- Xu
- 148,291


1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
- Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969), lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, khi hoạt động ở nước ngoài tên Nguyễn Ái Quốc.
- Quê: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.
- Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước.
- Lúc nhỏ học chữ Hán ở nhà, học trung học ở Huế, dạy học ở trường Dục Thanh – Phan Thiết.
- 1911 ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba suốt ba mươi năm trên khắp thế giới.
- 1941 về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.
- CMT8 thành công, 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đọc bản: "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bầu làm Chủ tịch nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng của dân tộc cho đến lúc qua đời.
=> HCM là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào quốc tế cộng sản. Ngoài sự nghiệp cách mạng, Người còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 26/8/1945 Chủ tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo bản "Tuyên ngôn độc lập". Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Người đọc bản TNĐL khai sinh nước Việt Nam mới.
b. Đối tượng và mục đích sáng tác:
- Đối tượng: TNĐL không chỉ đọc trước toàn dân ta, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là với những lực lượng thù địch đang lăm le xâm lược nước ta.
- Mục đích: Tuyên bố trước nhân dân cả nước và thế giới về thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của đất nước. Ý chí bảo vệ nền độc lập tự chủ, bác bỏ luận điểm xảo trá của thực dân Pháp.
c. Giá trị của bản tuyên ngôn:
- Giá trị lịch sử: Là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến. Khẳng định chủ quyền và vị thế bình đẳng của Việt Nam trên toàn thế giới. Là mốc son lịch sử mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do.
- Giá trị văn học:
+ Về tư tưởng: Là một áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta.
+ Về nghệ thuật: Là một tác phẩm chính luận kiệt xuất: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1. Cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản TNĐL:
a. HCM nêu nguyên lý chung của bản tuyên ngôn: Đó là quyền bình đẳng, quyền sống tự do, sung sướng, hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc.
Chân lý đó không ai "chối cãi được", vì nó đã rành rành ghi lại trong bản "Tuyên ngôn độc lập" năm 1776 của Mĩ và "Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền" năm 1791 của Pháp. Đây là những văn kiện lịch sử có tầm vóc toàn nhân loại, đã nêu cao quyền con người.
=>Khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, là nguyên lý thiêng liêng cao đẹp của nhân loại.
* Về nghệ thuật: Cách trích dẫn dung đòn "Gậy ông đập lưng ông" vừa khéo léo, mềm mỏng, vừa cứng cỏi, kiên quyết. Khéo léo, mềm mỏng bởi vì HCM tỏ ra rất trân trọng những tuyên bố bất hủ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp. Cứng cỏi, kiên quyết vì Bác muốn ngăn chặn âm mưu xâm lược nước ta của Pháp và Mĩ. Nếu họ cố tình đi ngược lại chân lí đã được khẳng định trong bản Tuyên ngôn, tức là họ đã phủ nhận chính tổ tiên mình, làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo đã từng là niềm tự hào của cha ông họ.
b. Đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Từ nguyên lí chung về quyền con người, HCM đã suy rộng ra về quyền sống, quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới.
=>Đóng góp quan trọng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nó là phát sung lệnh mở đầu cho cơn bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập ở các nước thuộc địa.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn, chúng ta đã thấy được cách lập luận chặt chẽ, cách dung văn chương để đánh địch khéo léo, hiệu quả của HCM. Bên cạnh đó, đoạn văn còn cho thấy niềm tự hào, kín đáo của Bác khi Người đặt ba bản tuyên ngôn, ba cuộc cách mạng ngang hang nhau; trong đó cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện được hai nhiệm vụ mà cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ đã làm: Độc lập dân tộc và tự do dân chủ.
Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Dân quyền và Nhân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
Cách đặt vấn đề của Bác cũng rất hay, hùng hồn và trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến thứ hai vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
a. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp:
Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp: "Lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta".
Nếu Pháp kể công khai hóa đối với Việt Nam, thì bản tuyên ngôn đã chỉ ra những tội ác của chúng như: Năm tội ác về chính trị: Tước đoạt tự do, dân chủ. Luật pháp dã man, chia để trị. Chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta. Ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân. Đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện. Năm tội ác lớn về kinh tế: Bóc lột, tước đoạt. Độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Sưu thuế nặng nề vô lí làm dân ta bần cùng. Đè nén, khống chế các nhà tư sản của ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta. Gây ra thảm họa cho hơn hai triệu đồng bào ta chết đói 1945.
Nếu Pháp kể công bảo hộ An Nam, thì bản Tuyên ngôn đã chỉ ra trong vòng năm năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã "Bán nước ta hai lần cho Nhật". Pháp còn thẳng tay khủng bố Việt Minh: "Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng". Qua đó, tố cáo bản chất đê hèn, khát máu của thực dân Pháp, trái hẳn với chính sách khoan hồng, nhân đạo của Việt Minh.
b. Quá trình đấu tranh và giành độc lập của nhân dân ta:
Từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng minh.
Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị".
Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn bị xóa bỏ. Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước đồng minh: "Quyết không thể không công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam", "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập."
Tóm lại đoạn văn là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
3. Lời tuyên bố với thế giới:
Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập (cơ sở pháp lí), và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên).
Nhân dân ta quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và long yêu nước).
III. TỔNG KẾT:
"Tuyên ngôn độc lập" là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Tác phẩm là một áng văn chính luận mẫu mực, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn; Vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của kẻ thù, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân tộc.
2. TÂY TIẾN - QUANG DŨNG
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Quang Dũng (1921 – 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Năm 2001 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm tiêu biểu: Mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn mùa hoa gạo..
"Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sang tác:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, với phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó đa số là học sinh, sinh viên. Binh đoàn Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào, cũng như miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, hoàn cảnh chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến rất gian khổ. Tuy vậy, nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang dung là đại đội trưởng ở đó từ đầu 1947, đến cuối 1948 ông chuyển sang đơn vị khác. Khi nhà thơ về dự Đại hội toàn quân liên khu III, tại làng Phù Lưu Chanh, Quang Dũng sáng tác bài thơ: "Nhớ Tây Tiến". Đến năm 1975 in lại tác giả đổi tên là "Tây Tiến", in trong tập "Mây đầu ô".
b. Ý nghĩa nhan đề:
Tây Tiến là tiến về phía Tây so với Hà Nội. Nhan đề Tây Tiến khiến cho bài thơ mang âm hưởng của một khúc quân hành. Tên bài thơ trùng với tên binh đoàn, nên đọc lên tạo không khí của một cuộc hành quân đầy dũng khí. Nhan đề còn là tiếng gọi thường trực trong lòng những người lính Tây Tiến.
c. Chủ đề:
Bài thơ Tây Tiến miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc và nét đẹp hào hoa, dũng cảm, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
e. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt là khi bài thơ khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng: Lãng mạn là cái tôi tràn đầy tình cảm, là sử dụng các yếu tố cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường. Thiên nhiên và con người Tây Bắc thật huyền bí và thơ mộng. Ngoài ra chất lãng mạn còn là tinh thần xả thân vì nước. Bi tráng là vừa đau thương, vừa hùng tráng. Tức là không hề che giấu sự thật đau thương, nhưng bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1. Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở (Đoạn 1: 14 câu đầu) :
a. Hai câu đầu: Mở đầu bài thơ là lời thơ mang âm điệu da diết:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi".
Câu cảm thán kết hợp với điệp từ "nhớ", kết hợp với vần "ơi" đã gieo vào lòng người đọc một sức gợi cảm to lớn. Bởi câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của một người không muốn rời xa nơi mà mình đã từng gắn bó. Nỗi nhớ dâng trào bật thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi!". Từ láy "Chơi vơi" dung rất sáng tạo, đã hình tượng hóa, cụ thể hóa nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, bồng bềnh, khắc khoải, tràn ngập cả không gian và thời gian. Nó như ám ảnh và hiện hữu trong tâm hồn Quang Dũng.
b. Sáu câu tiếp theo là nỗi nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ:
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu rộng lớn và thời tiết khắc nghiệt:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Tác giả vận dụng bút pháp lãng mạn bằng cách tô đậm cái phi thường để diễn tả thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại. Trước hết tác giả liệt kê những vùng đất lạ "Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu". Đó là những vùng đất hẻo lánh, nằm ở phía Tây biên giới Việt – Lào nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng hành quân.
Thời tiết Tây Bắc thật là khắc nghiệt, thể hiện ở cụm từ "sương lấp". Sương lấp là sương mù dày đặc, che lấp cả con đường hành quân, sương đêm gây ra nhiều bệnh tật làm cho người chiến sĩ mỏi mệt "Đoàn quân mỏi", đây là hình ảnh bi thương có thực, nhưng mà không bi lụy, bi mà hào hùng, lãng mạn, bởi vì họ mệt mỏi nhưng họ vẫn trở về với chiến công lấp lánh trong đêm sương và vòng hoa chiến thắng được dệt bằng sương đêm.
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu hiểm trở:
Với những con dốc:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"
Câu thơ thật là gân guốc với năm thanh trắc trong một dòng thơ bảy chữ, cộng với điệp từ "dốc" và từ láy giàu giá trị tạo hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm", nhằm diễn tả dốc lên thì ghập ghềnh, quanh co, dốc xuống thì sâu thăm thẳm. Dù hành quân lên dốc hay xuống dốc thì người chiến sĩ đều mệt và thở gấp như nhịp đọc của câu thơ.
Địa bàn chiến đấu hiểm trở bởi núi đèo:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặt từ láy "heo hút" lên đầu câu. "Heo hút cồn mây" gợi sự cao vút, vắng vẻ của núi đèo. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây nổi thành cồn gọi là "cồn mây". Người chiến sĩ hành quân lên ngọn núi cao, họ tưởng chừng như đang đi trong mây nên mũi súng chạm trời. Cuộc hành quân thật gian nan, lên đèo, xuống dốc nhưng họ không hề có ý nghĩ bi quan, mà họ lại tỏ ra hào hùng, lãng mạn, thể hiện ở nghệ thuật nhân hóa "súng ngửi trời". Điều này thể hiện sự hồn nhiên, tinh nghịch của người lính trước độ cao thử thách của núi đèo:
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Câu thơ như bẻ làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", với điệp từ "ngàn thước" và đối lên/xuống nhằm diễn tả hai sườn núi cao, thẳng đứng như thách thức, như cản trở con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Họ hành quân lên cao lại xuống thấp, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, núi cao sừng sững thế mà khi lên đỉnh núi, họ lại thở phào nhẹ nhõm, thể hiện ở câu thơ toàn là thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", họ phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn mưa núi, thấp thoáng họ nhìn thấy một vài ngôi nhà sàn bồng bềnh trong biển nước.
c. Sáu câu cuối là nỗi nhớ về sự hy sinh của đồng đội và cuộc sống bình dị,
ấm áp tình người của người dân Tây Bắc:
Trong kí ức về Tây Tiến có hình ảnh đồng đội hi sinh gợi ấn tượng sâu sắc trên chặng đường hành quân gian khổ:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Hình ảnh bi thương, có thực "Anh bạn dãi dầu không bước nữa", bởi thiên nhiên Tây Bắc thật là khắc nghiệt. Đó là thử thách đối với những chàng trai Hà Nội mới rời ghế nhà trường, lên đường chiến đấu, với một lí tưởng cao đẹp. Cách gọi "anh bạn" nghe thật gần gũi, thân thương và từ láy "dãi dầu" nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Cho nên trên đường hành quân, họ mệt mỏi, kiệt sức, họ không thể bước được nữa, họ gục xuống trong tư thế đang bước đi "gục lên súng mũ", họ hi sinh trong tư thế thật đẹp, thật hiên ngang. Cái chết của họ là cái chết về thể xác, khởi đầu cho sự bất tử về tinh thần. Bằng nghệ thuật nói giảm, nói tránh"bỏ quên đời", nhà thơ đã diễn tả được cái chết nhẹ nhàng, thầm lặng của người lính trên chặng đường hành quân gian khổ. Đồng thời bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn về sự hi sinh của đồng đội. Qua đó ngợi ca tinh thần chiến đấu can trường của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ hi sinh trong tư thế không bỏ cuộc, chết mà "súng, mũ" vẫn bên mình.
