắc như Sparta, họ đáp ứng với tình thế thật sáng tạo, thích nghi với điều kiện phát sinh, nhanh chóng tạo ra nhiều hình thức xã hội và nghệ thuật mới. Cộng đồng của họ như dòng chảy triền miên, và khi quyền lực càng tăng thì họ càng trở thành mối nguy cho thành Sparta.

    Năm 431 TCN, cuộc chiến âm ỉ từ lâu giữa hai thành bang giờ bùng ra mãnh liệt. Sau 27 năm ác chiến, bộ máy chiến tranh Sparta thắng trận. Giờ đây Sparta có cả một đế chế, và họ không thể nào nằm yên trong vỏ sò nữa.

    Sau chiến tranh, tiền của từ Athens đổ vào Sparta. Những chiến binh này chỉ biết cầm gươm chứ không hề có tí ý niệm gì về chính trị hay kinh tế. Sự giàu sang và phong cách sống giàu sang áp đảo họ. Những thống đốc Sparta được cử đi cai quản các vùng đất từng thuộc quyền Athens đều gục ngã trước những hình thức tham nhũng thối nát nhất. Tuy Sparta đã đánh thắng Athens, nhưng cách sống linh động của Athens đã dần xói mòn kỷ cương và trật tự nghiêm khắc của Sparta. Trong khi đó Athens lại thích nghi với tình hình mới, xoay xở phát triển thành một trung tâm văn hóa và kinh tế.

    Lúng túng trước sự thay đổi lớn lao, Sparta ngày càng yếu đi. Chỉ chừng 30 năm sau khi thắng Athens, Sparta thất bại trong một trận chí tử với thành Thebes. Hầu hết chỉ đầu hôm sớm mai, thành bang hùng mạnh này sụp đổ để không bao giờ gượng dậy nữa.

    Diễn giải

    Trong sự tiến hóa của muôn loài, hầu như cái vỏ giáp bảo vệ luôn gây ra tai họa. Mặc dù vẫn có vài trường hợp ngoại lệ, song gần như lúc nào cái vỏ cũng trở thành cái ngõ cụt chí tử cho con vật nào ẩn mình trong đó. Vỏ bọc làm cho chủ nhân nó di chuyển chậm chạp, đi kiếm ăn vất vả hơn, và lại trở thành mồi ngon cho thú săn mồi nhanh nhẹn. Loài thú nào hướng lên trời hay ra biển, loài nào di chuyển mau lẹ và bất thần đều hùng mạnh và an toàn hơn.

    Khi phải giải quyết bài toán khó là kiểm soát được dân số đông hơn, Sparta phản ứng như một con thú đang hình thành một cái mai bảo vệ. Giống như loài rùa, Sparta đành hy sinh tính linh hoạt cho sự an toàn. Họ cố gắng xoay xở để giữ vững ổn định suốt ba trăm năm, nhưng với cái giá nào? Ngoài văn hóa chiến tranh ra họ không còn loại văn hóa nào khác, không có nghệ thuật để xoa dịu căng thẳng và lo âu về hiện trạng đất nước. Thắng trận đồng nghĩa với việc phải quản lý thêm nhiều đất đai, điều mà họ không muốn. Thua trận là phải chấm dứt bộ máy quân sự, điều mà họ cũng không muốn nốt. Chỉ có tình trạng bất di bất dịch mới giúp họ sống còn. Nhưng trên thế giới này không có gì ổn định mãi, và cái vỏ sò hoặc chế độ mà bạn triển khai để tự bảo vệ, đến một ngày nào đó sẽ gây tai họa.

    Trong trường hợp Sparta, họ không thua binh đội của Athens, mà thua tiền bạc của Athens. Tiền bạc sẽ chảy về bất cứ nơi nào thu hút nó và gieo rắc hỗn loạn. Về lâu về dài, tiền bạc biến Athens thành người chinh phục, bằng cách xâm nhập chế độ Sparta và xói mòn chiếc áo giáp bảo vệ. Trong cuộc chiến giữa hai chế độ, Athens đủ linh hoạt và sáng tạo để thay hình đổi dạng, trong khi Sparta chỉ càng lúc càng cứng rắn cho đến khi rạn nứt.

    Đó là cách mà thế giới này vận hành, cho dù đó là loài vật, văn hóa, hay cá nhân con người. Đối mặt với sự khắc nghiệt và những hiểm nguy của thế giới, loài sinh vật nào cũng phát triển hệ thống bảo vệ - một lớp giáp, một chế độ cứng rắn, một nghi thức vỗ an. Tuy có thể hiệu quả trước mắt, song về lâu về dài sẽ gây tai họa. Nhân dân đang còng lưng dưới ách một chế độ và những phương cách vận hành cứng rắn sẽ không thể chuyển động nhanh nhạy, không thể cảm nhận hoặc thích nghi với đổi thay. Họ sẽ ì ạch lòng vòng ngày càng chậm dần cho đến khi bước vào lối mòn tự diệt của loài khủng long. Hãy học cách thích nghi và linh động, nếu không bạn sẽ không thể sống sót.

