Đề cương ôn tập các tác phẩm văn học lớp 12, ngắn gọn - Đầy đủ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 23 Tháng chín 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    178
    12. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - NGUYỄN MINH CHÂU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    - Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

    - Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320. - Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang tạp chí văn nghệ quân đội.

    - Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

    - Ông "thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

    - Tác phẩm chính:" Dấu chân người lính "," Chiếc thuyền ngoài xa "..

    2. Xuất xứ:

    - " Chiếc thuyền ngoài " xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.

    - Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: Hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

    3. Tóm tắt:

    - Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau.

    - Sau nhiều ngày " phục kích ", người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được " một cảnh đắt trời cho " – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương.

    - Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.

    - Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp..

    - Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến tòa án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên.

    - Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch " tĩnh vật hoàn toàn " về " thuyền và biển " năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.

    4. Nhan đề:

    - " Chiếc thuyền ngoài xa " trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.

    - Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.

    - Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.

    - Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.

    5. Tình huống truyện:

    - Tình huống: Một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng " trời cho " - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.

    - Đây là một " tình huống nhận thức ", có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của đời thường.

    - Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài. Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề " đôi mắt ", cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.

    II. DÀN Ý CHI TIẾT:

    1. Nhân vật Phùng:

    a. Thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

    * Phùng là người yêu nghề, có trách nhiệm với nghề:

    - Anh đã phục kích mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào.

    - Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm anh mới chụp được bức ảnh ưng ý.

    ->Phùng không đơn giản, qua loa với công việc mà anh luôn hết lòng vì công việc.

    * Phùng là một nghệ sĩ tài năng:

    - Anh đã phát hiện bức tranh thiên nhiên giàu giá trị nghệ thuật:

    + Trước mặt Phùng là một khung cảnh thiên nhiên như " bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ ".

    +" Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào ".

    +" Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ ".

    + Khung cảnh được nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó giống hệt " cánh một con dơi ", đẹp từ đường nét đến ánh sáng.

    ->Phùng là người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp. Anh thực sự biết quan sát bằng đôi mắt tinh tường," nhà nghề "để lựa chọn cái đẹp hài hòa giữa thiên nhiên, cảnh vật, con người - vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần.

    * Phùng là người nghệ sĩ thật sự rung cảm trước cái đẹp:

    - Cái đẹp đã làm Phùng xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình.

    + Anh liên tưởng tới câu nói của ai đó " bản thân cái đẹp chính là đạo đức ".

    + Và tưởng chính mình vừa khám phá " cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn ".

    ->Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc khi khám phá và sáng tạo, khi cảm nhận cái đẹp hài hòa, lãng mạn giữa thiên nhiên và cuộc đời. Trong hình ảnh" chiếc thuyền ngoài xa "giữa biển trời mờ sương, Phùng đã cảm nhận cái đẹp toàn bích và thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Từ đây, ta thấy người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái đẹp đến cho đời.

    * Nhân vật Phùng thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

    - Qua việc khám phá bức ảnh " chiếc thuyền ngoài xa " của Phùng, tác giả muốn đề ra một quan niệm về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cho cuộc sống; người nghệ sĩ phải có tài năng, có sự lao động miệt mài và phải có sự xúc động trước cái đẹp thì mới sáng tạo được những tác phẩm có giá trị.

    b. Nhân vật Phùng thể hiện cách nhìn về cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

    * Phùng là người có tấm lòng nhân hậu:

    - Chưa thỏa thuê ngắm bức ảnh " chiếc thuyền ngoài xa " thì ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào nơi Phùng đứng.

    - Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau.. Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp " toàn bích, toàn thiện " mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.

    - Chứng kiến cảnh ấy, Phùng đã " kinh ngạc đến mức () há mồm ra mà nhìn " rồi sau đó thì " vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới ". Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác (con lão đàn ông) đã kịp tới để che chở cho người mẹ.

    - Đến lần thứ hai, bản chất người lính ở người nghệ sĩ được thể hiện. Anh xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác.. Hành động của Phùng cho thấy anh không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác.

    - >Đằng sau cái đẹp" toàn bích, toàn thiện "mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là" đạo đức ", là" chân lí của sự toàn thiện "mà nó là những ngang trái, xấu xa, những bi kịch còn tồn tại trong cuộc sống.

    * Phùng luôn ý thức để hoàn thiện nhân cách:

    - Tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của bức ảnh " chiếc thuyền ngoài xa ", cảnh người đàn ông đáng vợ và khi lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án (vì tình thương con, vì ý thức phải sống cho con, vì mong nuôi con cho đến khi khôn lớn mà chị chấp nhận gánh lấy cái khổ), Phùng nhận thức rất nhiều điều qua các cảnh ấy.

    + Đằng sau bức ảnh như " bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ " là những điều nghịch lý trong cuộc sống đời thường với biết bao số phận, bao mảnh đời éo le.

    + Để Phùng chứng kiến hành động vũ phu của người chồng, Nguyễn Minh Châu muốn phê phán tình trạng bạo lực trong gia đình, một mảng tối của xã hội đương đại.

