- Xu
- 766,364,008
 56291
				56291
				
				
				 745
				745
				
			Cách đặt tên đường ở Sài Gòn trước 1975 rất hay, rất có dụng ý rất có ý nghĩa. Người đi từ cửa ngõ vào tới trung tâm Sài Gòn, nếu để ý bạn sẽ thấy cả một chiều dài văn minh 4000 năm lịch sử của nước Việt trên từng bước chân.
Tên đường ở Sài Gòn, lịch sử các con đường ở Sài Gòn, tên đường Sài Gòn thời Pháp
		
		
	
	
		 
	
Đa số các tuyến đường ở Sài Gòn thường được đặt tên theo 1 nhân vật, anh hùng dân tộc hoặc 1 nhân vật nổi tiếng ở địa phương đó, và không chỉ dừng lại ở việc lấy tên những nhân vật quen thuộc, nhiều con đường ở thành phố Hồ Chí Minh còn được đặt tên dựa trên đặc điểm địa lý hay lịch sử địa phương. Ví dụ điển hình là đường Bông Sao ở Quận 8. Con đường này sở dĩ có tên như vậy là vì ngày xưa khu vực này trồng rất nhiều cây sao – loại cây lấy gỗ để đóng ghe xuồng. Hay đường Bàu Cát ở Quận Tân Bình xưa kia từng có một cái bàu (ao tù) lớn chứa đầy nước mưa ở khu vực này. Người dân cứ thế xây nhà xung quanh, rồi lấn dần, lấn dần vào cái bàu và dần dần, tên Bàu Cát đã được dùng như tên đường ở đây.
Đường Bà Hom, Bà Hạt, Bà Lài, Bà Ký, Bà Quẹo đều là các bà cụ ngày xưa buôn bán có tiếng ở xung quanh khu vực đó. Do dân quen gọi tên những người này nên đã lấy họ làm tên phố. Tương tự, có ngã tư Bảy Hiền ở quận Tân Bình được đặt tên theo một ông chú tên Bảy Hiền chuyên cung cỏ cho các gia đình nuôi ngựa ở đây năm xưa. Dân tới đây thường dùng nhà ông Bảy Hiền để chỉ đường, nên dần dần con phố cũng mang tên của ông.
Ở Saigon, trong thời gian gần đây nhiều con đường mới mở mang tên các loài hoa, như nơi một khu dân cư mới của quận Phú Nhuận, những loài hoa được đặt tên đường như đường Hoa Lan, Hoa Huệ, Hoa Sứ, Hoa Lài, Hoa Cúc, Hoa Hồng, Hoa Phượng, Hoa Trà, Hoa Mai, Hoa Đào, Hoa Sữa..
Gò Vấp:
Nguyên là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây này thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP.HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương, sau này người dân đọc chệch đi thành Gò Vấp. Loại cây này đã mọc nhiều thành rừng đã che chở cho đời sống của cộng đồng người Chăm, vì vậy, trong dấu tích tiếng Chăm vẫn gọi cây vắp là Krai. Gò Vấp là địa danh nổi tiếng ai cũng biết, nơi sản xuất thuốc lá rất nhiều, nuôi tằm kéo tơ lụa và nhuộm. Muốn mua vải, tơ lụa thì đến Gò Vấp, mua thuốc lào cũng đến Gò Vấp.
Bên cạnh cách giải thích về loài cây vắp, dân tiểu thương tại chợ Gò Vấp lại kể: "Ngày trước đây ở đây cao, dân buôn bán nhà nghèo tụ họp thường bị rượt đuổi hoài, bỏ chạy thì vấp gò mà té nên gọi là Gò Vấp". Nhưng có lẽ, đây chỉ là câu chuyện tám chuyện hài hước vì sự trùng hợp của từ vấp trong tiếng Việt mà thôi.
Thủ Đức:
Thời Nguyễn Hữu Cảnh, vùng này có ông tên Đức, giàu có nhất vùng nên được ban cho chức là "ông Thủ", chuyên đi thu thuế của dân để đóng cho nhà nước. Người dân quen gọi lâu ngày thành tên gọi địa danh Thủ Đức.
Củ Chi:
Củ Chi là một huyện mới phát triển nhập vào TP. HCM từ sau năm 1975, đường xá được xây dựng mới, có nhiều tên đường đặt theo các loài cây cỏ, như đường Bàu Lách, địa bàn xưa có nhiều bàu (ao, hồ) mọc nhiều cây lách (một lọai lau sậy, ta còn thấy trong từ lau lách), đường Bàu Trâm, nơi có một cái bàu có nhiều cây trâm bầu, đường Bàu Tre, nơi có bàu mọc nhiều tre, đường Bến Cỏ nơi có một bến đò, dân trong vùng cắt cỏ đưa ra đấy bán cho những người nuôi ngựa ở miền dưới. Đường Cây Điệp, nơi trồng nhiều cây điệp, đường Cây Gõ, nơi xưa có trồng cây gõ, đường Cây Trắc cũng là một loại cây gỗ lưu niên, đường Cây Trôm, cũng là nơi có trồng cây trôm (một loại cây cổ thụ cho mủ trời nắng nóng uống giải nhiệt), đường Xóm Thuốc, người dân ở đây trồng cây thuốc lá. Một con đường khác có tên là đường Mít Nài, mít Nài là một giống mít rừng giống như mít vườn nhưng không ăn được, gỗ chỉ làm củi đốt. Ở Củ Chi cũng có một con đường được đặt tên là đường Cây Bài, không thấy sách vở giải thích cây bài là cây gì?
Bản thân tên gọi Củ Chi thì "củ chi" là củ "mã tiền" (Từ điển Bách khoa Nông nghiệp), tên một cây thuốc trước đây được trồng nhiều ở địa phương. Ở Củ Chi có một địa danh là Bến Dược, có 3 giả thuyết về tên gọi này: 1. Đọc theo giọng Nam bộ từ "Bến vượt", nơi đây có một bến đò trong chiến tranh bộ đội vượt sông vào bưng. 2. Là bến đò chuyên chở thuốc nam (như đã nói, trước đây vùng này trồng nhiều củ mã tiền còn gọi là củ chi). 3. Rút gọn của "Bến Bà Dược" (nơi đây có xóm Bà Dược). Nhiều người nghiêng về giả thuyết thứ 2. và thứ 3. hơn. Ở Củ Chi cũng có tên đường là loài vật, như đường Cá Lăng, đường Hố Bò, hoặc mang những tên gọi khác như đường Sông Lu, đường này là nơi có một con sông ngày trước ghe thuyền chở lu đựng nước đến bán, đường Suối Lội bởi dọc theo con đường có một con suối, mùa khô người dân có thể lội qua mà đi không cần ghe thuyền.
Những con đường có tên cây cỏ hay tên thú vật ở Củ Chi này là do trước khi mở đường chính thức, đây là những địa danh đã được người dân quen gọi từ lâu, nay được tiếp tục đặt tên cho đường mới mở.
Hóc Môn:
Chữ hóc là âm cổ của hói, chỉ dòng nước nhỏ, môn là cây môn nước, hàm nghĩa là dòng nước nhỏ có nhiều cây môn mọc quanh.
Tân Bình, Phú Nhuận:
Sử gia, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư (năm nay 104 tuổi), cho biết thời Nguyễn Hữu Cảnh đã lấy tên Tân Bình đặt cho huyện Tân Bình. Tân Bình thuộc phủ Gia Định (chưa lên cấp tỉnh). Còn dưới huyện Tân Bình có nhiều xã, trong đó có xã Phú Nhuận mang tên quận Phú Nhuận ngày nay.
Phú Nhuận là địa danh thể hiện địa giới hành chính cấp xã, được thời Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra. Nguyễn Hữu Cảnh là người Quảng Bình vào, nên các địa danh thôn xã của Gia Định đều lấy từ tên các địa danh ở Quảng Bình.
Tân Bình cũng là từ tên địa danh ở Quảng Bình đưa vào, với ngụ ý những người di cư là người Quảng Bình hãy luôn nhớ lấy quê nhà. Phủ Gia Định lúc bấy giờ có 2 huyện là Tân Bình và Phước Long (Biên Hòa hiện nay).
Cũng theo sử gia, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, huyện Tân Bình có 2 tổng được đặt tên từ 2 từ tách ra là Tân và Bình cho tổng Tân Phong và tổng Bình Dương. Đến đời Minh Mạng, dân đông lên, ruộng đất canh tác được mở ra nhiều, 2 tổng Tân Phong và Bình Dương lại tách ra thành 4 tổng, dưới các tổng này có nhiều xã, thôn. Sau này, chính quyền cách mạng xóa bỏ cấp tổng, nên không ai còn nhớ đến các tổng nữa.
Thủ Thiêm:
Cũng giống như Thủ Đức, thủ là từ gọi tắt của "thủ ngữ", làm nhiệm vụ giữ an ninh và thu thuế, Thiêm được cho là tên của viên chức được cử đến cai quản nơi này.
Ngược dòng thời gian, Thủ Thiêm lần đầu tiên được biết đến vào thời chúa Nguyễn, thế kỷ 17, qua tên gọi xóm Tàu Ô. Khi đó, chúa Nguyễn đã đồng ý cho một nhóm người Hoa chạy trốn nhà Thanh cư trú ở bán đảo này.
Đến cuối thế kỷ 18 thì tên gọi Thủ Thiêm xuất hiện. Trong tên gọi này, từ "Thủ" có nghĩa là đồn canh. Chính quyền chúa Nguyễn lúc bấy giờ đã cho lập đồn binh tại đây để kiểm soát việc đi lại trên sông Sài Gòn, bảo vệ vùng Gia Định.
Có thể người chỉ huy đồn binh ở bán đảo tên là Thiêm nên người ta gọi đồn binh là Thủ Thiêm. Theo thời gian, không còn ai nhớ ông Thiêm là ai, còn cái tên Thủ Thiêm đã trở thành tên vùng đất.
Thật ra, theo các nhà nghiên cứu, Cát Lái là một cụm từ ... vô nghĩa, chính xác phải là "Các" Lái - nghĩa là các lái buôn. Từ xưa, các lái buôn thường tụ tập mua bán ở khu vực này. Trong dân gian vẫn còn lưu truyền những bài vè về các lái buôn ghe bầu từ miền Trung vào Gia Định với hai bài Vè lái vô và Vè lái ra.