    Cách hay nhất là phải biến thiên hình vạn trạng. Không có loài săn mồi nào có thể tấn công nếu chúng không thể phát hiện ra ta.

    TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

    Khi Thế chiến II kết thúc và quân Nhật bị đánh đuổi khỏi Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch lãnh đạo phe Dân quốc quyết tâm tiêu diệt phe Cộng sản. Vào năm 1935 họ gần như thành công khi dồn phe Cộng sản vào cuộc Trường chinh đầy gian lao. Tuy phục hồi được phần nào trong lúc thời kỳ chống Nhật, nhưng lực lượng Cộng sản vẫn còn rất yếu. Họ chỉ kiểm soát vài vùng hẻo lánh miền quê, vũ khí của họ thô sơ, không được huấn luyện quân sự chính quy, không làm chủ được phần lãnh thổ quan trọng nào ngoài vùng Mãn Châu sau khi quân Nhật rút lui. Chính nơi này mà Tưởng quyết tập trung lực lượng ưu tú nhất để tấn công. Ông dự định tiến chiếm các đô thị chủ chốt, rồi từ đó bành trướng khắp vùng công nghiệp phía Bắc, quét sạch quân Cộng sản. Mất Mãn Châu, Cộng sản sẽ sụp đổ.

    Trong hai năm 1945 và 1946 kế hoạch vận hành hoàn hảo: Phe Dân quốc dễ dàng chiếm đóng các thành phố chủ chốt ở Mãn Châu. Quân Cộng sản tháo lui về những vùng sâu vùng xa khó vươn tới. Nhưng từ đó, nhiều toán lính nhỏ của họ lại liên tục quấy nhiễu quân đội Dân quốc, phục kích lẻ tẻ, nhanh chóng rút lui, không bao giờ liên kết lại thành một đoàn quân đông đảo nên rất khó tiến đánh. Quân Cộng sản chiếm một thị trấn nào đó chỉ vài tuần rồi lại bỏ ngỏ. Không có tiền quân lẫn hậu quân, họ chuyển động như thể thủy ngân, không bao giờ ở lâu một chỗ, thoạt ẩn thoạt hiện.

    Phe Dân quốc quy thái độ đó cho hai việc: Hèn nhát không dám đương đầu với đại quân và không có kinh nghiệm chiến lược. Lãnh tụ Cộng sản Mao Trạch Đông hình như làm thơ và triết lý giỏi hơn điều binh khiển tướng, trong khi Tưởng[13] đã tốt nghiệp khoa quân sự tại phương Tây, đồng thời là môn đồ thuần thành của nhà tư tưởng quân sự lừng danh Carl von Clausewitz.

    Tuy nhiên dần dà cách đánh của Mao cũng thành hình. Sau khi phe Dân quốc chiếm đô thị và để cho quân Cộng sản giữ vùng được xem là vô dụng của Mãn Châu, thì người Cộng sản lại bắt đầu sử dụng không gian rộng lớn ấy để bao vây đô thị. Nếu Tưởng phái một đội quân di chuyển từ thị trấn này sang tăng viện thị trấn khác, phe Cộng sản sẽ chọc sườn đội quân ấy. Lực lượng Dân quốc dần dà bị manh mún thành khúc nhỏ và cô lập, bị cắt đứt quân nhu và liên lạc. Hỏa lực Dân quốc vẫn còn rất mạnh, nhưng nếu không di chuyển được thì ích lợi gì?

    Quân Dân quốc bắt đầu lo sợ. Những người chỉ huy họ đang an toàn cách xa mặt trận có thể cười nhạo Mao, nhưng bản thân họ từng trực tiếp đối đầu với quân Cộng sản trên núi nên biết sợ tài xuất quỷ nhập thần. Giờ đây họ lại bị kẹt cứng trong thành phố, thấy rõ quân thù di chuyển như chớp, linh động như những dòng nước từ mọi phía tràn về. Hình như họ đông cả triệu người. Hơn nữa phe Cộng sản còn vây hãm tinh thần phe Dân quốc bằng hình thức tuyên truyền, kêu gọi họ đào ngũ.

    Từ trong tâm trí, phe Dân quốc đã muốn đầu hàng rồi. Nhiều đô thị bị bao vây và cô lập đã sụp đổ trước khi bị tấn công trực tiếp nên nhanh chóng thất thủ. Tháng 11 năm 1948, quân đội Dân quốc đầu hàng phe Cộng sản - một đòn nhục nhã cho đội quân mạnh hơn hẳn về mặt kỹ thuật, một đòn mang tính quyết định trong cuộc chiến tay đôi đó. Sang năm sau, phe Cộng sản kiểm soát toàn bộ Trung Quốc.