Trong kí ức về Tây Tiến còn ghê rợn qua những âm thanh hung dữ:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Từ láy chỉ thời gian "chiều chiều, đêm đêm", dùng để chỉ thời gian lặp lại, có tính chất thường xuyên, liên tục. Khi màn đêm buông xuống thì núi rừng Tây Bắc có những âm thanh, hoạt động rất dữ dội. Đó là âm thanh của thác, của cọp beo thể hiện ở từ "gầm thét, trêu". Những âm thanh này tạo thêm uy lực cho núi rừng Tây Bắc. Phải chăng tác giả đã lấy ngoại cảnh của núi rửng miền Tây đầy nguy hiểm, để tô đậm cái anh hùng của đoàn quân Tât Tiến?
Nhớ Tây Tiến còn là nhớ về cuộc sống bình dị và ấm áp tình người của nhân dân Tây Bắc. Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ thể hiện cảnh tượng thật đầm ấm:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Từ cảm thán "nhớ ôi" và các cụm từ "cơm lên khói, thơm nếp xôi" đã kết thúc đoạn thơ giúp người đọc liên tưởng: Sau bao ngày hành quân lội suối, vượt đèo, họ dừng chân bên một bản làng và quây quần bên nồi cơm nghi ngút khói và thơm nếp xôi. Câu thơ còn thể hiện tình quân dân cả nước.
*Sơ kết: Với những từ chỉ địa danh, những hình ảnh giàu chất tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc, gối lên trên những câu thơ nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ. Đoạn thơ mở đầu đã nêu được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt, đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên, núi rừng miền Tây, vừa hiểm trở, dữ dội, vừa hùng vĩ, thơ mộng. Xuất hiện trong cảnh núi rừng hiểm trở là hình ảnh người lính Tây Tiến hiên ngang, luôn vững bước trên đường hành quân. Hình ảnh đó như hòa vào rừng núi bí hiểm. Núi rừng càng hùng vĩ, đường hành quân càng khắc nghiệt, thì càng tôn lên chất hào hùng, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ Tây Tiến.
2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây Bắc thơ mộng (Đoạn 2 – 8 câu tiếp theo) :
a. Bốn câu đầu thể hiện nỗi nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Sau bao ngày hành quân vất vả, đoàn quân dừng lại ở một địa phương người Lào. Họ tham dự một đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương. Những cụm từ: "Bừng lên, kìa em, khèn lên, nhạc về", thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng của người lính Tây Tiến trong đêm văn nghệ bởi vì có đuốc hoa (Đuốc hoa là một loại đuốc trong đêm tân hôn), bởi vì nhân vật trung tâm của đêm văn nghệ là những cô gái nơi miền núi rừng bất ngờ hiện ra với bộ trang phục truyền thống đẹp "Kìa em xiêm áo tự bao giờ", đã làm rung động trái tim người chiến sĩ bởi sự thẹn thùng, tình tứ trong cử chỉ của những cô gái miền sơn cước: "Nàng e ấp" và trong vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ "man điệu". Tuy say sưa trong tiếng nhạc, điệu múa, nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng liêng của mình là tiến về phía trước, phối hợp với nước bạn Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào được thể hiện ở câu thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ". Đây là phát hiện độc đáo của Quang Dũng về người lính xuất thân từ tầng lớp tri thức. Họ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn so với người lính xuất than từ tầng lớp nông dân.
b. Bốn câu sau nhớ cảnh chia tay trên nền sông nước miền Tây Bắc thơ mộng:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ "có thấy, có nhớ", nhằm tái hiện lại giờ phút chia tay bên dòng sông. Cảnh và người miền Tây Bắc đang hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ. Thời gian chia tay là vào buổi chiều, không gian của dòng sông là một màu trắng của "chiều sương ấy", hai bên bờ sông hoang vắng như thời tiền sử, chỉ phất phơ, xào xạc trong gió những "hồn lau". Nổi bật trên dòng sông là sự mềm mại, uyển chuyển của các cô gái trên chiếc thuyền độc mộc với những bông hoa rừng "đong đưa" làm duyên cùng dòng nước lũ. Đoạn thơ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa.
*Sơ kết: Ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, làm hiển hiện trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cái hồn của cảnh vật. Đoạn thơ chỉ tám câu nhưng chất thơ và chất nhạc, chất họa hòa quyện với nhau đến mức mà khó tách biệt. Thiên nhiên và con người có sự sóng đôi tạo nên hình ảnh thơ giàu chất trữ tình. Bút pháp lãng mạn, tài hoa của tác giả đã khắc họa nên bức tranh đặc sắc về cảnh và người miền Tây Bắc. Qua đó, ta thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.
3. Chân dung của người lính Tây Tiến (Đoạn 3 – 8 câu tiếp theo) :
Tác giả đã lựa chọn những nét có thực, tiêu biểu của người lính Tây Tiến. Đó là bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng, hào hùng mà không xơ cứng, hào hùng mà vô cùng lãng mạn. Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài bi tráng về hình ảnh đoàn quân Tây Tiến bằng ngòi bút lãng mạn, được điểm tô bằng tinh thần xả thân vì nước.
a. Hai câu thơ đầu miêu tả ngoại hình của người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, khi viết về người lính, thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, sự thật nghiệt ngã ấy được thể hiện bằng hình ảnh "không mọc tóc". Từ đó, người đọc liên tưởng đến người lính bị sốt rét rừng rụng tóc, trọc đầu. Nhưng cũng có thể là hình ảnh của anh vệ quốc trọc đầu trong buổi đầu kháng chiến, vì họ phải cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà với giặc. Hình ảnh "quân xanh màu lá" giúp người đọc liên tưởng đến nước da xanh xao vì đói khát, bệnh tật, hay cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang để che mắt quân thù. Hai hình ảnh trên dù hiểu theo nghĩa nào thì tác giả vẫn khẳng định họ "dữ oai hùm". Người lính vẫn giữ được sự oai phong của hổ nơi rừng thiêng, nước độc Tây Bắc, hình ảnh bi mà rất hào hùng.
