Đề cương ôn tập các tác phẩm văn học lớp 12, ngắn gọn - Đầy đủ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Ngân Ngân08, 23 Tháng chín 2023.

  1. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH

    I. GIỚI THIỆU:


    1. Tác giả:

    - Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969), lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, khi hoạt động ở nước ngoài tên Nguyễn Ái Quốc.

    - Quê: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.

    - Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước.

    - Lúc nhỏ học chữ Hán ở nhà, học trung học ở Huế, dạy học ở trường Dục Thanh – Phan Thiết.

    - 1911 ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba suốt ba mươi năm trên khắp thế giới.

    - 1941 về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.

    - CMT8 thành công, 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đọc bản: "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bầu làm Chủ tịch nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng của dân tộc cho đến lúc qua đời.

    => HCM là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào quốc tế cộng sản. Ngoài sự nghiệp cách mạng, Người còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác:

    Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 26/8/1945 Chủ tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo bản "Tuyên ngôn độc lập". Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Người đọc bản TNĐL khai sinh nước Việt Nam mới.

    b. Đối tượng và mục đích sáng tác:

    - Đối tượng: TNĐL không chỉ đọc trước toàn dân ta, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là với những lực lượng thù địch đang lăm le xâm lược nước ta.

    - Mục đích: Tuyên bố trước nhân dân cả nước và thế giới về thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của đất nước. Ý chí bảo vệ nền độc lập tự chủ, bác bỏ luận điểm xảo trá của thực dân Pháp.

    c. Giá trị của bản tuyên ngôn:

    - Giá trị lịch sử: Là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến. Khẳng định chủ quyền và vị thế bình đẳng của Việt Nam trên toàn thế giới. Là mốc son lịch sử mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do.

    - Giá trị văn học:

    + Về tư tưởng: Là một áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta.

    + Về nghệ thuật: Là một tác phẩm chính luận kiệt xuất: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản TNĐL:

    a. HCM nêu nguyên lý chung của bản tuyên ngôn: Đó là quyền bình đẳng, quyền sống tự do, sung sướng, hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc.

    Chân lý đó không ai "chối cãi được", vì nó đã rành rành ghi lại trong bản "Tuyên ngôn độc lập" năm 1776 của Mĩ và "Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền" năm 1791 của Pháp. Đây là những văn kiện lịch sử có tầm vóc toàn nhân loại, đã nêu cao quyền con người.

    =>Khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, là nguyên lý thiêng liêng cao đẹp của nhân loại.

    * Về nghệ thuật: Cách trích dẫn dung đòn "Gậy ông đập lưng ông" vừa khéo léo, mềm mỏng, vừa cứng cỏi, kiên quyết. Khéo léo, mềm mỏng bởi vì HCM tỏ ra rất trân trọng những tuyên bố bất hủ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp. Cứng cỏi, kiên quyết vì Bác muốn ngăn chặn âm mưu xâm lược nước ta của Pháp và Mĩ. Nếu họ cố tình đi ngược lại chân lí đã được khẳng định trong bản Tuyên ngôn, tức là họ đã phủ nhận chính tổ tiên mình, làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo đã từng là niềm tự hào của cha ông họ.

    b. Đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh:

    Từ nguyên lí chung về quyền con người, HCM đã suy rộng ra về quyền sống, quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới.

    =>Đóng góp quan trọng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nó là phát sung lệnh mở đầu cho cơn bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập ở các nước thuộc địa.

    Chỉ trong một đoạn văn ngắn, chúng ta đã thấy được cách lập luận chặt chẽ, cách dung văn chương để đánh địch khéo léo, hiệu quả của HCM. Bên cạnh đó, đoạn văn còn cho thấy niềm tự hào, kín đáo của Bác khi Người đặt ba bản tuyên ngôn, ba cuộc cách mạng ngang hang nhau; trong đó cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện được hai nhiệm vụ mà cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ đã làm: Độc lập dân tộc và tự do dân chủ.

    Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Dân quyền và Nhân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.

    Cách đặt vấn đề của Bác cũng rất hay, hùng hồn và trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến thứ hai vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.

    2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:

    a. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp:

    Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp: "Lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta".

    Nếu Pháp kể công khai hóa đối với Việt Nam, thì bản tuyên ngôn đã chỉ ra những tội ác của chúng như: Năm tội ác về chính trị: Tước đoạt tự do, dân chủ. Luật pháp dã man, chia để trị. Chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta. Ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân. Đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện. Năm tội ác lớn về kinh tế: Bóc lột, tước đoạt. Độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Sưu thuế nặng nề vô lí làm dân ta bần cùng. Đè nén, khống chế các nhà tư sản của ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta. Gây ra thảm họa cho hơn hai triệu đồng bào ta chết đói 1945.

    Nếu Pháp kể công bảo hộ An Nam, thì bản Tuyên ngôn đã chỉ ra trong vòng năm năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã "Bán nước ta hai lần cho Nhật". Pháp còn thẳng tay khủng bố Việt Minh: "Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng". Qua đó, tố cáo bản chất đê hèn, khát máu của thực dân Pháp, trái hẳn với chính sách khoan hồng, nhân đạo của Việt Minh.

    b. Quá trình đấu tranh và giành độc lập của nhân dân ta:

    Từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng minh.

    Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị".

    Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn bị xóa bỏ. Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước đồng minh: "Quyết không thể không công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam", "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập."

    Tóm lại đoạn văn là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn.

    3. Lời tuyên bố với thế giới:

    Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập (cơ sở pháp lí), và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên).

    Nhân dân ta quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và long yêu nước).

    III. TỔNG KẾT:

    "Tuyên ngôn độc lập" là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Tác phẩm là một áng văn chính luận mẫu mực, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn; Vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của kẻ thù, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân tộc.

    2. TÂY TIẾN - QUANG DŨNG

    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Quang Dũng (1921 – 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.

    Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Năm 2001 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

    Tác phẩm tiêu biểu: Mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn mùa hoa gạo..

    "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sang tác:

    Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, với phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó đa số là học sinh, sinh viên. Binh đoàn Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào, cũng như miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, hoàn cảnh chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến rất gian khổ. Tuy vậy, nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang dung là đại đội trưởng ở đó từ đầu 1947, đến cuối 1948 ông chuyển sang đơn vị khác. Khi nhà thơ về dự Đại hội toàn quân liên khu III, tại làng Phù Lưu Chanh, Quang Dũng sáng tác bài thơ: "Nhớ Tây Tiến". Đến năm 1975 in lại tác giả đổi tên là "Tây Tiến", in trong tập "Mây đầu ô".

    b. Ý nghĩa nhan đề:

    Tây Tiến là tiến về phía Tây so với Hà Nội. Nhan đề Tây Tiến khiến cho bài thơ mang âm hưởng của một khúc quân hành. Tên bài thơ trùng với tên binh đoàn, nên đọc lên tạo không khí của một cuộc hành quân đầy dũng khí. Nhan đề còn là tiếng gọi thường trực trong lòng những người lính Tây Tiến.

    c. Chủ đề:

    Bài thơ Tây Tiến miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc và nét đẹp hào hoa, dũng cảm, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.

    e. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:

    Cảm hứng chủ đạo của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt là khi bài thơ khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng: Lãng mạn là cái tôi tràn đầy tình cảm, là sử dụng các yếu tố cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường. Thiên nhiên và con người Tây Bắc thật huyền bí và thơ mộng. Ngoài ra chất lãng mạn còn là tinh thần xả thân vì nước. Bi tráng là vừa đau thương, vừa hùng tráng. Tức là không hề che giấu sự thật đau thương, nhưng bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở (Đoạn 1: 14 câu đầu) :

    a. Hai câu đầu: Mở đầu bài thơ là lời thơ mang âm điệu da diết:

    "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi".

    Câu cảm thán kết hợp với điệp từ "nhớ", kết hợp với vần "ơi" đã gieo vào lòng người đọc một sức gợi cảm to lớn. Bởi câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của một người không muốn rời xa nơi mà mình đã từng gắn bó. Nỗi nhớ dâng trào bật thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi!". Từ láy "Chơi vơi" dung rất sáng tạo, đã hình tượng hóa, cụ thể hóa nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, bồng bềnh, khắc khoải, tràn ngập cả không gian và thời gian. Nó như ám ảnh và hiện hữu trong tâm hồn Quang Dũng.

    b. Sáu câu tiếp theo là nỗi nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ:

    Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu rộng lớn và thời tiết khắc nghiệt:

    "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi".

    Tác giả vận dụng bút pháp lãng mạn bằng cách tô đậm cái phi thường để diễn tả thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại. Trước hết tác giả liệt kê những vùng đất lạ "Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu". Đó là những vùng đất hẻo lánh, nằm ở phía Tây biên giới Việt – Lào nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng hành quân.

    Thời tiết Tây Bắc thật là khắc nghiệt, thể hiện ở cụm từ "sương lấp". Sương lấp là sương mù dày đặc, che lấp cả con đường hành quân, sương đêm gây ra nhiều bệnh tật làm cho người chiến sĩ mỏi mệt "Đoàn quân mỏi", đây là hình ảnh bi thương có thực, nhưng mà không bi lụy, bi mà hào hùng, lãng mạn, bởi vì họ mệt mỏi nhưng họ vẫn trở về với chiến công lấp lánh trong đêm sương và vòng hoa chiến thắng được dệt bằng sương đêm.

    Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu hiểm trở:

    Với những con dốc:

    "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"

    Câu thơ thật là gân guốc với năm thanh trắc trong một dòng thơ bảy chữ, cộng với điệp từ "dốc" và từ láy giàu giá trị tạo hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm", nhằm diễn tả dốc lên thì ghập ghềnh, quanh co, dốc xuống thì sâu thăm thẳm. Dù hành quân lên dốc hay xuống dốc thì người chiến sĩ đều mệt và thở gấp như nhịp đọc của câu thơ.

    Địa bàn chiến đấu hiểm trở bởi núi đèo:

    "Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

    Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặt từ láy "heo hút" lên đầu câu. "Heo hút cồn mây" gợi sự cao vút, vắng vẻ của núi đèo. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây nổi thành cồn gọi là "cồn mây". Người chiến sĩ hành quân lên ngọn núi cao, họ tưởng chừng như đang đi trong mây nên mũi súng chạm trời. Cuộc hành quân thật gian nan, lên đèo, xuống dốc nhưng họ không hề có ý nghĩ bi quan, mà họ lại tỏ ra hào hùng, lãng mạn, thể hiện ở nghệ thuật nhân hóa "súng ngửi trời". Điều này thể hiện sự hồn nhiên, tinh nghịch của người lính trước độ cao thử thách của núi đèo:

    "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

    Câu thơ như bẻ làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", với điệp từ "ngàn thước" và đối lên/xuống nhằm diễn tả hai sườn núi cao, thẳng đứng như thách thức, như cản trở con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Họ hành quân lên cao lại xuống thấp, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, núi cao sừng sững thế mà khi lên đỉnh núi, họ lại thở phào nhẹ nhõm, thể hiện ở câu thơ toàn là thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", họ phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn mưa núi, thấp thoáng họ nhìn thấy một vài ngôi nhà sàn bồng bềnh trong biển nước.

    c. Sáu câu cuối là nỗi nhớ về sự hy sinh của đồng đội và cuộc sống bình dị,

    ấm áp tình người của người dân Tây Bắc:

    Trong kí ức về Tây Tiến có hình ảnh đồng đội hi sinh gợi ấn tượng sâu sắc trên chặng đường hành quân gian khổ:

    "Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

    Hình ảnh bi thương, có thực "Anh bạn dãi dầu không bước nữa", bởi thiên nhiên Tây Bắc thật là khắc nghiệt. Đó là thử thách đối với những chàng trai Hà Nội mới rời ghế nhà trường, lên đường chiến đấu, với một lí tưởng cao đẹp. Cách gọi "anh bạn" nghe thật gần gũi, thân thương và từ láy "dãi dầu" nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Cho nên trên đường hành quân, họ mệt mỏi, kiệt sức, họ không thể bước được nữa, họ gục xuống trong tư thế đang bước đi "gục lên súng mũ", họ hi sinh trong tư thế thật đẹp, thật hiên ngang. Cái chết của họ là cái chết về thể xác, khởi đầu cho sự bất tử về tinh thần. Bằng nghệ thuật nói giảm, nói tránh"bỏ quên đời", nhà thơ đã diễn tả được cái chết nhẹ nhàng, thầm lặng của người lính trên chặng đường hành quân gian khổ. Đồng thời bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn về sự hi sinh của đồng đội. Qua đó ngợi ca tinh thần chiến đấu can trường của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ hi sinh trong tư thế không bỏ cuộc, chết mà "súng, mũ" vẫn bên mình.

    Trong kí ức về Tây Tiến còn ghê rợn qua những âm thanh hung dữ:

    "Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

    Từ láy chỉ thời gian "chiều chiều, đêm đêm", dùng để chỉ thời gian lặp lại, có tính chất thường xuyên, liên tục. Khi màn đêm buông xuống thì núi rừng Tây Bắc có những âm thanh, hoạt động rất dữ dội. Đó là âm thanh của thác, của cọp beo thể hiện ở từ "gầm thét, trêu". Những âm thanh này tạo thêm uy lực cho núi rừng Tây Bắc. Phải chăng tác giả đã lấy ngoại cảnh của núi rửng miền Tây đầy nguy hiểm, để tô đậm cái anh hùng của đoàn quân Tât Tiến?

    Nhớ Tây Tiến còn là nhớ về cuộc sống bình dị và ấm áp tình người của nhân dân Tây Bắc. Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ thể hiện cảnh tượng thật đầm ấm:

    "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

    Từ cảm thán "nhớ ôi" và các cụm từ "cơm lên khói, thơm nếp xôi" đã kết thúc đoạn thơ giúp người đọc liên tưởng: Sau bao ngày hành quân lội suối, vượt đèo, họ dừng chân bên một bản làng và quây quần bên nồi cơm nghi ngút khói và thơm nếp xôi. Câu thơ còn thể hiện tình quân dân cả nước.

    *Sơ kết: Với những từ chỉ địa danh, những hình ảnh giàu chất tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc, gối lên trên những câu thơ nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ. Đoạn thơ mở đầu đã nêu được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt, đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên, núi rừng miền Tây, vừa hiểm trở, dữ dội, vừa hùng vĩ, thơ mộng. Xuất hiện trong cảnh núi rừng hiểm trở là hình ảnh người lính Tây Tiến hiên ngang, luôn vững bước trên đường hành quân. Hình ảnh đó như hòa vào rừng núi bí hiểm. Núi rừng càng hùng vĩ, đường hành quân càng khắc nghiệt, thì càng tôn lên chất hào hùng, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ Tây Tiến.

    2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây Bắc thơ mộng (Đoạn 2 – 8 câu tiếp theo) :

    a. Bốn câu đầu thể hiện nỗi nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ:

    "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ

    Khèn lên man điệu nàng e ấp

    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

    Sau bao ngày hành quân vất vả, đoàn quân dừng lại ở một địa phương người Lào. Họ tham dự một đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương. Những cụm từ: "Bừng lên, kìa em, khèn lên, nhạc về", thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng của người lính Tây Tiến trong đêm văn nghệ bởi vì có đuốc hoa (Đuốc hoa là một loại đuốc trong đêm tân hôn), bởi vì nhân vật trung tâm của đêm văn nghệ là những cô gái nơi miền núi rừng bất ngờ hiện ra với bộ trang phục truyền thống đẹp "Kìa em xiêm áo tự bao giờ", đã làm rung động trái tim người chiến sĩ bởi sự thẹn thùng, tình tứ trong cử chỉ của những cô gái miền sơn cước: "Nàng e ấp" và trong vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ "man điệu". Tuy say sưa trong tiếng nhạc, điệu múa, nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng liêng của mình là tiến về phía trước, phối hợp với nước bạn Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào được thể hiện ở câu thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ". Đây là phát hiện độc đáo của Quang Dũng về người lính xuất thân từ tầng lớp tri thức. Họ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn so với người lính xuất than từ tầng lớp nông dân.

    b. Bốn câu sau nhớ cảnh chia tay trên nền sông nước miền Tây Bắc thơ mộng:

    "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

    Có nhớ dáng người trên độc mộc

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."

    Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ "có thấy, có nhớ", nhằm tái hiện lại giờ phút chia tay bên dòng sông. Cảnh và người miền Tây Bắc đang hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ. Thời gian chia tay là vào buổi chiều, không gian của dòng sông là một màu trắng của "chiều sương ấy", hai bên bờ sông hoang vắng như thời tiền sử, chỉ phất phơ, xào xạc trong gió những "hồn lau". Nổi bật trên dòng sông là sự mềm mại, uyển chuyển của các cô gái trên chiếc thuyền độc mộc với những bông hoa rừng "đong đưa" làm duyên cùng dòng nước lũ. Đoạn thơ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa.

    *Sơ kết: Ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, làm hiển hiện trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cái hồn của cảnh vật. Đoạn thơ chỉ tám câu nhưng chất thơ và chất nhạc, chất họa hòa quyện với nhau đến mức mà khó tách biệt. Thiên nhiên và con người có sự sóng đôi tạo nên hình ảnh thơ giàu chất trữ tình. Bút pháp lãng mạn, tài hoa của tác giả đã khắc họa nên bức tranh đặc sắc về cảnh và người miền Tây Bắc. Qua đó, ta thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.

    3. Chân dung của người lính Tây Tiến (Đoạn 3 – 8 câu tiếp theo) :

    Tác giả đã lựa chọn những nét có thực, tiêu biểu của người lính Tây Tiến. Đó là bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng, hào hùng mà không xơ cứng, hào hùng mà vô cùng lãng mạn. Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài bi tráng về hình ảnh đoàn quân Tây Tiến bằng ngòi bút lãng mạn, được điểm tô bằng tinh thần xả thân vì nước.

    a. Hai câu thơ đầu miêu tả ngoại hình của người lính Tây Tiến:

    "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

    Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, khi viết về người lính, thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, sự thật nghiệt ngã ấy được thể hiện bằng hình ảnh "không mọc tóc". Từ đó, người đọc liên tưởng đến người lính bị sốt rét rừng rụng tóc, trọc đầu. Nhưng cũng có thể là hình ảnh của anh vệ quốc trọc đầu trong buổi đầu kháng chiến, vì họ phải cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà với giặc. Hình ảnh "quân xanh màu lá" giúp người đọc liên tưởng đến nước da xanh xao vì đói khát, bệnh tật, hay cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang để che mắt quân thù. Hai hình ảnh trên dù hiểu theo nghĩa nào thì tác giả vẫn khẳng định họ "dữ oai hùm". Người lính vẫn giữ được sự oai phong của hổ nơi rừng thiêng, nước độc Tây Bắc, hình ảnh bi mà rất hào hùng.

    b. Hai câu thơ tiếp theo nói về tâm hồn của người lính Tây Tiến:

    "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

    Nét oai hùng của đoàn quân Tây Tiến được thể hiện ở hình ảnh hoán dụ "mắt trừng". Mắt trừng là ánh mắt giận dữ khi nhìn kẻ thù. Ngoài ra mắt trừng còn chỉ tư thế gìn giữ biên cương và tinh thần trách nhiệm cao và họ nuôi giấc mộng tiêu diệt quân thù "gửi mộng qua biên giới". Người chiến sĩ Tây Tiến, đêm đêm vẫn mơ về Hà Nội với "dáng kiều thơm". "Dáng kiều thơm" gợi vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, thanh lịch của người thiếu nữ Hà Thành. Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực mà tinh tế tâm trạng của những người chiến sĩ xuất thân từ tầng lớp tri thức Hà Nội. Nếu họ xuất thân từ tầng lớp nông dân thì họ nhớ giếng nước, gốc đa ( "Đồng chí" của Chính Hữu).

    c. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính Tây Tiến:

    "Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

    Bi thương là nét có thực khi nhớ về Tây Tiến. Nhưng nét bi ấy đã được tác giả nâng lên thành nét hùng. Hình ảnh "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" là trên đường hành quân, người chiến sĩ nhìn thấy những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo. Nhưng đó là cái chết bất tử cho Tổ quốc trường tồn, nên được thể hiện bằng hàng loạt từ Hán Việt trang trọng "biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường". Mặt khác người chiến sĩ không hề chùn bước khi thấy đồng đội của mình hi sinh. Bởi cái chết đối với họ nhẹ tựa lông hồng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ nguyện đem tuổi thanh xuân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Qua đó, ta có thể thấy bức tượng đài về những người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực, oai phong đến lạ thường.

    d. Hai câu cuối: Đoạn thơ khép lại với hình ảnh về sự hi sinh của người lính Tây Tiến hùng tráng, mang màu sắc cổ điển:

    "Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

    Sự thật bi thảm "Áo bào thay chiếu anh về đất", hình ảnh này giúp người đọc liên tưởng đến người chiến sĩ Tây Tiến hy sinh trong manh chiếu che thân. Nhưng qua cái nhìn của Quang Dũng, họ lại được khoác "áo bào". Bởi Quang Dũng muốn tư thế ngã xuống của người chiến sĩ hào hùng như những chiến binh năm xưa, nhằm ca ngợi sự hi sinh cao đẹp của họ. Biện pháp tu từ nói giảm "anh về đất", nhằm để chỉ cái chết của người chiến sĩ thật là thanh thản vì họ đã hoàn thành nhiệm vụ đối với Tổ quốc. Nghệ thuật nhân hóa "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", nhằm diễn tả dòng sông như đồng cảm, nghiêng mình tấu lên khúc nhạc hoành tráng "khúc độc hành" để tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ về với đất mẹ. Câu thơ giàu chất sử thi nhằm ca ngợi sự hi sinh của người chiến sĩ, đồng thời cũng lí giải vì sao khi nhớ về Tây Tiến thì cảm xúc đầu tiên của tác giả là nhớ về con sông Mã bằng tiếng gọi thân thương "sông Mã xa rồi". Trong cái tiếng gầm của sông Mã, còn có cả tiếng khóc cố nén sự tiếc thương vô hạn đối với những người con trung hiếu, dũng cảm, kiên cường của Tổ quốc đã mãi mãi ra đi. Đó là sự hi sinh thấm đẫm tinh thần bi tráng.

    *Sơ kết: Hình tượng người lính trong đoạn thơ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, sử thi. Với giọng điệu trang trọng, cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Qua đó, đã khắc họa nên bức tượng đài về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa. Đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, kính cẩn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ trước sự hi sinh thầm lặng, nhưng anh dũng của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ nói riêng, cũng như toàn bài thơ nói chung, đã góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca viết về hình tượng người lính trong văn học Việt Nam. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.

    4. Lời thề của người lính Tây Tiến (Đoạn 4 – 4 câu cuối) :

    "Tây Tiến người đi không hẹn ước

    Đường lên thăm thẳm một chia phôi"

    Câu thơ khẳng định "Tây Tiến người đi không hẹn ước", nhằm khẳng định tinh thần một đi không trở lại, nếu không lập được chiến công. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn khắc họa hình ảnh ra đi của người lính không xác định thời gian trở về. Cả loạt từ: "Thăm thẳm, không hẹn ước, chia phôi" thể hiện cuộc trường chinh nhiều gian khổ, mất mát, hi sinh. Tuy vậy, nhưng người lính ra đi với quyết tâm dứt khoát sống chết cùng đồng đội và gắn bó với miền Tây Bắc. Lời thề này đã thấm sâu vào trong tư tưởng và tình cảm của đoàn quân.

    "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"

    Câu thơ khẳng định "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" là lời thề sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc. Câu thơ này có sự tương đồng với câu thơ: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh", trong"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Hai câu kết vang lên khỏe khoắn như một lời thề sắt son với Tổ quốc. Qua đó, ta thấy lý tưởng của họ cao cả biết bao.

    III. TỔNG KẾT:

    Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng, không chỉ gợi lên niềm tự hào về tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà nó sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc bởi lí tưởng sống cao cả, sẵn sang xả thân vì Tổ quốc.
     
    LieuDuong thích bài này.
  2. Đăng ký Binance
  3. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    3. VIỆT BẮC - TỐ HỮU

    Bấm để xem
    Đóng lại
    PHẦN MỘT: TÁC GIẢ

    1. Vài nét về tiểu sử:

    - Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê Thừa Thiên Huế.

    - 1938, được kết nạp vào Đảng cộng sản, từ đó sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng của ông. Tố Hữu từng từng giữ nhiều trọng trách trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.

    - Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật 1996.

    2. Đường cách mạng – đường thơ:

    - Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc. Đồng thời cũng là những chặng đường thể hiện sự vận động trong quan điểm, tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ:

    +Chặng đường đầu tiên với tập thơ "Từ ấy" (1937-1946). Đây là chặng đường đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên yêu nước, quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng.

    +Chặng đường kháng chiến chống Pháp với tập thơ "Việt Bắc" (1946-1954). Đây là khúc ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến.

    +Chặng đường thứ ba với tập thơ "Gió lộng" (1955-1961). Cảm hứng dạt dào, suy ngẫm về quá khứ, cảm xúc hân hoan về công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, nỗi đau chia cắt và tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt.

    +Chặng đường chống Mỹ với hai tập thơ "Ra trận" (1962-1971), "Máu và hoa" (1972-1977). Âm vang, khí thế quyết liệt, hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui toàn thắng.

    +Chặng đường sau khi đất nước thống nhất với hai tập thơ "Một tiếng đờn" (1992), "Ta với ta" (1999). Đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, với nhiều cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tư.

    3. Phong cách thơ Tố Hữu:

    -Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang đậm tính chất trữ tình – chính trị:

    +Hồn thơ luôn hướng đến cái ta chung, với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng của cả dân tộc.

    +Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi: Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử - dân tộc. Nổi bật trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh cộng đồng. Những tư tưởng, tình cảm và vấn đề lớn lao, được nhà thơ thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình, tự nhiên, đằm thắm.

    -Về nghệ thuật: Thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc: Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng ngôn ngữ, cách nói dân gian và phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.

    PHẦN HAI: TÁC PHẨM "VIỆT BẮC"

    (Trích)

    I. GIỚI THIỆU:

    1. Hoàn cảnh sáng tác:

    Việt Bắc trong những năm kháng chiến là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách mạng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ – ne – vơ được kí kết, hòa bình được lập lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính Phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ này và được in trong tập "Việt Bắc". Bài thơ gồm hai phần: Đoạn trích sách giáo khoa thuộc phần đầu –Tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến.

    2. Chủ đề:

    Qua việc tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng, nhà thơ ca ngợi tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của người Việt Bắc đối với cách mạng. Từ đó bài thơ vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của đất nước hòa bình trong mối tình gắn bó thủy chung của miền xuôi – miền ngược và lòng biết ơn sâu nặng đối với Đảng, với Bác Hồ của nhân dân ta.

    3. Thể loại, kết cấu:

    - Thể thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, phù hợp với khung cảnh chia tay.

    - Kết cấu theo lối hát đối đáp giao duyên, nhằm diễn đạt tâm tình người đi – kẻ ở.

    - Cặp đại từ nhân xưng "mình-ta", trong ca dao dùng để thể hiện tình yêu đôi lứa. Còn trong "Việt Bắc" nhằm để thể hiện sự gần gũi, thân mật, gắn bó không thể tách rời, giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.

    - Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là sự lưu luyến, nhớ nhung, được thể hiện ở điệp từ "nhớ" và các từ ngữ thể hiện tâm trạng của tình yêu như "thiết tha, mặn nồng, bâng khuâng", làm cho chuyện tình nghĩa của cách mạng đến với lòng người thật nhẹ nhàng, êm ái.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Tâm tình buổi chia tay (khổ 1 và khổ 2 – 8 câu đầu) :

    a. Lời người ở lại (Khổ 1) :

    "Mình về mình có nhớ ta

    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

    Mình về mình có nhớ không

    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"

    Ở đoạn thơ này "mình" là cán bộ cách mạng, "ta" là nhân dân Việt Bắc. Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta"? , "mình có nhớ không"? , vang lên một cách day dứt, chứng tỏ người ở lại nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, nên lên tiếng trước để ướm hỏi người cán bộ cách mạng, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội có còn nhớ Việt Bắc chăng?

    Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ thời gian mười lăm năm, thời gian ấy mang âm hưởng ca dao và nghệ thuật trong truyện Kiều, cùng với từ láy "thiết tha", gợi cho người đọc liên tưởng đây là thời gian riêng của tình yêu đôi lứa. Nhưng đó lại chính là thời gian cách mạng từ 1940 khởi nghĩa Bắc Sơn, đến 1954 hòa bình lập lại. Đây là khoảng thời gian nhân dân Việt Bắc và cán bộ Việt Minh gắn bó máu thịt để cùng nhau kháng chiến chống thực dân Pháp và phát xít Nhật.