    + Phùng đã hiểu về người đàn bà hàng chài kia: Ẩn bên trong sự xấu xí, nhẫn nhục là vẻ đẹp tình mẫu tử đầy vị tha, là khát khao hạnh phúc bình dị đời thường của người phụ nữ còn đói nghèo, lạc hậu.

    + Nỗi trăn trở của Phùng trong nhiều năm dài về hình ảnh người đàn bà hàng chài cứ hiện ra sau mỗi lần anh ngắm bức ảnh" chiếc thuyền ngoài xa " chính là quá trình tự ý thức của Phùng để hoàn thiện nhân cách của mình.

    =>Phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con người; bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

    2. Nhân vật người đàn bà hàng chài

    a. Số phận:

    - Người đàn bà vùng biển trong truyện ngắn hiện lên qua cái nhìn của Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã tình cờ chứng kiến những bi kịch gia đình của chị.

    + Chị không hề có tên. Tác giả chỉ gọi chị là " người đàn bà " một cách phiếm định. Có lẽ đây là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

    + Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn.

    -> Cách gọi tên nhân vật như vậy vừa cụ thể nhưng lại vừa khái quát, vừa phiếm định nhưng lại vừa xác định.

    – Chị là một người phụ nữ lao động lam lũ ở làng vạn chài, cả nhà sống lênh đênh trên một chiếc thuyền đánh cá.

    – Chị là một người phụ nữ đau khổ – nạn nhân đáng thương của sự lạc hậu đói nghèo, chị thường xuyên bị chồng đánh đập, ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

    -> Nhân vật người đàn bà trong" Chiếc thuyền ngoài xa "là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối cơ cực vẫn còn tồn tại trong cuộc sống quanh ta.

    b. Ngoại hình:

    - Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà hàng chài lại là một người phụ nữ có ngoại hình thô kệch, xấu xí.

    -> Người đàn bà với cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như tất cả những người người đàn bà ở vùng biển – nơi mà con người ta luôn phải đối diện với hiểm nguy, cuộc sống luôn phải đặt trong vòng vây của sự đói khát, bấp bênh.

    c. Phẩm chất, tính cách:

    – Sức chịu đựng ghê gớm: Cam chịu, nhẫn nhục chịu để chồng đánh một cách bình tĩnh như thực hiện một nghĩa vụ. Chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời mình, chấp nhận nó như cuộc sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to, gió lớn vậy.

    – Rất tự trọng. Sau khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (Phùng) chứng kiến, chị thấy" đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã ". Và chị đã khóc.

    – Thương chồng: Chị cầu xin vị chánh án đừng bắt mình phải li hôn với gã chồng thường xuyên hành hạ chị:" Con lạy quý tòa.. Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó ".

    – Chị là người mẹ thương con:

    + Chị lo sợ thằng Phác sẽ có những hành động nông nổi với bố, chị đã gởi con cho bố ruột mình nuôi. Không muốn con nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ, chị xin với chồng mỗi lần đánh chị thì lên bờ mà đánh khi không có mặt con. Đó cũng là một cách ứng xử rất nhân bản.

    + Chị nhẫn nhục chịu đựng đòn roi của chồng vì chị nghĩ đến đàn con:" Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! ". Hóa ra, chị không thể bỏ chồng vì cuộc sống trên thuyền không thể thiếu một người đàn ông trong những lúc phong ba, bão táp, các con chị phải được nuôi nấng, phải được lớn lên..

    – Chị là một người hiểu thấu lẽ đời, tuy ít học mà tỉnh táo và sáng suốt.

    + Chị xưng hô: Quý tòa – con tự nhận mình là thân phận thấp hèn. Khi chánh án Đẩu khuyên chị bỏ chồng. Chị cảm ơn Phùng và Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định:" Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn.. cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọc.. ". Chị quả rất hiểu lẽ đời.

    + Không chỉ hiểu mình, chị hiểu cả tấm lòng của những người phụ nữ hàng chài. Họ biết mình đau khổ nhưng vẫn nhẫn nại, hi sinh, bao dung chịu đau khổ để cho đàn con được dưỡng nuôi, khôn lớn. Bởi người phụ nữ hàng chài không thể sống như những người phụ nữ khác, do hoàn cảnh rất riêng của họ, lúc nào cũng sống trên sóng nước, gia đình nào cũng trên dưới chục đứa con. Câu chuyện của chị ở tòa án huyện đã mang lại cho chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng những nhận thức mới mẻ mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.

    – Chị yêu thương gia đình và cuộc sống đạm bạc của gia đình. Như chị nói: " Trên thuyền cũng có những lúc cha con, vợ chồng vui vẻ với nhau, nhất là khi nhìn đàn con được ăn no ". Chính vì vậy, khi chánh án Đẩu đề nghị chị li hôn với chồng chị đã nhất định không chấp nhận.

    -> Ở Chị là người phụ nữ bao dung, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh.

    - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhà văn đã có dụng ý tạo nên ấn tượng cho người đọc về hình ảnh người đàn bà bằng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo kết hợp với thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa một số phận bất hạnh và tấm lòng nhân hậu, bao dung, thương con hơn tất cả mọi thứ trên đời.

    => Khép lại câu chuyện về người đàn bà vô danh vùng biển, nhưng người đọc không khỏi băn khoăn, day dứt. Vấn đề dặt ra là làm thế nào để số phận những người phụ nữ như người đàn bà kia thoát khỏi những bi kịch của cuộc đời? Bằng việc khắc họa rõ nét chân dung người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã gửi đến người đọc một thông điệp đầy tinh thần nhân văn: Thời đại nào con người ta cũng cần phải có sự thương yêu, lòng thông cảm, phải có niềm tin vào cuộc đời.

    3. Chánh án Đẩu

    - Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.

    - Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.

    4. Nhân vật người chồng

    - Vốn là một " anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm ".

    - Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.

    - Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

    5. Thằng bé Phác

    - Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.

    - Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được " lẽ đời " bên trong.

    - Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.

    6. Đặc sắc nghệ thuật

    - Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.

    - Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực, giàu sức thuyết phục (ngôi kể là nhân vật.

    - Ngôn ngữ các nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

    III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Tình huống khám phá (Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh đẹp) :

    a. Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh thiên nhiên đẹp:

    Phùng xuất thân là bộ đội, hiện là một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, luôn khao khát đi tìm cái đẹp. Phùng phát hiện ra bức tranh đẹp ở vùng biển miền Trung. Đó là một chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm " trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa, có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào ". Và bức tranh còn đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người" vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum " đang hướng mũi vào bờ. Như vậy, con người đã làm cho bức tranh có bố cục hài hòa, sinh động từ đường nét đến ánh sáng.

    b. Tâm trạng của Phùng khi phát hiện ra bức tranh đẹp:

    Khi phát hiện ra bức tranh đẹp, Phùng cảm thấy bối rối như bị bóp nghẹt trái tim, bởi vì tâm hồn người nghệ sĩ chân chính ấy đã rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp của bức tranh. Sung sướng, Phùng bấm liên tục hết một phần tư cuốn phim, để vĩnh cửu hóa cảnh đẹp tuyệt vời đó. Hạnh phúc của nghệ sĩ Phùng là hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo. Để có được khoảnh khắc hiếm hoi ấy, người nghệ sĩ phải kiên trì vượt khó, phải đam mê vì nghệ thuật. Đặc biệt, cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ một cách bất ngờ nhất.

    2. Tình huống tâm trạng (Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra bức tranh cuộc sống gia đình hàng chài) :

    a. Phùng vô cùng ngỡ ngàng khi tai nghe tiếng quát:

    Phùng vô cùng ngỡ ngàng khi chiếc thuyền tiến vào bờ, vì bước xuống từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy là vợ chồng hàng chài với ngoại hình nghèo khổ, lam lũ, mệt mỏi và kèm theo là một tiếng quát đầy chết chóc " cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ ". Tiếng quát đã làm rạn nứt cái hạnh phúc mà Phùng vừa có được, đó là vẻ đẹp của" chiếc thuyền ngoài xa ".

    b. Phùng choáng váng khi nhìn thấy cảnh người đàn ông đánh vợ:

    Phùng choáng váng trước sự nghiệt ngả của cuộc sống, bởi vì mắt Phùng nhìn thấy cảnh người đàn ông hàng chài đánh vợ. Đầu tiên lão ta đang" áp giải "vợ lên bờ, bằng cách để vợ đi trước, lão đi sau " đôi mắt độc dữ " luôn dán vào lung người đàn bà. Sau đó, họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn, lập tức người đàn ông dữ dằn, độc ác ấy đánh vợ thật dã man " lão rút trong người ra chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa " và lập tức " quật tới tấp vào lưng người đàn bà ". Đặc biệt, vừa đánh lão vừa thở hồng hộc, nghiến răng ken két, cứ một nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn " mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ ". Bị chồng đánh rất dã man, nhưng người đàn bà chỉ nhẫn nhục, chịu đựng " không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn ".

    c. Phùng kinh ngạc hơn khi chứng kiến cảnh thằng Phác lao tới cứu mẹ:

    Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ khi chứng kiến cảnh đứa con trai bé bỏng lao vào cứu mẹ và cảnh ẩu đả của hai bố con trên bãi cát " thằng con trai giựt cái thắt lưng quật thẳng vào ngực người đàn ông, còn người đàn ông thì tát thằng bé hai cái dúi mặt xuống cát ", rồi lão đàn ông lặng lẽ về thuyền, người đàn bà ôm chầm lấy con, buông con ra, lạy con, rồi lại ôm chầm lấy con mà khóc, sau đó chạy theo người đàn ông.

    d. Phùng là người nhân hậu:

    Phùng là người nhân hậu nên anh rất bất bình khi vài ngày sau Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, Phùng lao tới bênh vực, che chở cho người đàn bà không quen biết kia. Phùng trừng trị gã đàn ông ấy " không phải bằng bàn tay của một anh thợ chụp ảnh, mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng " . Cảm xúc và hành động của Phùng cho thấy anh là một người nghệ sĩ nhạy cảm, thiết tha gắn bó với cuộc sống. Phùng cũng cay đắng nhận ra rằng: Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là chân lí hoàn thiện của đạo đức.