b. Hai câu thơ tiếp theo nói về tâm hồn của người lính Tây Tiến:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Nét oai hùng của đoàn quân Tây Tiến được thể hiện ở hình ảnh hoán dụ "mắt trừng". Mắt trừng là ánh mắt giận dữ khi nhìn kẻ thù. Ngoài ra mắt trừng còn chỉ tư thế gìn giữ biên cương và tinh thần trách nhiệm cao và họ nuôi giấc mộng tiêu diệt quân thù "gửi mộng qua biên giới". Người chiến sĩ Tây Tiến, đêm đêm vẫn mơ về Hà Nội với "dáng kiều thơm". "Dáng kiều thơm" gợi vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, thanh lịch của người thiếu nữ Hà Thành. Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực mà tinh tế tâm trạng của những người chiến sĩ xuất thân từ tầng lớp tri thức Hà Nội. Nếu họ xuất thân từ tầng lớp nông dân thì họ nhớ giếng nước, gốc đa ( "Đồng chí" của Chính Hữu).
c. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính Tây Tiến:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Bi thương là nét có thực khi nhớ về Tây Tiến. Nhưng nét bi ấy đã được tác giả nâng lên thành nét hùng. Hình ảnh "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" là trên đường hành quân, người chiến sĩ nhìn thấy những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo. Nhưng đó là cái chết bất tử cho Tổ quốc trường tồn, nên được thể hiện bằng hàng loạt từ Hán Việt trang trọng "biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường". Mặt khác người chiến sĩ không hề chùn bước khi thấy đồng đội của mình hi sinh. Bởi cái chết đối với họ nhẹ tựa lông hồng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ nguyện đem tuổi thanh xuân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Qua đó, ta có thể thấy bức tượng đài về những người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực, oai phong đến lạ thường.
d. Hai câu cuối: Đoạn thơ khép lại với hình ảnh về sự hi sinh của người lính Tây Tiến hùng tráng, mang màu sắc cổ điển:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Sự thật bi thảm "Áo bào thay chiếu anh về đất", hình ảnh này giúp người đọc liên tưởng đến người chiến sĩ Tây Tiến hy sinh trong manh chiếu che thân. Nhưng qua cái nhìn của Quang Dũng, họ lại được khoác "áo bào". Bởi Quang Dũng muốn tư thế ngã xuống của người chiến sĩ hào hùng như những chiến binh năm xưa, nhằm ca ngợi sự hi sinh cao đẹp của họ. Biện pháp tu từ nói giảm "anh về đất", nhằm để chỉ cái chết của người chiến sĩ thật là thanh thản vì họ đã hoàn thành nhiệm vụ đối với Tổ quốc. Nghệ thuật nhân hóa "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", nhằm diễn tả dòng sông như đồng cảm, nghiêng mình tấu lên khúc nhạc hoành tráng "khúc độc hành" để tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ về với đất mẹ. Câu thơ giàu chất sử thi nhằm ca ngợi sự hi sinh của người chiến sĩ, đồng thời cũng lí giải vì sao khi nhớ về Tây Tiến thì cảm xúc đầu tiên của tác giả là nhớ về con sông Mã bằng tiếng gọi thân thương "sông Mã xa rồi". Trong cái tiếng gầm của sông Mã, còn có cả tiếng khóc cố nén sự tiếc thương vô hạn đối với những người con trung hiếu, dũng cảm, kiên cường của Tổ quốc đã mãi mãi ra đi. Đó là sự hi sinh thấm đẫm tinh thần bi tráng.
*Sơ kết: Hình tượng người lính trong đoạn thơ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, sử thi. Với giọng điệu trang trọng, cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Qua đó, đã khắc họa nên bức tượng đài về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa. Đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, kính cẩn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ trước sự hi sinh thầm lặng, nhưng anh dũng của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ nói riêng, cũng như toàn bài thơ nói chung, đã góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca viết về hình tượng người lính trong văn học Việt Nam. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
4. Lời thề của người lính Tây Tiến (Đoạn 4 – 4 câu cuối) :
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi"
Câu thơ khẳng định "Tây Tiến người đi không hẹn ước", nhằm khẳng định tinh thần một đi không trở lại, nếu không lập được chiến công. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn khắc họa hình ảnh ra đi của người lính không xác định thời gian trở về. Cả loạt từ: "Thăm thẳm, không hẹn ước, chia phôi" thể hiện cuộc trường chinh nhiều gian khổ, mất mát, hi sinh. Tuy vậy, nhưng người lính ra đi với quyết tâm dứt khoát sống chết cùng đồng đội và gắn bó với miền Tây Bắc. Lời thề này đã thấm sâu vào trong tư tưởng và tình cảm của đoàn quân.
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Câu thơ khẳng định "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" là lời thề sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc. Câu thơ này có sự tương đồng với câu thơ: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh", trong"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Hai câu kết vang lên khỏe khoắn như một lời thề sắt son với Tổ quốc. Qua đó, ta thấy lý tưởng của họ cao cả biết bao.
III. TỔNG KẾT:
Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng, không chỉ gợi lên niềm tự hào về tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà nó sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc bởi lí tưởng sống cao cả, sẵn sang xả thân vì Tổ quốc.
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
- Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969), lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, khi hoạt động ở nước ngoài tên Nguyễn Ái Quốc.
- Quê: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.
- Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, một nhà nho yêu nước.
- Lúc nhỏ học chữ Hán ở nhà, học trung học ở Huế, dạy học ở trường Dục Thanh – Phan Thiết.
- 1911 ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba suốt ba mươi năm trên khắp thế giới.
- 1941 về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng.
- CMT8 thành công, 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đọc bản: "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bầu làm Chủ tịch nước, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng của dân tộc cho đến lúc qua đời.