    Người ở lại nhắc nhở người ra đi, khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội hãy nhớ không gian Việt Bắc. Đó là một vùng căn cứ địa cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh liên tưởng "Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn", đây còn là cách nói hồn nhiên, chân thật của người miền núi, nhằm nhắc người cán bộ cách mạng khi về Hà Nội nhìn cây Hà Nội nhớ núi rừng Việt Bắc, nhìn sông ở Hà Nội nhớ suối nguồn Việt Bắc. Ngoài ra "cây, núi, sông, nguồn" là những hình ảnh thiên nhiên có thực, nhưng gợi ra quy luật của tình cảm là dù ở đâu cũng cần hướng về cội nguồn cách mạng "Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa".

    a. Nhớ cảnh chia tay (khổ 2) :

    "Tiếng ai tha thiết bên cồn

    Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi"

    Đại từ phiếm chỉ "ai" và từ láy "tha thiết" đã níu chân người ra đi, cho thấy người cán bộ cách mạng trong giờ phút chia li lòng bị níu lại, bởi họ cảm nhận được tiếng nói ân tình của người Việt Bắc gửi gắm trong lời nhắn nhủ thân mật, thiết tha. Tình cảm này đã làm cho người cán bộ Việt Minh ra đi mang hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược nhau, được thể hiện qua hai từ láy "bâng khuâng" và "bồn chồn". Tâm trạng "bâng khuâng trong dạ" cho thấy người ra đi bịn rịn không muốn rời xa cảnh và người Việt Bắc, nhưng trong lòng lại "bồn chồn bước đi", họ muốn nhanh chóng trở về Hà Nội, vì ở đó còn có rất nhiều công việc đang chờ đón họ.

    "Áo chàm đưa buổi phân li

    Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.."

    Hình ảnh hoán dụ "áo chàm" (áo nhuộm bằng củ chàm có màu xanh đen), nhằm để chỉ nhân dân Việt Bắc là người đưa tiễn cán bộ cách mạng về xuôi. Đây là hình ảnh mà người ra đi luôn mang theo, là động lực để họ tiếp tục sự nghiệp cách mạng của mình, bởi áo chàm đã trao cho họ một tình cảm chân thành, mộc mạc.

    Hình ảnh "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay" phản ánh đúng tâm trạng của buổi chia tay, họ không nói được gì vì nghẹn ngào, hay có nhiều điều để nói mà ngôn ngữ không đủ sức diễn tả cho nên họ không nói gì, họ chỉ cầm tay nhau cũng chính là lúc họ hiểu nhau nhiều nhất. Ngoài ra dấu chấm lửng ở cuối câu thơ còn là khoảng không im lặng, nghẹn ngào trong cảm xúc.

    *Sơ kết: Hai khổ đầu của bài thơ, đã khắc họa cảnh chia tay đầy xúc động, với những lời tâm tình chứa chan cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Người đọc thấy được trong đó tình yêu thương tha thiết, sự gắn bó sâu nặng giữa người đi và kẻ ở. Qua đó, nhà thơ diễn tả nỗi xúc động, sự lưu luyến, tình cảm thắm thiết của đồng bào Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến. Kết cấu đối đáp, cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình-ta, vừa diễn đạt được cảm xúc, vừa tạo tính dân tộc đậm đà cho tác phẩm. Tố Hữu đã diễn đạt vấn đề chính trị bằng một hình thức nghệ thuật trữ tình, nên gây được sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc.

    2. Người ở lại nhắc người ra đi về những năm tháng kháng chiến gian khổ

    (khổ 3- 12 câu tiếp theo) :

    a. Kỉ niệm những ngày đầu kháng chiến gian khổ, nhưng đầy ân tình

    (4 câu đầu) :

    Hình thức lặp "mình đi, mình về, có nhớ" đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ tràn đầy cảm xúc, gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đầy tự hào và yêu thương. Hai tiếng "mình đi, mình về" được luân phiên chuyển đổi, gợi hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một đi xa dần

    "Mình đi có nhớ những ngày

    Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù"

    Hình ảnh ẩn dụ "mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù", kết hợp với cặp từ chỉ sự tăng cấp "những, cùng" vừa để miêu tả thời tiết ở Tây Bắc thật khắc nghiệt, vừa để hàm chỉ những gian khổ, thử thách mà cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc phải trải qua trong những năm tháng kháng chiến.

    "Mình về có nhớ chiến khu

    Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai."

    Chi tiết có thực "miếng cơm chấm muối", nhằm phản ánh cuộc sống kháng chiến thiếu thốn, gian khổ về vật chất, nhưng tinh thần của họ luôn lạc quan. Bởi người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc có chung một lí tưởng, một mối thù. Cách nói "mối thù nặng vai", nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân Pháp, đang đè nặng lên đôi vai của dân tộc ta.

    b. Người dân Việt Bắc thể hiện tình nghĩa gắn bó, sâu nặng đối với người cán bộ cách mạng (4 câu giữa) :

    "Mình về rừng núi nhớ ai

    Trám bùi để rụng măng mai để già".

    Nghệ thuật hoán dụ "rừng núi nhớ ai", lấy nỗi buồn của rừng núi, để thổ lộ thầm kín nỗi buồn của người dân Việt Bắc khi chia tay người cán bộ cách mạng. Họ buồn đến nỗi không còn tha thiết trong lao động "Trám bùi để rụng măng mai để già", trám bùi và măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc, nay cán bộ cách mạng về xuôi thì họ hái trám, bẻ măng để làm gì? Câu thơ gợi nỗi buồn trống vắng trong lòng người ở lại.

    "Mình đi có nhớ những nhà

    Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son"

    Cụm từ "những nhà" ý chỉ đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh "hắt hiu lau xám" gợi khung cảnh hoang vu của núi rừng, mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống nghèo khó. Nghệ thuật tiểu đối trong câu thơ "Hắt hiu lau xám><Đậm đà lòng son", chứa đựng sự tương phản giữa cuộc sống nghèo khổ về vật chất, nhưng người dân Việt Bắc với phẩm chất cao đẹp, luôn ân tình thủy chung với cách mạng.

    c. Người ở lại nhắn nhủ người ra đi luôn nhớ cội nguồn cách mạng (4 câu cuối) :

    "Mình về, còn nhớ núi non

    Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

    Mình đi, mình có nhớ mình

    Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?".

    Điệp từ "nhớ" và hình ảnh liệt kê "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa", nhằm nhắc nhở người cán bộ cách mạng luôn nhớ đến cội nguồn cách mạng: Nhớ địa điểm thành lập quân đội đầu tiên của cách mạng đó là cây đa Tân Trào, nhớ mái đình Hồng Thái là nơi hội họp quốc dân lần đầu, khai sinh ra chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Câu thơ "Mình đi mình có nhớ mình" cũng là lời nhắc nhở người ra đi khi trở về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ. Hãy luôn là chính mình, hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.

    *Sơ kết: Mười hai câu thơ tạo thành sáu câu hỏi. Mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da diết, những kỉ niệm không thể nào quên của những ngày đầu cách mạng đầy gian khổ, khó khăn, nhưng quân dân một lòng cùng nhau đánh giặc. Điệp ngữ "mình đi, mình về" và cấu trúc đối đã diễn tả tình cảm sâu đậm, thủy chung của người dân Việt Bắc đối với cách mạng.

    3. Người ra đi khẳng định tình cảm sắt son của mình (Khổ 4 và khổ 5 – 10 câu tiếp theo) :

    a. Người cán bộ cách mạng khẳng định tấm lòng sắt son chung thủy của mình đối với Việt Bắc (Khổ 4 - 4 câu đầu) :

    "Ta với mình, mình với ta

    Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

    Mình đi mình lại nhớ mình

    Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu."

    Cách ngắt nhịp 3/3 "ta với mình/ mình với ta" làm cho người đọc cảm nhận, ta với mình tuy hai mà một, gắn bó không thể tách rời. Cấu trúc so sánh và tăng tiến "lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh" nhằm nhấn mạnh tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc bao la và sâu nặng.

    Câu thơ "Mình đi mình lại nhớ mình", không còn là câu hỏi mà là một lời tâm tình, tự nhủ. Nhớ Việt Bắc cũng chính là nhớ về cuộc sống của chính bản thân mình. Cách so sánh đặc biệt "bao nhiêu, bấy nhiêu", nhằm để cụ thể hóa tình cảm sâu nặng của cán bộ cách mạng dành cho nhân dân Việt Bắc. Đặc biệt câu thơ "mình đi mình lại nhớ mình", thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu khi vận dụng cặp đại từ nhân xưng "mình, ta". Câu thơ có ba từ "mình", hai từ "mình" đầu được dùng để chỉ cán bộ cách mạng, từ "mình" thứ ba dùng để chỉ nhân dân Việt Bắc. Câu thơ như khẳng định, người cán bộ cách mạng không bao giờ quên chính mình trong những ngày khó khăn, gian khổ nhưng đậm nghĩa tình với Việt Bắc.

    b. Nỗi nhớ về thiên nhiên và cuộc sống của người Việt Bắc (Khổ 5 - 6 câu sau) :

    "Nhớ gì như nhớ người yêu

    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

    Nhớ từng bản khói cùng sương

    Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

    Nhớ từng rừng nứa bờ tre

    Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy."

    Qua hồi tưởng của người cán bộ cách mạng, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp, vừa hiện thực, lại vừa thơ mộng, tạo nét đẹp riêng biệt không nơi nào có được. Nỗi nhớ Việt Bắc được tác giả so sánh "Nhớ gì như nhớ người yêu", bởi nỗi nhớ Việt Bắc tựa nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ bao trùm lên mọi không gian và thời gian. Nhớ ánh nắng ban chiều, nhớ ánh trăng buổi tối, nhớ bản làng mờ trong sương sớm, nhớ bếp lửa hồng trong đêm khuya lạnh, nhớ núi rừng, sông suối mang những tên quen thuộc, được thể hiện bằng hàng loạt hình ảnh liệt kê "ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê". Điệp ngữ "nhớ từng" làm cho nỗi nhớ thêm da diết, vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc nên thơ sẽ còn đọng mãi trong kí ức người ra đi.

    *Sơ kết: Đoạn thơ chỉ là một mảng nhỏ trong hồi tưởng của nhà thơ về những kỉ niệm không thể quên, với cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống của Việt Bắc. Tuy nhiên, đó là những kỉ niệm da diết và sâu đậm luôn thường trực trong nỗi nhớ của tác giả.

    4. Nỗi nhớ về cảnh sinh hoạt ở Việt Bắc (Khổ 6 – 12 câu tiếp theo) :

    "Ta đi ta nhớ những ngày

    Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi..

    Thương nhau, chia củ sắn lùi

    Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng."

    Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những ngày gần gũi "mình đây ta đó", cùng chia sẻ "đắng, cay, ngọt, bùi". Có những ngày lũ rừng về xối xả, mưa rừng ào ào, gạo muối bị cuốn trôi, địch phục kích sau lung.. Những đêm bị sốt rét rừng hành hạ, được các mế, các chị chăm sóc.. thấm thía vô cùng tình quân dân keo sơn gắn bó.

    Hàng loạt tính từ "đắng, cay, ngọt, bùi" nhằm thể hiện những khó khăn tột cùng, nhưng nhờ tinh thần đồng cam cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng, được thể hiện qua những động từ "chia, sẻ, đắp cùng". Trong kháng chiến chống Pháp họ thiếu thốn về vật chất, nhưng họ đã vượt qua được, nhờ họ thương yêu, đùm bọc nhau: Chia từng củ sắn, sẻ bát cơm cho nhau, đắp chăn bằng vỏ cây sui cùng nhau để chống cái lạnh vùng cao..

    "Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

    Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô"

    Hình ảnh "Nhớ người mẹ nắng cháy lưng. Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô", giúp người đọc cảm nhận, người dân Việt Bắc lao động làm ra của cải vật chất thật khó nhọc, thế mà họ vẫn sẵn sang nuôi dưỡng cách mạng.

    "Nhớ sao lớp học i tờ

    Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

    Nhớ sao ngày tháng cơ quan

    Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

    Chày đêm nện cối đều đều suối xa.."

    Điệp ngữ "nhớ sao" được lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của tác giả càng lúc càng day dứt: Nhớ cảnh học tập của lớp bình dân học vụ, nhớ niềm vui trong đêm liên hoan, nhớ tinh thần lạc quan, yêu đời của quân dân Việt Bắc, đặc biệt tác giả nhớ âm thanh đặc trưng của núi rừng Việt Bắc đó là tiếng mõ, tiếng chày.

    *Sơ kết: Đoạn thơ cho ta thấy hình ảnh người cán bộ cách mạng nhớ phong cảnh quê hương cách mạng, con người Việt Bắc và những sinh hoạt đời thường của quân dân Việt Bắc. Qua nỗi nhớ, nhà thơ gợi lên một Việt Bắc thi vị, hài hòa. Đồng thời, nhắc lại một thời ở Việt Bắc gian khổ mà ấm áp nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan. Âm hưởng trữ tình vang vọng, đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình quân dân, tình yêu đất nước, yêu đời.

    5. Nỗi nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc (Khổ 7 – 10 câu tiếp theo) :

    Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, nhưng tiêu biểu nhất và đẹp nhất là bức tranh tứ bình của Việt Bắc qua bốn mùa được thể hiện trong đoạn thơ.

    a. Hai câu đầu nêu cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ đó là nỗi nhớ về Việt Bắc:

    "Ta về mình có nhớ ta

    Ta về ta nhớ những hoa cùng người"

    Ở đoạn thơ này có sự thay đổi đại từ nhân xưng: "Ta" là người cán bộ cách mạng, "Mình" là nhân dân Việt Bắc. Tác giả sử dụng hai lần cụm từ "ta về" vào cùng một thời điểm chia tay, nhưng "ta về" ở câu lục là để hỏi người Việt Bắc, còn "ta về" ở câu bát là để giãi bày lòng mình. Câu thơ "Ta về ta nhớ những hoa cùng người", từ "cùng" trong "hoa cùng người", nhằm khẳng định thiên nhiên và con người Việt Bắc có mối quan hệ khăng khít với nhau. Qua đó, ta thấy hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi.

    b. Tám câu sau bức tranh tứ bình Việt Bắc:

    "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

    Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

    Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình.

    Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."

    Ở đoạn thơ này, cảnh và người Việt Bắc hiện lên rất đẹp, rất trữ tình, thơ mộng trong nỗi nhớ của người đi xa. Bốn cặp câu lục bát có kết cấu đan xen độc đáo: Câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói đến con người. Nói đến hoa như thể hiện tình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh tứ bình Việt Bắc.

    Cảnh mùa đông không tàn lụi, lạnh lẽo mà sống động, ấm áp. Giữa rừng xanh bạt ngàn tha thiết, lại đột ngột bùng lên màu "hoa chuối đỏ tươi" như ngọn lửa của rừng ấm áp tình yêu:

    "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

    Theo trình tự thời gian xuân, hạ, thu rồi đến đông. Nhưng ở đoạn thơ này tác giả đi theo trình tự đông, xuân, hạ, thu. Bởi vì, bài thơ được sáng tác vào tháng mười, tức là vào mùa đông nên mùa đông được nhắc đến trước. Bức tranh mùa đông ở Việt Bắc là một không gian xanh thẳm, bạt ngàn của núi rừng, được điểm tô màu đỏ tươi của hoa chuối. Phải chăng màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh? Bên cạnh bức tranh mùa đông là nét đẹp khỏe khoắn của con người Việt Bắc với hình ảnh "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Hình ảnh hoán dụ "dao gài thắt lưng", lấy con dao đi rừng – vật bất li thân của người dân miền núi, để vẻ nên nét đẹp đặc trưng của con người Việt Bắc, họ hùng vĩ, kiêu hãnh, thách thức trước cái lạnh của núi rừng, trước độ cao của đèo. Giữa "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi", đã nổi bật lên hình ảnh người lao động miền núi chăm chỉ làm việc "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".

    Cảnh mùa xuân cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân), là sự chuyển màu trong bức tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến:

    "Ngày xuân mơ nở trắng rừng

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"

    Bức tranh mùa xuân bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ, thời gian ở đây được chỉ rất rõ "ngày xuân" với gam màu trắng là gam màu đặc trưng. Câu thơ đem lại cho người đọc cảm nhận không khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên Việt Bắc giàu sức sống. Giữa sự tinh khiết của màu trắng hoa mơ là hình ảnh người đan nón chuốt từng sợi giang. Động từ "chuốt" gợi sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó trong lao động của người dân Việt Bắc. Họ kết từng sợi nhớ sợi thương trong công việc đan nón tỉ mẫn hàng ngày. Trong sắc xuân của thiên nhiên, đất trời, con người chính là chủ nhân của bức tranh xuân, đang tô điểm cho sắc xuân bằng tình yêu lao động.

    Cảnh mùa hè được chuyển sang gam màu vàng của "rừng phách" – Một loại cây phổ biến ở rừng núi Việt Bắc:

    "Ve kêu rừng phách đổ vàng

    Nhớ cô em gái hái măng một mình"

    Bức tranh mùa hạ buộc người đọc phải cảm nhận bằng cả thính giác và thị giác. Tiếng ve kêu báo hiệu hè về, những ngày xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn kín kẽ trong lá. Khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Đặc biệt động từ "đổ', trong" rừng phách đổ vàng "giúp người đọc liên tưởng trong phút chốc màu vàng nhuộm cả rừng phách. Nổi bật trên nền bức tranh màu vàng là hình ảnh" cô em gái hái măng một mình ". Cách gọi trìu mến" cô em gái "và động từ" hái "trong" hái măng ", hái chứ không phải là bẻ hay chặt, thể hiện sự mềm mại, thành thạo trong lao động của cô gái Việt Bắc.

    Cảnh mùa thu khép lại bức tranh với đêm trăng trữ tình, bình yên và huyền ảo:

    " Rừng thu trăng rọi hòa bình

    Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung "

    Bức tranh thu thật êm đềm, thơ mộng và thanh bình biết bao bởi không gian về đêm, trăng hiện trong đêm thu, dưới rừng thu để chuyển tải một tình thu. Đó là tình yêu hòa bình" trăng rọi hòa bình ". Đặc biệt điểm vào bức tranh mùa thu huyền ảo ấy là tiếng thu – Tiếng hát sắt son, thủy chung, ân tình của người dân Việt Bắc.

    *Sơ kết: Thể thơ lục bát và cách diễn đạt bằng lời đối đáp của kẻ ở với người đi bằng cặp đại từ nhân xưng" mình, ta ", khiến cho tình cảm trong bài thơ được thể hiện một cách vừa kín đáo, tinh tế, vừa đậm đà ý vị dân tộc. Đoạn thơ giàu màu sắc hội họa, từ ngữ giàu giá trị tạo hình đã vẽ nên bức tranh đầy màu sắc về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc. Cảnh và người hòa quyện thắm thiết, tô điểm cho nhau, tạo nên nét riêng biệt của mảnh đất Việt Bắc mà không có vùng quê nào có được. Qua đó, thể hiện tình yêu, sự gắn bó sâu nặng, nỗi nhớ của cán bộ cách mạng đối với miền đất Việt Bắc ân nghĩa, thủy chung. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài thơ, đồng thời cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Đậm đà tính dân tộc.

    6. Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu (Khổ 8 –10 câu tiếp theo) :

    " Nhớ khi giặc đến giặc lung

    Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây ".

    Động từ" lùng "trong" giặc lùng ", và điệp từ" giặc ", nhằm nhấn mạnh tội ác của thực dân Pháp, đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, chúng lùng sục để giết dân lành và triệt tiêu phong trào cách mạng. Từ" cùng "trong" Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây ", cho thấy thiên nhiên Việt Bắc cũng góp phần cùng bộ đội ta kháng chiến chống Pháp. Thực dân Pháp càng điên cuồng, tàn bạo bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc, thiên nhiên Việt Bắc, càng thể hiện tinh thần đoàn kết bấy nhiêu. Họ tạo ra những địa hình hiểm trở để che giấu cán bộ cách mạng và gây khó khăn cho thực dân Pháp.

    " Núi giăng thành lũy sắt dày

    Rừng che bộ đội rừng vây quân thù ".

    Hàng loạt hình ảnh nhân hóa" núi giăng thành lũy, rừng che bộ đội, rừng vây quân thù ", cho thấy thiên nhiên cũng giống như con người, hiểu được ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp là nhằm đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa, nên thiên nhiên Việt Bắc tạo nên một địa hình hiểm trở để che chở cán bộ cách mạng và vây hãm quân thù. Đoạn thơ còn gợi lại sự kiện quan trọng là quân và dân ta đã chiến thắng giặc Pháp trận Thu Đông 1947, đập tan âm mưu của Pháp dự định đánh chiếm vào chiến khu Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng. Ngoài ra hình ảnh" núi rừng "còn tượng trưng cho sự đông đảo của từng lớp người Việt Nam tham gia cách mạng đông như rừng, ý chí vững chắc như núi.

    " Mênh mông bốn mặt sương mù

    Đất trời ta cả chiến khu một lòng ".

    Hình ảnh " Mênh mông bốn mặt sương mù ", chỉ thời tiết Việt Bắc thật là khắc nghiệt, trời đầy sương mù. Sương mù dày đặc đã góp phần che mắt quân thù, cản trở tầm nhìn và con đường tiến công của giặc. Ngoài ra cặp từ ngữ đối" mênh mông đất trời – chiến khu một lòng ", nhằm nhấn mạnh sự đoàn kết trong chiến đấu của quân và dân ta, giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.

    " Ai về ai có nhớ không?

    Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

    Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

    Nhớ từ Cao – Lạng nhớ sang Nhị Hà.. "

    Câu hỏi tu từ " Ai về ai có nhớ không? ", điệp từ" nhớ "và đại từ phiếm chỉ" ai ", cùng hàng loạt hình ảnh liệt kê về địa danh Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng.. nhằm nhắc nhở người ra đi và người ở lại, hãy nhớ đến những địa danh lịch sử, nơi ấy đã xảy ra những trận đánh lớn giữa ta và địch, quân dân ta đã giành những chiến thắng vẻ vang.

    *Sơ kết: Với thể thơ lục bát, âm điệu sâu lắng, hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, vận dụng thành công các biện pháp tu từ như nhân hóa, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ.. Đoạn thơ đã bộc lộ nỗi nhớ, niềm tự hào của người cán bộ cách mạng về một Việt Bắc anh dũng, kiên cường.

    7. Tinh thần chiến đấu và khí thế ra trận của quân dân Việt Bắc (Khổ 9 –

    12 câu tiếp theo) :

    " Những đường Việt Bắc của ta

    Đêm đêm rầm rập như là đất rung ".

    Từ láy hoàn toàn chỉ thời gian" đêm đêm ", nhằm chỉ thời gian liên tục, đêm này sang đêm khác, không ngừng nghỉ, thường xuyên. Hình ảnh so sánh " Những đường Việt Bắc của ta, đêm đêm rầm rập như là đất rung ", nhằm nhấn mạnh khí thế ra trận hùng dũng, rung trời, lở đất của quân dân ta, bởi cuộc kháng chiến của dân tộc ta là cuộc kháng chiến chính nghĩa, với mục đích đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc, nên đã tập hợp được các tầng lớp sĩ, nông, công, thương. Những tầng lớp này đại biểu cho sức mạnh, cho tư tưởng và khát vọng giành độc lập của dân tộc Việt Nam.

    " Quân đi điệp điệp trùng trùng

    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

    Dân công đỏ đuốc từng đoàn

    Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên ".

    Những từ, cụm từ chỉ số lượng đông đảo" điệp điệp, trùng trùng, từng đoàn, muôn tàn lửa bay ", nhằm thể hiện sức mạnh, khí thế của quân dân Việt Bắc. Sức mạnh được chỉ ra rất cụ thể gồm" quân "và" dân công "(Bộ đội và nhân dân Việt Bắc) từng đoàn người ra trận, đoàn quân này tiếp nối đoàn quân kia, liên tục không ngừng nghỉ.

    Con đường Việt Bắc về đêm, không chỉ tấp nập bởi bộ đội, dân công, mà còn rực rỡ bởi ánh sáng, ánh sáng của niềm tin, hi vọng, được thể hiện ở hàng loạt từ ngữ" ánh sao đầu súng, đỏ đuốc, đèn pha bật sáng "(ánh sáng sao đêm, ánh sáng đuốc, và ánh sáng của đèn pha xe vận tải quân sự). Hình ảnh ẩn dụ " Nghìn đêm thăm thẳm sương dày ", nhằm để chỉ cuộc sống tối tăm, nô lệ của nhân dân ta dưới chế độ thực dân phong kiến. Hình ảnh" bước chân nát đá ", lấy từ thành ngữ" chân cứng đá mềm ", nhằm thể hiện ý chí quyết tâm, vượt qua gian khổ, hi sinh để giành thắng lợi của quân dân Việt Bắc.

    " Tin vui chiến thắng trăm miền

    Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

    Vui từ Đồng Tháp, An Khê

    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng ".

    Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh" Hòa Bình, Tây Bắc, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng "và điệp từ" vui "nhằm nhấn mạnh tâm trạng sung sướng của quân dân ta vì đã chiến thắng giặc Pháp với những chiến dịch lớn. Đặc biệt ở đoạn thơ này, nhịp thơ dồn dập, tạo nên khí thế hùng dũng của quân dân Việt Bắc.

    *Sơ kết: Với bút pháp lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu, với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Đoạn thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại. Qua đó, thể hiện hào khí ngất trời của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, tác giả ca ngợi Việt Bắc, ca ngợi cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt, hào hùng và vẻ vang của dân tộc ta.

    8. Vai trò của Việt Bắc và Bác Hồ (Khổ 10 và khổ 11 – 16 câu còn lại) :

    " Ai về ai có nhớ không?

    Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang

    Nắng trưa rực rỡ sao vàng

    Trung ương, Chính phủ luận bàn việc việc công "

    Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ " Ai về ai có nhớ không? ", cùng với đại từ phiếm chỉ" ai "(chỉ người cán bộ cách mạng), khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội thì hãy nhớ những kỉ niệm ở hang Việt Bắc – Thủ đô kháng chiến, nơi ấy những phiên họp của chính phủ được diễn ra, cuộc họp" luận bàn việc công "– những công việc to lớn, quan trọng của đất nước. Cuộc họp đầy tinh thần lạc quan của những người cách mạng, được thể hiện ở hình ảnh" ngọn cờ đỏ thắm, rực rỡ sao vàng ".

    " Điều quân chiến dịch Thu – đông

    Nông thôn phát động, giao thông mở đường

    Giữ đê, phòng hạn, thu lương

    Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu.. "

    Đoạn thơ liệt kê hàng loạt những công việc của cán bộ cách mạng" điều quân, giao thông mở đường, giữ đê, phòng hạn, thu lương, gửi dao miền ngược, thêm trường các khu ". Nghĩa là cách mạng ta vừa phải đánh giặc thắng lợi" Điều quân chiến dịch Thu – đông ", vừa phải phát triển kinh tế đảm bảo lương thực cho hậu phương và tiền tuyến" Giữ đê, phòng hạn, thu lương ", bên cạnh đó còn phải chăm lo phát triển văn hóa" thêm trường các khu ". Nghĩa là cách mạng đang thực hiện chủ trương" chống thù trong giặc ngoài, diệt giặc đói, giặc dốt ".

    " Ở đâu u ám quân thù

    Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

    Ở đâu đau đớn giống nòi

    Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền ".

    Điệp ngữ" ở đâu "nhằm để nhấn mạnh nhân dân cả nước đang hướng về cách mạng. Động từ" nhìn lên, trông về "dùng để chỉ hành động tuyệt đối tin tưởng của nhân dân đối với cách mạng. Hình ảnh Bác Hồ hiện lên trong lòng nhân dân – Bác vừa là một vị lãnh tụ, vừa là người cha, người bác, người anh, với trái tim vĩ đại đủ sức xóa tan sự u ám, đau đớn cho giống loài Việt Nam.

    " Mười lăm năm ấy ai quên

    Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa

    Mình về mình lại nhớ ta

    Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào ".

    Cụm từ chỉ thời gian" mười lăm năm ấy ", nhằm để chỉ thời gian gắn bó ân tình, sâu nặng giữa người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Câu thơ khẳng định" ai quên, dựng nên Cộng hòa ", nhằm khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt của người ra đi đối với Việt Bắc. Bởi vì Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, nơi ấy nuôi dưỡng Đảng và Bác Hồ trong những ngày kháng chiến gian khổ, để giành thắng lợi, lập nên chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

    *Sơ kết: Đoạn thơ khẳng định Việt Bắc là căn cứ địa, chiến khu của kháng chiến, là cơ quan đầu não của kháng chiến. Hình ảnh Bác Hồ được ngợi ca với một niềm tin yêu, thành kính: Bác là ánh sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam.

    III. TỔNG KẾT:

    " Việt Bắc"là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian. Tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của Tố Hữu: Hãy nhớ mãi mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
     
    LieuDuong thích bài này.
  4. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    4. ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế. Ông thuộc thế hệ nhà trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về non sông, đất nước và con người Việt Nam.

    2. Hoàn cảnh sáng tác:

    Đất nước trích phần đầu, chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Bình Trị Thiên 1971, in lần đầu 1974 với nội dung thức tỉnh tuổi trẻ thành thị, vùng địch tạm chiếm miền Nam, có ý thức về đất nước và sứ mệnh của thế hệ mình mà đấu tranh chống đế quốc Mĩ.

    3. Chủ đề:

    Bài thơ thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước – đất nước là sự hội tụ, kết tinh công sức và khát vọng của nhân dân. Qua đó vẻ đẹp của đất nước được tác giả phát hiện có chiều sâu, trên nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí và văn hóa.