Một ý kiến khác:
Tôi nghe Ba mình nói về địa danh Cát Lái. Từ thời ông Cố mình, sông Cát Lái là con sông lớn, có lượng phù sa (Cát) bồi đắp rất lớn, từ thời Pháp để tàu bè lớn từ biển Vũng Tàu chạy vô sông được thì Pháp phải cho nạo vét sông. Với đặc điểm lượng cát bồi đắp lớn như vậy, nên các thương lái khai thác cát khắp nơi tụ hội về đây hút cát là rất lớn. Nên những thương hồ khai thác cát trên con sông này gọi là: Cát Lái #Lái buôn (thương hồ) buôn bán Cát trên sông này. Đây là ý kiến riêng tham khảo , vì mình nghe kể là vậy..
Nguồn gốc xa xưa Thảo Điền là vùng đất trũng, quanh năm toàn là cỏ cây hoang dại - "vùng đất toàn cây cỏ", bởi vậy mới có tên gọi là "Thảo Điền"
Thảo = cỏ
Điền = đồn điền
Rạch Chiếc là con rạch nằm trên địa bàn phường Phước Bình (quận 9) nối sông Sài Gòn với sông Đồng Nai ở phía đông bằng tắt Đồng Nhiên, bắt đầu từ rạch Trao Trảo đến sông Sài Gòn, cắt ngang xa lộ Hà Nội, dài khoảng 6.000 m. Cầu Rạch Chiếc nổi tiếng với trận đánh giải phóng Sài Gòn hồi tháng 4/1975.
Theo các nhà nghiên cứu địa danh học, viết Rạch Chiếc là không đúng mà phải là Rạch Chiết, do xưa rạch này có nhiều cây chiết là "thứ cây mọc hoang, thấp nhỏ, lá lớn, hay mọc hai bên mé sông, thường ra lá non, mùi chát chát có thể ăn như rau". Nếu viết là Rạch Chiếc thì không có ý nghĩa.
Ở quận Bình Thạnh có cầu, chợ và kênh mang tên Thị Nghè. Người này vốn tên Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết rằng, "do có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Thị Nghè. Do bà khai hoang đất ở, bắc cầu để tiện việc đi lại, nên dân gọi là kênh, cầu Thị Nghè".
Nhắc đến kênh Tàu Hủ, nhiều người không khỏi tò mò về xuất xứ tên gọi dòng kênh này vì "tàu hủ" (hay đậu hũ, người miền Bắc gọi là tào phớ) vốn là tên một món ăn rất hấp dẫn.
Theo Gia Định thành thông chí, ban đầu nơi đây chỉ là con rạch nhỏ. Để tiện lưu thông giữa Sài Gòn và miền Tây Nam bộ, khoảng năm 1772, tướng Nguyễn Cửu Đàm cho đào thành kênh Ruột Ngựa. Năm 1819, vua Gia Long cho mở rộng kênh và lấy tên An Thông hà (sông An Thông), sau đổi tên thành kênh Tàu Hủ.
Nguồn gốc tên "Tàu Hủ" cũng nhiều giả thuyết. Theo nhà văn hóa học, ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Ký, "Tàu Hủ" là do người Việt đọc trại từ "Tàu Khậu" do lúc xưa, dọc kênh Tàu Hủ có những khu nhà kho, người Triều Châu gọi khu này là "Thổ Khố" (đọc là "Tàu Khậu", nghĩa là khu nhà đất).
Trong khi đó, theo nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh, "Tàu Hủ" vốn đọc trại từ "Cổ Hũ" (vì khúc kênh chỗ này phình ra, thắt lại giống cổ của cái hũ).
Thực ra đa phần mọi người lần đầu nghe tới cái tên này đều nghĩ là do ngày xưa chỗ này bán nhiều Tàu Hủ (豆腐) hoặc chuyên về nghề làm Tàu Hủ nên mới có cái tên đó. Nhưng mà ngày xưa thì kinh Tàu Hũ lại có tên là sông An Thông (安通河), cái tên Tàu Hủ thì về sau mới xuất hiện và phổ biến. Người ta cũng nói thêm là chỗ này đó giờ không có xóm chuyên nghề làm Tàu Hủ gì hết.
Dưới thời Pháp thì cả kinh Tàu Hủ và kinh Bến Nghé đều được kêu chung 1 cái tên là "Arroyo Chinois" có nghĩa là "Kinh Người Tàu" theo cách gọi ngày trước.
Không ai biết chính xác vì sao cái tên Tàu Hủ lại ra đời, và người ta cũng đặt ra nhiều giả thuyết để giải thích nó. Một trong những giả thuyết có cơ sở nhất hiện nay là do lối đọc "trại âm" từ tiếng Tiều mà ra.
Vì vốn khi xưa dọc đôi bờ Kinh Tàu Hủ có những khu nhà người ta gọi là "nhà gạch", và tiếng Triều Châu gọi khu nhà này là "Thầu Khậu" (土庫), theo thời gian thì người Việt đọc trại tiếng Hoa từ này thành "Tàu Hủ", từ đó cái tên mới cũng ra đời và trở nên quen thuộc với người Chợ Lớn cho tới bây giờ.
Chí Hòa và Kỳ Hòa
Ở TP HCM hiện tồn tại đồng thời hai địa danh được cho là giống nhau đó là Chí Hòa và Kỳ Hòa. Theo các nhà nghiên cứu, Chí Hòa nguyên là tên một làng ở Gia Định, đã được lấy để đặt cho một đại đồn của quân đội ta xây nên để chống Pháp. Khi quân Pháp dồn lực lượng tấn công, đại đồn Chí Hòa thất thủ.
Về địa điểm của đại đồn Chí Hòa, nhà văn Sơn Nam cho biết: "Tướng Tôn Thất Hiệp rồi tướng Nguyễn Tri Phương đều chọn lựa cuộc đất nằm trong địa phận làng Chí Hòa Phú Thọ dọc theo rạch Nhiêu Lộc, lấy con đường đi Tây Ninh (Cách Mạng Tháng Tám ngày nay) làm trung tâm để xây đồn lũy...". Như vậy, Chí Hòa ban đầu là tên làng, mà hiện nay vẫn còn tên gọi như đình Chí Hòa, nhà thờ Chí Hòa... Về sau, Chí Hòa đã trở thành tên một cái đồn được xây dựng tại đó để chống Pháp...
Còn tên Kỳ Hòa xuất hiện vào thời điểm nào? Theo tác giả Trần Trọng Kim trong quyền Việt Nam Sử Lược, thì Kỳ Hòa là cách gọi của người Việt, Chí Hòa là cách gọi của người Pháp. Nhưng tác giả lại không nêu cứ liệu. Còn theo nhà văn Sơn Nam trong quyển Địa danh TP HCM thì Chí Hòa mới là âm gốc, Kỳ Hòa là cách gọi sai lạc vì ngày nay còn địa danh Chí Hòa và ở Nam Bộ không có địa danh mang yếu tố Kỳ ở trước.
Thanh Đa
Người Sài Gòn từ lâu đã quen với các địa danh như Kinh Thanh Đa, cư xá Thanh Đa, chợ Thanh Đa... ở phường 26 và 27 của quận Bình Thạnh. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, địa danh này có nguồn gốc từ tên gọi Thạnh Đa.
Thôn Thạnh Đa thuộc tổng Bình Trị (sau thuộc Bình Trị Thượng), huyện Bình Dương, có từ năm 1818. Trong sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức và Monographie de la provine de Gia Định (Chuyên khảo về Gia Định, xuất bản năm 1902 tại Sài Gòn) đều có ghi tên thôn Thạnh Đa. Về sau, do bỏ dấu khi in trên bản đồ thời Pháp, nên địa danh Thạnh Đa biến thành Thanh Đa như hiện nay.
Tên Các Con Đường Bắt Đầu Bằng Ông Hoặc Bà:
Người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh, một con đường, con hẻm một cái tên hoặc bà hoặc ông trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng.
Ví dụ: đường Bà Lài - Q6, Bà Quẹo - Tân Bình, Bà Ký.. Ông Lãnh, Ông Tố..
Đường Bia Truyền Thống:
Bia Truyền Thống là tên gọi tuyến đường nhỏ nằm bên phải Nhà bia ghi danh liệt sĩ xã Tân Tạo, quận Bình Tân giao cắt với đường Tỉnh lộ 10.
		 
	
Đường tên Lửa - Bình Tân:
Gọi là đường Tên Lửa bởi sau năm 1975 trên con đường này đóng một đơn vị phòng không có trang bị hỏa tiễn phòng không - tên lửa.
Đường Mả Lò - Bình Tân:
Con đường này thì có khá nhiều giai thoại về tên đường, đầu tiên là với giải thích ở nơi đây có một khu nghĩa địa mà những ngôi mả đều xây theo hình dáng lò nấu bếp. Giai thoại thứ 2 là trên con đường này xưa có cái mả của một người làm lò (cái lò để đun nấu). Sinh thời ông làm nghề sản xuất ra cái lò ở khu vực gần cầu ông Buông. Khi ông mất được chôn mả đứng nên trên đường đó chỉ có cái mả chôn lạ, gây sự chú ý nên gọi tên theo sự khác biệt để nhớ riết thành lệ.
Đọc được đâu đó trên mạng:
Tôi có nghe ông Thân sinh tôi kể: thời còn Pháp thuộc có một nhân viên kế toán của một Hãng buôn đã lấy tiền của hãng dùng để đánh bạc, sau khi thua hết đã đến vùng Mả Lò tự vận chết (tôi nghe người xưa kể lại ở đó có một khu đất hoang trống, người địa phương thường vứt bỏ các lò bếp cũ hư tại đó, lâu ngày chất đống nên người dân quen gọi là Mả lò, chứ không phải ông chủ Lò mất được chôn tại đó) tôi chỉ nghe kể lại thôi.
Đường Văn Thánh - Bình Thạnh:
Thời xưa tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt cho xây miếu Văn Thánh là miếu thờ ông Thánh về văn hóa tức Khổng Tử để khuyến khích việc học hành.