=> HCM là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời là nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào quốc tế cộng sản. Ngoài sự nghiệp cách mạng, Người còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 26/8/1945 Chủ tịch HCM từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo bản "Tuyên ngôn độc lập". Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Người đọc bản TNĐL khai sinh nước Việt Nam mới.
b. Đối tượng và mục đích sáng tác:
- Đối tượng: TNĐL không chỉ đọc trước toàn dân ta, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là với những lực lượng thù địch đang lăm le xâm lược nước ta.
- Mục đích: Tuyên bố trước nhân dân cả nước và thế giới về thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của đất nước. Ý chí bảo vệ nền độc lập tự chủ, bác bỏ luận điểm xảo trá của thực dân Pháp.
c. Giá trị của bản tuyên ngôn:
- Giá trị lịch sử: Là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến. Khẳng định chủ quyền và vị thế bình đẳng của Việt Nam trên toàn thế giới. Là mốc son lịch sử mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do.
- Giá trị văn học:
+ Về tư tưởng: Là một áng văn tâm huyết của HCM, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta.
+ Về nghệ thuật: Là một tác phẩm chính luận kiệt xuất: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1. Cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản TNĐL:
a. HCM nêu nguyên lý chung của bản tuyên ngôn: Đó là quyền bình đẳng, quyền sống tự do, sung sướng, hạnh phúc của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc.
Chân lý đó không ai "chối cãi được", vì nó đã rành rành ghi lại trong bản "Tuyên ngôn độc lập" năm 1776 của Mĩ và "Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền" năm 1791 của Pháp. Đây là những văn kiện lịch sử có tầm vóc toàn nhân loại, đã nêu cao quyền con người.
=>Khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, là nguyên lý thiêng liêng cao đẹp của nhân loại.
* Về nghệ thuật: Cách trích dẫn dung đòn "Gậy ông đập lưng ông" vừa khéo léo, mềm mỏng, vừa cứng cỏi, kiên quyết. Khéo léo, mềm mỏng bởi vì HCM tỏ ra rất trân trọng những tuyên bố bất hủ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp. Cứng cỏi, kiên quyết vì Bác muốn ngăn chặn âm mưu xâm lược nước ta của Pháp và Mĩ. Nếu họ cố tình đi ngược lại chân lí đã được khẳng định trong bản Tuyên ngôn, tức là họ đã phủ nhận chính tổ tiên mình, làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo đã từng là niềm tự hào của cha ông họ.
b. Đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Từ nguyên lí chung về quyền con người, HCM đã suy rộng ra về quyền sống, quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới.
=>Đóng góp quan trọng vào phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Nó là phát sung lệnh mở đầu cho cơn bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập ở các nước thuộc địa.
Chỉ trong một đoạn văn ngắn, chúng ta đã thấy được cách lập luận chặt chẽ, cách dung văn chương để đánh địch khéo léo, hiệu quả của HCM. Bên cạnh đó, đoạn văn còn cho thấy niềm tự hào, kín đáo của Bác khi Người đặt ba bản tuyên ngôn, ba cuộc cách mạng ngang hang nhau; trong đó cách mạng Việt Nam đã cùng một lúc thực hiện được hai nhiệm vụ mà cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ đã làm: Độc lập dân tộc và tự do dân chủ.
Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Dân quyền và Nhân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
Cách đặt vấn đề của Bác cũng rất hay, hùng hồn và trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến thứ hai vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
a. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp:
Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp: "Lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta".
Nếu Pháp kể công khai hóa đối với Việt Nam, thì bản tuyên ngôn đã chỉ ra những tội ác của chúng như: Năm tội ác về chính trị: Tước đoạt tự do, dân chủ. Luật pháp dã man, chia để trị. Chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta. Ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân. Đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện. Năm tội ác lớn về kinh tế: Bóc lột, tước đoạt. Độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Sưu thuế nặng nề vô lí làm dân ta bần cùng. Đè nén, khống chế các nhà tư sản của ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta. Gây ra thảm họa cho hơn hai triệu đồng bào ta chết đói 1945.
Nếu Pháp kể công bảo hộ An Nam, thì bản Tuyên ngôn đã chỉ ra trong vòng năm năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã "Bán nước ta hai lần cho Nhật". Pháp còn thẳng tay khủng bố Việt Minh: "Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng". Qua đó, tố cáo bản chất đê hèn, khát máu của thực dân Pháp, trái hẳn với chính sách khoan hồng, nhân đạo của Việt Minh.
b. Quá trình đấu tranh và giành độc lập của nhân dân ta:
Từ mùa thu 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật đầu hàng Đồng minh.
Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị".
Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn bị xóa bỏ. Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước đồng minh: "Quyết không thể không công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam", "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập."
Tóm lại đoạn văn là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn.
3. Lời tuyên bố với thế giới:
Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập (cơ sở pháp lí), và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên).
Nhân dân ta quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và long yêu nước).
III. TỔNG KẾT:
"Tuyên ngôn độc lập" là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Tác phẩm là một áng văn chính luận mẫu mực, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn; Vừa tố cáo mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của kẻ thù, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả cũng như của toàn dân tộc.
2. TÂY TIẾN - QUANG DŨNG
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
Quang Dũng (1921 – 1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Năm 2001 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm tiêu biểu: Mây đầu ô, thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn mùa hoa gạo..
"Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sang tác:
Tây Tiến là một đơn vị quân đội, được thành lập đầu năm 1947, với phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó đa số là học sinh, sinh viên. Binh đoàn Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào, cũng như miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, hoàn cảnh chiến đấu của đoàn quân Tây Tiến rất gian khổ. Tuy vậy, nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang dung là đại đội trưởng ở đó từ đầu 1947, đến cuối 1948 ông chuyển sang đơn vị khác. Khi nhà thơ về dự Đại hội toàn quân liên khu III, tại làng Phù Lưu Chanh, Quang Dũng sáng tác bài thơ: "Nhớ Tây Tiến". Đến năm 1975 in lại tác giả đổi tên là "Tây Tiến", in trong tập "Mây đầu ô".
b. Ý nghĩa nhan đề:
Tây Tiến là tiến về phía Tây so với Hà Nội. Nhan đề Tây Tiến khiến cho bài thơ mang âm hưởng của một khúc quân hành. Tên bài thơ trùng với tên binh đoàn, nên đọc lên tạo không khí của một cuộc hành quân đầy dũng khí. Nhan đề còn là tiếng gọi thường trực trong lòng những người lính Tây Tiến.
