Tích cảnh thi 12 Lầu xanh từng thấy khách thi nhân, Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân. Mới trách thanh đồng tin diễn đến, Bởi chưng hệ chúa Đông Quân. Cước chú: mới: đã, tỏ sự vỡ lẽ thanh đồng: tiên đồng của Tây Vương Mẫu, chuyên làm sứ giả đi báo tin. tin diễn đến: tin từ xa đến bởi chưng: bởi vì hệ (từ cổ): có liên quan tới, ràng ríu với chúa Đông Quân: tên thần mặt trời, thần quản mùa xuân.
Tích cảnh thi 13 Đâu đâu cũng chịu lệnh Đông Quân, Nào chốn nào chẳng gió xuân. Huống lại vườn còn hoa trúc cũ, Dồi thức tốt lạ mười phân. Cước chú: Đông Quân: tên thần mặt trời, thần quản mùa xuân. dồi (từ cổ): (đen, bóng) làm cho tươi tốt từ trong ra ngoài. thức: màu
Thuỷ trung nguyệt Nguyệt trong đáy nước nguyệt trên không, Xem ắt lầm một thức cùng. Hải Nhược chiết nên cành quế tử, Giang Phi chiếm được chước thiềm cung. Thu cao, thỏ ướm thăm lòng bể, Vực lạnh, châu mừng thoát miệng rồng. Điệu khiếp thiên nhan chẳng nỡ tịn, Lui thuyền lãng đãng ở trên dòng. Cước chú: xem: nhìn ắt lầm: hẳn, nhất định nhìn lầm một thức cùng: cùng một màu Hải Nhược: thần biển Hải Nhược chiết nên cành quế tử: Câu này ý nói thần biển Hải Nhược bẻ được cành quế trên cung trăng, nghĩa bóng ý nói mặt trăng in xuống đáy biển, tưởng như là thần biển đã sở hữu được mặt trăng. Giang Phi chiếm được chước thiềm cung: Giang Phi theo thần thoại Trung Quốc, hai nữ thần trên sông giang Hán gọi là Giang Phi. Lưu Hướng 劉向 đời Hán trong truyện Giang Phi nhị nữ sách Liệt Tiên Truyện có câu: "Hai nàng Giang Phi chẳng biết là người ở đâu, dong chơi bên bờ giang Hán, gặp gỡ với trịnh giao phủ, phủ gặp mặt rất là yêu mến, nhưng chẳng biết đấy là thần nhân vậy. Ý cả câu: Giang Phi giành được cho mình được giấc ngủ trong trăng đáy nước. thỏ: mặt trăng châu: đá quý điệu: buồn; khiếp: thương thiên nhan: vẻ đẹp của trời tịn: hết
Thuỷ thiên nhất sắc Trời nghi ngút nước minh mông, Hai ấy cùng xem một thức cùng. Hang thỏ trầm tăm Hải Nhược, Nhà giao giãi bóng thiềm cung. Bút thiêng Ma Cật, tay khôn mạc, Câu kháo Huyền Huy, ý chửa đông. Lẽ có chim bay cùng cá dảy, Mới hay kìa nước nọ hư không. Cước chú: minh mông: mênh mông, mờ ảo một thức cùng: cùng một màu (ý nói trời nước cùng một màu) Hang thỏ: chỉ mặt trăng trầm: chìm tăm: bong bóng nhỏ Hải Nhược: thần biển nhà giao: nhà của giao long, nghĩa như chữ thuỷ quốc thiềm cung: cung trăng Ma Cật: tên tự của Vương Duy (701-761), nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, thư Pháp Gia và một chính khách nổi tiếng đời Đường. Ông còn được người đời gọi là Thi Phật. Ngày nay còn giữ được khoảng 400 bài thơ của ông, với phong cách tinh tế, trang nhã. khôn: khó, khó có thể mạc: vẽ, tô; khôn mạc: khó vẽ tô. kháo: khéo léo Huyền Huy: tên tự của Tạ Dữu người nước Tề đời Nam Triều. Ông là người giỏi thơ, được coi là nhà thơ đặt nền móng cho thơ đường sau này, tên ông được dùng để chỉ những người có văn tài. đông: đúc nên dảy: nhảy kìa: vật ở phía xa nọ: cái không xác định cụ thể ở trong tương quan không gian hay thời gian (đại từ phiếm hư không: bầu trời, không gian