    4. Đặc điểm nổi bật:

    a. Về nội dung:

    Tác giả hòa quyện giữa lí trí và tình cảm, giữa trí tuệ và cảm xúc khi nói về đất nước. Tác giả tìm về truyền thống để thấy rõ bản chất con người và dân tộc Việt Nam. Ông không nhìn đất nước qua dáng vẻ bề ngoài mà hướng vào bên trong tâm hồn. Đất nước xuất hiện gần gũi, thiêng liêng.

    b. Về nghệ thuật:

    Giọng thơ trữ tình – chính luận. Thể thơ tự do, giàu nhạc điệu. Từ "Đất Nước" là danh từ chung nhưng được viết hoa như danh từ riêng, nhằm thể hiện thái độ thành kính của tác giả. Vận dụng thành công, sáng tạo nhiều yếu tố văn học dân gian.

    5. Khái quát chung về bài thơ:

    Tác giả mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với người con gái mà mình yêu thương. Đó là nhân vật "em", cùng với những dòng thơ tự do, giàu nhạc điệu để giúp người đọc có điều kiện suy ngẫm về đất nước. Đặc biệt, toàn bài thơ được bao bọc bởi không khí văn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục tập quán và văn hóa sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của nhân dân. Những chất liệu này đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi thân quen, vừa kì diệu: Đó là sức mạnh gợi lên hồn thiêng sông núi.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Đất Nước là những gì gần gũi thân quen trong cuộc sống hàng ngày (9 câu đầu) :

    Đất Nước có từ lâu đời và gần gũi, gắn bó thân thương đối với mỗi con người:

    "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"

    Cả một quá trình bốn ngàn năm lịch sử của đất nước được tác giả thể hiện ở hàng loạt cấu trúc thơ: "Đất Nước đã có rồi, Đất Nước bắt đầu, Đất Nước có từ ngày ấy", nhằm thể hiện cả một chiều dài đất nước sinh ra, lớn lên, trưởng thành và trường tồn cho đến ngày hôm nay. Câu khẳng định "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", lời khẳng định rất tự nhiên, thể hiện sự hình thành lâu đời và bền vững của đất nước ta.

    Đất nước hình thành và phát triển từ những phong tục tập quán, văn hóa ngàn đời của dân tộc:

    "Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa.. mẹ thường hay kể"

    Đất nước có từ nền văn hóa dân gian ông cha ta để lại. Đất nước gắn liền với những câu chuyện cổ tích mà thuở ấu thơ ai cũng từng đôi lần nghe bà, nghe mẹ kể. Những câu chuyện cổ tích ấy, thường bắt đầu bằng cụm từ không xác định thời gian "ngày xửa ngày xưa".

    "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn"

    Đất nước gắn liền với phong tục tập quán riêng của dân tộc Việt Nam. Đất nước là hình ảnh "miếng trầu bây giờ bà ăn". Hình ảnh miếng trầu gợi cho ta nhiều liên tưởng. Trong giao tiếp của người Việt xưa, miếng trầu là đầu câu chuyện. Miếng trầu còn gợi đến sự tích trầu cau, sự tích này đề cao tình nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em. Miếng trầu còn gợi nhớ phong tục cưới xin của người Việt.

    "Tóc mẹ thì bới sau đầu"

    Đất nước còn là thuần phong mĩ tục quen thuộc của người Việt qua hình ảnh "tóc mẹ bới sau đầu". Điều đáng tự hào là từ thuở dựng nước cho đến nay, nước ta thường xuyên có giặc ngoại xâm. Giặc ngoại xâm luôn nuôi ý đồ đồng hóa dân tộc ta về ngôn ngữ, về văn hóa, thế mà thuần phong đẹp "tóc mẹ thì bới sau đầu" lại không bao giờ bị đồng hóa.

    Đất nước ta từ xa xưa luôn có truyền thống đánh giặc ngoại xâm "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", điều này được thể hiện qua câu thơ:

    "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc"

    Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc. Câu thơ gợi nhớ đến bốn ngàn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm. Nó còn gắn liền với truyền thuyết Thánh Gióng và ghi lại giai đoạn dân tộc ta thông minh, sáng tạo biết chống giặc ngoại xâm bằng vũ khí làm từ tre: Gậy tre, đuốc tre, chông tre.. Ngoài ra, tre còn gần gũi với đời sống thường ngày của người Việt Nam: Đũa tre, giường tre, rổ tre..

    Đất nước còn bắt nguồn từ những đạo lý tốt đẹp:

    "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"

    Đất nước gắn liền với những đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là tình cảm vợ chồng, càng gian lao khổ ải thì càng phải sắt son, chung thủy, được thể hiện qua thành ngữ "gừng cay muối mặn". Thành ngữ này gợi nhớ đến bài ca dao:

    "Tay bưng chén muối dĩa gừng

    Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau".

    Đất nước gắn liền với việc hình thành nên ngôn ngữ:

    "Cái kèo, cái cột thành tên"

    Ngôn ngữ được hình thành từ những vật gần gũi, quen thuộc "cái kèo, cái cột". Cụm từ "cái kèo, cái cột" là tên gọi những vật dùng để làm nhà – những ngôi nhà tre, nhà lá mà cha ông ta dùng để che mưa, che nắng.

    Đất nước ta có truyền thống cần cù lam lũ:

    "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng"

    Đất nước là truyền thống cần cù, lam lũ trong sản xuất. Đất nước gắn liền với hạt gạo vì gạo là lương thực chính của người Việt. Nhưng hạt gạo lại được sản xuất theo quy trình rất Việt Nam, được thể hiện ở hàng loạt động từ "xay, giã, dần, sàng" và thành ngữ "một nắng hai sương", chỉ hạt gạo được làm ra bởi bàn tay cần cù, tần tảo của nhân dân. Bàn tay ấy làm nên sự sống cho đất nước.

    *Sơ kết: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hóa dân gian, với hình thức thơ trữ tình – chính luận. Chữ "Đất Nước" được viết hoa và lặp lại nhiều lần như một điệp khúc vừa thể hiện ý nghĩa cao cả, thiêng liêng của đất nước, vừa thể hiện tình cảm yêu quý, trân trọng đất nước. Từ đó, khắc sâu hình ảnh đất nước vào tâm trí người đọc. Đất nước không là những khái niệm trừu tượng, mà đất nước là những gì gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.

    2. Cảm nhận đất nước qua phương diện thời gian – lịch sử, không gian – địa lí và văn hóa phong tục (Câu 10 – 29) :

    Trong những năm tháng Mĩ – Ngụy chiếm đóng, các đô thị miền Nam chịu ảnh hưởng nặng nề về tư tưởng, văn hóa nô dịch và phản động, thì việc nhận thức lại khái niệm đất nước là vô cùng cần thiết. Khi nói về đất nước, tác giả không giải thích, cắt nghĩa chung chung, mà dùng cách phân hợp khái niệm nhiều lần: "Đất Nước là, Đất là, Nước là.." để làm rõ đất nước được tạo bởi hai yếu tố "Đất" và "Nước".

    Sáu câu đầu, đất nước là không gian địa lí.

    Không gian địa lí hẹp:

    "Đất là nơi anh đến trường

    Nước là nơi em tắm

    Đất Nước là nơi ta hò hẹn

    Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"

    Đất nước là những không gian thân quen, gần gũi, gắn bó với cuộc sống mỗi người. Đất nước chính là con đường anh đến trường, là cái ao em tắm. Đất nước còn là nơi gieo mầm hạt giống tình yêu, là nơi mang nỗi tương tư của người con gái "em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm". Câu thơ gợi ta liên tưởng đến nỗi nhớ người yêu trong bài ca dao:

    "Khăn thương nhớ ai

    Khăn rơi xuống đất

    Khăn thương nhớ ai

    Khăn vắt lên vai

    Khăn thương nhớ ai

    Khăn chùi nước mắt.."

    Không gian địa lí rộng:

    "Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

    Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi"

    Đất là núi, sông, rừng, biển, khái niệm này thật là quen thuộc. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm rất độc đáo trong việc sử dụng hình ảnh "con chim phượng hoàng, con cá ngư ông". Hình ảnh này nhắc ta nhớ đến câu chuyện cổ tích "hai anh em và cây khế" có con chim phượng hoàng ăn khế trả vàng. Câu thơ này còn gợi nhớ đến câu hò Bình Trị Thiên:

    "Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc

    Con cá ngư ông móng nước ngoài biển khơi"

    Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo, thay cụm từ "bay ngang hòn núi bạc" thành "bay về hòn núi bạc", "móng nước ngoài biển khơi" thành "móng nước biển khơi" để người đọc dễ dàng cảm nhận niềm tự hào, gắn bó với núi sông hùng vĩ của đất nước.

    Bảy câu tiếp theo, đất nước là thời gian lịch sử:

    "Thời gian đằng đẳng

    Không gian mênh mông

    Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

    Đất là nơi chim về

    Nước là nơi rồng ở

    Lạc Long Quân và Âu Cơ

    Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"

    Cụm từ chỉ thời gian không xác định "thời gian đằng đẳng", nhưng người Việt ai cũng hiểu đó là chiều dài lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt. Chiều dài lịch sử này đã trải qua biết bao thăng trầm trước nạn ngoại xâm. Đi suốt chiều dài của "thời gian đằng đẳng, không gian mênh mông", ta sẽ hiểu rằng đất nước là báu vật, tổ ấm của nòi giống tiên rồng. Truyền thuyết "Lạc Long Quân và Âu Cơ" là bản khai sinh vinh quang cho nguồn gốc dân tộc Việt. Dải đất này là đất lành nên "chim về", đất thiêng nên "rồng ở", sự kết hợp vĩ đại của rồng tiên đã khai sinh ra dân tộc Việt. Từ đó đến nay đất nước vẫn che chở và nuôi dưỡng biết bao thế hệ rồng tiên, đất nước là ngôi nhà chung của người Việt "đất là nơi dân mình đoàn tụ".

    Bảy câu tiếp theo, trách nhiệm của người Việt đối với đất nước:

    "Những ai đã khuất

    Những ai bây giờ

    Yêu nhau và sinh con đẻ cái

    Gánh vác phần người đi trước để lại

    Dặn dò con cháu chuyện mai sau

    Hằng năm ăn đâu làm đâu

    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"

    Đất nước là sự sinh tồn của bao cộng đồng người Việt, trải qua nhiều thế hệ, được thể hiện ở cặp kết cấu cú pháp "Những ai đã khuất – Những ai bây giờ". Vì vậy, mỗi người đều phải có trách nhiệm bảo tồn nòi giống bằng cách yêu nhau và sinh con đẻ cái. Ngoài ra còn phải có trách nhiệm, nhắc nhở con cháu hướng về cội nguồn, Tổ tiên với lòng thành kính thể hiện ở cụm từ "cúi đầu" trong câu thơ "cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Câu thơ này gợi đến bài ca dao:

    "Dù ai đi ngược về xuôi

    Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba".

    *Sơ kết: Đoạn thơ sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian: Ca dao, dân ca, truyện cổ tích.. tạo chiều sâu, định nghĩa sâu sắc và hoàn chỉnh về đất nước, thể hiện sự gắn bó của mỗi con người đối với đất nước. Đất nước được cảm nhận trên nhiều phương diện: Từ chiều dài của lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí, đến chiều sâu của văn hóa dân tộc. Đặc biệt, đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất, hài hòa giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này và thế hệ khác nối tiếp nhau.. Đó là cách cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước bằng quan niệm của tuổi trẻ, vừa riêng biệt, vừa hết sức độc đáo.

    3. Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đất nước là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng (Câu 30 – 42) :

    "Trong anh và em hôm nay

    Đều có một phần Đất Nước"

    Câu khẳng định "Trong anh và em hôm nay, đều có một phần Đất Nước", nhằm khẳng định, đất nước không phải là khái niệm xa lạ, mà ở ngay trong máu thịt của ta. Bởi mỗi người Việt Nam sinh ra đều được hưởng một phần di sản vật chất, tinh thần của đất nước: Ăn hạt gạo quê hương, lớn lên bằng lời ru yêu thương của bà, của mẹ cũng là của dân tộc, bập bẹ nói ngôn ngữ Việt.. Nên phải có trách nhiệm giữ gìn và truyền lại cho thế hệ sau.

    "Khi hai đứa cầm tay

    Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

    Khi chúng ta cầm tay mọi người

    Đất Nước vẹn tròn, to lớn"

    Cấu trúc song hành "Khi hai đứa cầm tay – Khi chúng ta cầm tay mọi người" và hàng loạt tính từ "hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn" để chỉ mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung. Cụm từ "khi hai đứa cầm tay" thể hiện tình yêu đôi lứa, tình yêu đôi lứa mang đậm dáng dấp quê hương nên "hài hòa nồng thắm", là cội nguồn để chúng ta "cầm tay mọi người". Khi ấy mối quan hệ giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước sẽ làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc trong bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

    "Mai này con ta lớn lên

    Con sẽ mang Đất Nước đi xa

    Đến những tháng ngày mơ mộng"

    Hình ảnh ẩn dụ "tháng ngày mơ mộng" nhằm chỉ một tương lai sáng ngời của đất nước mà thế hệ cha ông hằng mơ ước về thế hệ con cháu mai sau "mai này con ta lớn lên" sẽ đưa đất nước vươn lên tầm cao mới. Ước mơ này của cha ông là lời nhắn nhủ về trách nhiệm, bổn phận của người Việt và phải luôn tin tưởng vào thế hệ mai sau.

    "Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

    Phải biết gắn bó và san sẻ

    Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

    Làm nên Đất Nước muôn đời.."

    Cách gọi thân thương "em ơi em" và câu khẳng định "Đất Nước là máu xương của mình", nhằm khẳng định để có đất nước hôm nay, ông cha ta phải đổ biết bao xương máu để giữ gìn và bảo vệ. Điệp ngữ "phải biết", cùng với các động từ "gắn bó, san sẻ, hóa thân", nhằm chỉ ra trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam đối với đất nước. "Gắn bó" là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, đứng về phía nhân dân chống lại kẻ thù. Cố gắng vươn lên từ trong gian khó, cống hiến hết sức lực, tài năng để góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước. "San sẻ" là biết chia sẻ ngọt bùi, biết sống tình nghĩa "lá lành đùm lá rách", yêu thương giúp đỡ mọi người lúc khó khăn. Sẵn sàng chia sẻ một phần đời sống vật chất và tinh thần khi Tổ quốc cần. Từ "hóa thân" ở đây có thể hiểu là sự hi sinh của mỗi con người để làm nên hình hài, dáng vẻ, sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.

    *Sơ kết: Với phong cách thơ trữ tình – chính luận, lời thơ ngọt ngào, tha thiết. Đoạn thơ thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận sâu sắc về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả đã nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và tương lai. Từ đó khơi gợi trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước. Đoạn thơ không là những lời giáo lí khô khan mà là những lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau "em ơi em" và hình ảnh "khi hai đứa cầm tay". Lời tâm tình này làm lay động hàng triệu trái tim độc giả.

    4. Tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra và do nhân dân cảm thụ (Câu 43 – câu 89) :

    a. Nhân dân là người làm ra danh lam thắng cảnh (Câu 43 – Câu 54) :

    "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những hòn Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

    Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

    Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.."

    Theo cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước chính là những danh lam thắng cảnh đẹp, kì thú, được tác giả liệt kê: Hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên.. Những danh lam thắng cảnh này, không chỉ là tặng vật của thiên nhiên, mà còn phản ánh đời sống của nhân dân và được cảm thụ bằng chính tâm hồn, tình cảm của họ.

    Nếu không có những người vợ Việt Nam mòn mỏi chờ chồng đến hóa đá thì làm sao có núi Vọng Phu

    "Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

    Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

    Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

    Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh"

    Vậy đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Tác giả đã quy nạp hàng loạt những danh lam thắng cảnh, để đưa đến một kết luận: Mỗi danh lam thắng cảnh đều mang "một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha". "Một dáng hình" phải chăng đó là dáng hiên ngang của ông cha ta không chịu khuất phục bất cứ kẻ thù nào? "Một ao ước" của ông cha ta, phải chăng là một ao ước về cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc? "Một lối sống" phải chăng là lối sống cần cù, giản dị, thật thà và thủy chung, tình nghĩa?

    *Sơ kết: Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hiện tượng cụ thể, đến khái quát manh tính triết lí sâu sắc. Dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh, đồng thời cũng là nét đẹp văn hóa của dân tộc nên đã khẳng định: Trên không gian địa lí đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa, được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam.

    b. Nhân dân đã làm nên tiến trình lịch sử bốn ngàn năm của đất nước (Câu 55 – câu 72) :

    "Em em ơi

    Hãy nhìn rất xa

    Vào bốn nghìn năm Đất Nước"

    "Em em ơi" cách xưng hô thân thương, trìu mến và giọng điệu tâm tình như lời nhắc nhở thế hệ trẻ ngày nay "hãy nhìn rất xa, vào bốn nghìn năm Đất Nước". Câu thơ hàm nghĩa, thế hệ trẻ Việt Nam hãy nhìn vào quá khứ, lịch sử bằng cách lật những trang sử vàng của đất nước với niềm say mê, tự hào.

    "Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

    Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

    Cần cù làm lụng"

    Khi Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở thanh niên hãy nhìn về quá khứ lịch sử bốn ngàn năm, tác giả không nhắc đến những triều đại hùng mạnh như Lý, Trần, Lê.. với những người anh hùng nổi tiếng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ.. mà chỉ muốn nhấn mạnh đến vai trò của nhân dân – những người bình thường trong xã hội, bằng câu so sánh "con gái, con trai bằng tuổi chúng ta". Bởi lẽ trong giai đoạn đất nước hòa bình, họ quanh năm suốt tháng "năm tháng nào", họ cũng cần mẫn, chịu thương, chịu khó lao động trên mặt trận sản xuất, để làm ra của cải làm giàu cho bản thân và đất nước, được thể hiện ở cụm động từ "cần cù làm lụng".

    "Khi có giặc người con trai ra trận

    Người con gái trở về nuôi cái cùng con"

    Cụm từ "khi có giặc" để chỉ đất nước trong thời chiến. Khi đất nước có ngoại xâm, nhân dân tự giác phân công trách nhiệm gánh vác một cách hợp lí "người con trai ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con". Câu thơ thể hiện khi Tổ quốc lâm nguy, người con trai phải gánh trách nhiệm bảo vệ đất nước, còn người phụ nữ đảm trách vai trò hậu phương: Nuôi con và sản xuất lương thực.

    "Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

    Nhiều người đã trở thành anh hùng

    Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ"

    Câu khẳng định "ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh" nhằm nhấn mạnh khi Tổ quốc lâm nguy thì người phụ nữ cũng tham gia giết giặc một cách dũng cảm, kiên cường, mưu trí. Điệp từ "nhiều", "anh hùng" trong câu thơ "nhiều người trở thành anh hùng, nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ" đã khẳng định những người phụ nữ bình thường, quanh năm đầu tắt mặt tối lo ruộng đồng, nhưng khi Tổ quốc gọi họ đã dũng cảm cầm vũ khí giết giặc và đã trở thành những người anh hùng của đất nước như bà Trưng, bà Triệu, Lê Chân, Võ Thị Sáu..

    "Nhưng em biết không

    Có biết bao người con gái, con trai

    Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

    Họ đã sống và chết

    Giản dị và bình tâm"

    Câu hỏi tu từ "nhưng em biết không" và cặp từ đối "sống – chết", như một lời tự bạch đầy tự hào về quan niệm sống chết của người Việt "chết vinh còn hơn sống nhục". Vì vậy cuộc sống đối với họ thật giản dị, áo nâu chân đất "gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn", "canh rau muống cà dầm tương", nhưng là cuộc sống do chính bàn tay cần cù lao động của họ làm ra với tình yêu quê hương đất nước. Khi Tổ quốc lâm nguy, họ không chấp nhận cuộc sống nô lệ, nên họ tình nguyện cầm vũ khí đánh giặc, nếu phải hi sinh họ cũng xem đó là chuyện bình thường "bình tâm".

    "Không ai nhớ mặt đặt tên

    Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"

    Cấu trúc câu phủ định mà ý khẳng định "Không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng họ đã làm ra Đất Nước", cho thấy tác giả đề cao sự hi sinh thầm lặng của nhân dân, họ là những chiến sĩ bình dị, vô danh trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Họ tuy không để lại tên tuổi, nhưng chính họ là những người làm ra bốn ngàn năm lịch sử của đất nước.

    "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

    Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

    Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

    Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

    Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

    Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

    Có nội thù thì vùng lên đánh bại

    Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân"

    Điệp từ "họ" kết hợp với phép liệt kê, hình thức lặp cấu trúc cùng các động từ "giữ, chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ", nhằm nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Trong quá trình sinh sống, các thế hệ bằng sự cần cù, lòng yêu nước đã tạo ra, gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau những giá trị vật chất (hạt lúa, cách tạo lửa, giữ lửa bằng than, con cúi, đắp đập, be bờ), cùng các giá trị tinh thần (ngôn ngữ, tên xã, tên làng). Những điều ấy, đã góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc và để lại cho thế hệ sau truyền thống chống giặc ngoại xâm, nội thù để bảo toàn bờ cõi, được thể hiện qua động từ "vùng lên", trong lối điệp cấu trúc "có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại", để cuối cùng nhà thơ đi đến sự khẳng định đầy tự hào "để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân".

    *Sơ kết: Tác giả đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, vừa cụ thể, gần gũi với đời sống, vừa có ý nghĩa khái quát, giàu sức suy tư. Bằng giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Đoạn thơ là bức tượng đài kì vĩ khẳng định, ca ngợi vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Từ đó góp phần làm nỗi bật tư tưởng chủ đạo của đoạn trích: Đất nước là của nhân dân.

    c. Nhân dân là người làm ra kho tàng văn học dân gian (Câu 80 – câu 89) :

    "Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"

    Câu thơ gồm hai vế song song "Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại", nhằm đưa người đọc về với cội nguồn văn hóa dân gian.

    "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi

    Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

    Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

    Đi trả thù mà không sợ dài lâu

    Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

    Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

    Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

    Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"

    Cả một kho tàng văn hóa dân gian, nhưng tác giả chỉ chọn ba câu, nhằm thể hiện ba phương diện quan trọng nhất trong truyền thống của người Việt Nam: Người Việt nam say đắm trong tình yêu được thể hiện ở câu thơ: "Yêu em từ thuở trong nôi". Câu thơ này gợi nhớ đến bài ca dao:

    "Yêu em từ thuở trong nôi

    Em nằm em khóc anh ngồi anh ru"

    Người Việt Nam quý trọng tình nghĩa, xem nhẹ vật chất được thể hiện ở câu thơ: "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Câu thơ này gợi nhớ đến bài ca dao:

    "Cầm vàng mà lội qua sông

    Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng"

    Người Việt Nam quyết liệt trong căm thù và chiến đấu được thể hiện ở câu thơ: "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu", được tác giả lấy ý từ bài ca dao:

    "Thù ấy ắt hẳn đợi lâu

    Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh quàng"

    *Sơ kết: Đoạn thơ có sự đan dệt của những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, vô vàn phong tục tập quán một cách sáng tạo. Điều có ý nghĩa nhất là chất liệu này được nhà thơ tái sinh bằng cảm xúc mảnh liệt của người nghệ sĩ am hiểu và vô cùng yêu quý, trân trọng kho tang văn hóa, văn học do chính nhân dân tạo nên. Tất cả cảm xúc được thể hiện trong nguồn ánh sáng mới của tư tưởng: Quần chúng nhân dân làm nên lịch sử, văn hóa của đất nước.

    III. TỔNG KẾT:

    Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: Lịch sử, địa lí, văn hóa.. Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" bằng hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Các chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích.
     
    LieuDuong thích bài này.
  5. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    5. SÓNG - XUÂN QUỲNH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Xuân Quỳnh (1942 – 1988), quê ở Hà Tây. Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Các tác phẩm chính như: "Hoa dọc chiến hào", "Gió lào cát trắng", "Tự hát".. Năm 2001, Xuân Quỳnh được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác:

    "Sóng" được sáng tác năm 1967 trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình) và được in trong tập "Hoa dọc chiến hào" (1968)

    b. Chủ đề:

    Bài thơ cho thấy trái tim người phụ nữ đang yêu soi mình vào sóng để thấy lòng mình, nhờ sóng mang tâm trạng của mình đến với đại dương, cuộc đời và biển lớn tình yêu.

    c. Ý nghĩa nhan đề:

    - Nghĩa thực: Sóng là hiện tượng tự nhiên của biển cả.

    - Nghĩa liên tưởng: Sóng là hình ảnh ẩn dụ gợi ra nhiều liên tưởng: Sự phong phú trong tâm hồn người con gái đang yêu. Sóng là sự hóa thân của nhân vật "em". Nhân vật "em" soi mình vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng thể hiện tâm trạng yêu của mình.

    3. Cảm nhận khái quát:

    a. Nét đẹp của hình tượng sóng:

    Sóng là gương mặt, là nhịp thở, là mạch đập con tim của biển cả. Sóng hiền hòa dịu êm, nhưng cũng có lúc phong ba dữ dội. Sóng cứ vỗ vào bờ triền miên như nỗi nhớ tình yêu không bao giờ tắt. Xuân Quỳnh đã tìm thấy ở sóng một ý nghĩa ẩn dụ cho tình yêu mãnh liệt. Hay nói khác đi Xuân Quỳnh đã lấy sóng biển để biểu lộ sóng tình của người con gái đang yêu.

    b. Hình tượng sóng được lặp lại nhiều lần trong bài:

    Toàn bộ bài thơ, sóng được lặp đi lặp lại nhiều lần, với những vị trí khác nhau: Đầu, giữa, hay cuối câu, với mục đích tái hiện những vẻ đẹp khác nhau, những trạng thái khác nhau của sóng và những đối cực của nó: Dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, ngày xưa – ngày sau, dưới lòng sâu – trên mặt nước.. Sóng được soi chiếu ở nhiều góc độ làm cho nó mang vẻ đẹp phong phú, đa dạng, vừa thực lại vừa ảo. Cùng song song, tồn tại với hình tượng sóng là "em", hai hình tượng này soi rọi vào nhau trong biển lớn của tình yêu. Vì vậy, thật khó phân biệt đâu là trăn trở của sóng, đâu là nhịp đập trái tim của em.

    III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Đặc tính của sóng cũng là của người con gái đang yêu (Khổ 1 và khổ 2) :

    "Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ"

    Xuân Quỳnh đã khám phá ra hai mặt đối lập nhau của sóng và khéo léo liên kết những mặt đối lập ấy bằng hai từ "và", cùng bốn tính từ liên tiếp "dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ", làm cho câu thơ trở nên gợi hình. Sóng ngoài đại dương rất dữ dội, cuồng phong, nhưng khi hôn lên bờ cát trắng thì thật dịu êm. Sóng ngoài đại dương thật ồn ào, nhưng khi vỗ vào bờ thật lặng lẽ. Vậy sóng mang hai trạng thái trái ngược nhau: "Dữ dội – dịu êm", "ồn ào – lặng lẽ". Trạng thái đối lập của sóng cũng như muôn hình vạn trạng của thiên nhiên đất trời: Ngày – đêm, buồn – vui, sống – chết.. Từ đó, giúp ta liên tưởng đến quy luật của tình yêu, tình yêu là sự dung hòa của những sắc thái tình cảm, tưởng chừng như đối lập nhưng lại rất thống nhất (buồn mà vui, giận mà thương, xa mà gần). Tính khí của người con gái khi yêu cũng giống như sóng, như quy luật của tình yêu thôi. Nó mang nhiều trạng thái đối lập nhau. Vì vậy, theo nhà thơ, muốn hiểu được tình yêu của người thiếu nữ, người con trai cần phải vượt qua vẻ bên ngoài thất thường, nông nỗi của người con gái (vui đó rồi buồn đó) thì sẽ khám phá được cái dịu êm, lặng lẽ bí ẩn của người con gái.

    "Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể"

    Câu thơ mang hình ảnh nhân hóa "sông không hiểu nổi mình" cho nên "sóng tìm ra tận bể", như một lời khẳng định: Sóng ở sông không thể là sóng lớn, muốn biết sóng lớn như thế nào thì sóng phải ra biển. Cũng giống như người con gái, khi trái tim đã biết đập "những nhịp đập không bình thường", họ thường khát khao vượt qua cái giới hạn chật chội của gia đình để đi tìm "nữa kia" của đời mình. Hai tâm hồn tìm đến nhau, yêu nhau để hiểu nhau nhiều hơn và cũng là để hiểu mình hơn. Bởi vì, ta chỉ hiểu được giá trị đích thực của mình trong mắt người yêu ta. Đây là quan niệm mới của Xuân Quỳnh: Yêu là tự nhận thức và vươn tới cái cao cả là quy luật của tự nhiên và quy luật của cuộc sống. Xuân Quỳnh đã thể hiện khát vọng cháy bỏng của tình yêu nói chung và của người phụ nữ nói riêng.

    "Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ"

    Cụm từ đối lập chỉ thời gian vĩnh hằng "ngày xưa – ngày sau" được kết nối với từ "và" cùng từ khẳng định "vẫn thế", nhằm kết nối thời gian, kết nối lịch sử tồn tại của sóng, cũng là lịch sử tình yêu của loài người. Sóng mãi mãi trường tồn với thời gian, cũng như con người "nỗi khát vọng tình yêu" là nỗi khát vọng của tôi, của anh, của bạn, của cả thế giới loài người, ai cũng đều có khát vọng yêu và được yêu. Nhưng nỗi khát vọng ấy rõ nét nhất, mãnh liệt nhất là ở tuổi trẻ "bồi hồi trong ngực trẻ". Từ đó, ta hiểu rằng, tình yêu là điểm sáng để con người hang say sống, chiến đấu, lao động và học tập.