    3. Tình huống nhận thức (Phùng nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống khi người đàn bà đứng trước tòa) :

    a. Tâm trạng của Phùng khi người đàn bà hàng chài đứng trước tòa:

    Phùng vô cùng xúc động, cảm thông, kính phục và chia sẻ trước tình yêu thương của người đàn bà hàng chài dành cho chồng con. Sau khi biết được cuộc đời cùng khổ của người đàn bà, Phùng và Đẩu đã mời chị lên tòa để giúp chị thoát khỏi người chồng tàn bạo kia. Khi chánh án Đẩu khuyên người đàn bà hãy li dị chồng vì lí do " ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng ". Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Lí do mà Đẩu đưa ra là hoàn toàn hợp lí để người đàn bà li hôn, nhưng người đàn bà chắp tay vái lấy vái để " con lạy quý tòa.. quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó ". Lời van xin khẩn thiết ấy xuất phát từ trái tim người mẹ thương con, nên chấp nhận nuốt hết nỗi đau đớn vào lòng, cam chịu sống với người đàn ông vũ phu. Người đàn bà càng trở nên sắc sảo khi đưa ra ba lí do không thể li dị chồng. Thứ nhất, gã chồng là chổ dựa quan trọng trong cuộc đời những người đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động " cần phải có một người đàn ông chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa ". Thứ hai, chị quan niệm thật đơn giản, người đàn bà sinh ra là để đẻ con và nuôi con khôn lớn nên " phải sống cho con chứ không thể sống cho mình ". Thứ ba, chị trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình có được " trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ ", vui vẻ nhất là khi chúng tôi nhìn thấy lũ con " chúng nó được ăn no ".

    b. Tâm trạng của Phùng mỗi khi ngắm nhìn bức tranh:

    Phùng tự hào mỗi khi ngắm bức tranh vì nó ẩn chứa cái đẹp thực sự của cuộc đời. Phùng mang những tấm ảnh chụp con thuyền ngoài xa, thơ mộng trong sương sớm ửng hồng về Hà Nội, để được treo trong những gia đình sành nghệ thuật. Để mỗi lần nhìn ngắm anh lại thấy " người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm lịch ", với vô vàn những nghịch lí: Người đàn bà ngoại hình xấu xí, nhưng tâm hồn rất đẹp, chồng đánh đập dã man, nhưng người đàn bà cương quyết không chịu li dị chồng, người đàn bà quê mùa, dốt nát nhưng rất hiểu lẽ đời..

    Qua đó, bài học mà Phùng rút ra từ người đàn bà: Nghệ thuật thì ở ngoài xa như chiếc thuyền, nhưng sự thật cuộc đời thì lại rất gần, đừng vì nghệ thuật mà quên mất sự khắc nghiệt của cuộc sống, vì nghệ thuật chân chính luôn gắn liền với hiện thực cuộc sống. Hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản mà vẫn ngoài tầm tay. Sự tàn bạo nhiều khi được sinh ra từ đói nghèo, thất học. Lời giải cho bài toán nghèo đói, thất học rất phức tạp cần có sự chung tay của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều về con người và cuộc sống. Khi đánh giá về một vấn đề cần phải có cái nhìn toàn diện về hiện tượng và bản chất.

    4. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài:

    a. Người đàn bà hàng chài không có tên:

    Người đàn bà hàng chài không có tên, tác giả chỉ gọi chung chung là " người đàn bà hàng chài, mụ, chị ta.. ". Bởi chị là hiện thân cho số phận của những người đàn bà hàng chài ở vùng biển miền Trung này với cuộc sống nghèo khổ, cam chịu và giàu đức hi sinh.

    b. Ngoại hình:

    Người đàn bà hàng chài chừng bốn mươi tuổi, thân hình " cao lớn với những đường nét thô kệch ". Gương mặt " đầy vết rỗ "" mệt mỏi " vì phải thức đêm để kéo lưới. Ngoài ra, người đàn bà còn ăn mặc thật rách rưới " áo bạc phếch có miếng vá " . Vậy chỉ cần quan sát bề ngoài cũng dễ dàng nhận thấy người đàn bà có cuộc sống nghèo khổ vất vả trên con thuyền mưu sinh kia. Đặc biệt, tác giả còn tập trung miêu tả đôi mắt của chị, bởi đôi mắt ấy thay đổi theo từng hoàn cảnh, ẩn giấu nhiều điều bí ẩn về cuộc đời chị. Khi chuẩn bị cho chồng đánh chị " đưa cặp mắt nhìn xuống chân " với vẻ cam chịu. Khi chuẩn bị đối thoại với quý tòa, chị " đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá ", nơi ấy có người thiếu nữ mặc áo dài tím (con gái chị đang ngồi chờ mẹ) với cặp mắt buồn bã. Khi đối thoại với Đẩu và Phùng đôi mắt chị " nhìn thẳng vào chúng tôi ", đôi mắt của sự thật. Khi bắt đầu kể về đời mình " con mắt chị như đang nhìn suốt cả cuộc đời mình ".