    Diễn giải

    Hai loại cờ gần giống chiến lược quân sự nhất là cờ vua và cờ vây[14] Á châu. Bàn cờ vua thì nhỏ, và nếu so với cờ vây thì cờ vua tấn công tương đối nhanh hơn, buộc hai bên phải ra đòn quyết đoán. Cờ vây chơi trên bàn lớn hơn, với 361 đường giao nhau, với vị thế gần gấp sáu lần so với cờ vua. Hai bên luân phiên đặt những quân cờ đen và trắng ở những chỗ giao nhau, với mục đích là cô lập quân cờ đối phương.

    Được Trung Quốc gọi là cờ vây, một ván cờ vây có thể có đến 300 bước di chuyển, với chiến lược linh động và tinh vi hơn cờ vua, chầm chậm triển khai. Đường thế ban đầu do quân cờ của ta tạo ra càng phức tạp thì đối phương càng khó đoán chiến lược. Giành quyền kiểm soát một khu vực trên bàn cờ là chuyện không đáng, trái lại ta phải biết nghĩ trên bình diện rộng hơn, sẵn sàng hy sinh con tép để bắt hết mẻ cá. Điều ta cần không phải là cố thủ mà phải là tính lưu động. Những quân cờ di động sẽ cô lập đối phương vào từng vùng nhỏ. Mục tiêu không phải là trực tiếp giết quân đối phương như ở cờ vua, mà gài đối phương vào thế tê liệt để hắn chết cứng. Cờ vua thì tuyến tính, chuộng vị trí, tấn công hung hăng. Cờ vây thì phi tuyến tính và linh hoạt, tấn công gián tiếp cho đến cuối ván cờ, khi người chiến thắng sẽ bao vây các quân cờ của đối thủ bằng một nhịp độ tăng dần.

    Các nhà chiến lược quân sự Trung Quốc chịu ảnh hưởng cờ vây từ nhiều thế kỷ nay. Mao Trạch Đông thường chơi môn cờ này và vận dụng ý niệm cờ vào chiến lược. Chẳng hạn một ý niệm chủ chốt là bành trướng hết diện tích của bàn cờ theo nhiều hướng, để đối thủ không thể lường hết được ý đồ của ta theo kiểu tuyến tính.

    Mao khuyến khích các binh đoàn của ông đánh theo kiểu cờ vây, sao chi địch không thể đoán trước ý định hoặc hướng điều binh. Địch sẽ mất thì giờ truy đuổi, hoặc như Tưởng Giới Thạch, ông ta đánh giá thấp đối phương nên lơi lỏng phòng vệ. Và nếu làm theo học thuyết Tây phương là tập trung vào từng vùng duy nhất, ông ta sẽ trở thành cái bia bất động để đối phương bao vây. Cách đánh theo kiểu cờ vây là vây hãm đầu óc đối thủ, dùng chiến tranh tâm lý, tuyên truyền vận động, cùng với các chiến thuật khiêu khích để làm đối phương rối ren mà xuống tinh thần. Quân đội Cộng sản của Mao cũng áp dụng chiến lược như thế - thiên hình vạn trạng, khiến đối phương rối trí và kinh hãi.

    Trong khi cờ vua thì tuyến tính và trực tiếp, cờ vây gắn với loại chiến lược thích nghi với thế giới ta đang sống, nơi những trận đánh được thực hiện gián tiếp hơn, trên những bình diện rộng lớn và kết nối lỏng lẻo với nhau. Nơi đó, các chiến lược trừu tượng và đa chiều, hoạt động ở quy mô ngoài không gian và thời gian: Quy mô trí não của nhà chiến lược. Hình thức chiến đấu linh hoạt này ưu tiên cho sự chuyển động hơn là vị trí. Tốc độ và sự uyển chuyển khiến đối thủ không lường trước bước di chuyển của ta. Và khi không thể nắm được ý đồ, địch sẽ không đề ra được chiến lược nào để chống lại. Vậy ta cứ biến thiên như sương khói, không chừa một khía cạnh cụ thể nào cho địch đánh. Trong khi cố gắng truy đuổi và suy đoán để thích nghi vơi tính chất bảng lảng của ta, địch sẽ từ từ suy kiệt.

    Khi ngươi muốn đánh, ta không chừa cơ hội và ngươi không tìm thấy ta. Nhưng khi muốn đánh ngươi, ta đã chắc rằng ngươi không thể lảng tránh và ta đánh dứt khoát… càn quét ngươi… Địch tiến thì ta lùi, địch hạ trại thì ta quấy nhiễu, địch suy yếu ta tấn công, địch tháo lui ta truy đuổi.

