

Chuyên đề: Ôn tập Ngữ Văn 12
Bài thơ: Sóng (Xuân Quỳnh)
Bài thơ: Sóng (Xuân Quỳnh)
Đề 1
Câu 1: Trình bày cảm nhận của anh/chị về hai khổ thơ sau?
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Câu 2: Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau?
"Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
Bài làm
Câu 1:
"Sóng" là bài thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của Xuân Quỳnh. Hình tượng "sóng" trong bài thơ không chỉ là những cơn sóng ngoài biển khơi mà còn biểu tượng cho tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Trong hai khổ thơ đó hình tượng sóng đã diễn tả khát vọng tình yêu và hạnh phúc đích thực:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Hai câu đầu tác giả tạo ra tiểu đối để diễn tả những biến thái đối lập của sóng cũng là tâm trạng của "em" bằng bốn tính từ "dữ dội-dịu êm", "ồn ào-lặng lẽ". Cùng với đó, cách ngắt nhịp 2/3 và sự luân phiên các thanh bằng trắc đã nhấn mạnh những đối cực trong trạng thái của sóng. Điều đặc biệt, cách sử dụng liên từ "và" cho thấy những trạng thái đối lập ấy vẫn song song tồn tại, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và có sự chuyển hóa. Qua đó, ta thấy được những cung bậc cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu. Hai câu thơ tiếp mở ra hai không gian đối lập "sông" nhỏ bé, hữu hạn; "biển" bao la, vô hạn. Sóng từ bỏ "sông" nhỏ hẹp, chật trội vươn mình ra biển mênh mông, rộng lớn; từ bỏ những thứ tầm thường để vươn tới những thứ cao cả hơn. Đó chính là biểu tượng cho nhân vật "em" táo bạo, chủ động đi tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc chân chính. Trái ngược với người phụ nữ trong những câu ca dao xưa luôn thụ động trông chờ vào hoàn cảnh, may mắn:
"Thân em như tấm lụa đáo
Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai"
Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai"
Đối lập với các từ "ngày xưa" -quá khứ, "ngày nay" - tương lai chỉ sự thường biến của cuộc đời là từ "vẫn thế" chỉ sự trường tồn vĩnh cửu của những con sóng cũng như sự trường tồn vĩnh cửu, bất diệt của tình yêu.
"Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Những con sóng như những nhịp đập trên lồng ngực biển khơi và khát vọng tình yêu là những nhịp đập trong lồng ngực của tuổi trẻ. Tình yêu thì có ở mọi lứa tuổi nhưng có lẽ chỉ có "ngực trẻ", lồng ngực khỏe khoắn của tuổi trẻ mới đủ sức để chứa đựng hết những đam mê, rạo rực, nồng cháy mãnh liệt của tình yêu. "Bồi hồi" sự dao động, rạo rực sau bao năm tháng tình yêu của tuổi trẻ vẫn không thay đổi. Chân lí khát vọng tình yêu của con người và đặc biệt của tuổi trẻ là mãi mãi.
Hai khổ thơ với cách ngắt nhịp 2/3 đã phân tách câu thơ các thanh bằng trắc có sự đan xen nhịp nhàng. Các cặp tình từ tương phản "dữ dội-dịu êm", "ồn ào-lặng lẽ" cho thấy các đối cực của sóng cũng như những cung bậc cảm xúc khác nhau của "em" trong tình yêu. Đặc biệt, cách dùng liên từ "và" khiến cho các vế câu không bị tách biệt mà đan xen, có sự vận động hài hòa. Tác giả cũng khéo léo trong việc sử dụng tiểu đối trong hai khổ thơ. Cụm từ "ngực trẻ" cô đọng, giàu giá trị gợi hình, gợi cảm. Xuân Quỳnh đã rất tài tình khi khám phá ra sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em. Trong hai khổ thơ, hình ảnh sóng và em có lúc hòa nhập có lúc song hành nhưng không tách rời mà đan xen, bổ sung nhau. Kết hợp các biện pháp tu từ liệt kê, nhân hóa, ẩn dụ.