Mai thi Giữa mùa đông trỗi thức xuân, Nam chi nở cực thanh tân. Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch, Đáy nước ngờ là mặt Thái Chân. Càng khuở già càng cốt cách, Một phen giá một tinh thần. Người cười rằng kém tài lương đống, Thửa việc điều canh bội mấy phần. Cước chú: trỗi: bật lên, nổi bật lên thức: màu nam chi: cành cây phía nam cực: mức độ cao nhất thanh tân: trong trẻo và tươi mới khác: lạ lùng, khác lạ Cô Dịch: biểu tượng cho người đẹp có phẩm cách cao khiết hay chỉ chung cho thần tiên. Thái Chân: tên của một vị tiên nữ là con gái út của Vương Mẫu, thơ văn đời Đường tống thường dùng để tả vẻ đẹp của Dương Quý Phi, ngầm ví đó là vẻ đẹp của thần tiên trên thượng giới. khuở: khi, lúc; khuở già: lúc về già cốt cách: phẩm chất ưu trội phen: lần giá: lạnh tinh thần: hồn cốt lương đống: rường cột, ví với những người tài gánh vác trách nhiệm lớn trong triều đình thửa việc: cái việc, công việc điều canh: (điển tích) thường được sử dụng để ví với những vị đại thần (như tể tướng) giúp đỡ cho nhà vua quản lí chính sự quốc gia bội: gấp nhiều lần
Lão mai Hoa nẩy cây nên, khuở đốc sương, Chẳng tàn chẳng cỗi, hãy phong quang. Cách song khác ngỡ hồn Cô Dịch, Quáng bóng in nên mặt Thọ Dương. Đêm có mây, nào quyến nguyệt, Ngày tuy gió, chẳng bay hương. Nhờ ơn vũ lộ đà no hết, Đông đổi dầu đông hãy một dường. Cước chú: khuở: lúc đốc sương: dày sương hãy: vẫn còn phong quang: nguyên nghĩa là cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ sinh động trong gió được phản chiếu xuống mặt nước, cảnh đẹp, cảnh tượng huy hoàng. cách song: ngăn cách bởi song cửa (sổ) khác: lạ lùng, khác lạ Cô Dịch: biểu tượng cho người đẹp có phẩm cách cao khiết hay chỉ chung cho thần tiên. quáng: sáng chói, sáng loá mắt Thọ Dương: công chúa, con gái vua tống vũ đế thời Nam Bắc Triều. quyến nguyệt: quyến luyến bóng trăng (nào quyến nguyệt: không quyện vào mà làm che mờ bóng trăng) vũ lộ: mưa móc, ví với ân trạch tưới nhuần. đà: đã no: no dủ đổi: đi qua dầu: mặc kệ đông đổi dầu đông: mặc kệ mùa đông thay đổi, đi qua dường (dáng, dạng): một dạng hãy một dường: vẫn một dạng
Cúc Người đua nhan sắc khuở xuân dương, Nghĩ chờ thu cực lạ dường. Hoa nhẫn rằng đeo danh ẩn dật, Thức còn thông bạn khách văn chương. Tính thanh nào đoái bề ong bướm, Tiết muộn chăng nài khuở tuyết sương. Dầu thấy xuân lan cùng lọn được, Ai ai đều có mỗ mùi hương. Cước chú: đua: giành lấy phần thắng trong sự cạnh tranh khuở: lúc, khi xuân dương: khí xuân đầm ấm nghĩ: một mình lạ: tươi tốt nhẫn: cho dù thức: màu thông: đủ cả, hết cả tính: bản tính, tính nết thanh: cao khiết, liêm khiết ong bướm: ong và bướm, nghĩa bóng chỉ việc trai gái chơi bời không chính đáng tiết: khí tiết chăng nài: chẳng kể chi, chẳng nệ, chẳng lấy làm đều khuở: thuở lọn: vẹn, trọn, suốt, hết mỗ mùi hương: mùi hương của từng loài hoa
Hồng cúc Quỹ đông cho thức xạ cho hương, Tạo hoá sinh thành khác đấng thường. Đốt lòng đan chăng bén tục, Bền tiết ngọc kể chi sương. Danh thơm thượng uyển còn phen kịp, Bạn cũ đông ly ắt khá nhường. Miễn được chúa tiên yêu chuộng đến, Ngày nào khá ấy trùng dương. Cước chú: Chăng: Trong ngữ cảnh thơ cổ, "chăng" có nghĩa là "không". Cụm "đan chăng bén tục" có thể hiểu là sự trong sáng không vướng tục. Kể: Trong ngữ cảnh này, "kể" có nghĩa là "xem trọng" hoặc "quan tâm đến". "Bền tiết ngọc kể chi sương" có thể hiểu là sự trong trắng, bền bỉ không màng khó khăn, thử thách (ở đây "sương" tượng trưng cho gian truân). Sương: Thông thường, "sương" trong văn học là một hình ảnh ẩn dụ cho sự khó khăn, thử thách. Ở đây, "sương" nói đến những khắc nghiệt mà tiết ngọc (sự trong sáng, thanh khiết) phải đối mặt. Kịp: Có nghĩa là "có thể theo kịp", "sánh ngang" hoặc "đạt đến". "Danh thơm thượng uyển còn phen kịp" nghĩa là tiếng thơm vẫn có thể sánh ngang với những nơi sang trọng, vườn thượng uyển. Đông ly: Đây là tên gọi của hoa cúc (còn gọi là hoàng hoa). Trong văn học cổ, hoa cúc tượng trưng cho tình bạn tri kỷ và sự trung thành. Khá nhường: Cụm từ "khá nhường" có nghĩa là "nên nhường", "nên kính trọng". Ở đây có thể hiểu là nên tôn trọng người bạn tri kỷ cũ (hoa cúc, đại diện cho người tri kỷ). Trùng dương: Nghĩa là "biển cả mênh mông". Trong thơ văn, "trùng dương" thường chỉ những nơi rộng lớn hoặc cũng có thể là những dịp hội tụ lớn, những ngày trọng đại.
Tùng - bài 1 Thu đến cây nào chẳng lạ lùng, Một mình lạt khuở ba đông. Lâm tuyền ai rặng già làm khách, Tài đống lương cao ắt cả dùng. Cước chú: Lạ lùng: Trong ngữ cảnh này, "lạ lùng" không chỉ mang nghĩa "khác lạ" mà còn hàm ý sự thay đổi, biến đổi của cây cối khi mùa thu đến, tạo nên cảnh sắc khác thường. Lạt: Trong thơ cổ, "lạt" có thể mang nghĩa "thưa thớt" hoặc "nhạt nhòa". Ở đây, "một mình lạt khuở ba đông" có thể hiểu là một mình đón qua ba mùa đông khắc nghiệt, thưa thớt, nhạt nhòa. Rặng già: Cụm từ "rặng già" chỉ những cây cổ thụ lâu năm, đã trải qua nhiều mùa thay lá. Trong ngữ cảnh, "lâm tuyền ai rặng già làm khách" có thể hiểu là người đến nơi núi rừng có cây cối già lâu năm như một khách lạ. Làm khách: "Làm khách" ở đây có nghĩa là "đến chơi" hoặc "dừng chân", ngụ ý người đến tham quan, ngắm cảnh trong chốc lát, không thuộc về nơi đó. Tài đống: "Tài đống" là cụm từ chỉ người có tài năng và phẩm chất lớn lao, có thể đóng góp quan trọng trong những hoàn cảnh cần thiết. Lương cao: "Lương cao" có nghĩa là người đáng tin cậy, có phẩm chất đạo đức cao, có thể gánh vác những trọng trách. Câu "Tài đống lương cao ắt cả dùng" có thể hiểu là người có tài năng và đạo đức cao chắc chắn sẽ được trọng dụng.
Tùng - bài 2 Đống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay. Cội rễ bền dời chẳng động, Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày. Cước chú: Chống: Trong ngữ cảnh này, "chống" có nghĩa là "đỡ lấy" hoặc "gánh vác". Câu "Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay" ngụ ý cây tùng có thể đỡ đần, gánh vác trọng trách lớn lao cho đất trời. Khỏe: Ở đây, "khỏe" mang nghĩa "mạnh mẽ", thể hiện sức mạnh và sự bền bỉ của cây tùng khi phải chịu nhiều thử thách trong tự nhiên. Dời chẳng động: "Dời" nghĩa là "di chuyển", còn "động" là "bị lay chuyển". "Dời chẳng động" nghĩa là dù phải chịu đựng nhiều tác động, nhưng cây vẫn kiên cường, không lay chuyển, vẫn đứng vững. Tuyết sương: Trong văn học cổ, "tuyết sương" thường đại diện cho những khó khăn, thử thách mà cây phải vượt qua. Trong câu này, "tuyết sương" ám chỉ những gian truân, thử thách mà cây tùng đã trải qua. Đặng: "Đặng" ở đây mang nghĩa "chịu đựng được", "vượt qua được". "Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày" ngụ ý rằng cây tùng đã chịu đựng qua nhiều thử thách khó khăn.