    (Mao Trạch Đông, 1893-1976)

    CỐT TỦY CỦA NGUYÊN TẮC

    Động vật người khác với loài thú nhờ luôn sáng tạo ra nhiều hình thức mới. Ít khi biểu hiện cảm xúc một cách trực tiếp, loài người diễn tả qua ngôn ngữ, hoặc qua những nghi thức xã hội được chấp nhận. Chúng ta không thể chia sẻ cảm xúc mà không thông qua một hình thức.

    Song các hình thức mà ta tạo ra lại luôn thay đổi - trong thời trang, phong cách, ở những nơi nào thể hiện tâm trạng đương đại. Chúng ta luôn thay đổi những hình thức thừa hưởng được từ các thế hệ trước, và đó là dấu hiệu của sự sống và sức sống. Tất nhiên những thứ nào không thay đổi, những hình thức nào hóa xơ cứng, ta có cảm giác như chúng đã chết và ta diệt bỏ chúng. Giới trẻ biểu lộ điều đó rõ rệt nhất: Không chấp nhận những hình thức mà xã hội áp đặt, tính cách của họ lại chưa hình thành, giới trẻ thử nghiệm với những đặc điểm của riêng mình, qua một số mặt nạ và tư thế để tự khẳng định. Đó chính là sức sống vận hành động cơ của hình thức, tạo ra những thay đổi thường xuyên trong phong cách.

    Hồi còn trẻ, người tài ba thường bộc lộ sáng tạo khi sử dụng một hình thức mới để biểu lộ một cái mới. Xã hội xem họ là kẻ quyền lực bởi vì xã hội cần có cái mới và tưởng thưởng cái mới. Vấn đề chỉ phát sinh sau này, khi những người tài ba đó lớn tuổi hơn, trở nên bảo thủ và ích kỷ. Lúc ấy họ không còn mơ ước tạo ra cái mới, tính cách họ đã hình thành, thói quen đã đóng băng, và sự xơ cứng biến họ thành những mục tiêu dễ triệt hạ. Ai cũng đoán được nước cờ họ sắp thực hiện. Thay vì được nể phục họ lại khiến mọi người nhàm chán: Bước xuống sân khấu đi! Mọi người bảo, nhường chỗ cho người khác, cho ai đó trẻ hơn. Khi bị quá khứ giữ chân, kẻ quyền lực trông khôi hài làm sao - họ là những trái quả chín, chực chờ rơi rụng.

    Quyền lực chỉ có thể phát triển qua các hình thức linh động. Chương này khuyên bạn không nên giữ mãi một hình dạng rõ rệt, như thế không có nghĩa là bạn phải có một hình dạng nhất định, bởi cái gì cũng có hình dáng cả, không thể nào không. Ở đây, ta khẳng định rằng sự vô định hình của quyền lực trông giống như nước, hoặc thủy ngân, sẽ mang dáng vóc của vật chứa. Luôn thay đổi nên luôn bất ngờ. Người quyền lực luôn tạo ra hình thể mới, và quyền lực họ phát xuất từ tốc độ thay đổi. Vô định hình là vô định hình đối với sự quan sát của kẻ thù, để chúng không thể thấy bất kỳ điều gì nhất định mà nhắm vào. Đó là tư thế đầu tiên của quyền lực: Địch không thể lường, không thể nắm bắt, vì ta vô định và chớp nhoáng như thần Mercury, vị thần có khả năng thiên hình vạn trạng và sử dụng khả năng này để đại náo thiên đình trên đỉnh Olympus.

    Con người tiến hóa về hướng trừu tượng, ngày càng thiên về tinh thần hơn vật chất. Hướng tiến hóa này rõ rệt ở lĩnh vực nghệ thuật, và cũng có thể thấy ở bình diện chính trị, vốn càng lúc càng bớt hung bạo công khai, nhưng tăng tính phức tạp, gián tiếp và đầu óc. Chiến tranh và chiến lược cũng phải theo khuynh hướng này. Chiến lược ngày nay không còn là điều binh khiển tướng trong không gian quy ước nữa, mà tận dụng những ngõ ngách của bộ óc con người.

    T.E. Lawrence có lẽ là nhà chiến lược hiện đại đầu tiên triển khai lý thuyết trừu tượng trong chiến tranh du kích. Ý tưởng của Lawrence đã ảnh hưởng đến Mao. Lawrence chung sức với người Ả Rập để chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Ông muốn chiến binh Ả Rập có khả năng hòa lẫn vào sa mạc mênh mông, không tụ tập về một điểm nhất định để trở thành mục tiêu cho đại quân Thổ. Khi phe Thổ vội vàng tiến đánh đạo quân ma ấy, họ chỉ tiêu tốn sức lực lùng sục khắp nơi. Tuy hỏa lực họ mạnh hơn, nhưng quân Ả Rập chơi trò mèo vờn chuột, khiến phe Thổ không biết đường nào mà lần, dần dà đâm hoang mang. “Hầu hết các cuộc chiến đều mang tính chạm trán… Cuộc chiến của chúng ta phải mang tính hợp tan,” Lawrence viết. “Chúng ta phải ngăn chặn địch bằng mối đe dọa câm lặng của sa mạc mênh mông bí ẩn, phải đợi đến lúc ta tiến công thì địch mới biết ta ở chỗ nào.”