    *Sơ kết: Hình tượng "sóng" là một hình tượng ẩn dụ độc đáo, dùng để chỉ tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng được gợi ra từ âm điệu dạt dào, nhịp nhàng của bài thơ. Thể thơ năm chữ, với kết cấu trùng điệp và cách ngắt nhịp linh hoạt, đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng biển có lúc dạt dào, dữ dội, có lúc sâu lắng, dịu êm, đã diễn tả được những trạng thái tinh tế của tình yêu. Đoạn thơ thể hiện khát vọng tình yêu nồng nàn, mãnh liệt. Đồng thời, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.

    2. Nghĩ về sóng và cội nguồn của tình yêu đôi lứa (Khổ 3 và khổ 4) :

    a. Khát khao tự tìm hiểu, tự phân tích trong tình yêu (Khổ 3) :

    "Trước muôn trùng sóng bể

    Em nghĩ về anh, em

    Em nghĩ về biển lớn

    Từ nơi nào sóng lên?

    Với nghệ thuật điệp cấu trúc và điệp ngữ" em nghĩ về "và câu hỏi tu từ" Từ nơi nào sóng lên? ", nhằm thể hiện sự trăn trở của người con gái khi yêu. Từ chuyện của sóng, câu thơ chuyển tự nhiên sang chuyện tình yêu, từ chổ là đối tượng để cảm nhận, sóng giờ đây trở thành đối tượng để người con gái đang yêu giải bày suy tư. Dòng suy tư bắt đầu từ nỗi băn khoăn, trăn trở, khát khao tìm đến ngọn nguồn của tình yêu. Tâm trạng băn khoăn này từ ngàn xưa đã có trong ca dao:

    " Gió sao gió mát sau lưng

    Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này "

    Hay nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng thốt lên:

    " Đố ai định nghĩa được tình yêu

    Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

    Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

    Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu "

    " Sóng "và" em "tạm tách ra để soi chiếu vào nhau. Trong không gian bao la, trước muôn trùng sóng bể, nhân vật trữ tình" em "bâng khuâng nghĩ về anh, nghĩ về em và nghĩ về cuộc đời, về tình yêu." Em nghĩ "tức là em đã lo lắng, đã thao thức, đã trăn trở về tình yêu của mình.

    b. Tình yêu vốn hồn nhiên, nhưng đầy bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể nào hiểu hết, không thể nào cắt nghĩa đầy đủ (Khổ 4) :

    " Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu?

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau "

    Tâm trạng của người con gái đang yêu luôn suy tư về sự huyền diệu, bí ẩn của tình yêu nên" em "đã đặt ra nhiều câu hỏi và tự tìm câu trả lời. Xuân Quỳnh đã dựa vào quy luật của tự nhiên để truy tìm cội nguồn của tình yêu. Nhưng tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời không thể hiểu hết được. Điểm khởi đầu của sóng cũng giống như điểm khởi đầu bí ẩn của tình yêu. Câu thơ vang lên với chút bối rối, đắm say, với cả ngọt ngào và nũng nịu" Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau ". Lời thú nhận nhỏ nhẹ, thành thực ấy chứa đựng niềm hạnh phúc yêu và được yêu. Đó là cách cắt nghĩa tình yêu rất trực cảm, chân thành và đầy nữ tính của Xuân Quỳnh.

    *Sơ kết: Hình tượng" sóng "song hành với hình tượng" em "gợi sự liên tưởng phong phú, mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu tình yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Hai khổ thơ trên thể hiện tâm trạng người con gái khi yêu thường trăn trở đi tìm cội nguồn của tình yêu, nhưng không có lời giải đáp, vì tình yêu không tuân theo quy luật nào của lí trí.

    3. Nghĩ về sóng và nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin trong tình yêu (Khổ 5, khổ 6 và khổ 7) :

    Không tìm được ngọn nguồn, nguyên nhân của tình yêu," em "tìm về để vừa trăn trở, vừa say sưa với những cung bậc tình yêu muôn thuở. Đó là nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin trong tình yêu. Những khổ thơ tiếp theo đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế trong tình yêu của trái tim người con gái. Ở đó có sự đam mê, khao khát, nhưng đẹp nhất là sự dâng hiến, vẻ đẹp thánh thiện của người con gái đang yêu.

    a. Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách (Khổ 5) :

    " Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức "

    Tình yêu thường đồng hành với nỗi nhớ, yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát tan đất trời, nỗi nhớ là thước đo chiều sâu của tình yêu. Điều này từ xa xưa đã được thể hiện trong ca dao:

    " Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

    Như đứng đống lửa như ngồi đống than "

    Sóng luôn vận động như tình yêu, gắn liền với những khát khao, trăn trở không yên. Cũng như người con gái khi yêu luôn da diết nhớ nhung, nỗi nhớ trong tình yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt qua hình tượng con sóng nhớ bờ.

    Trong nhịp điệu của sóng ẩn chứa cả nỗi nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ bờ của sóng luôn thiết tha, khắc khoải. Dù ở" dưới lòng sâu "hay" trên mặt nước ", dù" ngày "hay" đêm ", sóng vẫn chỉ thương nhớ bờ. Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi không gian và thời gian. Phép đối và giọng thơ dào dạt, náo nức, mãnh liệt đã diễn tả một nỗi nhớ da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như sóng biển triền miên. Nhân vật trữ tình" em "nhờ con sóng nói hộ nỗi nhớ triền miên (ngày, đêm), nhớ da diết (không ngủ được), không chỉ thể hiện ở bề ngoài mà còn chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quắt, khắc khoải trong lòng. Nhưng sự hóa thân của sóng dường như chưa đủ để diễn tả nỗi nhớ da diết trong tình yêu, tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc:

    " Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức "

    Em nhớ anh như sóng nhớ bờ, nhưng chân thành hơn, sâu sắc hơn. Sóng nhớ bờ mãnh liệt, tha thiết, còn em nhớ anh say đắm hơn bội phần:" Sóng nhớ bờ "nên" không ngủ được ", còn" em nhớ anh "đến" trong mơ còn thức ". Câu thơ mới lạ diễn tả nỗi nhớ choáng ngợp cõi lòng, không chỉ trong ý thức, mà còn thấm sâu vào trong tiềm thức. Em nhớ anh đến" cả trong mơ còn thức "là cách diễn đạt độc đáo về nỗi nhớ bằng lối nói cường điệu, có vẻ phi lí, nhưng lại rất hợp lí với trái tim tràn ngập yêu thương. Các biện pháp điệp từ, điệp cú pháp đã góp phần tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt, da diết, cháy bỏng của người phụ nữ trong tình yêu. Qua đó, tác giả bày tỏ một tình yêu cuồng nhiệt không chỉ tồn tại ở dạng ý thức, mà đã ăn sâu vào tiềm thức.

    b. Tình yêu gắn liền với sự thủy chung, sắt son (Khổ 6) :

    " Dẫu xuôi về phương Bắc

    Dẫu ngược về phương Nam

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh – một phương "

    Điệp từ" dẫu "và cụm từ chỉ sự đối lập về không gian, địa điểm" xuôi – ngược "," phương Bắc – phương Nam "nhằm chỉ độ dài cách trở, sự thay đổi của cuộc đời. Nhưng đã yêu thì người con gái luôn thủy chung, bởi cây kim la bàn trong trái tim em luôn quay về" phương anh ". Vậy tình yêu sẽ chiến thắng tất cả sự trở ngại của đời thường nếu đó là một tình yêu chân thành và thủy chung.

    Khi yêu, em không chỉ nhớ anh mà còn" nghĩ về anh "và" hướng về anh ". Bởi sau nỗi nhớ là niềm tin và lòng thủy chung. Đó cũng là thuộc tính và bản chất của tình yêu. Bằng biện pháp điệp, kết hợp với hình ảnh đối lập, nhà thơ khẳng định sự chung thủy trong tình yêu: Mặc dù phải trải qua nhiều thử thách, em vẫn yêu thương, hướng về anh với sự thủy chung son sắt. Qua đó, ta thấy tình yêu của người con gái vừa tha thiết, mãnh liệt vừa trong sáng, thủy chung. Tình yêu chiếm cả trái tim, khối óc, là máu thịt, là lẽ sống, là mục đích, là nơi đến của cuộc đời.

    c. Tình yêu gắn liền với niềm tin, sự tin tưởng trong tình yêu là bến bờ hạnh phúc (Khổ 7) :

    " Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở "

    Cách nói" chẳng nào.. dù "nhằm khẳng định, sóng dù to hay nhỏ cũng sẽ đến bờ. Mượn hình ảnh thể hiện quy luật tất yếu của tự nhiên, Xuân Quỳnh thể hiện niềm tin của mình về một tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc trong tương lai. Sóng tới bờ dù cách trở, tình yêu là sức mạnh giúp em và anh vượt qua gian nan, thử thách của cuộc đời để đến bến bờ hạnh phúc. Xuân Quỳnh bộc lộ cái tôi của một con người luôn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu.

    *Sơ kết: Hình tượng" sóng "song hành cùng hình tượng" em "gợi sự liên tưởng phong phú, mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu của tình yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng, đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Đoạn thơ thể hiện sâu sắc nỗi nhớ, sự thủy chung và niềm tin tưởng trong tình yêu. Qua đó, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp tâm hồn vừa truyền thống, vừa hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu: Nồng nàn, dịu dàng, đắm say, cháy bỏng, chân thành, thủy chung.. Đây là đoạn thơ trung tâm, cũng là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ và tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh.

    4. Khát vọng về một tình yêu vĩnh hằng (Khổ 8 và khổ 9) :

    Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim nhạy cảm, nhà thơ cũng sớm nhận ra và thấm thía trước sự hữu hạn của kiếp người trước dòng chảy thời gian của quy luật tự nhiên.

    a. Ý thức về thời gian, đi liền với niềm lo âu và khao khát nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại (Khổ 8) :

    " Cuộc đời tuy dài thế

    Năm tháng vẫn đi qua

    Như biển kia dẫu rộng

    Mây vẫn bay về xa "

    Câu một, câu hai song hành đối xứng với câu ba, câu bốn làm cho giọng thơ tha thiết, ngọt ngào. Quan hệ chính phụ" tuy.. vẫn "," dẫu.. vẫn "làm cho ý thơ được khẳng định mạnh mẽ. Tác giả khẳng định, thời gian và tình yêu thì vĩnh hằng mà đời người tuy dài nhưng cũng có giới hạn" Cuộc đời tuy dài thế. Năm tháng vẫn đi qua ". Với trái tim nhạy cảm, Xuân Quỳnh hiểu rằng: Tình yêu dầu đẹp đến đâu, cũng không thoát khỏi quy luật của thời gian, nên hãy sống hết mình cho tình yêu để nó vĩnh hằng.

    Bốn câu thơ nói về một quy luật: Cuộc sống tuy dài, tuy rộng, nhưng thời gian không ngừng trôi, nên đời người hữu hạn và mỗi người phải ý thức được sự hữu hạn của mình. Thế nhưng tình yêu có thể vượt qua sự hữu hạn để đi đến sự vĩnh hằng.

    b. Khao khát được sống hết mình cho tình yêu (Khổ 9) :

    " Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ "

    Câu hỏi" làm sao "gợi lên một ước mơ cháy bỏng của người con gái khi yêu. Người con gái khi yêu muốn tan ra" thành trăm con sóng nhỏ "để hiến dâng cả cuộc đời cho một tình yêu đích thực" giữa biển lớn tình yêu ", để vĩnh hằng tình yêu của mình" ngàn năm còn vỗ ". Đối diện với cái vô biên, vĩnh hằng, em ao ước hóa thân thành sóng, giữa biển lớn tình yêu muôn đời. Đó là khát vọng tình yêu nồng nàn, mãnh liệt như ở bài thơ" Tự hát "Xuân Quỳnh viết:

    " Em trở về đúng nghĩa trái tim em

    Là máu thịt đời thường ai cũng có

    Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa

    Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi "

    Chính vì cuộc đời con người ngắn ngủi, trước sự vĩnh hằng của vũ trụ, nên Xuân Quỳnh khao khát được sẻ chia, hòa nhập vào cuộc đời. Đó là khao khát sống hết mình trong biển lớn tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở. Sóng là hiện tượng thiên nhiên vĩnh cửu, cũng như tình yêu là khát vọng muôn đời của con người. Nhân vật trữ tình" em' muốn hiến dâng cuộc đời cho một tình yêu đích thực.

    *Sơ kết: Hình tượng "sóng" là một ẩn dụ độc đáo, chỉ tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Hình tượng "sóng" song hành với hình tượng "em" gợi sự liên tưởng phong phú, mang đậm tính triết lí. Kết cấu trùng điệp vừa gợi nhịp điệu của sóng vừa gợi nhịp điệu tình yêu dạt dào. Lời thơ giản dị, tha thiết, dịu dàng, đầy nữ tính và giàu cảm xúc. Mượn hình ảnh sóng để nói và suy nghĩ về tình yêu, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh hằng thành tình yêu muôn thuở. Qua đó, tác giả thể hiện vẻ đẹp tâm hồn vừa truyền thống, vừa hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu, với khát vọng đầy tính nhân văn.

    III. TỔNG KẾT:

    Sóng được viết theo thể thơ năm chữ nhưng ngắt khổ không đều nhau, nhịp thơ đa dạng và linh hoạt, nhờ thế mà bài thơ có những nét hồn nhiên. Tuy vậy, giọng điệu chủ đạo của bài thơ là giọng điệu tha thiết, chân thành, có ít nhiều sự phấp phỏng, lo âu. Bài thơ là nhịp đập trái tim hồn hậu, giàu yêu thương, giàu khát vọng của Xuân Quỳnh. Sóng là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Việc sử dụng hình tượng sóng làm ẩn dụ không mới, nhưng những tâm sự về tình yêu, cùng cách khai thác sức chứa ẩn dụ này lại có những nét thực sự mới mẻ. Xuân Quỳnh quả thực đã tìm được một hình tượng thơ đẹp, để giải bày tình yêu dịu dàng, mãnh liệt, gần gũi, riêng tư, mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ. Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa "sóng" và "em". Bài thơ diễn tả tình yêu của người con gái thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
     
    LieuDuong thích bài này.
  6. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    6. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    A. GIỚI THIỆU:

    I. Tác giả:

    Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo: Tài hoa, uyên bác. Cái đẹp, cái thiên lương trong cuộc đời được ông nói đến với tâm hồn nghệ sĩ đích thực, bằng cái nhìn phát hiện đầy sáng tạo. Đặc biệt, Nguyễn Tuân có cách viết độc đáo và thành công với thể loại tùy bút.

    II. Tác phẩm:

    1. Hoàn cảnh sáng tác:

    "Người lái đò sông Đà" là một trong 15 bài tùy bút được in trong tập "Sông Đà" (1960), là kết quả của chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân về Tây Bắc 1958.

    2. Chủ đề:

    Tác giả ca ngợi nét hùng vĩ, uy nghiêm và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc và sông Đà. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên và con người lao động ở Tây Bắc của tác giả.

    3. Tóm tắt tác phẩm:

    Sông Đà bắt nguồn từ dãy núi Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua vùng Tây Bắc của nước ta. Dọc sông Đà có 73 thác nước hùng vĩ và hung bạo. Sông Đà gây nhiều nguy hiểm cho người đi dọc theo nó. Nhờ kinh nghiệm, trí thông minh và lòng dũng cảm, người lái đò vượt qua thác trận, thạch trận, thủy trận, sóng trận để đưa con đò về bến bờ bình yên. Tuy nhiên, sông Đà cũng có những đoạn rất thơ mộng, trữ tình nằm ở phần hạ nguồn con sông. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, sông Đà là con đường vận chuyển vũ khí và lương thực cho cách mạng. Sau hòa bình, thủy điện Sông Đà góp phần xây dựng Tổ quốc.

    B. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    I. Hình tượng con sông Đà:

    1. Nguồn gốc:

    Sông Đà có những tên gọi khác, tên nào cũng đẹp và thơ mộng như: Li Tiên, Đà Giang, Bả Biên Giang.. Sông Đà dài gần 900km lượn rồng rắn qua những vùng núi rừng bao la, rồi nó đổ vào địa phận Việt Nam. Sông Đà có độ dốc rất lớn gần 500m với 73 con thác lớn nhỏ. Đặc biệt, các con sông khác đều chảy hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc:

    "Chúng thủy giai đông tẩu

    Đà giang độc bắc lưu"

    Như vậy, Nguyễn Tuân nhìn con sông Đà và phát hiện ra nguồn gốc của nó trên phương diện địa lí.

    1. Tính cách con sông Đà:

    Với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà là nhân vật thực sự, bởi nó có tính cách rất phức tạp, lúc thì rất hung bạo, lúc thì rất trữ tình "Sông Đà lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy"

    a. Sông Đà hung bạo:

    *Sông Đà hung bạo ở những nơi có đá:

    Sông Đà hung bạo bởi vì hai bên bờ sông có đá, đá dựng thẳng đứng giống như "dựng thành vách" . Vì đá đã che khuất mặt trời, nên những đoạn sông ấy rất là tối, mặt trời chỉ làm bạn được với sông khi đứng bóng "Mặt sông chổ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời". Đá làm cho mặt sông vừa tối, vừa lạnh "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh" . Đá hai bên bờ sông còn rất ngang ngược, có đoạn đá lấn ra sông làm cho lòng sông đoạn ấy rất hẹp "Đá chẹt lòng sông Đà như cái yết hầu", hẹp đến nỗi đứng bên bờ này sông ném nhẹ hòn đá qua được bờ bên kia, có đoạn con nai, con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia một cách dễ dàng.

    Đá dưới lòng sông Đà hình như đã được mai phục từ hàng nghìn năm làm thành một thạch trận, thạch trận ấy dày đặc cửa tử, boong ke, pháo đài. Đặc biệt, đá dưới lòng sông Đà nó nằm ngồi rất tự do, không biết là do sở thích hay là do nhiệm vụ "Nó đứng, nó ngồi, nó nằm tùy theo sở thích". Đá có ngoại hình rất hung bạo "Mặt hòn đá cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhăn, méo mó", nó chỉ chờ con thuyền nào đi qua là lập tức "vồ lấy thuyền". Tác giả đã dùng nhiều giác quan, nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, so sánh.. cùng với trí tưởng tượng phong phú và kiến thức uyên bác để gợi ra sự hung bạo của sông Đà.

    *Nước sông Đà hung bạo:

    Nước sông Đà phát ra những âm thanh thật quái dị "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Nhiều đoạn dòng sông hẹp, nước bị xoáy lâu ngày tạo nên những cái hút nước, cái hút nước ấy "kêu ặc ặc như rót dầu sôi vào" . Đặc biệt cái hút nước sâu thăm thẳm như cái giếng bê tông sẵn sàng chờ con thuyền nào đi qua thì lôi xuống dưới rồi đánh cho tan tác. Có những thuyền bị cái hút nước nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi. Cái hút nước thật là khủng khiếp và dữ dội, muốn tránh cái hút nước người lái đò phải như người lái ô tô "sang số, nhấn ga" để vọt qua ổ gà vậy.

    *Thác nước sông Đà hung bạo:

    Thác từ trên cao đổ xuống làm thành những âm thanh ghê rợn để hù dọa con người "tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo" . Rồi đột ngột rống lên "như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa", như vậy là thác nước sông Đà gây ra những âm thanh rất lớn. Nguyễn Tuân rất độc đáo khi dùng lửa tả nước, dùng cách lái xe tả chèo đò, giúp người đọc tưởng tượng sự hung bạo của thác và nước. Ngoài ra, còn có sự phối hợp giữa gió, sóng và đá. Hình như từ ngàn năm nay, sóng và đá sông Đà, phối hợp với nhau ăn ý, làm nên một sức mạnh uy hiếp con đò "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió". Làm cho sóng sông Đà cuồn cuộn quanh năm, chỉ chờ khi nào người lái đò khinh suất, không cẩn thận, sơ ý "thì sóng bèn lật ngữa bụng thuyền ra"

    *Thạch trận sông Đà hung bạo:

    Sông Đà bày thạch trận rất bài bản, thác đá được xếp thành từng tuyến "đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng trên sông", "những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ". Nhà văn sử dụng nghệ thuật nhân hóa, lối nói ví von, gợi nhiều liên tưởng bất ngờ "những hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi, một hòn đá khác thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào". Dòng sông còn bày ra ba trùng vi thạch trận, với nhiều cửa tử, ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn giữ "nhổm cả dậy vồ lấy thuyền, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm", rồi chực "đòi ăn chết cái thuyền". Dòng sông khi xung trận cũng biết "dụ", biết "khiêu khích", nếu cần thì "giở mọi ngón đòn hiểm hóc", phối hợp với thác, với sóng để tiêu diệt con thuyền.

    *Sơ kết: Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là không thích sự bằng phẳng, nhợt nhạt. Bởi thế, khi khắc họa tính hung bạo của sông Đà, Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hóa, bằng những câu văn góc cạnh, giàu tính tạo hình, sử dụng nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng và thuật ngữ quân sự, kết hợp với nhiều động từ mạnh, để miêu tả đầy ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà. Qua đó, ta thấy được niềm tự hào của tác giả về sự hùng vĩ, giàu đẹp của Tổ quốc.

    b. Sông Đà trữ tình:

    Bên cạnh tính hung bạo, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà lại rất trữ tình, mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng, gợi bao cảm xúc làm say mê lòng người. Nguyễn Tuân miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều góc độ, nhìn từ trên cao xuống sông Đà như một "mỹ nhân", từ trong rừng ra sông Đà như một "cố nhân", khi ở trên sông Đà như một "tình nhân".

    *Sông Đà đẹp bởi hình dáng:

    Sông Đà từ trên cao nhìn xuống giống như mái tóc người phụ nữ kiều diễm "con sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân" . Khi tả về dáng con sông Đà, tác giả dùng những câu văn vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh cảm nhận để người đọc dễ dàng liên tưởng con sông Đà thật là mềm mại, uyển chuyển và duyên dáng.

    *Sông Đà đẹp bởi màu nước:

    Tác giả vì yêu con sông Đà nên đã mấy lần bay tạt ngang sông Đà để quan sát màu nước. Tác giả khẳng định nước sông Đà không hề có màu đen như thực dân Pháp vu khống cho nó. Ngược lại, nước sông Đà rất đẹp, nó thay đổi theo mùa: Mùa xuân nước màu xanh, mùa thu nước màu đỏ "mùa xuân màu xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" . Và cũng có lúc nó mang màu sắc "nắng tháng ba Đường thi" thật trươi tắn.

    *Hai bên bờ sông Đà rất đẹp:

    Lạc vào sông Đà, ta như lạc vào một thế giới huyền ảo, vì ở đấy nắng cứ giòn tan và chuồn chuồn, bươm bướm bay rợp trời, còn con thuyền thì lặng lẽ trôi như thương nhớ ai. Hai bên bờ sông Đà mang vẻ đẹp bình yên. Bình yên đến nỗi "một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm" . Hai bên bờ sông "hồn nhiên và hoang dại như thời tiền sử" . Sông Đà còn mang vẻ đẹp trù phú "những đàn cá dầm xanh quẩy vọt lên mặt sông". Không gian sông Đà là một sự yên ắng, tĩnh mịch đến nỗi con người ở đây, thèm được giật mình bởi một âm thanh nào đó. Để tả vẻ đẹp của con sông Đà, tác giả mượn lời thơ của Tản Đà:

    "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

    Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình"

    Tâm trạng của tác giả xúc động, ngây ngất, sống dậy những hoài niệm "hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi" .

    *Sơ kết: Từ cách nhìn nhiều chiều về sông Đà, Nguyễn Tuân đã tạo được một dấu ấn khó quên trong lòng người đọc về con sông. Qua đó, thể hiện một tình yêu thiên nhiên tha thiết, với những phát hiện tinh tế, độc đáo của tác giả. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà được xem như một công trình nghệ thuật tuyệt vời, một kì công của tạo hóa mang đến cho Tây Bắc, làm đẹp thêm bức tranh thiên nhiên của Tổ quốc.

    II. Hình tượng người lái đò sông Đà:

    Trong những trang văn của Nguyễn Tuân, hình ảnh người lái đò sông Đà, chính là đối tượng của cái đẹp, lấp lánh ánh sáng của người nghệ sĩ tài hoa. Bởi lẽ ở đây, lái đò là một nghệ thuật cao cường trên sông nước.

    1. Lai lịch:

    Ông lái đò 70 tuổi, quê ở Lai Châu, làm nghề chèo đò dọc sông Đà. Ông xuôi ngược sông Đà 100 lần, tay ông giữ lái 60 lần. Điều này thật khó tin, vì thế để tang tính thuyết phục Nguyễn Tuân khẳng định "ông lái đò Lai Châu là bạn tôi"

    2. Ngoại hình người lái đò:

    Ngoại hình người lái đò gắn liền với nghề nghiệp sông nước của ông "tay ông lêu nghêu như cái sào", chân ông lúc nào cũng khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, "giọng ông ào ào như nước trên mặt ghềnh". Đặc biệt, trên ngực ông có nhiều củ nâu, đó là vết tích của những ngày chiến đấu với sông Đà, mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là "huân chương lao động siêu hạng".

    3. Tính cách ông lái đò:

    Ông lái đò là người thích đương đầu với nguy hiểm, khó khăn, nên ông thích đi qua ghềnh thác. Ông bảo rằng "chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dại chân, dại tay dễ buồn ngủ".

    4. Ông lái đò là người có kinh nghiệm vượt sông Đà:

    Ông thuộc con sông Đà như người ta thuộc một thiên anh hùng ca "thuộc đến dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng". Đặc biệt, ông nắm chắc "binh pháp của thần sông, thần đá", ông cũng thuộc luôn "quy luậtcủa lũ đá nơi ải nước hiểm" . Ông biết rằng khi xuôi sông Đà thì đi vào chính giữa cái luồng nước, khi ngược sông Đà thì người đứng mũi phải đứng bằng sào và đầu con thuyền hướng ra sông.

    5. Ông lái đò chiến đấu với sông Đà:

    Tinh thần dũng cảm, sự dày dạn kinh nghiệm khi chiến đấu với con sông Đà của ông lái đò, mang cốt cách tài hoa, nghệ sĩ của một viên dũng tướng.

    a. Vượt trùng vi thạch trận thứ nhất:

    Trùng vi thạch trận thứ nhất gồm năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh nằm "lập lờ phía bên tả ngạn". Đá sông Đà làm thành ba hàng chặn ngang sông, mỗi hàng đều có hai tiền vệ làm nhiệm vụ dụ con thuyền vào. Khi thuyền đã lọt vào tuyến một, sóng nước đánh "quật vu hồi", thuyền vượt qua được thìlọt vào tuyến hai. Khi thuyền đã lọt vào tuyến hai, thì đá phối hợp với nước, với thác reo hò làm người lái đò mất bình tĩnh, thừa cơ hội ấy sông nước xô đến "bẽ gãy cán chèo", hòng tiêu diệt vũ khí duy nhất của người lái đò. Thấy không thành công sóng nước lại liều mạng "thúc gối vào bụng, vào hông thuyền" với mục đích để thuyền vỡ ra và chìm, khi không được chúng bèn dùng sóng nước "đội cả thuyền lên" giống như đô vật túm lấy thắt lung ông đò rồi lật ngữa ra. Không có tác dụng thì chúng đánh miếng đòn hiểm độc nhất "bóp chặt lấy hạ bộ ông lái đò". Trước tình hình ấy, ông lái đò cố nén vết thương dù "mặt ông thì méo bệch đi, mắt thì nổi đom đóm", ông vẫn bình tĩnh, hai chân kẹp chặt cuống lái, miệng thì rành rọt chỉ huy "sáu tay bơi chèo còn lại đi vào luồng sinh".

    b. Vượt trùng vi thạch trận thứ hai:

    Ở trùng vi thạch trận thứ hai, sông Đà bố trí thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, còn cửa sinh nằm ở bên bờ hữu ngạn. Vượt trùng vi thứ hai không một phút nghỉ tay, nghỉ mắt và phải đổi luôn chiến thuật. Ông lái đò quan niệm "cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ", có nghĩa đây là cuộc chiến một mất, một còn của người lái đò và sông Đà. Ông lái đò bình tĩnh "nắm chặt lấy cái bờm sóng", chọn đúng tim luồng, ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh. Khi tiến vào cửa sinh thì "bọn thủy quân liền xô ra, níu thuyền lại để lôi vào tập đoàn cửa tử" . Ông lái đò nhớ mặt bọn này "đứa thì ông rảo bơi chèo", "đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi để mở đường tiến", vượt qua trùng vi thạch trận thứ hai.

    c. Vượt trùng vi thạch trận thứ ba:

    Ở trùng vi thạch trận thứ ba này ít cửa hơn nhưng "bên trái, bên phải đều là luồng chết cả, cửa sinh duy nhất nằm giữa bãi đá hậu vệ". Ông lái đò cứ phóng thẳng thuyền lao qua thác nước nhanh và chính xác như "một mũi tên tre xuyên nhanh qua làn hơi nước", bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng của nước sông Đà và sóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã khắc họa được hình ảnh người lái đò bình tĩnh, chủ động xử lí những tình huống nguy hiểm của ba trùng vi bằng sự gan dạ, thông minh, động tác chính xác, nhanh nhẹn, điêu luyện, thành thục và tài hoa.