Theo Trịnh Hoài Đức, Bến Nghé trước đây là bến nước tụ họp cho trâu con uống nước, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng thêm rằng: Bến Nghè từng không phải là nơi trâu uống nước mà theo tương truyền, trên sông này ngày trước có rất nhiều cá sấu sống, đêm đêm chúng kêu lên văng vẳng như tiếng gầm của trâu rống, nên được người ta gọi là "nghé" kết hợp với "bến" trong từ bến nước.
Đa Kao bắt nguồn từ tên vùng đất Sài Gòn xưa gọi là Đất Hộ. Hộ (quartier) là đơn vị hành chính tồn tại vào thời kì Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành vùng Sài Gòn – Chợ Lớn, đơn vị này tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Đứng đầu một hộ là hộ trưởng. Đất Hộ được phiên âm thành Dakao trong sách báo, văn bản thời Pháp thuộc.
Nhà nghiên cứu Trương Thái Du có cách giải thích hợp lý nhất dựa theo những tài liệu bản đồ xưa còn lưu lại, theo đó thì Đất Hộ nghĩa là vùng đất (từng có) từng hộ thành (shield wall – tường bảo vệ thành). Thành ở đây là thành Gia Định (Quy thành) được Gia Long – Nguyễn Ánh xây dựng từ lúc chưa lên ngôi, đã bị phá hủy trong loạn Lê Văn Khôi, vài năm trước khi người Pháp vào chiếm Gia Định. Sau đó, người Pháp đã phiên âm chữ Đất Hộ thành Dakau (sau đó là Dakao), chính xác hơn là Dak-Au. Chữ Đất được phiên âm thành Dak, còn chữ Hộ thì vì trong tiếng Pháp chữ H là âm câm, nên chữ Ộ được phiên âm thành Au. Từ đó, Đất Hộ đã trở thành Dak Au, trên các bản đồ thời Pháp ghi thành Dakau, sau đó thành Dakao. Tên gọi Dakao đã được sử dụng phổ biến từ cuối thế kỷ 19, thay thế cho cái tên nguyên thủy là Đất Hộ. Thập niên 1950 trở về sau, Dakao là vùng đất nổi tiếng, nơi có nhiều con đường nhỏ nhưng rất sầm uất từ thời Pháp, có nhiều hàng quán và nhiều người tài, cũng là vùng đất là cảm hứng để nhà văn Duyên Anh viết tiểu thuyết Dzũng Dakao.
Ngày trước, cầu nằm cạnh kho chứa lúa của nhà Nguyễn, được xây năm 1805 nên được gọi như vậy.
Từ thế kỷ XIX, hai bên cầu là rẫy trồng củ kiệu của người Triều Châu định cư lâu đời. Từ đó, cầu lấy tên là cầu Xóm Kiệu, dần gọi tắt là cầu Kiệu. Dấu tích rẫy bái của người Triều Châu vẫn còn trong cái tên của bệnh viện hàng đầu ở Sài Gòn, bệnh viện Chợ Rẫy.
Cũng có 1 ý kiến khác cho rằng nơi đây từng là điểm rước sắc phong thần từ kinh đô Huế vào Nam, và kiệu được đặt tạm tại khu vực cầu này để nghỉ ngơi, cúng bái. Từ đó người dân quen gọi là "Cầu Kiệu".
Theo một số tài liệu, cầu Bông được xây dựng vào thế kỷ 18, do một viên vương người Khmer bắt cầu cho dân tiện đường sang sông. Tên gọi cầu Bông có nhiều giả thuyết đặt ra, tuy nhiên theo nghiên cứu thì vào đời Tả quân Lê Văn Duyệt đã cho xây một vườn hoa gần cầu, người dân quen thuộc gọi là cầu Hoa. Sau này, vào đời vua Mạng, vì hiện tượng kỵ huý với tên gọi của vợ vua là bà Hồ Thị Hoa nên người ta phải đổi hẳn sang cầu Bông. Bởi lẽ, với người Nam, từ bông là cách gọi khác để chị hoa cỏ.
Tuy nhiên, một số tài liệu khác xác đáng hơn lại cho rằng chữ Bông không dính dáng gì tới bông hoa, mà nó được người Việt phiên âm từ chữ Pháp là Pont (cây cầu). Trước khi Pháp chiếm được thành Gia Định thì cây cầu này mang tên Cao Miên, đã được ghi rõ trong sách "Hoàng Việt nhất thống dư địa chí" của Lê Quang Định năm 1806. Sở dĩ cầu này mang tên Cao Miên là vì nó bắc ngang qua rạch Cao Miên (tên cũ của rạch Thị Nghè). Trước khi mang tên rạch Thị Nghè thì từ xa xưa con rạch này được người Khmer (Cao Miên) gọi là Prêk Kompon Lu. Với người Việt thì cái tên này khó phát âm nên người ta quen gọi thành rạch Cao Miên, và cây cầu bắc ngang qua cũng được gọi là cầu Cao Miên. Sau này người Pháp cho xây lại một loạt cầu bắc ngang qua rạch Thị Nghè (người Pháp đặt tên là rạch Avalanche) và đánh số cho tên cầu. Cầu Thị Nghè là premier pont (cầu số 1), vị trí cầu Cao Miên là deuxième pont (cầu số 2), vị trí cầu Kiệu là troisième pont (cầu số 3). Cầu Bông ngày xưa Một số hình ảnh xưa thời Pháp còn ghi tên cầu Bông là Pont de Dakao (cầu Dakao), vì vậy cây cầu này được người Việt gọi là cầu Bông, xuất phát từ chữ pont của tiếng Pháp. Trong khi đó 2 tên cầu Thị Nghè và cầu Kiệu sau này vẫn được giữ nguyên tên gọi cho đến nay.
		 
	
Trong tiếng Việt, "Bến" có nghĩa là "bến tàu", trong khi "Thành" có thể được dịch là "thành trì" hoặc "pháo đài". Tên gọi của khu chợ phản ánh ý nghĩa lịch sử của nó như một trung tâm thương mại và chợ nằm gần cảng sông hoặc khu vực bến tàu chào đón du khách trước khi đến Thành Gia Định.
Tên gọi này có liên quan đến thành Bát Quái do Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh (Vua Gia Long) xây dựng. Năm 1788, Nguyễn Vương chiếm lại được Gia Định từ quân Tây Sơn, liền cho xây dựng thành quách để ngăn quân Tây Sơn. Năm 1789, Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) về đến Gia Định cùng với số tiền quyên góp và 15.000 Francs của mình để mua súng đạn và tàu chiến, chiêu mộ khoảng 20 người Pháp giỏi về kỹ thuật vũ khí, kỹ nghệ... để giúp Nguyễn Vương. Thành bát quái (do thành có 8 cạnh) được xây dựng vào năm 1789 với số nhân công là 30.000 người, do kiến trúc sư Theodore Lebrun và kỹ sư công binh người Pháp Victor Olivier de Puymanel thiết kế.
Năm 1790, thành xây xong có chu vi khoảng 4.176 mét, ba mặt giáp sông. Sông Bến Nghé có một bến sông nằm gần thành Bát Quái, bến này dùng cho khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mà được gọi là Bến Thành (bến trước khi vào thành). Gần sát bến này có một khu chợ vì thế mà chợ này cũng được gọi là "chợ Bến Thành". Và tên "chợ Bến Thành" chính là được xuất phát từ đây.
Đường Nhiêu Tứ - Phú Nhuận:
Trước là đường hẻm, vì bên đường có nhà ông Nhiêu Tứ, nên dân chúng quen gọi đường Nhiêu Tứ.
Đường Nguyễn Văn Đậu - Bình Thạnh:
Ông là vị linh mục được người dân yêu mến và kính nể vì nhiều việc làm giúp đỡ dân chúng. Ông mất năm 2001. Thời Pháp thuộc đây là đường làng số 20. Ngày 8-2-1955 đặt tên đường Ngô Tùng Châu. Ngày 4-4-1985 đổi là đường Nguyễn Văn Đậu cho đến nay.
Đường Alexandre de Rhodes - Q.1:
Alexandre de Rhodes là tên thật của Linh mục Đắc Lộ - tên tiếng việt do ông tự chọn, một nhà truyền giáo và nhà ngôn ngữ học. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La - quyển từ điển quốc ngữ lâu đời nhất mà hiện nay còn giữ lại được, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh.
Việt Nam có thể coi là quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam và mất 15 năm sau đó tại Ba Tư.
Đường Alexandre de Rhodes là một trong các đường xưa nhất Sài Gòn. Thời Pháp thuộc có tên là đường Paracels - Hoàng Sa, đến ngày 16-10-1871 đổi lại là đường Colombert. Từ ngày 22-3-1955 đổi là đường Alexandre de Rhodes. Đến ngày 4-4-1985 thành phố đổi là đường Thái Văn Lung. Sau này lấy lại tên Alexandre de Rhodes thành tên chính thức.
Đường Bùi Thị Xuân - Q.1:
Bùi Thị Xuân là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là vợ Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Đường này có từ thời Pháp thuộc, ngày 12-2-1914 đặt tên là đường Duranton. Sau năm 1954, đổi tên là Bùi Thị Xuân.
Đường Bùi Viện - Q.1:
Bùi Viện, hiệu Mạnh Dực, là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19, làm quan dưới triều nhà Nguyễn, người có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra Tuần dương quân - lực lượng hải quân thường trực gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến. Ông là người đã đáp tàu sang Nhật Bản để qua Mỹ tìm đồng minh chống lại thực dân Pháp và đã được tổng thống Hoa Kỳ Ulysses Grant đồng ý nhưng ông không mang theo quốc thư nên không thể có 1 cam kết chính thức. Sau này ông quay về VN có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức và quay trở lại Mỹ đàm phán thì lúc đó Pháp và Mỹ lại trở thành đồng minh nên ông bị từ chối. Ông về nước và chẳng bao lâu thì mất đột ngột khi chưa đầy 40 tuổi.
