PHẦN 31: PHƯƠNG BẮC Bấm để xem Đây nói về phương Bắc, thời Chu Mục Vương, nhà Chu. Tạo Thụ, được Mục Vương yêu mến, Vua tôi thường đi tuần thú cảnh Tây, tìm vui chuyện lạ. Ở vào thời ấy đã xuất hiện nhiều nước nhỏ nổi lên chống lại Mục Vương, không chịu quy phục Mục Vương, trong số các nước nhỏ nổi lên chống trả lại Mục Vương, có Vua Từ Yển, Từ Yển giao tranh quyết liệt với Chu Mục Vương, cuối cùng Chu Mục Vương đánh bại, diệt Vua Từ Yển, chiếm lấy đất đai phong cho Tạo Thụ. Tạo Thụ ở thời Mục Vương thế lực rất lớn, nên Tạo Thụ nói gì Mục Vương cũng nghe. Tạo Thụ là con cháu của Ác Lai, Ác Lai thờ Vua Trụ. Con cháu Vua Trụ chính là Ân Mao Vương, vì thế Tạo Thụ luôn luôn tìm cách giúp đở Ân Mao Vương, Ân Mao Vương phần lớn nhờ thế lực của Tạo Thụ, dựng nên cơ nghiệp Man Vu vô cùng hùng mạnh, lại kết hợp với quân Hồ, quân Hung Nô, nên càng hùng mạnh thêm nữa. Chu Mục Vương lấy làm lo lắng, hỏi Tạo Thụ: Tình hình phương Bắc nhà Chu ta, các nước đã nổi lên tranh giành quyền bá thôn tính lẫn nhau, có nước chống lại cả ta, liệu Ân Mao Vương có chống trả lại ta không? Tạo Thụ nói: Việc đó để Hạ Thần. Thiên Tử Bệ Hạ khỏi lo. Chu Mục Vương qua đời, Di Vương nhà Chu lên thay thế cũng giống như Chu Mục Vương, vô cùng lo sợ thế lực Ân Mao Vương, vì lúc bấy giờ thế lực Tam Vương hùng mạnh vô cùng. Chừng Chu Di Vương nghe Ân Mao Vương, cùng Hồ Nghi Vương, Hung Nô Vương bộ ba nầy xâm lược đánh chiếm Bắc Văn Lang. Chu Mục Vương lấy làm mừng, vì Ân Mao Vương không chống trả lại nhà Chu, mà đánh chiếm Bắc Văn Lang. Di Vương nói: Đúng Tổ Tông nào sanh con cháu nấy. Vua trụ Ân Thọ Vương quyết tâm chiếm cho được nước Văn Lang, không ngờ nước Văn Lang đánh bại thê thảm là vì nghe nói hồi đó nước Văn Lang có bảy Bảo Kiếm Trấn Quốc sau khi đánh thắng Ân Trụ Vương phương Bắc chúng ta, thời bảy thanh Kiếm Trấn Quốc đó cũng không còn. Sức mạnh của nước Văn Lang hiện nay đang đà suy yếu, bao đời Đế Vương phương Bắc cũng muốn chiếm lấy nước Văn Lang thống nhất Nam Bắc phương Đông, trở thành vĩ nhân đệ nhất thiên hạ. Nước Văn Lang là một đất nước giàu có đất đai trù phú, nội chỉ cần nền văn minh lúa nước, cũng đã đệ nhất địa cầu rồi, huống chi là nền văn minh sắt, thép, đồng, thau, nhất là nền văn minh luyện thép thời không có một đất nước nào bằng. Nếu quả thật Ân Mao Vương chỉ cần chiếm lấy được Bắc Văn Lang, chia phương Đông thiên hạ làm ba. Bắc Triều, Nam Triều và Trung Nguyên. Nhưng điều nầy không phải dễ vì nước Văn Lang tiềm ẩn những điều không thể lường trước được. Tạo Thụ, Triệu Thụ cùng Chu Di Vương đang bàn sôi nổi về Ân Mao Vương sắp chiếm được Bắc Văn Lang, thời có Quan nhất phẩm tên là Triệu Lục, vẻ mặt có vẻ kinh hãi báo cáo với Chu Di Vương rằng: Quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô đã bị quân Văn Lang đánh bại xóa sổ. Tạo Thụ, Triệu Thụ cũng như Di Vương nghe xong vô cùng kinh hãi: Nước Văn Lang mạnh như thế sao? Người nào mà tài năng như thế? Triệu Lục nói: Thánh Gióng, đoàn quân người sắt. Triệu Lục liền kể lại tất cả: Nào là Thánh Gióng cỡi ngựa sắt, chỉ cần múa roi một cái là cả hàng nghìn quân binh tan xương nát thịt. Thánh Gióng đánh gãy roi sắt, Gióng liền phi ngựa đến bụi tre nhổ cả gốc lẫn rễ lên đánh quân Ân chết la chết liệt. Gióng đánh gãy cây tre nầy lại nhổ cây tre khác. Quân Ân lớp lớp đi đời Xác phơi chật đất máu thành vũng ao Đứa thời gãy nát tứ chi Đứa thời sứt mũi tan thây bể đầu Đứa thời bẹp lép nát nhừ Ôi thôi khủng khiếp hãi hùng ôi thôi. Những người theo Gióng đánh giặc nghe đâu như là binh Tướng nhà Trời, chưa đầy ba ngày toàn bộ quân Ân, quân Hồ, quân Hung Nô coi như đã bị xóa sổ. Thông tin chính xác nầy là do ba nước biên giới với Bắc Văn Lang đó là: Tề, Ngô, Sở kể lại trong nỗi kinh hoàng. Chu Di Vương cùng các Quan Tướng nghe Thánh Gióng xuất hiện quét sạch giặc xâm lăng chỉ trong vòng có ba ngày thời kinh hồn bạt vía, không còn dám nghĩ đến mông xâm lăng nước Văn Lang nữa. Cũng từ đây phương Bắc nhà Chu cũng dần dần đi vào đại loạn, nhất là sau thời Di Vương, đến Lệ Vương. Chu Lệ Vương là vị Vua hôn quân mê muội bạo ngược vô cùng làm cho triều chính nội loạn bè chia bè rẽ phái thôn tính lẫn nhau. Chu Lệ Vương bằng chạy trốn sang nước khác, đến ở đất Trệ. Triều Đình nhà Chu không Vua các Quan Đại Thần trong Triều chung nhau làm chính sự, hiệu là Cộng Hòa tạm thời điều hành đất nước nhà Chu. Từ đây chiến tranh triền miên thôn tính lẫn nhau xảy ra lần lần khắp phương Bắc, dân phương Bắc chạy loạn chạy giặc di cư qua Bắc Văn Lang càng về sau càng lúc càng nhiều, dẫn đến mối họa mất Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang thành Trung Nguyên, sau nầy trở thành Trung Quốc. Bắc Văn Lang chính là Trung Nguyên, Trung Quốc vì thế Việt Nam và Trung Nguyên Trung Quốc là một dải đất liền, trở thành hai nước láng giềng, cùng một điều kiện địa lý. Cho nên người Việt Nam Văn Lang và người Hoa Trung Quốc Bắc Văn Lang đã có quan hệ lịch sử rất lâu đời từ thời đại Kinh Dương Vương chuyển sang thời đại Hùng Vương. Bắc Văn Lang trở thành Trung Nguyên rồi chuyển sang Trung Quốc đều nằm trong chủng tộc lớn Bách Việt. Nói chung nước Văn Lang có Bách Việt. Vì thế ở Trung Nguyên Trung Quốc vào thời đại Hùng Vương đã đánh dấu đặt tên nhiều con sông, như sông Dương, nói về thời đại Kinh Dương Vương sông Âu, sông Lạc. Âu Cơ, Lạc Long Quân nói về thời đại Hùng Vương. Nước Văn Lang chia ra làm ba miền, Nam Văn Lang chính là nước Việt Nam ngày nay. Trung Văn Lang, Bắc Văn Lang chính là Trung Nguyên Trung Quốc hiện nay. Hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, từ sông Dương Tử Trường Giang trở vào vì thế người Việt và người Trung Hoa không những cùng một điều kiện về địa lý, mà còn về chủng tộc họ tộc cũng rất giống nhau, trên một nguyên lý cơ bản là cùng chung Bách Việt Văn Lang có niên đại lịch sử hơn 10 nghìn năm, từ thời Kinh Dương Vương, phát nguồn từ thời đại Viêm Đế Thần Nông. Văn Lang khó nuốt biết dường bao Quân Gióng vùng lên quét sạch nào Tham tàn bạo ác quân ăn cướp Thây phơi chật đất thảm biết bao. Giặc Hồ, giặc Hung Nô, giặc Ân vô cùng tàn bạo, phần lớn Tướng Lĩnh của quân giặc, phần nhiều là yêu tinh quỉ dữ đầu thai. Nhất là họ hàng của Hồ tinh, họ hàng của Mộc tinh, họ hàng của Ngư tinh đã bị quân Âu Việt, Lạc Việt, theo Quốc Tổ Vua Hùng mở mang bờ cõi vào đất Lãnh Nam, con cái, cháu chắt, chút chút, họ hàng Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh đông vô số lên đến hơn mười mấy vạn, đã bị quân Âu Việt, Lạc Việt quét sạch hồn chúng đầu thai về phương Bắc, có cơ hội là chúng đánh chiếm Văn Lang, tàn sát dân Văn Lang, chúng bắt đàn bà con gái, hảm hiếp hoang dâm vô độ, chúng ăn thịt cả trẻ con, uống máu những chàng trai trẻ, chúng bắt dân trồng cây ngược cây chết thì chúng giết, chúng bắt đàn ông con trai làm đủ mọi chuyện nô lệ, nhịn đói nhịn khát, chúng đánh đập hành hạ sống không được, chết cũng không xong, những tội ác của giặc Ân phải nói là khủng khiếp, không có loại tội ác nào mà chúng không làm. Chúng bắt dân cắm trồng cây ngược Cây chết thời, chúng lột lấy da Nấu dầu, đâm, chém, chẳng tha Chúng chà chúng đạp tan thây nát nhừ Chúng hảm hiếp đàn bà con gái Chơi đủ trò đến chết chẳng tha Trái ý thời chúng lột da Quăng cho rắn nuốt rắn xơi kinh hồn Ôi lũ giặc bạo tàn khát máu Hành hạ dân đủ thứ dã man Gieo bao tang tóc đau thương Cơ Trời chuyển hóa Thánh Vương ra đời Long Vương Thánh Chúa xuống trần Đoàn quân Thánh Gióng diệt loài xâm lăng Binh Trời trở lại cõi trên Văn Lang nhớ mãi công ơn binh Trời. Đây nói về đoàn quân Thánh Gióng sau khi quét sạch ngoại xâm, phi ngược hướng về hướng Nam rồi lần lần biến đi đâu mất. Nói về Gióng sau khi đánh tan quân Hồ, quân Ân, quân Hung Nô, Gióng phi ngựa về hướng Nam ngựa đi nhanh như cơn bão vượt qua núi, bay qua sông. Gióng không về thăm Mẹ, phi ngựa thẳng đến bồ đề, dừng ngựa lại uống nước bên bờ sông Hồng, dấu chân ngựa Gióng lại in khắp nơi. Gióng vượt qua sông Hồng đến thẳng làng Xác Cáo bên bờ Hồ Tây. Gióng chỉ xuống Hồ Xác Cáo nói: Hỡi các loài Hồ tinh, các ngươi tuy bỏ xác nơi đây, nhưng linh hồn các ngươi đã đầu thai phương Bắc, kết cấu với vô số linh hồn Ngư tinh, Mộc tinh, cùng vô số các loài Yêu tinh khác nữa, khắp địa cầu, các ngươi đã làm hại dân tộc Văn Lang không biết bao lần. Nếu biết khôn hồn thời lo tu tâm dưỡng tánh hướng thiện, thời mong được có ngày về Trời, không nên xâm lược làm hại đất nước Văn Lang nữa. Bằng không Thiên Ấn – Thiên Bút ra đời tiêu diệt linh hồn của các ngươi, thần thức anh linh các ngươi sẽ biến mất, các ngươi sẽ không còn có cơ hội để được làm người, cũng không còn có cơ hội để làm loài cầm thú nữa. Nói xong Gióng giở cơm nắm ra ăn nghỉ chân một chút rồi phi ngựa về Sóc Sơn, bỏ lại một đoạn roi sắt thép ở đây, ngựa Gióng phi đến đâu thời thành ao thành vũng đến đó, đến chân Sóc Sơn, Gióng ghìm cương ngựa lại, ngựa Gióng hí lên vang động đất trời, dẫm chân lia lịa đi tới đi lui xoay tròn bốn phía, trở thành những ao vũng dày chi chít. Gióng nhìn non xanh nước biếc lần cuối rồi phi ngựa thẳng lên đỉnh núi cao. Khi ấy có một người dân ở làng Mõ đang cày ruộng gần núi Sóc Sơn thấy Gióng dừng ngựa trước khi phi ngựa lên núi, người dân làm ruộng ấy định chạy tới lạy Gióng, nhưng ngựa Gióng đã phóng vút lên núi, người làm ruộng chỉ biết đứng nhìn, trên đỉnh núi mây mù che phủ. Người làm ruộng còn đang phân vân, thời một người cao lớn hiện ra trước mặt mách bảo: Ta là Thần Núi Sóc Sơn, anh cứ trèo lên đỉnh núi, Thánh Gióng đã về Trời, áo giáp ngựa, giáp người ở dưới gốc cây Trầm Hương to lớn, còn mão thời treo lên nhánh Trầm Hương, hãy lấy gỗ Hương kia mà tạc tượng Thánh Gióng. Vu Điền người tạc tượng Gióng, cũng được thờ ngôi phụ bên cạnh Thánh Gióng trong đền thờ Sóc Sơn. PHẦN 32: HỒI KẾT PHONG QUAN TIẾN CHỨC Đông đã qua rồi xuân lại đến Phụng về múa hát, Hạt chơi mây Thôn quê thành thị, qua thời khốn Thái bình đầm ấm, cánh cò bay Độc lập Âu ca niềm hạnh phúc Non xanh nước biếc sắc hương đầy Kiếp vận xoay vần cơ tạo hóa Hết suy tới thịnh vốn xưa nay. Hùng Huy Vương lâm triều, bá Quan văn võ vào chầu đủ mặt, ai nấy nét mặt đầy hân hoan rạng rỡ. Quan Lạc Hầu Thượng Thư tâu rằng: Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Đoàn quân Thánh Gióng sau khi đánh tan quân giặc thời không trở về làng nữa mà tất cả lần lượt biến mất bay về Trời. Cả Triều Đình nghe Quan Lạc Hầu Thượng Thư tâu như thế ai nấy cũng đều sửng sốt: Có chuyện như thế sao? Quan Lạc Hầu Thượng Thư cũng đang trải qua cơn xúc động ngừng giây lát rồi đọc tiếp: Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Như ba anh em nhà Ba Chạ, ở Làng Môi, Làng Mòi. Đàn trẻ chăn trâu ở Hội Xá. Hai người câu cá trên Sông Hồng. Những người thợ săn. Anh em sinh đôi làm ruộng. Những người trồng tre phi theo Gióng rồi lần lượt biến mất. Nhiều người trông thấy đàn trẻ chăn trâu ở Hội Xá, cũng như các vùng lân cận ở Hội Xá sau khi đánh tan giặc Ân phi ngựa về núi Trâu rồi tất cả đều biến đi đâu mất. Năm anh em cùng sanh ra trong một bọc ngũ tài Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ phi ngựa về núi ngũ hành biến mất. 35 người trai tráng khỏe mạnh Làng Y Na không theo năm anh em Ngũ Hành hiện đang thống lãnh quân binh trấn giữ biên giới Bắc Văn Lang. Ông Trấn, Ông Trâu, Ông Bạch Sam, phi ngựa lên núi Tiên Du biến mất. Đàn Hổ, đàn Voi, đàn Sư Tử, đàn Chim Ưng, cũng biến mất theo. Hai anh em Chủ Soái, Nguyên Dực Nguyên Minh sau khi đánh tan quân giặc ngoại xâm phi ngựa theo Gióng đến Ngô Hạ, núi Độc biến mất. Còn Gióng phi ngựa lên núi Sóc Sơn về trời. Cả Triều Đình nghe Quan Lạc Hầu Thượng Thư tấu trình những kỳ tích đánh tan giặc Ân, giặc Hồ, giặc Hung Nô chỉ trong vòng có ba ngày tiêu diệt hơn 90 vạn quân đã là kinh hồn bạt vía, lại nghe đoàn quân của Gióng lần lượt biến mất bay về Trời, chuyện lạ đời từ trước đến nay chưa từng có. Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ: Mẹ Gióng quê ở Làng Phù, tên là Thị, tên thường gọi là bà Phù Thị. Phù Thị mang thai Gióng ở Làng Đổng, khi bà Phù Thị sanh ra Gióng, bà đặt tên cho Gióng là Phù Đổng, có nghĩa là liên kết hai làng, Làng Phù và Làng Đổng, những gì liên quan về Gióng, Thần cùng các Quan cộng sự làm việc cật lực thu thập thông tin Thần đã báo cáo lên Bệ Hạ, xin Bệ Hạ phán xét phong Quan tiến Chức cho những người có công đối với non sông Tổ Quốc. Hùng Huy Vương nói: Quân Gióng là quân nhà Trời đầu thai mượn xác trần, cứu non sông Tổ Quốc Văn Lang, xong nhiệm vụ tất cả đều đồng loạt về Trời, bỏ lại xác trần một cách bí mật, không ai có thể biết được. Đến lúc bấy giờ Hùng Lang Công ở Kinh Đô hợp phố Giao Chỉ Bắc Văn Lang từ chỗ ngồi đứng dậy, bước ra dâng tấu sớ những người có công đánh đuổi ngoại xâm vì nước vì dâng lên Hùng Huy Vương, xin lãnh ý chỉ Quốc Vương phong Quan tiến Chức, cho những người còn sống cũng như những người đã chết, cũng như ổn định lại Bắc Văn Lang trải qua một thời gian dài bất ổn. Hùng Huy Vương nhận tất cả tấu sớ rồi bãi Triều, rạng ngày hôm sau Hùng Huy Vương lâm Triều. Bá Quan Văn Võ đủ mặt tung hô vạn tuế. Hùng Huy Vương truyền chỉ. Quan Lạc Hầu Thượng Thư đọc chiếu chỉ phong ấn sắc lần lượt như sau: – Trước truy phong Gióng, với công lao to lớn đánh tan quân giặc ngoại xâm, cứu dân cứu nước. Sắc phong Thánh Gióng, Phù Đổng Thiên Vương, và cho lập đền thờ ở quê nhà hai làng, làng Phù và làng Đổng cúng tế hàng năm. – Sắc phong Phù Thị mẹ của Gióng, Thánh Mẫu, được phụng dưỡng ngang hàng với bậc Quốc Mẫu Nương Nương, khi qua đời được lập đền thờ ở cạnh đền thờ của Gióng. – Truy phong năm anh em ngũ tài, có công đánh tan quân xâm lược cứu dân cứu nước. Sắc phong ngũ Thánh, Kim Thánh, Mộc Thánh, Thủy Thánh, Hỏa Thánh, Thổ Thánh, lập đền thờ nơi làng Y Na, hàng năm cúng tế. – Truy phong đàn trẻ chăn trâu, ở Hội Xá, cũng như đàn trẻ chăn trâu các vùng lân cận Hội Xá, có công cứu dân cứu nước đánh tan quân xâm lược rồi phi về núi Trâu biến mất, sắc phong Thiên Binh quân Trời, lập dinh thờ khắp nơi cúng Tế hàng năm. – Truy phong ba anh em nhà Ba Chạ, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược cứu dân cứu nước. Sắc phong Tam Quan Trung Thần, được lập đình miếu cúng tế hàng năm. – Truy phong hai người câu cá trên sông Hồng, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong Nhị Ngư Trung Thần, được xây đình miếu trên sông tế lễ hàng năm. – Truy phong những người thợ săn, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược. Sắc phong Sơn Linh Trung Thần, được xây đình, miếu, cúng tế hàng năm. – Truy phong những người làm ruộng, những người trồng tre, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong Nông Linh Trung Thần, lập đình, miếu, thờ phụng khắp nơi, cúng tế hàng năm. – Truy phong đàn hổ, đàn voi, đàn sư tử, đàn chim ưng, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong, Hổ Thần, Voi Thần, Sư Tử Thần, Chim Ưng Thần, được lập miếu thờ khắp nơi cúng tế hàng năm. – Truy phong hai anh em chủ soái Nguyên Dực, Nguyên Minh, có công theo Gióng đánh tan quân xâm lược, cứu dân cứu nước. Sắc phong Nhị Linh Trung Thánh, được lập đền thờ tại Ngô Hạ núi Độc, thờ cúng hàng năm. Đọc xong chiếu chỉ sắc phong những người theo Gióng về Trời xong, trở về chỗ ngồi, thời kế tiếp Hùng Lang Công đọc chiếu chỉ phong ấn sắc thứ hai. Hùng Lang Công đọc chỉ ấn sắc rằng: Những người có công đánh tan quân xâm lược, cũng như có công chống trả lại quân thù, cứu dân cứu nước, người sống cũng như người chết, được tăng phẩm vị lên ba cấp, phong cho đất đai trăm mẫu, hưởng bổng lộc theo luật định của Triều Đình, những Châu Phủ, Quận Huyện, chưa có người bổ nhiệm chủ quản, theo chiếu chỉ phong chức sắc bổ nhiệm về nơi đó mà nhận chức, Quan Phủ, nhận chức Bố Chính. – Truy phong Cao Hải, có công theo Gióng đánh tan quân thù cứu dân cứu nước, phong lên hàng Vương, Cao Đại Vương. Sắc phong chủ quản Bộ Châu Diên, bảy Châu, bảy mươi Quận Huyện. – Truy phong các Tướng Lĩnh, cố thủ cung thành, cũng như các Tướng Lĩnh theo Gióng đánh tan quân xâm lược, được phong lên ba cấp. Sắc phong: Hàng Tướng bổ nhiệm về các Châu, Tử Dương Châu, Bắc Giang Châu, Lạc Giang Châu, Dương Giao Châu, Kinh Giao Châu, Tây Giang Châu, Tây Tây Châu, Hạ Tây Châu, Giao Giao Châu, Quý Linh Giao Châu, Thất Khê Châu, Đình Hải Châu, Cái Hải Châu, Phúc Hải Châu, Đông Giao Châu, Hạ Hải Châu, Liễu Giao Châu, Lạc Trung Châu, Hạt Linh Châu, Quế Điền Châu, Hợp Linh Châu, v. V.. còn nhiều các Châu khác nữa có hơn 30 Châu 200 mấy chục Quận Huyện. Hàng phó Tướng bổ nhiệm về các Quận Huyện, hàng trưởng đội, phó đội bổ nhiệm về các làng Xã. Hai tháng sau Cao Hải thành hôn với Lạc Kim Tiên, hôn lễ vô cùng long trọng, sanh con đẻ cái đầy đàn. Nước Văn Lang thái bình độc lập, hưng thịnh hơn 300 năm thời có biến loạn trở lại. Muốn biết sự biến loạn đó ra làm sao? Nước Văn Lang sẽ như thế nào? Mời các bạn xem tiếp Văn Lang chiến sự ở các giai đoạn khác, ở vào giai đoạn cuối thời các Vua Hùng thời sẽ rõ. TRANG SỬ Văn Lang chiến sự khép lại kết thúc Xóm dừa nhìn bãi dâu xanh Gió thu ru nhẹ lá cành làng quê Cánh cò bay lả bay la Bay qua xốm nước bờ tre ruộng đồng Trâu nhìn đò chạy trên sông Mục đồng chăm chú nhìn trông cánh diều Khói lam tìm ánh nắng chiều Đàn chim nhẹ cánh tìm về núi non Bao la trời nhớ đất thương Non xanh nước biết vấn vương đất trời Ánh trăng vằng vặc đêm về À ơi tiếng hát ngọt lành mẹ ru Ánh đèn soi dáng người thân Sạm đen vì bởi gió sương tháng ngày Đêm về nhớ ánh trăng đầy Nhớ hừng đông dậy nhớ gà báo tin Gâu gâu chó hỏi người đi Vườn cà làng Đổng có ai giữ gìn Người rằng! Có một người hiền Tên là Phù Thị một mình không con Lâu rồi ở với Đức ông Vườn cà chăm sóc sớm hôm kể gì Nết na tứ Đức ai bì Người tuy xấu xí lòng đầy ngọc châu Lòng vàng cứ mãi bay xa Đến tai Thượng Đế Trời Cha Chúa Trời Huyền cơ chuyển biến đến người Long Vương Sùng Lãm xuống trần đầu thai Vườn cà để lại dấu chân Phù Thị dẫm phải tượng lần bào thai Huyền cơ chuyển vận éo le Phúc họa, họa phúc có ai nghĩ lường Sau đây là chuyện của người Sử Kinh để lại cho người xem coi Sử Kinh là tấm gương soi Cho bao thế hệ đời sau răng mình. LỊCH SỬ VỀ PHÙ ĐỔNG ĐẾN ĐÂY LÀ KẾT THÚC CHỦ BÚT: NGUYỄN ĐỨC THÔNG
QUỐC BẢO CHÂN KINH VĂN LANG CHIẾN SỰ III THIÊN ẤN THIÊN BÚT GÒ HỘI ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI 2013 Nguyễn Đức Thông LỜI MỞ ĐẦU Bấm để xem Nói về Quốc Tổ Hùng Vương. Cùng Bách Việt khai dựng lập lên nước Văn Lang hùng mạnh rộng lớn. Giết chết ba con Yêu Tinh Quỉ dữ. Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh, cùng vô số Tướng Lĩnh Yêu Tinh. Cũng như con cái, cháu, chắt, chút, chít, của ba con Chúa Tể Yêu Tinh lên đến hàng vạn vạn. Vì thế con cháu Văn Lang là mối thù truyền kiếp của chúng có cơ hội là chúng hãm hại. Không bằng cách nầy cũng bằng cách khác. Nhất là ở các giai đoạn thời kỳ cuối các thời Hạ Hùng Vương. Thời kỳ mạt pháp Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Nền Quốc Đạo biến mất, các quyền cơ bản con người cũng mất theo. Nước Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm, dân chúng lạc vào tà ma ác đạo. Nguy hiểm nhất là Linh Hồn ba con chúa tinh ác Quỷ cũng như con cái cháu chắt của chúng đầu thai làm người không những ở Phương Bắc Nhà Chu, mà còn đầu thai ở Bắc Văn Lang, có cơ hội là chuyển xây tình thế hãm hại con cháu Tiên Rồng nhân loại Đồng Bào nói chung, con cháu Văn Lang nói riêng. Gây ra bao thảm cảnh tang thương chết chóc chiến tranh loạn lạc cùng khắp. Nhất là cảnh chiến tranh tương tàn nồi da nấu thịt ở dân tộc Văn Lang. Chúng không để yên cho Bách Việt Văn Lang hưởng thái bình an lạc nhất là những cuộc nổi lên nội chiến kinh hồn. Dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng, con dân Quốc Tổ Vua Hùng phải chịu cảnh Đồng Bào nồi da nấu thịt. Ác Quỉ giành lấy chính quyền biến dân tộc Văn Lang thành dân tộc nô lệ dưới sự dày xéo nanh vuốt của chúng. Sức mạnh của Loài Ác Quỉ là chúng đầu thai làm người Phương Bắc chuyển xây tình thế xua quân xâm lược Phương Nam. Làm cho đất nước Văn Lang đầu rơi máu đổ. Chiến Tranh đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Nhất là sự lừa dối cũng như sự độc tài độc trị tàn bạo cai trị thảm khốc của chúng. Có khi chúng sanh ra trên đất nước Văn Lang. Rồi tạo lên cảnh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, biến Bắc Văn Lang trở thành Trung Thổ Trung nguyên. Nước Văn Lang Bắc Nam chinh chiến. Dân tộc Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng con dâng Vua Hùng tàn sát lẫn nhau. Gây ra cảnh Đồng Bào tương tàn. Cha con anh em, dòng họ chém giết lẫn nhau nhà tan cửa nát. Chúng đầu độc Văn Hóa ảo tưởng, nhất là Văn Hóa mê tín dị đoan, chúng nhập đồng nhập xác nói ra những điều xàm bậy làm mê muội con người. Lũ ác Quỉ lạm dụng ngôn từ trau chuốt bóng bẩy đầu độc dân chúng nhất là văn hóa Thần Quyền tôn thờ Thần Thú, Cầm Thú, Thần Vật làm cho dân chúng quên Cội quên Nguồn. Quên đi truyền thống Nguồn Cội anh linh Tiên Rồng Dân Tộc. Làm cho xã hội luôn đi vào hỗn loạn xuống cấp đạo đức chỉ biết tranh hơn, tranh thua hận thù tham lam tàn bạo. Chậm phát triển dẫn đến đói nghèo lạc hậu. Chiến tranh triền miên dân chúng luôn rơi vào cảnh khốn khổ nhiều mặt tinh thần lẫn vật chất, nhất là về mặt độc tài độc trị hết sức tàn bạo. Với phép thuật thần thông đa ngôn xảo ngữ của các loài Yêu tinh Quỉ dữ đầu thai chuyển kiếp làm người chúng gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn, đã đánh lừa được lòng ham muốn của con người. Đánh lừa được Bách Việt Bắc Văn Lang. Nhất là những giai cấp khốn khổ chạy giặc từ Phương Bắc di cư sang Bắc Văn Lang. Bọn ác Quỉ Cha Con Doãn Thường đêm trăm nghìn cái lợi dụ dỗ dân chúng. Lợi thì như núi non biển cả nhưng không còn cái răng để mà ăn. Vì mất tất cả không những về vật chất mà còn lẫn cả tinh thần, thậm chí những quyền cơ bản con người như quyền sanh sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc không còn. Chỉ biết than trời khóc đất. Những loài ác Quỉ sanh ra làm người lợi dụng lòng tin nơi chúng dân. Chúng hiện thân ra như một đấng con Trời lên ngôi Thiên Tử. Chúng muốn dân chết là chết, cho dân sống là sống không ai dám cải chỉ biết răm rắp nghe theo tin theo. Nhưng chúng không hiểu một điều, đã là Thiên Tử con Trời thời không tàn sát sanh linh nhất là con người. Luôn đem lại sự công bằng bình đẳng cho con người bảo vệ những quyền thiêng liêng con người mà Tạo Hóa đã ban cho. Những quyền bất khả xâm phạm. Thiên Tử Con Trời thời sống theo Thiên ý Cha Trời Thiên luật Vũ Trụ không tạo ra cái cảnh nồi da nấu thịt, mà luôn đem lại hòa bình thịnh vượng cho muôn dân. Thiên Tử Con Trời không có cảnh đi xâm lược mà luôn luôn tôn trọng chủ quyền độc lập của nhau hòa hiếu lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời cũng có sự cạnh tranh nhưng sự cạnh tranh công bằng bình đẳng thi đua tiến hóa vương lên đỉnh cao của thời đại theo khuôn khổ Hiến Pháp Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính cho phép. Không phải cạnh tranh hủy diệt lẫn nhau, thôn tính lẫn nhau. Thiên Tử Con Trời không có cảnh độc tài độc trị độc bá thiên hạ tranh giành thiên hạ, biến thiên hạ vào cảnh nô lệ, cướp đất đai thuộc địa gây ra cảnh chiến tranh đầu rơi máu đổ. Những kẻ đầy lòng dã tâm tham vọng mưu đồ xưng vương xưng bá không phải Thiên Tử con Trời, mà chỉ là Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai. Bành trướng tham tàn ác bá độc tài đọc trị chém giết đồng loại đây chỉ là những kẻ ngụy Thiên Tử tự xưng là con Trời hầu lừa bịp dân chúng. Thật ra những Thiên Tử tự xưng giả hiệu nầy chỉ là những kẻ thắng xưng là Vua thua cho là Giặc Xem đi xét lại Giặc với vua cũng chỉ là một thứ chẳng khác gì nhau. Những Thiên Tử tự xưng giả hiệu con Trời đầy rẫy trong thời đại Phong Kiến. Nhất là thời đại Phong kiến Thần Giáo. Phong Kiến Địa Chủ, Phong Kiến Vua, Chúa. Nhờ vào phép thuật tu luyện hàng nghìn năm trở thành đa ngôn xảo ngữ lừa dối con người dẫn con người vào con đường tối tăm không biết đâu là phải trái Thiện ác. Như Cha Con Doãn Thường chẳng hạn sử dụng từ ngữ bóng bẩy lời nào cũng có lợi cho dân. Để đánh lừa được lòng ham muốn con người. Biến giả thành chân. Che đậy lớp vỏ bọc bên ngoài. Che đậy sự tham lam tàn bạo nanh vuốt của loài ác Quỉ. Chúng gây ra cho con cháu Tiên Rồng Bách Việt Dân Tộc Văn Lang bao cảnh chiến tranh nồi da nấu thịt, hết nô lệ nầy đến nô lệ khác, hết thời kỳ khốn khổ nầy đến thời kỳ khốn khổ khác làm tiêu tan đất nước Văn Lang Từ thời gần cuối Nhà Chu. Kéo dài cho đến ngày nay hơn hai nghìn năm mấy trăm năm. Sự lạm sát của những loài Ác Quỉ giết hại con người quá lớn. Làm kinh động đến các Tầng Trời. Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa. Vì thương nhân loại Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần. Diệt trừ Yêu Tinh Quỉ dữ trừ hậu họa cho con người. Nhưng diệt được ác quỉ nầy thời liền mọc ra ác Quỉ khác. Thái bình thịnh trị không được bao lâu thời chiến tranh loạn lạc trở lại. Làm khốn khổ con cháu Tiên Rồng. Dân Tộc Văn Lang hết nghìn năm nầy đến nghìn năm khác. Nhất là các thời kỳ cuối thời Hạ Hùng Vương. Từ thời thứ 13 Hùng Việt Vương: Tuân Lang: 569 đến 506 trước công nguyên. Trở xuống đến thời Hùng Duệ Vương: Huệ Lang thứ 18 cuối thời Hạ Hùng Vương 306. Rồi đến thời Âu Lạc 258 trước công nguyên. Khốn khổ kéo dài cho đến tận ngày nay. Trong các cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng quân thù. Thời chiến tranh xâm lược Văn Hóa là độc hại nhất Nguy hiểm nhất. Nhất là thứ Văn Hóa làm cho con người mất đi tự chủ. Mất đi truyền thống anh linh dân tộc Lạc Cội Lạc Nguồn. Làm cho dân tộc rã rời đoàn kết. Đạo đức xuống cấp đánh mất lương tâm con người. Làm cho con người không phân biệt được đâu là đúng sai nữa. Thậm chí anh em tàn sát nhau mà vẫn cho là đúng, mà còn cho đó là vinh. Cái vinh đáng sợ làm sao một nhát đao chém xuống anh em vui mừng chiến thắng. Sự sai lầm nào cũng phải có ngày tỉnh ngộ chấm dứt, sự khô cằn nào cũng phải có ngày đâm chồi nẩy lộc. Dân tộc Việt Nam khốn khổ bao nhiêu thời vui sướng lại bấy nhiêu. Văn Hóa Cội Nguồn xuất hiện thời Chân – Giả, Trắng – Đen, Chính Nghĩa – Phi Nghĩa sáng tỏ. Mặt Trời Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời thời nhân loại mới đi vào ổn định bình yên kéo dài rất lâu có thể nói thế giới nhân loại đi vào cảnh thiên đàng cực lạc trần gian nói chung Việt Nam nói riêng trong một niềm vui thái bình thịnh trị an lạc. Trên mảnh đất Địa Long Vũ Trụ hình chữ S tức là nước Việt Nam Con Cháu Rồng Tiên sẽ nở hoa Chánh Đẳng Chánh Giác. Tiến tới Chủ nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ đại đồng Long Hoa hội tụ. Rồng Tiên Tỏa Sáng ra đời. Quốc Tổ Vua Hùng. Dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam chóa ngời rạng danh khắp cùng thế giới. Việt Nam chữ S đất phù sa Nằm giữa Âm – Dương Cốt Long Hoa Thánh Địa anh linh từ muôn thuở Bừng lên rực rỡ khắp hà sa Văn Hóa Rồng tiên Đường Chính Nghĩa Cội Nguồn tỏ rạng Cội Ông Cha Bổn phận thế thiên hành phụng sự Thái bình an lạc khắp Âu Ca. * * * Sống trên Địa Cốt Long Hoa Phải là Thiên Sứ cho nhà Rồng Tiên Trời ban Đất Việt Linh Thiêng Tiên Rồng nòi giống uy quyền từ đây. * * * Ở cuối thời đại Kinh Dương Vương. Hùng Vương Quốc Tổ ra đời từ Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo. Chuyển sang giai đoạn Văn Hóa Cội Nguồn Thánh Giáo. Trong triều nội Vua không làm theo ý các Triều Thần. MÀ CHỈ LÀM THEO HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP điều hành đất nước. Có nghĩa là xóa bỏ đi Độc Tài Độc Trị không làm theo ý kiến cá nhân, cũng như nghe Triều Thần mà chỉ làm theo HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền QUỐC ĐẠO bí mật của Triều Đại Văn Lang. Nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Không truyền xuống dân, mà chỉ truyền xuống Vương Quan lấy đó để trị dân, dạy dân. Ở vào thời đó chữ viết còn quá thô sơ lạc hậu. Nên không thể lưu chép thành Kinh Văn được. Nên dẫn đến tam sao thất bổn HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP, dần dần biến mất. Nước Văn Lang mất đi nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang liền trở về thời Phong Kiến Thần Giáo. Như thời đại Kinh Dương Vương chẳng khác gì Phong Kiến Thần Giáo, cũng như Phong Kiến Vua, Chúa ở Phương Bắc kéo dài hơn 10 nghìn năm trong các thời kỳ Phong Kiến. Nói tóm lại: Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị. Phong Kiến Vua Chúa độc tài độc trị là những lập luận giáo điều của mỗi cá nhân các Triều Thần mà Vua thường nghe theo và làm theo. Còn Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Thánh Giáo không dựa trên ý tưởng riêng mỗi người để tâu lên vua. Mà là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. THIÊN LUẬT TẠO HÓA không ai có quyền tự đặc ra hoặc hủy diệt đi. THIÊN LUẬT TỰ NHIÊN VŨ TRỤ chính là nền Quốc Đạo dân tộc Văn Lang. Mà các Vua Hùng lấy đó thay nhau làm nền tảng cho sự trị quốc. Đã là Thiên Tử con Trời thời phải thuận theo Thiên Luật vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời sống theo Văn Hóa Cội Nguồn, luôn bảo vệ quyền con người quyền thiêng liêng Tạo Hóa đã ban cho. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp công bằng bình đẳng ai cũng như ai. Không có cảnh độc tài độc trị tốm thâu quyền lực lạm sát vô tội. * * * PHẦN 1 Sau thời Phù Đổng Thiên Vương hơn ba trăm năm mươi năm thời Cha Con Doãn Thường, nổi lên làm một cuộc chính trị tài tình nuốt trọn toàn bộ Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ ở thời Kinh Dương Vương. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang Chia cắt đất nước Văn Lang ra làm hai. Bắc Văn Lang Cha Con Doãn Thường cai quản thống trị. Chỉ còn lại Trung – Nam Văn Lang Hùng Việt Vương. Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương cai quản thống trị 569 đến 506 trước công nguyên. Mở ra thời đại đen tối cho con cháu Tiên Rồng. Đất nước Văn Lang đi vào cảnh Bách Việt nồi da nấu thịt. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng là Việt Vương. Vì dân tộc Văn Lang là dân tộc Bách Việt, muốn hợp lòng dân thời Cha Con Doãn Thường phải xưng Việt Vương, Vua Việt, thời dân chúng bách Việt mới theo về che chở bảo vệ. Có thể nói Cha Con Doãn Thường rất thông minh lại có mưu đồ lớn nuốt trọn nước Văn Lang lật đổ thời đại Hùng Vương, thay thế thời đại Việt Vương. Vì thế Hùng Việt Vương, Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khốn đốn trước sự khôn ngoan của Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Mà không cách gì lấy lại Bắc Văn Lang được. Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Ông Cha từ Phương Bắc di cư đến đất Cối Kê Bắc Văn Lang sanh sống trải qua 30 đời. Đến đời Doãn Thường thời dòng họ Vũ nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Việt Vương, không phải dòng dõi Vua Hùng. Bắc Văn Lang chính là nước Xích Quỷ chín đời Kinh Dương Vương nối tiếp nhau trị quốc một đất nước giàu có không những giàu có về vàng bạc ngọc ngà châu báu, mà giàu có về lương thực nhất là văn minh lúa nước. Cũng vì sự giàu có nầy mà luôn gặp phải mối họa về xâm lược của các thế lực ngoại xâm. Cũng như những tay lòng đầy dã tâm tham lam nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang nước Xích Quỷ làm của riêng cho mình như Cha Con Doãn Thường biến Bắc Văn Lang thành một thuộc địa Việt Trung Nguyên, sau nầy Việt Trung Nguyên chuyển đổi thành Trung Quốc. Vì Sao Bắc Văn Lang trở thành Việt Trung Nguyên? Là vì cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang xưng Vương ở giữa. Nam có Hùng Vương. Bắc có Chu Vương. Giữa có Việt Vương. Kể từ khi Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm toàn bộ Bắc Văn Lang, thời danh từ thuộc địa Việt Trung Nguyên mới ra đời. Từ đó Bắc Văn Lang dần dần biến mất thay thế danh từ Trung Nguyên. Bắc Văn Lang không còn nữa. Chỉ nghe đến danh từ Trung Nguyên mà thôi. Bắc Văn Lang vốn là nước Xích Quỷ giàu có trù phú vô cùng dân số lại đông lên nhanh chóng không có nơi nào sánh kịp. Là do dân Phương Bắc di cư đến ở vào các thời kỳ Nhà Hạ, Nhà Thương, Nhà Ân, Nhà Chu. Phương Bắc không ổn định như Phương Nam Văn Lang chiến tranh loạn lạc truyền miên. Dân chúng lánh nạn chiến tranh di cư đến Bắc Văn Lang sanh sống đông vô số đây chính là cơ hội thuận lợi cho Cha Con Doãn Thường có nguồn gốc Phương Bắc nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Hùng Việt Vương, Tuân Lang, rất khó tiêu diệt được vì Cha Con Doãn Thường quá khôn khéo biết dùng hình ảnh Quốc Tổ Hùng Vương làm bức bình phong che chắn cho sự dã tâm nổi lên chiếm lấy Bắc Lang xưng Việt Vương. Cha Con Doãn Thường trở thành dân tộc Văn Lang Bách Việt, trải qua nhiều đời. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang không thể liệt Cha Con Doãn Thường là giặc ngoại xâm được. Mà chỉ coi Cha Con Doãn Thường là quân phản loạn. Trong khi phần lớn dân Bắc Văn Lang đồng tình ủng hộ cuộc nổi dậy cha Con Doãn Thường. Vì cho Cha Con Doãn Thường là dòng giỏi các Vua Hùng tái sanh chấn hưng lại nước Văn Lang xóa bỏ độc tài độc trị cũng như tham quan ô loại đem lại sự công bằng bình đẳng cho muôn dân, như thời Quốc Tổ dựng nước. Nên Hùng Việt Vương, Tuân Lang khó mà đánh bại được. Chỉ còn một cách là Nam Bắc phân tranh mà thôi cũng từ đây dân tộc Bách Việt Văn Lang nội chiến đầu rơi máu đổ nồi da nấu thịt Nam – Bắc phân tranh vô cùng khốc liệt. Loài ác quỉ chưa vì thế mà dừng tay tiếp tục hảm hại dân tộc Văn Lang con cháu Tiên Rồng hơn hai nghìn năm. Ở vào thời điểm nầy Phương Nam Hùng Vương. Phương Bắc Nhà Chu. Không khác gì nhau. Duy trì chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo. Có nghĩa Vua nghe theo Triều Thần. Làm Theo Triều Thần. Cũng cố sự Độc Tài Độc Trị. Cha Con Doãn Thường khôn ngoan hiểu rõ sự thống khổ của dân dưới thể chế Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo đã trải qua hàng nghìn nghìn năm. Cha Con Doãn Thường nghiên cứu rất kỷ về thời đại Hùng Vương dựa trên cơ sở nào mà kéo dài sự độc lập lâu như vậy. Và đã phát hiện sự kéo dài sự Độc Lập đó. Không phải dựa trên cơ sở Phong Kiến Thần giáo nghe theo triều Thần, lấy cơ sở Triều Thần trị quốc. Mà là có một nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP rõ ràng. Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đó. Tức là nền Quốc Đạo Dân Tộc ai cũng như ai Bình Đẳng, Xã Hội Công Bằng Dân Chủ Văn Minh. Một nhà nước lấy Dân làm Gốc, Dân Chủ: Dân có quyền, khác với thể chế Phong Kiến Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Thể chế của sự xin cho. Mà là Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Như thời Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên Nhà Nước Văn Lang. Nhưng Cha Con Doãn Thường lại không hiểu một điều Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên Nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh. Không phải dựa trên chiến tranh gươm đao giáo mác. Tàn sát lẫn nhau mạnh được yếu thua. Thắng là Vua, thua là Giặc xem đi xét lại giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà là dựng nước Văn Lang rộng lớn hùng mạnh dựa trên Quyền Con Người Công Bằng Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn trở thành nền Quốc Đạo dân tộc thịnh trị 2701 năm. Văn Hóa Mặt Trời Chánh Đẳng Chánh Giác. Văn Hóa Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng. Văn Hóa Công Bằng, Bình Đẳng, Tự Do Dân quyền văn minh. Vua TỐI CAO của Nước Văn Lang không phải là người khai lên Nước Văn Lang, mà chính là nền HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP. Nền quốc Đạo Dân Tộc VUA, QUAN, DÂN đều tôn thờ. Đây là điều bí mật kéo dài Độc Lập của Nước Văn Lang. Cha Con Doãn Thường không thể nào với tới nổi. Những bí mật cao siêu như vậy. Cứ Nghĩ Vua là trên hết, mà không hiểu có một thứ trên cả Vua. Đó là Thiên Luật Vũ Trụ. Cũng Chính là Thiên Ý Cha Trời, cũng chính là Lương Tâm con người, hiện thân HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP mà Quốc Tổ Vua Hùng dùng nó để khai dựng lập lên Nước Văn Lang. Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng vũ lực thắng là Vua thua cho là giặc. Mà bằng con đường Văn Hóa Cội nguồn cũng chính là nền Hiến Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác tối cao Vũ Trụ. Văn Hóa mặt trời trí tuệ soi sáng cho Bách Việt Văn Lang. Mất văn Hóa Cội Nguồn thời dân tộc Văn Lang cũng theo đó mà tan rã. Bóng u minh trùm xuống chiến tranh loạn lạc triền miên. Yêu Tinh Quỉ dữ đầu thai làm người chuyển xây tình thế tàn hại con người nói chung dân tộc văn Lang con cháu Tiên Rồng lạc vào con đường ác đạo hầu hết sa đọa xuống các tầng Địa Phủ. Và cho đến khi nào dân tộc Việt Nam sắp đi vào đại họa diệt vong mất nước thời anh linh Quốc Tổ Vua Hùng sẽ xuất hiện cứu nguy dân tộc Việt Nam tiêu diệt ba con chúa quỉ không cho chúng ngự trị hình chữ S Địa Long Vũ Trụ tức là nước Việt Nam ngày nay. * * *
PHẦN 2 Bấm để xem Ông Bà Cha Con Doãn Thường khởi nguồn từ dòng dõi Vua Vũ. Con thứ hai của Vua Thiếu Khang đời Nhà Hạ. Phương Bắc. Đến đời Vua Kiệt Nhà Hạ. Vua Kiệt đắm say tửu sắc, lại bất trí, không biết dùng người tài. Nghe lời dua mị của nịnh thần. Chinh phạt các nước. Vua Vũ bị Vua Kiệt Nhà Hạ tri sát. Vua Vũ dẫn gia quyến vợ con, người thân cũng như các quan tướng có trên cả trăm người trốn vào Phương Nam giả làm dân thường đến Bắc Văn Lang Sanh Sống rải rác nhiều nhất là ở đất Cối Kê. Vua Vũ đến ở Bắc Văn Lang đất Cối Kê, mang theo vàng bạc châu báu nhiều vô số kể. Nên Vua Vũ mua rất nhiều ruộng đất trở nên giàu có không khác gì những người giàu có nhất Bắc Văn Lang. Không những thế Vua Vũ còn giúp đỡ những các quan tướng đi theo mình ở rải rác khắp đất Bắc Văn Lang cũng trở nên giàu có. Nhờ sự giàu có chỉ nội trong đời Vua Vũ đã nhập tịch dòng họ con cháu thành dân Bắc Văn Lang chính thống. Theo số đông dân Lạc Việt – Âu Việt, Vua Vũ truyền bá những người đi theo mình, cắt tóc, xăm mình, trở thành dân Âu, dân Việt. Nhưng không sống theo phong tục tập quán của người Âu Việt, Lạc Việt. Mà di trì lối sống dung hòa Bách Việt lối sống hòa hợp lôi kéo có sự mưu đồ của riêng mình. Lối sống bí mật hình lên nghiệp Vương trong tương lai về sau trong các thời Con Cháu. Trong thời điểm ấy ở Phương Bắc Thành Thang thời nhà Hạ là người nhân đức trung hậu. Nên các nhân tài theo về rất đông. Còn Vua Kiệt thời hoang dâm vô độ, độc ác vô cùng phải nói là mất hết nhân tính con người. Tàn Sát các nước, giết hại trung thần. Bị Thành Thang đánh đổ lập lên Nhà Thương. Vu Vũ không muốn trở về đất Bắc vì thấy Bắc Văn Lang đất Giao Chỉ trù phú giàu có vô cùng có thể làm nên nghiệp bá bằng nuôi mộng cho đời sau. Sao gọi là nuôi mộng cho đời sau? Có nghĩa là di trì dòng tộc theo Văn Hóa trung hòa hơi nghiêng về phương Bắc. Hàng năm đều tổ chức hội đồng hương, luôn giúp đỡ người Phương Bắc di cư đến Bắc Văn Lang để ở. Có nghĩa là nuôi lớn cái gốc tự trị củng cố thế lực Xã Hội, cho đến khi hội tụ đủ thời cơ thời thời nổi dậy Xưng Vương. Vua Vũ cùng những quan tướng trung thần đi theo Vua Vũ đến nơi đất mới Bắc Văn Lang người nào người nấy trở nên giàu có. Không kém gì người giàu có ở bản địa dân chính gốc Bắc Văn Lang. Đến thời thứ 20 con cháu Vua Vũ có người đã làm đến Quan Trị Huyện. Đến đời thứ 30 thời con cháu Vua Vũ phần lớn là Quan Tri Huyện, có người làm đến Quan Tri Phủ. Các Con Cháu các Quan Tướng theo Vua Vũ phần nhiều là có địa vị Xã hội ở khắp đất Bắc Văn Lang và chỉ còn hội đủ thời cơ thời nổi lên xưng Vương Xưng Bá. Đến thời thứ 31 thời con cháu của Vua Vũ là Doãn Thường, làm đến chức Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Sông Lạc. Thấy tình thế Bắc Văn Lang mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo không còn. Nhà nước Văn Lang trở thành nhà nước Phong Kiến Thần Giáo. Nhà nước của sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị, Quan chức nhà nước Văn Lang phần lớn là quan lạc Cội Lạc Nguồn chỉ biết củng cố quyền lực không chăm lo mấy đến dân trở thành tham quan nổi lên khắp nước. Nhất là Bắc Văn Lang, tham Quan không những đắm say tửu sắc. Chỉ biết vàng bạc châu báu của cải vật chất. Không những thế trở thành mê tín dị đoan chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Chỉ biết Quyền Lực, Tham ô hối lộ, dẫn đến làm hại dân hại nước. Nhất là Thể Chế Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị càng ngày càng hà khắc của các vương quan tha hóa. Bách Việt Bắc Văn Lang dân chúng chán ghét Vương Quan nhà nước Văn Lang vô cùng. Không trông mong gì nhà nước Văn Lang chỉ biết nghe theo dua nịnh mơ ước có sự thay đổi, chỉ cần có một tia lửa thương dân nổi lên, thời dân ủng hộ ngay, đây chính là cơ hội cho Con Cháu Vua Vũ. Doãn Thường nổi lên xưng Vương. Bắc Văn Lang ở vào thời kỳ nầy như quả mít chín muồi của sự bùng nổ chiến tranh. Chỉ cần một tia lửa đấu tranh nổi lên đêm lại quyền lợi cho dân tức thời bùng cháy chiến tranh ngay, không cách gì dập tắt được. Nhất là Văn Hóa Cội Nguồn đã mất, Non sông Tổ Quốc Văn Lang bao trùm màng u minh. Sự đoàn kết của dân tộc không còn. Một dân tộc mất đi nguồn gốc truyền thống anh linh, đương nhiên dân tộc Văn Lang phải héo cành rũ ngọn. Cội Nguồn dòng nước truyền thống không còn đương nhiên là lòng dân đã cạn, không còn nghĩ gì đến non sông tổ quốc nữa. Mạnh ai nấy đi theo chí hướng riêng. Tất cả phần đông đều rơi vào con đường ác đạo. Có thể nói là phản bội lại non sông Tổ Quốc. Anh hùng lạc đạo không biết đâu là đúng sai nữa, cảnh nồi da nấu thịt diễn ra. Giết hại nhau để rồi lên quan lên tướng. Lấy sự chém giết nhau cho đó là vinh quang vinh dự Thiên Đàng mất lối Địa Ngục rộng mở. Thời kỳ như vậy gọi là thời kỳ mạt pháp. Chiến Tranh loạn lạc truyền miên. Hận thù chồng chất oán trả oán, thù trả thù chém giết lẫn nhau không biết bao giờ chấm dứt. Một dân tộc mất Cội mất Nguồn khó mà tiến hóa để vươn lên. Con Đường Đại Lộ Công Bằng Bình Đẳng Dân Chủ Văn Minh không còn, thay vào đó là con đường Phong Kiến Thần Giáo bảo thủ Độc Tài Độc Trị. Làm cho cuộc sống không tiến hóa được, dẫn đến đói nghèo lạc hậu. Người dân như sống trong một nhà tù lớn. Khát vọng tự do. Cha con Doãn Thường hiểu rõ điều nầy tạo lên bánh vẽ công bằng tự do, tất cả quyền lợi đêm về cho dân tuy rằng chỉ là những lời lừa phỉnh không thật. Nhưng hiệu quả vô cùng dân chúng tin theo nghe theo làm theo. Cha Con Doãn Thường dựa vào phần lớn dân chúng ủng hộ đồng tình góp công góp sức làm lên một cuộc cách mạng long trời lở đất. Chiếm lấy Bắc Văn Lang phản bội lại thời đại cuối các Vua Hùng. Theo như những gì Quốc Tổ dạy: Sự Sống của một dân tộc Văn Minh là sự sống có gốc của dân tộc đó. Sự sống mất gốc dân tộc là sự sống chết, nguy cơ trùng trùng. Nô lệ là chuyện không sao tránh khỏi dẫn đến mất luôn đất nước là chuyện không sớm thì chiều. Dân tộc Văn Lang cũng bởi vì mất đi Văn Hóa Cội Nguồn dẫn đến không biết bao nhiêu là tai hại một đất nước Văn Lang rộng lớn nếu mất đi nền Quốc Đạo dân tộc thời khó mà đoàn kết được Bách Việt. Dẫn đến mất đi Bắc Văn Lang. Rồi đến Trung Văn Lang. Chỉ còn lại Nam Văn Lang. Nếu còn tiếp tục không khôi phục lại Văn Hóa cội Nguồn. Truyền thống dựng nước Ông Cha có hơn năm nghìn năm văn hiến thời Nam Văn Lang hình chữ S nước Việt Nam cũng không thể nào giữ nổi bị giặc phương Bắc nuốt trọn. Cha con Doãn Thường mọc ra nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang cải đổi thành Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn dưng hai tay cho người Phương Bắc. Ở vào thời Chu Nguyên Vương nhà Chu. Chu Nguyên Vương phong cho Câu Tiễn làm bá chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cúi đầu vâng mệnh. Gương còn đó sờ sờ trước mắt Quên Cội Nguồn khó thoát tai ương Hỡi Việt Nam con cháu Rồng Tiên Gương lịch sử đừng quên luôn nhớ Về Cội Nguồn dựng xây truyền thống Đâm lộc cành kết quả sai hoa Theo con đường Truyền Thống Ông Cha Khôi phục lại hào hùng dân tộc Khôi phục lại văn minh Độc Lập Nền Quốc Đạo như vầng Nhật Nguyệt Mãi sáng soi con cháu Việt Nam. Văn hóa Phong Kiến Thần Giáo Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị không phải bây giờ mới có. Mà đã ra đời hơn 10 nghìn năm trước công nguyên tồn tại mãi ở Phương Bắc. Văn hóa của sự bành trướng tranh hùng tranh bá, chém giết lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau. Vô cùng tàn khốc. Nếu ai thông suốt về sử ở Phương Bắc thời đều cảm nhận được điều nầy, sự bành trướng tranh hùng tranh bá thôn tính lẫn nhau. Ăn nuốt lẫn nhau chém giết lẫn nhau thủ đoạn tàn độc, thứ Văn Hóa nầy lan tràn đến đâu thời chiến tranh tàn khốc đến đó. Sự đem lại kết quả cho Văn Hóa nầy là hận thù. Thủ đoạn, tàn độc. Nếu bị nhiễm nặng có thể nói không còn lương tri mất đi nhân tính con người. Không như Văn Hóa Cội Nguồn văn Hóa Chính Nghĩa làm cho nhân loại con người Hiển Thánh, Thánh Thiện. Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa trí tuệ. Văn Hóa của sự đoàn kết, hòa bình, thịnh vượng. Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn Chính Nghĩa là Văn Hóa mùa xuân trăm hoa đua nở. Văn Hóa mở ra cánh cửa Thiên Đàng cực lạc. Văn Hóa Phong kiến Thần Giáo Độc Tài Độc trị tồn tại mạnh ở Phương Bắc gieo rét tranh hùng tranh bá thứ Văn Hóa Mùa Đông tàn phá văn minh tinh thần làm cho con người càng trở nên ác độc. Độc tâm độc tánh hiểm ác vô cùng. Nói đến Văn Hóa Phong kiến Thần Giáo là nói đến cái độc nói chung là không gì không độc. Hiểm độc, ác độc, tàn độc, tuy có nhiều Thánh nhân ra đời. Như Khổng Tử làm giảm bớt đi cái độc của Phong Kiến Thần Giáo, Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Đưa con người đến Thánh Thiện nhưng xem ra như hạt Muối bỏ xuống ao hồ. Không mấy kết quả. Mà còn trở thành một thứ vũ khí để cho các nhà Độc Tài độc Trị Phương Bắc lợi dụng làm chính trị. Đầu độc làm hại các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam. Rơi vào cảnh nô lệ. Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng lên nhà nước Văn Lang nhà nước của dân do dân và vì Dân nhà nước tam quyền phân lập không có sự độc tài độc trị nhà nước của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp. Nhà nước Pháp quyền. Nhà nước của sự công bằng bình đẳng. Sự kéo dài độc lập thời đại Hùng vương 2701 năm Thượng Hùng Vương 23 đời. Hạ Hùng Vương 18 đời tổng cộng thời đại Hùng Vương có 41 đời. Văn Hóa Cội Nguồn không những là Văn Hóa sáng soi Đạo đức con người, Đạo đức xã hội. Mà còn là kim chỉ nam cho sự phát triển xã hội văn hóa Cội Nguồn hiển linh trở lại sáng soi dân tộc Việt Nam, có thể nói dân tộc Việt đã đến thời kỳ chuyển sang giai đoạn thời đại Thánh Đức. Văn Lang chính sử sách còn ghi Bách việt anh linh có lạ gì Đài linh vó ngựa Nam – Trung – Bắc Cội Nguồn Văn hóa một đề thi Văn Lang Bách việt Tàn sát lẫn nhau Nguyên cớ vì đâu? Cội Nguồn biến mất Đi vào nội chiến Trăm khổ nghìn sầu Những ai quên mất Cội Nguồn Lạc vào ác đạo hết đường hồi quy Thiên đàng đã mất lối đi Muôn đời sa đọa âm ty nghìn trùng. * * * PHẦN 3 Ở vào thời Phong Kiến Thần Giáo thời Nhà Chu. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Đến thời Chu Lệ Vương thời nội triều Phong Kiến Thần Giáo con cháu Nhà Chu tranh giành quyền lực. Anh Em chém giết lẫn nhau, triều chính hỗn loạn. Chu Lệ Vương chạy trốn sang đất Trệ. Các Quần Thần Phong Kiến Thần Giáo Nhà Chu trong cảnh triều ca không Vương. Bằng hợp nhau thi hành chính sự Cộng Hòa điều hành đất nước Phương Bắc Nhà Chu đi đến hỗn loạn. Các Trấn Chư Hầu nổi lên tranh bá lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau chiến tranh loạn lạc. Phong Kiến Thần Giáo Quần Thần Nhà Chu, lập Chu Tuyên Vương chỉnh đốn lại Nhà Chu. Khi ấy ở nước Tề. Tề Lệ Công được lập. Lệ Công vô cùng bạo ngược. Nghe lời xàm tấu nịnh hót tham quan ô loại. Nội chính thời giết Trung Thần. Ngoại chính thời chinh phạt các nước làm cho Phương Bắc chiến tranh thôn tính lẫn nhau ăn nuốt lẫn nhau dữ dội. Mạnh được yếu thua thắng là Vua. Thua là giặc. Xem đi xét lại giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Ai có nhiều nhân tài biết đội lớp nhân nghĩa. Mưu mô xảo quyệt hơn thời thắng. Xưng Vua, Xưng Chúa. Xưng Bá. Không như phương Nam nước Văn Lang dân chúng sống theo Thánh Đức Thánh Giáo. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc thái bình an lạc. Kéo dài hơn mấy nghìn năm. Đều đáng chú ý ở đây: Thánh Đức, Thánh Giáo khác với Phong Kiến Thần Giáo Là ở chỗ Thánh Đức Thánh Giáo. Vua, Quan, Dân, đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nền Quốc Đạo dân tộc. Còn Phong Kiến Thần Giáo là Triều Thần bao hàm cả Trung Thần, Nịnh Thần tâu lên Vua. Vua nghe theo đó mà hành sự. Mới có cảnh Nịnh Thần hãm hại Trung Thần. Trung Thần can gián Vua Làm Bậy liền bị xử tử. Còn Thánh Đức Thánh Giáo không phải như thế. Tất cả Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng Bình Đẳng Văn Minh. Chỉ bỏ tù hoặc xử tử những người có tội vi phạm luật pháp. Dù cho đó là Vương, Quan. Những người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thời bị xử theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo của nhà nước Vương, Quan, Dân phạm tội đều bị xét xử Công bằng Bình Đẳng trước Pháp Luật như nhau. Phương Bắc Nhà Chu theo chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị, khác Phương Nam Thánh Đức Thánh Giáo thời Hùng Vương đa nguyên đa sắc tộc Bách Việt Tộc Văn Lang công bằng bình đẳng dân chủ tự do. Vì thế Phương Bắc không thể nào sánh kịp chiến tranh loạn lạc. Các nước thôn tính lẫn nhau tranh giành dân chúng. Tranh Giành đất đai quyền lực, làm cho dân chúng khốn đốn, thảm cảnh đói rét chết chóc xảy ra khắp nơi không ít dân chúng trốn chạy di cư vào Nam tức là Bắc Văn Lang. Có lúc chỉ trong vòng có mấy ngày lên đến cả vạn người. Bắc Văn Lang vì thế dân số tăng lên nhanh chóng không sao đếm xuể. Thậm Chí các Châu Quận, Huyện, không còn kiểm soát được nữa. Đành để cho dân chúng Phương Bắc tràn qua di cư sống vô gia cư khắp trên Bắc Văn Lang. Nước Tề đến thời Tề Hoàng Công Phong Kiến Thần Giáo vô cùng hưng thịnh. Phương Bắc tranh bá khốc liệt hơn nữa. Tề Hoàng Công nhờ có các bậc Triều Thần tài giỏi không những thu phục các nước mà còn biết trọng dụng nhân tài. Mộng bành trướng xưng hùng xưng bá lúc nào cũng trỗi dậy mạnh mẽ Tề Hoàng Công nhờ có Thấp Bằng, Cao Hề, Bão Thúc Nha cùng Quảng Trọng bày kế hay, mưu lược giỏi đánh nước Kỷ, nước Lỗ, nước Đàm. Cứu nước Yên, đánh nước Vệ, nước Thái, Nước Sở, Nước Trần. Nước Tấn. Tề Hoàng Công phía Nam chinh phạt Nam đến đất Thiệu Lăng, tây Nam đến Hùng Sơn. Ở phía Bắc đánh Sơn Nhung, Ly Chi, Cô Trúc. Phía Tây đánh Đại Hạ đến núi Thái Hàng, núi Ty Nhĩ hơn cả trăm nước không ai dám chống lại Tề Hoàng Công. Cuộc chiến chinh phạt nước nầy, thu phục nước kia. Xóa sổ nước nọ, cứu nước nầy, giúp nước kia. Có thể nói lúc bấy giờ Phương Bắc là bãi chiến trường. Dân chúng Phương Bắc càng bị chiến tranh bao nhiêu, thời càng di cư vào Nam Bắc Văn Lang càng nhiều bấy nhiêu. Không những dân chúng mà còn có cả những Vua, những Tướng đang bị truy sát. Cùng thời ấy đến thời Triệu Xuyên nước Tấn giết Vua của mình là Di Cao. Tấn Linh Công, Triệu Thuẫn cũng có phần. Triệu Thuẫn có công lập Tấn Thành Công lên thay thế. Nên Tấn Thành Công bỏ qua còn phong cho con cháu Họ Triệu làm quan lớn. Đến thời Tấn Cảnh Công, Đồ Ngạn Giả lật ngược tình thế kể tội Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn mưu sát Di Cao, Tấn Linh Công ở tại Đào Viên. Dòng Họ Triệu bị tru di cửu tộc. Quan Binh truy sát con cháu Triệu Xuyên, Triệu Thuẫn chết không biết bao nhiêu mà kể. Số còn sống thời trốn chạy khắp nơi có người trốn sang nước Tống. Một số trốn vào Nam. Tức là Bắc Văn Lang sanh sống. Trải Qua nhiều đời được sự giúp đỡ con cháu của Vua Vũ. Dòng họ Triệu trở nên hưng thịnh giàu sang trở thành quyền thế trong đó có Triệu Tế Gia. Khi Cha Con Doãn Thường Con Cháu Vua Vũ ra đời như một anh hùng nổi dậy đứng lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, cải đổi thành nước Việt Trung Nguyên thời con cháu Họ Triệu làm đến Tướng Soái thống lãnh đại quân Trung Nguyên chống trả lại quân Văn Lang. Thời hậu Hùng Vương, từ thời thứ 13 hậu Hùng Vương trở xuống đất nước Văn Lang trở thành nội chiến chia cắt Bắc Nam. Bắc Văn Lang đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy lập lên đất nước Việt Trung Nguyên. Với tình thế lúc bấy giờ nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn mai một thất truyền biến mất. Nền quốc đạo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn. Thay vào đó là niền Phong Kiến Thần Giáo do triều Thần đề xướng giúp Vua. Theo thể chế Độc quyền độc tài độc trị không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nữa Mà nghe theo Triều Thần. Vua anh minh sáng suốt thời còn khá còn Vua hôn quân vô đạo lại nghe Nịnh Thần. Thời tai hại nước nhà không sao xiết kể. Có thể nói ở vào giai đoạn từ thời Hùng Việt Vương trở xuống không khác gì nền Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo Phương Bắc Độc Tài, Độc Trị. Dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị Phong Kiến Thần Giáo xin cho nầy. Càng làm cho đất nước Văn Lang suy tàn. Tham quan mọc ra như nấm. Chỉ biết vơ vét của dân làm giàu, mua quan bán chức không kẻ gì đến non sông Tổ Quốc. Lòng dân càng ngày càng oán hận. Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo là Văn Hóa độc hại, Văn Hóa của sự tranh bá tranh hùng mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là giặc Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo làm cho đất nước Văn Lang suy yếu dẫn đến chiến tranh loạn lạc không khác gì Phương Bắc. Sự độc hại của Phong Kiến Thần Giáo là mê tín dị đoan, cầu cạnh Thần Linh. Xin Xăm bói quẻ. Lôi kéo lòng người đi theo con đường Tà Giáo. Thổi bùng lòng tham tranh danh đoạt lợi bất chấp mọi thủ đoạn thôn tính tiêu diệt lẫn nhau. Phong Kiến Thần Giáo khác với Phong Kiến Thánh Giáo là xa con đường Chính nghĩa Công Bằng Bình Đẳng. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo Chánh Nghĩa chân chính xã hội. Mà chỉ theo thể chế độc tài độc trị. Nước Văn Lang không còn nền Quốc Đạo dân tộc. Có nghĩa là Văn Hóa Cội Nguồn biến mất Tự Do Dân Quyền Văn Minh thời dựng nước không còn. Thay vào đó là nhà nước Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. (Chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo là chủ nghĩa cạnh tranh hủy diệt khốc liệt. Mạnh được Yếu thua. Thắng là Vua thua là Giặc. Xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chỉ là một thứ). Theo quy luật tự nhiên của Tạo Hóa. Nơi nào có áp bức thời nơi đó có đấu tranh. Nơi nào chạy theo Thần Quyền thời nơi đó lòng dân hỗn loạn Cha Con Doãn Thường đã hiểu rõ tình thế xã hội thời bấy giờ cơ hội thuận lợi nổi dậy chiếm lấy lòng dân. Chiếm lấy Bắc Văn Lang. Đất Nước Văn Lang liền rơi vào cảnh chiến tranh nội chiến tàn khốc. Đồng Bào Bách Việt Văn Lang con cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh nồi da nấu thịt tàn sát lẫn nhau. Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chính nghĩa Quốc Tổ Hùng Vương dùng nó dựng nước, giữ nước, trị quốc kéo dài độc lập 2701 năm là vầng Thái Dương của non sông Tổ Quốc. Soi sáng cho dân tộc Văn Lang Thái Bình thịnh vượng An Lạc yên vui. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc là đánh mất tất cả. Dân Tộc Văn Lang rơi vào cảnh tối tăm. Non Sông Tổ Quốc mất gốc. Bách Việt Văn Lang lạc Cội lạc Nguồn Dân tộc Văn Lang liền tan rã sự đoàn kết chia bè rẽ phái nổi dậy xưng bá xưng hùng chém giết lẫn nhau. Không khác gì Phương Bắc chiến tranh hỗn loạn dân chúng không lúc nào yên. Một dân tộc mà nguồn gốc dựng nước, giữ nước mù mờ. Không rõ ràng, sự thừa kế không có thời rơi vào con đường ác Đạo hỗn loạn tối tăm ngay. Bằng chứng cụ thể nền Văn Hiến Văn Hóa dựng nước không còn. Nước Văn Lang liền đi vào suy yếu. Dân Chúng Bắc Văn Lang nổi loạn. Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy bắc Văn Lang. Đất nước Văn Lang liền bị chia cắt. Bách Việt Văn Lang rơi vào nội chiến. Kết quả của sự nội chiến là đưa dân tộc Văn Lang đến con đường nô lệ ngoại ban. Mất lần đất đai chiến tranh triền miên khốn khổ mấy nghìn năm. Cây mất gốc héo cành rũ ngọn Nước mất nguồn nước cạn nước khô Sử kinh chép lại sáng soi Mất Nguồn lạc Cội nát tan cơ đồ Chiến tranh lạc hậu khốn cùng Lệ nô, nô lệ hết còn tự do. * * *