    6. Trong đời thường:

    Khi đối mặt với sông Đà ông lái đò dũng cảm, bình tĩnh, lạnh lùng. Nhưng khi trở lại với cuộc sống đời thường, Nguyễn Tuân miêu tả ông như một nghệ sĩ tài hoa. Trải qua cuộc vật lộn với thần sông, thần đá, mà vị thuyền trưởng ấy lại rất trầm tĩnh, ung dung. Đêm ấy trong hang đá, đốt lửa nấu ống cơm lam, ông lái đò chỉ bàn tán về "cá anh vũ, cá dầm xanh", về "những hầm cá nhiều như mìn bộc phá". Đối với ông chuyện vượt thác vừa rồi chẳng có gì hồi hộp, đáng nhớ.

    *Sơ kết: Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động Tây bắc, họ là những người dũng cảm, tài hoa, giàu ý chí nghị lực, đó là yếu tố làm nên chất "vàng mười" của người dân Tây Bắc nói riêng và người dân lao động nói chung.

    III. TỔNG KẾT:

    1. Nghệ thuật:

    Nguyễn Tuân luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp. Ông có cảm hứng đặc biệt đối với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. Tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Ngòi bút của Nguyễn Tuân tài hoa và uyên bác, giàu tri thức, thông hiểu nhiều lĩnh vực, tác phẩm của ông có tính chất khảo cứu, có giá trị thông tin lớn. Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu sức liên tưởng bất ngờ và độc đáo.

    2. Nội dung:

    "Người lái đò sông Đà" là một áng văn đẹp, được làm nên từ một tình yêu đất nước say đắm, thiết tha, của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là người lao động bình dị ở miền núi Tây Bắc. Qua việc khắc họa vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình, gắn với hình ảnh vừa kì vĩ, vừa giản dị của người lái đò, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu, sự say đắm trước thiên nhiên và con người lao động trên miền Tây Bắc của đất nước.
     
    LieuDuong thích bài này.
  7. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    7. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế, là nhà văn gắn bó máu thịt với mảnh đất miền Trung và quê hương xứ Huế. Là nhà văn chuyên về bút kí, bút kí của ông có sự kết hợp giữa trữ tình và chính luận, giữa trí tuệ và cảm xúc, cảm hứng lịch sử và chiều sâu văn hóa, khả năng liên tưởng, tưởng tượng và ngôn từ trong sáng, đẹp đẽ.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác:

    Bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" được viết tại Huế ngày 4 – 1 – 1981, in trong tập sách cùng tên. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường: Tri thức phong phú, cảm xúc sâu lắng, văn phong tao nhã. Bài bút kí gồm ba phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất.

    b. Chủ đề:

    Qua việc miêu tả và cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở nhiều góc độ, bài kí đã thể hiện tình yêu tha thiết, say đắm đối với thiên nhiên và con người xứ Huế của tác giả. Qua đó, bộc cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một cái tôi đầy tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tượng phong phú.

    c. Ý nghĩa nhan đề:

    Tác giả đặt nhan đề và kết thúc bài bút kí bằng câu hỏi: "Ai đã đặt tên cho dòng sông?", không chỉ nhằm mục đích lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông, mà còn gợi lên lòng biết ơn đối với những người khai phá miền đất này. Nhan đề mang ý nghĩa là một câu hỏi, mà nội dung bài kí là câu trả lời. Bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông, có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó – sông Hương. Nhan đề còn mang tính chất biểu cảm: Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương, gắn với vùng đất cố đô cổ kính, tươi đẹp. Đồng thời, thể hiện tình cảm ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, thái độ trân trọng, ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương và thành phố Huế thân yêu.

    d. Cảm nhận khái quát:

    Sông Hương là hình tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm và cũng là đối tượng trữ tình của bài kí. Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, vốn văn hóa phong phú và tình yêu tha thiết quê hương xứ Huế, tác giả đã viết nên những dòng kí tràn đầy cảm xúc về dòng sông Hương – Con sông chỉ chảy duy nhất qua một thành phố - thành phố Huế. Sông Hương được nhìn từ nhiều góc độ nên vẻ đẹp con sông được phát hiện bất ngờ và khá độc đáo.

    Trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông nhìn dòng sông Hương như một cô gái Huế. Cô gái Huế ấy khi trái tim chưa biết đập nhịp đập của tình yêu, thì tựa như cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại. Khi biết yêu rồi thì đó là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kính đáo, lẳng lơ mà rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt, phô trương.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Vẻ đẹp thiên nhiên (địa lí) của sông Hương:

    a. Sông Hương ở thượng nguồn:

    Sông Hương ở thượng nguồn gắn liền với núi rừng Trường Sơn hùng vĩ, nên dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường dòng sông như một cô gái đầy sức sống mãnh liệt, dòng sông được ví như "cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại". Đây là một liên tưởng độc đáo, bởi những cô gái Di – gan là những cô gái bộ tộc Bô – hê – miêng thích sống lang thang, tự do và yêu đời, yêu cuộc sống ca hát. Sông Hương được ví như cô gái Di – gan, tạo cho con sông một vẻ đẹp hoang dại và tình tứ. Cảnh sông ở đây được khắc họa bằng những câu văn dài và nhiều động từ mạnh, tạo nên cái dư vang của rừng già và cái mạnh mẽ của con sông: "Đó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua thác ghềnh, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn". Nhưng có những lúc dòng sông lại dịu dàng say đắm: "Dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Như vậy, để hiểu dòng sông, ta không chỉ "nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó", mà phải lên tận phía thượng nguồn, để thấy được hành trình gian truân mà nó vượt qua thì mới hiểu "tâm hồn sâu thẳm của nó".

    *Sơ kết: Bằng nghệ thuật nhân hóa, so sánh và sự liên tưởng độc đáo, vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn là một vẻ đẹp hoang dã, mạnh mẽ, đầy cá tính, có sức sống mãnh liệt. Nhưng cũng có lúc dịu dàng và say đắm.

    b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế:

    Ở vùng đồng bằng, tác giả nhận ra sông Hương có sự thay đổi về tính cách. Nếu ở rừng già Trường Sơn, sông Hương sống một cuộc sống tự do, phóng khoáng của một cô gái Di – gan đầy bản lĩnh, thì khi ra khỏi rừng già, sức mạnh bản năng ấy đã được chế ngự, để con sông mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ của một dòng sông chảy nặng phù sa"sông Hương trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở", nhưng "dòng sông hình như không muốn bộc lộ" công lao lớn ấy, đó là vẻ đẹp tính cách của sông Hương.

    Bằng cặp mắt quan sát tinh tế và lãng mạn, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương như một người con gái đa tình đang mãi miết đi tìm "một nửa kia của đời mình" . Trên hành trình đi tìm người tình mong đợi, sông Hương bộc lộ bao nhiêu là tâm trạng trong dòng chảy của mình. Có lúc sông Hương như một người con gái đẹp "nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại", có lúc bừng tỉnh "chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột", rồi "uốn mình theo những đường cong thật mềm", bất ngờ "vẽ một hình cung thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế", đây là câu văn giàu chất họa.

    Hành trình sông Hương đi qua, đó là những địa danh "ngã ba Tuần, điện hòn chén, bãi Nguyệt Biều..". Có những đoạn sông quanh co, khúc khuỷu như những gian truân trên hành trình đi tìm hạnh phúc, nhưng có lúc sông Hương lại trầm mặc trôi qua những cánh rừng thông u tịch, nơi có những lăng tẩm của vua chúa, tỏa niềm kiêu hãnh âm u. Đoạn này sông Hương chảy lặng lờ, như đang suy nghĩ về một quá khứ xa xôi của đất nước. Vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương kéo dài cho đến khi mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga. Vậy là bằng ngòi bút tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động từng bước đi của sông Hương, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến thú vị khác.

    *Sơ kết: Bằng kiến thức địa lí phong phú, năng lực quan sát tinh tế, nghệ thuật nhân hóa độc đáo, các động từ gợi hình, gợi cảm. Tác giả đã miêu tả sông Hương thật ấn tượng, sống động, toát lên vẻ đẹp lịch lãm, tài hoa trong văn phong của tác giả.

    c. Sông Hương trong lòng thành phố Huế:

    Trước khi đến với Huế, sông Hương còn dịu dàng khoác nhiều màu áo đẹp cho mình, đó chính là vẻ đẹp biến ảo, nhờ phản quang nhiều màu sắc của nền trời Tây Nam thành phố, làm cho nước sông Hương có nhiều màu: Sáng xanh, trưa vàng, chiều tím, mà người dân Huế gọi là dòng sông đa sắc.

    Sông Hương khi tìm được đúng hướng về với thành phố, dòng sông vui tươi hẳn lên, sông nhận ra Huế bởi chiếc cầu Tràng Tiền như Nguyễn Bính viết:

    "Cầu cong như chiếc lược ngà

    Sông dài mái tóc cung nga buông bờ"

    Hoàng Phủ Ngọc Tường độc đáo hơn, khi vẽ chiếc cầu Tràng Tiền vắt ngang sông Hương, như một tín hiệu để sông Hương nhận ra mình đã đến với Huế "chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn những vầng trăng non".

    Sông Hương trong lòng thành phố Huế "dòng sông mềm mại hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu". Nhà văn phải trôi theo dòng liên tưởng để tìm lời giải cho tiếng vâng không nói ra của tình yêu, bằng cách bắt cho được nhịp đập riêng của trái tim sông Hương. Giữa lòng thành phố Huế, sông Hương lặng lờ chảy, như tận hưởng cho hết thời gian của tình yêu, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường phải chọn cho mình sự tiếp cận âm nhạc để diễn tả, để tưởng tượng đó là "điệu slow", trong tiếng Anh "slow" có nghĩa là chậm, vậy là sông Hương đã chọn cho mình một giai điệu trữ tình, chậm rãi dành riêng cho Huế yêu.

    Nhà văn đặt sông Hương bên cạnh sông Nê – va của thành phố Lêningrat, để chúng ta thêm yêu quý "vẻ ngập ngừng vương vấn của sông Hương". Nếu như nhiều dòng sông khác trên thế giới, vội vã qua phố thị để mau chóng về với biển cả, thì sông Hương lại không muốn giã từ Huế nên sông Hương chảy thật chậm "sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh". Phải chăng vì quá yêu thành phố, yêu Huế nên sông Hương muốn ngắm nhìn nhiều hơn nữa Huế yêu của mình, trước khi phải rời xa nó?

    *Sơ kết: Bằng ngôn ngữ uyển chuyển đầy chất thơ và nhạc, tác giả đã thể hiện cuộc gặp gỡ của sông Hương và Huế như một cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương và Huế hòa vào làm một, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ trầm tư sâu lắng của sông Hương. Sông Hương như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Tác giả vẻ nên vẻ đẹp của sông Hương ở nhiều góc độ: Địa lí, hội họa, âm nhạc và tình yêu say đắm.

    d. Sông Hương từ biệt Huế để về với biển:

    Trước khi từ biệt Huế, sông Hương chếch về hướng chính Bắc. Tuy nhiên do đặc điểm địa lí ở nước ta (hầu hết các con sông đều chảy về hướng Đông để đổ ra biển), vì vậy nó phải chuyển dòng sang hướng Đông và "gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh cổ xưa". Nhưng trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lưu luyến không muốn rời xa Huế nên quay lại thị trấn Bao Vinh như ôm Huế lần cuối. Sông Hương "như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói" khi từ giã Huế, tựa như nàng Kiều muốn trở lại gặp Kim Trọng "để nói một lời thề trước khi về biển cả".

    *Sơ kết: Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, năng lực quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú và đặc biệt là tình yêu Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn vào dòng sông Hương làm cho nó có sự quyến luyến, không muốn rời Huế, trước lúc đổ ra cửa biển Thuận An.

    2. Vẻ đẹp văn hóa của sông Hương:

    a. Sông Hương là dòng sông của âm nhạc:

    "Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Đó là một vẻ đẹp dịu dàng, thanh thoát, uyển chuyển, đầy quyến rũ. Tác giả khẳng định: Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương. Phải đến với Huế, vào một đêm khuya trên dòng sông Hương, lắng nghe tiếng nước vỗ mạn thuyền, tiếng mái chèo khua "tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khua", thì mới hiểu được âm nhạc cổ điển Huế. Phải thưởng thức nhạc Huế trên sông Hương thì mới thấy hết giá trị của nó. Tác giả đã cảm nhận sông Hương bằng nét văn hóa của Huế.

    b. Sông Hương là dòng sông của thi ca:

    Nếu nhìn ở phương diện thi ca thì sông Hương là "dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ". Trong thơ Tản Đà, sông Hương là "dòng sông trắng lá cây xanh". Trong thơ Cao Bá Quát, sông Hương có vẻ đẹp hùng tráng. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, sông Hương đẹp với bóng chiều hoài cổ. Trong thơ Tố Hữu, "sông Hương quả thật là Kiều". Lời nhận xét của Tố Hữu có nhiều nghĩa: "Kiều" chỉ những người con gái làm nghề ca kĩ trên sông Hương (tiếng hát sông Hương). Mặt khác "Kiều" cũng là vẻ yêu kiều của một dòng sông hội đủ vẻ đẹp của thi, ca, nhạc, họa. Sau này nhà thơ Thu Bồn cũng viết về sông Hương rất hay:

    "Con sông dùng dằng, con sông không chảy

    Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"

    Có thể nói, sông Hương đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Với mỗi nhà thơ sông Hương là một khám phá, một tuyệt tác riêng.

    3. Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương:

    Thời các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước. Trong sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi, sông Hương mang tên Linh Giang, nghĩa là dòng sông linh thiêng, có sứ mệnh bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt. Ở thế kỉ mười tám, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, của người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ mười chín và hai mươi, sông Hương sống những giây phút hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Với lịch sử, sông Hương là một chứng nhân, điều đó đã khiến thành phố Huế mang sức hấp dẫn về văn hóa và du lịch.

    4. Sông Hương với vẻ đẹp đời thường:

    Sông Hương tri ân xứ sở, cưu mang nó bằng cách tặng cho những ngôi làng ven sông dòng nước trong mát và phù sa màu mỡ. Con người cũng tặng sông Hương một huyền thoại "vì yêu quý con sông, con người hai bên bờ sông đã nấu nước trăm loài hoa, đổ xuống sông để làm cho nước thơm tho mãi". Vẻ đẹp sông Hương còn in dấu trong sắc áo điều lục của cô dâu Huế ngày xưa "đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương". Vẻ đẹp của con sông Hương cũng chính là vẻ đẹp của Huế, của con người xứ Huế.

    III. TỔNG KẾT:

    Bài kí thể hiện chất trí tuệ, tình yêu, trí tưởng tượng tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đậm chất sử thi, giàu cảm hứng trữ tình lãng mạn. Dùng nhiều biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ.. Ngôn ngữ giàu hình ảnh nên người đọc dễ dàng liên tưởng. Tùy bút được xây dựng bằng nhiều kiến thức: Địa lí, lịch sử, văn hóa.. Đoạn trích bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Qua đoạn trích, người đọc cảm nhận được tình yêu và niềm tự hào của tác giả về quê hương xứ sở.
     
    LieuDuong thích bài này.
  8. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    8. VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, quê ở Hà Tây trong gia đình thợ thủ công. Tuổi thơ và thời trai trẻ phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề. Trong kháng chiến, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí, O chuột, nhà nghèo..

    2. Hoàn cảnh sáng tác:

    Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, nhân chuyến Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi dài tám tháng, giúp Tô Hoài hiểu sâu hơn về cuộc sống và con người miền núi. "Vợ chồng A Phủ" in trong tập "truyện Tây Bắc" (1953), được tặng giải nhất của hội văn nghệ Việt Nam (1954 – 1955). Tập "truyện Tây Bắc" gồm ba truyện ngắn: Cứu đất cứu mường, mường Giơn và vợ chồng A Phủ. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" gồm hai phần: Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, vợ chồng A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích sách giáo khoa thuộc phần Mị và A phủ ở Hồng Ngài.

    3. Chủ đề:

    Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" cho thấy cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự vùng lên giải phóng, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chúa đất và thực dân.

    4. Tóm tắt văn bản:

    Mị là một cô gái Mèo, vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lí nên bị bắt về làm dâu trừ nợ, làm vợ cho A Sử. Cuộc sống làm dâu, làm vợ vô cùng khổ, Mị muốn chết. Nhưng vì thương cha già không đủ sức làm nương trả nợ, Mị đành chấp nhận cuộc sống hiện tại và lâu dần trở thành con người vô cảm. Mùa xuân đến Mị muốn đi chơi, A Sử không cho, trói Mị Lại. A Phủ là một thanh niên nghèo, mồ côi, lao động giỏi, vì đánh A Sử, con quan, nên bị thống lí phạt vạ. A Phủ không có tiền nộp phạt nên phải ở đợ cho nhà thống lí. Vì hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị cha con thống lí trói đứng cho đến chết. Mị đồng cảm cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng trốn đến Phiềng Sa chung sống và giác ngộ cách mạng.

    5. Dàn ý chi tiết về nhân vật Mị:

    5.1. Cuộc đời làm dâu khổ đau, tủi nhục

    a. Trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

    - Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. (Mị có tài thổi sáo, nhiều trai làng theo đuổi).

    - Mị đã có người yêu, không muốn về làm dâu nhà thống lí để trừ nợ.

    - Mị quyết tâm trả nợ bằng sức lao động của mình.

    → Mị khát khao được sống tự do, hạnh phúc; cô muốn làm chủ cuộc đời mình.

    b. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí:

    - Mị làm con dâu nhưng thực chất là con nợ. Để trả món nợ truyền kiếp, Mị bị trói chặt cuộc đời mình vào kiếp sống nô lệ.

    - Mị sống trong khổ đau, vật vả âm thầm "đêm nào Mị cũng khóc". Mị muốn ăn lá ngón để giải thoát mình. Nhưng vì thương cha Mị không thể chết. Mị đành nén nỗi đau riêng mà chấp nhận kiếp sống đọa đày.

    → Vì chữ hiếu, Mị đã hi sinh tự do, hạnh phúc. Từ đó, Mị rơi vào hoàn cảnh bế tắt, không lối thoát.

    c. Kiếp sống đọa đày:

    * Đọa đày về thể xác:

    - Mị phải làm lụng quanh năm suốt tháng không được ngơi nghỉ. Thân phận Mị còn thua cả con trâu, con ngựa.

    - Mị bị chồng đối xử tàn nhẫn. A sử đánh Mị vô tội vạ: Trói đứng, đạp vào mặt, tự dưng đánh ngã xuống cửa bếp.

    * Đọa đày về tinh thần:

    - Mị sống cam chịu, nhẫn nhục: Lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, tưởng mình là con trâu, con ngựa "chỉ biết ăn cỏ, đi làm mà thôi".

    - Mị sống cô độc, âm thầm: Mỗi ngày càng không nói "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa".

    - Mị không còn ý niệm về thời gian và thế giới xung quanh. Mị là một tội nhân bị giam cầm ở chốn ngục tù "Ở cái buồng Mị nằm kín mít, có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay.. trông ta chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng".

    - Mị mất hết niềm tin vào cuộc sống, không ý thức về tương lai, hoàn toàn tuyệt vọng "Cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy đến bao giờ chết thì thôi."

    → Mị tồn tại với trạng thái gần như đã chết. Sức sống của Mị gần như bị tê liệt. Mị trở nên vô cảm với mọi thứ quanh mình.

    => Nhà văn đã cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của Mị. Đồng thời tố cáo tội ác của bọn thống trị tàn bạo chà đạp quyền sống của con người.

    5.2. Sức sống tiềm tàng

    a. Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao:

    - Mùa đông năm ấy "gió và rét dữ dội". Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: "Trẻ con đi hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi..". Như một niềm mong đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi.

    - Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi chơi.

    → Vẻ đẹp gợi cảm của không khí ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng, tự do của người Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo.

    b. Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu:

    - Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng "thiết tha, bổi hổi". Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao xuyến của hiện tại.

    - Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:

    "Mày có con trai con gái rồi

    Mày đi làm nương

    Ta không có con trai con gái

    Ta đi tìm người yêu".

    + Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.

    - Mị lén lấy hũ rượu "cứ uống ực từng bát". Cách uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể nuốt những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời sắp tới.

    - Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị "uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo". Mị sống lại những kí ức đẹp thời thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người mê, đi theo Mị.

    - Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh "Mị thấy phơi phới trở lại", trong lòng đột nhiên vui sướng. Mị ý thức mình còn rất trẻ. Mị muốn được đi chơi. Chính tiếng sáo đã làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.

    - Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời nào cho Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của một tâm hồn đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được sống.

    - Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do, hạnh phúc. Mị thắp đèn cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để đi chơi. Khát vọng tự do trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau.

    - Bị A Sử trói nghiến vào cột nhà, Mị không phản ứng vì lúc này tâm hồn Mị vẫn miên man theo tiếng sáo. Nỗi đam mê cuộc sống trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị không còn cảm giác thể xác đau đớn.

    - Mị không còn nghe tiếng sáo nữa. Mị thổn thức khóc cho thân phận "mình không bằng con ngựa". Mị nhớ về câu chuyện một người vợ bị chồng trói đến chết. Mị sợ chết. Sợ chết có nghĩa là không muốn chết. Mị vẫn rất ham sống và muốn sống.

    → Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, tự do, hạnh phúc. Tiếng sáo gợi kỉ niệm quá khứ, đánh thức sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị.

    => Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản giữa hoàn cảnh tù túng, khắc nghiệt với lòng người tha thiết cuộc sống tự do để khẳng định: Sức sống của con người rất kì diệu. Dù bị đè nén, vùi dập tới đâu cũng không thể hủy diệt.

    5.3. Sự phản kháng mạnh mẽ, táo bạo

    - Khát vọng sống trở thành ngọn lửa âm ỉ trong lòng Mị. Khi có cơ hội, ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy, trở thành một sự phản kháng mãnh liệt không ai có thể ngờ tới.

    - Những đêm mùa đông trên núi cao, Mị thường dậy sớm trong nỗi cô đơn hiu quạnh một mình lặng lẽ. Thấy A Phủ bị trói, lúc đầu Mị thản nhiên "nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi". Nhưng đến lúc bất chợt nhìn thấy dòng nước mắt đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ thì tâm hồn Mị hồi sinh một tình người sâu sắc:

    + Mị thấy đồng cảm với A Phủ, "Mị nhớ lại đêm năm trước A Sử cũng trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia". Mị và A Phủ là những phận người đồng cảnh ngộ, vừa nghèo khổ vừa bị bọn thống trị đày đọa tàn nhẫn.

    + Trong phút chốc Mị nhớ lại những ngày tháng tủi nhục trước đây. Mị sống và làm việc như một con vật, bị bắt trói đứng suốt đêm. Mị nhớ đến người đàn bà bị chồng trói đến chết. Trong Mị bừng lên sự căm phẫn tột cùng "Chúng nó thật độc ác".

    + Mị lo lắng, cảm thương cho tình cảnh hiểm nghèo của A Phủ "Chỉ đêm mai là người kia chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết". Một cái chết thê thảm sẽ đến với A Phủ.

    + Mị thấy thật bất công, vô lí nếu A Phủ phải chết "người kia việc gì phải chết thế". Mị nhận ra nếu phải chết thì đó là một cái chết đầy oan ức cho A Phủ.

    + Mị nghĩ rằng nếu giải thoát cho A Phủ thì Mị sẽ là người thay thế nhưng "làm sao Mị cũng không thấy sợ". Sức mạnh của tình người thôi thúc Mị, khiến Mị chiến thắng sự sợ hãi.

    + Mị quyết tâm cởi trói cho A Phủ, Mị đem hết nghị lực để thực hiện hành động táo bạo ấy. Dù trong lòng rất hồi hộp, lo lắng đến "nghẹn lại" nhưng cách Mị cắt, gỡ dây trói thì rất dứt khoát. Sự dũng cảm, lòng thương người đã giúp Mị giải thoát cho A Phủ.

    + Mị đứng lặng trong bóng tối. Đó chính là giây phút Mị suy nghĩ về bản thân và lựa chọn. Mị đang đứng ở ranh giới ở lại thì chết mà chạy đi có thể được sống. Một khoảnh khắc định mệnh và Mị phải sáng suốt quyết định.

    + Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Một sự lựa chọn sáng suốt. Chỉ có giải thoát mới mong thay đổi được số phận, mới được sống đúng nghĩa. Hàng loạt động từ: "Vụt chạy, băng đi, đuổi kịp, lăn.." cho thấy Mị đã dồn hết sức mạnh cố thoát khỏi cõi chết để tìm đến sự sống. Mị và A Phủ "đỡ nhau lao chạy" trong niềm thôi thúc mãnh liệt của lòng khao khát được sống tự do.

    → Đây là kết quả tất yếu của một quá trình Mị bị dồn nén, chà đạp. Sức sống tiềm tàng đã thúc đẩy Mị phản kháng và tự giải thoát mình.

    => Mị, tiêu biểu cho người phụ nữ lao động người Mông nghèo khổ, bị vùi dập trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng vẫn tỏa sáng một tâm hồn đẹp: Khát khao tự do, hạnh phúc, dũng cảm vùng lên giải thoát số phận nghiệt ngã.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Nhân vật Mị:

    a. Cách giới thiệu nhân vật độc đáo:

    Mở đầu tác phẩm, tác giả buộc người đọc phải chú ý hình ảnh: "Người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa""lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, buồn rười rượi", gợi sự tò mò cho người đọc vì là con dâu một gia đình quyền thế, giàu có thì tại sao lại nhẫn nhục, buồn bã vậy, tại sao lại đơn côi, âm thầm như hòa lẫn vào các vật vô tri vô giác vậy? Đây là thủ pháp tạo tình huống có vấn đề để lôi cuốn người đọc khám phá những bí ẩn của số phận nhân vật.

    b. Mị thời con gái (Mị trong quá khứ) :

    Mị sinh ra và lớn lên trong nghèo khổ, nhưng rất hạnh phúc với cuộc sống tự do. Thời con gái Mị đẹp như một bông hoa rừng Hồng Ngài. Có rất nhiều chàng trai theo đuổi: "Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị".

    Mị rất yêu lao động, yêu tự do và đặc biệt là ghét bọn nhà giàu. Vì vậy khi thống lí đến nói với bố Mị về làm dâu trả nợ (Món nợ mà cha mẹ Mị mượn không trả nỗi vì lãi quá cao). Mị nói với bố: "Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu".

    Mị có tài thổi sáo, tiếng sáo của một tâm hồn nhạy cảm, yêu tự do, yêu núi rừng Hồng Ngài "Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo" . Mị đã có người yêu.

    Với những phẩm chất tốt đẹp trên, Mị xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc đời thường. Nhưng người con gái miền sơn cước ấy phải sống những tháng ngày đọa đày trong đau khổ, tủi nhục bởi chế độ vay nặng lãi đã bóc lột những người nghèo như gia đình Mị một cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc giai đoạn trước cách mạng tháng tám.

    c. Mị trong hiện tại (Sau khi làm dâu thống lí) :

    * Nguyên nhân Mị rơi vào nhà thống lí:

    Mị bị cha con thống lí bắt cóc theo tục cướp vợ của người Mèo. Vào đêm tình mùa xuân, Mị hồi hộp chờ người yêu đến đón ra rừng chơi, khi thấy ngón tay lách vào khe gỗ, Mị cẩn thận kiểm tra ngón tay đeo nhẫn của người yêu và giở tấm vách gỗ bước ra thì bỗng "mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi". Mị buộc phải làm dâu để trừ nợ, vì sau khi bắt cóc được Mị rồi, A Sử đến nhà nói với bố Mị: "Tiền bạc để cưới thì bố tôi đã đưa cả cho bố rồi". Mị bị cha con thống lí dùng thần quyền để trói buộc cả cuộc đời bằng cách cúng trình ma.

    *Phản ứng đầu tiên của Mị (Sức sống tiềm tang trỗi dậy lần thứ nhất) :

    Phản ứng đầu tiên của Mị khi về làm dâu nhà thống lí là Mị khóc: "Có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc". Mị khóc vì tình yêu tan vỡ, vì ghét bọn nhà giàu mà vẫn phải sống chung với chúng, khóc vì thân phận tủi nhục, phải làm dâu trừ nợ, phải làm một tên nô lệ không công. Mị quyết định tự tử để tìm được tự do ở thế giới bên kia. Mị về chào cha với nắm lá ngón trên tay, nhưng vì thương cha già, không đủ sức làm nương ngô trả nợ, Mị đành quay về nhà thống lí.

    *Những tháng ngày làm dâu:

    Cha con thống lí biến Mị thành một tên nô lệ không công: "Con ngựa, con trâu làm còn có lúc đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày". Cha con thống lí biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tràn đầy sức sống, yêu tự do thành một cái xác không hồn: "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa". Mị không suy nghĩ, không nói và không có khái niệm về thời gian và không gian, bởi cái buồng của Mị giống như nhà tù: "Cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng gỗ vuông bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay nắng". Mị giống như một tù nhân bị giam cầm trong một căn buồng mờ tối. Mị nghĩ mình cứ ngồi trong ấy mà trông ra cho đến bao giờ chết thì thôi.