Đường Bùi Viện trước đây là đường mòn làng Tân Hòa từ trước năm 1949, ngày 20-1-1950 chính quyền Bảo Đại đặt tên là đường Bảo Hộ Thọai. Đến ngày 6-10-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi là đường Bùi Viện.
Đường Calmette - Q.1:
Léon Charles Albert Calmette (12 tháng 7 năm 1863 – 29 tháng 10 năm 1933) là một bác sĩ, một nhà vi khuẩn học, miễn dịch học người Pháp và là một thành viên quan trọng của viện Pasteur (tiếng Pháp: Institut Pasteur). Ông nổi tiếng nhờ công trình nghiên cứu vắc xin chống bệnh lao.
Đường này ban đầu mang số 32. Từ ngày 14-5-1877, chính quyền thuộc địa Pháp lấy tên là đường Bourdais, đến ngày 22-3-1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên là đường Calmette.
Đường Mã Lộ - Q.1:
Thủa xưa khi phương tiện di chuyển chính của Sài Gòn là xe ngựa, các phu xe sau khi xuống hàng và khách thì cho xe và ngựa tập trung ở đoạn đường này, lấy cỏ cho ngựa ăn, chờ tan chợ lại đón khách và hàng trở về. Do đó, người ta gọi là đường Mã Lộ - đường của ngựa. Đường này nhỏ nhưng thuộc loại rất xưa của vùng Sài Gòn, có từ khi xây cất chợ Tân Định năm 1928. Thời Pháp thuộc gọi là đường Lê Văn Duyệt. Từ ngày 16-10-1955 đổi là đường Mã Lộ cho đến nay.
Đường Bông Sao - Q8:
Con đường này sở dĩ có tên như vậy là vì ngày xưa khu vực này trồng rất nhiều cây sao – loại cây lấy gỗ để đóng ghe xuồng.
Đường Bàu Cát - Tân Bình:
Hay đường Bàu Cát ở Quận Tân Bình xưa kia từng có một cái bàu (ao tù) lớn chứa đầy nước mưa ở khu vực này. Người dân cứ thế xây nhà xung quanh, rồi lấn dần, lấn dần vào cái bàu và dần dần, tên Bàu Cát đã được dùng như tên đường ở đây.
Đường Cao Bá Nhạ - Q.1:
Cao Bá Nhạ là cháu của Cao Bá Quát và là một người giỏi văn chương. Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do Cao Bá Quát lãnh đạo thất bại, dòng họ Cao chịu hình phạt tru di tam tộc, ông phải cải dạng đổi tên chạy trốn khắp nơi. Cuối cùng, ông ẩn cư ở vùng Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông kiếm sống bằng nghề dạy học. Ở đây, ông lấy vợ sinh con, nhưng chỉ sống yên ấm được khoảng tám năm thì bị tố giác và bị bắt. Trong ngục, Cao Bá Nhạ viết một bài biểu trần tình và một khúc ngâm trình lên nhà cầm quyền để tự minh oan cho mình, nhưng vẫn bị triều đình Huế đày lên Quảng Bình và rồi chết ở đấy.
Đường Cao Bá Nhạ này trước năm 1919 là một hẻm nhỏ có tên là đường Abattoire de Cầu Kho. Từ năm 1920 đổi tên là đường Le Man. Sau năm 1954 gọi là đường Cao Bá Nhạ cho đến ngày nay.
Đường Cô Giang - Q.1:
Đường Cô Giang có từ năm 1920. Trước đó, đường có tên là Douaumont, được chính thức đổi tên thành đường Cô Giang vào năm 1955 dưới thời chính quyền Sài Gòn.
Cô Giang là tên gọi khác bà Nguyễn Thị Giang, nhà cách mạng người Việt chống thực dân Pháp và là hôn thê của Nguyễn Thái Học - lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Bà là tổng thư ký của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nguyễn Thái Học đã tặng cho bà khẩu súng và bà đã nói: "Nếu Học chẳng may chết vì nước, thì Giang cũng xin lấy khí giới này mà chết theo chồng!"
Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị thực dân Pháp đưa lên máy chém. Khi chồng bị bắt, bà đã lên kế hoạch tấn công nhà tù Hoả Lò để giải cứu chồng cùng em gái bà là Cô Bắc và những người khác nhưng chưa kịp thực hiện thì Nguyễn Thái Học đã bị xử chém. Bà đã tự sát bằng chính khẩu súng của chồng tặng ngay sau đó. Nghe tin Cô Giang tự sát, quân Pháp lập tức có mặt để nhận dạng. Biết đúng là cô, họ liền ra lệnh chôn, rồi đặt điếm canh để không ai được đến thắp hương. Tuy nhiên, theo Lê Minh Quốc, thì "trên mồ của người nữ cách mạng này bao giờ cũng có những bông hoa đỏ thắm."
Đường Cô Bắc - Q.1:
Cô Bắc tên thật là Nguyễn Thị Bắc là em gái của Cô Giang. Bà là một trong những nhà lãnh đạo của khởi nghĩa Yên Bái. Chính bà đã cùng một số phụ nữ khác đưa bom từ làng Xuân Lũng (huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) lên tàu lửa đi Yên Bái để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tháng 2 năm 1930. Khởi nghĩa Yên Bái bất thành, bà cùng các đồng chí bị bắt và bị đưa ra trước Hội đồng đề hình xét xử ngày 28 tháng 3 năm 1930 tại Yên Bái và bị kết án 5 năm cấm cố. Trước Hội đồng đề hình, bà tuyên bố: ''Các người hãy về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d'Arc đi thôi!"
Trước năm 1920 đường Cô Bắc chỉ là một đường đất, lúc đầu mang tên là đường số 9. Từ ngày 23-1-1943 chính quyền thuộc địa Pháp gọi là đường Monseigneur Dumortier. Sau ngày 22-3-2955 đổi tên mới gọi là đường Cô Bắc.
Đường Cống Quỳnh - Q.1:
Nguyễn Quỳnh là một danh sĩ thời vua Lê Hiển Tông, từng thi đỗ Hương Cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên.
Đường Cống Quỳnh có từ thời Pháp thuộc, lúc đầu hợp với đường Hùynh Quang Tiên cũ thành một đường gọi là Blancsubé Cầu Kho. Ngày 26-4-1920 tách ra đoạn hiện nay gọi là đường D'Arras. Từ ngày 22-3-1955 đổi tên là đường Cống Quỳnh như hiện nay.
Đường Kha Vạn Cân:
Viết chệch từ Kha Vạng Cân. Ông là kỹ sư nổi tiếng. Nguyên Bộ trưởng Công nghiệp nhẹ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn là một nhân sĩ trí thức nổi tiếng của miền Nam, từng tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động cách mạng từ trước năm 1945.
Đường Trương Quốc Dung trên địa bàn quận Phú Nhuận cũng được đặt tên không chính xác vì đúng phải là Trương Quốc Dụng. Trong lịch sử Việt Nam không có vị danh nhân nào như tên con đường đang có. Chỉ có ông Trương Quốc Dụng, là nhà văn, nhà sử học, nhà thiên văn nổi tiếng của Việt Nam và là người có công chấn hưng lịch pháp thời nhà Nguyễn.
Đường Ký Con - Q.1:
Bí danh của Đoàn Trần Nghiệp, nhà cách mạng Việt Nam, một trong những lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng. Người tổ chức đội cảm tử ném bom tại năm điểm ở Hà Nội và cuối cùng bị thực dân Pháp chém đầu tại nhà tù Hoả Lò. Đường này thuộc loại xưa nhất vùng Sài Gòn, thời Pháp thuộc lúc đầu mang tên đường số 34. Từ ngày 14-5-1877, đổi tên là đường Marchaise. Ngày 22-3-1955 đổi là đường Ký Con cho đến nay.
Đường Ông Tạ - Tân Bình:
Ông Tạ tên thật là Ông Bỉ sinh năm 1918, gốc người Mỹ Tho, từ nhỏ đã từng lên học đạo và học nghề bốc thuốc Nam với sư phụ núi trên chùa núi Bà Đen (Tây Ninh). Sau, ông về cất am tu và bốc thuốc cứu người. Bà con quanh vùng và cả từ các tỉnh lân cận như Long An, Định Tường... cũng lên chữa bệnh, hầu hết là bà con nghèo.
Ông rất thương người nghèo, trước nhà ông ngày trước lúc nào cũng có một thùng đựng bạc lẻ để cho bà con nghèo lỡ đường. Có nhiều người nghèo quá, ông bắt mạch, bốc thuốc không lấy tiền mà còn cho tiền ăn, tiền xe về quê. Mọi người rất kính trọng nhưng không ai biết ông thầy tu bốc thuốc Nam tên gì, thấy ông trụ trì một am nên gọi ông là thầy Thủ Tọa, đọc theo giọng bình dân Nam Bộ là "Thủ Tạ", rồi lâu dần bà con chỉ gọi "Ông Tạ" - hồi nhỏ bị bịnh là được đi bằng xích lô Máy vô Ông Tạ hốt thuốc rất đông phải chờ đợi.
Thời chiến tranh, nhiều phụ nữ có con nhưng không có điều kiện nuôi đều đem đến hiệu thuốc để lại và thầy nhận nuôi, cho ăn học lớn khôn nên người. Khi thầy thuốc Thủ Tạ qua đời, đám tang ông có rất đông người tập trung về viếng. Quan tài được kéo bằng cỗ xe ngựa 6 con, chạy từ nhà lên ngã tư Bảy Hiền vòng theo đường Cộng Hòa xuống vòng xoay Lăng Cha Cả và về chôn tại nhà. Sau khi mất, hiệu thuốc được truyền lại cho con cháu tiếp tục phát triển, đến nay vẫn còn.
Theo bà Mai, trong những năm chế độ cũ, cả làng chỉ một nhà thầy Thủ Tạ có giếng nước, mọi người ngày ngày ghé giếng gánh nước về dùng, ổng cũng vui vẻ và hay hỏi thăm mọi người về làm ăn và sức khỏe.
Ngã ba Ông Tạ trước đây là giao lộ giữa đường Lê Văn Duyệt – Thoại Ngọc Hầu (nay là Cách Mạng Tháng Tám – Phạm Văn Hai), khi ông mất, nhiều người qua đây đều nhớ và tiếc thương ông Thủ Tạ, từ đó ngã ba này cũng gọi với tên thân thuộc là ngã ba Ông Tạ.