    Trong một thế giới mà chiến tranh gián tiếp đang được thời, thì tính vô định hình, nghĩa là thiên hình vạn trạng, là điều chí cốt.

    Yêu cầu tâm lý đầu tiên cho tính vô định hình là với những việc xảy ra, ta đừng xem đó là xúc phạm cá nhân. Đừng bao giờ để cho địch thấy bất kỳ dấu hiệu thủ thế nào. Vì khi thủ thế, ta sẽ để lộ cảm xúc, xem như hiện nguyên hình. Lúc ấy đối thủ biết họ đã đánh trúng chỗ nhược của ta, dạng như gót chân của Achilles, từ đó về sau họ cứ nhắm vào đấy mà đánh tiếp. Vì vậy ta hãy rèn luyện tâm lý đừng xem việc gì là cá nhân cả. Đừng bao giờ nổi giận khi người khác cố tình chọc giận. Hãy biến gương mặt ta thành cái mặt nạn vô định, lúc đó chính đối phương mới nổi đóa và mất phương hướng.

    Nam tước James Rothschild đã sử dụng chiêu này rất xuất sắc. Là người Đức gốc Do Thái sống trong môi trường bài ngoại ở Paris, ông không bao giờ xem sự xúc phạm nào đó là hướng vào cá nhân mình, và ông cũng không bao giờ cho thấy là ông bị xúc phạm. Ngoài ra ông còn tự thích ứng với thời tiết chính trị, cho dù thời tiết ấy ra sao – thời kỳ Phục hồi quân chủ cứng nhắc của Louis XVIII, triều đại mang tính tư sản của Louis-Philippe, cách mạng dân chủ 1848, kẻ mới phất Louis-Napoléon lên ngôi năm 1852. Rothschild đều chấp nhận hết, rồi hòa mình vào thời đại. Người ta bảo ông đạo đức giả hoặc cơ hội cũng mặc, vì điều khiến ông được ưa chuộng là tài sản chứ không phải quan điểm chính trị. Tài sản của ông đã trở thành thứ tiền tệ của quyền lực. Ông cứ ung dung thích nghi và phát đạt mà không bao giờ để lộ ra bất kỳ hình thù gì, trong khi những gia tộc cao sang khác, tuy giàu nứt đố đổ vách hồi đầu thế kỷ, nhưng sau đó là tán gia bại sản vì thời vận thay đổi thật khó lường. Vì vẫn vấn vương với quá khứ nên họ đã ít nhiều hiện ra một hình thức nhất định.

    Xuyên suốt chiều dài lịch sử, phong cách vô định hình được ứng dụng nhiều hơn hết bởi những nữ hoàng trị vì một mình. Chức vị nữ hoàng khác biệt cơ bản với một ngai vua. Là một phụ nữ, bà sẽ bị quần thần nghi ngờ khả năng cai trị và sức mạnh tinh thần. Nếu chiếu cố một phe trong cuộc chiến ý thức hệ, bà sẽ bị chê là hành động theo cảm xúc. Nhưng nếu đè nén cảm xúc để đóng trọn vai độc tài theo kiểu đàn ông, bà vẫn sẽ bị chỉ trích. Vì vậy có lẽ do bản chất hoặc kinh nghiệm, các nữ hoàng có khuynh hướng cai trị mềm dẻo, mà rốt cuộc đã chứng tỏ là hữu hiệu hơn hình thức trị vì thẳng thừng và nam tính.

    Hai điển hình của phong cách trị vì vô định hình là Nữ hoàng Elizabeth nước Anh và Nữ hoàng Catherine Vĩ đại nước Nga. Khi nổ ra cuộc chiến tàn bạo giữa hai phe Tin Lành và Công giáo, Elizabeth chọn lối trung đạo. Bà không liên minh với phe nào, mà chỉ cố duy trì hòa bình đến khi đất nước đủ mạnh để đương đầu với chiến tranh. Triều đại của bà là một trong những triều đại vinh quang nhất lịch sử nhân loại, nhờ khả năng thích nghi xuất chúng và ý thức hệ mềm dẻo của bà.