    Tóm lại, cha con thống lí (đại diện cho bọn thống trị phong kiến), đã biến người lao động miền núi thành những nô lệ không công, cái xác không hồn. Mặt khác tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân, chúa đất, cảm thông sâu sắc với người lao động nghèo. Đó cũng chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    *Sức sống tiềm tàng, lòng khát khao tự do, hạnh phúc trỗi dậy lần thứ hai:

    Nguyên nhân sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy lần thứ hai là: "Mùa đông năm ấy gió và rét dữ dội", nhưng mùa xuân cứ đến. Người Mèo dù nghèo khổ đến đâu cũng đi chơi xuân. Đã lâu rồi, mắt Mị mới nhìn thấy "những chiếc váy hoa sặc sỡ đem phơi trên mõm đá xòe như con bướm sặc sỡ", trai gái rủ nhau ra sân, chơi ném pao, thổi sáo, thổi kèn. Mị chợt nhớ đến mùa xuân năm nào của thời con gái. Tai Mị thì nghe tiếng sáo từ rất xa (lấp ló ngoài đầu núi) vọng lại, lòng Mị bổi hổi, bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm theo lời bài hát của người đang thổi:

    "Mày có con trai con gái rồi

    Mày đi làm nương

    Ta không có con trai con gái

    Ta đi tìm người yêu"

    Sáo vốn là một phần tâm hồn của Mị, thấm vào da thịt Mị, lay động tâm hồn câm lặng bấy lâu, Mị nhớ lại thời con gái. Buồn quá, Mị uống rượu "cứ uống ừng ực từng bát" như nuốt cái cay đắng của đời mình. Rượu đã làm Mị lãng quên thực tại (Mị nhìn mọi người nhảy đồng, hát mà lại không nghe, không thấy gì, thậm chí tiệc rượu tàn lúc nào cũng không biết). Mị say, nhưng tai Mị vẫn nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại như những đêm trước thời con gái. Mị suy nghĩ: "A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau". Mị quyết định nếu phải sống với A Sử thì Mị sẽ ăn lá ngón chết, nhưng Mị lại không có lá ngón trong tay. Còn sống thì phải sống tự do, mà biểu hiện đầu tiên của tự do là đi chơi xuân, vì "Mị còn trẻ, Mị còn trẻ lắm" và từ ngày lấy A Sử, không có năm nào A Sử cho Mị đi chơi xuân.

    Mị đi chơi xuân: Mị từ từ vào buồng, thắp sáng đèn lên như thắp sáng tình yêu, thắp sáng cuộc sống tự do và hạnh phúc của mình. Đối với Mị đi chơi xuân bây giờ chính là hành động nỗi loạn để chấm dứt kiếp sống tù nhân, giành lại quyền được sống tự do như một con người, càng nghĩ Mị càng trở nên mạnh mẽ, quyết liệt, Mị vấn lại tóc, sửa soạn váy áo. Đúng lúc đó thì A Sử xuất hiện, A Sử ngạc nhiên hỏi: "Mày muốn đi chơi à?". Bình thường, Mị rất sợ A Sử, nhưng hôm nay A Sử hỏi Mị vẫn thản nhiên rút thêm một cái váy hoa. A Sử im lặng rồi dùng thắt lưng, một thúng dây đay và cả tóc Mị để trói Mị lại. Độc ác hơn là ở buồng riêng của hai vợ chồng, vì không muốn ai cứu Mị, buộc Mị phải chết, nên hắn tắt đèn, sập cửa buồng lại rồi đi chơi. Cha con thống lí có thể trói Mị về mặt thể xác, nhưng không thể trói Mị về mặt tinh thần: "Hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo", theo cuộc chơi, có lúc vui quá Mị vùng bước đi nhưng không được vì đang bị trói. Đau khổ, thổn thức, Mị khóc.

    *Sức sống tiềm tàng trỗi dậy lần thứ ba (Mị cứu A Phủ) :

    Nguyên nhân: Sau đêm bị A Sử trói, Mị lại rơi vào cuộc sống âm thầm, lặng lẽ, đau đớn như trước. Nhưng lòng khát khao tự do lại trỗi dậy khi Mị nhìn thấy A Phủ bị cha con thống lí đánh đập rất dã man, vì tội đánh A Sử - con quan, cho dù con quan có làm điều bạo ngược. Mị lại nhìn thấy A Phủ bị trói đứng cho đến chết vì tội để hổ bắt mất một con bò của nhà thống lí.

    Mị cứu A Phủ: "Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn", Mị không ngủ được vì cái lạnh buốt giá của mùa đông, hay cái lạnh cô đơn trong lòng Mị, Mị thường trở dậy làm bạn với lửa "Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay", dù cho có bị A Sử đánh ngã ngay xuống bếp, thì Mị vẫn lặng lẽ như cái bóng, đêm sau lại thổi lửa hơ tay, vì vậy khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên "nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi", vì cảnh đánh và trói người ở nhà thống lí là chuyện bình thường.

    Đêm nay, Mị lại dậy thổi lửa, hơ tay, ngọn lửa – người bạn duy nhất của Mị bỗng bùng sáng lên để Mị nhìn thấy A Phủ khóc "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Dòng nước mắt uất hận của A Phủ - Một con người dũng cảm, yêu cuộc sống tự do và ghét bọn nhà giàu cậy quyền thế làm điều bạo ngược, thế mà giờ đây lại bất lực trước sự tàn bạo của cha con thống lí. Giọt nước mắt của A Phủ đã tác động vào trái tim Mị, phải chăng đây là giọt nước mắt cuối cùng của A Phủ trước khi chết đã đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ? Mị nhớ đến ngày nào mình cũng bị A Sử trói, mình cũng khóc "nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được". Mị bắt đầu biết thương mình và thương cho người đồng cảnh ngộ bị cha con thống lí đày đọa "trời ơi nó bắt trói đứng người ta cho đến chết". Mị kết luận "cơ chừng đêm mai là người kia chết", chết vì đói, vì rét và đau đớn.

    Mị thấy cha con thống lí "chúng nó thật độc ác", Mị nhận ra sự vô lí "ta là thân đàn bà, nó bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết ngày rũ xương ở đây thôi", nhưng "người kia việc gì phải chết". Nỗi bất bình ấy, khiến Mị không hề cảm thấy sợ, kể cả khi phải chết thay cho A Phủ. Rồi Mị tưởng tượng, lúc nào đó A Phủ trốn được, Mị sẽ bị cha con thống lí buộc tội và Mị bị trói vào cái cột kia "Mị cũng không thấy sợ". Lòng thương người và căm ghét bọn thống trị đã trao sức mạnh cho Mị cầm dao, cắt dây, cởi trói cho A Phủ.

    A Phủ đi rồi, "Mị đứng lặng trong bóng tối" và bản năng muốn sống, Mị chạy theo A Phủ. Khi đuổi kịp A Phủ, Mị nói: "A Phủ cho tôi đi, ở đây thì chết mất". Mị đâu có sợ chết, Mị đã từng tìm đến cái chết, vậy câu nói đó hàm nghĩa Mị không muốn tiếp tục cuộc sống như kiếp trâu ngựa.

    Tóm lại, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu chuyển thành hành động, đấu tranh chống lại cường quyền và thần quyền để đòi cuộc sống tự do.

    2. Nhân vật A Phủ:

    a. A Phủ với số phận đặc biệt

    - A Phủ thoát khỏi trận dịch đậu mùa, mồ côi cha mẹ, sống một mình không người thân thích. Từ bé, A Phủ đã gan bướng trốn lên vùng núi cao để sống cuộc đời tự do.

    → A Phủ là một mầm sống khỏe, vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của tự nhiên, bướng bỉnh gan lì với mọi thử thách với cuộc đời.

    - Lớn lên, A Phủ trở thành chàng trai Mông khỏa mạnh, tháo vát "chạy nhanh như ngựa", nhiều cô gái trong làng mơ ước được lấy A Phủ làm chồng.

    → Dù nghèo khó, cơ cực nhưng A Phủ thản nhiên đối mặt với cuộc sống, trưởng thành khỏe khoắn, tốt đẹp.

    - A Phủ rất nghèo, "không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc", A Phủ không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo. Nhưng tết đến, A Phủ vẫn đi chơi, đi tìm người yêu.

    → Bất chấp thân phận, A Phủ là một chàng trai khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc.

    => Cuộc sống hoang dã ở núi rừng đã hun đúc cho A Phủ một sức sống mạnh mẽ, một bản lĩnh vững vàng trước mọi gian khổ, khó khăn.

    b. A Phủ với cá tính đặc biệt:

    - Tự lập từ thuở bé, khiến khi lớn lên A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, táo bạo, gan góc. Biết A Sử là kẻ xấu, ỷ thế con quan nên A Phủ đã thẳng tay trừng trị "chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử.. xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp".

    → Hàng loạt động từ mạnh cho thấy sức mạnh, sự ngang tàng của A Phủ trước thế lực cường quyền.

    - A Phủ trả giá rất đắt cho hành động đó, trở thành người làm công gạt nợ cho thống lí; thế nhưng:

    + Làm lụng vất vả "một thân một mình bôn ba ngoài gò ngoài rừng", A Phủ vẫn phăng phăng làm mọi thứ như trước kia.

    + Để hổ ăn mất một con bò, A Phủ vác nửa con bò hổ ăn dở về gặp thống lí nói chuyện đi bắt hổ một cách thản nhiên.

    + A Phủ lặng lẽ đo lấy cọc, lấy dây mây rồi đóng cọc cho người ta trói thế mạng cho con hổ cũng rất thản nhiên.

    A Phủ mạnh mẽ, gan góc. Dù sống kiếp nô lệ nhưng những biểu hiện cho thấy A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do.

    - Bị trói đứng nhiều đêm, A Phủ đã khóc "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại".

    → Đó là lúc A Phủ đã ý thức được nỗi đau của mình, khóc mà uất ức, đau đớn cho số phận của mình.

    - Khi được Mị cứu, A Phủ khuỵu xuống nhưng chợt bừng tỉnh "quật sức vùng lên chạy". A Phủ cũng hiểu được hoàn cảnh của Mị nên đã mang Mị theo cùng.

    → Sức sống mãnh liệt đã chiến thắng áp bức đọa đày.

    - >Một người như A Phủ thì không dễ gì buông xuôi số phận. Đó là sức mạnh tiềm tàng của một mầm sống luôn gan lì đối mặt với môi trường khắc nghiệt và vươn lên tìm tới tự do.

    => A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên lao động Mông có số phận bất hạnh nhưng có sức sống mãnh liệt, có tinh thần phản kháng mạnh mẽ.

    III. TỔNG KẾT:

    Với ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo, Tô Hoài đã phân tích những diễn biến tâm lí hết sức phức tạp, nhưng cũng đầy tự nhiên của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông giải cứu A Phủ. Khác với vẻ ngoài gan góc, mạnh mẽ, bộc trực của A Phủ, nhân vật Mị tuy vẻ ngoài trầm lắng nhưng đời sống nội tâm lại sôi nổi, phức tạp. Nhưng cũng vì thế mà Tô Hoài đã tái hiện lại những nỗi đau, sự đè nén của nhân dân lao động miền núi và khát vọng mạnh mẽ của họ thông qua nhân vật này. Truyện có những đặc sắc về nghệ thuật như: Nghệ thuật trần thuật, cách miêu tả phong tục tập quán của người miền núi, nghệ thuật xây dựng và khai thác tâm lí của nhân vật..
     
    LieuDuong thích bài này.
  9. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    9. VỢ NHẶT - KIM LÂN

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Kim Lân (1920 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. Kim Lân là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân bằng sự am hiểu sâu sắc, tình cảm chân thành. Tác phẩm chính: "Nên vợ nên chồng" (Tập truyện ngắn – 1955), "Con chó xấu xí" (Tập truyện ngắn – 1962). Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật 2001.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác:

    "Vợ nhặt" là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ viết thành truyện ngắn "Vợ nhặt", in trong tập "Con chó xấu xí" (1962).

    b. Chủ đề:

    Truyện tố cáo thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào cảnh đói thê thảm. Đồng thời, ca ngợi những người lao động trong đói khổ vẫn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khao khát sống, khao khát hạnh phúc và hướng về cách mạng đầy tin tưởng.

    c. Tình huống truyện:

    Tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: Tràng xấu xí, thô kệch, ngờ nghệch, lại còn không bình thường, nên không ai thèm lấy, bỗng nhặt được vợ một cách dễ dàng, nhanh chóng chỉ bằng bốn bát bánh đúc và câu nói nửa đùa nửa thật.

    *Nhận xét:

    - Tình huống lạ lùng: Tràng nghèo xơ, nghèo xác, lại là dân ngụ cư mà "nhặt" được vợ.

    - Tình huống éo le: Tràng có vợ thật bất ngờ, ngay trong nạn đói, cái chết luôn đe dọa, ám ảnh mọi người thì Tràng lại nhặt được vợ với tâm trạng sung sướng.

    - Tình huống cảm động: Người dân xóm ngụ cư chia sẻ niềm vui với Tràng. Tràng thì trân trọng người vợ mới, còn bà cụ Tứ thì rộng lòng đón nhận con dâu.

    - Tình huống giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nỗi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    d. Ý nghĩa nhan đề:

    - Nghĩa thực: Vợ nhặt là người vợ không được cưới xin theo phong tục, tập quán của người Việt.

    - Nghĩa liên tưởng:

    + Nhan đề "Vợ nhặt" gợi sự rẻ rúng của con người trong nạn đói 1945.

    + Nhan đề "Vợ nhặt" rất phù hợp với nội dung câu chuyện: Tràng ngờ nghệch, xấu xí, nghèo không ai thèm lấy, bỗng nhặt được vợ một cách nhanh chóng, chỉ bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật.

    + Nhan đề "Vợ nhặt" góp phần tô đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    e. Tóm tắt tác phẩm:

    Truyện kể về nạn đói 1945 ở miền Bắc nước ta. Làng xóm xơ xác, tiêu điều, người chết như ngả rạ. Giữa lúc ấy, Tràng (làm nghề kéo xe bò, xấu trai, dân xóm ngụ cư), nhặt về một cô vợ là thị (không nhà cửa, không người thân, không họ hàng), khiến cả xóm và bà cụ Tứ kinh ngạc. Thương con, bà cụ Tứ chấp nhận, vui mừng. Bữa cơm đầu tiên họ ăn cháo loãng với muối, ăn thêm rau chuối thái rối và cháo cám. Bà cụ Tứ khuyên các con bảo ban nhau làm ăn rồi sẽ khá. Cuối truyện là hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ bay phất phới hiện lên trong óc Tràng.

    II. DÀN Ý CHI TIẾT:

    1. Nhân vật Tràng

    *Tràng là người dân lao động nghèo, "nhặt" được vợ trong thời buổi đói khát:

    - Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.

    - Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.

    À Hoàn cảnh xuất thân: Khó lấy được vợ.

    - Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên "nhặt" được vợ. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi "nên vợ, nên chồng" :

    + Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt "Muốn..". Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.

    + Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp "ăn gì thì ăn, chả ăn giầu" Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị "Này.. rồi cùng về", nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định "đèo bòng" Tràng cảm thấy "chợn" nhưng "chậc kệ"

    * Niềm hạnh phúc khi có vợ:

    - Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.

    - Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Hành động: Xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói "Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy" ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình "Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?" Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt. Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói "Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng" Tràng mới thở đánh phào một cái.

    -> Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.

    - Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau:

    + Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người "êm ái lửng lơ".

    + Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: Nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.

    + Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.

    + Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm - đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.

    + Tràng thấy "thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.

    + Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của ba con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hòa hợp.

    - Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.

    => Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết sức đặc biệt. Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống. Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo: Đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai.

    2. Nhân vật thị (người "vợ nhặt")

    - Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình.. môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.

    - Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại "dấu tích" ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:

    + Lần gặp thứ nhất: Có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ "Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy!" Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy "

    + Lần gặp thứ hai: Chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng).. Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động" sà xuống đánh.. cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc.. ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố ". Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.

    - Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: Sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.

    - Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:

    + Thị bước sau Tràng chừng ba, bốn bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận

    + Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.

    + Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương

    - Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.

    - Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân

    + Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được

    + Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

    =>Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết.

    3. Nhân vật bà cụ Tứ:

    - Nhà văn Kim Lân tâm sự:" Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về ". Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.

    - Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi" đứng sững lại "khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà, mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.

    - Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc" Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ "như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình" người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì.. ". Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.

    - Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt" Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng ", lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói" ai giàu ba họ, ai khó ba đời ". Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.

    - Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là" sự hợp nhau hay không hợp nhau "giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi" nghẹn lời "chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.

    - Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước:

    +Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.

    + Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: Chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán - cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

    + Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất " chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây ".

    - Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng:" Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ "! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

    => Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.

    4. Nghệ thuật

    - Tạo tình huống độc đáo, cảm động.

    - Kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc

    - Đối thoại sinh động; khắc họa t/c, tâm lí nv chân thật, tinh tế.

    - Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng có sự chắt lọc, giàu sức gợi

    III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Bức tranh nạn đói 1945:

    Bối cảnh: Nạn đói 1945 đang hoành hành dữ dội ở miền Bắc nước ta, làm hơn hai triệu người chết đói.

    Kim Lân đã miêu tả nạn đói năm Ất Dậu hết sức sống động, tài tình. Nạn đói được so sánh như một cơn lũ " cái đói đã tràn xuống xóm này tự lúc nào " . Nạn đói đã hiện lên một cách sinh động, như đọng lại thành nét, có hình ảnh, màu sắc, có mùi và có cả âm thanh riêng biệt của nó. Đó là hình ảnh của lũ trẻ con " ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích ", những người còn sống thì " những người từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau, nằm ngổn ngang khắp lều chợ, dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng người đói dật dờ đi lại như những bóng ma ". Riêng những người chết vì đói rất nhiều " như ngả rạ ", ngày nào người đi chợ, đi làm đồng về cũng thấy " ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường ". Tác giả rất có hữu ý khi đặt hai câu văn tả người sống và người chết nằm cạnh nhau. Những hình ảnh này gây ấn tượng mạnh mẽ về ranh giới mấp mé giữa sự sống và cái chết: Tất cả mọi người đều đang đối mặt với cái chết vì nạn đói khủng khiếp.

    Nạn đói 1945 còn có màu đặc trưng với " xanh xám như những bóng ma "," khuôn mặt lưỡi cày xám xịt ". Ngoài ra, nạn đói còn có mùi khủng khiếp của nó " không khí vẫn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người "," mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt " . Đó còn là những âm thanh đặc trưng " tiếng quạ gào lên từng hồi nghe thê thiết "," tiếng hờ khóc người chết "," tiếng trống thúc thuế ".. Những âm thanh rung rợn, ám ảnh làm cho con người đã đói khổ về thể xác, lại càng thêm căng thẳng về tinh thần.

    Nạn đói 1945 làm thân phận con người trở nên rẻ rung, mà điển hình là người đàn bà (thị), vì đứng bên bờ vực chết chóc của cái đói, nên đã theo không về làm vợ của người đàn ông xa lạ (Tràng) sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc.

    Nạn đói 1945 còn được hiện lên ở bữa cơm ngày đói " lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo ", nhưng mỗi người chỉ được hai lung bát và họ ăn thêm cháo cám.

    Tóm lại: Bối cảnh chuyện đã góp phần tô đậm giá trị hiện thực: Tác phẩm phản ánh tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945 do thực dân Pháp, phát xít Nhật gây ra.

    2. Nhân vật Tràng:

    a. Lai lịch:

    Tràng là dân lao động ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê để nuôi mẹ già. Nhà Tràng rất nghèo, nơi ở thật thảm hại: " Cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại ". Qua đó, ta thấy thân phận nghèo hèn của Tràng.

    b. Ngoại hình:

    Tràng xấu xí, thô kệch, mặc " chiếc áo nâu tàng "," hai con mắt nhỏ tí, cái đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu ". Ngoài ra, Tràng có cách ứng xử lạ lùng " vừa đi vừa nói "," ngữa mặt lên trời cười hềnh hệch ". Hay nói khác đi, Tràng là người không bình thường, ngờ nghệch.

    c. Ngôn ngữ:

    Tràng ăn nói thật cộc cằn, thô lỗ, chỉ là những câu đối đáp ngắn. Nói chuyện với phụ nữ mà dùng tiếng Tây bồi " rích bố cu, hở! ", thậm chí thô tục " làm đếch gì có vợ ".

    d. Tính tình:

    Tràng là người hiền lành, vui vẻ, nên trẻ con trong xóm rất mến Tràng. Tràng rất nhân hậu, thương người cùng cảnh ngộ: Giữa lúc cái đói hoành hành dữ dội, vì đói quá người ta có thể làm những điều ti tiện, xấu xa để có miếng ăn, để sống sót. Thế mà Tràng sẵn sàng cho một người đàn bà xa lạ một bữa ăn. Tràng cho thị ăn không phải để trả ơn hay lợi dụng, mà vì sự cảm thông, vì tình người. Hành động ấy cho thấy Tràng là người hào hiệp, bởi vì bản thân Tràng đang bị cái đói đe dọa.

    e. Tràng nhặt vợ:

    Tràng nhặt vợ trong tình huống thật độc đáo, lạ lùng, pha một chút hài hước. Trong cái đói quay quắt, nên nhớ " cho một miếng ăn là cho nhau sự sống. Gắn thêm một miệng ăn vào mình là thêm một nguy cơ chết đói ", thế mà Tràng lại nhặt vợ. Điều này thể hiện niềm khát khao hạnh phúc của Tràng.

    Tràng nhặt vợ thật dễ dàng; chỉ bằng câu nói nửa đùa nửa thật " này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về " . Lời nói đó của Tràng là nói đùa, nhưng thái độ của Tràng đối với thị thì không hề đùa cợt, vì nó xuất phát từ tình người. Thấy người phụ nữ quyết định theo mình, Tràng rất lo nhưng lại không nỡ từ chối. Tràng nghĩ " thóc gạo này đến cái thân mình chả biết có nuôi nỗi không, lại còn đèo bồng ". Nhưng lòng khát khao hạnh phúc khiến Tràng liều lĩnh, đánh cược với cái đói để có vợ, Tràng chặc lưỡi " chậc kệ! ", quyết định liều lĩnh này là ánh sáng soi tận đáy tâm hồn nghèo nàn, xấu xí khao khát có vợ nhưng không dám nghĩ đến.

    f. Trên đường dẫn vợ về nhà:

    Việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn. Dân xóm ngụ cư bàn tán " ai đấy nhỉ ", rồi họ mừng cho Tràng, khuôn mặt u tối của họ rạng rỡ hẳn lên " hay là vợ anh cu Tràng ", nhưng nguy cơ chết vì đói đang rình rập, họ lại lo cho Tràng " biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không? ", nên mọi người cùng nín lặng. Còn Tràng thì khác, trên đường đưa thị về nhà, Tràng như trở thành một con người khác. Tràng không còn cúi xuống với cái dáng vẻ đầy vất vả, nhọc nhằn " mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh ". Trước những đôi mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, người đàn bà tỏ ra lúng túng, ngượng nghịu.. thì Tràng lại " lấy vậy làm thích lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình " . Nhưng cũng có lúc, anh lúng túng " tay nọ cứ xoa xoa vào vai kia ". Kim Lân đã diễn tả vừa sinh động, vừa cụ thể niềm mơ ước hạnh phúc gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cái đói và cái chết: Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Kể cũng lạ, đói là thế, khổ là thế, đến cám cũng chẳng có mà ăn, nhưng Tràng vẫn sung sướng, hạnh phúc, Tràng nâng niu hạnh phúc nên không có cái ăn nhưng vẫn mua " hai hào dầu " để đón " vợ mới ", để thắp lên niềm tin, lòng trân trọng con người, dẫu người đó là do" nhặt được ".

    g. Buổi sáng đầu tiên có vợ:

    Tràng đã thực sự thấy cuộc đời mình từ đây thay đổi hẳn. Tràng cảm thấy " trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra " . Tràng chợt nhận thấy " xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ ". Trong những giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, con người bỗng thấy mình trưởng thành hơn. Niềm vui sướng, hạnh phúc của Tràng đã gắn liền với ý thức, bổn phận và trách nhiệm " bỗng nhiên hắn thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy "." Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập vào trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này ". Chữ" người "được nhà văn sử dụng như xác nhận sự biến đổi ở nhân vật Tràng. Từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức, Tràng đã phục sinh tâm hồn nhờ hạnh phúc mới đến.

    Ở đoạn cuối truyện, nhờ những thông tin của vợ, Tràng đã hiểu biết hơn về phong trào Việt Minh. Trong đầu anh đã xuất hiện hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, tín hiệu của sự đổi đời. Anh nông dân thất học, xa lạ với chính trị, nay lại khát khao một sự đổi thay. Đó không còn là mơ ước viễn vông, mà có cơ sở từ hiện thực cuộc sống. Câu chuyện khép lại nhưng số phận, tương lai của nhân vật lại được mở ra, hướng về ánh sáng và niềm tin. Đó chính là giá trị nhân đạo và nhân văn của tác phẩm.

    *Tóm lại: Nhân vật Tràng xuất hiện hết sức chân thực, sinh động. Tuy là một người lao động nghèo khổ, thấp kém nhưng Tràng vẫn ấp ủ một khát khao hạnh phúc và anh đã bộc lộ ước vọng ấy khi đón nhận người" vợ nhặt "của mình.

    Ngòi bút miêu tả và khai thác tâm lí của tác giả hết sức tinh tế, sâu sắc khi thể hiện sự phân vân, do dự trong nội tâm của nhân vật, giữa hiện thực đói khát và khát vọng hạnh phúc. Nhưng sau đó, hạnh phúc đã nâng đỡ tâm hồn, giúp Tràng trở thành con người trưởng thành. Tràng sống có trách nhiệm với vợ con, gia đình. Hơn thế nữa, anh còn trở thành con người có mong ước một cuộc đổi thay, một cuộc đổi đời. Anh đang tiến dần về phía cách mạng.

    3. Nhân vật người vợ nhặt (thị) :

    a. Hoàn cảnh:

    Thị là một người phụ nữ lao động nghèo: Không nhà cửa, không họ hàng, không nghề nghiệp, ngay cả cái tên riêng thị cũng chẳng có. Nhà văn chỉ gọi: Thị, cô ả, người đàn bà, người con dâu. Hàng ngày, thị ngồi trước cửa nhà kho để nhặt thóc rơi, hoặc ai kêu gì làm nấy.

    b. Lần thứ nhất gặp Tràng:

    Lần đầu gặp Tràng, Tràng kéo xe bò nặng nên Tràng hò cho đỡ mệt, thị hồn nhiên vui vẻ đẩy xe bò giúp Tràng, còn táo bạo gọi Tràng " nhà tôi ơi " và đưa mắt cười tình với Tràng.

    c. Lần thứ hai gặp Tràng:

    Cái đói đã tàn phá ghê gớm ngoại hình của thị " quần áo rách tả tơi như tổ đỉa "," bộ ngực gầy lép "," người gầy xọp hẳn đi trên gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt ". Chỉ vì đói quá thị đã vinh vào câu hò tầm phào của Tràng " muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì! ", để gợi ý đòi ăn, nên vừa thấy Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ, thị rầm rập chạy đến mắng vào Tràng " điêu! Người thế mà điêu! ". Được Tràng mời uống nước, ăn trầu, thị trơ trẻn nói " có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu ". Khi được Tràng cho ăn, vì đói quá thị sà xuống " cắm đầu xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc ", thị ăn không kịp thở và chẳng chuyện trò gì. Đáng thương hơn, thị chấp nhận làm" vợ theo "chỉ sau một câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng. Như vậy, cái đói đã đánh cướp lòng tự trọng, nhân cách con người. Trên dòng sông đói khát, thị là người sắp chết đuối vì đói, mà Tràng là cái phao, nên thị chẳng còn lựa chọn nào khác là theo Tràng để được sống.

    d. Trên đường theo Tràng về nhà:

    Khi chấp nhận theo Tràng về nhà, thị đã trở thành một con người khác, một cô dâu vừa e thẹn vừa rón rén về nhà chồng " đi sau hắn chừng ba bốn bước, cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt ". Khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn chăm chăm vào mình và bàn tán, chị " càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu vào cả vào chân kia ".

    e. Thị về nhà Tràng:

    Lúc về đến nhà Tràng, thị nhìn thấy căn nhà của Tràng hoang tàn, xơ xác thì " cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài ". Dưới ngòi bút nhân hậu của Kim Lân, người" vợ nhặt "không tìm được no ấm nhưng chị đã tìm được sự đầm ấm của một gia đình. Nhà văn đã miêu tả rất tinh tế, cảm động cái thế ngồi rụt rè, ch6ng chênh của chị " ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần ", dáng điệu" nàng dâu mới "e lệ, khép nép trước bà cụ Tứ " cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo rách bợt " . Lúc ở bên Tràng, người đàn bà đã thể hiện niềm khát khao hạnh phúc qua những cử chỉ thân mật như " thị phát đánh đét vào lưng hắn "," giơ tay củng vào trán hắn ".. Khi được đón nhận yêu thương, thị như một con người bơ vơ, đứng bên bờ vực của nạn đói, nay đã tìm được một chốn dung thân êm đềm.

    Ở nhà Tràng, sáng hôm sau có một sự thay đổi khá lạ lùng " nhà cửa, sân vườn được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa đã đem ra sân hong. Hai cái ang nước đầy ăm ắp, đống rác mùn ngay lối đi đã được hót sạch ". Chính thị đã dọn dẹp, thu vén ngôi nhà. Điều này chứng tỏ tính nết đảm đang của một người vợ hiền. Vậy cũng như Tràng, thị đã thay đổi hẳn " nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏng như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh ".