Giồng tiếng Nam bộ xưa là gò đất cao rộng ở gần sông, Tố là tên người đàn ông Trương Vĩnh Tố có công khai hoang vùng đất và hiến miếng đất của ông làm ngôi chợ. Mộ phần của 2 vợ chồng ông được cho là nằm trong khu nghĩa trang chùa Nam Đào ( nay là trường tiểu học ), cũng có ý kiến khác cho rằng mộ của ông nằm trên đường Nguyễn D Trinh.
Đường Bà Lài - Quận 6:
Bà Lài vốn là tên của một người phụ nữ sống ở ngoại ô Chợ Lớn xưa. Bà mở một quán hàng hàng ở vùng quận 5. Khi người Pháp lập thành phố Chợ Lớn, đường chạy qua quán của bà được lấy theo tên bà. Tuy nhiên, khi bà dời xuống quận 6 buôn bán, người ta chuyển tên đường Bà Lài từ quận 5 xuống quận 6 cho phù hợp với thực tế.
Đường Bà Hạt, Bà Ký, Bà Hom:
Thực ra, Bà Hạt, Bà Lài, Bà Ký gần gũi hơn mọi người nghĩ nhiều. Họ đều là các bà cụ ngày xưa buôn bán có tiếng ở xung quanh khu vực đó. Do dân quen gọi tên những người này nên đã lấy họ làm tên phố.
Chợ Bà Hoa:
Theo đó, ngày trước có người phụ nữ tên Hoa, dân gốc Bắc di cư vào Nam. Vì yêu nếp sống và ẩm thực xứ Quảng nên đã mua miếng đất trũng rồi đổ đất xây nên ngôi chợ, phân lô và cho mọi người thuê buôn bán. Người ta nhớ ơn nên gọi mãi là chợ Bà Hoa - một khu chợ đặc biệt dành riêng cho xứ Quảng.
Đường Ký Thủ Ôn - Q.8:
Lấy tên một người Hoa thường gọi: Ký Thông. Ông tham gia kháng chiến, hoạt động bí mật trong chính quyền Sài Gòn, giả vờ hợp tác với Ngô Đình Diệm và tử trận trong khi giao chiến với quân Bình Xuyên.
Đường Nam Quốc Cang - Q.1:
Nam Quốc Cang tên thật Nguyễn Văn Sinh, là nhà báo cách mạng chủ bút của nhiều tờ báo nổi tiếng được độc giả yêu thích và là quản lý tờ báo Dân Quý thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông bị ám sát cùng với 1 nhà báo khác tại cổng toà soạn tờ báo Dân Quý. Cái chết của hai nhà báo đã gây chấn động giới báo chí và công chúng Sài Gòn. Đám tang của ông được tổ chức vào ngày 9 tháng 5, đã thu hút hàng vạn dân chúng Sài Gòn tham dự.
Đường Nam Quốc Cang trước đây mang tên đường Lucien Lacouture. Từ ngày 19-10-1955 đổi là đường Đặng Đức Siêu. Ngày 4-4-1985 đổi là đường Nam Quốc Cang.
Đường Sương Nguyệt Ánh:
Nguyệt Anh là con gái thứ 5 của cụ Nguyễn Đình Chiểu, có sắc đẹp và tài làm thơ. Đến sau ngày chồng qua đời bà thêm chữ Sương tức "người đàn bà góa chồng" đứng trước để thành biệt hiệu Sương Nguyệt Anh. Bà làm chủ bút tờ báo phụ nữ đầu tiên xuất bản ở Sài Gòn năm 1918 là tờ Nữ giới chung - tiếng chuông của giới nữ. Nhưng người dân hay nhầm thành Sương Nguyệt Ánh.
Bến Dược:
Vùng này khi xưa chuyên trồng cây thuốc Nam. Sau này người ta tìm được địa danh xóm Bà Dược. Dược là tên một người phụ nữ, và cái bến tại xóm này có thể ban đầu được gọi là bến Bà Dược sau gọi tắt thành Bến Dược.
Đường Bờ Bao Tân Thắng - Quận Tân Phú:
Trước đây có trại bò Tân Thắng rất lớn ở đó và con đường này chạy vòng quanh trại bò nên người dân thường gọi là đường bờ bao Tân Thắng.
Đường Kênh Nước Đen - Quận Bình Tân:
Con đường này trước đây một dòng kênh dài, nước dơ và thường bốc mùi rất khó chịu. Sau này một phần kênh đã được san lấp và trồng cây xanh và đặt tên đường là đường Kênh Nước Đen.
Ngã Tư Bảy Hiền - Quận Tân Bình:
Bảy Hiền tên thật là Trần Văn Hiền, một đại điền chủ giàu có. Đất đai của ông trải rộng khắp khu vực Trường Chinh, Cộng Hòa, Bàu Cát.. ngày nay. Bảy Hiền giàu có nhưng không khoa trương và hay chia sẻ giúp đỡ người nghèo. Một lần, nhân dân miền Nam lâm cảnh đói kém vì mất mùa, ông Bảy Hiền đăng báo sẽ bố thí tiền xu, lúa gạo cho bà con Sài Gòn - Gia Định trong một tuần lễ. Dân chúng nhiều địa phương khác nghe tin đều lặn lội tìm đến.
Tiếng lành đồn ra, mọi người truyền tai nhau về một người đàn ông nhân đức hay "phát chẩn", giúp người nghèo. Hàng nghìn người tìm đến và ông Bảy đều ra tay cứu giúp. Dần dà, khu vực ngã tư - nơi có nhà của ông - được người dân đặt là ngã tư Bảy Hiền, theo tên người đàn ông nhân đức. Khi chết, ông được chôn cất tại khu vực Lăng Cha Cả cùng vợ mình. Sau này, khu vực nghĩa trang bị giải tỏa, người nhà ông Bảy Hiền có lấy hài cốt đưa về thờ tại chùa Vạn Thọ trên đường Nguyễn Văn Nguyễn - phường Tân Định, quận 1.
Đường Mẫu Giáo Nghĩa Địa - Quận Tân Bình:
Trên đường có rất nhiều nhà mẫu giáo giữ trẻ nằm gần khu nghĩa địa Bình Hưng Hòa.
Đường Điện Cao Thế - Quận Tân Phú:
Từ Tân Sơn Nhì nối dài đến Trương Vĩnh Ký ở quận Tân Phú, vì người dân thấy có đường điện cao thế chạy qua nên gọi đường này là đường Điện Cao Thế.
Ngã tư Hàng Xanh:
Ngã tư Hàng Xanh - Hàng Xanh Chữ Xanh phải viết là Sanh mới đúng. Sanh là tên một loại cây lớn có họ hàng với cây đa, cây đề, cây si... (họ Ficus). Xưa trên con đường đi từ đường Thiên Lý (đường Cái Quan), chổ gần cầu Sơn, đi băng qua rạch Cầu Bông đến lăng Ông - Bà Chiểu, hai bên đường có trồng hàng cây Sanh, do vậy đường có tên là Hàng Sanh, nay là đường Bạch Đằng. Theo một số tư liệu mang tính cá nhân thì đến khoảng thập niên 40 vẫn còn cây này ở ven đường. Trên Bản đồ đô thành Sài Gòn năm 1962 thì đoạn đầu của đường Bạch Đằng vẫn còn ghi tên là đường Hàng Sanh. Vậy sự sai lệch từ Xanh thành Sanh cũng mới đâu đây thôi, không quá xa lắm. b) Ngã Tư Ngã tư này chỉ xuất hiện sau khi có xa lộ Biên Hòa (xa lộ Hà Nội ngày nay) cắt ngang đường Cái Quan cũ, đó khoảng thời gian đầu thập niên 60 của thế kỷ XX. Đây là một giao lộ đồng mức thuộc loại hiện đại nhất thời ấy, với hệ thống dải phân cách, phân luồng và đèn tín hiệu giao thông vẫn còn sử dụng tốt cho đến tận 1995. Địa danh mang tên cây tại Sài Gòn xưa Sài Gòn xưa là rừng, đến giữa thế kỷ XX vẫn còn nhiều vết tích. Còn tồn tại đến tận bây giờ trong tâm trí người Sài Gòn qua những địa danh mang tên các loài cây, như : cây Vắp, cây Củ Chi, cây Sanh, cây Quéo, cây Thị, cây Da Sà, cây Sơn (có cầu Sơn gần ngã tư Hàng Sanh), cây Gõ, cây Xoay, cây Gòn.
Ngã Năm Chuồng Chó:
Thời Pháp thuộc, vùng này gọi là Ngã Năm Hàng Điệp.
Lúc đó, ở đây dọc năm bên đường chéo nhau của khu vực có trồng mấy hàng cây Điệp rất lớn và đẹp. Sau đó lực lương quân sự Pháp Việt phối hợp nhau thành lập ở vùng này một trường Quân Khuyển. Trường huấn luyện chó làm tình báo và đánh giặc. Kể từ đó, người dân trong vùng gọi nơi đây bằng địa danh "Ngã Năm Chuồng Chó"
Hiện nay tên gọi đó vẫn lưu truyền và còn được gọi là Ngã 6 Gò Vấp..
Vòng xoay Lăng Cha Cả:
Trước đây là khu lăng mộ rộng hơn 2.000 m2, nơi chôn cất và thờ cúng giám mục Bá Đa Lộc, người xưa gọi là "Cha Cả". Ông quốc tịch Pháp, sinh năm 1741, tên là Pierre Pigneaux. Sau khi được sắc phong linh mục năm 1765, ông qua Việt Nam truyền giáo và phò tá Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn.
Tên đường trước 75 -> Tên đường sau 75
    
        
Tài liệu được tổng hợp nhiều nguồn, chỉ mang tính chất tham khảo.