PHẦN 7 Bấm để xem Nói về Cha Con Doãn Thường từ khi lên ngôi Vương luôn cũng cố bộ máy Độc Tài Độc Trị. Một cách hiệu quả. Kiểm soát quản lý vận hành chặt chẽ vững bền không sơ sót. Luôn luôn phát huy sức mạnh cơ sở hết đêm cái lợi ảo nầy ra đến cái lợi ảo khác cuốn hút người dân chạy theo. Tất cả cái lợi ảo đều từ chính sách ban ra nhưng không bao giờ thực hiện được. Chỉ đọc ra cho Dân nghe sướng tai mà thôi. Cha Con Doãn Thường mở ra thật nhiều trường học nhưng có học mà không đi vào cuộc sống học toàn Văn Từ đồi trị có lợi cho việc mưu phản lại nhà nước Văn Lang chẳng ra đâu, càng học càng dốt. Chuyên moi móc những cái xấu của Vua Quan nhà nước Văn Lang, tán tụng việc làm phản loạn của mình cho là việc làm chính nghĩa. Những ai nói lên sự thật liền bị chém đầu hoặc bị cô lập cho đến chết. Tuy mở rộng con đường giáo dục nhưng để ca tụng cuộc cách mạng thần thánh của mình. Mở trường lớp dạy dân nhiều nhưng học toàn là những chuyện mê tín những cuộc tình lãng mạng trai gái. Hầu làm cho dân chúng quên truyền thống dân tộc anh linh hơn mấy nghìn năm. Nói tóm lại có học nhiều nhưng không đâu vào đâu cả càng học nhiều thời càng mờ mịt không có tôn chỉ mục đích nào cả. Các vị tu Tiên trên núi thường nói (Chính sách ngu Dân đã được thực hiện). Dân Bắc Văn Lang dần dần quên Cội quên Nguồn, nhưng cơ trời đã thế khó mà cứu vãn được. Tương Lai của người Dân Bắc Văn Lang. Không phải đi đến no cơm ấm áo. Mà là sống trên văn từ bóng bẩy. Bằng cấp hư danh. Làm mê hoặc lòng ham muốn của con người mà thôi. Có thể nói không có Nhà nước nào họp hành nhiều như Nhà Nước Việt Trung Nguyên hầu như ngày nào cũng hộp. Mục đích là để bôi trơn bộ máy. Khởi động liên tục đè bẹp những ý tưởng phản loạn. Diệt mầm họa trong trứng nước không cho có cơ hội suy nghĩ đúng sai tạo phản. Cha Con Doãn Thường tạo ra một thể chế kiểm soát gắt gao chặt chẽ không những quản lý về vật chất không cho dân chúng giàu sang. Mà còn quản lý cả tinh thần ý nghĩ của dân chúng. Cha con Doãn Thường thực hiện chính sách như vậy, cứ nghĩ làm như thế Nhà Nước Trung Nguyên sẽ được bền vững lâu dài. Nào hay đâu lại dẫn đến mau sụp đổ. Cha Con Doãn Thường nào hiểu, sự tồn tại của chế độ chính là phát triển Tiến Hóa Xã Hội. Sự tồn tại của Xã Hội chính là cái mới thay thế cho cái cũ. Sự tồn tại của Nhà Nước chính là Công Bằng Bình Đẳng. Sự bảo thủ độc tài độc trị, kìm hãm sự phát triển xã hội, kìm hãm quyền tự do của con người, chính là đi vào con đường tự sanh tự diệt. Không cần đánh đổ nó cũng tự sụp đổ. Sự tiến hóa loại bỏ cái cũ lỗi thời, tiến đến cái mới non trẻ, tiến hóa loại bỏ tự nhiên, không có sự mâu thuẫn xung đột nào cả đó chính là sự trường tồn văn minh xã hội. Sự củng cố Độc Quyền. Độc Tài, Độc Trị, dù cho có tài tình tinh vi đến đâu cũng dẫn đến sự xơ cứng của thể chế bảo thủ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị dẫn đến Nhà Nước Trung Nguyên đi vào xóa sổ. Chỉ khi nào thật sự đi vào quy luật tự nhiên cái mới liên tục phát triển thay cho cái cũ lỗi thời mới đi vào tồn tại lâu dài. Cha Con Doãn Thường không những không làm được điều đó có thể nói là chưa phát hiện ra điều đó. Mà chỉ tạo ra những chiếc bánh vẽ lừa gạt dân chúng mà thôi. Nên không thể trụ vững lâu dài được cuối cùng cũng bị Phù Sai đánh bại. Về sau Câu Tiễn tuy diệt được Phù Sai nhưng cúi đầu trước Nhà Chu. Được Nhà Chu Chu Nguyên Vương phong Bá. Bá Vương Câu Tiễn Trung Nguyên không còn tự chủ Độc Lập được nữa thuộc về Phương Bắc. Việt Trung Nguyên chuyển sang một giai đoạn mới giai đoạn trở thành Trung Quốc. Việt Trung Nguyên sát nhập về Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương hàng năm phải chịu sự cống nạp cho Nhà Chu. Bắc Văn Lang coi như biến mất không còn từ đây. Đây nói về nơi Kinh Đô Văn Lang. Ngày 20 tháng 3, 545 trước công nguyên Hùng Việt Vương, Tuân Lang, đời thứ 13 Hạ Hùng Vương vô cùng tức giận khi nghe tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang. Trước Vương Triều Hùng Việt Vương quát hỏi triều thần: Cha Con Doãn Thường là ai mà ghê gớm như vậy nổi loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang. Hầu Tôn Vương nghe Quốc Vương hỏi liền bước ra báo cáo rằng: Muôn tâu Quốc Vương bệ Hạ Cha Con Doãn Thường là con cháu 31 đời Vua Vũ thời Nhà Hạ. Di cư đến Huyện Cối Kê Lạc Giang Giao Châu sanh sống. Nhập cư thành dân Bách Việt Văn Lang, trở thành dân Văn Lang chính thống. Giàu có thuộc bậc nhất Bắc Văn Lang. Doãn Thường làm quan đến chức Quan Tri Phủ Lạc Giang Giao Châu. Dòng họ Vũ có Âm Mưu chiếm đoạt Bắc Văn Lang từ lâu, nhưng không mấy ai phát hiện được. Khi phát hiện được thời đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp mất Bắc Văn Lang rồi. Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận đùng đùng hét lớn: Lũ cướp nước hại dân hại nước kia phải tiêu diệt cho bằng được không để cho một tên sống sót. Các Khanh hãy hiến kế cho Trẫm để Trẫm nhanh chóng cho người quét sạch Cha Con Doãn Thường trừ hậu họa. Hầu Tôn Vương nghe xong bằng tâu rằng: Muôn Tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường đã có âm mưu dã tâm chửng bị từ trước lôi kéo dân chúng nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang thế lực rất mạnh. Trung Văn Lang đang trong cơn hỗn loạn không phân biệt được phải trái trắng đen. Có người cho rằng Cha Con Doãn Thường là các Vua Hùng tái sanh lập lên nhà nước Việt Trung Nguyên. Nên dân chúng theo Cha Con Doãn Thường như nước vỡ bờ không có cách gì ngăn cản lại nổi thế lực phản loạn như cơn bão không những chiếm lấy Bắc Văn Lang mà còn tràn vào trung Văn Lang. Châu Phủ, Thục An Kim. Anh Kỳ. Thạch Trung Sơn. Kỳ Thọ ra sức chống trả. Không cho Quân nổi loạn tiếng vào Trung Văn Lang. Tình thế vô cùng cấp bách. Hùng Việt Vương nghe Hầu Tôn Vương tâu như vậy lấy làm kinh hãi nói: Các Khanh có kế sách gì chống trả lại thế lực quân phản loạn không? Hùng Việt Vương Tuân Lang, hỏi đi hỏi lại đến mấy lần thấy dưới triều các Quan Tướng làm thinh. Hùng Việt Vương than: Các khanh thường ngày khoe tài khoe giỏi, cái tài cái giỏi bay đi đâu hết rồi. Từ chỗ ngồi Hầu Lạc Vương đứng dậy nói: Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Cha Con Doãn Thường nổi lên làm loạn chiếm lấy Bắc Văn Lang nhanh chóng như vậy. Là có sự đồng tình phần lớn dân chúng Bắc Văn Lang. Nhất là thành phần dân chúng Phương Bắc lánh nạn chiến tranh di cư vào Bắc Văn Lang sanh sống đều theo Cha Con Doãn Thường. Chưa kể tình trạng dân chúng di cư qua Bắc Văn Lang làm ăn bất hợp pháp chưa nhập tịch thành dân Văn Lang trên hai triệu người. Nghe Đâu các bang phái ác ma tà giáo cũng gia nhập theo quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường. Thế lực quân phản loạn phải nói là rất hùng mạnh nếu không có kỳ tích nhân tài xuất hiện thời khó mà dẹp quân phản loạn nhanh chóng được. Hùng Việt Vương nghe Hầu Lạc Vương báo cáo như vậy thời không khỏi lấy làm lo lắng. Hầu Thừa Vương từ chỗ ngồi đứng dậy nói: Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ. Quân phiến loạn Cha Con Doãn Thường là quân nội loạn. Không phải là quân xâm lược có sự đồng tình của dân chúng đã cấu kết thành sức mạnh được sự che chở của muôn dân Bắc Văn Lang khó mà đánh tan một ngày hai ngày được. Đáng lý ra tiêu diệt mầm phản loạn ngay từ đầu, giờ đây thời đã muộn khó mà tiêu diệt vì dân chúng Bắc Văn Lang đã lập Cha Con Doãn Thường làm Việt Vương Tế Gia có nghĩa là Dân Chúng Bắc Văn đã có Quốc Vương mới dân chúng Bắc Văn Lang phò cha con Doãn Thường chống trả lại nhà nước Văn Lang nên khó mà tiêu diệt nhanh chóng được. Lại nữa Cha Con Doãn Thường không phải là quân xâm lược mà là quân loạn tặc phản loạn nổi dậy quyết lật đổ nhà nước Văn Lang lập lên thời đại mới, thời đại Việt Trung Nguyên. Đã có cái gốc mưu đồ quá lớn Bá Tánh muôn dân Bách Việt Bắc Văn Lang vì thế mà tin theo. Thế lực vô cùng vững chắc. Không như cách đây hơn ba trăm năm mươi năm về trước ở thời Phù Đổng Thiên Vương. Các Bộ Lạc Bách Việt Văn Lang nổi lên đòi tự trị chỉ là ảnh hưởng Văn Hóa Phương Bắc không có thống nhất tổ chức. Mạnh ai nấy xưng Vua, xưng Chúa. Còn cuộc nổi dậy của Cha Con Doãn Thường là có âm mưu từ trước, đường đi nước bước điều có sự tính toán chu đáo nội cái việc mua Quan bán Tước ở Bắc Văn Lang không ai phát hiện ra. Nội sơ Con Cháu dòng họ của Việt Tế Gia có hơn mười Quan Tri Huyện. Một Qua Tri Phủ. Chưa nói đến Con Cháu của Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn có đến năm Quan Tri Huyện. Cho thấy dòng họ Vũ, dòng họ Triệu có âm mưu từ trước phải nói là rất lâu đời nhưng không tài nào phát hiện được. Khi phát hiện được thời Bắc Văn Lang đã về tay Cha Con Doãn Thường phải nói là một cuộc loạn tặc phản loạn tài tình hết sức chu đáo. Chỉ còn cách là dốc toàn lực lượng đánh một trận. Một là lấy lại Bắc Văn Lang. Hai là.. Hầu Lạc Vương dừng lại không nói. Hùng Việt Vương Tuân Lang hỏi: Sao khanh không nói tiếp. Hầu Lạc Vương nói: Bệ Hạ cho phép thời Thần mới nói. Hùng Việt Vương nói: Khanh cứ nói. Hầu Lạc Vương nói: Bẩm Quốc Vương Bệ Hạ Cha Con Doãn Thường biết lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ che chở cho mình một lá bùa hộ mệnh không ai phá nổi. Cha con Doãn Thường, thường nói CÁC VUA HÙNG CÓ CÔNG DỰNG NƯỚC DÂN TỘC BÁCH VIỆT VĂN LANG CHÚNG TA CÙNG NHAU GIỮ LẤY NƯỚC. Dân chúng Bắc Văn Lang cho rằng Cha Con Doãn Thường mới thật sự làm theo di chí Quốc Tổ. Nên ra sức bảo bọc như tường đồng vách sắt khó mà đánh bại ngay được. Chỉ còn cách là chờ thời cơ thuận lợi chiếm lấy lại Bắc Văn Lang ngoài hai cách đó không còn cách nào hơn. Hùng Việt Vương nghe xong nổi giận quát: Khanh có biết Bắc Văn Lang là vựa lúa lớn nhất nước Văn Lang Không? Mất Bắc Văn Lang là có nghĩa chúng ta suy yếu mà còn trở nên nghèo đói khó mà trở nên hùng mạnh được nữa. Hầu Lạc Vương sợ hãi nói: Thần đã biết tội. Hùng Việt Vương nói: Bằng mọi giá phải chiếm lại cho bằng được Bắc Văn Lang không để mất Bắc Văn Lang được. Bằng ra lệnh cho Văn Khánh đại Tướng Quân Thống Soái thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu kết hợp với quân Kỳ Thọ đang cố thủ tại Quang Hải Châu kết hợp với quân Thạch Trung Sơn đang cố thủ tại Bạch Lang Châu. Kết hợp với quân Anh Kỳ đang cố thủ tại Tiên Châu kết hợp với quân Thục An Kim đang cố thủ tại Âu Tây Châu. Tiến đánh thẳng ra Bắc dốc toàn lực bắt Cha Con Doãn Thường đêm về trị tội. Thần Tuân Lịnh. Đây nói về Thống Soái Văn Khánh thống lãnh 30 vạn quân đến Vân Giao Châu. Tức thời chia làm ba đạo quân. Đạo quân cánh Tả do Chủ Tướng Lê Quang thống lãnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Đạo quân cánh hữu do Huỳnh Trung Kỳ thống lãnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Quang Hải Châu. Còn đạo quân chủ lực Văn Khánh thống soái thống lãnh 14 vạn quân tiến thẳng đến Bạch Lang Châu. Tiên Châu. Đây nói về Thục An Kim đang là Tri Phủ Âu Tây Châu nghe hung tin Cha Con Doãn Thường nổi dậy cướp lấy Bắc Văn Lang thời vô cùng kinh hãi tình thế vô cùng nguy cấp liền huy động lực lượng quân binh trấn giữ cố thủ tại Âu Tây Châu. Chỉ hơn bảy ngày sau ở trên thành bốn Cha Con Châu Phủ Thục An Kim nhìn ra hướng Bắc thấy quân phản loạn chia ra nhiều đạo quân tiến về Âu Tây Châu cờ xí gươm giáo trùng trùng không bao lâu thời quân phản loạn bao vây thành Âu Tây Châu. Đứng trên thành nhìn xuống thấy cờ Vua Lưu Việt. Cờ Vua Phù Việt. Cờ Vua Lỗ Việt. Cờ Vua Nô Việt. Cờ Vua Ngung Việt. Cờ Vua Mân Việt. Cờ Quân Việt Trung Nguyên. Quân phản loạn bắc loa kêu gọi mở cửa thành đầu hàng bỏ Hùng Vương. Theo Việt Vương. Châu Phủ Thục An Kim đứng trên thành chửi: Các ngươi đều là con cháu Tiên Rồng. Con Dân Bách Việt Văn Lang cùng chung một Quốc Tổ Vua Hùng. Sao đi theo Cha Con Doãn Thường làm Phản. Các Vua Việt nghe Thục An Kim nói thế làm thinh. Triệu Công Phi ngựa tới nói: Họ Thục An kia ngươi nói sai rồi kẻ thức thời mới là trang anh hùng tuấn kiệt phải nhận biết thời thế ngọn gió Nam chấm dứt thời ngọn gió Bắc ra đời. Hiện nay tình thế thay đổi nước Văn Lang không còn như thời Quốc Tổ Vua Hùng, mà là nhà nước Văn Lang Vương, Quan, Thần, Tướng ai vì túi nấy. Bỏ bê dân chúng, mặc cho lê dân khốn khổ. Vua Hùng chỉ lo chọn cho nhiều cung phi mỹ nữ. Để cho Vương Quan lộng hành làm bậy đánh mất hết lòng tin muôn dân. Cơ Trời đã báo hiệu khí số niên đại Vua Hùng mấy nghìn năm đã sắp kết thúc rồi còn gì. Theo Ta nghĩ chim khôn tìm cây mà đậu, người khôn tìm chúa mà thờ. Khí số nên đại Vua Hùng đã hết. Cơ Trời ấn định Việt Vương ra đời. Các Vua Việt hùa theo Tướng Soái nói: Đúng chúng tôi là dân Bách Việt. Đương nhiên phải đi theo Việt Vương không theo Hùng Vương nữa. Thục An Kim nghe những lời trái tai đó quát lên như sấm nổ: Thằng Triệu Công hỗn láo kia ai thời không biết lý lịch của ngươi. Nhưng đối với ta thời ta quá rõ. Tổ Tông ngươi là Triệu Xuyên. Triệu Thuẫn khi còn ở Nước Tấn đã mưu phản giết vua Di Cao Tấn Linh Công. Đến đời Tấn Cảnh Công. Đồ Ngạn Giả lật ngược tình thế. Dòng Họ Triệu các ngươi bị tru di cửu tộc. Quân Binh truy sát. Ông Cha ngươi trốn qua Bắc Văn Lang sinh sống Vua Hùng không xử tệ với dòng Họ Triệu các ngươi. Cho nhập quốc tịch Dòng Họ Triệu các ngươi trở thành dân tộc Văn Lang. Các ngươi không những không biết ơn manh tâm theo cha con Đoãn Thường làm phản tội đáng chết. Với cái tội phản loạn thời chết chẳng được toàn thây rồi. Còn xúc phạm uy linh Quốc Vương tội đáng tru di cửu tộc. Bỏ gươm giáo xuống tự sát kết liễu đi. Cha Con Triệu Công, nghe Châu Phủ Thục An Kim chửi hay quá sợ lay động lòng quân sĩ. Bằng hét lớn: Thời đại ngày nay kẻ thắng thời là Vua, kẻ thua là Giặc Ai thờ chủ nấy. Trên chiến trường chỉ có sức mạnh gươm đao giáo mác. Kẻ nào mạnh thời thắng, kẻ nào yếu thời thua. Kẻ thắng chính là vua, người thua chính là giặc. Đó là lẽ thường ở đời mau đầu hàng Việt Vương Tế Gia đi thời sống chống lại thời chết. Về sau thơ rằng: Bách Việt Văn Lang chẳng còn gì Chỉ còn tranh bá giết nhau đi Chính nghĩa gì đâu rời Cội Gốc Lạc Nguồn lạc Cội khốn với nguy Cội Nguồn Văn Hóa đã mất đi Hiểm họa đao binh nạn kể gì Chiến tranh loạn lạc đầy sóng gió Đồng Bào tàn sát có kể chi Thương ôi lạc Cội đành tan nát Văn Lang binh lửa dậy trời mây Kiếp nạn trùm lên đầu dân chúng Văn Lang khốn khổ, khổ từ đây Quốc Đạo Văn Lang đã mất rồi Nước nhà loạn lạc khổ ôi ôi Trước mắt u minh buông trùm xuống Yêu Tinh Quỉ Dữ chúng nốt xơi Anh hùng lạc đạo ngơ với ngác Hiếu trung, trung hiếu lạc chơi vơi Thắng Vua, thua Giặc hề một lũ Thi nhau chém giết máu đầu rơi. * * * PHẦN 8 Đây nói về Lê Quang Chủ Tướng, thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Còn cách Âu Tây Châu mười dặm liền cho quân thám tính. Thời biết Quân Phản loạn đang bao vây thành Âu Tây Châu. Liền chính đốn quân ngũ chia là ba đạo quân. Đạo Quân cánh hữu hai vạn quân từ phía đông đánh bọc lên thành Âu Tây Châu. Do tướng La Thông chỉ huy. Đạo quân cánh tả hai vạn quân từ cánh Tây đánh bọc xuống thành Âu Tây Châu. Do Tướng Sơn Tây chỉ huy. Còn đạo quân chủ lực Lê Quang Chủ Tướng trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào quân địch chính Nam Âu Tây Châu đang bao vây cửa Nam thành Âu Tây Châu. Nói về Quân Phản loạn Việt Trung Nguyên Ba Cha Con Triệu Công đang dồn quân phía Nam thành Âu Tây Châu tìm cách tấn công thành. Thời nghe quân thám báo về báo: Quân Văn Lang đã kéo đến bao vây tấn công chúng ta. Tức thời ba Cha Con Triệu Công bày binh bố trận sẵn sàng giao chiến với quân Văn Lang. Triệu Công thông báo cho hai cánh quân đang bao vây Đông – Tây thành Âu Tây Châu. Cánh Quân loạn tặc phản loạn bao vây Đông thành Âu Tây Châu do Vua Lưu Việt. Phù Việt trực tiếp chỉ huy. Cánh quân loạn tặc phản loạn bao vây phía Tây thành Tây Âu Châu do Vua Lỗ Việt. Vua Nô Việt chỉ huy. Nói về ba Cha Con Triệu Công dàn binh bố trận đâu vào đấy thời thấy xa cát bụi mù mịt. Trên thành Âu Tây Châu quân binh đang reo hò: Quân chủ lực Văn Lang đến rồi. Quân Văn Lang đến rồi. Tiếng quân binh reo hò vang dậy trời đất. Triệu Công kinh hải quân Văn Lang đến nhanh như thế sao liền ra lệnh không tấn công thành Âu Tây Châu nữa mà chuẩn bị nghinh chiến. Nói về Chủ Tướng Lê Quang thấy quân phản động Trung Nguyên trùng trùng lớp lớp ước tính trên mười vạn quân Lê Quang không ngờ quân phản loạn Việt Trung Nguyên đông như vậy. Trong khi mình chỉ có bốn vạn quân. Nhưng nhìn thấy thành Âu Tây Châu chưa mất khí thế chiến đấu vững mạnh. Lê Quang nghĩ quân Âu Tây Châu từ trong thành đánh ra, thời có thể đánh thắng được quân phản loạn Việt Trung Nguyên. Bằng thúc quân vượt lên xông tới giao chiến. Quân Văn Lang hò hét dậy trời người ngựa gươm đao giáo mác ào ào lao tới xáp chiến với quân Việt Trung Nguyên hai bên giao tranh long trời lở đất. Triệu Công cũng không thua kém thúc quân tiến tới sẵn sàng đánh trả khí thế hừng hực. Triệu Công thấy Chủ Tướng Văn Lang thân cao bảy thước cỡi con ngựa Bạch. Đầu đội Kim khôi mình mang giáp sắt oai phong lẫm liệt cầm thanh đại đao to lớn ước nặng đến trăm cân thời biết đây là một dũng Tướng có sức mạnh kinh người. Nói về Lê Quang nhìn thấy Triệu Công tuy lớn tuổi mình cao bảy thước oai phong lẫm liệt cỡi con ngựa đen. Đầu đội kim khôi, mình mang giáp đồng tay cầm đại đao ước lượng nặng không kém gì cây đại đao của mình thời biết đã gặp kỳ phùng địch thủ. Lê Quang định phóng ngựa lên giao chiến với Triệu Công Tướng Mạnh Hổ nói: Chỉ là một con Lợn già cần gì đến mãnh Hổ, để Thuộc hạ lấy đầu cho rồi. Lê Quang nói: Tướng quân hãy cố hết sức bình sanh. Mạnh Hổ hiểu ý nói: Thuộc hạ quyết lấy cho được thủ cấp của giặc. Mạnh Hổ mình cao sáu thước cỡi con ngựa xám mình mặc giáp sắt tay cầm trường đao to lớn ước nặng tám mươi cân phi ngựa tới hét lớn: Quân phản loạn mau ra đây cúi đầu chịu chết. Triệu Côi thấy Tướng Văn Lang hung dữ như vậy liền nói với Triệu Công: Để con ra giết quách đi cho rồi. Triệu Côi nói xong phóng ngựa lao ra chém một giáo mạnh như thiên lôi giáng. Mạnh Hổ múa đao lên đỡ ken đinh tai nhức óc. Hai bên đánh nhau khói bụi mù mịt giáo đao chém qua chém lại ầm ầm ngựa người xáp tới lao vào bật ra, xáp lại đánh nhau cát bụi mù trời kinh khiếp. Đúng là: Hai Hổ đánh nhau kinh hồn Cát bay đá chạy Giáo Đao ầm ầm Ngựa người lao tới rầm rầm Đao như thác đổ bão gầm Giáo tuôn Đánh cho trời đất chuyển rung Đánh cho non núi đổ nghiêng dậy trời Tám mươi hiệp đã qua rồi Bất phân thắng bại kinh thời khiếp kinh. Nói về Tướng Nhị Beo thấy Mạnh Hổ chưa hạ gục được Triệu Côi bằng nói với Lê Quang: Để tôi ra hiệp sức giết chết tướng địch cho rồi. Nhị Beo nói xong liền phóng ngựa lao ra, tức thời có tiếng quát như sấm nổ: Có ta đây đừng hỗn láo. Một bóng người phi ngựa lao ra chém tới Nhị Beo. Nhị Beo múa thương chống trả choang một tiếng đinh tai nhức óc. Nhị Beo quát: Phản tặc xưng tên rồi chịu chết. Triệu Chi quát: Ông Nội ngươi đây nộp mạng đi. Triệu Chi múa giáo chém tới như mưa. Nhị Beo múa đao chống trả quát: Thằng phản loạn giặc con Ông Cố Tổ ngươi đây mau về chầu Âm Phủ. Trường thương mạnh Hổ đâm chém như mưa sa bão táp thế là hai bên xáp lá cà đánh nhau như sấm sét cát bụi mịt trời. Nhìn trận chiến mà đau xót dạ Cảnh tương tàn Bách Việt Văn Lang Cũng cùng con cháu Rồng Tiên Cớ sao nên nổi đảo điên tranh giành. Lê Quang đứng xem trận chiến tấn công trước giành phần chủ động liền chỉ kiếm lên trời hết lớn: Tử chiến. Tức thời ngựa hí vang trời quân reo dậy đất quân Văn Lang ào ào xông tới. Triệu Công cũng chỉ Đao lên trời hét lớn: Xông lên tử chiến. Hai bên như nước vỡ bờ ào ào lao vào nhau xáp lá cà chém thôi là chém. Thơ rằng: Ôi thôi trận đánh kinh hồn Giáo Đao Thương Kiếm ầm ầm dậy non Đầu rơi máu đổ xương tan Thi nhau ngã gục máu loang đất bằng Còn chi Con Cháu Tiên Rồng Còn Chi Bách Việt trường tồn còn chi Ngựa Người dẫm đạp lên nhau Thây phơi thịt xẻ nát tương nát nhừ Đồng bào cùng một Cội Nguồn Chỉ vì Lạc Cội tranh giành giết nhau Văn Lang một Cội trước sau Giờ đây chém giết khiếp kinh hãi hùng Nam Bắc tranh bá ầm ầm Văn Lang binh lửa dậy trời từ đây Kìa Chiến trận quân vây lớp lớp Kìa Gươm Đao gào thét dậy non Văn Lang ơi hỡi Văn Lang Từ đây đành phải nát tan cơ đồ Nhìn trận chiến khắp cùng thây chất Tiếng hò reo tàn sát kinh thiên Văn Lang Bách Việt Anh Em Nồi Da nấu thịt thảm thê đất trời. Đây nói về La Thông Tướng Quân thống lĩnh hai vạn quân đánh bọc từ phía đông lên thành Âu Tây Châu gặp phải một đội quân hùng mạnh hơn hai vạn quân trấn giữ người chỉ huy là Vua Lưu Việt. Vua Phù Việt. La Thông phi ngựa tới quát: Lưu Việt, Phù Việt hai ngươi là Bách Việt Văn Lang sao lại phản lại nhà nước Văn Lang. Vua Lưu Việt nói: Ta với Ngươi giờ đây ai thờ chủ nấy. Từ xa Vua Phù Việt phi ngựa lao tới chém La Thông với sức mạnh sấm sét. La Thông múa trường thương chống trả choang choang đinh tai nhức óc. La Thông Quát: Loạn Tặc phản loạn xem đây. Tức thời La Thông múa trường đao phi ngựa chém tới như mưa. Vua Phù Việt múa giáo chống trả một còn một mất. Vua Phù Việt thấy không hạ gục được La Thông bằng phi ngựa thoát ra cuộc chiến phất cờ hiệu lệnh tấn công vào quân Văn Lang. Thế là quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên ào ào xông lên càng quét quân Văn Lang như thác đổ. La Thông nào chịu kém chỉ kiếm lên trời hét lớn: Quét sạch những tên phản loạn cho ta. Thế là Quân Văn Lang ầm ầm xông tới hai bên xáp chiến long trời lở đất. La Thông múa trường Thương phi ngựa lao tới đâm chém Vua Lưu Việt tới tấp. Vua Lưu Việt ra sức chống trả. Đường Thương La Thông như rồng bay phụng múa kỳ bí làm cho Vua Lưu Việt chống đỡ muốn hụt hơi. Vua Phù Việt thấy Vua Lưu việt yếu thế liền phi ngựa xông vào xáp chiến. Nhưng đã trễ Vua Lưu Việt bị La Thông đánh trúng một thương ngã nhào xuống ngựa bị thương rất nặng đứng dậy không nổi. La Thông nhanh như chớp bồi thêm một thương nữa Vua Lưu Việt chết tốt. Vua Phù Việt lấy làm kinh khiếp định quày ngựa bỏ chạy La Thông liền phi ngựa rượt theo đánh trúng một thương như trời giáng Vua Phù Việt trào máu ngã nhào xuống ngựa hồn du Địa Phủ. Thơ rằng: Sống thác là thường lý Phù du cũng một đời Nhưng chết cho có nghĩa Linh Hồn mới thảnh thơi Đằng nầy cái chết theo quân phản loạn Hồn du địa Phủ tàn đời Khó mong trở lại làm người Cũng vì lạc Cội lạc Nguồn mà ra. Quân Văn Lang thắng thế reo hò vang dậy ào ào xông tới chém quân phản loạn Trung Nguyên như chém chuối. Quân phản loạn Trung Nguyên lớp chết lớp bị thương bỏ chạy về hướng Bắc. Quân Văn Lang không tri sát tiến lên bao vây đánh bọc hậu vào mười vạn quân của ba Cha Con Triệu Công. Khi ấy ở núi Phù Vân có năm vị tu Tiên đắc Đạo tên là Phù Vân Đạo Sĩ. Nhìn thấy Bắc Văn Lang hung khí đầy trời liền co tay bấm quẻ không khỏi thở dài nói: Văn Lang đi vào kiếp nạn. Ý trời đã vậy khó mà cứu vãn, Tiên Thánh như chúng ta cũng đành bất lực. Bắc Văn Lang không bao lâu nữa sẽ rơi vào tay Nhà Chu sát nhập về phương Bắc. Thơ rằng: Ngán thay cho cõi Hồng Trần Thịnh suy, suy thịnh xoa vần lao đao Mặt Trời Văn Hóa mất đi Văn Lang suy sụp còn chi cơ đồ Từ đây chinh chiến bão bùng Thần Tiên lánh nạn về Trời nương thân Yêu Tinh xuất hiện chuyển xây Giả chân, chân giả khó thay cho đời Anh hùng lạc đạo đã rồi Nước non, non nước ngập trời đao binh Văn Lang ơi hỡi Văn Lang Non sông Bách Việt tương tàn lẫn nhau Nhìn thế cuộc thấy lòng đau Đồng Bào một cội thi nhau tương tàn Bởi vì lạc Cội lạc Nguồn Tranh giành chém giết hận thù triền miên. * * *