    c. Số phận người đàn bà hàng chài:

    Người phụ nữ không tên ấy có số phận bất hạnh, cuộc sống đầy tủi nhục, đắng cay. Cái xấu theo đuổi chị như một định mệnh từ khi còn nhỏ. Vì không ai lấy, lỡ có mang rồi trở thành vợ chồng với một anh hàng chài. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, bấp bênh, đông con, thuyền lại chật, họ phải triền miên sống trong nghèo túng, khổ cực. Có lúc biển động hàng tháng " cả nhà ăn xương rồng luộc chấm muối ". Những lúc khổ quá lão chồng lại lôi chị ra đánh.

    d. Người đàn bà hàng chài sống cam chịu:

    Người đàn bà hàng chài sống cam chịu, đau đớn về thể xác trước những trận đòn dã man của chồng. Khi thuyền vừa cập bờ, lão hàng chài áp giải vợ lên bờ " chị đi trước, lão đàn ông đi sau mắt luôn dán vào lưng người đàn bà ", họ lẳng lặng đi đến bên chiếc xe rà phá mìn, người đàn ông lập tức rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, quất tới tấp vào lưng người đàn bà, nhưng lạ thay người đàn bà thầm lặng chịu đựng " không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn ". Chị lặng lẽ chịu đau đớn về thể xác, vì chị hiểu trên chiếc thuyền mưu sinh ngoài biển đầy sóng gió kia, rất cần một người đàn ông để làm và nuôi con khôn lớn.

    Người đàn bà hàng chài còn cam chịu đau đớn về tinh thần: Thứ nhất, chị luôn nơm nớp lo sợ các con nhìn thấy cảnh cha bạo hành, chúng sẽ bị tổn thương tâm hồn. Vì vậy, khi các con lớn, chị van xin chồng đưa lên bờ mà đánh. Thứ hai, chị luôn che giấu nỗi đau của mình. Vì vậy, khi thằng Phác đến cứu chị, chị " vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã ", chị mếu máo gọi " Phác con ơi! ". Thứ ba, người đàn bà đau đớn hoảng loạn khi thấy con đánh cha, cha đánh con (khi nhìn thấy cha đánh mẹ, thằng Phác lao vào giật chiếc thắt lưng trên tay người đàn ông rồi quất vào ngực cha, người đàn ông tát vào mặt thằng Phác làm nó chúi mặt xuống cát). Người đàn bà ôm chầm lấy con, buông con ra, rồi chắp tay vái lấy vái để. Chị lạy con để xin con đừng vì thương mẹ mà làm điều tội lỗi là đánh cha mình. Chị lạy con còn là lời xin lỗi con vì " không đem đến cho con một mái ấm hạnh phúc và chị lạy con vì hiểu rằng mình đã làm tổn thương tâm hồn thơ dại của con ".

    Như vậy, sự cam chịu của người đàn bà hàng chài thật đáng thương, đáng để ta cảm thông, chia sẻ. Bởi nó xuất phát từ tình thương con vô bờ bến.

    e. Người đàn bà hiểu biết sâu sắc về thiên chức làm mẹ:

    Vì thương con nên chị nuốt hết nỗi đau đớn vào lòng, cam chịu sống với người chồng vũ phu, nên khi chánh án Đẩu khuyên người đàn bà hãy li dị chồng, vì lí do " ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, cả nước không có một người chồng nào như hắn ", thì người đàn bà chắp tay vái lấy vái để " con lạy quý tòa.. quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó ". Người đàn bà không chịu li dị chồng, bởi chị ý thức được thiên chức làm mẹ. Chị chỉ raba lí do để không thể li dị chồng, nghe thật đơn giản nhưng vô cùng mãnh liệt và giàu đức hi sinh. Thứ nhất, gã chồng là chổ dựa quan trọng trong cuộc đời của những người đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động " cần phải có một người đàn ông chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa ". Thứ hai, chị quan niệm thật đơn giản " người đàn bà sinh ra là để đẻ con rồi nuôi con khôn lớn ", nên phải sống vì con chứ không chỉ sống cho riêng mình " phải sống cho con chứ không thể sống cho mình ". Thứ ba, chị trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi trong kiếp sống đọa đày trên thuyền " trên thuyền cũng có lúc vợ chồng, con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ ", vui vẻ nhất là khi chúng tôi nhìn thấy lũ con " chúng nó được ăn no ". Như vậy, người đàn bà đã trao cả cuộc đời mình trên con thuyền mưu sinh để nuôi con khôn lớn, chị hiểu rõ thân phận mình giống như biển có lúc êm đềm, có lúc sóng gió, nên chị chấp nhận cuộc sống đau đớn, tủi nhục để hoàn thành thiên chức làm mẹ.