				
			Tên đường ở Sài Gòn, lịch sử các con đường ở Sài Gòn, tên đường Sài Gòn thời Pháp
 
	Đa số các tuyến đường ở Sài Gòn thường được đặt tên theo 1 nhân vật, anh hùng dân tộc hoặc 1 nhân vật nổi tiếng ở địa phương đó, và không chỉ dừng lại ở việc lấy tên những nhân vật quen thuộc, nhiều con đường ở thành phố Hồ Chí Minh còn được đặt tên dựa trên đặc điểm địa lý hay lịch sử địa phương. Ví dụ điển hình là đường Bông Sao ở Quận 8. Con đường này sở dĩ có tên như vậy là vì ngày xưa khu vực này trồng rất nhiều cây sao – loại cây lấy gỗ để đóng ghe xuồng. Hay đường Bàu Cát ở Quận Tân Bình xưa kia từng có một cái bàu (ao tù) lớn chứa đầy nước mưa ở khu vực này. Người dân cứ thế xây nhà xung quanh, rồi lấn dần, lấn dần vào cái bàu và dần dần, tên Bàu Cát đã được dùng như tên đường ở đây.
Đường Bà Hom, Bà Hạt, Bà Lài, Bà Ký, Bà Quẹo đều là các bà cụ ngày xưa buôn bán có tiếng ở xung quanh khu vực đó. Do dân quen gọi tên những người này nên đã lấy họ làm tên phố. Tương tự, có ngã tư Bảy Hiền ở quận Tân Bình được đặt tên theo một ông chú tên Bảy Hiền chuyên cung cỏ cho các gia đình nuôi ngựa ở đây năm xưa. Dân tới đây thường dùng nhà ông Bảy Hiền để chỉ đường, nên dần dần con phố cũng mang tên của ông.
Ở Saigon, trong thời gian gần đây nhiều con đường mới mở mang tên các loài hoa, như nơi một khu dân cư mới của quận Phú Nhuận, những loài hoa được đặt tên đường như đường Hoa Lan, Hoa Huệ, Hoa Sứ, Hoa Lài, Hoa Cúc, Hoa Hồng, Hoa Phượng, Hoa Trà, Hoa Mai, Hoa Đào, Hoa Sữa..
Gò Vấp:
Nguyên là vùng đất cao có trồng nhiều cây vắp. Loại cây này thân gỗ rất cứng thuộc họ măng cụt, hiện vẫn trồng nhiều nơi tại TP.HCM như khuôn viên vườn Tao Đàn, khu vực đường Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương, sau này người dân đọc chệch đi thành Gò Vấp. Loại cây này đã mọc nhiều thành rừng đã che chở cho đời sống của cộng đồng người Chăm, vì vậy, trong dấu tích tiếng Chăm vẫn gọi cây vắp là Krai. Gò Vấp là địa danh nổi tiếng ai cũng biết, nơi sản xuất thuốc lá rất nhiều, nuôi tằm kéo tơ lụa và nhuộm. Muốn mua vải, tơ lụa thì đến Gò Vấp, mua thuốc lào cũng đến Gò Vấp.
Bên cạnh cách giải thích về loài cây vắp, dân tiểu thương tại chợ Gò Vấp lại kể: "Ngày trước đây ở đây cao, dân buôn bán nhà nghèo tụ họp thường bị rượt đuổi hoài, bỏ chạy thì vấp gò mà té nên gọi là Gò Vấp". Nhưng có lẽ, đây chỉ là câu chuyện tám chuyện hài hước vì sự trùng hợp của từ vấp trong tiếng Việt mà thôi.
Thủ Đức:
Thời Nguyễn Hữu Cảnh, vùng này có ông tên Đức, giàu có nhất vùng nên được ban cho chức là "ông Thủ", chuyên đi thu thuế của dân để đóng cho nhà nước. Người dân quen gọi lâu ngày thành tên gọi địa danh Thủ Đức.
Củ Chi:
Củ Chi là một huyện mới phát triển nhập vào TP. HCM từ sau năm 1975, đường xá được xây dựng mới, có nhiều tên đường đặt theo các loài cây cỏ, như đường Bàu Lách, địa bàn xưa có nhiều bàu (ao, hồ) mọc nhiều cây lách (một lọai lau sậy, ta còn thấy trong từ lau lách), đường Bàu Trâm, nơi có một cái bàu có nhiều cây trâm bầu, đường Bàu Tre, nơi có bàu mọc nhiều tre, đường Bến Cỏ nơi có một bến đò, dân trong vùng cắt cỏ đưa ra đấy bán cho những người nuôi ngựa ở miền dưới. Đường Cây Điệp, nơi trồng nhiều cây điệp, đường Cây Gõ, nơi xưa có trồng cây gõ, đường Cây Trắc cũng là một loại cây gỗ lưu niên, đường Cây Trôm, cũng là nơi có trồng cây trôm (một loại cây cổ thụ cho mủ trời nắng nóng uống giải nhiệt), đường Xóm Thuốc, người dân ở đây trồng cây thuốc lá. Một con đường khác có tên là đường Mít Nài, mít Nài là một giống mít rừng giống như mít vườn nhưng không ăn được, gỗ chỉ làm củi đốt. Ở Củ Chi cũng có một con đường được đặt tên là đường Cây Bài, không thấy sách vở giải thích cây bài là cây gì?
Bản thân tên gọi Củ Chi thì "củ chi" là củ "mã tiền" (Từ điển Bách khoa Nông nghiệp), tên một cây thuốc trước đây được trồng nhiều ở địa phương. Ở Củ Chi có một địa danh là Bến Dược, có 3 giả thuyết về tên gọi này: 1. Đọc theo giọng Nam bộ từ "Bến vượt", nơi đây có một bến đò trong chiến tranh bộ đội vượt sông vào bưng. 2. Là bến đò chuyên chở thuốc nam (như đã nói, trước đây vùng này trồng nhiều củ mã tiền còn gọi là củ chi). 3. Rút gọn của "Bến Bà Dược" (nơi đây có xóm Bà Dược). Nhiều người nghiêng về giả thuyết thứ 2. và thứ 3. hơn. Ở Củ Chi cũng có tên đường là loài vật, như đường Cá Lăng, đường Hố Bò, hoặc mang những tên gọi khác như đường Sông Lu, đường này là nơi có một con sông ngày trước ghe thuyền chở lu đựng nước đến bán, đường Suối Lội bởi dọc theo con đường có một con suối, mùa khô người dân có thể lội qua mà đi không cần ghe thuyền.
Những con đường có tên cây cỏ hay tên thú vật ở Củ Chi này là do trước khi mở đường chính thức, đây là những địa danh đã được người dân quen gọi từ lâu, nay được tiếp tục đặt tên cho đường mới mở.
Hóc Môn:
Chữ hóc là âm cổ của hói, chỉ dòng nước nhỏ, môn là cây môn nước, hàm nghĩa là dòng nước nhỏ có nhiều cây môn mọc quanh.
Tân Bình, Phú Nhuận:
Sử gia, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư (năm nay 104 tuổi), cho biết thời Nguyễn Hữu Cảnh đã lấy tên Tân Bình đặt cho huyện Tân Bình. Tân Bình thuộc phủ Gia Định (chưa lên cấp tỉnh). Còn dưới huyện Tân Bình có nhiều xã, trong đó có xã Phú Nhuận mang tên quận Phú Nhuận ngày nay.
Phú Nhuận là địa danh thể hiện địa giới hành chính cấp xã, được thời Nguyễn Hữu Cảnh đặt ra. Nguyễn Hữu Cảnh là người Quảng Bình vào, nên các địa danh thôn xã của Gia Định đều lấy từ tên các địa danh ở Quảng Bình.
Tân Bình cũng là từ tên địa danh ở Quảng Bình đưa vào, với ngụ ý những người di cư là người Quảng Bình hãy luôn nhớ lấy quê nhà. Phủ Gia Định lúc bấy giờ có 2 huyện là Tân Bình và Phước Long (Biên Hòa hiện nay).
Cũng theo sử gia, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, huyện Tân Bình có 2 tổng được đặt tên từ 2 từ tách ra là Tân và Bình cho tổng Tân Phong và tổng Bình Dương. Đến đời Minh Mạng, dân đông lên, ruộng đất canh tác được mở ra nhiều, 2 tổng Tân Phong và Bình Dương lại tách ra thành 4 tổng, dưới các tổng này có nhiều xã, thôn. Sau này, chính quyền cách mạng xóa bỏ cấp tổng, nên không ai còn nhớ đến các tổng nữa.
Thủ Thiêm:
Cũng giống như Thủ Đức, thủ là từ gọi tắt của "thủ ngữ", làm nhiệm vụ giữ an ninh và thu thuế, Thiêm được cho là tên của viên chức được cử đến cai quản nơi này.
Ngược dòng thời gian, Thủ Thiêm lần đầu tiên được biết đến vào thời chúa Nguyễn, thế kỷ 17, qua tên gọi xóm Tàu Ô. Khi đó, chúa Nguyễn đã đồng ý cho một nhóm người Hoa chạy trốn nhà Thanh cư trú ở bán đảo này.
Đến cuối thế kỷ 18 thì tên gọi Thủ Thiêm xuất hiện. Trong tên gọi này, từ "Thủ" có nghĩa là đồn canh. Chính quyền chúa Nguyễn lúc bấy giờ đã cho lập đồn binh tại đây để kiểm soát việc đi lại trên sông Sài Gòn, bảo vệ vùng Gia Định.
Có thể người chỉ huy đồn binh ở bán đảo tên là Thiêm nên người ta gọi đồn binh là Thủ Thiêm. Theo thời gian, không còn ai nhớ ông Thiêm là ai, còn cái tên Thủ Thiêm đã trở thành tên vùng đất.
Cát Lái
Thật ra, theo các nhà nghiên cứu, Cát Lái là một cụm từ ... vô nghĩa, chính xác phải là "Các" Lái - nghĩa là các lái buôn. Từ xưa, các lái buôn thường tụ tập mua bán ở khu vực này. Trong dân gian vẫn còn lưu truyền những bài vè về các lái buôn ghe bầu từ miền Trung vào Gia Định với hai bài Vè lái vô và Vè lái ra.