PHẦN 9 Bấm để xem Đây nói về Tướng Sơn Tây thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng đánh bọc từ phía tây Âu Tây Châu đánh xuống. Bỗng thấy hơn một vạn quân phản loạn cờ xí rợp trời xông ra chận đánh. Tướng quân loạn tặc phản loạn là Vua Nô Việt mình cao sáu thước đầu đội kim khôi mình mang giáp đồng cỡi con ngựa màu nâu tay cầm trường giáo nặng khoảng 60 cân cản đường quát: Tướng Văn Lang kia mua xuống ngựa quy hàng thời sống bằng chống trả thời chết. Sơn Tây quát: Ta là Tướng Văn Lang mà quy hàng bọn giặc cỏ làm loạn các ngươi. Lão Tổ ngươi đã đến sao không mau xuống ngựa đầu hàng. Vua Nô Việt cả giận phi ngựa lao tới chém Sơn Tây một giáo mạnh như trời giáng. Sơn Tây múa trường đao chống trả, choang choang đinh tai nhức óc. Hai bên đã thử sức biết đối thủ không thua kém gì mình. Sơn Tây quát: Thằng cháu giặc cỏ ngươi có mắt như mù thờ Yêu Tinh Quỉ Dữ cha con Doãn Thường đã gặp ta thời coi như tới số xem đường đao lão tổ của ngươi đây. Tướng Sơn Tây nhanh như tia chớp múa đao pháp kình phong tuôn ra ù ù chém vào Vua Nô Việt như sấm sét. Vua Nô Việt cũng ra oai không kém hét lên một tiếng: Xem đường giáo của sư gia đây. Tức thời múa giáo vù vù cát bay đá chạy phi ngựa lao tới chém ầm ầm vào Sơn Tây hai con hổ đánh nhau một còn một mất đao giáo choảng nhau liên miên bất tận. Hai bên càng đánh càng hăng cát bụi mịt trời. Về Sau có thơ rằng: Một bên con Hổ Văn Lang Một bên con Hổ Trung Nguyên thét gầm Hai bên giao chiến ầm ầm Đao qua Giáo lại đùng đùng dậy non Đường Đao chơm chớp trời Nam Giáo tuôn sấm sét dọc ngang đất trời Giáo – Đao trăm hiệp qua rồi Bất phân thắng bại ai nào thắng ai Cát bay đá chạy kinh thiên Rền trời rền đất đảo điên rền trời Xem đi xét lại nực cười Tranh Giành chém giết hết rồi anh em Nước non gặp lúc tối đen Anh hùng lạc đạo hết mong về trời. Trong lúc hai con Hổ chiến đấu hăng say thời quân Vua Lỗ Việt Trung Nguyên từ sau đánh bọc tới quân Văn Lang trước sau bị địch bao vây Phó Tướng Sơn Tùng tức tốc điều khiển một đạo quân chống trả lại thế đánh bọc hậu của Vua Lỗ Việt. Quân Lỗ Việt từ sau bọc hậu đánh tới liền thấy quân Văn Lang dạt ra hai bên như vòng cung. Từ trong vòng cung xuất hiện một tướng quân Văn Lang oai phong lẫm liệt quát lên như sấm: Có Tướng Nam nhà trời đây quân phản loạn khó mà chạy thoát. Vua Lỗ Việt nhìn thấy Sơn Tùng oai phong lẫm liệt như thế cũng hơi ngán. Nhưng ở vào thế cỡi cọp không đánh cũng không được. Liền thúc quân xông tới giao chiến. Sơn Tùng nghĩ muốn thắng giặc phải giết tướng trước. Quát lên một một tiếng phi ngựa lao tới chém Vua Lỗ Việt một đao sấm sét. Vua Lỗ Việt múa đao chống trả choang một tiếng đinh tai nhức óc. Vua Lỗ Việt cánh tay tê nhức như muốn gãy kinh hồn bạt vía phi ngựa bỏ chạy. Sơn Tùng phi ngựa phóng theo vớt một đao bay đầu. Quân loạn tặc phản loạn Trung nguyên thấy Vua Lỗ Việt chết liền đạp lên nhau bỏ chạy. Quân Văn Lang không rượt đuổi mà quay ngược trở lại tấn công vào Quân Vua Nô Việt. Quân Nô Việt chống không lại quân binh rối loạn Bị quân Văn Lang xông tới chém tới tấp. Vua Nô Việt hét lên một tiếng đánh bậy một giáo rồi phi ngựa bỏ chạy như bị tên quân Văn Lang bắn chết. Quân Văn Lang thắng thế hò hét vang trời dậy đất thi nhau rượt theo chém quân trung nguyên như chém chuối thây phơi lớp lớp thê thảm chưa từng thấy. Về sau có thơ rằng: Anh Em cùng một nước non Bất đồng chí hướng máu loang chiến trường Bởi vì lạc mất Cội Nguồn Tranh giành chém giết hãi hùng biết bao Mất đi truyền thống Cha Ông Như cây mất gốc như sông mất nguồn Yêu Tinh Quỉ Dữ lộng hành Bày ra cuộc chiến tranh giành hại nhau Chúng dân khốn khổ lao đao Lạc Ngồn lạc Cội lạc vào hiểm nguy Bắc Nam máu đổ đầu rơi Cũng vì Lạc Cội ôi thôi lạc Nguồn Từ đây khốn khổ vô cùng Binh đao máu lửa ngập tràn khắp nơi Đúng sai, sai đúng là đâu Cũng vì lạc Cội xé xâu tan tành. Đây nói về ba Cha Con Triệu Công đang chiến đấu hăng say. Thúc 10 vạn quân tiến lên đè bẹp quân Văn Lang, quân Văn Lang chỉ có bốn vạn khó mà chống cự cho lại, quân phản loạn Việt Trung Nguyên ào ào xông lên lấy thịt đè người. Trận thế đang nghiêng về quân loạn tặc phản loạn, quân Văn Lang yếu thế hơn thấy rõ. Triệu Côi, Triệu Chi, áp đảo tướng Mạnh Hổ, Tướng Nhị Beo. Triệu Côi, Triệu Chi múa giáo vù vù chém tới tấp nhát nào nhát nấy như trời giáng. Tướng Mạnh Hổ, Tướng Nhị Beo ra sức chống đỡ yếu thế thấy rõ sắp bị đánh bại tới nơi còn Chủ Tướng Lê Quang ra sức đánh với Triệu Công. Triệu Công tuy lớn tuổi nhưng võ nghệ cao cường múa trường đao như sấm sét chém tới như mưa. Lê Quang múa đao chống trả thế đao chém tới ầm ầm trận chiến kinh hồn cát bay đá chạy không ai chịu thua ai. Quân Văn Lang đang trong lúc yếu thế có thể nói là sắp bị đánh bại tới nơi. Trong lúc nguy cơ ấy. Bỗng nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất. Hai bên cánh tả, cánh hữu phía sau lưng quân loạn tặc phản loạn. Quân Văn Lang đánh thốc tới thế mạnh như chẻ tre dưới sự chỉ huy của Tướng La Thông. Tướng Sơn Tây. Mười vạn quân phản loạn Trung Nguyên tức thời rối loạn. Cùng lúc ấy bốn Cha Con Tri Phủ. Thục An Kim, Thục An Chu, Thục An Hãn, Thục An Ngưu ở trên thành Âu Tây Châu nhìn thấy hai cánh quân phản loạn Đông – Tây do các Vua Việt chỉ huy đã bị hai cánh quân Văn Lang đánh bại. Liền mở cổng thành thống lĩnh hơn một vạn quân xông ra hiệp cùng hai cánh quân Văn Lang từ phía sau đánh bọc tới, dồn ép quân phản loạn Việt Trung Nguyên vào giữa tiêu diệt. Thơ rằng: Binh hùng tứ phía bao vây Quân reo dậy đất cờ bay rợp trời Quân Nguyên bị đánh tơi bời Chỉ vì phản lại Vua Hùng tan thây. Triệu Công đang hăng say chiến đấu với Chủ Tướng Lê Quang. Bỗng thấy quân binh rối loạn thời chưa hiểu là chuyện gì. Cùng lúc ấy một tướng giặc phi ngựa tới nói lớn: Bẩm Nguyên soái mau cho quân mở đường rút lui, quân Văn Lang đang bao vây tứ phía dồn ép quân ta vào giữa tiêu diệt. Triệu Công nghe nói thất kinh hét lớn: Bắn pháo lệnh rút lui. Lê Quang quát lên như sấm nổ: Chạy đâu cho thoát. Liền phi ngựa đến chém Triệu Công tới tấp. Vị tướng giặc mới đến múa giáo chận đánh Chủ Tướng Lê Quang. Triệu Công phi ngựa thúc quân binh phá vòng vây Tướng Giặc múa giáo ra sức đánh với Lê Quang bỗng hét lên một tiếng chém tới Lê Quang một giáo mạnh như sấm sét bất thình lình phóng ngựa chạy dài. Chủ Tướng Lê Quang không rượt đuổi theo mà thúc quân binh xông lên chém giết quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên như chém chuối. Quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên kinh hồn bạt vía người ngựa đạp lên nhau mà chạy. Quân Văn Lang lao theo chém thôi là chém. Thơ rằng: Tế Gia Yêu Quỉ ra đời Làm cho Bách Việt đứng ngồi không yên Ngư Tinh chuyển hóa xưng vương Mở màng chinh chiến nát tan cơ đồ Văn Lang binh lửa dậy trời Chỉ vì tranh Bá của loài Yêu Tinh Ôi thê thảm còn chi Bách Việt Thây ngã nhào kết cuộc thảm thê Văn Lang con cháu Rồng Tiên Lạc Nguồn Lạc Cội đảo điên cơ đồ Quỉ Yêu xây chuyển lộng hành Chia bè rẽ phái tranh giành hại nhau. Nói về ba Cha Con Triệu Công thúc quân binh phá vòng vây chạy về Phù Châu. Quân Văn Lang rượt đuổi theo chém giết tơi bời. Ba Cha Con Triệu Công chạy thục mạng bán sống bán chết. Thời thấy một đạo quân xuất hiện biết đó là quân của mình vô cùng mừng rỡ. Đạo quân trước mặt nhanh chóng đến nơi. Thì ra đó là vợ của Triệu Côi Phù Châu con của Vua phù Việt. Đang trên đường vận chuyển lương thực. Phù Châu thấy Cha Chồng và Chồng thất trận thảm thê. Đằng sau quân Văn Lang đuổi theo chém giết rất dữ. Phù Châu nói: Để con chận đứng quân Văn Lang lại cho. Nói xong Phù Châu phi ngựa về phía trước thấy quân Văn Lang trùng trùng lớp lớp hò hét rượt đổi quân phản loạn Trung Nguyên chém giết ầm ầm dậy trời dậy đất. Phù Châu phi ngựa tới hét lớn: Quân Văn Lang khốn kiếp kia xem đây. Liền rút ra một cái quạt niệm chú quạt liền ba cái. Tức thời cuồng phong nổi dậy ầm ầm mù trời mịt đất cát bay đá chạy cây cối ngã đổ. Quân Văn Lang bị cuồng phong đánh bật trở lại kinh hồn bạt vía rút lui không còn đuổi theo quân phản loạn nữa. Rút hết về Âu Tây Châu. Triệu Công điểm lại quân binh, đi tiêu hơn bốn vạn. Xây xẩm mặt mày. Chưa kể các Vua việt bỏ mạng, cánh Đông cánh Tây quân binh các Vua việt chết hơn phân nửa. Phù Châu nghe nói Cha mình Vua Phù Việt đã bỏ mạng khóc sướt mướt nói: Để con đem quân giết sạch quân Văn Lang báo thù. Triệu Công thở dài can: Quân Văn Lang xảo trá Lắm khó mà đánh bại lúc nầy được phải chờ cơ hội khác. Ngay lúc bây giờ đây là củng cố lại lực lượng ngăn chặn không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Bằng ra lệnh cho Triệu Côi thống lĩnh hai vạn quân đến Phù Châu kết hợp với quân Phù Việt cũng cố thành trì trấn giữa không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Triệu Chi thống lĩnh hai vạn quân đến Lâm Giang Tây Châu kết hợp với quân Lâm Việt cũng cố thành trì trấn giữ không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Triệu Công thống lĩnh hai vạn quân đến Uất Lang Việt Châu kết hợp với quân Lang Việt củng cố thành trì trấn giữ không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Tan nát nước nhà do mất Cội Chiến chinh loạn lạc bởi lòng tham Truyền thống Ông Cha vừa quên lãng Binh đao máu lửa dậy tràn lan Khốn khổ muôn dân vì đâu hỡi Độc tài độc trị họa diệt vong Hãy theo Quốc Tổ thời dựng nước Pháp Quyền Dân Chủ náo nương thân. Muốn xây dựng lên một đất nước thật sự Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. NHÂN QUYỀN Dân Chủ Văn Minh. Thời phải xây dựng lên Nhà Nước Pháp Quyền, dựa trên nền tảng Quyền con người nhà nước Pháp Quyền của Dân do Dân và vì Dân. Đằng nầy Cha Con Doãn Thường không hiểu gì về nhà nước Pháp Quyền mà chỉ dựa trên Văn Từ lừa dối mà thôi. Cha con Doãn Thường chủ thuyết xây dựng lên nhà nước Pháp Quyền bằng con đường bạo lực. Đấu tranh bằng bạo lực thắng là Vua thua là giặc. Thời không thể nào lập lên một nhà nước Pháp Quyền chân chính được. Mà chỉ lập lên nhà nước độc quyền, độc tài, độc trị vì muốn lập lên một nhà nước Pháp Quyền thật sự của dân, do dân, vì dân thời cuộc đấu tranh đó lập lên nhà nước Pháp Quyền, không phải là cuộc đấu tranh thắng là Vua thua là Giặc. Mà là cuộc đấu tranh Văn Hóa về quyền con người. Chỉ Có Ở Thánh Chiến, không có ở phàm chiến, thần chiến. Nhà nước Pháp Quyền phải lập trên nền tảng Quyền con người. Nhân Quyền công bằng bình đẳng. Vì thế lập lên nhà nước Pháp Quyền không phải nhà nước thắng là Vua, thua cho là Giặc, nhà nước Độc Tài, Độc trị. Có thể nói Cha Con Doãn Thường vẽ ra chiếc bánh Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng, Dân Chủ, Dân Quyền, Văn Minh. Nhà Nước Pháp Quyền của Dân do Dân và vì Dân. Lừa dân quả thật là tài tình. Dân Bắc Văn Lang vì mê chiếc Bánh Vẽ hợp lòng dân nầy. Nên Dân Bắc Văn Lang sẵn sàng đi theo Cha Con Doãn Thường. Cướp lấy Bắc Văn Lang lập lên nhà nước Trung Nguyên Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị quản lý Dân chúng còn chặt chẽ hơn Phương Bắc Nhà Chu. Phương Nam Vua Hùng. Dân Chúng sống trong một nhà tù rộng lớn dưới sự kiểm soát quản lý gắt gao của nhà nước Trung Nguyên. Tất cả ruộng đất đều về tay nhà nước Trung Nguyên Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Với một thể chế xin cho dân chúng không những sống không có Tự Do như những gì Cha Con doãn Thường đã nói. Mà còn sống trong cảnh bóc lột thậm tệ. Dân Chúng khi hiểu ra sự lừa đảo của Cha Con Doãn Thường thời tài sản hết sạch tất cả đều là của nhà nước Trung Nguyên. Dân chúng được nhà nước Trung Nguyên chia cho có ruộng đất để canh tác làm ăn. Nhưng chỉ là nô lệ khéo làm công cho một địa chủ lớn là nhà nước Độc Tài Độc Trị. Không có dư chỉ đủ sống mà thôi. Theo những gì Quốc Tổ Vua Hùng Dạy: Muốn có một đất nước thật sự Tự Do. Công Bằng, Bình Đẳng, Nhân Quyền Dân Chủ Văn Minh. Thời nhà nước Văn Lang thời Mạt Pháp Phải tự xóa bỏ Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị. Tiến tới nhà nước Pháp Quyền. Nhà nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp là Vua của nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Còn Vương, Vua chỉ là người Đại diện tối cao của nước Văn Lang. Bảo vệ thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo Dân tộc. Thời nhà nước đó mới thật sự là nhà nước Pháp Quyền. Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Nhà nước Công Bằng Dân Chủ Văn Minh. Cha Con Doãn Thường chỉ là xảo ngôn lừa đảo. Mưu đồ cướp lấy Bắc Văn Lang mà thôi. Khi chiếm lấy được Bắc Văn. Thời lộ bộ mặt Chồn Cáo lộ ra Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Tạo lên thể chế xin cho Tàn Bạo vô cùng. Và cuối cùng cũng đưa đến sự nhanh chóng hủy diệt. Đất nước Trung Nguyên không còn của Trung Nguyên mà Trở Thành Trung Quốc Phương Bắc. Những di tích Văn Hóa Văn Lang xóa sạch không còn. Thay vào đó là di tích Văn Hóa Phương Bắc. Điều đáng nói ở đây Dân Tộc Văn Lang đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc. Chạy theo Văn Hóa Phương Bắc. Đánh mất bản Sắc Văn Hóa Truyền Thống Dân Tộc. Thời nguy cơ mất nước sắp đến. Anh Hùng Lạc Cội. Chia bè rẽ phái nổi lên đòi tự trị tranh giành đất đai chém giết lẫn nhau. Tạo ra cảnh nồi da nấu thịt Anh Em tàn sát, tranh bá tranh hùng. Cuối cùng cũng rơi vào tay các thế lực ngoại xâm. Cũng như Cha Con Doãn Thường dâng Bắc Văn Lang cho Phương Bắc Nhà Chu, Thời Chu Nguyên Vương. Gương lịch sử thời xưa cũng như thời nay ở vào thời nào Dân Tộc Văn Lang. Hay Dân Tộc Việt Nam. Mà đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn làm phai mờ truyền thống anh linh dân tộc. Chạy theo Văn Hóa ngoại lại cũng chính là lúc thời kỳ dẫn đến sự đen tối nhất. Dân chúng không còn đoàn kết được nữa dẫn đến chia bè rẽ phái chém giết lẫn nhau xưng hùng xưng bá. Cũng là lúc các thế lực ngoại xâm có cơ hội xâm lược đất nước Văn Lang hay đất nước Việt Nam. Bài học xương máu từ lịch sử Ông Cha. Mỗi lần cây mất gốc thời héo cành rũ ngọn. Mỗi lần nước không nguồn thời sông cạn đồng khô. Nói tóm lại: Cứ mỗi lần quên đi Quốc Tổ Vua Hùng. Quên đi truyền thống anh linh dân tộc. Là mỗi lần kiếp nạn xảy ra, binh đao máu lửa chém giết lẫn nhau, đói nghèo lạc hậu. Đạo đức xuống cấp thậm chí dẫn đến không còn lương tri nhân tính làm những điều tội lỗi không sao tưởng tượng được. * * * PHẦN 10 Đây nói về Chủ Tướng Huỳnh Trung Kỳ thống lĩnh 8 vạn quân nhanh chóng đến Quan Hải Châu. Khi đại quân chỉ còn cách Quang Hải Châu mười dặm thời cho quân binh dừng lại. Huỳnh Trung Kỳ liền cho đội quân thám báo trinh sát đến Quang Hải Châu xem xét tình hình. Đội quân Thám Báo đi không bao lâu thời trở về báo: Bẩm Chủ tướng Quân phản loạn Trung Nguyên đang tấn công Quang Hải Châu, tình thế vô cùng nguy cập. Huỳnh Trung Kỳ nghe xong liền ra lệnh: Tô Vũ nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh hai vạn quân đánh thẳng xuống cửa Tây Hải Châu. Tuân lệnh. Chu An nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng từ cánh đông đánh bọc lên cửa phía đông thành Hải Châu. Tuân lệnh. Còn Huỳnh Trung Kỳ thống lĩnh bốn vạn quân đánh thẳng vào cửa chính Nam nơi có hơn 10 vạn quân chủ lực quân phản loạn Trung Nguyên. Đây nói về Tri Phủ Quang Hải Châu. Kỳ Thọ cùng ba người con là Kỳ Lộ, Kỳ Hội, Kỳ Duyên cố thủ Quang Hải Châu không chịu đầu hàng quân loạn tặc phản loạn. Ở trên thành chửi rủa bốn cha con Triệu Phàn: Thằng giặc Triệu Phàn kia. Ngươi theo Cha Con Doãn Thường cướp lấy Bắc Văn Lang xưng Vương. Xưng Chúa Phản bội lại non sông Tổ Quốc. Phản bội Quốc Tổ Vua Hùng tội ngươi đáng phanh thây xẻ thịt. Mau bỏ gươm giáo xuống quy hàng may ra còn mạng sống. Triệu Phàn cười ha hả nói: Thằng Kỳ Thọ ngu dốt kia thời đại Hùng Vương sắp hết rồi. Toàn là một lũ tham quan chỉ lo tửu sắc vơ vét của dân phá tan đất nước Văn Lang. Ông trời nổi giận mới sanh ra Chúa mới ra đời. Doãn Thường là Quốc Tổ đầu thai trở lại cứu dân tộc Bách Việt Văn Lang thoát khỏi bọn tham quan để lo cho dân cho nước sống được tự do ăn no mặc ấm. Mau thức thời mở cổng thành quy hàng, thời còn cái đầu để mà nhìn con nhìn cháu. Bằng không thời con gà con chó cũng không còn. Kỳ Thọ nghe Triệu Phàn nói Doãn Thường là Quốc Tổ đầu thời râu tóc dựng đứng lên quát như sấm nổ: Thằng Triệu Phàn kia ngươi dám hỗn láo đến Anh Linh Quốc Tổ. Quốc Tổ nào đầu thai tiêu diệt con cháu các Vua Hùng của mình. Chỉ có loài Ác Quỉ đầu thai cướp giang san Quốc Tổ thời có. Ta lạ gì Ông Cha ngươi ở phương Bắc đã từng giết Vua Nhà Tấn đại nghịch Ác Đạo. Đã bị tru di cửu tộc. Nếu không nhờ Phương Nam Văn Lang che chở thời làm gì dòng họ Triệu Ngươi hưng thịnh như ngày hôm nay. Không biết ơn các Vua Hùng có công dựng nước, có công giữ nước để cho ngươi hưởng lạc mà còn tạo phản. Theo ác quỉ manh tâm cướp lấy giang sang các Vua Hùng. Triệu Phàn quát: Ta không cướp lấy giang sang Vua Hùng mà là thay thế Quốc Tổ Vua Hùng tiêu diệt lũ tham quan các ngươi đã quên hết Cội Nguồn chạy theo Văn Hóa Phương Bắc bán đứng truyền thống đất nước Văn Lang. Nếu không giết sạch lũ tham quan các ngươi để các ngươi sống chỉ làm dơ bẩn đất nước Văn Lang mà thôi. Kỳ Thọ quát: Các ngươi không cướp lấy giang sang Vua Hùng thời Bắc Văn Lang, là Bắc Văn Lang. Sao các ngươi thay tên đổi xứ thành Trung Thổ, Việt Trung Nguyên. Triệu Phàn thua lý quát lớn: Nơi trận địa chỉ nói chuyện bằng gươm đao ta hạn cho Cha con Kỳ Thọ ngươi trong vòng ba ngày quy thuận Việt Vương Tế Gia thời sống. Bằng chống lại Việt Vương Tế Gia thời chết. Kỳ Thọ nhìn lên trời than rằng: Cướp nước nhờ lối xảo ngôn Lừa dân nhờ lối khéo khôn dụng từ Chánh Tà lẫn lộn mơ hồ Làm cho dân chúng lầm đường Tà Ma Vua Hùng thời bỏ lánh xa Yêu Tinh Quỉ Dữ ngợi ca tôn thờ Văn Lang đen tối mịt mờ Ôi thôi non nước dậy thời binh đao. Ba ngày trôi qua không thấy Cha Con Kỳ Thọ mở cửa thành đầu hàng. Triệu Phàn liền ra lệnh cho các chư hầu Vua Việt, Vua Giao Việt, Vua Loan Việt, Vua Khê Việt tấn công cửa Tây Thành. Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt, Vua Lang Việt tấn công cửa Đông thành. Còn Bốn Cha Triệu Phàn thống lĩnh 10 vạn quân đánh trực vào cửa chính Nam thành. Quan Hải Châu không lớn lắm thành cũng chẳng cao. Đứng trên thành nhìn xuống thấy quân giặc đông như kiến chuẩn bị tấn công thành. Trong khi trong thành chỉ hơn một vạn quân. Quan Tri Phủ Kỳ Thọ nhìn lên trời thở dài. Kỳ Duyên nhìn thấy Cha thở dài như vậy nói: Thưa Cha bọn phản động dã tâm hiểm độc. Chúng muốn cướp lấy giang sang Quốc Tổ Vua Hùng biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Việt Trung Nguyên. Tội phản nghịch đã rõ. Con Cháu Rồng Tiên không bao giờ đầu hàng chúng. Lũ phản nghịch Phản bội đất nước Văn Lang dù cho mạnh đến đâu cũng không có gì là nao núng chỉ còn một hơi thở là xông lên chiến đấu quyết một còn một mất với quân phản loạn bất lương nầy. Kỳ Thọ nhìn đứa con gái thân yêu của mình nói những lời đầy chính nghĩa dũng cảm như thế lòng cảm thấy rất vui. Kỳ Thọ nói: Nếu cuộc chiến quyết tử hôm nay là cuộc chiến chống ngoại xâm thời hay biết mấy. Nhưng đây chỉ là một cuộc chiến Bách Việt Văn Lang tàn sát lẫn nhau không vẻ vang gì. Một cuộc chiến phải nói là vô cùng đau đớn nồi da nấu thịt. Nhưng không còn cách nào để lựa chọn đành phải tử chiến với quân loạn tặc phản loạn bảo vệ thành quả mà Ông Cha ta đã gầy dựng lên. Đất nước Văn Lang của Quốc Tổ Vua Hùng quyết không thể rơi vào tay quân loạn tặc phản loạn được. Không để cho Cha Con Doãn Thường cướp lấy thêm một tất đất nào nữa. Kỳ Lộ cũng nói: Sợ gì quân phản loạn sẳn sàng tử chiến với chúng. Kỳ Hội cũng nói: Non Sông Tổ Quốc nầy nào phải của Cha Con Doãn Thường khai dựng lập nên mà có từ thời Kinh Dương Vương dựng Nước Xích Quỷ, Văn Lang rồi đến bây giờ. Cha Con Doãn Thường muốn cướp lấy giang sang Văn Lang phải dẫm lên xác chết của chúng ta. Những kẻ phản loạn chúng chỉ lợi dụng hình ảnh Quốc Tổ làm bức bình phong che chắn tội ác phản loạn của chúng mà thôi tội ác bọn phản loạn đã rõ. Kẻ nào theo quân cướp nước thời coi như phản bội lại Ông Cha. Giết sạch chẳng tha. Dù chúng có mạnh đến đâu cũng không có gì đáng sợ. Chết Vinh hơn sống nhục. Chúng con sẵn sàng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Nước Văn Lang chỉ có Quốc Tổ Vua Hùng là vì Quốc Tổ duy nhất khai dựng nước Văn Lang mà thôi. Không Trung Thổ Việt Trung Nguyên gì cả. Kỳ Thọ nghe các con nói những lời chính nghĩa như vậy lấy làm tự hào khen: Các con quả không mất đi dòng máu Tiên Rồng. Dòng máu anh hùng bất khuất. Kỳ Thọ thấy các con anh dũng sẵn sàng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng liền phất cờ hiệu lệnh sẵn sàng tử chiến. Khẩu hiệu được truyền ra: Văn Lang là đất nước Văn Lang. Kẻ nào cướp lấy kẻ đó sẽ bị tiêu diệt. Thơ rằng: Quên mình thề giết quân Nguyên Dù cho ngã gục tiến lên sẵn sàng Dù cho quân giặc trùng trùng Theo gương Phù Đổng lẫy lừng năm xưa Đánh cho lũ giặc khiếp kinh Đánh cho phản loạn nát tan phen nầy Gươm đã sẵn trong tay tử chiến Nào hò reo liều chết huy sinh Tiến lên Tử chiến, tiến lên diệt thù. Triệu Phàn thấy Cha Con Kỳ Thọ ngoan cố không chịu đầu hàng mà còn sẳn sàng tử chiến liền phất cờ hiệu lệnh thổi còi tức thời pháo lệnh tấn công đã bắn lên trời. Quân phản loạn reo hò dậy trời dậy đất ào ào bắc thang trèo lên thành. Có sự yểm trợ của đội quân xạ tiễn, tên bắn lên thành như mưa. Quân binh Quang Hải Châu trên thành ra sức chống trả. Nhưng tình hình khó chống cự được lâu Quan Hải Châu sắp rơi vào tay quân phiến loạn. Trong lúc quả chuông treo sợi tóc thành Hải Châu mất đến nơi. Bỗng quân phiến loạn nghe quân binh trên thành Hải Châu reo hò vang dậy: Quân cứu viện đến rồi, quân cứu viện đến rồi. Tinh thần quân binh dân cao chống trả quyết liệt. Nói về quân phiến loạn thấy quân Văn Lang kéo tới từ phía sau đánh thốc lên như vũ bão. Gươm đao giáo mác dậy trời. Quân loạn tặc phiến loạn chưa lấy được thành bị quân Văn Lang đánh tới tấp nên có bề yếu thế. Quân binh trên thành liền chiếm lại ưu thế. Phản công dữ dội la hét dậy trời. Bắt sống Triệu Phàn Bắt sống Triệu Phàn Đi theo bè lũ quỉ yêu tinh Một bọn phản nòi quân khác máu Quét sạch chúng đi tiến lên tiến lên. Nói về Tô Vũ thống lĩnh hai vạn quân nhanh chóng tiến thẳng đến cửa Tây Hải Châu đánh từ phía sau địch đánh tới làm cho quân giặc rối loạn. Vua Giao Việt, Vua Loan Việt, Vua Khê Việt không còn sức đâu mà tấn công thành, bằng quay sang điều khiển quân binh chống trả lại quân Văn Lang từ sau đánh tới. Cùng lúc ấy cửa Đông Hải Châu trận chiến đã xảy ra dữ dội Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt, Vua Lang Việt thúc quân binh chống trả lại quân Văn Lang từ phía Đông bọc sau đánh tới như vũ bão. Vua Giao Việt, Vua Loan Việt, Vua Khê Việt huy động quân binh toàn lực lượng chận đứng quân Văn Lang tràn tới như nước vỡ bờ. Vua Giao Việt thấy Tướng Văn Lang cỡi con ngựa đen múa trường đao chém quân phản loạn như chém chuối. Liền cỡi ngựa xông tới múa giáo chém tới. Chu An thấy vua Giao Việt chận đánh mình, liền quát lên như sấm nổ hét lớn: Quân phản loạn nạp mạng. Phi ngựa múa đao chém tới Vua Giao Việt. Vua Giao Việt múa giáo chống trả. Đường đao Chu An như rồng bay phụng múa chém tới như mưa sa bão táp. Vua Giao việt đánh không lại sắp bị đánh bại tới nơi. Vua Lạc Việt từ xa thấy thế phi ngựa đến trợ lực giao chiến. Hai người đánh một đao giáo dậy trời. Khi ấy nơi miếu Thổ Thần gần đó cách không xa trận chiến có một số Anh Linh Tướng sĩ ở các thời Vua Hùng nhìn thấy cảnh Bách Việt Văn Lang chém giết dậy trời thời không khỏi thở dài. Bỗng một hồn thiêng anh linh Tướng Sĩ ngân bài thơ rằng: Thời mạt vận Văn Lang nội chiến Thôn tính nhau chém giết lẫn nhau Chiến trường máu đổ đầu rơi Thắng thua, thua thắng biển trời thê lương Văn Lang ơi hỡi Văn Lang Vì đâu nên bởi chiến tranh thế nầy Chiến trường bỏ mạng khắp đầy Thắng thua, thua thắng cuộc hề loạn li. Nói về Phó Tướng Lý Hạo thúc quân binh Văn Lang xông lên chém quân loạn tặc phản loạn ầm ầm. Vua Việt Lang thúc quân loạn tặc phản loạn chống trả. Chiến trường ngựa hí quân reo gươm đao giáo mác dậy trời, hai bên xáp lá cà thi nhau mà chém. Thây người thi nhau ngã gục thê thảm hãi hùng. Nơi Miếu Thổ Thần các Anh Linh Tướng Sĩ nói: Dân tộc Bách Việt Văn Lang tàn sát lẫn nhau, chúng ta khó mà giúp bên nào vì tất cả là Đồng Bào anh em chúng ta, dù biết rằng đó là quân loạn tặc phản loạn. Thôi thời mặc cho huyền cơ số phận dân chúng Văn Lang vậy. Thơ rằng: Nguồn Cội mất nước non nguy khốn Cảnh Đồng Bào chém giết lẫn nhau Chiến tranh loạn lạc biết bao Thây phơi chật đất núi sâu hận thù Bởi lạc Nguồn chia bè rẽ phái Bởi tham tàn xưng bá xưng vương Chiến trường mạnh được yếu thua Thắng Vua, thua Giặc còn chi đạo trời Gươm đao gào thét hãi hùng Văn Lang Bách Việt chiến trường thây phơi Sự thật là thế ai ơi Sử Kinh để lại cho đời soi xem. Nói về Lý Hạo thấy Vua Việt Lang hung dữ thúc quân loạn tặc phản loạn chống trả lại quân Văn Lang chém quân Văn Lang tới tấp. Lý Hạo hét lên một tiếng như sấm nổ phi ngựa lao tới chém Vua Việt Lang. Vua việt Lang múa giáo chống trả. Hai bên đánh với nhau một mất một còn giáo đao choảng nhau đinh tai nhức óc. Lý Hạo giả thua bỏ chạy Vua việt Lang đổi theo, bất ngờ Lý Hạo quay ngược trở lại chém một đao, Vua Lang Việt tránh không kịp nhào xuống ngựa hồn du Địa Phủ. Quân Văn Lang thắng thế hò hét xông lên chém quân loạn tặc phản loạn tơi bời. Quân phản loạn tặc phản loạn đạp lên nhau bỏ chạy thây người ngã gục lớp lớp. Thơ rằng: Ôi thôi sanh mạng còn gì Văn Lang Bách Việt kể gì giết nhau Nhìn xem mà thấy lòng đau Đầu rơi máu đổ vứt thây khắp cùng Cũng vì tranh bá tranh hùng Hồn sa Địa Phủ hết còn siêu sanh. Muốn cứu vãn đất nước thoát khỏi sự kìm kẹp của ngoại bang cũng như tránh khỏi cuộc binh đao máu lửa nội chiến. Tìm lại con đường Độc Lập Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng, Nhân Quyền Dân Chủ Văn Minh. Không phải bằng con đường bạo lực mạnh được yếu thua. Thắng xưng là Vua, thua cho là Giặc. Xem đi xét lại Giặc với Vua cũng chỉ là một thứ. Mà giải quyết bằng con đường Văn Hóa. Tránh con đường chém giết lẫn nhau. Tranh Hùng Tranh Bá. Mạnh ai cũng tự cho mình là chính nghĩa. Mà là tất cả đồng trở về Cội Nguồn TÔN THỜ QUỐC TỔ vun đắp cái gốc Cội Nguồn Dân Tộc lên cao. Thời Tự nó nở cành xanh ngọn tự nó giải quyết tất cả mọi mâu thuẫn. Giải quyết tất cả mọi xung đột giải, quyết đói nghèo lạc hậu. Khi sức mạnh tinh thần đoàn kết toàn Dân Tộc đã có. Chính nghĩa đã sung đầy tự đứng vững trên đôi chân của chính người Đại Việt. Nội Lực hùng mạnh. Thời màng đêm ách thống trị ngoại ban sẽ tan biến không còn. Hãy đi theo con đường Quốc Tổ. Con đường bất chiến tự nhiên thành. Nghĩa là mỗi người dân Việt Nam tôn vinh Cội Nguồn, TÔN THỜ QUỐC TỔ Phát huy truyền thống anh linh dân tộc. Thời kiếp nạn dân tộc sẽ tai qua nạn khỏi. Bỏ mất cội Nguồn, quên đi truyền thống anh linh dân tộc, thời bóng u minh sẽ trùm xuống non sông Tổ Quốc ngay. Yêu tinh quỉ dữ sẽ nhân cơ hội nầy mà đầu thai làm người khởi động bộ máy chiến tranh. Lôi kéo con cháu Tiên Rồng vào cảnh nồi da nấu thịt. Như Kinh Văn đã nói trên. * * *
PHẦN 11 Bấm để xem Nói về Chu An một mình đánh với Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt. Có vẻ hơi yếu thế nếu kéo dài trận chiến sẽ bị Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt đánh bại. Chu An trổ hết thần oai uy dũng quyết một còn một mất đường đao chém tới véo véo kinh hồn. Vua Điền Việt, Vua Lạc Việt múa giáo quyết hạ gục Chu An trận chiến càng lúc càng dữ dội. Bỗng từ xa một dũng Tướng phi ngựa tới hét lớn chém Vua Điền Việt. Vua Điền Việt bận lo chống đỡ đao pháp Chu An chém tới như mưa nên không tránh kịp đao pháp bất ngờ chém tới liền trúng một đao ngã nhào xuống ngựa chết tốt. Vua Lạc Việt kinh khiếp định bỏ chạy nhưng không còn kịp bị Chu An chém một đao ngã nhào hồn lìa khỏi xác. Quân Văn Lang thắng thế như nước vỡ bờ ào ào lao tới chém quân loạn tặc phản loạn như chém chuối. Thây phơi như rạ quân loạn tặc phản loạn thi nhau bỏ chạy bán sống bán chết. Quân Văn Lang không đuổi theo mà đánh bọc hậu lên cửa Nam thành dồn đại quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên vào giữa. Cùng lúc ấy Tô Vũ xua quân đánh xuống cửa Tây như thác lũ. Vua Giao Việt thấy Tôn Vũ uy dũng vô song múa trường đao như mưa sa bão táp chém quân loạn tặc phản loạn như chém chuối. Vua Giao Việt múa song chùy phi ngựa xông tới đánh Tô Vũ. Hai Hổ giao tranh kẻ đao người chùy đánh với nhau cát bay đá chạy bụi đất mịt mù. Bỗng nghe một tiếng quát như sấm nổ. Vua Khê Việt múa cặp búa chém tới Tô Vũ thế là ba con Hổ đánh nhau chí tử. Tô Vũ một mình đánh không lại hai người chém bậy một Đao rồi bỏ chạy. Bỗng một tiếng quát như sấm nổ: Có phó tướng Hầu Bưu đây. Hầu Bưu liền chận đánh Vua Việt Khê. Vua Việt Khê ủy sức mạnh múa cặp búa ù ù chém tới. Hầu Bưu múa thương chống đỡ hai bên đánh nhau long trời lở đất. Tô Vũ quày ngựa trở lại múa trường đao chém vào Vua Giao Việt như mưa. Vua Giao Việt múa Song Chùy chống trả hai bên đánh nhau mù trời mịt đất. Bỗng một người xuất hiện Tô Cẩn con trai lớn Tô Vũ dương cung bắn một phát Vua Giao Việt trúng tên ngã nhào xuống ngựa Tôn Vũ dớt một đao bay đầu. Tô Cẩn lại dương cung bắn một phát nữa Vua Khê Việt trúng tên ngay cổ ngã nhào xuống ngựa Hầu Bưu dớt cho một thương Vua Việt Khê hồn du địa phủ. Vua Lang Việt kinh hồn bạt vía phi ngựa bỏ chạy. Quân Văn Lang thắng thế ào ào lao tới chém quân phản loạn tặc phản như chém chuối chết la chết liệt, quân phản loạn đạp lên nhau bỏ chạy. Quân Văn Lang không đuổi theo từ phía Tây bọc xuống cửa Nam đánh bọc sau lưng quân chủ lực loạn tặc phản loạn của địch đánh tới ép mười vạn quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên vào giữa. Thơ rằng: Giáo, đao, xối xả ầm ầm Tên bay chùy nện đùng đùng khiếp kinh Văn Lang kiếp nạn bủa vây Đầu rơi máu đổ giết nhau tương tàn Đồng Bào thê thảm Khốn cùng Văn Lang ơi hỡi còn gì Văn Lang Truyền thống mờ mịt nát tan Còn đâu yên ổn cháu con Lạc Hồng Truyền thống lệch lạc phai mờ Tương tàn chém giết hãi hùng biết bao Hỏi Trời hỡi tại làm sao Cội Nguồn vứt bỏ biết bao khốn cùng Nước non chinh chiến kinh hoàng Tranh giành quyền lực để rồi hại nhau. Đây nói về Chủ Tướng. Huỳnh Trung Kỳ thống lĩnh bốn vạn quân tiến thẳng đến cửa Nam Quang Hải Châu còn cách hơn mười dặm thời dừng lại. Cho quân trinh sát đi dọ thám. Không bao lâu thời quân dọ thám trở về báo: Bẩm Chủ Tướng, Quang Hải Châu sắp bị tấn công. Huỳnh Trung Kỳ nhanh chóng điều động quân binh: Trương Nhân Tướng Quân nghe lệnh: Có thuộc hạ Tướng Quân tức tốc thống lĩnh một vạn quân nhanh chóng đánh vào cánh tả quân chủ lực loạn tặc phản loạn. Tuân Lệnh. Bảo Đồng Tướng Quân nghe lệnh: Có thuộc hạ Tướng Quân tức tốc thống lĩnh một vạn quân nhanh chóng đánh vào cánh hữu quân chủ lực loạn tặc phản loạn. Tuân lệnh. Huỳnh Trung Kỳ nhanh chóng thống lĩnh hai vạn quân đánh thẳng vào trung đạo cửa Nam quân loạn tặc phản loạn khí thế hừng hực. Đây nói về Triệu Phàn ra lệnh tấn công Quang Hải Châu cửa thành sắp bị phá vỡ Quang Hải Châu sắp bị hủy diệt. Triệu Phàn ngửa mặt lên trời cười ha hả: Những kẻ chống lại bổn soái thời con gà con chó cũng không còn. Triệu Phàn nghĩ là mình sẽ chiếm được Quang Hải Châu hơn tiếng nữa. Bất ngờ thấy quân binh trên thành Hải Châu reo hò vang dậy: Quân Văn Lang đến rồi, đền rồi. Quân binh trên thành phản công dữ dội. Triệu Phàn chưa hiểu nép tẻ gì cả thời có một tướng phi ngựa đến báo: Bẩm Thượng Quân Nguyên Soái quân Văn Lang đã tấn công cửa Đông cửa Tây rồi quân ta đang chống trả quyết liệt. Triệu Phàn nghe xong vô cùng kinh hãi. Triệu Phàn nghe chiêng trống nổi dậy vang trời hình như quân Văn Lang bủa vây tứ phía. Triệu Phàn chưa