    Catherine nước Nga cũng triển khai một cách cai trị ứng hóa. Sau khi chồng bà là Hoàng đế Peter II bị hạ bệ, bà nắm toàn quyền cai quản đất nước và tất cả mọi người cho rằng bà không thể nào sống sót. Nhưng bà không có tiên kiến, không dựa vào triết lý hay lý thuyết nào để chỉ đạo các chính sách. Mặc dù là kẻ ngoại bang (quê hương ở Đức) nhưng bà nắm rõ tâm trạng người Nga, biết được tâm trạng ấy đã thay đổi như thế nào qua năm tháng. “Ta phải trị vì như thế nào để cho nhân dân nghĩ rằng chính họ muốn thực hiện những gì mà ta bảo họ thực hiện,” bà nói, và bà làm được điều đó bằng cách đón trước những mong ước của nhân dân, đồng thời thích nghi với những gì họ không muốn. Không bao giờ ra tay mạnh bạo ép uổng điều gì, Catherine Vĩ đại đã cải cách được nước Nga trong thời gian vô cùng ngắn.

    Cách cai trị vô định hình và nữ tính ấy có thể là cách để người quyền lực thành công qua những thời kỳ khó khăn, và lại rất dễ chịu với những thân dân dưới chế độ ấy. Với cách cai trị mềm mỏng, thần dân dễ vâng lời, vì cảm thấy ít bị áp bức, ít bị o ép theo ý thức hệ của kẻ trị vì. Cách cai trị như thế cũng mở ra một số tùy chọn, vốn không thể có nếu chế độ cứ bám riết một học thuyết. Thoạt đầu, các chính phủ cứng rắn có vẻ hùng mạnh, nhưng về lâu về dài sự cứng rắn ấy sẽ mài mòn thần kinh, khiến nhân dân sẽ tìm cách đuổi cổ chính phủ ấy. Tuy dễ bị chỉ trích song chính phủ mềm dẻo và vô định hình sẽ bền vững, và cuối cùng nhân dân sẽ thấy chính phủ với mình là một, bởi vì chính phủ ấy thay đổi theo luồng gió mới, cởi mở với hoàn cảnh mới.

    Cho dù có phải chịu ít nhiều xáo trộn và trở ngại, song cách cầm quyền cởi mở cuối cùng thường vẫn thắng giống như Athens cuối cùng rồi cũng thắng Sparta bằng tài chính và văn hóa. Khi lâm vào thế đối đầu với một địch thủ hùng mạnh và cứng rắn hơn, ta nên để chúng tạm thắng ván đầu. Ta hãy vờ tuân thủ sức mạnh của chúng. Sau đó bằng khả năng thích nghi và vô định hình, ta dần xâm nhập vào tâm hồn chúng. Như vậy ta sẽ ra tay khi chúng mất cảnh giác, bởi kẻ cứng nhắc luôn sẵn sàng chống đỡ được những đòn trực tiếp nhưng lại bất lực trước những gì tinh vi và ngấm ngầm. Muốn vậy ra phải giỏi chơi trò tắc kè đổi màu - ngoài mặt thì tuân thủ, nhưng bên trong lại ngấm ngầm hủy diệt.

    Suốt nhiều trăn năm, người Nhật chừng như chấp nhận kẻ ngoại bang một cách hòa nhã, chừng như dễ chấp nhận ảnh hưởng văn hóa nước ngoài. Joao Rodriguez, một tu sĩ Bồ Đào Nha từng đến và sống nhiều năm ở Nhật hồi thế kỷ XVI đã ghi trong nhật ký rằng ông hết sức ngạc nhiên khi thấy người Nhật có thiện chí thử nghiệm và chấp nhận bất kỳ điều gì của Bồ Đào Nha. Ông chứng kiến người Nhật mặc quần áo kiểu Bồ Đào Nha dạo phố, cổ đeo tràng hạt và thập giá bên hông. Nền văn hóa Nhật có vẻ như yếu đuối và dễ thay đổi, song khả năng thích nghi ấy thật ra đã tránh cho đất nước không bị áp đặt một nền văn hóa xa lạ, được mang tới bởi sự xâm lăng quân sự. Chính thái độ khôn ngoan ấy làm cho Bồ Đào Nha và các nước Tây phương khác tưởng rằng Nhật Bản khuất phục trước nền văn hóa kẻ cả, trong khi thật ra người Nhật chỉ xem đó là thứ thời trang để chơi qua rồi bỏ. Bên dưới lớp bề mặt hòa hợp đó, nền văn hóa Nhật Bản vẫn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nếu trước đó người Nhật có thái độ cứng nhắc đối với ảnh hưởng ngoại bang và cố tẩy chay, có thể họ sẽ phải gánh chịu nhiều tổn thất kiểu như phương Tây đã giáng cho Trung Quốc. Đó mới là sức mạnh của tính vô định hình - kẻ xâm lược không có điều chi cụ thể để vin vào, để đánh đổ.