    f. Người đàn bà có lòng vị tha, nhân hậu với chồng:

    Đối với chồng, người đàn bà hàng chài có cái nhìn đầy vị tha, nhân hậu và chị rất hiểu lẽ đời. Trước sự bất bình của Phùng và Đẩu, chị thanh minh rằng, chồng chị trước kia là một anh thanh niên cục tính, nhưng rất hiền lành và không bao giờ đánh vợ, nay lão ta đánh vợ vì quá nghèo khổ. Chị bao dung nhận lỗi bạo hành của chồng là do mình " giá tôi đẻ ít đi " hay có một chiếc thuyền rộng hơn. Cuối cùng chị bênh vực cho chồng một cách tội nghiệp, chị cho rằng người đàn ông cũng có một tật xấu " những người đàn ông trên thuyền khác uống rượu ", còn chồng chị có tật " khi nào thấy khổ quá lão lại xách tôi ra đánh ".

    g. Người đàn bà luôn biết chắt chiu hạnh phúc:

    Người đàn bà hàng chài luôn kiên nhẫn, nhặt những mảnh hạnh phúc nhỏ nhoi lại để tạo gia đình hạnh phúc. Từ việc van xin chồng đưa chị lên bờ mà đánh để con chị không bị tổn thương tâm hồn trẻ thơ, đến việc gửi thằng Phác lên bờ ở với ông ngoại để con không phạm tội đánh cha.. và gương mặt chị ửng hồng khi nói về " có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống vui vẻ, hạnh phúc ". Tất cả đều được nuôi dưỡng từ suy nghĩ bảo vệ hạnh phúc gia đình.

    Vì vậy, người đàn bà chịu nhiều đau khổ ấy là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng đều tỏa sáng những phẩm chất tốt đẹp: Đảm đang, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.

    III. TỔNG KẾT:

    Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn" chiếc thuyền ngoài xa"mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo đã góp phần làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của tác phẩm.
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    178
    13. HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT - LƯU QUANG VŨ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả

    - Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), quê Đà Nẵng, sinh ở Phú Thọ. Ông là một tài năng đa dạng: Làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ tranh nhưng đặc sắc nhất là kịch.

    - Lưu Quang Vũ được coi là hiện tượng đặc biệt của sân khấu, kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX. Và là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.

    - Tác phẩm: Nàng Xi-ta, Tôi và chúng ta, Chết cho điều chưa có; Hồn Trương Ba, Da hàng thịt,..

    2. Tác phẩm

    - HTB, DHT viết (1981), ra mắt công chúng (1984), dựa theo cốt truyện cổ dân gian cùng tên, gồm 7 cảnh.

    - Cảm hứng sáng tác vở kịch:

    + Tình hình đất nước, xã hội Việt Nam những năm 80 của TK XX và công cuộc đổi mới toàn diện bắt đầu diễn ra trên đất nước ta.

    + Cảm hứng phê phán những tiêu cực trong xã hội, cuộc sống, con người Việt Nam của tác giả.

    + Mượn và viết tiếp truyện dân gian HTB, DHT với nhiều sáng tạo mới mẻ, hiện đại, sâu sắc.

    - Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của LQV. TP chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.

    3. Đoạn trích

    - Đoạn trích thuộc cảnh VII và là đoạn kết của vở kịch.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Nhan đề:

    - Nghĩa thực: Tâm hồn thanh cao, nhân hậu của TB phải sống trong thân xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục.

    - Nghĩa liên tưởng:

    + Khi con người sống chung với sự dung tục, thì sẽ bị cái dung tục ngự trị và tàn phá những gì đẹp đẽ nhất của con người.

    + Được sống làm người thì quý giá thực, nhưng phải sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mà mình có và phải biết đấu tranh trước những nghịch cảnh của cuộc sống.

    + Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi sống hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.

    - Nhan đề xây dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có ý nghĩa tương phản giữa thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong.

    Chính vì vậy hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

    - Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Đó là sự mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Nhưng hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người.

    à Nhan đề hồn Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật phản ánh một hiện thực cuộc sống con người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, không được sống đích thực là chính mình. Nhan đề còn gửi gắm một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, không làm chủ được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm cho nhân cách lệch lạc, nhòa mờ khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hòa thống nhất.

    => Nhan đề đã thâu tóm cả giá trị phản ánh hiện thực lẫn nội dung nhân đạo của tác TP.

    2. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt

    - Hồn bắt đầu cuộc đối thoại bằng sự phủ nhận quyết liệt, mạnh mẽ về vai trò, tầm ảnh hưởng của xác hàng thịt với mình: "Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù..", "Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc".

    - Xác đáp lại bằng sự khẳng định chắc nịch về sức mạnh ghê gớm cũng như sự sai khiến, chi phối của nó đối với hồn: "Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến, chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!".

    - Trước cái lí lẽ sắc sảo của xác, hồn trở nên bối rối, từ chỗ phủ nhận quyết liệt, hồn đã buộc phải thừa nhận sự tồn tại của xác nhưng quy nó gắn với nhiều thứ xấu xa, thấp hèn: "Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được".