Một ý kiến khác:
Tôi nghe Ba mình nói về địa danh Cát Lái. Từ thời ông Cố mình, sông Cát Lái là con sông lớn, có lượng phù sa (Cát) bồi đắp rất lớn, từ thời Pháp để tàu bè lớn từ biển Vũng Tàu chạy vô sông được thì Pháp phải cho nạo vét sông. Với đặc điểm lượng cát bồi đắp lớn như vậy, nên các thương lái khai thác cát khắp nơi tụ hội về đây hút cát là rất lớn. Nên những thương hồ khai thác cát trên con sông này gọi là: Cát Lái #Lái buôn (thương hồ) buôn bán Cát trên sông này. Đây là ý kiến riêng tham khảo , vì mình nghe kể là vậy..
Thảo Điền
Nguồn gốc xa xưa Thảo Điền là vùng đất trũng, quanh năm toàn là cỏ cây hoang dại - "vùng đất toàn cây cỏ", bởi vậy mới có tên gọi là "Thảo Điền"
Thảo = cỏ
Điền = đồn điền
Rạch Chiếc
Rạch Chiếc là con rạch nằm trên địa bàn phường Phước Bình (quận 9) nối sông Sài Gòn với sông Đồng Nai ở phía đông bằng tắt Đồng Nhiên, bắt đầu từ rạch Trao Trảo đến sông Sài Gòn, cắt ngang xa lộ Hà Nội, dài khoảng 6.000 m. Cầu Rạch Chiếc nổi tiếng với trận đánh giải phóng Sài Gòn hồi tháng 4/1975.
Theo các nhà nghiên cứu địa danh học, viết Rạch Chiếc là không đúng mà phải là Rạch Chiết, do xưa rạch này có nhiều cây chiết là "thứ cây mọc hoang, thấp nhỏ, lá lớn, hay mọc hai bên mé sông, thường ra lá non, mùi chát chát có thể ăn như rau". Nếu viết là Rạch Chiếc thì không có ý nghĩa.
Thị Nghè
Ở quận Bình Thạnh có cầu, chợ và kênh mang tên Thị Nghè. Người này vốn tên Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết rằng, "do có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Thị Nghè. Do bà khai hoang đất ở, bắc cầu để tiện việc đi lại, nên dân gọi là kênh, cầu Thị Nghè".
Kênh Tàu Hủ
Nhắc đến kênh Tàu Hủ, nhiều người không khỏi tò mò về xuất xứ tên gọi dòng kênh này vì "tàu hủ" (hay đậu hũ, người miền Bắc gọi là tào phớ) vốn là tên một món ăn rất hấp dẫn.
Theo Gia Định thành thông chí, ban đầu nơi đây chỉ là con rạch nhỏ. Để tiện lưu thông giữa Sài Gòn và miền Tây Nam bộ, khoảng năm 1772, tướng Nguyễn Cửu Đàm cho đào thành kênh Ruột Ngựa. Năm 1819, vua Gia Long cho mở rộng kênh và lấy tên An Thông hà (sông An Thông), sau đổi tên thành kênh Tàu Hủ.
Nguồn gốc tên "Tàu Hủ" cũng nhiều giả thuyết. Theo nhà văn hóa học, ngôn ngữ học Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Ký, "Tàu Hủ" là do người Việt đọc trại từ "Tàu Khậu" do lúc xưa, dọc kênh Tàu Hủ có những khu nhà kho, người Triều Châu gọi khu này là "Thổ Khố" (đọc là "Tàu Khậu", nghĩa là khu nhà đất).
Trong khi đó, theo nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh, "Tàu Hủ" vốn đọc trại từ "Cổ Hũ" (vì khúc kênh chỗ này phình ra, thắt lại giống cổ của cái hũ).
Thực ra đa phần mọi người lần đầu nghe tới cái tên này đều nghĩ là do ngày xưa chỗ này bán nhiều Tàu Hủ (豆腐) hoặc chuyên về nghề làm Tàu Hủ nên mới có cái tên đó. Nhưng mà ngày xưa thì kinh Tàu Hũ lại có tên là sông An Thông (安通河), cái tên Tàu Hủ thì về sau mới xuất hiện và phổ biến. Người ta cũng nói thêm là chỗ này đó giờ không có xóm chuyên nghề làm Tàu Hủ gì hết.
Dưới thời Pháp thì cả kinh Tàu Hủ và kinh Bến Nghé đều được kêu chung 1 cái tên là "Arroyo Chinois" có nghĩa là "Kinh Người Tàu" theo cách gọi ngày trước.
Không ai biết chính xác vì sao cái tên Tàu Hủ lại ra đời, và người ta cũng đặt ra nhiều giả thuyết để giải thích nó. Một trong những giả thuyết có cơ sở nhất hiện nay là do lối đọc "trại âm" từ tiếng Tiều mà ra.
Vì vốn khi xưa dọc đôi bờ Kinh Tàu Hủ có những khu nhà người ta gọi là "nhà gạch", và tiếng Triều Châu gọi khu nhà này là "Thầu Khậu" (土庫), theo thời gian thì người Việt đọc trại tiếng Hoa từ này thành "Tàu Hủ", từ đó cái tên mới cũng ra đời và trở nên quen thuộc với người Chợ Lớn cho tới bây giờ.
Chí Hòa và Kỳ Hòa
Ở TP HCM hiện tồn tại đồng thời hai địa danh được cho là giống nhau đó là Chí Hòa và Kỳ Hòa. Theo các nhà nghiên cứu, Chí Hòa nguyên là tên một làng ở Gia Định, đã được lấy để đặt cho một đại đồn của quân đội ta xây nên để chống Pháp. Khi quân Pháp dồn lực lượng tấn công, đại đồn Chí Hòa thất thủ.
Về địa điểm của đại đồn Chí Hòa, nhà văn Sơn Nam cho biết: "Tướng Tôn Thất Hiệp rồi tướng Nguyễn Tri Phương đều chọn lựa cuộc đất nằm trong địa phận làng Chí Hòa Phú Thọ dọc theo rạch Nhiêu Lộc, lấy con đường đi Tây Ninh (Cách Mạng Tháng Tám ngày nay) làm trung tâm để xây đồn lũy...". Như vậy, Chí Hòa ban đầu là tên làng, mà hiện nay vẫn còn tên gọi như đình Chí Hòa, nhà thờ Chí Hòa... Về sau, Chí Hòa đã trở thành tên một cái đồn được xây dựng tại đó để chống Pháp...
Còn tên Kỳ Hòa xuất hiện vào thời điểm nào? Theo tác giả Trần Trọng Kim trong quyền Việt Nam Sử Lược, thì Kỳ Hòa là cách gọi của người Việt, Chí Hòa là cách gọi của người Pháp. Nhưng tác giả lại không nêu cứ liệu. Còn theo nhà văn Sơn Nam trong quyển Địa danh TP HCM thì Chí Hòa mới là âm gốc, Kỳ Hòa là cách gọi sai lạc vì ngày nay còn địa danh Chí Hòa và ở Nam Bộ không có địa danh mang yếu tố Kỳ ở trước.
Thanh Đa
Người Sài Gòn từ lâu đã quen với các địa danh như Kinh Thanh Đa, cư xá Thanh Đa, chợ Thanh Đa... ở phường 26 và 27 của quận Bình Thạnh. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, địa danh này có nguồn gốc từ tên gọi Thạnh Đa.
Thôn Thạnh Đa thuộc tổng Bình Trị (sau thuộc Bình Trị Thượng), huyện Bình Dương, có từ năm 1818. Trong sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức và Monographie de la provine de Gia Định (Chuyên khảo về Gia Định, xuất bản năm 1902 tại Sài Gòn) đều có ghi tên thôn Thạnh Đa. Về sau, do bỏ dấu khi in trên bản đồ thời Pháp, nên địa danh Thạnh Đa biến thành Thanh Đa như hiện nay.
Tên Các Con Đường Bắt Đầu Bằng Ông Hoặc Bà:
Người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa danh, một con đường, con hẻm một cái tên hoặc bà hoặc ông trước là dễ nhớ, sau là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng.
Ví dụ: đường Bà Lài - Q6, Bà Quẹo - Tân Bình, Bà Ký.. Ông Lãnh, Ông Tố..
Đường Bia Truyền Thống:
Bia Truyền Thống là tên gọi tuyến đường nhỏ nằm bên phải Nhà bia ghi danh liệt sĩ xã Tân Tạo, quận Bình Tân giao cắt với đường Tỉnh lộ 10.
 
	Đường tên Lửa - Bình Tân:
Gọi là đường Tên Lửa bởi sau năm 1975 trên con đường này đóng một đơn vị phòng không có trang bị hỏa tiễn phòng không - tên lửa.
Đường Mả Lò - Bình Tân:
Con đường này thì có khá nhiều giai thoại về tên đường, đầu tiên là với giải thích ở nơi đây có một khu nghĩa địa mà những ngôi mả đều xây theo hình dáng lò nấu bếp. Giai thoại thứ 2 là trên con đường này xưa có cái mả của một người làm lò (cái lò để đun nấu). Sinh thời ông làm nghề sản xuất ra cái lò ở khu vực gần cầu ông Buông. Khi ông mất được chôn mả đứng nên trên đường đó chỉ có cái mả chôn lạ, gây sự chú ý nên gọi tên theo sự khác biệt để nhớ riết thành lệ.
Đọc được đâu đó trên mạng:
Tôi có nghe ông Thân sinh tôi kể: thời còn Pháp thuộc có một nhân viên kế toán của một Hãng buôn đã lấy tiền của hãng dùng để đánh bạc, sau khi thua hết đã đến vùng Mả Lò tự vận chết (tôi nghe người xưa kể lại ở đó có một khu đất hoang trống, người địa phương thường vứt bỏ các lò bếp cũ hư tại đó, lâu ngày chất đống nên người dân quen gọi là Mả lò, chứ không phải ông chủ Lò mất được chôn tại đó) tôi chỉ nghe kể lại thôi.
Đường Văn Thánh - Bình Thạnh:
Thời xưa tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt cho xây miếu Văn Thánh là miếu thờ ông Thánh về văn hóa tức Khổng Tử để khuyến khích việc học hành.