    Ở lĩnh vực tiến hóa, thường khi chính sự to xác lại là bước đầu dẫn đến diệt chủng. Động vật nào to đùng, húp híp thì không linh hoạt, mà lại phải luôn nghĩ đến việc thỏa mãn cái bao tử. Trong cuộc sống, người thiếu suy nghĩ thường lầm tưởng rằng kích cỡ đồng nghĩa với quyền lực, càng to càng mạnh.

    Năm 483 TCN, vua Xerxes của Persia xâm lược Hy Lạp, tin rằng mình dễ dàng chinh phục nước này chỉ với một chiến dịch. Suy cho cùng thì ông đang lãnh đạo một đội quân hùng mạnh nhất cho một lần xâm lược – sử gia Herodotus ước lượng đạo quân đó có hơn năm triệu người. Xerxes dự định xây một chiếc cầu băng qua vùng Hellespont để từ Tiểu Á tràn qua Hy Lạp, song song, lực lượng hải quân Persia hùng mạnh sẽ phong tỏa tàu bè Hy Lạp không cho thoát thân. Kế hoạch nghe quá hay, nhưng khi nhận được thông tin này, quân sư Artabanus đến khuyên can Xerxes: “Hai thế lực mạnh nhất thế giới này đang chống lại bệ hạ.” Xerxes cả cười, hỏi thế lực nào dám đương đầu với đạo quân năm triệu người như thế? Artabanus cẩn trọng tâu rằng đó chính là đất liền và biển cả. Theo quân sư, quanh vùng hoàn toàn không có một cảng nào đủ lớn để chứa hết đoàn thủy quân đông đảo của Persia. Ngoài ra hễ chiếm càng nhiều đất đai thì hệ thống quân nhu hậu cần càng cồng kềnh và phức tạp, xác suất rủi ro trong việc nuôi quân sẽ càng to lớn.

    Cho rằng quân sư chỉ là thứ hèn nhát, Xerxes ra lệnh tiến công. Quả nhiên như Artabanus đã tiên đoán, thời tiết xấu đã quét sạch hải quân Persia, vốn quá lớn nên không thể trú bão trong bất kỳ hải cảng nào. Trong khi đó trên bộ thì quân Persia đi đến đâu tàn sát đến đó, kể cả mùa màng lương thực nên bộ phận hậu cần không kịp nuôi quân. Ngoài ra đại đoàn quân cồng kềnh chậm chạp ấy còn là một mục tiêu dễ bị phát hiện và triệt hạ. Người Hy Lạp dùng đủ mọi mánh khóe khiến quân Persia mất phương hướng. Cuối cùng Xerxes bị quân đồng minh của Hy Lạp đánh tan không còn manh giáp.

    Câu chuyện vừa kể là điển hình của những người chuộng kích thước hơn là tính linh hoạt.

    Càng già đi, chúng ta lại cần phải tăng cường tính vô định hình, vì lúc đó ta có khuynh hướng xơ cứng. Ý nghĩ và hành động của ta bị những người xung quanh đoán trước, và đó là dấu hiệu đầu tiên của sự lụm khụm già nua. Và chính vì vậy dưới mắt họ ta có vẻ khôi hài. Mặc dù sự chế giễu và khinh thường có thể chỉ là hình thức tấn công nhẹ nhàng thôi, nhưng thật ra những thái độ đó đều là vũ khí sát thương, và về lâu về dài sẽ xói mòn nền tảng quyền lực. Một kẻ thù dám coi thường ta rồi thì sẽ càng táo bạo hơn, và tính táo bạo làm cho con thú nhỏ nhất cũng trở thành nguy hiểm.

    Triều đình Pháp hồi cuối thế kỷ XVIII, mà Marie Antoinette là gương mặt điển hình, đã bám quá chặt vào những thủ tục cứng nhắc vô phương cứu chữa, đến nỗi nhân dân Pháp xem đó là thứ di tích xấu xa. Thái độ chê bai một định chế hàng trăm năm tuổi là dấu hiệu đầu tiên của căn bệnh nan y đến thời kỳ cuối. Tình hình càng tệ hại thì hai vợ chồng Marie Antoinette và Louis XVI lại càng bám riết quá khứ, và do đó phải lên đoạn đầu đài.

    Vua Charles I nước Anh cũng phản ứng tương tự trước đợt triều đổi mới dân chủ hồi thập niên 1630: Ông giải tán Nghị viện, trong khi các nghi thức trong triều càng lúc càng mang tính hình thức và xa rời quần chúng. Chính sự cứng nhắc này càng làm sôi sục quyết tâm thay đổi của nhân dân. Không lâu sau nội chiến xảy ra và tất nhiên cái đầu của ông không thể nằm yên ở vị trí quen thuộc.