c. Chủ đề:
Bài thơ Tây Tiến miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc và nét đẹp hào hoa, dũng cảm, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
e. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ chính là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt là khi bài thơ khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng: Lãng mạn là cái tôi tràn đầy tình cảm, là sử dụng các yếu tố cường điệu, đối lập để tô đậm cái phi thường. Thiên nhiên và con người Tây Bắc thật huyền bí và thơ mộng. Ngoài ra chất lãng mạn còn là tinh thần xả thân vì nước. Bi tráng là vừa đau thương, vừa hùng tráng. Tức là không hề che giấu sự thật đau thương, nhưng bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM:
1. Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở (Đoạn 1: 14 câu đầu) :
a. Hai câu đầu: Mở đầu bài thơ là lời thơ mang âm điệu da diết:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi".
Câu cảm thán kết hợp với điệp từ "nhớ", kết hợp với vần "ơi" đã gieo vào lòng người đọc một sức gợi cảm to lớn. Bởi câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của một người không muốn rời xa nơi mà mình đã từng gắn bó. Nỗi nhớ dâng trào bật thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi!". Từ láy "Chơi vơi" dung rất sáng tạo, đã hình tượng hóa, cụ thể hóa nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ da diết, bồng bềnh, khắc khoải, tràn ngập cả không gian và thời gian. Nó như ám ảnh và hiện hữu trong tâm hồn Quang Dũng.
b. Sáu câu tiếp theo là nỗi nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ:
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu rộng lớn và thời tiết khắc nghiệt:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Tác giả vận dụng bút pháp lãng mạn bằng cách tô đậm cái phi thường để diễn tả thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại. Trước hết tác giả liệt kê những vùng đất lạ "Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu". Đó là những vùng đất hẻo lánh, nằm ở phía Tây biên giới Việt – Lào nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng hành quân.
Thời tiết Tây Bắc thật là khắc nghiệt, thể hiện ở cụm từ "sương lấp". Sương lấp là sương mù dày đặc, che lấp cả con đường hành quân, sương đêm gây ra nhiều bệnh tật làm cho người chiến sĩ mỏi mệt "Đoàn quân mỏi", đây là hình ảnh bi thương có thực, nhưng mà không bi lụy, bi mà hào hùng, lãng mạn, bởi vì họ mệt mỏi nhưng họ vẫn trở về với chiến công lấp lánh trong đêm sương và vòng hoa chiến thắng được dệt bằng sương đêm.
Nhớ Tây Tiến là nhớ địa bàn chiến đấu hiểm trở:
Với những con dốc:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"
Câu thơ thật là gân guốc với năm thanh trắc trong một dòng thơ bảy chữ, cộng với điệp từ "dốc" và từ láy giàu giá trị tạo hình "khúc khuỷu", "thăm thẳm", nhằm diễn tả dốc lên thì ghập ghềnh, quanh co, dốc xuống thì sâu thăm thẳm. Dù hành quân lên dốc hay xuống dốc thì người chiến sĩ đều mệt và thở gấp như nhịp đọc của câu thơ.
Địa bàn chiến đấu hiểm trở bởi núi đèo:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đặt từ láy "heo hút" lên đầu câu. "Heo hút cồn mây" gợi sự cao vút, vắng vẻ của núi đèo. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây nổi thành cồn gọi là "cồn mây". Người chiến sĩ hành quân lên ngọn núi cao, họ tưởng chừng như đang đi trong mây nên mũi súng chạm trời. Cuộc hành quân thật gian nan, lên đèo, xuống dốc nhưng họ không hề có ý nghĩ bi quan, mà họ lại tỏ ra hào hùng, lãng mạn, thể hiện ở nghệ thuật nhân hóa "súng ngửi trời". Điều này thể hiện sự hồn nhiên, tinh nghịch của người lính trước độ cao thử thách của núi đèo:
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Câu thơ như bẻ làm đôi: "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống", với điệp từ "ngàn thước" và đối lên/xuống nhằm diễn tả hai sườn núi cao, thẳng đứng như thách thức, như cản trở con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Họ hành quân lên cao lại xuống thấp, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, núi cao sừng sững thế mà khi lên đỉnh núi, họ lại thở phào nhẹ nhõm, thể hiện ở câu thơ toàn là thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", họ phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn mưa núi, thấp thoáng họ nhìn thấy một vài ngôi nhà sàn bồng bềnh trong biển nước.
c. Sáu câu cuối là nỗi nhớ về sự hy sinh của đồng đội và cuộc sống bình dị,
ấm áp tình người của người dân Tây Bắc:
Trong kí ức về Tây Tiến có hình ảnh đồng đội hi sinh gợi ấn tượng sâu sắc trên chặng đường hành quân gian khổ:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Hình ảnh bi thương, có thực "Anh bạn dãi dầu không bước nữa", bởi thiên nhiên Tây Bắc thật là khắc nghiệt. Đó là thử thách đối với những chàng trai Hà Nội mới rời ghế nhà trường, lên đường chiến đấu, với một lí tưởng cao đẹp. Cách gọi "anh bạn" nghe thật gần gũi, thân thương và từ láy "dãi dầu" nghĩa là chịu đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Cho nên trên đường hành quân, họ mệt mỏi, kiệt sức, họ không thể bước được nữa, họ gục xuống trong tư thế đang bước đi "gục lên súng mũ", họ hi sinh trong tư thế thật đẹp, thật hiên ngang. Cái chết của họ là cái chết về thể xác, khởi đầu cho sự bất tử về tinh thần. Bằng nghệ thuật nói giảm, nói tránh"bỏ quên đời", nhà thơ đã diễn tả được cái chết nhẹ nhàng, thầm lặng của người lính trên chặng đường hành quân gian khổ. Đồng thời bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn về sự hi sinh của đồng đội. Qua đó ngợi ca tinh thần chiến đấu can trường của người chiến sĩ Tây Tiến. Họ hi sinh trong tư thế không bỏ cuộc, chết mà "súng, mũ" vẫn bên mình.