    *Tóm lại: Khi được yêu thương, trân trọng, người" vợ nhặt đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của mình. Thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tối tăm, bên bờ vực cái chết của nạn đói. Hình tượng người "vợ nhặt" có ý nghĩa nhân đạo rất sâu sắc, bày tỏ khát vọng chính đáng của con người: Muốn được sống, được làm người có nhân cách, có hạnh phúc gia đình và cuộc sống ấm no.

    4. Nhân vật bà cụ Tứ:

    4.1. Ngoại hình:

    Bà cụ Tứ là một nông dân nghèo, già nua, ốm yếu "bước lọng khọng, húng hắng ho".

    4.2. Vẻ đẹp nội tâm:

    Không phải ngẫu nhiên tác giả để cho nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện sau những bồn chồn, lo lắng của Tràng. Bởi vì, Tràng vừa làm một việc "động trời", đó là nhặt một người đàn bà xa lạ ở ngoài đường về làm vợ trong lúc đói kém. Điều Tràng sợ là mẹ không chấp nhận.

    a. Bà cụ Tứ ngạc nhiên:

    Bà cụ Tứ không hay biết một chút gì về chuyện "nhặt vợ" của Tràng, nên bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy người đàn bà xa lạ trong nhà mình. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập đến với bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?", "Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?", "Sao lại chào mình bằng u?"..

    b. Bà hiểu ra:

    Khi nghe Tràng giải thích sự việc "vợ nhặt" bà hiểu ngay, bà "cúi đầu nín lặng" . Bởi cảnh nghèo đói của thị đã phơi bày ra hết ở cái vẻ bề ngoài "áo quần tả tơi như tổ đĩa", "Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt" . Bà nhìn cô con dâu đang vân vê tà áo rách, bà thấu hiểu sự tình.

    c. Bà hờn tủi, xót thương:

    Chỉ cần một thoáng ích kỷ của bà mẹ đang trong nghèo khổ, đói khát, thì bà sẽ mắng mỏ con trai và xua đuổi người đàn bà kia. Nhưng từ giây phút hiểu ra cơ sự, lòng bà tràn ngập hờn tủi, xót thương. Bà xót thương cho con lấy vợ trong giai đoạn đói khát thê thảm thế này. Bà hờn tủi cho mình, làm mẹ mà không lo nổi cho con một mâm cơm ra mắt họ hàng. Bà nhớ lại cả một cuộc đời dài đằng đẳng, nghèo khổ, cực nhọc của mình, của người chồng đã chết, trong kẽ mắt của bà "rỉ xuống hai hàng nước mắt".

    d. Bà vui mừng và lo lắng:

    Tràng "nhặt vợ", bà nửa mừng nửa lo. Là mẹ, bà mừng lòng chứ không phải là bằng lòng, có nghĩa là bà vui mừng chấp nhận thị, bà bảo "Ừ! Thôi thì các con phải duyên, phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Con trai đã có vợ, yên bề gia thất, nhưng bà không khỏi lo lắng cho đôi vợ chồng "mới cưới" : "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không?".

    e. Bà cảm thông cho con dâu:

    Bao nhiêu lo lắng, hờn tủi bà giữ lại trong lòng, bà trao tình thương cho con, cho người phụ nữ xa lạ, nghèo đói ấy. Bà đón nhận thị bằng sự cảm thông, dù bà biết rằng, cô ta lấy con trai mình vì sắp chết đói "người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được".. Rồi bà suy nghĩ thật nhân hậu, bao dung "bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu, là con trong nhà mình rồi". Bà tâm sự với con dâu về cảnh nghèo khổ, để xóa đi khoảng cách giữa hai người.

    f. Bà khuyên con chí tình, đôn hậu:

    Bà mẹ già nghèo khổ ấy, cố tìm những lời lẽ để xóa đi hai chữ "vợ nhặt" cho con trai và con dâu. Bà an ủi con "có ra làm dăm ba mâm thì phải, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai chấp nhặt chi cái lúc này", bà còn chỉ cho con sức mạnh của sự đồng thuận vợ chồng "chúng mày hòa thuận là u mừng rồi", câu nói gợi nhớ đến lời dạy của dân gian "thuận vợ, thuận chồng tát bể Đông cũng cạn".

    g. Bà gieo vào lòng con niềm hi vọng:

    Có đôi lần bà cụ Tứ quay đi, giấu những giọt nước mắt lo lắng, hờn tủi. Bởi vì xung quanh ngôi nhà xiêu vẹo là cả một vùng quê sầm tối lại vì cái đói đe dọa, tiếng khóc hờ tỉ tê, mùi đốt đống rấm của nhà có người mới chết đói bay vào. Nhưng bà đã vượt lên sự lo âu để tin tưởng vào sự sống, vào tương lai của các con. Bà dùng lời yêu thương để an ủi, động viên con "ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau" . Bà nhắc Tràng đan lấy tấm liếp mà ngăn buồng ra, nuôi lấy một đôi gà, đó là bà nghĩ về một cuộc sống lâu dài.

    h. Bà hành động:

    Sáng hôm sau, bà cụ Tứ dậy sớm, cùng con dâu thu dọn nhà cửa với một niềm tin: Nhà cửa sạch sẽ thì điều may mắn sẽ đến. Gương mặt bà tươi vui hẳn lên "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới là niêu cháo loãng, ăn với muối và một lùm rau chuối thái rối, nhưng cả nhà ăn rất ngon. Bà cụ Tứ toàn kể chuyện vui, chuyện làm ăn, chuyện sung sướng về sau. Ăn hết cháo loãng, bà còn mừng nàng dâu mới bằng nồi chè khoán (cháo cám) mà bà âm thầm nấu từ sớm vì bà biết cháo không đủ ăn.

    *Tóm lại: Nhân vật bà cụ Tứ điển hình cho người mẹ Việt Nam tuy nghèo khổ, đắng cay, mà rất thương con, đầy lòng hi sinh, giàu lòng vị tha, nhân hậu. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

    IV. TỔNG KẾT:

    1. Nội dung:

    a. Giá trị hiện thực

    Phản ánh chân thực nạn đói năm 1945. Lên án thực dân, phát xít đã đẩy người lao động Việt Nam vào cảnh khốn cùng

    b. Giá trị nhân đạo

    Xót xa, thương cảm trước cảnh ngộ bi đát của con người trong nạn đói. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Hướng tới một tương lai tốt đẹp.

    2. Nghệ thuật:

    Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện rất độc đáo. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn. Miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với khẩu ngữ, nhưng có sự lựa chọn kĩ lưỡng, gây ấn tượng với người đọc.
     
    LieuDuong thích bài này.
  10. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    10. RỪNG XÀ NU - NGUYỄN TRUNG THÀNH

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, bút danh khác là Nguyên Ngọc, sinh năm 1930, quê ở Quảng Nam. Các tác phẩm chính "Đất nước đứng lên", "Rẻo cao", "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc".. Nguyễn Trung Thành là nhà văn rất có duyên với mảnh đất Tây Nguyên. Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết về cuộc sống và con người Tây Nguyên. Trong đó "Rừng xà nu" được đánh giá là "sử thi Tây Nguyên" thời chống Mĩ.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác:

    Mùa hè năm 1965, đế quốc Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành muốn viết một bản "hịch tướng sĩ" thời đánh Mĩ. Truyện ngắn "rừng xà nu" ra đời như một biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên nói riêng và đồng bào cả nước nói chung.

    Truyện được đăng lần đầu trên tạp chí "Quân giải phóng Trung Trung Bộ", số 2, 1965, sau đó được in trong tập "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc".

    b. Chủ đề và ý nghĩa nhan đề:

    Chủ đề: Thông qua câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, tác giả ca ngợi tinh thần quật khởi của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

    Ý nghĩa nhan đề: Cây xà nu, rừng xà nu gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên, là biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của dân làng Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ cây xà nu, rừng xà nu.

    c. Mối quan hệ giữa Tnú và rừng xà nu:

    Hai hình tượng này không tách rời nhau, mà gắn bó, bổ sung cho nhau để trở nên hoàn chỉnh. Rừng xà nu sẽ mãi mãi phát triển tới chân trời trong xanh bất diệt, nên con người thấm thía bài học: Chúng nó cầm súng thì chúng ta cầm giáo mác, được rút ra từ cuộc đời Tnú. Mặt khác, Tnú cầm vũ khí đứng lên là để cho cánh rừng kia mãi mãi sinh sôi.

    d. Tóm tắt tác phẩm:

    Tác phẩm "rừng xà nu" gồm hai câu chuyện đan cài vào nhau. Truyện về cuộc đời Tnú, lồng vào chuyện nổi dậy của dân làng Xô – man. Tnú tham gia cách mạng, để bắt cho được Tnú, giặc Mĩ bắt vợ con anh, rồi dùng cây sắt đánh đập dã man cho đến chết. Tnú xông ra cứu vợ con thì bị giặc Mĩ bắt. Giặc dùng nhựa cây xà nu đốt mười đầu ngón tay Tnú. Dân làng Xô – man vùng lên cứu Tnú. Tnú tham gia lực lượng giải phóng quân để trả thù nhà, nợ nước và ba năm sau Tnú về thăm quê hương, bản làng.

    II. DÀN Ý CHI TIẾT:

    1. Hình tượng rừng xà nu:

    Cây xà nu là hình tượng xuyên suốt, được miêu tả công phu, đậm nét trong toàn bộ tác phẩm, đặc biệt xuất hiện ở phần đầu và kết thúc truyện đến "hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời".

    a. Ý nghĩa tả thực:

    Cây xà nu là một loại cây thuộc họ thông, nhựa thơm, có sức sống dẻo dai, gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân làng Xô man.

    - Trong sinh hoạt: Cây xà nu gắn bó với đời sống sinh hoạt, kháng chiến của người làng Xô man.

    + Ngọn lửa xà nu cháy trong mỗi bếp, cháy trong đống lửa nhà ưng nơi dân làng tập trung

    + Đuốc xà nu Tnú soi cho Dít dằn gạo

    + Lũ trẻ làng Xô man mặt lem luốc khói xà nu

    + Khói xà nu xông bảng nứa cho Tnú và Mai học chữ

    + Rừng xà nu chứng kiến mối tình của Tnú và Mai..

    - Trong những sự kiện trọng đại của làng:

    + Đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết và dân làng trong đêm vào từng lấy giáo mác chuẩn bị đánh giặc

    + Dân làng mài giáo mác dưới ngọn đuốc xà nu

    + Giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú bằng giẻ dầu xà nu

    + Lửa xà nu soi rõ xác lũ lính chết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa làng

    b. Ý nghĩa tượng trưng:

    - Rừng xà nu – biểu tượng của đau thương:

    + Hình ảnh mở đầu: Rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc, ngày nào cũng bị bắn hai lần -> sự sống trong tư thế đối mặt với cái chết -> hiện thực khốc liệt của chiến tranh

    + Cả rừng xà nu hàng vạn cây, không có cây nào không bị thương -> nhân hóa kết hợp hai lần phủ định "không" -> khẳng định sự đau thương

    + Nỗi đau hiện ra nhiều vẻ:

    • Xót xa của những cây non tựa như đứa trẻ thơ: "Nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết"

    • Đau dữ dội của những cây xà nu trưởng thành như con người đang tuổi thanh xuân bị chặt đứt ngang nửa thân mình

    • Nhiều cây có tấm thân cường tráng "vết thương chóng lành", đại bác không giết nổi

    - > phản ánh những đau thương của một thời kì mà dân tộc ta phải chịu đựng

    - Rừng xà nu – biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp của người Xô man, đồng bào Tây Nguyên:

    + Cây xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi như sức sống bất diệt và tinh thần đấu tranh quật cường của nhân dân làng Xô man:

    • Ít có loại cây nào sinh sôi này nở khỏe như vậy

    • Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên -> đại bác không hủy diệt được cây xà nu

    • Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta: Cây mẹ ngã, cây con mọc lên như lời cu Mết nói.

    + Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời như dân làng Xô man ham tự do, vươn tới ánh sáng của cách mạng: "Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng"..

    + Rừng xà nu mang tầm vóc, biểu tượng của người anh hùng chiến đâu bảo vệ quê hương: Hình ảnh rừng xà nu "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng"

    + Những đồi xà nu nối tiếp đến chân trời ở phần đầu và cuối tác phẩm -> kết cấu vòng tròn -> tượng trưng cho các thế hệ dân làng Xô man nối tiếp nhau đứng lên chống giặc, cho cả Tây Nguyên, cả miền Nam và dân tộc Việt Nam đau thương mà anh dũng: Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai ngã xuống thì có Dít lớn lên thay chị, những thế hệ tiếp theo sẵn sàng tiếp bước như bé Heng..

    - > Phép nhân hóa: Cây xà nu được nói đến như như về con người, rừng xà nu luôn được đặt trong sự chiếu ứng với con người, trong mối quan hệ mật thiết với con người.

    => Rừng xà nu là một phần sức sống của Tây Nguyên, mang đặc trưng Tây Nguyên, phân biệt địa bàn vùng này với các vùng cao khác của Tổ quốc. Rừng xà nu gắn bó với con người Tây Nguyên là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, phẩm chất cao đẹp của nhân dân Tây Nguyên và cảm hứng sử thi hoành tráng tuyệt đẹp.

    2. Hình ảnh con người Tây Nguyên (dân làng Xô man)

    a. Nhân vật Tnú:

    Lấy nguyên mẫu từ người anh hùng trong lịch sử là anh Đề (Tnú tiếng Xê-đăng có nghĩa là dũng sĩ).

    * Lai lịch, hoàn cảnh:

    - Là người con của núi rừng Tây Nguyên, của làng Xô man, là người anh hùng tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Tây Nguyên trong những năm tháng chống Mĩ. Đây là 1 nhân vật độc đáo giàu chất sử thi.

    - Tnú sớm mồ côi cha mẹ, sống trong tình thương yêu đùm bọc của dân làng Xô man, có lẽ hơn ai hết Tnú gắn bó với dân làng và có những phẩm chất của dân làng. Cụ Mết nhận xét đầy yêu thương: "Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta".

    * Tính cách:

    - Tnú là một con người gan góc và táo bạo, thông minh, dũng cảm:

    + Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, bỏ ra ngoài suối, lấy đá "tự đập vào đầu máu chảy ròng ròng".

    + Tnú rất gắn bó với cách mạng, từ nhỏ đã nuôi giấu cán bộ, hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi làm liên lạc: Tnú thường chọn những chỗ thác mạnh mà bơi ngang, không lội chỗ nước êm, không đi đường mòn vì sợ giặc phục kích.

    + Khi bị địch phát hiện, Tnú nuốt lá thư để giữ gìn bí mật cho cách mạng, bị bắt và bị tra khảo, Tnú chỉ vào bụng mình và nói: "Cộng sản ở đây".

    - Anh là người giàu lòng thương yêu:

    + Có tình yêu thiết tha với bản làng:

    • Đi bộ đội anh vẫn nhớ da diết tiếng chày giã gạo rộn rã và chuyên cần của làng anh, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, dòng suối "nỗi nhớ day dứt trong lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó".

    • Lúc về làng, Tnú ra máng nước đầu làng "xúc động để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp người như ngày trước"; chia muối cho người làng, những hạt muối giàu tình nghĩa.

    + Thương yêu vợ con (gia đình) :

    • Không đi Kon Tum mua vải được, anh xé đôi tấm dồ của mình để làm đồ địu con cho Mai.

    • Chứng kiến cảnh kẻ thù giết vợ con với tâm trạng đau đớn "Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây" và "anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay" -> hi sinh bản thân để cứu vợ con, xuất phát từ tình yêu thương sâu sắc dành cho vợ con.

    => Chính tình yêu quê hương bản làng, gia đình đã trở thành động lực và sức mạnh để Tnú chiến đấu với kẻ thù.

    - Tnú biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân, là người trung thành với cách mạng:

    + Chứng kiến cảnh kẻ thù giết vợ con với tâm trạng đau đớn "Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây" và "anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay". Từ nỗi đau đớn biến lòng anh thành lò lửa hừng hực căm thù "Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn". Tất cả như dồn nén lại để rồi vỡ tung ra, anh không kiềm chế được nữa anh đã lao ra cứu vợ con.

    + Trước sự tra tấn dã man của quân thù: Hai bàn tay bị tẩm nhựa xà nu rồi đốt "mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc", Tnú nghiến răng chịu đựng chứ quyết "không thèm kêu van. Tnú nhớ lời anh Quyết:" Người cộng sản không thèm kêu van ".

    +Tuy mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt nhưng anh vẫn quyết tâm gia nhập lực lượng giải phóng để giết giặc trả thù cho quê hương và người thân.

    - Anh là người có tính kỉ luật cao: Tuy nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về thăm làng và cũng chỉ về đúng một đêm như quy định trong giấy phép

    * Hình ảnh đôi bàn tay Tnú: gây ấn tượng sâu sắc và để làm nổi bật cuộc đời và tính cách của nhân vật:

    + Bàn tay lành lặn: Bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn, trung thành: Cầm phấn học chữ, cầm đá tự đập đầu khi không nhớ chữ, bàn tay chỉ vào bụng nói:" Cộng sản ở đây "

    + Bàn tay đau thương: Bàn tay trở thành mười ngọn đuốc thiêu cháy cả gan ruột anh, bàn tay căm thù là một chứng tích đầy căm phẫn mà Tnú mang theo suốt đời, là biểu tượng của sự kiên cường, bất khuất; Bàn tay còn lại hai đốt nhưng anh vẫn cầm súng chiến đấu trả thù, bóp chết tên chỉ huy đồn giặc đang cố thủ dưới hầm

    - > Tình yêu thương và lòng căm thù đã biến thành hành động cách mạng. Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của các dân tộc Tây Nguyên thời chống Mĩ, bút pháp giàu chất lãng mạn, giàu chất sử thi.

    Kết luận:

    * Câu chuyện cuộc đời Tnú là minh chứng cho chân lí:" Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo ". Chỉ có cầm vũ khí đứng lên là con đường duy nhất và là sức mạnh để bảo vệ những gì thân thương nhất. Đó chính là chân lí, cái thực chất xương máu của nhân dân.

    * Số phận người anh hùng Tnú gắn bó với cộng đồng:

    - Dân làng Xô Man khi chua cầm vũ khí thì họ chứa đầy đau thương. Bọn giặc lung chặt đầu bà Nhan, treo cổ anh Xút, giết mẹ con Mai, đốt mười đầu ngón Tay Tnú.

    - Cuộc sống ngột ngạt đã dồn nén đau thương đến tận cùng, đến khi Tnú bị đốt mười đầu ngón tay và dân làng nổi dậy," tiếng chiêng nổi lên ".

    - Đó là sự nổi dậy cả đồng khởi, làm rung chuyển ní rừng. Đó là câu chuyện đời người trở thành chuyện một thời, một nước. Vậy, câu chuyện cuộc đời Tnú mang ý nghĩa của cuộc đời dân tộc. Nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành đã gắn trên vai một sứ mệnh lịch sử to lớn.

    b. Nhân vật Cụ Mết:

    (Nguyên mẫu là già A Mết) là hình tượng tiêu biểu cho lịch sử, cho truyền thống hiên ngang bất khuất, cho sức sống bền bỉ mãnh liệt của dân làng Xô Man, là người lưu giữ truyền thống cộng đồng, dìu dắt các thế hệ tiếp nhau sống xứng đáng với truyền thống.

    * Ngoại hình: 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, khỏe mạnh, giọng nói ồ ồ, dội vang, bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt, ngực căng như một cây xà nu lớn.

    - > Dáng vẻ của người anh hùng, dũng sĩ Tây Nguyên.

    * Tính cách:

    - Ít nói, trầm tĩnh: Khi vừa ý nhất chỉ nói" được "; mỗi lời cụ nói dứt khoát như dao chém đá, như chân lí:" Đảng còn, núi nước này còn ". Khi cụ nói, mọi người im bặt.

    - Tự hào về quê hương:

    + Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên.

    + Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này đấy.

    - Một thủ lĩnh quân sự tài ba và có uy tín: Dân làng kính trọng và nghe theo.

    + Sáng suốt và giàu kinh nghiệm: Cụ biết khi nào nên nhẫn nhịn, khi nào nên tấn công: Không cho T nú nhảy ra cứu vợ con vì họ chỉ có hai bàn tay không.

    + Hiệu lệnh chiến đấu ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa" thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên ".

    + Nêu lên chân lí đấu tranh:" Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo "-> Tin yêu Đảng là cầu nối giữa tổ chức Đảng và nhân làng Xô man" Đảng còn núi non này còn ".

    - Có ý thức giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ con cháu: Kể đi kể lại chuyện cuộc đời Tnú cho các thế hệ người làng Xôman nghe, nghe để mà nhớ lấy, ghi lấy.

    => Cụ Mết là linh hồn của dân làng Xô Man, là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, là cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn. Tác giả phát huy cao độ sức mạnh của bút pháp sử thi với cảm hứng lãng mạn, lí tưởng hóa.

    c. Nhân vật Mai:

    Không phải là nhân vật chính của truyện và cô cũng xuất hiện thật ít trong tác phẩm, nhưng ấn tượng về cô ở người đọc thật đậm nét.

    - Mai thủy chung, thông minh, dịu dàng, kiên cường:

    + Thuở bé, Mai vào rừng tiếp tế và nuôi giấu cán bộ.

    + Học chữ giỏi: Ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm toán hai con số, giúp Tnú học chữ.

    + Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai hi sinh thân mình che chở cho con, kiên quyết không khai chỗ nấp của chồng, bất khuất trước trận mưa cây sắt của kẻ thù.

    d. Nhân vật Dít:

    Là hiện thân, là sự tiếp nối của Mai.

    - Dít tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ trong những đau thương và quật khởi của dân làng.

    - Là bí thư chi bộ, chính trị viên xã hội, người chỉ huy nghiêm khắc, có tính kỉ luật cao.

    - Tình cảm trong sáng, sâu sắc nhưng lặng lẽ kín đáo, gan dạ dũng cảm hơn cả Mai, không bao giờ khóc.

    => Dít đại diện cho ý chí kiên cường của thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ, xem nhẹ cái chết sẵn sàng đối mặt với quân thù.

    e. Nhân vật Bé Heng:

    Là chú bé liên lạc hồn nhiên, thạo đường và dũng cảm.

    - > Tượng trưng cho lứa cây xà nu mới lớn đầy nhựa sống" hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời ", tiêu biểu cho thế hệ tương lai của dân làng Xô Man.

    3. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn:

    a. Khuynh hướng sử thi:

    - Thể hiện ở:

    + Đề tài, chủ đề: Sự vùng dậy của dân làng Xô Man là đề tài có ý nghĩa lịch sử. Truyện viết về cuộc đấu tranh cách mạng vùng lên của một buôn làng. Nhưng qua đó, tác giả nêu lên và ca ngợi sức mạnh quật khởi, tinh thần và ý chí không gì dập tắt nổi của một Tây Nguyên bất khuất.

    + Hình tượng nhân vật: Khắc họa thành công những nhân vật anh hùng gắn bó với cộng đồng Tây Nguyên, có tính cách phi thường, dũng mãnh.

    + Hình tượng nghệ thuật độc đáo kì vĩ: Cây xà nu, rừng xà nu, bàn tay Tnú, xây dựng quang cảnh hùng tráng, không khí sôi động.

    + Giọng văn trang trọng, hùng tráng, sôi nổi, hào hùng.

    + Ngôn ngữ ngắn gọn, súc tích, nhiều chi tiết xúc động.

    b. Cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng ngợi ca và lí tưởng hóa hình tượng nghệ thuật, niềm tin vào chiến thắng.

    III. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Hình tượng cây xà nu:

    a. Nghĩa thực:

    Cây xà nu đẹp ở dáng vẻ, màu sắc, hương thơm mà những loài cây khác không có được: Những cây xà nu " ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên, lao thẳng lên bầu trời ". Đó là vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Nhựa xà nu " thơm ngào ngạt "," thơm mỡ màng ", đầy quyến rũ.

    Cây xà nu đẹp ở sự gắn bó mật thiết với người Tây Nguyên: Cây xà nu là loại cây đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên, tác giả đã hai mươi lần nói đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác nhau: Cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu.. và bao trùm là rừng xà nu. Cây xà nu gắn bó với cuộc sống dân làng Xô – man. Củi xà nu dùng làm chất đốt trong bếp ăn gia đình, củi xà nu còn dùng để soi sáng nhà ưng để dân làng Xô – man hội họp, khói xà nu dùng để xông bảng đen cho trẻ em học chữ.. Ngoài ra cây xà nu còn tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô – man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đuốc xà nu rực sáng đêm đồng khởi. Đặc biệt, cây xà nu còn gắn với kỉ niệm đau buồn của dân làng, đó là giặc đốt mười ngón tay Tnú bằng nhựa xà nu. Cụ Mết kể chuyện cuộc đời Tnú dưới ánh lửa xà nu.

    b. Nghĩa tượng trưng:

    Cây xà nu trước bom đạn giặc Mĩ: Mở đầu tác phẩm là " đến tầm mắt, cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời ", kết thúc tác phẩm cũng câu nói ấy nhưng chỉ khác mỗi chữ" đồi "thành chữ" rừng ". Phải chăng Nguyễn Trung Thành muốn ca ngợi sức sống dẻo dai, mãnh liệt của cây xà nu dưới bom đạn giặc Mĩ " hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn ", cũng là của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

    Cây xà nu tượng trưng cho những phẩm chất của dân làng Xô – man:

    Cây xà nu chịu nhiều đau thương mất mát: Bom đạn của giặc Mĩ đã tàn phá những cánh rừng xà nu " cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương ", thậm chí " có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão, chổ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh dưới ánh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn ", có những cây non " nhựa còn trong, chất dầu còn loãng " vết thương không thể lành được nên năm ba hôm thì cây chết. Chi tiết này gợi lên bao mất mát, hi sinh mà dân làng Xô – man phải nếm trải. Trong mỗi dáng cây xà nu bị chặt đứt, hoặc mang đầy thương tích như có một cuộc đời, một con người Xô – man hiển hiện lên. Bà Nhan, anh Xút bị bọn giặc chặt đầu treo trên cây vả, hoặc cột tóc treo trên mũi súng. Mai và đứa con chưa đầy một tháng tuổi bị giặc dùng cây sắt đánh đập cho đến chết. Đôi bàn tay Tnú bị giặc dùng nhựa cây xà nu đốt cháy.

    Cây xà nu có sức sống mãnh liệt: Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, nó sinh sôi nảy nở rất nhanh, bất chấp sự tàn phá, giết chóc của giặc Mĩ " cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây mọc lên ", giúp người đọc liên tưởng đến sự tiếp nối truyền thống cách mạng của dân làng Xô – man, lớp trước hi sinh thì lớp sau tiếp tục, anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai. Mai ngả xuống khi tuổi tràn đầy sức sống thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, rồi bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang tiếp bước con đường của Dít.

    Cây xà nu rất ham ánh sáng mặt trời: " Trong rừng ít có loại cây nào ham ánh sáng mặt trời đến thế chúng phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh nắng ", cũng giống như dân làng Xô – man vì yêu ánh sáng cuộc sống tự do nên họ tìm cách vươn đến cách mạng, đến với Đảng, như lời cụ Mết dạy dân làng " Đảng còn, núi nước này còn ".

    Cây xà nu tượng cho nhiều thế hệ dân làng Xô – man: Tác giả đã miêu tả ba lứa cây (cổ thụ, trưởng thành và cây non), tượng trưng cho ba thế hệ con người. Những cây cổ thụ đại diện cho lớp người già như cụ Mết. Bom đạn không thể quật ngã cây cổ thụ, chúng che chở cho cả cánh rừng. Cụ Mết trụ vững trên mảnh đất Tây Nguyên, là chổ dựa vững chắc cho cả buôn làng trong kháng chiến chống Mĩ. Những cây xà nu trưởng thành tượng trưng cho lớp thanh niên như Tnú, Mai, Dít. Lớp người ấy lớn lên trong đấu tranh và chịu nhiều đau thương mất mát, nhưng vô cùng anh dũng, kiên cường, cũng giống như cây xà nu lớn lên trong tầm đại bác của giặc một cách mãnh liệt. Những cây xà nu mới mọc tượng trưng cho lớp thiếu niên, nhi đồng như bé Heng. Cây xà nu mới mọc vừa nhô khỏi mặt đất đã nhọn hoắt mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Bé Heng tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã là tay súng của du kích làng. Vậy nếu nhựa xà nu được truyền từ cây cổ thụ sang cây non mới mọc, thì dòng máu Tây Nguyên bất khuất trước kẻ thù được truyền nguyên vẹn từ lồng ngực thế hệ già sang trái tim thế hệ trẻ. Hình tượng xà nu đẹp như hình tượng thơ làm cho truyện giàu chất sử thi.

    Cây xà nu biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của Tây Nguyên: Những con người Tây Nguyên thật thà, giàu tình thương yêu, đoàn kết, giống như cây xà nu nương tựa vào nhau, lớn lên trong bom đạn. Cụ mết nói " không cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta ", sức mạnh ấy thể hiện qua cuộc đồng khởi của dân làng Xô – man.