biết xử trí ra làm sao thời thấy một tướng lĩnh khác phi ngựa tới báo: Bẩm Nguyên Soái quân Văn Lang đang tấn công vào cánh hữu cánh tả quân ta như vũ bão. Triệu Phàn thất kinh hét lớn ra lệnh cho Triệu Quân mau thống lĩnh quân binh chống trả lại quân cánh tả Văn Lang. Triệu Quân nhanh chóng cùng mấy viên tướng phi ngựa đến cánh tả thời thấy quân Văn Lang như nước vỡ bờ ào ào xông tới chém giết ầm ầm. Triệu Phàn không ngờ quân Văn Lang không những hùng mạnh mà còn kéo đến tấn công nhanh chóng như cơn bão lốc. Liền ra lệnh Triệu Hàn cùng một số tướng lĩnh điều khiển quân binh chống trả lại quân cánh hữu Văn Lang như cơn bão đánh thốc tới. Triệu Phàn chưa kịp trở tay thời quân Văn Lang từ Trung Đạo chính diện ào ào kéo đến như nước vỡ bờ, gươm đao giáo mác chiêng trống dậy trời dậy đất, cờ xí lớp lớp. Triệu Phàn không còn cách nào hơn là thúc quân giao chiến. Cùng lúc ấy Triệu Anh phi ngựa tới nói: Thưa Cha quân Văn Lang đánh bại quân ta cửa Đông Cửa Tây rồi đang đánh bọc hậu đánh tới rất mạnh. Không những thế quân Hải Châu từ thành tràn ra kết hợp với quân Văn Lang bao vây vây tứ phía đánh tới tấp rất mạnh quân ta chống đỡ không nổi. Triệu Phàn kinh hoảng bắn pháo lệnh rút lui chạy về Hạt Linh Giao Châu. Quân Văn Lang rượt đuổi chém giết tơi bời. Bốn cha con Triệu Phàn chạy bán sống bán chết ngã gục la liệt khắp dọc đường. Triệu Phàn khiếp vía than rằng: Thôi hết rồi. Triệu Phàn vừa than xong thời trên hư không bỗng xuất hiện một con quái vật đầu Sấu đuôi Rồng Quái Vật Thuồng Luồng hóa ra một trận cuồng phong đen trời mịt đất che chở cho quân loạn tặc phản loạn. Quân Văn Lang bị trận quái phong đánh bật trở lui vô cùng khiếp đảm. Cũng may lúc ấy trên hư không bỗng vang lên tiếng sấm lớn. Con thuồng luồng khiếp sợ biến mất. Quân Văn Lang liền thoát kiếp nạn của trận cuồng phong quái ác khủng khiếp ấy. Nói về Huỳnh Trung Kỳ, Tô Vũ, Chu An thúc quân rượt đuổi quân phản loạn Trung Nguyên, không ngờ bị cuồng phong chận đứng. Thời than rằng: Cơ trời không cho ta tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên. Thời biết rằng Bách Việt Văn Lang rơi vào cảnh đại họa vì kiếp nạn Yêu Tinh Quỉ Dữ không sao tránh khỏi. Huỳnh Trung Kỳ bằng thu quân trở lại Quang Hải Châu địa đầu Trung Văn Lang tiếp giáp với Bắc Văn Lang. Đóng quân trấn giữ tại đây không cho quân loạn tặc phản loạn Trung Nguyên tiến quân chiếm đánh Trung Văn Lang. Thơ rằng: Nước loạn vì đâu phải có căn Nào phải tự nhiên có chị Hằng Mất Nguồn lạc Cội sanh nguy biến Nước non đen tối họa kiếp chen. Nói về Triệu Phàn bị quân Văn Lang đánh tả tơi thu quân chạy bán sống bán chết. Nếu không nhờ trận cuồng phong đẩy lùi quân Văn Lang thời không biết sẽ thảm họa ra sao thở dài nói: Quân Văn Lang quả là lợi hại không dễ gì đánh bại được. Triệu Phàn điểm quân lại thời đi tiêu hơn hai vạn. Chưa kể cánh Đông, cánh Tây thiệt mạng hơn phân nửa. Các Vua Việt đều bỏ mạng tại sa trường. Chi bằng cố thủ Đông Nam Bắc Văn Lang vững chắc thời hay hơn. Liền kêu Triệu Quân đến nói: Con điểm hai vạn quân đến trấn thủ Lạc Trung Giao Châu. Kết hợp với quân Lạc Việt cũng cố thành trì. Không cho quân Văn Lang tiến ra địa phận Bắc Văn Lang. Triệu Quân theo lệnh Triệu Phàn nhanh chóng điểm hai vạn quân đến Lạc Trung Giao Châu. Triệu Phàn gọi Triệu Hàn đến nói: Con điểm hai vạn quân nhanh chóng đến Liễu Giang Châu. Kết hợp với quân Liễu Việt cũng cố thành trì vững chắc không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc Văn Lang. Triệu Hàn liền nhanh chóng điểm hai vạn quân đến trấn thủ Liễu Giang Châu. Triệu Phàn cùng Triệu Anh thống lĩnh bốn vạn đến Hạt Linh Giao Châu, kết hợp với quân Linh Việt củng cố thành trì ngăn cản quân Văn Lang không cho quân văn Lang tiến ra Bắc Văn Lang. Nói về các vua Việt tử nạn con lên thay thế trấn thủ Nam Hải Giao Châu, Dạ Loan Châu, Thất Khê Châu, Đình Hải Châu, Cái Hải Châu, Hạ Giang Châu. Quyết phò Cha con Doãn Thường chống trả lại Hùng Vương. Vì cho rằng Hùng Việt Vương Tuân Lang, không làm theo di chí Quốc Tổ chỉ lo củng cố quyền lực Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị của mình không lo gì đến dân chúng Bách Việt Văn Lang nữa cần loại bỏ thay thế Quốc Vương mới. Và Cha Con Doãn Thường là Thần tượng để cho dân chúng tôn thờ. Phần đông dân chúng Bách Việt Bắc Văn Lang vì nghe theo lời lừa phỉnh của Cha Con Doãn Thường cho rằng Thời Đại Hùng Vương đã mạc phải thay thế thời đại mới. Dân chúng Bắc văn Lang nghĩ Cha Con Doãn Thường là hiện thân của Minh Quân không khác gì Quốc Tổ thời dựng nước Văn Lang. Nhưng dân chúng Bắc Văn Lang nào có hiểu. Một sự âm mưu lớn của Dòng Họ Vũ đã trải qua nhiều đời. Kể từ khi Vua Vũ từ phương Bắc thời Vua Kiệt di cư đến đất Bắc Văn Lang. Mưu đồ làm Vương nước Văn Lang. Đây nói về Đồng Bào dân chúng Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ bởi chiến tranh chia cắt Bắc Nam dân chúng qua lại không được. Có những người Mẹ nhớ con ở Bắc. Người Ông người Cha nhớ con ở Nam ngày đêm ràn rụa nước mắt. Trong số người nhớ con ấy có một vị kỳ nhân tài trí vô cùng tên là Văn Bát không theo quân loạn tặc phản loạn, cũng không ra giúp cho Vua Hùng vì chán ngán thế sự anh em Bách Việt Đồng Bào tương tàn lẫn nhau. Sau có thơ rằng: Nghĩ đời mà ngán cho đời Từ đây Nam – Bắc tương tàn giết nhau Nghĩ đời càng nghĩ càng đau Văn Lang đất Bắc còn đâu một nhà Biến thành Trung Thổ mất rồi Tranh Giành chém giết dân tình đảo điên Rồng Tiên ơi hỡi Rồng Tiên Lạc Nguồn Lạc Cội đảo điên cơ đồ Đồng bào chung một Cội Nguồn Quên đi Nguồn Cội tranh giành hại nhau Thánh Thần trông thấy đớn đau Thắng thua, thua thắng nhục vinh cuộc hề Chia bè nổi loạn ê chề Lạc vào Ác Đạo linh hồn còn chi Muôn đời vạn kiếp vùi chôn Khắp nơi Địa Phủ dập dồn nạn tai Ác gieo Ác gặt chuyển xây Khổ chồng lên khổ biết bao khốn cùng Quên Nguồn quên Cội lạc đường Nước non, non nước ngập tràn binh đao. Ở vào thời Quốc Tổ Hùng Vương dựng nước không có sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Mà tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc. Sự hiện thân của Nhà nước chính là sự hiện thân Công Lý. Thực thi Công Lý đêm lại sự Công Bằng, Bình Đẳng, Văn Minh của Xã Hội. Từ bỏ Độc quyền, Độc Tài, Độc Trị. Đó là cái phúc cho toàn Dân Tộc, tránh đi bao tai họa lặp đi lặp lại tranh danh đoạt lợi binh đao máu lửa. Xây dựng lên Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước của Dân do Dân và vì Dân. Như từ buổi khai dựng lập lên nước Văn Lang. Hai chữ Đồng Bào thiêng liêng. Bách Việt Văn Lang sống trong Công Bằng, Bình Đẳng. Không có Sự Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị. Mà sống theo Nhân quyền Dân Chủ Văn Minh. Nhà Nước thật sự của Dân do Dân và vì Dân. Là Nhà nước Pháp Quyền. Tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Luật Vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời chính là Kim Chỉ Nam cho sự phát triển xã hội, tiến tới dân giàu nước mạnh Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng, Bình Đẳng Văn Minh. * * * PHẦN 12 Đây nói về Văn Khánh Thống Soái. Theo lệnh Hùng Việt Vương, Tuân Lang. Thống Lĩnh 30 vạn quân tiến về Bắc Văn Lang tiêu diệt quân phản tặc phản loạn Cha Con Doãn Thường dấy loạn chiếm Bắc Văn Lang biến thành thuộc địa Trung Nguyên. Đại quân đi đến Vân Giao Châu thời chia ra làm ba đạo quân chủ lực. Đạo quân cánh tả do Chủ Tướng Lê Quang chỉ huy, thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Âu Tây Châu. Đạo quân cánh hữu do Chủ Tướng Huỳnh Trung Kỳ chỉ huy thống lĩnh 8 vạn quân tiến thẳng đến Quang Hải Châu. Còn đạo quân chủ lực Văn Khánh thống soái thống lĩnh 14 vạn quân trực tiếp chỉ huy tiến tới Tiên Châu, Bạch Lang Châu quyết tiêu diệt cho được quân loạn tặc phản loạn. Khi đại quân chỉ còn cách Tiên Châu hơn 10 dặm thời thống soái Văn Khánh cho đại quân dừng nghỉ. Thống soái ra lệnh cho đội quân thám báo xem xét tình hình Tiên Châu và Bạch Lang Châu rồi mới tiến quân. Đội quân thám báo đi không bao lâu thời trở về báo: Bẩm thống soái Bạch Lang Châu đã bị quân phản loạn Trung Nguyên chiếm mất rồi. Còn Tiên Châu thời quân phản loạn Trung Nguyên đang bao vây trùng trùng lớp lớp có lẽ chuẩn bị tấn công đến nơi. Văn Khánh nghe xong liền điều động quân chủ lực chia làm hai đạo quân. Một đạo quân tiến đánh lấy lại thành Bạch Lang Châu. Một đạo quân tiến đánh quân phản tặc loạn đảng Tiên Châu. Chủ tướng Võ Hầu nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 7 vạn quân tới Bạch Lang Châu ngay trong đêm tối nay nhân lúc quân phản loạn mới chiếm được thành còn hỗn loạn chưa ổn định. Bất ngờ tiến quân vào thành quét sạch tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn. Tuân Lệnh. Lương Minh nghe lịnh. Có thuộc Hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân nhanh chóng bọc lên phía Tây thành Tiên Châu đánh xuống sau lưng quân loạn tặc phản loạn. Tuân Lệnh. Lưu Hà nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân bọc từ phía Đông thành Tiên Châu đánh bọc lên sau lưng địch. Tuân Lệnh. Còn thống soái Văn Khánh thời thống lĩnh 3 vạn quân nhanh chóng bất ngờ đánh thẳng vào sau lưng địch vào cửa chánh Nam Tiên Châu. Đây nói về quân phản loạn tặc phản loạn. Quan Đại Phu Chủng Hầu. Cùng Quan Trung Lang Giá Chữ thống lĩnh 5 vạn quân đánh chiếm Bạch Lang Châu. Chủng Hầu, Giá Chữ dùng loa kêu gọi Cha con Thạch Trung Sơn đầu hàng. Chủng Hầu lớn lối kêu gọi rằng: Quân Bạch Lang Châu cùng Quan Tri Phủ nghe đây. Niên Đại Hùng Vương sắp hết. Niên Đại Việt Vương Tế Gia ra đời. Thần linh ứng cơ dạy như thế. Các quẻ ứng nghiệm không sai mau thức thời bỏ thời đại Hùng Vương mà theo thời đại Việt Vương Tế Gia. Thời cái đầu trên cổ vẫn còn. Không chừng còn được làm quan trở lại. Còn bằng trái lại cơ trời thời không ai còn sống sót. Ở trên thành Thạch Trung Sơn thấy quân loạn tặc phản loạn phát loa kêu gọi quân Bạch Lang Châu đầu hàng với lời lẽ vô đạo đức như vậy cũng như lợi dụng vào Thần Linh Ứng Quẻ hết sức lợi hại những người nhẹ dạ cả tin sẽ ngả lòng theo. Thạch Trung Sơn bằng phát loa nói rằng: Lời kêu gọi bọn loạn tặc phản loạn các ngươi chỉ là lời Ma lời Quỉ nói những lời bất Trung bất Nghĩa. Phản dân hại nước. Các ngươi sẽ bị quả báo cho những sự sai lầm phản phúc theo loạn tặc Phản Loạn Cha Con Doãn Thường. Các ngươi sẽ bị trời tru đất diệt. Chủng Hầu, Giá Chữ chỉ Thạch Trung Sơn quát: Thằng Thạch Trung Sơn ngu si kia. Không biết thức thời là gì cả. Việt Vương Tế Gia là đấng con trời sanh xuống. Nay mai sẽ làm chủ nước Văn Lang. Xóa bỏ Độc Tài, Độc Trị, xóa bỏ bè lũ tham quan hại dân hại nước. Dân chúng sẽ được tự do an hưởng thái bình. Thạch Trung sơn quát lớn: Hai thằng Chủng Hầu, Giá Chữ ngu dốt kia ngươi là con cháu Tiên Rồng. Con Dân Văn Lang theo loạn tặc. Phản bội lại truyền thống anh linh Dân Tộc. Phản bội lại Vua Hùng thời coi như hết đời rồi mau quay đầu lại là bờ bến bằng không, không còn cái đầu để mà thấy vợ con. Chủng Hầu, Giá Chữ nghe Thạch Trung Sơn nói thế cười ha hả nói: Ta không cần biết là ai đúng ai sai ai Tà ai Chính Chỉ cần thắng là vua thua là giặc. Bắc Văn Lang nay thuộc về Việt Vương Tế Gia. Không còn của Hùng Vương nữa Bắc Văn Lang trở thành đất Việt Trung Nguyên, không còn là đất Văn Lang, nói cho đúng là nhà nước Văn Lang sẽ xóa sổ thay vào đó là nhà nước Việt Trung Nguyên ra đời. Thạch Trung Sơn nghe Chủng Hầu, Giá Chữ nó thế thời vô cùng tức giận hét lớn: Bọn phản loạn mất hết lương tâm lương tri kia ta không thể nói bằng lý lẽ với các ngươi được nữa chỉ nói bằng gươm, đao, giáo, mác mà thôi. Trung Sơn Ta nhất quyết không đầu hàng sẵn sàng quyết tử với quân phản loạn tặc phản loạn các ngươi. Liền ra lệnh cho quân binh ráng ra sức cố thủ cung thành chờ quân Văn Lang đến cùng. Không ngờ tối hôm ấy vào lúc nửa đêm bỗng nghe quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên tràn vô thành như nước vỡ bờ. Các cửa thành đã mở toang quân binh trong thành không chống cự lại nổi thi nhau ngã gục có số đầu hàng. Khi ấy trong thành có năm vị Bố Chánh Đại Nhân Tri Huyện trong đó có Bố Chánh Tri Huyện Bảo Trung chạy tới chỗ Cha Con Tri Phủ Thạch Trung Sơn nói: Cha Con Hồ Phĩ, Hồ Lũ, Hồ Bão phản rồi. Thấy tình thế vô cùng nguy cập mau trốn đi. Tri Phủ Thạch Trung Sơn không kịp di chuyển vợ con. Bằng theo đường hầm bí mật thoát ra khỏi thành Bạch Lang Châu nương theo đồi gò trốn vào rừng. May sao gặp được quân Văn Lang như đã nói trên. Chủng Hầu, Giá Chữ chiếm được thành đang thúc quân ráo riết tìm Cha Con Thạch Trung Sơn. Hồ Phỉ bắt cả gia quyến của Thạch Trung Sơn đến giao nạp cho Chủng Hầu, Giá Chử. Chủng Hầu, Giá Chữ nhìn thấy hai người con gái xinh đẹp hỏi: Hai người con gái nầy là ai? Hồ Phỉ nghe hỏi cúi đầu khom lưng nói: Bẩm nhị vị Quan Đại Phu. Hai người con gái nầy chính là hai con dâu của Thạch Trung Sơn. Giả Chữ, Chủng Hầu vốn là tay háo sắc, thấy thứ Nữ Chân Kiều da trắng như tuyết, lưng eo, ngực lớn, mông nở. Thời có vẻ thèm khác vô cùng khen Hồ Phỉ không hết lời. Giá Chữ, Chủng Hầu ra lịnh giam tất cả bọn chúng lại. Nhất là hai cô nầy cho ăn uống tử tế tắm rửa sạch sẽ để nhị quan gia thưởng thức. Mặt trời buông xuống nhưng tiếng quân binh loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên vẫn sùng lục khắp nơi. Tìm những tên quân binh đang trốn trong kẹt cửa xó nhà lôi ra chém giết. Đàn bà con gái trong thành bị quân binh hảm hiếp thê thảm vô cùng. Chúng thi nhau vơ vét châu báu cướp của giết người. Những ai đầu hàng theo quân loạn tặc phản loạn thời chúng tha. Còn tất cả thời bị giết sạch. Giá Chữ, Chủng Hầu đang hảm hiếp Thứ Nữ, Chân Kiều vô cùng thích thú. Thơ rằng: Con người đó cũng con người đó Lạc Cội Nguồn đã hóa Yêu Tinh Hung tàn bạo ác vô biên Mất đi nhân tính trở nên hung tàn Lạc Cội Nguồn linh hồn hóa quỉ Mất lương tâm chẳng nghĩ Ông Cha Cuồng dâm phản loạn ác tà Hung sùng ác sát kể gì anh em Đời ăn cướp còn chi chính nghĩa Phản non sông hí hửng xưng danh Mặt dày đến hết chỗ chê Làm quân loạn tặc cũng khoe anh hùng Luật nhân quả khó mòng chạy thoát Ác gieo ra quả báo đến nơi Chạy đâu thoát khỏi cơ trời Xương tan thịt nát để rồi mà xem. Đây nói về Chủ Tướng Võ Hầu. Thống lĩnh 7 vạn quân kéo đến Bạch Lang Châu, chỉ còn 8 dặm nữa thời tới Bạch Lang Châu Võ hầu liền cho quân dừng lại im hơi lặng tiếng ra lệnh cho đội quân thám báo đến Bạch Lang Châu dọ thám xem xét kỷ tình hình. Chờ cho trời tối mới tiến quân tấn công quân phản loạn đang chiếm lấy Bạch Lang Châu. Nói về quân thám báo chia nhau nhiều hướng lặng lẽ âm thầm phi thân trong màn đêm đến Bạch Lang Châu. Đội Trưởng thám báo là Vũ Tùng đang phi thân vùn vụt nương theo những lùm cây thời phát hiện có người ẩn núp. Vũ Tùng ra lệnh cho quân thám báo nhanh chóng bao vây tóm cổ chúng, đội quân thám báo là những người không những võ nghệ cao cường mà thuật kinh công cũng siêu đẳng, tuy trời đã sẩm tối nhưng những người thám báo hành động lợi hại vô cùng họ tóm được ngay ba người ẩn núp trong bụi rậm trên đồi gò cao. Vũ Tùng hỏi gì ba người ấy cũng không nói liền cho người trói lại dẫn đến gặp Chủ Tướng Võ Hầu. Chủ Tướng Võ Hầu nhìn ba người tuy ăn mặt theo kiểu nông dân nhưng không che được vẻ oai phong của bậc công hầu khanh tước liền sinh nghi hỏi: Ba ngươi làm gì lén lút ẩn núp trong bụi rậm. Ba người nghe Võ Hầu hỏi vẫn làm thinh không nói. Vũ Tùng thấy vậy nổi nóng nói: Có lẽ chúng là ba tên quân dọ thám của quân loạn tặc phản loạn dùng tra tấn cực hình may ra chúng mới chịu khai. Ba người bị bắt nghe Vũ Tùng nói họ là quân loạn tặc phản loạn thời hai con mắt sáng lên chăm chăm nhìn Võ Hầu. Võ Hầu linh cảm ba người nầy không phải là quân dọ thám loạn tặc liền nhỏ dọng lễ phép hỏi: Ba vị là ai? Vì sao lại lẫn trốn trong bụi rậm? Người lớn tuổi nghe Võ Hầu hỏi lần nầy không làm thinh nữa mà hỏi lại: Các Ngài là quân binh ở nơi nào? Võ Hầu nghe người lớn tuổi hỏi liền nói: Bổn chủ tướng cho các ngươi biết cũng không sao. Ta chính là Chủ Tướng của quân Văn Lang. Ba người nghe xong liền quỳ lạy nói: Chúng tôi là Tri Phủ trấn giữ Bạch Lang Châu. Võ Hầu quá bất ngờ hỏi trong ba vị: Ai là Tri Phủ đại nhân Thạch Trung Sơn? Người lớn tuổi nói: Tôi chính là Thạch Trung Sơn. Võ Hầu nghe xong liền đứng dậy bước tới mở trói cho ba người chắp tay xin lỗi mời ba người ngồi. Thạch Trung Sơn giới thiệu người áo đen nói: Người nầy chính là Quan Tri Huyện Bảo Trung còn người nầy chính là con trai của tôi Thạch Kế. Võ Hầu nghe xong lấy làm mừng, liền hỏi: Tình hình quân loạn tặc phản loạn mạnh yếu ra sao? Tri Phủ Thạch Trung Sơn nói: Tình hình Bạch Lang Châu vô cùng hỗn loạn. Quân loạn tặc phản loạn đang sùng lục truy sát chém giết khắp nơi. Võ Hầu hỏi: Quân loạn tặc phản loạn hiện đang ở trong thành bao nhiêu? Quan Tri Huyện Bảo Trung nghe Võ Hầu hỏi liền trả lời thay cho Quan Tri Phủ Thạch Trung Sơn: Bẩm chủ tướng quân loạn tặc ở trong thành phỏng chừng ba vạn, còn hơn hai vạn chúng đang bao vây kiểm soát các cổng thành ra vào, cũng như sự truy sát khắp nơi của chúng. Mỗi cổng thành quân loạn tặc canh giữ ước lượng hơn 5 nghìn quân. Thạch Trung Sơn nói xen vào: Tôi còn hai người con đang lẩn trốn trong rừng chủ tướng cho phép tôi đi tìm chúng nó. Võ Hầu nói: Tri Phủ đại nhân cứ tự nhiên hành động. Thạch Trung Sơn đi tìm không bao lâu thời gặp được hai con, người con lớn tên là Thạch Công, người con út tên là Thạch Thừa, người nào người nấy anh dũng vô song. Võ Hầu nhìn thấy không khỏi khen thầm. Võ Hầu giờ đây đã nắm rõ tình hình quân phản loạn liền lên kế sách tấn công lấy lại thành Bạch Lang Châu ngay trong đêm nay: Trương Hoài nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân cùng Thạch Công, Thạch Thừa, nhanh chóng bất ngờ tấn công vào cửa Tây hạ gục hơn năm nghìn quân phản loạn, thần tốc tiến vào thành quét sạch quân phản loạn ngay trong đêm nay. Tuân Lệnh. Nguyên Tôn Chí nghe lệnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 2 vạn quân cùng với Tri Huyện Đại Nhân Bảo Trung, Tri Phủ Đại Nhân Thạch Trung Sơn nhanh chóng bất ngờ đánh vào cửa Đông xóa sổ hơn năm nghìn quân phản loạn thần tốc tiến vào thành hốt trọn ổ không cho một tên loạn tặc phản loạn chạy thoát. Tuân Lệnh. Còn Võ Hầu thống lĩnh 3 vạn quân bất ngờ thần tốc đánh vào cửa chính Nam Bạch Lang Châu. Đây nói về Trương Hoài thống lĩnh 2 vạn quân cùng Thạch Công, Thạch Thừa. Nhanh chóng bí mật di chuyển quân binh trong đêm. Dưới ánh trăng lờ mờ ảm đạm quân Văn Lang đã tiến sát sau lưng quân loạn tặc phản loạn chỉ hơn nữa dặm mà chúng không hay biết gì hết. Năm nghìn quân phản loạn đang bao vây cửa phía tây thành Lang Châu chỉ chăm chăm đến dân chúng, bắc dân chúng những người chúng cho là quân binh Bạch Lang Châu giả dạng dân trốn thoát. Cùng lúc ấy cánh quân phía Đông Nguyên Tôn Chí cùng Tri Phủ Thạch Trung Sơn, Tri Huyện Bảo Trung Thạch kế cũng đã áp sát quân giặc, chờ lệnh tấn công mà thôi. Cùng lúc ấy Võ Hầu cũng đã thống lĩnh 3 vạn quân áp sát quân loạn tặc phản loạn. Quân loạn tặc tuy có cảnh giác đề phòng nhưng cũng không phát hiện Quân Văn Lang áp sát chỉ chờ lệnh là tấn công tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn. Võ Hầu vừa nghe cánh Tây quân Văn Lang động chuyện tức thời ra lệnh tấn công. Quân Văn Lang bất ngờ ập tới tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn như bão lũ xơi vài miếng năm nghìn quân phản loạn chết sạch không còn một tên. Cùng lúc Nguyên Tôn Chí ở cánh Đông nghe quân Văn Lang ở cánh Nam động chuyển liền ra lệnh tấn công. Hơn năm nghìn quân phản loạn Trung Nguyên chẳng kịp trở tay bị quân Văn Lang xơi một phát chết sạch thây phơi như rạ. Cánh quân Văn Lang phía tây ra tay trước khi thấy quân loạn tặc phản loạn chỉ lo ăn uống trâu, bò, dê, heo. Cũng hảm hiếp đàn bà con gái. Chúng đang hưởng lạc thời bỗng nghe như một trận đại hồng thủy ập tới chém xối xả vào chúng. Quân loạn tặc phản loạn chưa kịp trở tay thời bị một đao đầu lìa khỏi cổ. Hai vạn quân Văn Lang ập tới chỉ cần đốt một phát là năm nghìn quân binh loạn tặc phản loạn chưa kịp kêu la thời hồn du địa phủ. Ba cánh quân Văn Lang đồng loạt tràn vào thành như cuồng phong vũ bão. Quân loạn tặc phản loạn trong thành không chút đề phòng vừa hảm hiếp phụ nữ, vừa quay heo, nướng gà, nấu bò, mổ trâu. Bỗng thấy quân Văn Lang như từ dưới đất chui lên, từ trên trời nhảy xuống chém bọn chúng như chém chuối chết không kịp ngáp, bay đầu thủng ruột không kịp trở tay. * * *
PHẦN 13 Bấm để xem Đây nói về Giá Chữ, Chủng Hầu là hai tay háo sắc thấy thấy Thứ Nữ, Chân Kiều. Tướng người mảnh mai xinh đẹp da trắng như tuyết, mông nở, ngực đầy, thời lao tới mà mân mà mê, mà ve mà vuốt Thứ Nữ, Chân Kiều càng kháng cự càng thời hai tên háo sắc lại càng thích thú. Hai tay đại gian đại ác như hai con mèo vờn chột, chúng vờn cho đã rồi mới xơi. Hai tên quỉ dữ đang hì hục hảm hiếp Chân Kiều, Thứ Nữ bỗng nghe quân reo dậy đất chiêng trống dậy trời. Gươm Đao giáo mác ầm ầm thời kinh hãi hỏi: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế? Nhưng nào có ai trả lời chỉ nghe gươm đao giáo mác dậy trời. Chủng Hầu phóng xuống giường từ trong nhà chạy ra mặt mày hớt hãi vừa mặc quần vừa chạy vừa nói không ra lời: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế? Chủng Hầu chưa hết khiếp sợ thời quân binh đã ập tới. Một vị tướng xuất hiện chận đầu Chủng Hầu cho quân binh bắt lại. Vị Tướng xông vào trong nhà thấy Thứ Nữ trần truồng nằm trên giường thời hiểu rõ tất cả. Thứ nữ vừa nhìn thấy vị Tướng quân mới đến thời khóc ròng nói: Hắn hảm hiếp thiếp rồi. Thạch Công hỏi: Hắn là ai? Thứ nữ khóc lóc nói: Hắn là Chủng Hầu. Thạch công hỏi: Thằng khốn từ trong nhà mới chạy ra đó sao? Thứ Nữ nói: Chính hắn. Thạch Công nói: Đưa thằng khốn ấy vào đây. Chủng Hầu lúc nầy mặt không còn chút máu. Thứ Nữ lúc nầy đã mặc lại áo quần cầm con dao tới nói: Ta xẻo thịt mầy. Thế là Thứ Nữ xẻo hết miếng thịt nầy đến miếng thịt khác, cắt mũi, cắt tai, móc mắt. Chủng Hầu đau đớn không chịu nổi. Hành hạ đã đời Thứ Nữ liền đâm cho mấy nhác Chủng Hầu hồn du địa phủ. Thứ Nữ liền tự sát chết luôn. Thạch Công đau đớn vô cùng bằm Chủng Hầu ra trăm mảnh. Đây nói về Giá Chữ đang hảm hiếp Chân Kiều nghe quân binh ập tới gươm giáo dậy trời thời kinh hải: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế? Còn đang trần truồng thời một người xông vào chém một nhát đứt lìa cánh tay, người ấy chém một nhát nữa rụng luôn một cánh tay nữa, người ấy xếnh cho một đá ngã nhào xuống đất. Chân Kiều nhìn thấy người đến cứu mình chính là Thạch Thừa. Liền khóc lớn: Hắn làm hại thiếp rồi. Thạch Thừa uất khí xông lên hỏi: Hắn Là Ai? Chân Kiều nói: Hắn là Giá Chữ. Thạch Thừa nói: Thì ra là thằng khốn nầy. Định băm ra thành từng mảnh. Chân Kiều bận xong áo quần nói: Để thiếp xử lý cho. Chân Kiều rút kiếm của Giá Chữ tới móc mắt mổ ruột moi gan đã đời rồi tự sát luôn. Thạch Thừa đau đớn vô cùng lấy kiếm băm Giá Chữ ra làm trăm mảnh. Nói về quân Văn Lang mau chóng lấy lại thành Bạch Lang Châu tiêu diệt quân phản loạn hầu như chết sạch. Chỉ còn một số ít người giả làm quân binh Lang Châu trốn chạy. Trong số người trốn chạy ra Bắc có Cha Con Hồ Phỉ, Hồ Lũ, Hồ Bão. Chạy đến huyện Lang Chi thời trời sắp mưa. Ba Cha Con Hồ Phỉ liền chạy đến gốc cây cổ thụ to lớn tránh mưa. Nghĩ là đã thoát nạn nhìn lên trời cười ha hả nói: Nghe nói Quốc Tổ Vua Hùng linh thiêng lắm. Thật ra chỉ là lời đồn đại phao tin. Cha Con ta phản bội lại Quốc Tổ hại con cháu Văn Lang chết như rạ nhưng nào có ai làm gì được Cha Con Ta đâu. Cùng lúc ấy trên không trung sấm chớp nổi lên ầm ầm một tia sấm chớp khủng khiếp đánh xuống chỗ cây cổ thụ tiếng nổ vang dội. Ba Cha Con Hồ Phỉ bị tia sấm chớp đánh trúng cháy đen cháy thui hồn phách tan biến khó tụ lại được vì Linh Căn Huệ Mạng đã bị hủy diệt hàng trăm triệu năm cũng chưa khôi phục căn thân huệ mạng linh hồn luân hồi mãi trong côn trùng thảo mộc. Về sau có câu thơ rằng: Trên đầu luôn có Thần Linh Nghe lời hỗn láo ngạo kinh Vua Hùng Thần Linh nổi giận đùng đùng Nổi cơn sấm sét giết loài yêu tinh Cha Con Hồ Phĩ cháy đen Phách hồn tan biến khó mong hoàn hồn Sử Kinh chép lại để đời Những ai phản lại giống nòi dè răng. Đây nói về Lương Minh, cùng hai phó tướng là Ba Ra và Hê Na theo lệnh Văn Khánh thống lĩnh 2 vạn quân nhanh chóng bọc lên phía Tây thành Tiên Châu đánh bọc xuống sau lưng quân phản loạn, trong lúc cánh Tây quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên đang tập trung lực lượng tấn công thành Tiên Châu nên không hay biết gì cả. Chỉ lo loan tin là thành Bạch Lang Châu đã chiếm lấy được rồi. Cùng lúc ấy đạo quân của Lưu Hà cùng hai phó tướng là Hơ Tu và Ê Ran, thống lĩnh 2 vạn quân từ cánh Đông bọc lên cũng đã áp sát sau lưng quân giặc. Nhưng quân giặc cũng không hề hay biết gì cả. Cùng lúc ấy thống soái Văn Khánh thống lĩnh 3 vạn quân áp sát quân giặc từ phía sau lưng cửa chánh Nam Phải nói Quân Văn Lang dưới sự chỉ huy của Văn Khánh duy chuyển quân binh thần tốc. Cũng như áp sát quân loạn tặc phản loạn, nhưng quân loạn tặc phản loạn không hay biết gì cả. Đây nói về Phạm Đổ Chinh Tân Quân Nguyên Soái thống lĩnh hơn 6 vạn quân tiến đánh thành Tiên Châu. Thành Tiên Châu khó đánh hơn thành Bạch Lang Châu nên quân phản loạn Trung Nguyên chưa có cách gì chiếm được. Chúng ngày đêm kêu gọi Cha Con Tri Phủ Anh Kỳ đầu hàng. Tri Phủ Anh Kỳ có bốn người con hai trai, hai gái đều là anh hùng hảo hán. Hai người con trai mạnh như voi nhanh như hổ, võ nghệ cao cường con trai lớn là Anh Võ, con trai nhỏ là Anh Quyền. Hai người con gái võ nghệ cũng cao cường. Một người là Xuân Cẩm. Một người là Kim Thu. Bốn cha con Anh Kỳ nghe quân phản loạn ngày đêm kêu gọi đầu hàng thời sôi gan quát lớn: Quân phản loạn theo Cha con Doãn Thường kia. Chúng bây không còn là con người nữa mà là một lũ ác quỉ nổi lòng tham cướp lấy Bắc Văn Lang. Các ngươi sẽ bị băm nát ra tương, ở đó mà lớn lối kêu gọi đầu hàng. Phạm Đỗ Chinh biết Cha Con Anh Kỳ thà chết không chịu đầu hàng. Liền hợp các tướng lĩnh lại nói chuẩn bị quân binh tối nay đến giờ Dậu tấn công Tiên Châu. Quân Tiên Châu không đầy một vạn nhưng tinh thần chiến đấu hừng hực dâng cao không hề khiếp sợ quân loạn tặc phản loạn tấn công. Cha Con Kỳ Anh chuẩn bị dầu sôi lửa bỏng. Cung tên đá lớn đánh trả lại quân công thành. Phạm Đỗ Chinh là tay cáo già thông thạo nhiều loại binh pháp. Nên Phạm Đỗ Chinh tấn công thành bằng hỏa Công theo hướng có lợi chiều gió. Tạo ra những cung lớn bắn dầu bắn lửa lên thành đốt cháy tả tơi rồi mới cho quân binh bắt thang leo tường tấn công với sự yểm trợ của đội quân xạ tiễn. Quân Văn Lang ẩn mình trong đêm không xa chờ cho quân phản loạn tấn công thành Tiên Châu là từ phía sau đánh bọc tới. Giờ Dậu đã đến còi hụ nổi lên, cũng như pháo lệnh tấn công quân loạn tặc phản loạn đã bắn lên trời tức thời quân phản loạn Trung Nguyên hò reo dậy đất. Dưới ánh trăng lờ mờ lửa bắn lên thành đỏ rực lửa gặp gió bốc cháy ngùn ngụt. Lửa cháy lan trên thành nhanh chóng. Những chảo dầu trên thành đang nóng để chống trả lại quân phản loạn leo tường không ngờ bị lửa phủ cháy phản ngược trở lại đốt cháy quân Tiên Châu. Trên thành quân binh hỗn loạn. Lửa cháy đỏ trời Phạm Đổ Chinh ra lệnh tấn công tức thời quân binh loạn tặc phản loạn ào ào xông tới bắc thang leo lên thành đen nghịt. Có đội quân yểm trợ bắn tên lên thành như mưa. Thành Tiên Châu đang trong lúc nguy kịch. Thời bỗng thấy quân phản loạn kinh hãi rối loạn vì quân văn Lang từ sau lưng đánh thốc tới như vũ bão chiêng trống ầm ầm quân reo dậy đất. Phạm Đỗ Chinh kinh khiếp: Chuyện gì thế? Chuyện gì thế? Một vị tướng phi ngựa chạy tới kinh hãi nói lớn: Bẩm Nguyên Soái quân Văn Lang bao vây trùng trùng lớp lớp từ sau đánh bọc tới như nước vỡ bờ thế mạnh đời non lấp biển. Phạm Đỗ Chinh xây xẩm mặt mày chưa kịp đối phó làm sao. Thời có một tướng khác phi ngựa tới báo: Bẩm nguyên soái mau cho quân phá vòng