Trong kí ức về Tây Tiến còn ghê rợn qua những âm thanh hung dữ:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Từ láy chỉ thời gian "chiều chiều, đêm đêm", dùng để chỉ thời gian lặp lại, có tính chất thường xuyên, liên tục. Khi màn đêm buông xuống thì núi rừng Tây Bắc có những âm thanh, hoạt động rất dữ dội. Đó là âm thanh của thác, của cọp beo thể hiện ở từ "gầm thét, trêu". Những âm thanh này tạo thêm uy lực cho núi rừng Tây Bắc. Phải chăng tác giả đã lấy ngoại cảnh của núi rửng miền Tây đầy nguy hiểm, để tô đậm cái anh hùng của đoàn quân Tât Tiến?
Nhớ Tây Tiến còn là nhớ về cuộc sống bình dị và ấm áp tình người của nhân dân Tây Bắc. Khép lại đoạn thơ là hai câu thơ thể hiện cảnh tượng thật đầm ấm:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Từ cảm thán "nhớ ôi" và các cụm từ "cơm lên khói, thơm nếp xôi" đã kết thúc đoạn thơ giúp người đọc liên tưởng: Sau bao ngày hành quân lội suối, vượt đèo, họ dừng chân bên một bản làng và quây quần bên nồi cơm nghi ngút khói và thơm nếp xôi. Câu thơ còn thể hiện tình quân dân cả nước.
*Sơ kết: Với những từ chỉ địa danh, những hình ảnh giàu chất tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc, gối lên trên những câu thơ nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ. Đoạn thơ mở đầu đã nêu được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến. Đặc biệt, đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên, núi rừng miền Tây, vừa hiểm trở, dữ dội, vừa hùng vĩ, thơ mộng. Xuất hiện trong cảnh núi rừng hiểm trở là hình ảnh người lính Tây Tiến hiên ngang, luôn vững bước trên đường hành quân. Hình ảnh đó như hòa vào rừng núi bí hiểm. Núi rừng càng hùng vĩ, đường hành quân càng khắc nghiệt, thì càng tôn lên chất hào hùng, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người chiến sĩ Tây Tiến.
2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây Bắc thơ mộng (Đoạn 2 – 8 câu tiếp theo) :
a. Bốn câu đầu thể hiện nỗi nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Sau bao ngày hành quân vất vả, đoàn quân dừng lại ở một địa phương người Lào. Họ tham dự một đêm liên hoan văn nghệ với đồng bào địa phương. Những cụm từ: "Bừng lên, kìa em, khèn lên, nhạc về", thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng của người lính Tây Tiến trong đêm văn nghệ bởi vì có đuốc hoa (Đuốc hoa là một loại đuốc trong đêm tân hôn), bởi vì nhân vật trung tâm của đêm văn nghệ là những cô gái nơi miền núi rừng bất ngờ hiện ra với bộ trang phục truyền thống đẹp "Kìa em xiêm áo tự bao giờ", đã làm rung động trái tim người chiến sĩ bởi sự thẹn thùng, tình tứ trong cử chỉ của những cô gái miền sơn cước: "Nàng e ấp" và trong vũ điệu mang đậm màu sắc xứ lạ "man điệu". Tuy say sưa trong tiếng nhạc, điệu múa, nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng liêng của mình là tiến về phía trước, phối hợp với nước bạn Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào được thể hiện ở câu thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ". Đây là phát hiện độc đáo của Quang Dũng về người lính xuất thân từ tầng lớp tri thức. Họ có tâm hồn hào hoa, lãng mạn so với người lính xuất than từ tầng lớp nông dân.
b. Bốn câu sau nhớ cảnh chia tay trên nền sông nước miền Tây Bắc thơ mộng:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Bằng hàng loạt câu hỏi tu từ "có thấy, có nhớ", nhằm tái hiện lại giờ phút chia tay bên dòng sông. Cảnh và người miền Tây Bắc đang hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ. Thời gian chia tay là vào buổi chiều, không gian của dòng sông là một màu trắng của "chiều sương ấy", hai bên bờ sông hoang vắng như thời tiền sử, chỉ phất phơ, xào xạc trong gió những "hồn lau". Nổi bật trên dòng sông là sự mềm mại, uyển chuyển của các cô gái trên chiếc thuyền độc mộc với những bông hoa rừng "đong đưa" làm duyên cùng dòng nước lũ. Đoạn thơ giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa.
*Sơ kết: Ngòi bút tài hoa, tinh tế của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, làm hiển hiện trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cái hồn của cảnh vật. Đoạn thơ chỉ tám câu nhưng chất thơ và chất nhạc, chất họa hòa quyện với nhau đến mức mà khó tách biệt. Thiên nhiên và con người có sự sóng đôi tạo nên hình ảnh thơ giàu chất trữ tình. Bút pháp lãng mạn, tài hoa của tác giả đã khắc họa nên bức tranh đặc sắc về cảnh và người miền Tây Bắc. Qua đó, ta thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.
3. Chân dung của người lính Tây Tiến (Đoạn 3 – 8 câu tiếp theo) :
Tác giả đã lựa chọn những nét có thực, tiêu biểu của người lính Tây Tiến. Đó là bi mà không lụy, bi mà rất hào hùng, hào hùng mà không xơ cứng, hào hùng mà vô cùng lãng mạn. Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài bi tráng về hình ảnh đoàn quân Tây Tiến bằng ngòi bút lãng mạn, được điểm tô bằng tinh thần xả thân vì nước.