Khát vọng về tình yêu và hạnh phúc đích thực là khát vọng chân chính của mỗi con người. Xuân Quỳnh với bản lĩnh của người phụ nữ hiện đại đã ý thức phải và dám tự mình vươn ra cái tầm thường để tìm kiếm đến những tình yêu, hạnh phúc xứng đáng hơn. Đó là nhận thức đúng đắn, mới mẻ, táo bạo, giàu giá trị nhân văn.
Câu 2:
Hình tượng sóng đã diễn đạt bản chất của tình yêu và sự bí ẩn không thể lí giải qua hai khổ thơ:
"Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
"Em" -cá nhân người phụ nữ nhỏ bé, hữu hạn lại đứng trước "muôn trùng sóng bể" -vũ trụ to lớn, vô cùng vô biên trong lòng thức dậy những suy tư, chiêm nghiệm, trăn trở. "Em nghĩ" hai tiếng ấy lặp lại như sự khám phá, tìm tòi. Nhân vật em đứng trước biển lớn tự hỏi "Từ nơi nào sóng lên" và trả lời được là "Sóng bắt đầu từ gió". Nhưng khi em hỏi "Gió bắt đầu từ đâu?" em không trả lời được nên khi nghĩ về chuyện đôi ta em cũng tự hỏi "Khi nào ta yêu nhau". Hai câu hỏi đan cài, hòa nhập vào một. Chúng ta có thể lí giải được cội nguồn của sóng nhưng không thể cắt nghĩa, lí giải được cội nguồn của tình yêu. Câu thơ như lời thú nhận sự bất lực như một cái lắc đầu rất dễ thương, rất nữ tính của người con gái trong tình yêu. Nhưng có lẽ đó mới là biển hiện chân thành nhất của tình yêu. Vì không biết yêu từ bao giờ, yêu thế nào mới là yêu còn nếu đã tìm được cặn kẽ tình yêu thì có thể tình yêu nó đã đến lúc phải dừng lại. Bản chất muôn đời của tình yêu chính là vậy bí ẩn, kì lạ, không thể lý giải nhưng cũng rất tự nhiên. Do đó từ xưa đến nay tình yêu vẫn luôn có sự hấp dẫn, quyến rũ đến lạ thường trong bao con người.
Không chỉ Xuân Quỳnh đến ngay cả "Ông Hoàng thơ tình" Xuân Diệu khi đối mặt với tình yêu cũng không thể định nghĩa được mà phải thốt lên những câu thơ:
"Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu"
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu"
Xuân Diệu không lí giải được tình yêu là gì? Nhà thơ cho rằng nó vốn không có nghĩa chỉ biết rằng nó đến một cách bất ngờ cũng rất tự nhiên và nhẹ nhàng chiếm lấy hồn ta.
Nhận định của Xuân Quỳnh về tình yêu bản chất kì lạ, bí ẩn không thể lý giải được là vô cùng đúng đắn, hợp lý. Cũng chính nhận định đó đã phần nào giúp ta hiểu tại sao tình yêu lại luôn có sự lôi cuốn với giới trẻ nói riêng và con người nói chung đến vậy. Hai khổ thơ ta thấy hai hình tượng sóng và em chủ yếu song hành nhau. Lặp cấu trúc "em nghĩ về" gợi lên những suy tư của nhân vật trữ tình. Ba câu hỏi tu từ đặt cách dòng "Từ nơi nào sóng lên", "Sóng bắt đầu từ đâu", "Khi nào ta yêu nhau" khéo léo dẫn đến những cảm xúc, suy tư của nhân vật em. Đối tương hỗ hình ảnh "anh em-biển lớn"; hai cặp câu "Gió bắt đầu từ đâu-Khi nào ta yêu nhau" tạo sự hài hòa trong cả hai khổ thơ. Các câu thơ với nhịp ngắt dài ngắn khác nhau chủ yếu kết thúc bằng các âm mở tạo nên sự dâng trào cảm xúc. Các từ ngữ gợi hình, gợi cảm. Nữ thi sĩ tải tình sử dụng các hình ảnh cùng trường từ vựng "sóng", "bờ", "biển", "gió" đặt cạnh các từ cùng trường liên tưởng "anh", "em", "tình yêu" tạo ra sự tương đồng, bổ sung hỗ trợ nhau. Kết cấu khổ thơ tương ứng, liền mạch.
Do đó, xây dựng hai hình tượng sóng và em tương đồng, hợp lí gợi hình, giàu giá trị biểu cảm.