vây trốn chạy. Phạm Đỗ Chinh liền ra lệnh mau phá vòng vây chạy về Huyện Đức Nam, Bộ Hợp Phố, Đức Châu. Quân Bắc Việt Trung Nguyên thi nhau bỏ chạy dẫm đạp lên nhau thê thảm vô cùng. Khi ấy trên hư không có vị Đại Tiên trên đường chu du qua Đông Hải nhìn thấy cảnh ấy thở dài ngâm bài thơ rằng: Thê thảm nào hơn thảm cảnh nầy Thăng trầm họa phúc mãi chuyển xây Hết thịnh tới suy âu là thế Văn Lang kiếp nạn Quỉ chuyển xây Huyền cơ Tạo Hóa nào tránh thoát Nội chiến dậy trời giáo gươm bay Ba nghìn năm nữa tai kiếp hết Văn Lang Bách Việt sải cánh bay. Nói về Anh Kỳ trên thành Tiên Châu thấy Quân Văn Lang đánh bọc sau lưng quân loạn tặc phản loạn đánh tới liền cho bắn pháo lệnh ám hiệu lên không cho biết thành Tiên Châu chưa mất làm tăng thêm khí thế chiến đấu quân binh. Lương Minh cho người bắn pháo lệnh đáp trả lại. Anh Kỳ biết chắc là quân Văn Lang đang tấn công quân phản loạn bằng thống lĩnh quân binh mở cửa thành xông ra chém giết quân phản loạn chém thôi là chém quân phản loạn chết lớp lớp người ngựa đạp lên nhau bỏ chạy chết thôi là chết. Quân Văn Lang từ bốn phía đánh thốc tới gươm đao giáo mác dậy trời. Phạm Đổ Chinh xua quân phá vòng vây chạy về Huyện Đức Nam, giáp ranh với Huyện Lộc Điền, Hợp Phố Đức Châu. Quân Văn Lang rượt đuổi hơn 20 dặm gần đến Bàu Sen núi Bà phía Nam Huyện Lộc Điền. Thời trời bỗng nổi lên một cơn mưa khủng khiếp mưa xuống như trút mấy giờ liền. Nước tràn ngập đồng ngập sá quân Văn Lang đành phải rút trở về Tiên Châu. Văn Khánh nhìn lên trời thở dài nói: Không lẽ đây cũng là ý trời kiếp nạn Văn Lang phải mất Bắc Văn Lang. Văn Khánh rút quân về Tiên Châu trong lòng luôn lo nghĩ là khó mà chiếm lấy lại Bắc Văn Lang. Vì huyền cơ kiếp nạn Văn Lang như vậy. Con người không thể làm gì khác hơn là tận lực tri thiên mệnh mà thôi. Chiếm lấy lại Bắc Văn Lang được hay không còn phải chờ huyền cơ Tạo Hóa Cơ Trời. Nói về Phạm Đỗ Chinh nhờ trận mưa mà quân Văn Lang không truy đổi nữa. Cho người điểm lại quân binh thời chỉ còn hơn ba vạn thời thở dài xây xẩm mặt mày hơn 10 vạn quân giờ đây chỉ còn hơn ba vạn. Liền viết thư cho người về Kinh Đô Việt Trung Nguyên tức là Kinh Đô Xích Quỷ Bắc Văn Lang xin thêm quân trấn giữa Lộc Điền, Diêm Hồ Châu, Ninh Giao Châu. Không cho quân Văn Lang tiến ra Bắc. Văn Khánh tuy thắng trận nhưng không thể tiến sâu ra Bắc Văn Lang được. Vì Bắc Văn quân phản loạn đã củng cố các thành trì vững chắc. Lại thêm quân lực hùng mạnh trong hai cánh Quân Tây – Đông. Lê Quang, Huỳnh Trung Kỳ cũng chỉ giải tỏa sự bao vây của quân phản loạn ở Quang Hải Châu và Âu Tây Châu mà thôi. Có Lẽ ý trời Bắc Văn Lang rơi vào tay giặc. Chỉ còn cách trấn thủ địa đầu Trung Văn Lang, không cho quân phản loạn Trung Nguyên xâm chiếm Trung Văn Lang mà thôi. Bằng cho quân binh củng cố lại thành Bạch Lang Châu, củng cố lại thành Tiên Châu. Không cho quân phản Bắc Văn Lang tiến vào. Cũng từ đây Nam Bắc Phân Tranh quân Văn Lang. Quân Việt Trung Nguyên giao tranh khốc liệt. Quân Văn Lang tiến ra Bắc cũng không nổi. Quân Trung Nguyên tiến vào cũng không được. Kéo dài hơn bảy mươi năm. * * * PHẦN 14 Đây nói về Việt Vương tế Gia, thời còn điều khiển hơn trăm thương đoàn, buôn bán giao thương khắp đất nước Văn Lang. Có buôn lậu Sắt Thép từ Kinh Đô Văn Lang giao thương với Phương Bắc. Tích góp được một số thép tốt thượng hạn để dành tinh luyện thành kiếm báu. Ở vào thời ấy có Âu Giã Tử. Là người rất giỏi về luyện kim, luyện kiếm. Được Việt Vương Tế Gia mời đến tiếp đãi trọng hậu. Còn ban cho một chức quan. Việt Vương Tế Gia nói: Ta có một số thép rất tốt mua được từ Kinh Đô Văn Lang, ngươi có thể tinh luyện cho Ta thành năm kiếm báu được không? Âu Giã Tử nói: Bẩm Đại Vương. Hạ dân xem qua thép tốt ấy như thế nào mới biết luyện được hay không. Việt Vương Tế Gia liền cho người mang ra một bao thỏi thép. Mỗi thỏi thép nặng hơn cân, được hơn năm mươi thỏi. Âu Giã Tử liền bốc lên một thỏi xem thử thời không khỏi biến sắc mặt nói: Bẩm Đại Vương đây là những thỏi thép quý vô giá, những người có phúc lớn mới gặp được. Những thỏi thép nầy có từ thời luyện kim Cao Tổ, Cao Tông. Công thức luyện kim nầy đã thất truyền không còn ai biết nữa. Nếu đem rèn chế thành mũi tên thời bắn thủng cả áo giáp sắt. Áo giáp đồng lợi hại vô cùng. Nếu đem luyện thành kiếm báu thời chém sắt như bùn. Còn nếu luyện thành Thần Kiếm thời phải có vàng tinh luyện nguyên chất, cũng như phải có Tinh Khí Thần con người đồng trinh nam nữ kết hợp thời mới luyện thành. Việt Vương Tế Gia nghe xong liền cho người tìm đủ những thứ ấy. Âu Giã Tử liền chọn ngày lành tháng tốt khởi động sai các đồng nam đồng nữ cả thảy trăm người kéo bễ quạt than lửa cháy đỏ rực nhiệt độ rất cao nấu vàng nấu thép chảy ra nước bảy lần bảy 49 ngày đến ngày cuối cùng luyện thành Thần Vật. Thời khắc quan trọng tức thời năm nam năm nữ đồng trinh tự nguyện nhảy vào lò luyện kim phút chốc tiêu tan tất cả. Tức thời hào quang từ trong lò luyện kim sáng lên rực rỡ hóa thành Thần Vật. Âu Giã Tử mừng rỡ reo lên: Thành rồi, thành rồi. Âu Giã Tử liền làm ra năm thanh Thần Kiếm. Một là Trạm Lư, hai là Bàn Sính, ba là Ngư Trường, bốn là Can Tương, năm là Hiệp Gia. Việt Vương Tế Gia khi còn làm thương gia giàu có thường sang nước Ngô buôn bán Sắt, Đồng giao thương ra mắt Vua Thọ Mộng. Nên cũng có quen biết với Vua Ngô. Vua Ngô Thọ Mộng khi ấy có bốn người con. Người con Trưởng là Chư Phàn. Người con thứ hai là Dư Tế. Người con thứ ba là Di Muội. Người con thứ tư là Quý Trát. Vua Thọ Mộng lúc nào cũng dòm ngó Việt Trung Nguyên nhưng không biết làm sao đánh chiếm được Việt Trung Nguyên tức là Bắc Văn Lang. Bắc Văn Lang đất đai trù phú không nơi nào bằng. Lại có nền Văn Minh lúa nước từ thời Viêm Đế Thần Nông truyền lại. Nước văn Lang nhờ nền Văn Minh lúa nước nầy mà dân giàu nước mạnh. Việt Vương Tế Gia trị vì thiên hạ không bao lâu thời qua đời Việt Vương Doãn Thường lên thay thế. Việt Vương Doãn Thường là nhà Quân Sự Thiên Tài lại biết lo xa. Sợ Thọ Mộng đem quân xâm chiếm Bắc Văn Lang. Bằng sai sứ giả đêm ba thanh kiếm báu dâng hiến cho Vua Thọ Mộng cầu hòa. Khi ấy Vua Thọ cũng đã già không bao lâu thời mất. Người con lớn Chư Phàn lên thay thế. Thời lúc nào cũng muốn chiếm lấy Bắc văn Lang. Vì Bắc Văn Lang Việt Trung nguyên là miếng mồi quá béo bở. Không những giàu có về vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu. Nhất là giàu về lúa gạo, ngô, khoai, củ, quả ăn không hết. Mà còn giàu có về nguồn sông nước Thủy Sản, giàu có về Biển Cả Hải Sản, giàu có về Sơn Hào rừng núi. Chiếm lấy được Bắc Văn Lang chẳng khác gì ngồi trên đống vàng ngọc ngà châu báu. Ngồi trên Sơn Hào, Hải Vị. Muốn gì được nấy nhất là nền văn lúa nước. Nền văn minh sắt, thép. Thời không có mọt nước nào bằng. Chư Phàn ăn cũng mơ ngủ cũng mơ tìm mọi phương cách chiếm cho được Bắc Văn Lang. Chư Phàn nghĩ Cha Con Doãn Thường đã tận lực chống trả lại quân Văn Lang sức lực suy yếu. Chỉ cần khởi binh xâm lấn liền chiếm được Việt Trung Nguyên. Không ngờ quân Trung Nguyên khó đánh vô cùng. Bị quân Trung Nguyên đánh bại. Uất khí nổi lên sanh bệnh rồi chết. Chư Phàn chết. Dư Tế lên thay cũng đem quân xâm chiến Trung Nguyên Bắc văn Lang. Nhưng đều bị thất bại. Hao quân tổn tướng. Trong khi ấy các nước Phương Bắc dòm ngó nước Ngô có nhiều nước đem quân xâm lấn nước Ngô. Dư Tế ra sức chống trả lấy làm sầu não sanh bệnh chết. Di Muội lên thế. Thường đem quân xâm lấn biên giới Việt Trung Nguyên. Nhưng bị quân Việt Trung Nguyên Doãn Thường đánh bại. Từ đó Việt – Ngô như nước với lửa thường đánh nhau luôn trên chuyến tuyến biên giới của hai bên. Di Muội tốn không biết bao nhiêu là công sức hao quân tốn lương cũng không chiếm nổi đất biên giới Văn Lang sanh bệnh rồi chết. Đáng lý Vua Ngô Di Muội trước khi lâm bệnh phải nhường ngôi cho Công Tử Quang. Con Chư Phàn. Đằng nầy không nhường ngôi cho Công Tử Quang. Mà lập người con Di Muội là Vương Liêu lên làm vua. Công Tử Quang là con của Chư Phàn. Có ý muốn giết Vương Liêu. Nhưng chưa biết phải làm sao. Thời Vận may Công Tử Quang gặp Ngũ Tử Tư bỏ nước Sở chạy trốn đến nước Ngô. Công Tử Quang trọng dụng Ngũ Tử Tư cho làm thượng khách quý của mình. Nhờ Ngũ Tử Tư bày kế giết Vương Liêu. Năm 525 trước công nguyên. Tháng tư, ngày Bính Tý. Công Tử Quang đặt ngầm binh sĩ mang áo giáp ở nhà hầm. Mời Vương Liêu đến uống rượu Vương Liêu tuy có đề phòng. Chuyên Chư mang thức ăn lên dâng cho Vương Liêu bất ngờ lấy Ngư Trường kiếm chém sắt như chém bùn đâm Vương Liêu một nhát thủng áo giáp đang mặt chết tốt. Công Tử Quang lên làm Vua Ngô tức là Hạp Lư. Hạp Lư lên làm Vua nước ngô thèm khác Bắc Văn Lang Trung Nguyên còn hơn Cha, Chú của Y chiến tranh Việt – Ngô càng thêm dữ dội hơn nữa. Đây nói về Hạp Lư Vua Ngô ở bên kia phía Bắc Sông Trường Giang vô cùng lo lắng vì Việt Trung Nguyên càng ngày càng lớn mạnh. Phần thời sợ Việt Trung Nguyên tấn công. Phần thì sợ Sở tấn công. Nam thời sợ Việt Trung Nguyên vượt Trường giang sang đánh. Đông thời sợ Sở vượt sông Hán Thủy tiến đánh. Lư Hạp liền kêu Ngũ Viên tới nói: Ta có được ngươi như cá được nước ngươi có cách gì làm cho Nước Ngô ta hùng mạnh. Nam ngăn được Việt Trung Nguyên. Đông chặn được Sở. Ngũ Viên nói: Muốn làm được như vậy thời phải làm cho lúa thóc đầy kho. Sửa sang lại thành quách. Thu nạp binh sĩ. Luyện tập binh mã. Hạp Lư liền nghe theo lời Ngũ Viên chọn nơi đất tốt xây Thành Trì. Thấy phía Đông Bắc núi Cô Tô khí thế hưng vượng tức thời cho quân binh đắp thành trì không bao lâu Ngũ Viên đắp xong một thành lớn rộng bốn mươi bảy dặm gọi là Thiên Đô. Chia làm tám cửa như sau: Bàn Môn và Xà Môn ở phía Nam. Tề Môn và Bình Môn ở phía Bắc. Lâu Môn và Tượng Môn ở phía Đông. Xương Môn và Tư Môn ở phía Tây. Thành quách đắp xong. Ngũ Viên đón Lư Hạp vào Thiên Đô ở đấy. Rồi ra sức tuyển mộ quân binh lên đến hàng vạn vạn người ngày đêm thao luyện quân binh diễn tập chiến trận. Lại cho đắp một cái thành nữa ở phía nam Phượng Hoàng Sơn đề phòng Việt Trung Nguyên tiến quân sang đánh nước Ngô. Lúc bấy giờ Bá Hi nước Sở sợ tội chạy trốn nghe nói Ngũ Viên đã làm quan nước Ngô, mới trốn sang nước Ngô vào yết kiến Ngũ Viên hai người ôm nhau mà khóc. Ngũ Viên đưa Bá Hi vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư có lòng thương cho làm Quan Đại Phu cùng Ngũ Viên bàn việc nước. Quan Đại Phu nước Ngô là Bị Ly hỏi riêng Ngũ Viên rằng: Ngài nghĩ thế nào mà tin Bá Hi như vậy? Ngũ Viên nói: Sự oan uổng của Bá Hi, cũng chẳng khác gì sự oan uổng của tôi. Tục ngữ có câu rằng: "Đồng bệnh tương liên hẳn ngài chẳng còn lạ gì điều đó." Bi Ly nói: Ngài chỉ biết mặt ngoài, chưa biết mặt trong. Tôi trông Bá Hi, mắt nhìn như mắt chim ưng. Chân đi như dáng con hổ phải nói là người tham nịnh tàn ác chớ nên đến gần. Nếu người ấy được trọng dụng thời tất liên lụy đến Ngài. Ngũ Viên không cho là phải, cùng Bá Hi thờ Vua Ngô. Một hôm thiết triều Hạp Lư vua Ngô nói với triều Thần rằng: Nước Ngô Ta giờ đây phải nói là rất hùng mạnh. Tướng Giỏi quân nhiều Phương Bắc chẳng nước nào dám xâm lược. Việt Trung Nguyên không còn là mối lo nữa. Nhân cơ hội nầy ta từ Bắc đánh vào là chiếm được Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang. Nếu chiếm được Việt Trung Nguyên thời coi như nguồn lương thực dồi dào dân số lại đông. Phía Nam sợ gì Hùng Vương. Phía Bắc Sợ gì Nhà Chu. Sở muốn nuốt hồi nào chẳng được. Bá Hi tâu: Chúa công nói rất phải. Nếu không cơ hội nầy chiếm Bắc Văn Lang Trung Nguyên thời còn có cơ hội nào nữa. Vì sao thần lại nói như vậy? Vì Việt Vương Doãn Thường đã dốc toàn lực lượng chống trả lại quân Văn Lang từ Nam đánh ra Bắc. Còn lực lượng đâu chống trả quân ta. Quân ta bất ngờ đánh chiếm nhất định chiếm được Việt Trung Nguyên. Hạp Lư cho là phải. Ngũ Viên khuyên can tâu: Chúa công Bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên là nơi linh địa nước Xích Quỷ chín thời Kinh Dương Vương ngự trị Linh Địa ấy không dễ gì đánh chiếm được đâu. Nước Văn Lang tuy Nền Quốc Đạo không còn nhưng uy danh vẫn còn lừng lẫy Dân Chúng tuy ngã về Văn Hóa Phương Bắc. Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Nhưng không phải là quân ngoại xâm. Chỉ là quân nội loạn nổi lên đòi tự trị được dân chúng Bắc Văn Lang theo về bảo bọc che chở. Cuộc nội loạn Bắc Văn Lang không phải là lần đầu mà cách đây hơn ba trăm năm mươi năm vào thời. Hùng Huy Vương: Pháp Hải Lang. Phù Đổng Thiên Vương ra đời quét sạch quân xâm lược cũng như quân phản loạn. Ở vào thời đó 961 đến 893 trước công nguyên. Bắc Văn Lang các Vua Việt nổi lên đòi tự trị. Theo xu thế Phương Bắc, một quận, một huyện cũng xưng vua. Ân Mao Vương cùng Hồ Vương, Hung Vương đưa quân xâm lược. Bắc Văn Lang tưởng như là đã chiếm được Bắc Văn Lang. Nhưng đã bị Phù Đổng Thiên Vương quét sạch. Chỉ trong vòng ba ngày. Đừng nói đến thời Ân Mao Vương sau nầy. Mà ngay cả cuối thời Nhà Thương. (XemVăn Lang Chiến Sự 1 sẽ rõ). Ân Thọ khi lên ngôi Trụ Vương thời ngày đêm thèm khác nước Văn Lang giàu có. Ỷ mình có binh hùng tướng mạnh bằng dốc toàn lực lượng Nhà Ân. Trên 200 vạn quân tràn sang xâm chiếm cho bằng được nước Văn Lang. Nhưng mới tiến vào Bắc Văn Lang. Thời đã bị Hùng Tiên Lang: Điển Lang đánh bại vùi chôn hơn một nửa quân binh nơi đất Bắc Văn Lang. Cách đây gần 600 năm. (Tức là 1141 đến 1077 trước công nguyên). Vì thế Bắc Văn Lang tìm ẩn những điều không lường trước được. Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm Bắc Văn Lang chỉ là nội loạn được sự hưởng ứng của người dân Bắc Văn Lang. Còn chúng ta là khác không phải là quân nội loạn mà là quân xâm lược. Dân Văn Lang luôn tự hào dòng giống Tiên Rồng. Không dễ đánh thắng được đâu. Chúng ta đưa quân chiếm lấy Bắc Văn Lang chính là quân ngoại xâm lược. Dân Bắc Văn Lang tuy theo Cha Con Doãn Thường nhưng lòng quật cường anh linh truyền thống dân tộc Văn Lang vẫn còn mạnh. Không thể xem thường được. Hạp Lư không nghe lời khuyên của Ngũ Viên. Giao quốc chính cho Ngũ Viên cùng Phù Sai. Trực tiếp chỉ huy 25 vạn quân có thể nói là dốc toàn lực lượng sức mạnh của quân Ngô. Vượt qua Sông Dương tức là Sông Trường Giang chia làm ba đạo quân. Tiến đánh Việt Trung Nguyên. Đạo quân thứ nhất: Trực tiếp Hạp Lư chỉ huy thống lĩnh hơn 10 vạn quân cùng Bá Hi, Vương Tôn Lạc, Chư Nghị đánh thẳng vào Dương Giang Giao Châu. Đạo quân thứ hai: Bá Cổn Chủ Tướng Thượng Quân, Tiêu Chấn phó Chủ Tướng Hạ Quân thống lãnh 7 vạn quân đánh thẳng vào Bắc Giang Giao Châu. Đạo Quân thứ ba: Chuyên Tạo Chủ tướng, Bá Cẩn làm phó tướng thống lãnh 7 vạn quân đồng loạt vượt sông Dương Tử. Tiến vào địa phận Trung Nguyên đánh thẳng vào Lạc Giang Giao Châu.
PHẦN 15 Bấm để xem Nói về Quân Ngô tiến qua Bắc Văn Lang thế mạnh như chẻ tre đánh đâu thắng đó chiếm lấy các quận huyện chẳng khó khăn gì cả. Quân địa phương Việt Trung Nguyên khiếp kinh bỏ chạy. Hạp Lư cười ha hả nói: Quân Việt Trung Nguyên dồn hết vào phía Nam chống trả lại quân Văn Lang, còn binh lính đâu mà chống trả lại quân ta. Đời Ông Cha thế lực quân Ngô chưa đủ mạnh nên chưa lấy được Bắc Văn Lang. Nay thế lực quân Ngô Ta như nước vỡ bờ Bắc Văn Lang sẽ là của Ta. Đại quân Hạp Lư tiến đến đâu thời quân địa phương Việt Trung Nguyên bị đánh bại đến đó. Khi quân Ngô tiến sâu vào huyện Điền Lý. Sắp đến Dương Giao Châu. Thời nghe quân reo dậy đất quân Việt Trung Nguyên xuất hiện ước lượng hơn 2 vạn quân. Tướng dẫn đầu quân Trung Nguyên là Việt Vương Doãn Thường. Nói về Việt Vương Doãn Thường là Việt Vương đời thứ hai sau Việt Vương Tế Gia, nhà quân sự, chính trị, binh pháp thiên tài chuyển xây tình thế đủ sức nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang. Điều binh khiển tướng có một không hai trong thời ấy. Phía Nam Bắc Văn Lang, tức là Nam Việt Trung Nguyên đủ sức chống trả lại thế lực Vua Hùng. Phía Bắc, Bắc Văn Lang tức là Bắc Việt Trung Nguyên phòng thủ vững chắc không sợ các thế lực ngoại ban tấn công xâm lấn từ Phương Bắc. Nói về Hạp Lư Vua Ngô xua quân xâm lược tiến đánh Việt Trung Nguyên thế mạnh như chẻ tre, quân binh tràn tới đâu quân địa phương Việt Trung Nguyên tan rã đến đó. Hạp Lư vô cùng cao ngạo tiến quân đánh thẳng thọc sâu vào địa phận Việt Trung Nguyên. Quân Việt Trung Nguyên thua chạy có cờ. Hạp Lư càng tiến sâu vào Việt Trung càng cao ngạo. Nói Thế lực quân Việt Trung Nguyên suy yếu thấy rõ. Vua Ngô Hạp Lư cho đây là cơ hội chiếm lấy việt Trung Nguyên cho bằng được. Việt Vương Doãn Thường nghe tin Vua Hạp Lư trực tiếp chỉ huy 25 vạn quân chủ lực tiến đánh Việt Trung Nguyền liền trực tiếp thống lĩnh quân binh đối mặt với Hạp Lư Vua Ngô quyết đánh bại Vua Ngô Hạp Lư trong trận chiến xâm lược nầy. Hầu làm khiếp đảm các nước Phương Bắc như Sở, Tề, Tấn vân. Và.. vâng vâng. Doãn Thường ra lịnh: Linh Việt Hàn: Có Thần. Nguyên Soái thống lĩnh 2 vạn quân đến Huyện Dương Hạ bí mật phục kích chờ cho quân Ngô đi qua tiến sâu vào Trung Nguyên mới dàn quân ra phục kích chận đánh đường rút lui của chúng. Tuân Lệnh. Linh Cô Phù nghe lịnh. Có Thần. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân ẩn mình phục kích phía đông Huyện Điền Lý. Khi nào thấy pháo lệnh bắn lên trời nghe giao tranh khốc liệt thời mới xuất hiện từ cánh đông Huyện Điền Lý nhanh chóng tiến quân đánh bọc lên vào khúc giữa cắt đứt làm hai quân Ngô. Tuân lệnh. Linh Quang Dũng nghe lịnh. Có Thần. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân ẩn mình phục kích phía tây Huyện Điền Lý. Khi nào thấy pháo lệnh bắn lên trời nghe giao tranh khốc liệt thời nhanh chóng tiến quân đánh vào khúc đuôi quân địch. Tuân lệnh. Phân bổ lực lượng đâu vào đó. Việt Vương Doãn Thường thống lĩnh 2 vạn quân dụ địch sa vào kế bẫy của mình. Đây nói về hơn 10 vạn quân Ngô trực tiếp do Hạp Lư Vua Ngô chỉ huy tiến đến đâu thời quân Việt Trung Nguyên bị đánh tan tác đến đó. Quân Ngô không khác gì bầy chó sói ăn thịt bầy gà chận đường. Gặp quân Việt Trung Nguyên là xơi đẹp Quân Ngô cứ tiến sâu vào Trung Nguyên như chỗ không người. Khi quân Ngô đến đất Điền Lý thấy cây cối tuy không rậm rạp nhưng cũng che khuất tầm nhìn. Nếu qua khỏi đất Điền Lý thời tới Dương Giao Châu. Hạp Lư không coi quân Trung Nguyên vào đâu Đại quân Ngô cứ tiến sâu vào đất Trung Nguyên. Khi quân Ngô vào đất Điền Lý thời thấy một đạo quân xuất hiện phải nói là hùng mạnh nhất từ khi quân Ngô tiến vào đất Trung Nguyên. Ước lượng 2 vạn quân Tướng dẫn đầu quân Trung Nguyên là Việt Vương Doãn Thường. Việt Vương Doãn Thường thúc ngựa tới hét lớn chỉ mặt Vua Ngô là Hạp Lư chửi mắn nói: Thằng Hạp Lư ngu si kia Ta đối với nước Ngô không tệ. Đem ba bảo kiếm là Trạm Lư bảo kiếm, Bàn Sính bảo kiếm, Ngư Trường bảo kiếm dâng hiến cho nước Ngô giao hảo cầu hòa Ông Nội Thọ Mộng ngươi. Không nói với ngươi biết sao? Nay ngươi đem quân xâm chiếm Việt Trung Nguyên của Ta. Ngươi tưởng nuốt Việt Trung Nguyên dễ lắm sao nơi đất Điền Lý nầy là mồ chôn của ngươi. Hạp Lư nhìn thấy quân Trung Nguyên chỉ có trên dưới 2 vạn thời nhìn lên trời cười ngất: Thằng Doãn Thường cáo già kia ta lạ gì mà không biết Cha Con ngươi. Cha Con ngươi người gốc Phương Bắc dòng dõi Vua Vũ. Bị Vua Kiệt tri sát chạy đến Bắc Văn Lang. Tuy Dòng Tộc ngươi trở thành dân Văn Lang từ lâu. Nhưng Ông Cha ngươi nuôi mộng mưu đồ từ lâu chiếm lấy Bắc Văn Lang cướp giang sang của các Vua Hùng. Đất Bắc Văn Lang nào phải Cha Con Doãn Thường ngươi khai dựng tạo lập lên. Mà chỉ là quân loạn tặc phản loạn nổi dậy cướp nước. Còn Ta là quân xâm lược nào có khác chi. Miếng thịt béo bở Bắc Văn Lang nay không thuộc của ai. Ai mạnh gươm đao hơn thời người đó được. Việt Vương Doãn Thường nổi nóng quát: Có tướng nào ra lấy đầu thằng Hạp Lư ngu dốt kia cho ta. Bỗng một tướng tên là Vũ Hạo chấp tay nói: Để Thần ra lấy đầu thằng ngu dốt ấy cho. Nói xong Vũ Hạo phóng ngựa múa đao lao tới quát lớn: Thằng Hạp Lư quân cướp kia có giỏi thời ra đây đấu với Ông Nội ngươi. Hạp Lư nổi nóng quát: Có tướng nào ra thịt thằng hổn láo ấy cho Ta. Vương Tôn Lạc nói: Để Thần ra giết quách tên hổn láo ấy cho rồi. Vương Tôn Lạc nói xong phi ngựa lao tới múa đao chém Vũ Hạo. Vũ Hạo múa đao chống trả hai bên kẻ đánh qua người trả lại bụi cát mịt mù đánh hơn ba mươi hiệp. Vương Tôn Lạc giả đò thua bỏ chạy. Vũ Hạo đuổi theo chém Vương Tôn Lạc. Vương Tôn Lạc bất ngờ quay ngựa trở lại chém một đao như thiên lôi giáng. Vũ Hạo tránh không kịp trúng một đạo ngã nhào xuống ngựa chết tốt. Quân Ngô thắng thế Hạp Lư chỉ kiếm vào quân Việt Trung Nguyên ra lệnh tấn công thế là hơn 10 vạn quân Ngô ào ào xông lên. Doãn Thường cũng chỉ kiếm vào quân Ngô thét lớn tấn công thế là quân Việt Trung Nguyên ào ào xông tới xáp lá cà với quân Ngô trận chiến dậy trời dậy đất. Doãn Thường biết đánh không lại ra lệnh quân binh rút lui bỏ chạy. Hạp Lư thắng thế rượt đuổi theo Quân Trung Nguyên chém tơi bời. Quân Việt Trung Nguyên bỏ chạy một đoạn thời dừng lại bắn pháo lên trời không chạy nữa mà quay trở lại chống trả quyết liệt. Chận đứng hơn 10 vạn quân Ngô. Mười vạn quân Ngô tạm thời tiến tới không nổi. Hạp Lư đang hăng say thắng thế thúc quân binh xông tới tiêu diệt 2 vạn quân Trung Nguyên. Cùng lúc ấy từ phía Đông một đạo quân Việt Trung Nguyên đông như kiến chiêng trống dậy trời nhanh chóng lao tới đánh bọc lên tấn công vào khúc giữa mười vạn quân Ngô. Quân Ngô tức thời bị cắt ra làm hai. Cùng Lúc ấy một đạo quân Việt Trung Nguyên khác từ phía Tây Điền Lý đánh ập xuống. Hạp Lư bị quân Trung Nguyên tấn công đầu, đuôi, khúc giữa thế mạnh như chẻ tre. Quân Ngô rối loạn, quân Việt Trung Nguyên chém tới tấp Quân Việt Trung Nguyên phát cờ rợp trời rợp đất gươm đao giáo mác dậy trời. Từ cánh Đông đánh bọc lên thế mạnh như vũ bão. Tướng Ngô là Tôn Các thúc quân binh chống trả. Tướng Trung Nguyên là Linh Cô Phù phi ngựa chém Tôn Các. Tôn Các đánh không lại bị Linh Cô Phù chém một đao hồn du địa phủ. Quân Trung Nguyên lấn thế chém quân Ngô như chém chuối. Cùng lúc ấy Linh Quang Dũng thúc quân binh từ phía Tây đánh xuống thế mạnh như nước vỡ bờ vào khúc đuôi quân Ngô. Tướng Ngô là Bá Chu thúc quân binh chống trả. Linh Quang Dũng phi ngựa tới múa giáo chém Bá Chu. Bá Chu đánh không lại bị Linh Quang Dũng chém một giáo rồi đời. Quân Ngô mất tướng quân Trung Nguyên ào ào lao tới chém quân Ngô như chém chuối thây ngã la liệt. Hạp Lư biết là đã trúng kế bẫy của Doãn Thường kinh hồn bạt vía chưa biết phải làm sao không lẽ phải bỏ mạng tại nơi đây. Vương Tôn Lạc, Bá Hi, Chư Nghị nói: Chúa Công mau đi theo chúng thần. Vương Tôn Lạc, Bá Hi, Chư Nghị ra sức bảo vệ Hạp Lư tháo chạy về Ngô. Chạy đến Dương Hạ thời trời cũng đã sẩm tối Hạp Lư nghĩ quân Việt Trung Nguyên không còn rượt đuổi theo nữa liền tạm nghỉ xả hơi Hạp Lư nhìn quân binh tướng tá người nào người nấy tả tơi bơ phờ thời tức muốn trào máu họng. Nhìn lên trời nói: Không ngờ Doãn Thường là tay quỉ quyệt như vậy. Nhưng ngươi cũng chỉ là tầm thường nếu không thời Ta khó mà thoát chạy. Hạp Lư vừa mới nói xong thời nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất, quân Trung Nguyên bao vây đánh ập tới. Hạp Lư kinh hồn bạt vía. Linh Việt Hàn phi ngựa tới hét: Hạp Lư mau nạp mạng. Vương Tôn Lạc nói: Chúa Công mau bỏ áo mão giả làm quân binh trốn thoát. Hạp Lư không còn cách nào hơn giả làm quân binh cùng Vương Tôn Lạc, Chư Nghị, Bá Hi, trốn chạy về nước Ngô. Cũng may Ngũ Viên, Phù Sai đem quân ứng cứu Hạp Lư mới thoát chết trở về nước Ngô. Điểm lại quân số 10 vạn quân chỉ còn có 3 vạn đi tiêu hơn 7 vạn. Hạp Lư càng nghĩ càng hận Doãn Thường vô cùng. Một trận thua nhục nhã chưa từng có. Nói về Bá Cổn, Tiêu Chấn chỉ huy cánh tả thống lãnh 7 vạn quân theo lệnh Hạp Lư vượt qua sông Dương Tử tiến đánh Tây Bắc Việt Trung nguyên. Quân Ngô thế mạnh như vũ bão tràn qua sông Dương tiến đánh các Quận Huyện phía Đông, Tây Bắc Văn Lang tức là các Quận Huyện phía Đông, Tây Bắc Trung Nguyên, quân Việt Trung Nguyên các Quận Huyện thua chạy. Bá Cổn, Tiêu Chấn tiến quân sâu vào đất Việt Trung Nguyên, phía Đông, Tây Bắc Văn Lang như chỗ không người, quân Ngô tiến đến Huyện Dương Hề thời nghe ngựa hí vang trời quân reo dậy đất. Quân Việt Trung Nguyên đến lúc nầy mới thật sự phản công quyết liệt. Đây nói về Chư Hạo Hạo, Trung Quân Nguyên Soái theo lệnh Việt Vương Tế Gia thống lĩnh 10 vạn quân cùng hai con là Chư Kế Dĩnh, Chư Tôn Quá. Kết hợp cùng Vua Cương Việt, Vua Ngô Việt, Vua Hung Việt trấn giữ Tây Bắc Văn Lang, tức là Tây Bắc Việt Trung Nguyên. Đến đời Việt Vương Doãn Thường. Thời đội quân thám báo cho biết quân Ngô tiến đánh phía Đông Tây Bắc Trung Nguyên. Tức thời Chư Hạo Hạo cho người khẩn cấp báo cho Việt Vương Doãn Thường. Việt Vương Doãn Thường ra lịnh Chư Hạo Hạo dốc toàn lực lượng tiêu diệt cho bằng được quân Ngô. Chư Hạo Hạo bày binh bố trận như sau: Các Trấn chư hầu nghe lệnh: Vua Cương Việt, Vua Ngô Việt, Vua Di Việt, Vua Hung Việt phục kích phía Tây Huyện Dương Hề khi thấy pháo lệnh thời thúc quân binh tràn xuống bao vây tiêu diệt quân Ngô. Tuân Lệnh. Chư Kế Dĩnh nghe lịnh. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân phục kích ở phía đông Huyện Dương Hề khi thấy pháo lệnh bắn lên trời thời từ cánh đông nhanh chóng kéo quân đến bao vây tiêu diệt quân Ngô. Tuân Lệnh. Chư Tôn Quá nghe lịnh. Chủ Tướng thống lĩnh 3 vạn quân nhanh chóng đến Dương Ba phía Bắc Huyện Dương Hề ẩn mình từ xa cứ để cho quân Ngô đi qua tiến về Huyện Dương Hề không chận đánh, đến khi nào nghe chiến trận nổ ra pháo lệnh bắn lên trời thời nhanh chóng điều động quân binh từ phía sau quân địch đánh tới. Tuân Lệnh. Chư Hạo Hạo phân bổ lực lượng xong. Liền cho 2 vạn quân mai phục gần phía nam Huyện Dương hề do phó soái Mạnh Hùng trực tiếp chỉ huy. Còn mình thời thống lĩnh 2 vạn quân đối mặt với quân Ngô. * * * PHẦN 16 Đây nói về Bá Cổn, Tiêu Chấn tiến quân đến đâu thời quân Việt Trung Nguyên các Quận Huyện phía đông Tây Bắc ngã rạp đến đó quân Ngô thế mạnh như nước tràn bờ. Bá Cổn, Tiêu Chấn không coi quân Việt Trung Nguyên vào đâu cả dửng dưng tự đắc tiến quân ồ ạt. Không ngờ quân Ngô tiến vào đất Dương Hề thời nghe chiêng trống vang trời quân reo dậy đất. Chư Hạo Hạo thống lĩnh hai vạn quân từ xa lao tới chận đánh bảy vạn quân Ngô. Bá Cổn, Tiêu Chấn nhìn thấy hai vạn quân Trung Nguyên chận đánh thời nhìn lên trời cười ngất nói: Tướng Trung Nguyên mau quỳ xuống thời ta còn để cái đầu còn trên cổ. Bằng không thời ta làm thịt tất cả. Chư Hạo Hạo quát: Hai Tướng Ngô xâm lược kia người khác thời không biết hai ngươi là ai. Còn Ta thời Ta quá rõ hai ngươi chỉ là hai tên ăn cướp đầu Heo mặt Chó vừa ngu si vừa sủa bậy hôm nay gặp Ta thời kể như hồn du địa phủ. Bá Cổn, Tiêu Chấn nghe Chư Hạo Hạo chửi rát lỗ tai quá nổi nóng rút kiếm chỉ về phía quân Việt Trung Nguyên hét lớn: Chém sạch giết sạch cho ta. Thế là quân Ngô tràn tới như vũ bão chém ầm ầm vào quân Việt Trung nguyên. Quân Việt Trung Nguyên ra sức chống trả nhưng làm sao chống lại bảy vạn quân Ngô, đành thi nhau tháo chạy quân Ngô ào ào rượt đuổi theo một đoạn. Bỗng quân Ngô nghe chiêng trống rền trời quân Việt Trung Nguyên ẩn núp từ hai bên đường ào ra chân đánh quân Ngô. Quân Ngô bị chận đánh bất ngờ sanh ra lúng túng. Chư Hạo Hạo không bỏ chạy nữa mà thúc quân binh quay ngược trở lại hợp lực với quân Chư Mạnh Hùng tấn công vào quân Ngô như sấm sét. Chư Hạo Hạo cho quân bắn pháo lệnh lên trời đỏ rực. Từ cánh đông Chư Kế Dĩnh nhìn thấy pháo lệnh bắn lên trời đỏ rực. Tức thời bắn pháo lệnh tấn công đáp trả. Thúc ba vạn quân binh nhanh chóng tiến đánh quân Ngô. Cùng lúc ấy Vua Cương việt, Vua Ngô Việt, Vua Di Việt, Vua Hung Việt từ cánh tây thấy pháo lệnh tấn công bắn lên trời đỏ rực liền thúc quân binh nhanh chóng tiến đánh quân Ngô. Cùng lúc ấy Chư Tôn Quá phục kích ở Huyện Dương Ba thấy pháo lệnh tấn công bắn lên trời đỏ rực, liền nhanh chóng thúc ba vạn quân bao vây từ sau đánh tới. Quân Ngô bị bốn phương tứ hướng quân Việt Trung Nguyên tấn công dồn dập. Bá Cổn, Tiêu Chấn kinh hồn bạt vía biết đã rơi vào cạm bẫy Quân Nguyên nhưng tất cả đều đã trễ. Bá Cổn, Tiêu Chấn cho quân binh phá vòng vây tẩu thoát. Chư Hạo Hạo, Chư Mạnh Hùng quyết hạ gục Bá Cổn, Tiêu Chấn cho bằng được liền thúc quân đánh tới tấp. Quát lên: Con Chó Bá Cổn, con Lợn Tiêu Chấn kia chạy đâu cho thoát. Bảy vạn quân Ngô bị quân Việt Trung Nguyên bao vây đánh tơi tả. Bá Cổn, Tiêu Chấn bị trúng tên bỏ mạng tại sa trường. Quân Ngô chỉ còn một vạn sống sót trở về nước Ngô. Nói về Chuyên Tạo, Bá Cẩn thống lĩnh 7 vạn quân theo lệnh Hạp Lư Tiến đánh Lạc Giao Châu thế mạnh như hổ báo quân Việt Trung Nguyên các Quận Huyện thua chạy. Chuyên Tạo, Bá Cẩn thúc quân nhanh chóng đánh chiếm lấy Lạc Giao Châu. Quân Ngô do Chuyện Tạo, Bá Cẩn chỉ huy tiến đến Huyện Tiêu Sơn đi sâu vào đường rừng thời thấy lửa cháy đỏ trời phủ tới thiêu đốt quân Ngô. Chuyên Tạo, Bá Cẩn kinh hãi cho quân tháo lui. Đây nói về Thường Thọ Quá được thông tin mật báo là quân Ngô tiến đánh Lạc Giao Châu tức thời lên kế sách tiêu diệt quân địch. Thường Thọ Quá ra lịnh cứ để cho quân Ngô tiến sâu vào đất Việt Trung Nguyên đến Huyện Tiêu Sơn thời mới ra tay: Vua Đông Việt, Vua Hải Việt, Vua Giao Việt nghe lệnh. Ba trấn chư hầu nhanh chóng đem quân phục kích phía Tây Huyện Tiêu Sơn. Khi nào nhìn thấy rừng Phong Kê bốc cháy thời thúc quân tràn xuống đánh thẳng vào cánh hữu 7 vạn quân Ngô. Tuân Lệnh. Thường Thọ Chí nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 3 vạn quân phục kích phía Nam Huyện Tiêu Dao. Khi quân Ngô tháo chạy qua đây thời chận đánh tiêu diệt quét sạch. Tuân Lệnh. Trương Hào nghe lịnh. Có thuộc hạ. Tướng quân thống lĩnh 5 nghìn quân phục kích đường rừng cách xa khỏi tầm dọ thám của chúng. Khi thấy quân Ngô tiến sâu vào đường rừng thời đốt lửa đánh hỏa công. Tuân lệnh. Còn Thường Thọ Quá thống lĩnh hơn ba vạn quân phục kích phía đông Huyện Tiêu Sơn. Thấy rừng Phong Kê bốc cháy thời nhanh chóng tiến quân đánh vào cánh tả quân Ngô. Đây nói về Chuyên Tạo, Bá Cẩn tiến quân sâu vào đất Việt Trung Nguyên. Không có một thế lực nào chống trả lại nổi quân binh các Quận Huyện bị đánh bại một cách dễ dàng. Đại quân Chuyên Tạo, Bá Cẩn tiến thẳng đến Lạc Gao Châu chỉ cần qua khỏi rừng Phong Kê là đến Lạc Giao Châu. Rừng Phong Kê tuy không lớn nhưng rất rậm lại nhiều khúc quanh co dễ bị đánh hỏa công. Chuyên Tạo là tay am hiểu nhiều binh pháp nên cho đại quân dừng lại không tiến vào rừng Phong Kê mà cho quân thám thính. Khi thám thính không có gì mới cho quân đi qua. Mà chỉ cho một vạn quân tiên phong mở đường mà thôi, còn 6 vạn quân khi nào thấy an toàn mới đi qua. Chuyên Tạo sai Phu Sái thống lĩnh một vạn quân qua rừng Phong Kê trước. Nói về Phu Sái thống lĩnh một vạn quân Ngô tiến sâu vào rừng Phong Kê đi qua hơn nửa rừng thời thấy rừng bốc cháy cọng với gió to lửa cuồn cuộn đỏ trời. Phu Sái kinh hồn bạt vía cho quân rút lui quân binh hỗn loạn đạp lên nhau tháo chạy. Phu Sái vừa nhìn thấy Chuyên Tạo thời nói: Chúng ta bị hỏa công rồi. Quân binh chết hơn nửa. Chuyên Tạo, Bá Cẩn tuy có lường trước nhưng cũng thấy bất an chưa kịp tính toán ra sao. Thời có người đến báo: Bẩm Chủ Tướng quân Việt Trung Nguyên từ phía Tây Tiêu Sơn tràn xuống đông như kiến tiến đánh quân ta. Chuyên Tạo kinh hãi: Có chuyện đó sao? Chuyên Tạo chưa kịp ra lệnh thời có quân đến báo: Bẩm Chủ Tướng phía Đông Tiêu Sơn quân Trung Nguyên cờ xí trùng trùng chiêng trống dậy trời tràn tới tấn công quân ta. Chuyện Tạo ra lệnh rút quân, nhưng không còn kịp nữa phía trước mặt là hỏa công. Hai bên Tả Hữu như hai gọng kìm đánh phủ tới. Quân Ngô ra sức chống trả hầu rút lui. Bá Cẩn thúc quân ra sức phá vòng vây. Bỗng nghe một tiếng quát như sấm nổ. Thì ra người quát đó chính là Thường Thọ Quá. Thường Thọ Quá múa đao phi ngựa tới chém Bá Cẩn. Bá Cẩn múa giáo chống trả hai bên đánh nhau khốc liệt. Thường Thọ Quá võ nghệ cao cường Bá Cẩn đánh không lại bị Thường Thọ Quá dớt cho một đao chết tốt. Quân Trung Nguyên thắng thế ào ào xông lên chém quân Ngô như chém chuối. Cánh Hữu quân Ngô bị quân Đông Việt, quân Hải Việt, quân Giao Việt tấn công như vũ bão. Quân Ngô đánh không lại thi nhau bỏ chạy. Chuyên Tạo phá được vòng vây kéo quân chạy về hướng Tây Bắc, quân binh xơ xác bơ phờ, mệt mõi, đói khác vừa chạy đến Huyện Tiêu Dao thời bị quân Việt Trung Nguyên chận đánh. Còn sức đâu mà chống trả. Thường Thọ Chí thấy Chuyên Tạo đang phá vòng vây trốn chạy. Thường Thọ Chí ra lệnh: Bắn chết thằng giặc cướp đó cho ta. Tức thời hàng nghìn mũi tên tập trung bắn vào chuyên Tạo. Chuyên Tạo ngã gục hồn du địa phủ, quân Ngô chết không còn một mạng. Đây nói về Hạp Lư qua khỏi Sông Dương ngồi thở dốc. Nói rằng: Không ngờ quân Việt Trung Nguyên quỷ quyệt như vậy, chúng đã có sự chuẩn bị từ trước dụ quân ta vào kế bẫy bao vây tiêu diệt. Hạp Lư hỏi: Còn hai cánh quân kia ra sao? Ngũ Viên nói: Bá Cổn, Tiêu Chấn đã bỏ mạng tại huyện Dương Hề chỉ còn hơn một vạn thoát thân. Bá Cẩn bỏ mạng tại Huyện Tiêu Sơn. Chuyên Tạo bỏ mạng tại Huyện Tiêu Dao, bảy vạn quân sống sót hơn vài trăm. Hạp Lư nghe xong thời điến cả hồn đi hết nổi. Phải có người dìu lên xe ngựa trở về Thiên Đô. * * *
PHẦN 17 Bấm để xem Đây nói về Hạp Lư khi lên làm vua Ngô ở bên kia Sông Dương, tức là bên kia bờ Bắc Sông Trường Giang thèm khác Bắc Văn Lang Trung Nguyên. Quân Ngô đang lúc hưng mạnh liền nghĩ ngay đánh chiếm bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên. Vì ngày nào cũng được quân thám báo cho biết. Quân Văn Lang do Văn Khánh làm thống Soái chỉ huy đánh bại quân Việt Trung Nguyền khí thế hùng mạnh Quân Việt Trung Nguyên đánh không lại cho quân binh đắp thành cố thủ. Việt Vương Tế Gia qua đời. Việt Vương Doãn Thường lên thay chống đở vô cùng khó khăn. Hạp Lư lấy làm mừng rỡ cho dây là cơ hội hiếm có tiến quân chiếm lấy Việt Trung Nguyên. Ngũ Viên là người trông rộng nhìn xa khuyên can Vua Ngô Hạp Lư không nên tiến đánh Việt Trung Nguyên. Vì Việt Trung Nguyên không dễ đánh chiếm được đâu. Ngũ Viên khuyên can gì Hạp Lư cũng không nghe. Trực tiếp chỉ huy 25 vạn quân phải nói là dốc toàn lực lượng quân Ngô quyết chiếm lấy cho được Bắc Văn Lang. Tức là Việt Trung Nguyên. Không Ngờ Doãn Thường nhà quân sự thiên tài đánh bại ba đạo quân xâm lược quân Ngô tiêu diệt hơn 20 vạn quân làm cho Vua Ngô Hạp Lư choáng váng kinh khiếp. Hạp Lư nghĩ đến thua trận thê thảm, thời căm hận Doãn Thường tận xương tỷ. Nói về Ngô, Sở vốn từ lâu hiềm khích với nhau nay nghe Hạp Lư Vua Ngô bị Việt Vương Doãn Thường đánh bại đi tiêu hơn 20 vạn quân. Liền nghĩ Hạp Lư thất trận thê thảm, Nước Ngô suy yếu. Liền đem quân xâm lấn đánh nước Ngô. Hạp Lư nghe Sở tiến đánh thời vô cùng lo sợ. Vì hiện giờ không còn đủ sức chống trả lại nước Sở. Phương Bắc hiện nay hàng trăm nước nhỏ lớn nhưng nước Sở là mạnh nhất. Có hơn trăm nước thuộc quốc tùng phục. Hạp Lư càng nghĩ càng sợ cũng may có Ngũ Viên là một tướng tài bên cạnh. Lại có mối thù với Sở thù Vua Sở cái tội giết Cha giết Anh. Đúng là: Sói ăn chẳng được con Lân Còn thêm thương tích gãy chân què giò Cọp rình sát cạnh bên nhà Lao ra chụp nuốt hết đà trở tay Hạp Lư vận mệnh còn may Ngũ Viên xây chuyển giải vây an toàn. Nói về Ngũ Viên nghe quân Sở tiến đánh nước Ngô thời sôi gan nhớ đến mối thù giết Cha giết Anh. Bằng khóc lóc mà tâu với Hạp Lư rằng: Nước Việt Trung Nguyên tuy đáng hận, nhưng không có đem quân xâm lược Nước Ngô còn Nước Sở thời khác lúc nào cũng có ý nuốt Nước Ngô Ta. Mối đại họa của Nước Ngô ta chính là con cọp Nước Sở. Không phải con Cọp Việt Trung Nguyên. Xin Đại Vương cho tôi đem quân đánh Sở. Trước là trừ đi hậu họa xâm lăng. Sau là Tôi trả hận mối thù nhà. Hạp Lư nghe xong rồi nói: Sáng mai sẽ bàn. Qua ngày hôm sau Ngũ Viên và Hạp Lư lại vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư nói: Nhờ sức hai người quân binh Ngô Ta khôi phục lại được hơn nửa, đủ sức chống trả lại với Sở. Nhưng chẳng biết dùng ai làm đại tướng được. Ngũ Viên và Bá Hi đồng thanh đáp: Tùy ý Đại Vương. Dẫu ai làm Đại Tướng chúng tôi cũng xin hết sức. Hạp Lư nghĩ thầm: Ngũ Viên và Bá Hi là người Nước Sở, nếu họ báo thù xong, thời khi nào chịu ra sức giúp cho mình nữa. Nín lặng không nói gì mà chỉ thở dài. Ngũ Viên hiểu ý nói với Hạp Lư rằng: Đại Vương sợ Nước Sở lắm quân nhiều tướng hay sao? Hạp Lư nói: Chính thế. Ngũ Viên nói: Tôi xin tiến cử một người chắc chắn đánh được Sở. Hạp Lư hớn hở hỏi: Nhà ngươi định tiến cử ai? Tài người ấy thế nào? Ngũ Viên nói: Người ấy họ Tôn tên Vũ, cũng là người Nước Ngô Ta. Hạp Lư nghe nói Tôn Vũ là người Nước Ngô thời có ý mừng rỡ. Ngũ Viên lại tâu rằng: Người nầy tinh thông thao lược, có làm ra mười ba thiên Binh Pháp. Mà không mấy ai biết đến người có tài như vậy quả thật hiếm thấy trên đời. Hiện nay người ấy ở ẩn tại La Phù Sơn. Hạp Lư nói: Nhà ngươi thử triệu đến đây cho ta. Ngũ Viên nói: Người nầy không phải là người tầm thường. Phải đem lễ vật đến đón, thời có thể mới chịu ra giúp. Hạp Lư y lời, cho người lấy mười nén hoàng kim. Một ngọc bích. Năm viên dạ minh châu. Sai Ngũ Viên đến La Phù Sơn gặp Tôn Vũ. Ngũ viên vào yết kiến Tôn Vũ. Ngũ Viên nói: Hạp Lư nghe danh Tôn Tiên Sanh từ lâu. Lòng vô cùng ngưỡng mộ, sai Ngũ Viên tôi đến gặp Tiên sanh, giãi bày những tình ý kính mến của Hạp Lư. Tôn Vũ thấy lễ vật toàn là những thứ quý hiếm. Biết Hạp Lư thật sự có lòng cầu mình ra giúp. Liền đi theo Ngũ Viên đến Thiên Đô vào yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư nhìn thấy Tôn Vũ khác người biết là một nhân vật kỳ tài hiếm có. Liền xuống thềm chào đón niềm nở mời Tôn Vũ vào cung mời ngồi. Để kiểm chứng tài Tôn Vũ. Hạp Lư hỏi về binh pháp. Hạp Lư hỏi đến đâu Tôn Vũ đáp trôi chảy đến đó. Hạp Lư lấy làm mừng lắm. Tôn Vũ lấy trong người ra một cuốn Binh Thơ gồm 13 thiên binh pháp dâng lên cho Hạp Lư. Hạp Lư sai Ngũ Viên đọc cả lên một lượt cho triều thần nghe. Ngũ Viên đọc hết một thiên rồi phân tích ngợi khen không ngớt. Mười ba thiên binh pháp ấy như sau: 1) thỉ kế thiên. 2) tác chiến thiên. 3) mưu công thiên. 4) quân hình thiên. 5) binh thế thiên. 6) hư thực thiên. 7) quân tranh thiên. 8) cửu biến thiên. 9) hành quân thiên. 10) địa hành thiên. 11) cửu địa thiên. 12) hỏa công thiên. 13) dụng gián thiên. Hạp Lư nghe xong khen rằng: Nghe binh pháp nầy thời biết cái tài Thông Thiên Triệt Địa của Tôn Tiên Sanh. Nhưng chỉ tiếc thay Ta đây nước nhỏ quân ít, thời biết làm thế nào? Tôn Vũ nói: Binh pháp của Tôi không những biết mượn sức mạnh của trời đất. Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ để đánh giặc mà còn biết sử dụng dân chúng ô hợp. Cho đến đàn bà con gái. Cũng làm nên quân binh hùng mạnh đánh tan quân giặc. * * * PHẦN 18 Hạp Lư nghe Tôn Vũ nói đàn bà con gái cũng đánh giặc được, thời vỗ tay cười nói rằng: Sao Tiên Sanh nói viển vông quá vậy. Lẽ nào đàn bà con gái cũng tập trận được? Tôn Vũ nói: Đại Vương cho tôi nói viễn vông, thời Đại Vương cho phép tôi luyện tập các cung nữ. Nếu không được thời Tôi xin chịu tội. Hạp Lư liền truyền đem ba trăm cung nữ giao cho Tôn Vũ luyện tập. Tôn Vũ nói: Xin Đại Vương chọn cho hai người làm đội trưởng thời hiệu lệnh mới có thể thi hành được. Hạp Lư lại truyền gọi hai nàng Sủng Cơ xinh đẹp đến nói với Tôn Vũ rằng: Đây là hai Sủng Cơ yêu thích nhất của ta. Không biết có làm đội trưởng được không? Tôn Vũ nói: Làm được. Nhưng việc binh tất phải có thưởng phạt thời hiệu lệnh mới được nghiêm chỉnh. Đây không phải là luyện tập chơi để coi mà luyện tập thật. Nếu không chấp hành mệnh lệnh thời cũng bị chém đầu như thường. Xin Đại Vương cho lập một người Chấp Pháp. Thưởng phạt công minh. Một người làm quân tuyên bố hiệu lệnh. Đại Vương lập ra hai người làm chủ hai đội trống. Làm chủ hai đội thanh la. Và mấy người làm Nha Tướng để chỉ huy cầm gươm giáo đứng trước hai đội quân binh điều hành hai đội quân của mình theo hiệu lệnh. Và chọn ra mấy tướng đứng trên đàn giám sát cho trọng sự thể. Hạp Lư làm theo Tôn Vũ chọn ra tất cả. Tôn Vũ chia đám cung nữ ra làm hai đội. Tả Đội, Hửu Đội. Tả Cơ thống lĩnh Tả Đội. Hửu Cơ thống lĩnh Hữu Đội. Hai đội quân đều mặc binh phục và cầm binh khí. Tôn Vũ truyền dạy binh pháp tập luyện, truyền đi truyền lại rất nhiều lần. Tôn Vũ tuyên bố hiệu lệnh có ba điều: 1: Không được hỗn loạn hàng ngũ. 2: Không được cười nói rầm rì. 3: Không được cố ý làm trái hiệu lệnh. Nếu vi phạm không chấp hành là tội chém. Tôn Vũ giản đi giản lại cho tất cả hai đội quân binh cung nữ nhớ. Và hẹn sáng mai hôm sau tất cả đều hội tại giáo trường để tập trận. Đầu canh năm ngày hôm sau. Hai đội cung nữ đều đến giáo trường để tập trận. Mời Hạp Lư lên đài ngồi xem. Cung Nữ người nào cũng mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ. Tay phải cầm kiếm, tay trái cầm Mộc. Tả Cơ và Hữu Cơ thời mặc trang phục như Tướng Quân mỗi người chỉ huy một đội quân. Chờ Tôn Vũ thăng trường điều khiển chỉ bảo lần nữa và bày trận thế. Lại truyền hai lá cờ vàng đưa cho Tả Cơ và Hữu Cơ đứng trước hai đội quân binh phất cơ làm hiệu lệnh. Tả Cơ và Hữu Cơ phất cờ chỉ đâu thời hai đội cung nữ phải chấp hành theo hiệu lệnh mà duy chuyển. Tôn Vũ hạ lệnh rằng: Hễ thấy hồi trống thứ nhất, thời hai đội đều đứng cả dậy. Nghe hồi trống thứ hai thời Tả Đội phất cờ tiến quân về phía hữu. Hữu đội phất cờ tiến quân về phía tả. Nghe hồi trống thứ ba, thời cả hai đội ào ào xông tới như thể là đánh với nhau. Hễ nghe thấy hiệu lệnh Thanh La thời lui quân ra trở về vị trí cũ. Các cung nữ nghe Tôn Vũ truyền dạy hiệu lệnh đều bụm miệng cười. Tôn Vũ chỉ kiếm ra lệnh. Tức thời hồi trống thứ nhất nổi lên. Các cung nữ kẻ ngồi người đứng không được đều nhau. Tôn Vũ thấy vậy nói: Hiệu lệnh không rõ là tội thuộc người ra lệnh. Diễn tập không đúng là tội quân, tướng. Chấp hành không nghiêm chỉnh là tội cả người ra hiệu lệnh lẫn tướng chỉ huy, cả binh sĩ. Tôn Vũ liền chỉ kiếm truyền lệnh cho viên quan ra hiệu lệnh một lần nữa. Viên Cổ quân liền đánh một hồi trống lệnh các cung nữ đều đứng dậy nhưng nghiêng bên nầy ngã bên kia xiêu vẹo đổ xô vào nhau rồi nổi lên cười như trước. Tôn Vũ thấy vậy liền vén hai tay áo, cầm lấy dùi đánh trống ra hiệu lệnh. Tả Cơ và Hữu Cơ cũng như cung nữ đều cười ô lên tất cả. Tôn Vũ nổi giận hai mắt trợn ngược, tóc dựng lên đầu liền gọi viên Chấp Pháp đến. Viên Chấp Pháp đến quỳ trước mặt. Tôn Vũ nói: Hiệu lệnh đã rõ. Diễn tập không đúng. Quân sĩ không nghiêm. Cứ theo pháp thời nên trị như thế nào? Tội gì? Viên Chấp Pháp nói: Nên chém. Tôn Vũ nói: Quân sĩ không thể giết hết được. Ta nên trị tội hai viên đội trưởng. Tôn Vũ liền cho người bắt hai đội trưởng là Tả Cơ và Hữu Cơ đem ra chém để làm gương. Các Nha Tướng trông thấy Tôn Vũ hầm hầm nổi giận thời không dám trái lệnh bắt trói Tả Cơ và Hữu Cơ đem ra chém. Hạp Lư ngồi trên đài trông thấy vội sai Bá Hi cầm cờ xuống nói với Tôn Vũ rằng: Đại Vương biết tài dụng binh của Tôn Tiên Sanh rồi Tả Cơ và Hữu Cơ là hai người nâng khăn sửa túi của Đại Vương. Đại Vương rất sùng ái hai người ấy. Thiếu hai người ấy Đại Vương ăn không ngon, xin Tôn Tiên Sanh tha cho. Tôn Vũ nói: Việc quân không phải là việc đùa. Tôi đã chịu mệnh làm tướng rồi. Thời khi ở trong việc quân thời phải có kỷ cương tuyệt đối. Dẫu có mệnh Vua cũng không thể phá hủy kỷ cương đó được. Nếu theo mệnh Vua tha cho kẻ có tội thời làm sao cho quân sĩ phục. Tôn Vũ liền truyền lệnh chém ngay Tả Cơ và Hữu Cơ đem bêu đầu trước hàng quân. Các cung nữ đều sợ run cầm cập không dám ngẩng đầu nhìn. Tôn Vũ lại chọn hai người khác ở trong hai đội ấy ra làm hai đội trưởng Tả Đội và Hữu Đội. Rồi cho người nổi trống ra hiệu lệnh. Hồi trống thứ nhất: Tất cả đều đứng dậy cả. Hồi trống thứ hai: Tất cả đều theo hiệu lệnh hai đội quân Tả, Hữu tiến quân vòng quanh đúng luật, đúng phép. Hồi trống thư ba: Hai đội quân giao chiến, rồi chuyển sang hợp chiến tiến lùi theo lệnh trống. Hiệu lệnh Thanh La nổi lên: Thời hai đội quân cùng lui quân lùi lại. Ba trăm cung nữ, hai đội quân lúc tả lúc hữu, lúc tiến lúc lùi, đều đúng khuôn phép không sai chút nào, trông đẹp mắt vô cùng. Càng diễn tập càng khí thế không khác gì hai đội quân tinh nhuệ của nam nhân. Ai nấy đều im lặng như tờ xem diễn tập không ai là không thám phục cho cái tài của Tôn Vũ. Đến lúc nầy Tôn Vũ mới sai Viên Chấp Pháp đến tâu với Hạp Lư rằng: Quân đội đã được chỉnh tề, không khác gì hai đội quân tinh nhuệ của nam nhân, tùy ý Đại Vương điều khiển. Bấy giờ dẫu Đại Vương bảo nhảy vào đống lửa cũng không ai dám lui tránh. Hạp Lư tuy biết tài Tôn Vũ, nhưng vì quá thương Tả Cơ và Hữu Cơ. Nên có ý không muốn dùng Tôn Vũ nữa. Ngũ Viên nói với Hạp Lư rằng: Đại Vương muốn đánh Sở làm bá chủ thiên hạ, mong tìm được người Tướng giỏi. Nay Đại Vương đã tìm được mà Đại Vương muốn bỏ không dùng. Thời ngôi Bá Chủ của Đại Vương khó mà thực hiện được. Hơn nữa vị Tướng tài cần nhất là phải một người quả quyết. Đã làm thời không ai có thể ngăn cản nổi. Đã đánh thời tất thắng quân địch sẽ thua. Nếu không có Tôn Vũ thời ai là người dám vượt sông Hoài, sông Tứ, đến sông Hán băng qua nghìn dặm mà đánh Sở bây giờ. Gái đẹp dễ có. Chứ tướng giỏi khó tìm có thể nói khắp thiên hạ tìm đâu ra vị tướng tài như Tôn Vũ. Nay Đại Vương thương hai nàng ấy. Mà bỏ mất một tướng giỏi thời chẳng khác nào tiếc đám cỏ xấu. Mà bỏ mất đám lúa tốt không đáng tiếc lắm sao. Mong đại Vương nghĩ lại. Hạp Lư nghe Ngũ Viên giải bày liền tỉnh ngộ bằng phong cho Tôn Vũ làm thượng tướng quân. Hiệu là Quân Sư giao phó cho việc đánh Sở. Một hôm Ngũ Viên hỏi Tôn Vũ rằng: Phải tiến đánh quân Sở từ chỗ nào? Bắt đầu từ đâu? Tôn Vũ nói: Phàm việc binh, trước hết phải giữ gìn mặt trong. Cũng như làm cho nội lực hùng hậu. Rồi mới có thể đánh mặt ngoài. Gồm thâu những nước nhỏ, mở rộng đất đai cũng như lương thực quân binh. Tiến đánh nước lớn hùng mạnh như Nước Sở. Tôi nghe nói em Vương Liêu là Yểm Dư đang ở nước Từ. Chúc Dung đang ở nước Chung Ngô. Hai người ấy đều muốn báo thù. Lúc nào cũng tìm cách lật đổ triều chính Đại Vương. Muốn làm nên nghiệp lớn nay Ta phải trừ bỏ hai người nầy, thời Nước Ngô mới trụ vững. Nhân cơ hội Yểm Dư ở Nước Từ. Chúc Dung ở nước Chung Ngô. Ta Gồm thâu nước Chung Ngô và Nước Từ. Quân Ngô hùng mạnh khi ấy sẽ tiến đánh quân Sở. Ngũ Viên khen phải bằng tâu với Hạp Lư. Hạp Lư nói: Nước Từ, nước Chung Ngô đều là nước nhỏ Ta sai sứ đến bảo bắt hộ, tất họ phải theo lời. Hạp Lư liền một người sang Nước Từ bắt Yểm Dư. Một người sang nước Chung Ngô bắt Chúc Dung. Vua Từ là Chương Vũ không nở để cho Yểm Dư chết, mới mật sai người báo cho Yểm Dư trốn đi. Trên đường chạy trốn Yểm Dư gặp được Chúc Dung. Hai người bàn nhau chạy sang Nước Sở. Văn Hóa Phương Bắc ở vào thời điểm ấy là thứ văn hóa độc hại cạnh tranh tiêu diệt lẫn nhau. Không kẻ gì đến anh em dòng họ. Nói gì đến người dưng vì cái lợi mà bất chấp tất cả. Anh Em ruột thịt chém giết tàn sát lẫn nhau mà cho là chính nghĩa, như Anh Em Chú Bác Vua Ngô chẳng hạn. Nói chung là hầu hết văn hóa các nước Phương Bắc là như vậy. Phương Nam mất đi Văn Hóa Cội Nguồn. Văn Hóa Phương Bắc tràn sang làm hại. * * *
PHẦN 19 Bấm để xem Nói về Yểm Dư và Chúc Dung chạy sang Nước Sở. Sở Chiêu Vương mừng nói: Hai Công Tử ấy đều là thù sâu oán hận Hạp Lư. Ta nhân lúc họ cùng khốn mà biết thu nạp, giúp ta đánh Ngô. Bèn cho hai Công Tử Yểm Dư và Chúc Dung ở đất Thư Thành Thao luyện binh mã chống lại Nước Ngô. Hạp Lư nghe Nước Từ. Nước Chung Ngô thả Yểm Dư, Chúc Dung trốn chạy sang Nước Sở, thao luyện binh mã chống trả lại Nước Ngô. Hạp Lư vô cùng tức giận bằng khởi binh chinh phạt. Có cớ nuốt lấy Nước Từ, Nước Chung Ngô. Hạp Lư bằng sai Tôn Vũ đem quân đi đánh. Vua Từ Chương Vũ đánh không lại Tôn Vũ bằng chạy sang Nước Sở. Tôn Vũ lại đem quân sang đánh Nước Chung Ngô. Nước Chung Ngô đánh không lại bị Tôn Vũ bắt sống đem về nạp cho Vua Ngô Hạp Lư trị tội. Quân binh Nước Từ, Nước Chung Ngô quy hàng đầu nhập vào quân Ngô rất đông có hơn 3 vạn. Quân Ngô vơ vét tất cả lương thực Nước Từ. Nước Chung Ngô. Làm cho Nước Ngô mạnh về quân lực, mạnh về lương thực đủ sức đánh Nước Sở. Tôn Vũ từ khi thôn tính Nước Từ, nước Chung Ngô ngày đêm thao luyện quân binh. Bất ngờ bí mật khởi binh đánh Thư Thành. Làm cho Yểm Dư, Chúc Dung trở tay không kịp. Yểm Dư, Chúc Dung ngày đêm luyện tập quân sĩ. Bỗng nghe quân Ngô tiến đánh thời quân Ngô đã tiến tới Thư Thành rồi. Quân Ngô tràn vào Thư Thành như nước vỡ bờ. Yểm Dư, Chúc Dung thúc quân binh chống trả. Yểm Dư, Chúc Dung đánh không lại. Tôn Vũ giết chết Yểm Dư, Chúc Dung. Chiếm lấy Thư Thành quân Sở đầu hàng vô số. Quân Ngô càng thêm hùng mạnh lớn lên như thổi. Hạp Lư như diều gặp gió đánh đâu thắng đó. Thừa thắng Hạp Lư muốn tiến vào Sính Đô (Kinh Đô Nước Sở). Tôn Vũ nói với Hạp Lư rằng: Thời Cơ chưa đến, lại thêm quân binh đang mỏi mệt chưa thể chiếm lấy Nước Ngô được. Ít hôm sau Tôn Vũ rút quân về. Ngũ Viên hiến kế rằng: Phàm ít mà thắng được nhiều. Yếu mà thắng được mạnh là tất phải hiểu cái lẽ "dĩ vật đãi lao". Tấn Điệu Công ngày xưa chia làm ba đạo quân, thay phiên nhau mà đánh làm cho Sở phải khó nhọc. Mới đánh được Sở ở Đất Tiêu, Đất Ngư. Kẻ cầm quyền ở Nước Sở ngày nay đều là những phường ngu dốt không biết gì. Xin Đại Vương chia làm ba đạo quân để sang quấy nhiễu Nước Sở. Cứ thay phiên nhau mà quấy phá. Quân Sở ồ ạt kéo đến, thời quân Ta lại rút về. Quân Sở rút về thời quân Ta lại tiến đánh. Cứ thay đổi nhau đánh nước Sở không cho Nước Sở được yên. Khiến cho Sở Chiêu Vương tinh thần mệt mỏi. Quân Binh chiến đấu không còn hăng say. Bất ngờ quân Ta dồn toàn lực lượng, tấn công thần tốc. Tức là phá vỡ được thế trận liên kết phòng thủ của quân Sở. Quân Ta tiến vào Sính Đô tiêu diệt Sở Chiêu Vương. Hạp Lư khen phải, chia làm 3 đạo quân. Thi nhau tiến quân sang quấy nhiễu bờ cõi Nước Sở. Chiếm lấy các Quận Huyện tấn công ồ ạt làm như tiến đánh Sính Đô. Sở Chiêu Vương lo sợ ăn ngủ không yên. Sở Chiêu Vương thấy quân Ngô ồ ạt kéo sang tấn công liền đốc toàn lực ra tiêu diệt quân Ngô. Quân Ngô lại rút quân về. Quân Binh tướng tá quân Sở mệt mỏi vô cùng. Đây nói về Việt Vương Doãn Thường tuy đánh bại quân Ngô làm cho Hạp Lư kinh hồn bạt vía. Doãn Thường không lấy đó làm tự đắc mà có ý cầu hòa với quân Ngô. Doãn Thường là một nhà quân sự chính trị kỳ tài. Sợ Hạp Lư trả thù thời bất lợi cho Nước Việt Trung Nguyên. Phương Bắc Hạp Lư đánh vào. Phương Nam Hùng Vương đánh ra, thời Nước Việt Trung Nguyên khó mà chống đỡ. Doãn Thường bằng sai sứ cầu hòa mang vàng bạc châu báu dâng lên Hạp Lư. Hạp Lư vì thế mà gỡ lại thể diện thua đau thua đớn. Hạp Lư nói: Thế ra Nước Việt Trung Nguyên cũng biết sợ Nước Ngô Ta. Hạp Lư Vua Ngô tuy căm hận Việt Vương Doãn Thường nhưng cũng nén lòng không gây sự nữa. Việt Vương Doãn Thường vì thế mà ngăn chặn nổi quân Văn Lang ngày đêm tấn công ra Bắc Văn Lang, tức là Việt Trung Nguyên. LÚC BẤY GIỜ Nước Văn Lang chỉ còn lại Trung Văn Lang, Nam Văn Lang. Cuộc chiến Nam Bắc Văn Lang phải nói là vô cùng khốc liệt. Hết năm nầy đến năm khác. Hai bên tổn tướng hao quân dân chúng khổ sở vô cùng. Hùng Việt Vương: Tuân Lang. Lên ngôi Quốc Vương 40 năm tuổi trên 90 đầu óc tuy còn linh hoạt nhưng không bằng như khi còn trẻ nên giải quyết tình hình đất nước không được trôi chảy. Tình hình đất nước càng thêm hỗn loạn. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng. Vương, Quan mỗi người mỗi ý không thống nhất với nhau. Luật pháp luôn thay đổi, những gì có lợi cho dân thời Vương, Quan không thực hiện. Mà chỉ thực hiện những gì Luật Pháp thay đổi có lợi cho Vương, Quan mà thôi. Dân Chúng vì thế ngày càng bất mãn cho thể chế phi dân chủ Độc Tài Độc Trị, thể chế xin cho bất lợi cho cuộc sống của dân. Hùng Việt Vương: Tuân Lang. Không những không cũng cố được sức mạnh đoàn kết dân tộc vì Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo không còn. Vương, Quan Đạo Đức xuống cấp trầm trọng tất cả là do Lạc Cội mất Nguồn mà ra. Một dân tộc đã Lạc Cội mất Nguồn, thời mạnh ai nấy lo chia bè rẽ phái không mấy ai nghĩ đến non sông Tổ Quốc nữa. Mối nguy mất nước càng ngày càng hiện rõ. Văn Hóa Cội Nguồn không còn. Thời Nước Văn Lang bao trùm lấy một màng u minh không còn ánh sáng Quyền con người Công Bằng Bình Đẳng lấy dân làm gốc nữa. Mà chỉ thấy bóng đêm Ai vì quyền lợi nấy bành trướng chủ nghĩa Cá Nhân Độc Tài Độc Trị khủng bố tinh thần dân chúng. Đàn áp bóc lột thậm tệ. Công Bằng Bình Đẳng chỉ là lời nói để mà nghe. Ở vào thời điểm Vương Quan chỉ biết bạo hành. Thời dân chúng cũng đi vào hỗn loạn. Tạo ra thời cơ cho các thế lực phản động. Như Cha Con doãn Thường, nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang. Được dân Bắc Văn Lang ủng hộ đi theo thế lực Cha Con Doãn Thường ngày càng lớn mạnh. Bắc Văn Lang không những không chiếm lại được. Trung Văn Lang cũng khó giữ yên khi quân Việt Trung Nguyên lớn mạnh chiếm lấy lần Trung Văn Lang, khi Bắc Văn Lang đã rơi vào Phương Bắc. Sau khi Việt Vương Doãn Thường đánh bại quân Ngô xâm lược, thời uy tín Việt Vương Doãn Thường tăng lên gấp mười lần, được dân chúng Bắc Văn Lang sùng bái cho Việt Vương Doãn Thường là Chính Vương anh Hùng vĩ đại. Thay thế Niên Đại Hùng Vương kéo dài hơn mấy nghìn năm. Đã bị xơ cứng tha hóa. Doãn Thường là con Cáo Già, sức mạnh Doãn Thường là tay chơi chữ sử dụng ngôn luận tài tình. Những từ ngữ nào đẹp đẻ thời làm của mình. Những từ ngữ nào xấu xa thời trao cho thể chế Độc Tài Độc Trị Vua Hùng. Dân chúng vì thế luôn ủng hộ Doãn Thường chiếm ưu thế hoàng toàn về mặt chính trị. Sự đóng tuồng kích bác, công kích Hùng Việt Vương Tuân Lang, trên khắp mọi mặt Lao Động, Văn Hóa, Nghệ Thuật thậm chí cả trong Đồng Bóng, xin xăm, bói quẻ, mê tín dị đoan. Chuyện có nói không, chuyện không nói có. Đã đạt đến trình độ như thật như thiệt. Làm cho dân chúng Bắc Văn Lang chán ghét Hùng Việt Vương Tuân Lang nổi dậy chống Vua Hùng. Vì thế Bắc Văn Lang khó mà lấy lại được nữa. Việt Vương Doãn Thường thành công trên sự nghiệp nói láo, nói xấu, Thắng xung Vua thua cho là Giặc nên sự nghiệp không tồn tại được lâu. Con Cáo Già dù tài tình che dấu cái đuôi tới đâu cuối cùng cũng lộ ra. Khi dân chúng phát hiện cái đuôi của loài Yêu Tinh Quỉ Dữ thời mọi chuyện đã rồi. Dân chúng Bắc Văn Lang chỉ biết ngậm đắng nuốt cay với mô hình thể chế Độc Tài Độc Trị kiểu mới. Những gì Cha Con Doãn Thường nói chỉ là cái bánh vẽ để nghe để nhìn không đi vào cuộc sống được. Làm cho xã hội chậm phát triển dân chúng trở nên ngu dốt. Đạo Đức xuống cấp kết cuộc trở thành nô lệ Phương Bắc. Thời Chu Nguyên Vương Nhà Chu. Bắc Văn Lang trở thành đất Phương Bắc, Trung Nguyên Trung Thổ phương Bắc không cách gì lấy lại được nữa thảm thay. Quốc Tổ Vua Hùng dựng lên nước Văn Lang hùng mạnh rộng lớn không phải bằng gươm đao giáo mác. Mạnh được yếu thua thắng là vua thua là giặc. Mà là dựng lên nước Văn Lang rộng lớn bằng con đường Văn Hóa cội Nguồn. Trở thành nền quốc Đạo dân tộc. Hiến Pháp Văn Lang. Nhờ nền Quốc Đạo dân tộc mà nhà nước Văn Lang kéo dài Độc Lập 2701 năm 79 năm dựng nước văn Lang 2622 năm thừa kế giữ nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Văn Lang. Chính là nền Văn Hiến Văn Lang. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Văn Lang. Nền quốc Đạo trị quốc Có một không hai trên trái đất. Đã đi vào thất truyền. Và trở lại sau năm nghìn năm cũng chẳng khác gì mùa xuân đi qua mùa xuân trở lại văn Hóa Cội Nguồn biến mất. Văn Hóa Cội Nguồn trở lại. Biến hiện theo chu kỳ cũng như mùa xuân qua đi mùa xuân trở lại không có gì là lạ cả. * * * PHẦN 20 Đây nói về Vua Ngô Hạp Lư Phương Bắc ở bên kia sông Dương quân lực hùng mạnh nhận định thời cơ đánh Sở đã đến. Nước Sở cũng ở Phương Bắc giáp ranh đông Bắc Văn Lang, bên kia sông Dương, sau nầy là sông Trường Giang. Sính Đô Nước Sở gần Sông Hán. Nước Ngô Vua Hạp Lư với chiêu bài ly gián cắt đứt quan hệ giữa Việt Trung Nguyên với Sở, bằng cho người sang Phương Nam bên kia sông Dương tức là Nước Việt Trung Nguyên mượn quân đánh Sở. Mục đích là cắt đứt giao tình giữa Nước Sở và Việt Trung Nguyên. Nếu Nước việt Trung Nguyên giúp quân Ngô chinh phạt Sở thời làm cho quân Ngô thêm mạnh. Lại không lo Nước Việt Trung Nguyên thừa cơ hội đánh Nước Ngô. Cũng như cắt đức giao hảo giữa Việt Trung Nguyên và Sở. Việt Vương Doãn Thường quá hiểu thâm tâm hiểm độc của Hạp Lư một mũi tên bắn trúng hai con chim. Cái lợi gồm thâu về cho Ngô tất cả, vì hiểu như thế Việt Vương Doãn Thường không đáp ứng lời yêu cầu mượn quân của Hạp Lư tùy cơ ứng biến. Ở vào thời điểm nầy Quân Ngô đã trở nên hùng mạnh. Có thể nói chinh Đông phạt Tây không khó là nhờ có Tôn Vũ và Ngũ Viên. Hạp Lư sai Tôn Vũ, Ngũ Viên, Bá Hi chỉ huy đánh Sở đã chiếm được Đất Lục, Đất Tìm. Chỉ chờ quân Việt Trung Nguyên kéo đến là đánh thẳng vào Sính Đô chiếm lấy Nước Sở. Không ngờ Doãn Thường không chịu tuyệt giao với Sở nên không chịu phát binh giúp Hạp Lư đánh Sở. Hạp Lư tức sôi gan quát tháo ầm ĩ: Chưa thể đánh thẳng vào Sính Đô tiêu diệt Sở được. Định kéo quân đánh Việt Trung Nguyên lần nữa. Tôn Vũ can rằng: Năm nay tinh tuế Việt Trung Nguyên rất là hưng thịnh ta đánh Nước Việt Trung Nguyên tất không lợi. Hạp Lư nhớ đến cái thù thua nhục nhã trước đây nên không nghe lời Tôn Vũ kéo đại binh tràn sang Việt Trung Nguyên. Cướp phá dân lành, cướp lấy của cải. Vàng ngọc Trâu, Bò, Dê, Lợn, Gà, Vịt, Lúa gạo, Muối, Mắm, Vải lụa. Nhiều vô số kể. Coi như một cuộc ra quân thắng lợi về ăn cướp. Chính nghĩa quân Ngô chính là đây Cướp đêm chưa đã lại cướp ngày Đại Vương đại cả lòng gian ác Giết người cướp của chẳng gớm tay. Hạp Lư nhìn vào Bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên nói: Thằng xảo trá Doãn Thường Kia. Ngươi chỉ gạt được người dân Bắc Văn xưng là chính Vương. Như thật ra ngươi cũng chỉ là phường ăn cướp. Ngươi ăn cướp bắc Văn Lang của các Vua Hùng. Có ngày Ta sẽ chiếm lấy Bắc Văn Lang. Cướp dân chúng đất đai của ngươi. Cho ngươi đầu lìa khỏi cổ linh hồn ngươi cũng chỉ là một con quỉ đầu thai. Chính Vương con khỉ gì. Hạp Lư cho quân cướp lấy của cải dân chúng Việt Trung Nguyên nhiều vô số rồi rút quân về nước. Trong lúc đàm đạo. Tôn vũ nói riêng với Ngũ Viên rằng: Đất Phương Nam Văn Lang. Tuy không còn Văn Hóa Cội Nguồn nền Quốc Đạo dân tộc. Nhưng truyền thống anh linh Tiên Rồng chưa biến mất. Cha Con Doãn Thường tuy có nguồn gốc từ Phương Bắc. Nhưng đã trải qua nhiều đời thành dân Văn Lang. Nên được dân Văn Lang suy tôn ủng hộ. Không phải dễ đánh chiếm như Phương Bắc đâu. Truyền thống anh linh Tiên Rồng không thể nào tưởng tượng được. Hơn mấy nghìn năm Phương Bắc biết bao lần xâm lược nhưng đều bị đánh bại. Có đi không có ngày về. Ngũ Viên nói: Tôi cũng nghĩ như vậy nên khuyên Đại Vương không nên đánh chiếm Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang. Đại Vương không nghe sít chút nữa thời bỏ mạng nơi xứ người lại đi tiêu hơn 20 vạn quân. Có thể nói Bắc Văn Lang Việt Trung Nguyên là miếng mồi quá béo bở. Ai mà không muốn chiếm lấy. Đại Vương cũng như bao nhiêu vị Vương khác cũng tham vọng vô bờ bến. Không chiếm lấy được Việt Trung Nguyên thời ăn không ngon ngủ không yên. Tôn Vũ nói: Sau bốn mươi năm nữa, nước Việt Trung Nguyên sẽ cường thịnh. Thời Nước Ngô sẽ đi vào Suy Vong. Các Nước Phương Bắc sẽ tùng phục Việt Trung Nguyên. Khi Nước Việt Trung Nguyên xác nhập về Phương Bắc. Mà Quốc Tổ Vua Hùng đã nói trước cách đây mấy nghìn năm. Quốc Tổ Hùng vương là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Khai ra nền Quốc Đạo Văn Lang thậm thâm vi diệu nhưng rất tiếc đã bị thất truyền. Vì thời ấy chữ viết thô sơ nên không lưu chép để lại kinh luân được. Nếu không thất truyền Văn Hóa Cội Nguồn thời Phương Bắc không những không làm gì nổi Phương Nam, mà còn bị Phương Nam khống chế. Đây nói về Sở Chiêu Vương. Quyết tâm tiêu diệt Nước Ngô. Vì Nước Ngô không tùng phục Nước Sở mà còn dòm ngó Sở. Văn Hóa Phương Bắc là thứ Văn Hóa chiến tranh Văn Hóa của sự tham lam bành trướng. Văn Hóa của sự tranh Bá tranh Hùng. Mạnh được yếu thua, thắng xưng Vua, thua cho là Giặc. Lúc nào cũng muốn thôn tính chiếm đoạt nước khác. Cướp lấy tài sản vàng bạc châu báu đem về làm của riêng cho mình. Nói về sự giàu có Nước Ngô cũng phải kể là một nước có nhiều châu báu nên nước Sở luôn dòm ngó Nước Ngô. Chờ có cơ hội là thôn tính Nước Ngô chiếm đoạt đất đai tài sản. Không ngờ nước Ngô có nhiều nhân tài ra đời như Tôn Vũ, Ngũ Viên làm cho Nước Ngô hùng mạnh nhanh chóng. Không những quân Sở thua liên miên trong các cuộc giao tranh đụng độ. Mà còn bị quân Ngô chiếm lấy nhiều đất đai quan trọng của nước Sở. Sở Chiêu Vương lấy làm tức lắm. Bằng sai Quan lệnh nước Sở là Nang Ngõa theo lệnh của Sở Chiêu Vương đem quân đánh Ngô chiếm lấy lại những đất đã bị quân Ngô chiếm đóng. Như đất Lục, đất Tiền địa thế chiến lược quan trọng của nước Sở không những về mặt lúa gạo, mà cả về quân sự. Hạp Lư sai Tôn Vũ, Ngũ Viên đem quân chận đánh nghinh chiến. Với tài năng điều binh khiển tướng của Tôn Vũ và Ngũ Viên. Nang Ngõa đánh không lại quân Sở bị quân Ngô đánh cho tan tác. Lại tiến quân chiếm thêm đất Sào, bắt được tướng Sở là Can Phồn đem về giao nạp cho Hạp Lư. Hạp Lư không lấy đó làm vừa lòng nói rằng: Có đánh chiếm lấy được bao nhiêu đất Sở đi nữa. Bắt được bao nhiêu tướng Sở đi nữa. Nhưng chưa chiếm được Sính Đô thời cũng vô công. Ngũ Viên nói: Đại Vương đừng lo. Thần lúc nào cũng không quên được Sính Đô đâu. Chỉ vì Nước Sở đang cường thịnh không nên khinh thường quân địch. Dẫu nước Sở hiện tại không được lòng các thuộc quốc. Nhưng các trấn chư hầu thuộc quốc chưa ai ghét cả. Thần nghe nói Nang Ngõa là vị quan tham ô chỉ biết vàng bạc châu báu, hể thấy ai có báu vật thời chiếm cho bằng được. Các nước thuộc quốc nước Sở cũng sẽ sinh biến. Lúc nầy Đại Vương nên luyện tập binh mã, tích lũy lương thực. Chờ thời cơ một số thuộc quốc bất mãn nước Sở là khởi binh tấn công diệt Sở. Hạp Lư cho là phải. Để có đủ binh hùng tướng mạnh có cả hai mặt Bộ Binh và Thủy Binh. Hạp Lư giao cho Tôn Vũ luyện tập Thủy Quân. Còn Ngũ viên thời luyện tập Bộ Binh. Cũng như ngày nào cũng cho quân thám báo dọ thám tình hình Nước Sở. Nắm bắt thông tin thật chính xác. Trong khi ấy ở Phương Nam quân Văn Lang và Quân Việt Trung Nguyên ngày đêm đánh nhau dữ dội. Giành nhau từng tất đất. Lại nói về Việt Vương Doãn Thường thấy tình hình Phương Bắc Nhà Chu càng ngày càng mất đi quyền lực, mà quyền lực đều nằm hết các Trấn chư Hầu hùng mạnh như Tề, Tấn, Sở. Nhất là Sở đang lúc hưng thịnh. Mà Sở lại đánh chiếm nước Ngô. Hạp Lư vì thế mà khởi binh diệt Sở những trận giao tranh xảy ra kinh hồn. Việt Vương Đoãn Thường yên tâm Bắc không còn sợ Ngô vì Ngô – Sở đang giao tranh với nhau giành nhau từng tất đất. Việt Vương Doãn Thường cho rằng đây là lúc dốc toàn lực lượng tấn công vào Trung Văn Lang chiếm lĩnh các Châu Bộ, Quận, Huyện. Bằng bổ sung lực lượng cho ba cánh quân đang trấn giữ không cho quân Văn Lang tiến đánh ra Bắc. Mà còn tổng động binh thôn tính Trung văn Lang. Hùng Việt Vương Tuân Lang được tin báo là Quân Bắc Việt, Việt Trung Nguyên tổng tấn công vào Trung Văn Lang. Hùng Việt Vương Tuân Lang lấy làm lo bằng thu bạo quân binh chuẩn bị cho trận chiến, khi cần thiết điều động quân binh bổ sung vào Quân Văn Lang đang trấn giữ Bắc Trung Văn Lang. Có thể nói đây là cuộc nội chiến lớn nhất kể từ khi khai lập nước Văn Lang Đất nước Văn Lang chia cắt Nam – Bắc, tàn sát lẫn nhau bởi do mất Cội mất Nguồn mà ra. Cuộc chiến đẫm máu đầy đau thương chẳng lấy gì làm vinh dự. Nhưng người ngoài cuộc thời sáng, chẳng hạn như bậc tu Tiên Đắc Đạo, thời ngán ngẫm cho cuộc nội chiến Đồng Bào Bách Việt tương tàn lẫn nhau nên các bậc Tu Tiên Đắc Đạo chẳng muốn giúp bên nào mà chỉ biết thở than cho kiếp nạn Văn Lang. Còn Việt Nam con Cháu Tiên Rồng chúng ta ngày nay thời sao. Hãy xem lại cuộc chiến Nam – Bắc phân tranh. Nếu không khéo đi đến hòa hợp dân tộc, thời không khác gì thời xưa đánh nhau cho hung cuối cùng cũng dâng hai tay Việt Trung Nguyên cho nhà Chu Phương Bắc. Còn Việt Nam thì sao? Không thể làm thế dâng nước Việt Nam cho bành trướng Trung Quốc? * * * PHẦN 21 Lại nói về Phạm Đổ Chinh sau khi bị Văn Khánh đánh bại rút tàn binh chạy về Lộc Điền củng cố lực lượng trấn giữ Bàu Sen núi Bà. Những cuộc giao tranh quân Nam – Bắc hết năm nầy đến nam khác xương trắng chất chồng khắp nơi. Phạm Đỗ Chinh được lệnh tiếp nhận thêm 10 vạn quân, mười tướng tài tổng tấn công vào Trung Văn Lang chiếm lấy Bạch Lang Châu, Tiên Châu, Vân Châu. Hầu làm cho quân Văn Lang khiếp sợ lôi kéo dân chúng Trung Văn Lang về với Việt Trung Nguyên. Phạm Đỗ Chinh được lệnh ngày đêm thao luyện quân binh chuẩn bị cho cuộc đại tấn công vào Trung Văn Lang. Với thế mạnh nhiều tướng tài quân binh lên tới gần 20 vạn Phạm Đỗ Chinh như con hổ mọc cánh. Lại nói về Bạch Lang Châu, Chủ Tướng Võ Hầu, ba cha con Tri Phủ Thạch Trung Sơn, tiêu diệt quân loạn tặc phản loạn chiếm lấy lại Bạch Lang Châu. Từ đó về sau ra sức củng cố thành Bạch Lang Châu mỗi năm một thêm kiên cố, Võ Hầu mấy lần tiến quân ra Bắc đánh chiếm các quận huyện Việt Trung Nguyên như Huyện Lộc Điền, Huyện Thuận An, Huyện Lâm Khê. Nhưng chiếm được rồi lại mất hao quân tổng tướng. Nam Bắc phân tranh cứ thế kéo dài hơn 15 năm dân chúng Bách Việt Văn Lang khốn khổ vô cùng. Thơ rằng: Khốn khổ nào hơn khổ chiến tranh Đói khổ chồng lên lẫn tòng quân Sa trường ngã gục phơi thân xác Nội chiến tương tàn Nam Bắc chinh Vinh nhục, nhục vinh đường mây khói Đồng Bào tàn sát bóng u minh Phải chăng quốc nạn do mất gốc Lạc Nguồn lạc lối biến Yêu Tinh. Một hôm Võ Hầu cùng các tướng lĩnh nhìn lên bầu trời thấy có điềm khác lạ chẳng lành. Võ Hầu liền cho mời Đạo Sĩ đến xem cho một quẻ. Đạo Sĩ bói xong một quẻ nói: Bẩm chủ Tướng quẻ nầy không tốt nhưng Thiên Cơ không nói trước được. Đạo Sĩ liền ngâm bài thơ: Từ thuở Cha Ông mở đất trời Trảm yêu, diệt quỉ khắp nơi nơi Mặt trời Quốc Giáo ôi lặng mất Văn Lang tăm tối họa đầy vơi Ráng giữ lòng Trung vì Tổ Quốc Siêu sanh Thiên Giới mãi dạo chơi Huyền cơ đã thế đành phó thác Chết sống do trời chỉ thế thôi. Võ Hầu cũng các tướng lĩnh nghe Đạo Sĩ ngâm bài thơ nhưng không hiểu gì cả. Võ Hầu cùng các Tướng Lĩnh bàn về những câu thơ kỳ lạ thời có quân thám báo từ biên ải vào báo: Bẩm chủ tướng. Quân loạn tặc phản loạn đã vượt qua Lâm Khê hình như là chúng tiến đánh Bạch Lang Châu chúng Ta. Võ Hầu nghe báo liền tức tốc một mặt cho người đến Tiên Châu báo cáo cho Văn Khánh thống soái biết một mặt triệu cha con Tri Phủ Thạch Trung Sơn đến. Dân chúng Bạch Lang Châu nghe tin quân loạn tặc phản loạn Bắc Việt sắp kéo đến đánh chiếm châu thành thời xào xáo cả lên. Tri Phủ Thạch Trung Sơn phát loa kêu gọi dân chúng trong thành Bạch Lang châu bình tỉnh. Qua ngày hôm sau Các Quan Tướng cùng cha con Tri Phủ Thạch Trung Sơn ở trên thành nhìn thấy xa xa hướng Bắc khói bụi mịt mù không bao lâu thời thấy quân loạn tặc phản loạn đông như kiến ước lượng trên dưới 20 vạn quân, khi còn cách thành Bạch Lang Châu không xa thời đạo quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên chia làm ba đạo quân bao vây thành Bạch Lang Châu. Dựng trại liên hoàn chuẩn bị cho cuộc tấn công đánh chiếm thành Bạch Lang Châu. Trong khi ấy quân binh Bạch Lang Châu chỉ hơn tám vạn nhìn thấy quân loạn tặc phản loạn đông như kiến thời lo lắng không yên. Không đợi lâu Phạm Đỗ Chinh cho người đến Bạch Lang Châu khiêu chiến. Ở trên thành cha con Tri Phủ Thạch Trung Sơn nhìn thấy kẻ đến khiêu chiến dẫn theo một nghìn quân là một trung niên theo cờ xí thời biết đó là một trong những trấn chư hầu theo Việt Vương Doãn Thường Vua Hoa Việt trông có vẻ khỏe mạnh hung tợn. Thạch Trung Sơn nói: Quân loạn tặc phản loạn từ xa kéo tới, ta phải đánh thắng trận đầu làm nhụt nhuệ khí quân loạn tặc đi. Võ Hầu nói: Có tướng nào ra lấy đầu thằng loạn tặc đó không? Võ Hầu vừa lên tiếng hỏi, thời có một vị tướng lên tiếng nói: Bẩm chủ tướng để thằng giặc cỏ đó cho tôi. Người vừa lên tiếng ấy chính là Thạch Công. Thạch công nghĩ đến cảnh vợ bị quân loạn tặc phản loạn làm nhục hiếp dâm làm cho tan nhà nát cửa thời sôi máu muốn bằm nát quân loạn tặc phản loạn ra tương liền xin ra trận đầu chém giết cho đã tay. Thạch Công điểm một nghìn quân mở cửa thành ra trận Thạch Công phi ngựa tới quát: Xem đường đao của ta đây. Thạch Công chém một nhát xuống đầu tướng giặc. Tướng giặc múa trường giáo chống đỡ choang đinh tai nhức óc quân Bạch Lang Châu đánh trống dộng chiêng ầm ĩ quân phản loạn cũng không kém khua trống khua chiêng dậy trời. Thạch Công cùng tướng giặc đánh nhau trên 50 hiệp bất phân thắng bại. Tướng giặc vua Hoa Việt bất ngờ quay ngựa bỏ chạy, Thạch Công rượt ngựa theo Vua Việt Hoa liền ném lên không một vật tức thời khói đen mù trời pha lẫn chất gây mê Thạch Công hít phải liền xây xẩm mặt mày Vua Hoa Việt đão ngựa nhanh như chớp chém Thạch Công một nhát chết ngay tại chỗ. Quân loạn tặc phản loạn thắng thế ào ào xông tới chém quân Bạch Lang Châu như chém chuối. Ở trên thành Thạch Trung Sơn thấy con tử nạn thét lên một tiếng oại máu ngã ngụy. Thạch Kế, Thạch Thừa không khỏi kinh hoàng. Võ Hầu không ngờ tướng giặc lợi hại như vậy chưa biết phải làm sao. Thời có một tướng lên tiếng nói: Để tôi ra giết thằng giặc ấy cho. Người lên tiếng chính là Nguyên Tôn Chí. Nguyên Tôn Chí dẫn theo một trăm kỵ binh phi ngựa nhanh ra thành xáp chiến. Quân Bạch Lang Châu lấy lại khí thế chống trả đánh quân loạn tặc phản loạn tơi bời. Vua Hoa Việt biết không đánh lại Nguyên Tôn Chí bằng quay ngựa chạy dài. Nguyên Tôn Chí không đuổi theo mà thu quân vào thành. Qua hôm sau quân loạn tặc đến khiêu chiến. Tướng lĩnh của quân loạn tặc phản loạn không phải là Vua Hoa Việt mà là một tướng khác trông có vẻ oai phong lắm. Lúc nầy Thạch Trung Sơn hầu như khôi phục công lực trở lại nghĩ đến cảnh quân loạn tặc phản loạn giết chết Thạch Công xác còn phơi thây ngoài chiến trường chưa lấy xác được bằng nói: Bẩm chủ tướng, chủ tướng để ba cha con tôi ra băm nát quân thù trả hận cho con tôi. Võ hầu nói: Tri Phủ đại nhân hết sức cẩn thận. Ba cha con Tri Phủ Thạch Trung Sơn thống lĩnh hơn một nghìn quân binh mở cổng thành lao ra đối mặt với quân phản loạn. Thạch Trung Sơn tuy lớn tuổi nhưng oai phong lẫm liệt phi ngựa tới chỉ mặt tướng loạn tặc phản loạn hét lớn: Ngươi là dân tộc Bách Việt Văn Lang sao phản bội lại các Vua Hùng. Tướng giặc nhìn lên trời cười ha hả: Thằng Trung Sơn ngu ngốc kia nghe cho rõ đây không ai phản lại các Vua Hùng, mà chỉ trừ khử những tham ô quan lại mà thôi. Thạch Trung Sơn quát: Ngươi nói không phản bội các Vua Hùng sao ngươi theo cha con Doãn Thường làm phản. Tướng giặc nói: Thằng Trung Sơn ngu ngốc kia. Doãn Thường tôn thờ Quốc Tổ Vua Hùng, ta không theo Việt Vương Doãn Thường thời ta theo ai. Hùng Việt Vương Tuân Lang tuy là dòng dõi Vua Hùng nhưng lại không làm theo lời dạy Quốc Tổ, Độc Tài, Độc Trị làm hại dân tộc Văn Lang. Thạch Trung Sơn quát: Các ngươi là loài ác Quỉ nói một đường làm một nẻo các ngươi chỉ gạt dân chúng gạt ta sao nổi. Thạch Trung Sơn phi ngựa tới chém tướng giặc một đạo như trời gián. Tướng giặc múa trường giáo lên chống đỡ. Hai bên đánh nhau cát bụi mịt mù. Đao qua Giáo lạ đinh tai nhức óc. Thạch Kế sợ Cha yếu thế bằng phi ngựa tới liên thủ cùng Thạch Trung Sơn quyết hạ gục tên tướng giặc phản loạn. Lúc ấy Phạm Đỗ Chinh cũng ra trận hai bên Phạm Đỗ Chinh rất nhiều Tướng Lĩnh trong đó có một tướng lĩnh nổi tiếng là Thần Xạ Tiễn Trường Lê. Chưa bao giờ bắn sai mục tiêu thấy hai cha con Thạch Trung Sơn sắp hạ gục Đổ Mục liền dương cung bắn Thạch Trung Sơn một phát. Thạch Trung Sơn trúng tên ngã nhào, Thạch Kế lao tới cứu Cha thoát khỏi trận địa. Tướng giặc Đổ Mục phi ngựa lao theo chém tới tấp. Thạch Thừa phi ngựa tới chậm đánh. Quân Văn Lang Bạch Lang Châu. Cùng quân loạn tặc phản loạn Việt Trung xáp chiến hai bên thi nhau ngã gục chiến trường. Vang lừng nội chiến dậy Văn Lang Sát khí vùng lên thịt nát tan Thi nhau ngã gục hồn phách tán Chính nghĩa là đâu tiếng khóc than. Nói về Thạch Thừa, Thạch Kế thu quân vào trong thành, Thạch Trung Sơn vì trúng tên quá nặng chất độc phát tán liền qua đời. Võ Hầu biết không thể nào đánh bại được quân loạn tặc phản loạn bằng cố thủ giữ thành không xuất binh tham chiến nữa. Cho người báo tin đến Tiên Châu tình hình nguy cập vô cùng. Văn Khánh đang xem qua mật thơ Võ Hầu gởi đến. Thời có quân thám báo vào báo: Bẩm Thống soái. Tình hình Âu Tây Châu, tình hình Quang Hải Châu vô cùng nguy cập. Quân phản loạn Việt Trung Nguyên đang ráo riết công phá thành. Thống Soái Văn Khánh vô cùng lo lắng. Thời có quân vào báo: Hai mươi vạn quân Văn Lang tiếp viện đã đến. Văn Khánh như trút gánh nặng vì quân Việt Trung Nguyên quá mạnh con số lên sáu mươi vạn quân quyết sang bằng Trung Văn Lang. Lại nói về Võ Hầu sau khi cho người theo đường bí mật đem mật thơ báo cáo tình hình Bạch Lang Châu cho Văn Khánh thống soái biết. Cố thủ thành chờ quân Văn Lang đến giải tỏa sự bao vây của quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên. Phạm Đổ Chinh ngày nào cũng cho người đến Bạch Lang Châu khiêu chiến. Nhưng Võ Hầu vẫn làm thinh biết rằng ngày nào cũng có quân loạn tặc phản loạn đến khiêu chiến chửi rủa. Nào là quân Văn Lang hèn nhát, nào là con rùa rụt cổ. Mùa thu tháng 8 trời mát mẻ rất thuận lợi cho hỏa công công phá thành. Nhưng Phạm Đỗ Chinh chưa tìm ra kế sách công phá thành bằng phương cách nào đạt hiệu quả cao nhất. Vì Võ Hầu thủ thành vô cùng chắc chắn. Phạm Đổ Chinh đang moi óc hầu tìm ra kế sách công phá thành. Thời bỗng có chiếu chỉ của Việt Vương Doãn Thường từ kinh đô Xích Quỉ Việt Trung Nguyên đến. Mật thư chiếu chỉ như sau: Ra lệnh công phá thành hai ngày sau có nội ứng bên trong mở cửa thành cho quân ta tiến vào tiêu diệt sạch bọn chúng chiếm cứ Bạch Lang Châu. Doãn Thường không những là nhà quân sự, chính trị thiên tài mà còn tạo lên mạng lưới bí mật, gọi là mạng lưới mật vụ. Mạng lưới mật vụ hoạt động bí mật xâm nhập vào nội bộ Quan Phủ. Mua chuộc Quan Phủ, giả làm dân trà trộn vào trong các nội thành mà không một ai phát giác được. Mạng lưới bí mật nầy rất được đào tạo công phu võ nghệ cao cường thế lực đen, chỉ một mình Doãn Thường biết và điều khiển bí mật nầy mà thôi. Những Quan, Tướng Việt Trung Nguyên chỉ cần bất mãn chính sách do Việt Vương Doãn Thường đưa ra liền bị thế lực bí mật đen thủ tiêu ngay. Tai mắt Việt Doãn Thường khắp mọi nơi, khắp mọi ngõ ngách. Nhờ mạng lưới thế lực đen nầy mà ngôi vị Việt Vương vững như bàn thạch. Theo lệnh của Việt Vương Doãn Thường. Phạm Đổ Chinh ra lệnh cho quân binh tấn công thành ngày đầu tấn công ít ngày sau tấn công phá thành mạnh nhất là khi màn đêm buông xuống. Trong lúc nửa đêm bỗng trên thành quân binh bạch Lang Châu hỗn loạn. Cửa thành mở toan ra thời cơ đã tới Phạm Đỗ Chinh cùng hai phó Soái là Trường Lê cùng Võ Bị điều động quân binh ập vào thành, quân Bạch Lang Châu trở tay không kịp bị quân loạn tặc phản loạn chém xối xả. Trận tử chiến xảy ra cho tới sáng, hơn 8 vạn quân Bạch Lang Châu đi tiêu. Lại nói về Võ Hầu, cùng hai phó tướng là Nguyên Tôn Chí và Trương Hoài điều quân binh chống trả lại quân loạn tặc phản loạn công phá thành mỗi lúc một dữ dội. Bỗng thấy quân binh hỗn loạn không biết chuyện gì xảy ra. Thạch Thừa la lớn: Có quân nội phản. Bỗng một quân binh Văn Lang múa đao chém tới Thạch Thừa. Thạch Thừa bất ngờ bị chém bay đầu. Võ Hầu thất kinh múa đại đao chém tới người giết Thạch Thừa nhưng người nầy võ công cao cường thoáng cái mất dạng. Nguyên Tôn Chí, Trương Hoài thấy quân loạn tặc phản loạn tràn vô thành như nước vỡ bờ nói: Chủ Tướng chúng ta mau trốn đi kẻo không còn kịp. Võ Hầu cùng hai phó tướng giết vội mấy tên lính loạn tặc, mặc áo chúng vào giả làm lính loạn tặc trốn thoát ra khỏi thành nhắm hướng Tiên Châu phi ngựa tới. Nói về Văn Khánh đóng đô ở Tiên Châu trên 15 năm. Thống Soái Tổng chỉ huy cả ba đạo quân chủ lực đóng ở Quang Hải Châu, Âu Tây Châu, Bạch Lang Châu. Văn Khánh được tin quân loạn tặc phản loạn sắp mở đợt tấn công tiến đánh Trung Văn Lang với sức mạnh đánh phủ đầu chưa tường có trước nay. Văn Khánh tuy lo lắng nhưng nghĩ: Mình có nhiều tướng tài. Nhất là chủ tướng Lương Minh cũng như Chủ Tướng Lưu Hà uy dũng oai phong đã lập nhiều công lớn đánh bại quân loạn tặc phản loạn nhiều trận. Lương Minh nên duyên vợ chồng với Xuân Thu con gái út Tri Phủ Anh Kỳ. Con trai lớn chủ tướng Lưu Hà nên duyên chồng vợ với Xâm Cẩm chị của Xuân Thu. Nữ tướng Ba Ra nên duyên cùng Anh Võ, nữ tướng Hê Na nên duyên với Anh Quyền. Những cặp nam nữ xinh đẹp văn võ song toàn này đã từng sống chết bên nhau hơn 10 năm rồi còn gì. Văn Khánh nghĩ cuộc giao tranh Nam Bắc luôn đụng độ với nhau. Nhưng chưa lần nào căng thẳng như lần nầy. Văn Khánh thống soái ăn không ngon ngủ không yên than ngắn thở dài. Thời cũng đủ biết cuộc diện đang xảy ra phức tạp nguy hiểm khó khăn đến mức độ nào. Văn Khánh nghe Tin quân Việt Trung Nguyên tấn công dồn dập chiếm lĩnh các quận huyện dễ như trở bàn tay nghe tin Bạch Lang Châu thất thủ về tay quân loạn tặc phản loạn thời lấy làm kinh hãi: Quân loạn tặc phản loạn mạnh đến thế sao? Văn Khánh chưa tìm ra kế sách gì để đối phó, thời có quân vào báo: Chủ Tướng Võ Hầu cùng hai phó tướng trốn thoát khỏi Bạch Lang Châu, đến đây phụng chỉ thọ tội. Văn Khánh cho mời ba người vào rồi hỏi đầu đuôi thất thủ Bạch Lang Châu, một cách cặn kẽ. Võ Hầu nói: Bẩm Nguyên Soái. Không hiểu từ lúc nào quân loạn tặc phản loạn đã cấy người vào ở trong thành và chính quân loạn tặc làm nội ứng nầy mở cửa thành cho quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên tràn vào nên Bạch Lang Châu mới thất thủ nhanh chóng như vậy. Văn Khánh nghi ngờ nói: Phải có hơn trăm quân loạn tặc phản loạn lẫn lộn trong quân ta hạ gục quân binh trấn giữ cổng thành, mới thực hiện nổi kế sách nội công ngoại ứng. Nguyên Tôn Chí nói: Những quân binh làm nội ứng không phải quân tầm thường mà là đại cao thủ Võ Lâm. Kinh công thượng đẳng thấy đó mất đó chỉ một đường đao là giết chết Thạch Thừa. Văn Khánh nghe xong lấy làm kinh hãi cho cái tài Ma Quỉ quân phản loạn Việt Trung Nguyên. Văn Khánh bằng dâng sớ tâu lên Hùng Việt Vương Tuân Lang rằng: Chinh Bắc thống soái thần là Văn Khánh. Rất sợ hãi cúi đầu trước Quốc Vương Bệ Hạ. Thần tự nghĩ "Thần đã nỗ lực hết mình suốt chặng đường 15 năm". Cố sức tấn công ra Bắc, giành lại những tất đất mà quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên đã cướp lấy, nhưng chẳng được là bao. Nay quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên thế lực bỗng mạnh lên như nước thủy triều thêm lên mấy mươi vạn quân nữa. Thần nghĩ "Nếu không thắng được quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên". Thời phụ lòng ủy thác của Bệ Hạ. Nhưng hiện giờ với số quân ít ỏi không thể ngăn chặn nổi khi quân Bắc Việt Trung Nguyên tổn tấn công. Phàm những việc lớn lao như thế đều phải dâng tấu sớ lên Quốc Vương Bệ Hạ định liệu giải quyết. Dù gì đi nữa Thần lúc nào cũng tận tụy xin dốc lòng đến chết mới thôi. Đến như thành bại được mất là do định mệnh tại Trời vậy. Xin Bệ Hạ soi xét chỉ thị dạy bảo Thần để Thần tùy cơ ứng biến một còn một mất với quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên. Hùng Việt Vương xem xong sớ tâu Thống Soái Văn Khánh lấy làm kinh hãi. Liền chuyền tay cho các Quan đại Thần xem. Các Đại Thần xem xong ai nấy đều biến sắc mặt. Hầu Tôn Vương tâu rằng: Muôn Tâu Quốc Vương Bệ hạ. Tên loạn tặc phản loạn Doãn Thường đã có dã tâm lớn từ lâu hầu nuốt trọn Văn Lang thời đại Hùng Vương lập lên thời đại Việt Trung Nguyên. Nếu không đánh tan thế lực loạn tặc thời e rằng Trung Văn Lang cũng khó giữ nổi. Liều thuốc lấy dân làm gốc của Doãn Thường tuy là lừa đảo dân chúng, nhưng cũng hiệu quả tác dụng vô cùng e rằng dân chúng Bách Việt Trung Văn Lang ngã theo tên loạn tặc Quỉ yêu nầy, nếu mưu đồ đánh chiếm Trung Văn Lang. Hùng Việt Vương Tuân Lang cũng nhận định được tình hình nầy bằng hỏi: Các khanh có diệu kế gì không? Lạc Hầu Vương tâu rằng: Muôn tậu quốc Vương Bệ Hạ. Bệ Hạ một mặt chỉnh đốn lại Vương, Quan, Tướng lĩnh, Châu Phủ, Quận, Huyện loại trừ những tham quan làm hại dân. Thay thế những Vương, Quan có năng lực lãnh đạo ổn định lòng dân. Hai là Bệ Hạ giảm bớt thu thế những năm hạn hán thiên tai. Ba chiêu mộ hiền tài ra giúp nước. Bốn là mở ra thi cử tuyển chọn nhân tài hàng năm những thí sinh thật sự có năng lực bổ sung vào các Quận Huyện không phải là cha truyền con nối. Năm là bồi dưỡng đức tài hàng năm cho các Vương Quan, Tướng lĩnh, Châu, Huyện. Đó là việc lâu dài, còn trước mắt là cử một người trong vương gia thống lĩnh đại quân, hiệp lực cùng thống soái Văn Khánh chống trả lại quân loạn tặc phản loạn Việt Trung Nguyên. Nếu Quốc Vương Bệ Hạ làm được năm điều nói trên một cách triệt để cũng như phái Vương Gia thống lĩnh đại quân dẹp tan quân loạn tặc, thời Trung Văn Lang không dễ gì Việt Trung Nguyên Chiếm lĩnh nổi. Thần mấy năm nay chú tâm nghiên cứu về Quốc Tổ cũng như thời Thượng Hùng Vương. Thần thấy rằng Quốc Tổ khai dựng lên nước Văn Lang không phải bằng con đường chinh chiến thắng cho là Vua, thua cho là Giặc. Mà là bằng con đường Văn Hóa Cội Nguồn, dựa trên quyền con người khai lập lên nhà nước Văn Lang, Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà nước của Dân do Dân và vì Dân. Có lẽ tên loạn tặc phản loạn Doãn Thường đã nghiên cứu kỷ về Quốc khai sinh ra nước Văn Lang một Nhà Nước đa sắc Tộc, nhà nước hợp chủng tộc nhà nước của một trăm Lĩnh Chúa. Sống chung trong một ngôi nhà chung NỀN QUỐC ĐẠO DÂN TỘC. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp mới thật là Quốc Vương của nước Văn Lang. Quốc Vương là người Đại Trung Thành với nền Văn Hiến tối cao ấy. Nếu không phải thế thời không thể nào đoàn kết được Bách Việt Văn Lang một trăm bộ lạc lâu dài được như vậy. Nhưng đáng tiếc là tất cả đi vào thất truyền, nhưng không vì thế mà không noi gương theo Quốc Tổ được. Năm điều nói trên thần rút ra từ hiểu biết về Quốc Tổ. Nhờ làm theo năm điều cơ bản trị quốc an dân của Lạc Hầu Vương niên đại Hùng Vương truyền xuống thêm được năm đời, tới đời Hùng Duệ Vương, Huệ Lang thời kết thúc niên đại Hùng Vương 258 trước công nguyên nối truyền được 41 đời thượng Hùng Vương 23 đời, Hạ Hùng Vương 18 đời. Kéo dài độc lập 2701 năm. 79 năm dựng nước thời Quốc Tổ. 2622 năm thời thừa kế giữ nước con cháu. Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng lên đất nước Văn Lang vô cùng rộng lớn chia đất nước Văn Lang ra thành 15 bộ cho cả ba miền Nam – Trung – Bắc. Sau mở rộng nước Văn Lang lên tới 21 bộ. 1- Bộ Giao Chỉ 2- Bộ Nhật Nam 3- Bộ Cửu Chân 4- Bộ Hợp Phố 5- Bộ Nam Hải 6- Bộ Uất Lân 7- Bộ Thương Ngô 8- Bộ Ninh Hải 9- Bộ Vũ Ninh 10- Bộ Việt Thường 11- Bộ Lục Hải 12- Bộ Tân Hưng 13- Bộ Cửu Đức 14- Bộ Bình Văn 15- Bộ Văn Lang. Nước Văn Lang sau mở rộng lên đến 21 bộ: Bắc Văn Lang: 1- Bộ Giao Chỉ 2- Bộ Cửu Chân 3- Bộ Nhật Nam 4- Bộ Hợp Phố 5- Bộ Nam Hải 6- Bộ Uất Lân 7- Bộ Thương Ngô Trung Văn Lang: 1- Bộ Ninh Hải 2- Bộ Chu Diên 3- Bộ Lục Hải 4- Bộ Cửu Đức 5- Bộ Vũ Định 6- Bộ Dương Tuyền 7- Bộ Hoài Hoan Nam Văn Lang: 1- Bộ Văn Lang 2- Bộ Bình Văn 3- Bộ Tân Hưng 4- Bộ Phú Lộc 5- Bộ Vũ Ninh 6- Bộ Việt Thường 7- Bộ Hồ Nam Ở vào thời Thượng Hùng Vương các Châu Thành chỉ đắp cho có hình thức phần lớn thành hàng rào lũy tre tới thời Hạ Hùng Vương các Châu Thành mới đắp kiên cố hơn, nhất là các đời cuối Hạ Hùng Vương. Các Châu Thành thời đó không phải xây bằng đá gạch, mà chỉ xây đắp theo cách thông dụng lũy hào, hào lũy. Ngoài hào, trong lũy. Thành lũy đắp bằng đất cọng với cọc tre. Hàng năm thường tu bổ vì thành bằng đất mưa bão làm hư hỏng xuống cấp. * * *