a. Hai câu thơ đầu miêu tả ngoại hình của người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Thơ ca thời kháng chiến chống Pháp, khi viết về người lính, thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Dưới ngòi bút của Quang Dũng, sự thật nghiệt ngã ấy được thể hiện bằng hình ảnh "không mọc tóc". Từ đó, người đọc liên tưởng đến người lính bị sốt rét rừng rụng tóc, trọc đầu. Nhưng cũng có thể là hình ảnh của anh vệ quốc trọc đầu trong buổi đầu kháng chiến, vì họ phải cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc đánh giáp lá cà với giặc. Hình ảnh "quân xanh màu lá" giúp người đọc liên tưởng đến nước da xanh xao vì đói khát, bệnh tật, hay cũng có thể là màu xanh của lá ngụy trang để che mắt quân thù. Hai hình ảnh trên dù hiểu theo nghĩa nào thì tác giả vẫn khẳng định họ "dữ oai hùm". Người lính vẫn giữ được sự oai phong của hổ nơi rừng thiêng, nước độc Tây Bắc, hình ảnh bi mà rất hào hùng.
b. Hai câu thơ tiếp theo nói về tâm hồn của người lính Tây Tiến:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Nét oai hùng của đoàn quân Tây Tiến được thể hiện ở hình ảnh hoán dụ "mắt trừng". Mắt trừng là ánh mắt giận dữ khi nhìn kẻ thù. Ngoài ra mắt trừng còn chỉ tư thế gìn giữ biên cương và tinh thần trách nhiệm cao và họ nuôi giấc mộng tiêu diệt quân thù "gửi mộng qua biên giới". Người chiến sĩ Tây Tiến, đêm đêm vẫn mơ về Hà Nội với "dáng kiều thơm". "Dáng kiều thơm" gợi vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, thanh lịch của người thiếu nữ Hà Thành. Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực mà tinh tế tâm trạng của những người chiến sĩ xuất thân từ tầng lớp tri thức Hà Nội. Nếu họ xuất thân từ tầng lớp nông dân thì họ nhớ giếng nước, gốc đa ( "Đồng chí" của Chính Hữu).
c. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính Tây Tiến:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Bi thương là nét có thực khi nhớ về Tây Tiến. Nhưng nét bi ấy đã được tác giả nâng lên thành nét hùng. Hình ảnh "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" là trên đường hành quân, người chiến sĩ nhìn thấy những nấm mồ của đồng đội nằm rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo. Nhưng đó là cái chết bất tử cho Tổ quốc trường tồn, nên được thể hiện bằng hàng loạt từ Hán Việt trang trọng "biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường". Mặt khác người chiến sĩ không hề chùn bước khi thấy đồng đội của mình hi sinh. Bởi cái chết đối với họ nhẹ tựa lông hồng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ nguyện đem tuổi thanh xuân mình hiến dâng cho Tổ quốc. Qua đó, ta có thể thấy bức tượng đài về những người chiến sĩ bỗng trở nên sáng rực, oai phong đến lạ thường.
d. Hai câu cuối: Đoạn thơ khép lại với hình ảnh về sự hi sinh của người lính Tây Tiến hùng tráng, mang màu sắc cổ điển:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Sự thật bi thảm "Áo bào thay chiếu anh về đất", hình ảnh này giúp người đọc liên tưởng đến người chiến sĩ Tây Tiến hy sinh trong manh chiếu che thân. Nhưng qua cái nhìn của Quang Dũng, họ lại được khoác "áo bào". Bởi Quang Dũng muốn tư thế ngã xuống của người chiến sĩ hào hùng như những chiến binh năm xưa, nhằm ca ngợi sự hi sinh cao đẹp của họ. Biện pháp tu từ nói giảm "anh về đất", nhằm để chỉ cái chết của người chiến sĩ thật là thanh thản vì họ đã hoàn thành nhiệm vụ đối với Tổ quốc. Nghệ thuật nhân hóa "Sông Mã gầm lên khúc độc hành", nhằm diễn tả dòng sông như đồng cảm, nghiêng mình tấu lên khúc nhạc hoành tráng "khúc độc hành" để tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ về với đất mẹ. Câu thơ giàu chất sử thi nhằm ca ngợi sự hi sinh của người chiến sĩ, đồng thời cũng lí giải vì sao khi nhớ về Tây Tiến thì cảm xúc đầu tiên của tác giả là nhớ về con sông Mã bằng tiếng gọi thân thương "sông Mã xa rồi". Trong cái tiếng gầm của sông Mã, còn có cả tiếng khóc cố nén sự tiếc thương vô hạn đối với những người con trung hiếu, dũng cảm, kiên cường của Tổ quốc đã mãi mãi ra đi. Đó là sự hi sinh thấm đẫm tinh thần bi tráng.
*Sơ kết: Hình tượng người lính trong đoạn thơ được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, sử thi. Với giọng điệu trang trọng, cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Qua đó, đã khắc họa nên bức tượng đài về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa. Đồng thời thể hiện thái độ trân trọng, kính cẩn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ trước sự hi sinh thầm lặng, nhưng anh dũng của người lính Tây Tiến. Đoạn thơ nói riêng, cũng như toàn bài thơ nói chung, đã góp phần làm phong phú thêm cho thơ ca viết về hình tượng người lính trong văn học Việt Nam. Đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
4. Lời thề của người lính Tây Tiến (Đoạn 4 – 4 câu cuối) :
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi"
Câu thơ khẳng định "Tây Tiến người đi không hẹn ước", nhằm khẳng định tinh thần một đi không trở lại, nếu không lập được chiến công. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn khắc họa hình ảnh ra đi của người lính không xác định thời gian trở về. Cả loạt từ: "Thăm thẳm, không hẹn ước, chia phôi" thể hiện cuộc trường chinh nhiều gian khổ, mất mát, hi sinh. Tuy vậy, nhưng người lính ra đi với quyết tâm dứt khoát sống chết cùng đồng đội và gắn bó với miền Tây Bắc. Lời thề này đã thấm sâu vào trong tư tưởng và tình cảm của đoàn quân.
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Câu thơ khẳng định "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi" là lời thề sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc. Câu thơ này có sự tương đồng với câu thơ: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh", trong"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Hai câu kết vang lên khỏe khoắn như một lời thề sắt son với Tổ quốc. Qua đó, ta thấy lý tưởng của họ cao cả biết bao.
III. TỔNG KẾT:
Tây Tiến là một thi phẩm đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng, không chỉ gợi lên niềm tự hào về tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà nó sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc bởi lí tưởng sống cao cả, sẵn sang xả thân vì Tổ quốc.