    Tóm lại: Bằng ngòi bút giàu chất sử thi và tình yêu sâu nặng với Tây Nguyên, tác giả đã chọn cây xà nu, loài cây đặc trưng ở Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu là một hình tượng ẩn dụ, tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

    2. Nhân vật Tnú:

    Trong dụng ý nghệ thuật của mình, Nguyễn Trung Thành nói " rừng xà nu là là truyện của một đời, được kể trong một đêm ". Người một cuộc đời được kể trong một đêm ấy chính là nhân vật Tnú.

    a. Tnú trung thành với cách mạng:

    Tnú không phải tìm đường đến với cách mạng như A Phủ. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng may mắn được dân làng Xô – man nuôi dưỡng. Được cụ Mết dạy cho tình yêu cách mạng, lại được sống gần anh Quyết – một chiến sĩ cách mạng kiên cường, nên từ nhỏ Tnú được tham gia vào việc nuôi giấu cán bộ cách mạng và luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, với một tinh thần trách nhiệm cao, nhiều đêm Tnú phải ngủ trong rừng vì sợ " lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy ". Tnú luôn nghe lời chỉ dạy của cán bộ cách mạng, được anh Quyết dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học. Không có bảng, không có phấn " Tnú lấy tre nứa làm bảng "," Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn ". Trong lúc học chữ, Tnú tỏ ra tối dạ, học hoài không nhớ, Tnú lấy đá tự đập đầu chảy máu, nhưng chỉ một lời động viên của anh Quyết " không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi ", câu nói ấy đã truyền thêm sức mạnh để Tnú học tốt, với mục đích sau này thay anh Quyết lãnh đạo phong trào cách mạng quê hương mình.

    b. Tnú gan dạ, dũng cảm, mưu trí:

    Làm giao liên, Tnú tỏ ra rất gan dạ, mưu trí. Anh không bao giờ chịu đi đường mòn, giặc vây các ngả, Tnú nhìn quanh một lượt " xé rừng mà đi ". Qua sông anh không lựa chổ nước êm mà cứ " lựa chổ thác mạnh " để bơi ngang, vì Tnú biết rằng " qua chổ nước êm thằng Mĩ – Diệm hay phục, chổ nước mạnh nó không ngờ ". Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt luôn thư vào bụng, cam chịu tù đày, tra tấn chứ nhất định không khai, một lòng trung thành với cách mạng. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay, Tnú gan dạ không hề kêu than, mà cắn rang chịu đựng " răng anh đã cắn nát môi rồi ".. Tnú còn là một con người giàu ý chí nghị lực, biết vượt lên nổi đau gia đình, bi kịch cá nhân để sống đẹp, sống đúng, sống có ý nghĩa. Thuở nhỏ đã chịu cảnh mồ côi cha mẹ, nhưng biết noi theo gương cụ Mết, dân làng Xô – man đi nuôi giấu cán bộ. Lớn lên phải tận mắt chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù đánh chết. Bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay nhưng anh vẫn dùng bàn tay cầm súng đi theo con đường cách mạng trả thù nhà, đền nợ nước. Đúng như lời cụ Mết nhận định về Tnú " đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta ".

    c. Tnú thương yêu quê hương bản làng:

    Tnú sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa những con người mộc mạc, chân tình, cho nên Tnú rất yêu thương bản làng của mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về Tnú vô cùng xúc động, anh nhớ từng hàng cây, con đường, dòng suối mát và nhớ nhất là tiếng chày giã gạo. Tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà, những cô gái Strá, của mẹ anh thời xa xưa, của Mai, của Dít, bởi từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày đó rồi.

    d. Tnú rất yêu thương vợ con:

    Tnú yêu Mai bằng một tình yêu chân thành và mãnh liệt, vì nó bắt nguồn từ tình bạn bè, tình đồng chí. Ba năm đi bộ đội, khi trở về làng nhìn thấy gốc cây xà nu, nơi mà ngày xưa khi Mai đứng đón anh khi anh đi tù về, những kỉ niệm thời thơ ấu, lúc yêu nhau lại ùa về " những kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như một nhát dao ". Ngày con Tnú chào đời, vì bận công tác cách mạng, Tnú không đi Kon Tum mua vải cho con được, Tnú phải xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Vì bí mật cách mạng, Tnú buộc phải núp sau gốc cây và chứng kiến kẻ thù man rợ dùng cây sắt đánh đập, tra tấn dã man vợ con anh, chúng thực hiện mưu " bắt được cọp cái và cọp con, tức sẽ dụ được con cọp đực ". Tnú đau đớn dữ dội nhưng anh không làm gì được, tay anh bóp hàng chục trái vả mà không hề hay biết. Khi nghe tiếng con ré lên rồi im bặt, căm thù dồn nén không chịu được nữa, Tnú lao vào lũ giặc với một tiếng thét lớn " Tao đây, Tnú đây ". Rồi anh hành động thật đẹp " anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc ôm lấy mẹ con Mai ", mặc dù anh hiểu rằng sau đó anh sẽ bị giặc bắt và giết chết. Tnú không cứu được hai mẹ con Mai vì Tnú chỉ có hai bàn tay không. Dân làng thương Tnú nhưng cũng không làm gì được cho anh vì họ cũng chỉ có hai bàn tay không.

    e. Tnú rất căm thù giặc:

    Lòng căm thù giặc của Tnú mang đậm chất Tây Nguyên. Tnú mang trong tim ba mối thù: Mối thù của bản thân (Lưng Tnú dọc ngang vết dao giặc chém, mười đầu ngón tay bị đốt), mối thù gia đình (Vợ con chết thảm khốc dưới cây gậy sắt của giặc), mối thù buôn làng (Tnú không bao giờ quên hình ảnh những cánh rừng xà nu bị tàn phá, những người dân vô tội bị sát hại). Khi Tnú buộc phải nhìn cảnh vợ con mình bị giặc tra tấn, căm thù dồn nén đã biến đôi mắt anh thành " hai cục lửa lớn ". Khi giặc đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu, ngay lập tức mười đầu ngón tay Tnú thành mười ngọn đuốc, lửa từ mười đầu ngón tay thiêu đốt gan ruột Tnú đau đớn" anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng ". Anh không hề kêu than mà cắn răng chịu đựng, rồi căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng, tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét, tạo thành sức mạnh căm hờn để dân làng Xô – man vùng lên giết sạch một tiểu đội Mĩ. Lòng căm thù của Tnú còn được thể hiện ở việc Tnú dùng chính bàn tay thương tật của mình cầm súng trả thù nhà, nợ nước.

    f. Tnú có tính kỷ luật cao:

    Ba năm tham gia lực lượng giải phóng quân, Tnú rất nhớ nhà, nhớ quê hương. Được cấp trên cho phép về một đêm và Tnú cũng chỉ về một đêm đúng quy định.

    g. Tnú mang tính cách của người Tây Nguyên:

    Tnú mạnh mẽ và kiên quyết trong căm thù, Tnú trả thù một cách lạnh lùng và dứt khoát. Vẻ đẹp Tây Nguyên còn kết tụ tại hai bàn tay Tnú: Bàn tay trung thực ấy dám lấy đá đập vào đầu để trừng phạt mình vì học hay quên. Bàn tay ấy đã từng đặt lên bụng mình và nói với giặc " cộng sản ở đây này ". Bàn tay ấy cũng đã từng che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của giặc. Bàn tay Tnú là bàn tay của sự hận thù, vì bàn tay ấy đã thành thương tật do giặc Mĩ gây ra. Bàn tay Tnú là bàn tay của sự trả thù, mặc dù bàn tay Tnú đã thành thương tật Tnú vẫn cầm súng trả thù nhà, nợ nước.

    *Tóm lại: Câu chuyện về cuộc đời và con đường cách mạng của Tnú, tiêu biểu cho số phận và con đường cách mạng của dân tộc Tây Nguyên trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước.

    3. Tập thể dân làng Xô – man:

    a. Nhân vật tập thể:

    Ngày quân Mĩ – Diệm kéo đến tàn sát dân làng Xô – man: Treo cổ anh Xút, chặt đầu bà Nhan, đại bác bắn ngày hai lần. Trước hành động tàn ác, dã man của giặc, dân làng căm thù nổi dậy đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng: Cả làng Xô – man từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, ai cũng có trong tay một cây giáo, một cây mác, một cây rựa sáng loáng được mài bằng đá núi Ngọc Linh do Tnú gùi về, ai không có giáo mác thì có năm trăm cây chông. Vậy là mỗi người dân là một chiến sĩ, họ chiến đấu bằng sự nhiệt tình cách mạng, bằng lòng dũng cảm, kiên cường và bằng một niềm tin tuyệt đối vào Đảng " Cán bộ là Đảng, Đảng Còn, núi nước này còn ". Vì vậy kẻ thù có ra sức lùng sục, khủng bố, dân làng vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế cho cán bộ cách mạng và bảo vệ họ. Dân làng Xô – man tự hào " trong suốt năm năm trời, không có một cán bộ cách mạng nào bị bắt ". Vậy nên, tập thể dân làng Xô – man là mảnh đất màu mỡ cho những hạt giống cách mạng nảy mầm và vươn lên thành những con người vinh quang của Tổ Quốc (Tnú, Mai, Dít).

    b. Cụ Mết:

    *Ngoại hình:

    Cụ Mết ngoài 60 tuổi mà vẫn khỏe mạnh " bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt "," râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng "," mắt sáng và xếch ngược "," ngực căng như một cây xà nu lớn ".

    *Tính cách:

    Cụ Mết là một già làng rất có uy tính, khi cụ nói " mọi người đều im bặt ", đặc biệt cụ không bao giờ khen tốt, giỏi, vừa ý lắm thì cụ nói" được ".

    Cụ Mết là người có kinh nghiệm trong chiến đấu, cụ biết khi nào là phải nhẫn nhịn là khi mình chỉ có " hai bàn tay không " (Cụ không cho Tnú nhảy vào khi bọn lính đang đánh đập mẹ con Mai), nhưng cụ lại kịp thời lãnh đạo giết chết mười tên lính.

    Cụ Mết giáo dục lòng yêu nước và tinh thần cách mạng cho dân làng Xô – man " Đảng còn, núi nước này còn ", cụ dạy cho dân làng Xô – man chống giặc Mĩ bằng con đường vũ trang " chúng cầm súng, mình cầm giáo ".

    *Tình yêu quê hương, bản làng:

    Cụ rất tự hào về bản làng, về con người Strá, cụ nói: " không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta "," gạo người Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này ". Yêu quê hương bản làng, cụ nuôi giấu cán bộ và quyết cùng dân làng Xô – man đấu tranh bảo vệ buôn làng, Tổ quốc.

    Cụ yêu thương dân làng tha thiết: Nhường muối cho người đau, gặp lại Tnú sau ba năm xa cách, cụ vừa vui, vừa cảm động và đãi Tnú ăn những món đặc biệt của làng.

    c. Mai:

    Mai là một phụ nữ thông minh, dịu dàng, thủy chung và kiên cường. Thuở nhỏ Mai đã làm giao liên, cùng T nú vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai thông minh học chữ giỏi, mau nhớ. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai dũng cảm lấy thân mình bảo vệ cho đứa con và kiên quyết không khai một lời nào với giặc.

    d. Dít:

    Dít thuở nhỏ là một cô bé can đảm, nhanh nhẹn. Ngày làng bị khủng bố, Dít bò theo máng nước vào rừng để tiếp tế lương thực cho bộ đội, bị giặc bắt, giặc bắn dọa " đạn sượt qua tai, sém tóc, Dít khóc thét lên nhưng đến viên thứ mười, nó im lặng và bình thản nhìn bọn giặc ".

    Dít căm thù giặc thật là lạnh lùng: Ngày mẹ con Mai chết cả làng đều khóc, cụ Mết và Tnú cũng khóc, riêng Dít không khóc, dồn nén yêu thương để nung nấu căm thù bằng cách giã gạo cho Tnú đi trả thù cho chị. Dít lớn lên trở thành một bí thư chi bộ thật vững vàng, nhiệt huyết, việc công tư rất rõ ràng. Ngày Tnú về thăm làng, Dít rất mừng, nhưng chị vẫn hỏi giấy phép, khi biết Tnú về có phép Dít mới thể hiện sự vui mừng.

    e. Bé Heng:

    Là một cậu bé lầm lì, ít nói và là một du kích giữ làng tốt. Bé Heng rất rành hầm chông, hố chông của làng mình.

    IV. TỔNG KẾT:

    " Rừng xà nu"là một thiên mang ý nghĩa và vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hóa Tây Nguyên. Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
     
    LieuDuong thích bài này.
  11. Ngân Ngân08 Mỹ nữ sỉ lẻ phóng lợn :3

    Bài viết:
    160
    11. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH - NGUYỄN THI

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. GIỚI THIỆU:

    1. Tác giả:

    Nguyễn Thi (1928 – 1968) tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn, quê quán Nam Định, vào Sài Gòn năm 1943 vừa đi làm kiếm sống, vừa tự học. Nguyễn Thi là một trong những cây bút hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam, thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông là người miền Bắc, nhưng gắn bó sâu nặng với nhân dân miền Nam và trở thành nhà văn của người nông dân Nam Bộ.

    2. Tác phẩm:

    a. Hoàn cảnh sáng tác:

    Truyện ngắn "những đứa con trong gia đình" được viết vào tháng 2/1966 khi nhà văn Nguyễn Thi đang chiến đấu chống Mĩ trên chiến trường Nam Bộ. Đây là thời điểm Mĩ đang ồ ạt đổ quân vào miền Nam để thực hiện chiến tranh cục bộ, nên nhiều thanh niên miền Nam tình nguyện lên đường chống Mĩ. Truyện được đưa vào tập "truyện và kí" của Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978.

    b. Chủ đề:

    Truyện ngắn "những đứa con trong gia đình" phản ánh sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần cho người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

    c. Tình huống truyện:

    Truyện "những đứa con trong gia đình" là câu chuyện về anh giải phóng quân tên Việt. Việt rơi vào tình huống đặc biệt: Trong trận đánh với giặc Việt bị thương nặng, phải nằm lại chiến trường. Anh nhiều lần ngất đi, tỉnh lại, cho nên truyện được kể lại theo dòng ý thức của nhân vật, có khi câu chuyện bị đứt quãng vì Việt ngất đi, rồi câu chuyện được nối lại khi Việt tỉnh dậy.

    d. Tóm tắt tác phẩm:

    Truyện kể về gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Trong một trận đánh quyết liệt giữa đơn vị của Việt với một chiến đoàn lính Mĩ, Việt đã tiêu diệt được xe bọc thép của giặc, Việt bị thương nặng phải nằm lại chiến trường vì lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Trong tình trạng ngất đi tỉnh lại ấy, Việt nhớ về người thân, gia đình và đồng đội. Từ đó, người đọc có thể hình dung ra cả một tình yêu nước và mỗi thành viên là một chiến sĩ diệt Mĩ kiên cường. Sau ba ngày, đơn vị đã tìm thấy Việt trong một lùm cây rậm, đặc biệt Việt vẫn ở tư thế tiến công.

    II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:

    1. Má Việt:

    a. Ngoại hình:

    Má Việt là một người nông dân Nam Bộ có ngoại hình chắc khỏe "cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, một mình má có thể bưng thúng lúa từ dưới thuyền lên đặt trên giường ngủ". Cuộc sống nghèo khổ hiện lên ở cái nón, cái áo bà ba "cái nón rách, áo bà ba đẫm mồ hôi".

    b. Má là người phụ nữ đảm đang:

    Sáng nào cũng vậy, má miệng thì dặn con mà chân thì đẩy xuồng ra giữa sông. Chiều về, cái nón rách chưa kịp quạt cho khô mồ hôi trên mặt, lại bơi đi canh hai mới trở lại nhà nên người lúc nào cũng sặc mùi "lúa gạo và mồ hôi", cái mùi của dầm nắng, dãi sương để nuôi con.

    c. Má là người biết kìm nén đau thương:

    Chồng bị giặc chặt đầu, nhưng má Việt vẫn cố không để rơi nước mắt. Nhưng chiều hôm ấy về nhà má mới khóc, và nhiều năm sau đó, ai nhắc lại chuyện đau thương ấy "má chỉ nằm khóc chứ không hề kể gì hết". Nghĩa là, má nén đau thương vào lòng, một mình chịu đau khổ.

    d. Má rất mực yêu thương chồng con:

    Ngày ba Việt bị giặc chặt đầu, má Việt "một tay bồng em mày, một tay tao cắp rổ đi theo thằng giặc để đòi đầu chồng", miệng thì đối đáp với kẻ thù, còn hai bàn tay to thì che lên đầu đàn con đang đứng nép dưới chân mình. Trong cuộc sống thì đôi chân luôn dính đầy sình đất, lội hết đồng này sang bưng khác để làm công nuôi con và dò tình thế của bọn lính làng.

    2. Chú Năm:

    a. Lai lịch:

    Chú Năm xuất thân là người nông dân Nam Bộ, chú là em của ba Việt (ba Việt là ông tư Năng), chú tham gia kháng chiến chống Pháp, bị thương chú trở về quê hương sông nước Nam Bộ. Từ ngày ba rồi má Việt mất, chú thay anh chị nuôi và dạy dỗ các cháu bằng một tình yêu thương vô bờ bến. Vì vậy, việc gì quan trọng trong đời Việt và Chiến, hai chị em cũng đều nghe theo quyết định của chú (từ việc đi bộ đội đến những lời căn dặn của chú).

    b. Ngôn ngữ:

    Ngôn ngữ của chú Năm đậm chất Nam Bộ "trọng trọng", "thỏn mỏn", nghĩa là lớn một chút nữa và chuyện nhỏ, ngôn ngữ ấy làm cho người đọc thích thú.

    c. Sở thích:

    Sở thích đầu tiên của chú Năm là "thích đi đây đi đó" và cũng "ham sông ham bến". Ngoài ra chú còn thích sống theo đạo nghĩa, theo tinh thần của Nguyễn Đình Chiểu thuở xa xưa "gọn bề gia thế, đặng bề nước non", nghĩa là đảm việc nhà sẽ giỏi việc nước.

    d. Chú là người yêu quê hương đất nước:

    Tình yêu nước của chú Năm được thể hiện qua câu hò Nam Bộ, vui buồn chú đều hò, mặc dù giọng hò của chú "đục và tức như gà gáy". Đặc biệt, chú còn hò để tuyên truyền tinh thần yêu nước cho cháu, bằng cách đặt bàn tay lên vai Việt, mắt nhìn vào mắt Việt như gởi gắm hết nỗi lòng của mình.

    e. Chú là người viết cuốn sổ gia phả cho gia đình Việt:

    Chú viết cuốn sổ gia phả cho dòng họ mình bằng chữ viết "lòng còng", lời văn mộc mạc. Đặc biệt, cuốn sổ ghi rất chi tiết: Ông nội bị bắn vào giữa bụng, bà nội bị chúng đánh ba roi, bọn lính chửi bác hai một câu..

    3. Việt:

    a. Lai lịch:

    Việt là con trai thứ hai của chú Tư Năng, Việt có người chị nuôi là chị hai, chị ruột là chị Chiến và thằng em là thằng Út. Gia đình Việt là một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ông nội và ba má đều bị giặc giết, từ đó Việt nuôi chí căm thù, nhất định sẽ đi bộ đội để trả thù.

    b. Việt là người thanh niên Nam Bộ có phẩm chất hồn nhiên:

    Việt là chiến sĩ trẻ chưa qua tuổi mười tám, ở Việt vẫn còn giữ được nét hồn nhiên của một chàng trai mới lớn. Việt đã "cầm súng tự động", "đánh Mĩ bằng lê", thế mà Việt vẫn luôn mang bên mình cái ná thun từ thuở nhỏ.

    Khi Việt bị thương nặng đến đêm thứ hai, trong đêm tối nằm một mình giữa chiến trường, Việt không sợ bom đạn của kẻ thù, không sợ chết vì vết thương nặng mà lại sợ bóng đêm, sợ "con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chõng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa", Việt sợ bóng đêm, sợ đến nổi "nằm thở dốc" và mong gặp lại anh Tánh "níu chặt lấy tay anh mà khóc".

    Việt tranh giành đi bộ đội với chị để lập được chiến công trả thù cho ba má. Việt tranh giành rất trẻ con bằng cách so chiều cao. Nhưng Việt lại phó thác hết việc nhà cho chị, chị Chiến nói gì Việt cũng ừ. Trong khi chị Chiến bàn bạc việc nhà với Việt một cách nghiêm túc thì Việt lại hết sức vô tư "lăn kềnh ra ván cười khì khì", rồi lại rình chụp một con đom đóm và "ngủ quên lúc nào không biết". Ở đơn vị Việt rất yêu quý đồng đội, nhưng lại không nói cho đồng đội biết là mình có chị, vì Việt sợ mất chị nên "giấu chị như giấu của riêng vậy".

    Việt là hình ảnh của tuổi trẻ sinh động Việt Nam trong cuộc sống đời thường của giai đoạn chống Mĩ cứu nước.

    c. Việt rất giàu tình yêu thương gia đình và đồng đội:

    *Tình cảm của Việt dành cho má:

    Việt là người thanh niên rất giàu tình yêu gia đình, mặc dù bị thương nặng, ngất đi tỉnh lại nhiều lần, nhưng khi nào tỉnh dậy, người Việt nhớ đầu tiên là má. Má là người để lại trong anh nhiều kỉ niệm, mỗi kỉ niệm được đong bằng tình yêu "xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn". Má luôn hiện hữu trong cuộc sống của Việt. Trong cái đêm thiêng liêng hai chị em bàn tính thu xếp chuyện gia đình để lên đường chiến đấu, Việt thấy "hình như má cũng về đâu đây".

    *Tình cảm của Việt dành cho chị Chiến:

    Tình cảm của Việt dành cho chị được thể hiện ở việc Việt tuyệt đối tin tưởng chị, ngày mai lên đường nhập ngũ, chị Chiến sắp xếp việc nhà cửa thế nào Việt cũng đồng ý, Việt nói "chị tính sao cứ tính mà". Từ ngày má mất, đối với Việt chị Chiến là hình bóng của má, lúc nào Việt cũng so sánh, liên tưởng chị với má "chị nói in như má vậy". Đặc biệt đoạn văn tả cảnh hai chị em Việt – Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm "Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ thế" . Ngày thường chị Chiến sẽ bảo Việt đi chậm lại, nhưng hôm nay thì không, chị cứ lầm lũi đi theo, Việt phát hiện ra điều này bởi tiếng chân chị cứ bịch bịch nặng nề, Việt xót xa và thương chị đến lạ lùng. Bởi lẽ trước giờ khắc chia tay, ngày mai chị em mỗi người mỗi ngả, ra chiến trường biết ai còn, ai mất, mà mối thù của cha mẹ thì vẫn còn đè nặng trên vai hai chị em. Mối thù ấy khiến họ yêu thương gắn kết nhau hơn, họ yêu thương nhau bằng tình máu mủ, bằng thù nhà, nợ nước.

    *Tình cảm của Việt dành cho chú Năm:

    Việt rất thương chú Năm, tình cảm ấy đã có từ ngày Việt còn rất nhỏ, hồi đó chú hay bênh Việt, Việt nhớ chú hay hò. Ngày chị em Việt lên đường tòng quân, chú Năm lại cất tiếng hò, tiếng hò như thổi vào tâm hồn Việt hồn thiêng sông núi.

    *Tình cảm của Việt dành cho đồng đội:

    Việt nhớ đồng đội, nhớ từng khuôn mặt anh em "cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công..".

    d. Việt có phẩm chất anh hùng và lòng căm thù giặc sâu sắc:

    Việt sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước và gắn bó cách mạng từ thời kháng chiến chống Pháp đến chống Mĩ (Ông nội, ba Việt, chú Năm đều tham gia kháng chiến). Việt căm thù giặc sâu sắc bởi cha bị giặc chặt đầu, mẹ trúng pháo của giặc mà chết, ông nội bị giặc bắn, bà nội bị chúng đánh ba roi. Nên Việt chưa đủ mười tám tuổi, nhưng vẫn cương quyết đòi đi bộ đội, vì Việt nóng lòng muốn trả thù cho ba má và ý thức về truyền thống cách mạng của gia đình. Nhưng chị Chiến không cho Việt đi, quá bức xúc "Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng: Bộ mình chị biết đi trả thù à?". Đối với Việt, cầm súng trước hết là thực hiện ý nguyện của má và trách nhiệm nối tiếp dòng sông truyền thống cách mạng của gia đình.

    Việt bị thương rất nặng, toàn thân đau đớn, mắt không còn nhìn thấy gì, bàn tay chín ngón đều bị thương, duy còn một ngón cái là có thể nhúc nhích được. Một mình nằm lại chiến trường Việt không hề sợ hãi, nghe tiếng súng giặc vây bốn bề, Việt nghĩ "trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày", bởi vì với Việt giặc chỉ là kẻ tàn bạo nhưng hèn nhát "mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy" . Mặt khác Việt còn luôn lạc quan hướng về tiếng súng của đồng đội. Sau ba ngày trải qua cái đau, cái đói và kề bên cái chết, Việt vẫn cầm chắc tay súng mặc dù đã kiệt sức Việt vẫn luôn ở tư thế tiến công "một ngón tay Việt vẫn còn nhúc nhích được đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng", điều này cho thấy Việt anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.

    Nguyễn Thi đã giúp người đọc nhìn thấu tỏ tính cách anh hùng trong con người Việt. Ông bà, ba má, chú Năm, chị Chiến là điểm tựa, sức mạnh tinh thần thôi thúc Việt lên đường chiến đấu. Ra trận Việt muốn giết được nhiều giặc, vì đó là cách "tính điểm" tình thương dành cho má và gia đình. Bởi vậy, với câu chuyện gia đình Việt là một dòng sông cách mạng, thì Việt là khúc sông sau tiếp nối truyền thống cách mạng ấy, anh đã dùng tuổi trẻ của mình diệt giặc Mĩ để trả thù nhà, nợ nước.

    4. Chị Chiến:

    a. Ngoại hình:

    Chị Chiến có ngoại hình khỏe mạnh, rất giống má "hai tay tròn vo", "thân hình to và chắc nịch", ngoại hình ấy phù hợp để gánh vác công việc làm đồng và nuôi em khi ba mẹ mất.

    b. Ngôn ngữ:

    Khi dành đi bộ đội với em, chị xưng hô bình đẳng "tao, mày". Nhưng khi thu xếp chuyện gia đình để mai lên đường chiến đấu, chị xưng chị em với Việt để thể hiện vai trò là một người chị lớn trong gia đình. Khi thề không đội trời chung với giặc, chị dùng ngôn ngữ sắc bén "là thân con gái", đặc biệt cái đêm thu xếp chuyện gia đình chị nói nghe y hệt má, Việt phải thốt lên "chị nói in như má vậy" .

    c. Chị Chiến đảm đang tháo vát:

    Chị chiến có nét rất giống má – đó là người phụ nữ Nam Bộ đảm đang, tháo vát. Trước ngày lên đường gia nhập bộ đội, chị Chiến tính toán thu xếp việc gia đình thật chu đáo, từ việc gửi thằng Út cho chú Năm, đến việc ruộng nương nhà cửa, nhắn tin cho chị hai biết, rồi việc gởi bàn thờ ba má.. Chị Chiến đều thu xếp hợp tình, hợp lí khiến cho Việt và chú Năm rất thán phục. Trước sự chu đáo của chị Chiến, Việt chỉ còn biết trả lời "chị nói nghe thật gọn", còn chú Năm khi nói về đứa cháu gái của mình, thì chú nói với một niềm tự hào và tin tưởng tuyệt đối "việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non", có nghĩa là đảm việc nhà thì tất sẽ giỏi việc nước.

    d. Chị Chiến là người thanh niên có phẩm chất hồn nhiên:

    Chiến tính khí còn rất trẻ con, chị thương em nhưng vẫn tranh giành nhau từ việc soi ếch ngoài ruộng, đến việc lập chiến công bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy. Chiến hồn nhiên tranh giành đi bộ đội với em bằng cách so tuổi chứ không chịu so chiều cao, nhưng Chiến vẫn luôn ý thức được mình là chị phải nhường nhịn em.

    e. Chị Chiến rất yêu thương gia đình:

    Trước ngày lên đường, chị dặn dò Việt "xa nhà thì ráng học chúng, học bạn, thù cha mẹ chua trả mà bỏ về thì chú Năm chặt đầu". Câu nói mộc mạc, chân thành hàm ý khuyên Việt khi không còn trong vòng tay chị, Việt hãy cố gắng phấn đấu cho bằng bạn, bằng bè và đừng làm buồn lòng chú Năm, bởi chú đối với hai chị em bây giờ là người cha. Khi hai chị em chiến đấu ở chiến trường, chị thường xuyên viết thư động viên, khích lệ em. Đặc biệt trước ngày lên đường chị không còn xưng hô mày tao với em, mà xưng chị em thật là ngọt ngào, bởi chị biết rằng từ ngày má mất, ngoài chuyện hoàn thành nhiệm vụ thay cho má lo cho em, chị còn rất thương em vì côi cút.

    f. Chị Chiến anh dũng, kiên cường và căm thù giặc sâu sắc:

    Bước vào tuổi mười chín – cái tuổi đẹp nhất của thời con gái, với mối thù nhà sâu nặng, chị Chiến xin gia nhập bộ đội, giết giặc trả thù cho ba má với một lời thề "đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!". Lời thề hàm nghĩa không bao giờ đội trời chung với giặc Mĩ.

    III. TỔNG KẾT:

    Truyện kể về những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương, cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Tác phẩm thể hiện những đặc sắc về nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Thi: Trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí sắc sảo; ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.
     
    LieuDuong thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...