    - Nhận thấy sự thắng thế của mình, xác bắt đầu lấn lướt bằng việc đưa ra dẫn chứng cụ thể, xác thực về việc hồn Trương Ba đã rung động, bối rối trước sự trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt cùng những thói quen tầm thường, dung tục như xác trước đây: "Tôi chỉ trách là sao đêm ấy ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của!.. Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?"

    - Bằng chứng không thể chối cãi đó đã làm cho hồn trở nên xấu hổ. Hồn chỉ còn phủ nhận được một cách yếu ớt bằng cách đổ lỗi cho xác: "Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày.." rồi ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: Nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn..".

    - Lời ngụy biện yếu ớt của hồn đã làm cho xác thấy nực cười, nó đã chế giễu các "nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn" của hồn bằng hành động tàn bạo: Tát thằng con tóe máu mồm, máu mũi, trong đà thắng thế, xác còn tiếp tục lên giọng khẳng định vai trò, tầm quan trọng của mình: "Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới.. Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi".. và nó còn chỉ trích về thói tật của những kẻ lắm sách, những chữ, đã vịn vào cớ tâm hồn cao quý để bỏ bê, hành hạ thân xác. Nó đã đưa ra một lý lẽ quan trọng mà hồn không thể chối cãi được: "Mỗi bữa tôi đòi ăn 8 - 9 bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ 8 – 9 bát cơm cho tôi ăn chứ!"

    - Đến đây, hồn Trương Ba đã bế tắc, tuyệt vọng và thất thế hoàn toàn, chỉ còn đáp lại bằng thứ ngôn ngữ rời rạc, đứt quãng.

    - Lấn át hoàn toàn được hồn bằng sự mạnh mẽ, trâng tráo, sau đó xác đã rất khôn ngoan khi hạ giọng để dụ dỗ, ve vuốt hồn tham gia vào "trò chơi tâm hồn" vô cùng nguy hiểm: "Làm xong điều gì xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Hà hà, miễn là ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi!".

    - Kết thúc màn đối thoại, xác đã đạt được mục đích đó là thuyết phục hồn nhập trở lại làm một với mình.

    => Từ diễn biến này, kết quả tất yếu của màn đối thoại là hồn đã thua một cách thảm hại, buộc phải quy phục, buộc phải quay trở lại thân xác anh hàng thịt.

    3. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân

    3.1. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với người vợ

    - Người vợ không chấp nhận việc chồng mình ngày nào cũng sang nhà hàng thịt để giúp cô vợ hàng thịt bán hàng, đôi lúc còn bị cái trẻ đẹp của cô vợ hàng thịt làm cho xao xuyến.

    + Bà đau khổ còn bởi nhận thấy sự thay đổi ở Trương Ba: "Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa".

    + Tâm trạng đau khổ đó càng trở nên nhức nhối khi đi kèm với nỗi tự ti về bản thân mình đã già, đã yếu.

    -> Người vợ đã giải quyết bi kịch đầy vị tha, bao dung và đức hi sinh là chấp nhận, bỏ đi nơi khác để Trương Ba được thảnh thơi sung sướng.

    3.2. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và cái Gái

    - Trương Ba đã nhận thái độ gay gắt cùng sự căm ghét của cái Gái – vốn chỉ là một đứa trẻ ngây thơ, non nớt. Cái Gái chưa thể hiểu được những uẩn khúc, éo le của cuộc đời. Hơn nữa, với bản chất hồn nhiên, trong sáng, thánh thiện của trẻ thơ, nó không thể chấp nhận được sự xấu xa, thô lỗ, đê tiện.

    - Cái Gái không ngần ngại gọi Trương Bà là "lão đồ tể", định danh đôi bàn tay của Trương Ba là "đôi bàn tay giết lợn", gọi đôi chân của Trương Ba là "to bè như cái xẻng".

    - Trong cái nhìn của cái Gái, Trương Ba là hiện thân của sự thô lỗ: "Bàn tay giết lợn của ông làm gẫy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quy mới ươm!".

    - Cái Gái còn nhìn thấy ở Trương Ba sự độc ác, xấu xa khi nó nghĩa ông cố tình lách rách cái diều của cu Tị -> xua đuổi Trương Ba ra khỏi nhà.

    -> Trương Ba đã buộc phải thừa nhận sự thay đổi của mình trong đau đớn, tuyệt vọng.

    3.3. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với chị con dâu

    - Chị con dâu của Trương Ba là người chín chắn, sâu sắc, điềm đạm và cũng là người hiểu và thương Trương Ba nhất.

    - Cô thấu hiểu "Con biết bây giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm, hơn cả hôm thầy mới từ nhà người hàng thịt trở về".

    - Nhưng dù có thương và hiểu Trương Ba đến đâu, dù đã cố gắng tế nhị thì cô cũng không thể phủ nhận được thực tế: "Con cảm thấy, đau đớn thấy.. mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa.."