    Vì vậy càng lớn tuổi thì ta nên bớt dựa vào quá khứ. Hãy cảnh giác, nếu không, tính cách cứng nhắc sẽ khiến ta trông giống như di hài. Không hẳn ta phải bắt chước thời trang giới trẻ - vì như vậy cũng thật buồn cười. Thật ra điều ta nên làm là thường xuyên thích nghi với hoàn cảnh, với sự đổi thay không thể tránh: Ta phải tránh qua một bên nhường chỗ cho giới trẻ đang lên. Sự cứng nhắc chỉ làm ta trông giống như xác ướp.

    Tuy vậy ta cũng đừng quên rằng sự vô định hình cũng chỉ là một tư thế chiến lược mà thôi. Nhờ đó ta có đất để tạo ra nhiều điều bất ngờ chiến thuật, giữ được quả bóng trên sân ta, đặt đối phương vào tình thế không được hành động mà phải chờ đợi để đáp trả, xem như mọi hoạt động gián điệp hay tình báo của họ là vô nghĩa. Vậy bạn hãy nhớ: Sự vô định hình chỉ là dụng cụ. Đừng nhầm nó với thái độ trôi theo dòng đời, hoặc với chữ nhẫn mà tôn giáo khuyên ta áp dụng khi vận hội đổi thay. Ta sử dụng tính vô định hình không phải để được an hòa nội tại, mà bởi vì nó tăng cường sức mạnh.

    Cuối cùng, tập thích nghi với mỗi hoàn cảnh nghĩa là nhìn các sự kiện xảy ra bằng nhãn quan của mình, và phớt lờ những lời khuyên mà thiên hạ hay thêm thắt. Nói cách khác, cuối cùng thì ta phải bỏ ngoài tai các nguyên tắc mà người khác rao giảng, những quyển sách mà họ viết ra để dạy ta phải làm gì, bỏ luôn sự cố vấn của người đi trước. “Các nguyên tắc chi phối tình hình đều bị bãi bỏ bởi tình hình mới”, Napoléon viết, và rõ ràng chính ta là người đánh giá tình huống mới phát sinh. Chứ nếu cứ quan tâm đến những gì người khác nói, thì cuối cùng ta sẽ hình thành nên một thứ không phải do mình tạo ra. Quá cả nể sự hiểu biết của người khác sẽ làm ta xem thường sự hiểu biết của chính mình. Ta cứ mạnh tay với quá khứ, đặc biệt là quá khứ của chính ta, và cứ phớt lờ mọi triết lý từ ngoài thọc vào.

    Hình ảnh:

    Thần Thủy ngân. Người đưa tin có cánh, vị thần của thương mại, ông tổ giới đạo chích, cờ bạc, và thầy lừa nhanh tay. Ngay hôm được sinh ra, thần Thủy ngân đã sáng tạo ra đàn lia, đến tối hôm đó đã đánh cắp trâu bò của thần Apollo. Thần Thủy ngân biến thiên hình vạn trạng đi khắp thế gian. Tựa như thứ chất lỏng đặt theo tên ông, thần Thủy ngân là hiện thân của điều không thể nắm bắt – quyền lực của tính vô định hình.

    Ý kiến chuyên gia:

    Vì vậy đỉnh cao của việc dàn quân là đạt tới tính vô định hình. Trong chiến tranh, chiến thắng không mang tính lặp đi lặp lại, mà phải vô tận thích ứng… Lực lượng quân sự không có sự bố trí thường hằng, nước không có hình thể bất biến: Khả năng chiến thắng bằng cách thay đổi và thích ứng với đối phương được gọi là thiên tài.

    (Tôn Tử, thế kỷ IV trước công nguyên)

    NGHỊCH ĐẢO

    Sử dụng không gian để tạo ra và dàn mỏng một mô hình trừu tượng không có nghĩa là bỏ đi sự tập trung sức mạnh đang có lợi thế cho ta. Tính vô định hình làm cho địch phải nhớn nhác tìm xem ta ở đâu, từ đó phân tán sức mạnh của chúng về mặt vật chất lẫn tinh thần. Nhưng một khi đến hồi chạm trán, ta phải đánh một đòn thật tập trung và dũng mãnh. Đó là cách làm của Mao để chiến thắng phe Dân quốc: Bẻ gãy lực lượng địch thành từng đơn vị nhỏ và cô lập, dễ dàng bị tiêu diệt bằng tiến công vũ bão. Ở đây nguyên tắc tập trung chiếm ưu thế.

    Khi áp dụng tính thiên hình vạn trạng, ta phải quán xuyến tiến trình, và luôn tham chiếu đến chiến lược dài hơi. Đến khi chọn được một hình thức để tấn công, ta phải sử dụng sức tập trung, tốc độ và sức mạnh.
     
Thread Status:
Not open for further replies.
Trả lời qua Facebook
Loading...