    - Cô đặt ra cho cha mình câu hỏi đau buốt, nhức nhối: "Làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?"

    -> Sau cuộc đối thoại với người con dâu, nỗi đau khổ vốn đã chất chồng trong tâm trạng Trương Ba từ hai cuộc đối thoại trước đã bị dồn nén để đẩy lên đến đỉnh điểm.

    4. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích

    - Ngay mở đầu màn đối thoại Trương Ba đã đề xuất nguyện vọng, mong muốn của mình một cách rõ ràng với Đế Thích: "Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa" -> "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

    + TB từ chỗ phủ nhận một cách quyết liệt: "Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!", từ chỗ cực đoan "Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong mới là quan trọng" -> TB nhận thức vô cùng sáng rõ "Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được".

    -> Cuộc sống tốt đẹp của người chỉ có thể được tạo nên từ sự hài hòa giữa hai đời sống của thể xác và tâm hồn.

    + TB đã không còn chấp nhận chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó sai khiến mà muốn được trở về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.

    + Tuy nhiên, để được sống là mình lại là một điều không hề dễ dàng, nó đòi hỏi Trương Ba phải chấp nhận từ bỏ trò chơi tâm hồn, nghĩa là không thể làm điều xấu để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn, rồi sau đó lại đổ lỗi cho xác hàng thịt.

    -> Được sống là mình thực sự là một đòi hỏi bức thiết và quan trọng.

    - Đế Thích bác bỏ đề nghị, yêu cầu của Trương Ba bằng việc đưa ra một hình tượng mang tính chất phổ biến đó là: Không chỉ mình Trương Ba mà rất nhiều người không được sống là mình, ngay cả những người ở vị trí tối cao, nắm trong tay mọi quyền lực như Ngọc Hoàng cũng không được sống là mình.

    -> Lời nói của Đế Thích đã chỉ ra một bi kịch mang tính nhân loại về việc số đông người không được sống là mình.

    - Lý lẽ mà Đế Thích đưa ra không thể thuyết phục được Trương Ba bởi tất cả đều là để ngụy biện cho khát vọng được sống của người, còn điều mà Trương Ba quan tâm không chỉ đơn giản là được sống mà là sống như thế nào.

    + TB: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!".

    -> Lòng tự trọng cần phải có trong quá trình sống của mỗi người, điều đó sẽ quyết định việc người không sống nhờ vào tiền bạc, của cải cũng như danh vị, nhân phẩm của người khác.

    -> Ý nghĩa của sự sống không do sự dài ngắn quyết định mà quan trọng là sống như thế nào và sống để làm gì.

    - Để tiếp tục thuyết phục Trương Ba, Đế Thích đã phân biệt phần hồn trong sáng, cao quý của Trương Ba với phần hồn tầm thường, thấp kém của anh hàng thịt -> Lý lẽ này cũng không thể thuyết phục TB -> thà để phần hồn tầm thường của anh hàng thịt hòa hợp với thân xác thô lỗ, dung tục của anh ta còn hơn con quái vật mang tên hồn Trương Ba – da hàng thịt.

    - Trương Ba đã đi đến hành động dứt khoát quyết liệt: "Nếu ông không giúp tôi, tôi sẽ.. tôi sẽ.. nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất.." -> tìm đến cái chết để từ bỏ sự tồn tại vô nghĩa của mình.

    - Trương Ba từ chối cơ hội được sống trong thân xác cu Tị, nhận về mình cái chết để đem đến sự sống và hạnh phúc cho mọi người.

    -> TB đã phục sinh những giá trị tốt đẹp của bản thân, trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất cả những người thân bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý.

    - Trương Ba chết nhưng một không khí tươi sáng, ấm áp, tràn ngập tiếng cười, niềm vui và hạnh phúc: "Vườn cây rung rinh ánh sáng", là tiếng đôi trẻ ríu rít chia cho nhau quả na do chính Trương Ba trồng và những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại vẫn hiện hữu hàng ngày trong suy nghĩ, tư tưởng của người thân: "Cho nó mọc thành cây mới, ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi.."

    - Hình ảnh của những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng cùng với những mầm non đang nhú mà LQV dựng lên trong đoạn kết mang đầy ý nghĩa biểu tượng, đó chính là hình ảnh của một tương lai tươi sáng, của sự hồi sinh, phát triển do chính lòng nhân hậu, đức hi sinh vị tha cao cả của Trương Ba tạo thành.

    * Ý nghĩa:

    - Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.

    - Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh (Hình tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của người khác).

    5. Đoạn kết:

    Trương Ba trả lại xác anh hàng thịt, rồi hóa thân vào vạn vật, cây cỏ trong vườn, để tồn tại cùng người thân =>Cái thiện đã chiến thắng.

    III. TỔNG KẾT:

    Qua đoạn trích vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt", Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Đoạn trích có những đặc sắc về nghệ thuật: Vở kịch được khai thác từ cốt truyện dân gian. Kịch tính xoay quanh xung đột bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, giàu triết lí nhân sinh.
     
    LieuDuong thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...