Bến Nghé - Quận 1
Theo Trịnh Hoài Đức, Bến Nghé trước đây là bến nước tụ họp cho trâu con uống nước, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng thêm rằng: Bến Nghè từng không phải là nơi trâu uống nước mà theo tương truyền, trên sông này ngày trước có rất nhiều cá sấu sống, đêm đêm chúng kêu lên văng vẳng như tiếng gầm của trâu rống, nên được người ta gọi là "nghé" kết hợp với "bến" trong từ bến nước.
Đường Đa Kao - Q1
Đa Kao bắt nguồn từ tên vùng đất Sài Gòn xưa gọi là Đất Hộ. Hộ (quartier) là đơn vị hành chính tồn tại vào thời kì Sài Gòn và Chợ Lớn được sáp nhập lại thành vùng Sài Gòn – Chợ Lớn, đơn vị này tương đương cấp tổng ở các tỉnh. Đứng đầu một hộ là hộ trưởng. Đất Hộ được phiên âm thành Dakao trong sách báo, văn bản thời Pháp thuộc.
Nhà nghiên cứu Trương Thái Du có cách giải thích hợp lý nhất dựa theo những tài liệu bản đồ xưa còn lưu lại, theo đó thì Đất Hộ nghĩa là vùng đất (từng có) từng hộ thành (shield wall – tường bảo vệ thành). Thành ở đây là thành Gia Định (Quy thành) được Gia Long – Nguyễn Ánh xây dựng từ lúc chưa lên ngôi, đã bị phá hủy trong loạn Lê Văn Khôi, vài năm trước khi người Pháp vào chiếm Gia Định. Sau đó, người Pháp đã phiên âm chữ Đất Hộ thành Dakau (sau đó là Dakao), chính xác hơn là Dak-Au. Chữ Đất được phiên âm thành Dak, còn chữ Hộ thì vì trong tiếng Pháp chữ H là âm câm, nên chữ Ộ được phiên âm thành Au. Từ đó, Đất Hộ đã trở thành Dak Au, trên các bản đồ thời Pháp ghi thành Dakau, sau đó thành Dakao. Tên gọi Dakao đã được sử dụng phổ biến từ cuối thế kỷ 19, thay thế cho cái tên nguyên thủy là Đất Hộ. Thập niên 1950 trở về sau, Dakao là vùng đất nổi tiếng, nơi có nhiều con đường nhỏ nhưng rất sầm uất từ thời Pháp, có nhiều hàng quán và nhiều người tài, cũng là vùng đất là cảm hứng để nhà văn Duyên Anh viết tiểu thuyết Dzũng Dakao.
Cầu Kho - Quận 1
Ngày trước, cầu nằm cạnh kho chứa lúa của nhà Nguyễn, được xây năm 1805 nên được gọi như vậy.
Cầu Kiệu
Từ thế kỷ XIX, hai bên cầu là rẫy trồng củ kiệu của người Triều Châu định cư lâu đời. Từ đó, cầu lấy tên là cầu Xóm Kiệu, dần gọi tắt là cầu Kiệu. Dấu tích rẫy bái của người Triều Châu vẫn còn trong cái tên của bệnh viện hàng đầu ở Sài Gòn, bệnh viện Chợ Rẫy.
Cũng có 1 ý kiến khác cho rằng nơi đây từng là điểm rước sắc phong thần từ kinh đô Huế vào Nam, và kiệu được đặt tạm tại khu vực cầu này để nghỉ ngơi, cúng bái. Từ đó người dân quen gọi là "Cầu Kiệu".
Cầu Bông - Quận 1
Theo một số tài liệu, cầu Bông được xây dựng vào thế kỷ 18, do một viên vương người Khmer bắt cầu cho dân tiện đường sang sông. Tên gọi cầu Bông có nhiều giả thuyết đặt ra, tuy nhiên theo nghiên cứu thì vào đời Tả quân Lê Văn Duyệt đã cho xây một vườn hoa gần cầu, người dân quen thuộc gọi là cầu Hoa. Sau này, vào đời vua Mạng, vì hiện tượng kỵ huý với tên gọi của vợ vua là bà Hồ Thị Hoa nên người ta phải đổi hẳn sang cầu Bông. Bởi lẽ, với người Nam, từ bông là cách gọi khác để chị hoa cỏ.
Tuy nhiên, một số tài liệu khác xác đáng hơn lại cho rằng chữ Bông không dính dáng gì tới bông hoa, mà nó được người Việt phiên âm từ chữ Pháp là Pont (cây cầu). Trước khi Pháp chiếm được thành Gia Định thì cây cầu này mang tên Cao Miên, đã được ghi rõ trong sách "Hoàng Việt nhất thống dư địa chí" của Lê Quang Định năm 1806. Sở dĩ cầu này mang tên Cao Miên là vì nó bắc ngang qua rạch Cao Miên (tên cũ của rạch Thị Nghè). Trước khi mang tên rạch Thị Nghè thì từ xa xưa con rạch này được người Khmer (Cao Miên) gọi là Prêk Kompon Lu. Với người Việt thì cái tên này khó phát âm nên người ta quen gọi thành rạch Cao Miên, và cây cầu bắc ngang qua cũng được gọi là cầu Cao Miên. Sau này người Pháp cho xây lại một loạt cầu bắc ngang qua rạch Thị Nghè (người Pháp đặt tên là rạch Avalanche) và đánh số cho tên cầu. Cầu Thị Nghè là premier pont (cầu số 1), vị trí cầu Cao Miên là deuxième pont (cầu số 2), vị trí cầu Kiệu là troisième pont (cầu số 3). Cầu Bông ngày xưa Một số hình ảnh xưa thời Pháp còn ghi tên cầu Bông là Pont de Dakao (cầu Dakao), vì vậy cây cầu này được người Việt gọi là cầu Bông, xuất phát từ chữ pont của tiếng Pháp. Trong khi đó 2 tên cầu Thị Nghè và cầu Kiệu sau này vẫn được giữ nguyên tên gọi cho đến nay.
 
	Chợ Bến Thành - Q1
Trong tiếng Việt, "Bến" có nghĩa là "bến tàu", trong khi "Thành" có thể được dịch là "thành trì" hoặc "pháo đài". Tên gọi của khu chợ phản ánh ý nghĩa lịch sử của nó như một trung tâm thương mại và chợ nằm gần cảng sông hoặc khu vực bến tàu chào đón du khách trước khi đến Thành Gia Định.
Tên gọi này có liên quan đến thành Bát Quái do Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh (Vua Gia Long) xây dựng. Năm 1788, Nguyễn Vương chiếm lại được Gia Định từ quân Tây Sơn, liền cho xây dựng thành quách để ngăn quân Tây Sơn. Năm 1789, Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) về đến Gia Định cùng với số tiền quyên góp và 15.000 Francs của mình để mua súng đạn và tàu chiến, chiêu mộ khoảng 20 người Pháp giỏi về kỹ thuật vũ khí, kỹ nghệ... để giúp Nguyễn Vương. Thành bát quái (do thành có 8 cạnh) được xây dựng vào năm 1789 với số nhân công là 30.000 người, do kiến trúc sư Theodore Lebrun và kỹ sư công binh người Pháp Victor Olivier de Puymanel thiết kế.
Năm 1790, thành xây xong có chu vi khoảng 4.176 mét, ba mặt giáp sông. Sông Bến Nghé có một bến sông nằm gần thành Bát Quái, bến này dùng cho khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mà được gọi là Bến Thành (bến trước khi vào thành). Gần sát bến này có một khu chợ vì thế mà chợ này cũng được gọi là "chợ Bến Thành". Và tên "chợ Bến Thành" chính là được xuất phát từ đây.
Đường Nhiêu Tứ - Phú Nhuận:
Trước là đường hẻm, vì bên đường có nhà ông Nhiêu Tứ, nên dân chúng quen gọi đường Nhiêu Tứ.
Đường Nguyễn Văn Đậu - Bình Thạnh:
Ông là vị linh mục được người dân yêu mến và kính nể vì nhiều việc làm giúp đỡ dân chúng. Ông mất năm 2001. Thời Pháp thuộc đây là đường làng số 20. Ngày 8-2-1955 đặt tên đường Ngô Tùng Châu. Ngày 4-4-1985 đổi là đường Nguyễn Văn Đậu cho đến nay.
Đường Alexandre de Rhodes - Q.1:
Alexandre de Rhodes là tên thật của Linh mục Đắc Lộ - tên tiếng việt do ông tự chọn, một nhà truyền giáo và nhà ngôn ngữ học. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La - quyển từ điển quốc ngữ lâu đời nhất mà hiện nay còn giữ lại được, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh.
Việt Nam có thể coi là quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép. Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam và mất 15 năm sau đó tại Ba Tư.
Đường Alexandre de Rhodes là một trong các đường xưa nhất Sài Gòn. Thời Pháp thuộc có tên là đường Paracels - Hoàng Sa, đến ngày 16-10-1871 đổi lại là đường Colombert. Từ ngày 22-3-1955 đổi là đường Alexandre de Rhodes. Đến ngày 4-4-1985 thành phố đổi là đường Thái Văn Lung. Sau này lấy lại tên Alexandre de Rhodes thành tên chính thức.
Đường Bùi Thị Xuân - Q.1:
Bùi Thị Xuân là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, là vợ Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Đường này có từ thời Pháp thuộc, ngày 12-2-1914 đặt tên là đường Duranton. Sau năm 1954, đổi tên là Bùi Thị Xuân.
Đường Bùi Viện - Q.1:
Bùi Viện, hiệu Mạnh Dực, là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19, làm quan dưới triều nhà Nguyễn, người có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra Tuần dương quân - lực lượng hải quân thường trực gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến. Ông là người đã đáp tàu sang Nhật Bản để qua Mỹ tìm đồng minh chống lại thực dân Pháp và đã được tổng thống Hoa Kỳ Ulysses Grant đồng ý nhưng ông không mang theo quốc thư nên không thể có 1 cam kết chính thức. Sau này ông quay về VN có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức và quay trở lại Mỹ đàm phán thì lúc đó Pháp và Mỹ lại trở thành đồng minh nên ông bị từ chối. Ông về nước và chẳng bao lâu thì mất đột ngột khi chưa đầy 40 tuổi.
Đường Bùi Viện trước đây là đường mòn làng Tân Hòa từ trước năm 1949, ngày 20-1-1950 chính quyền Bảo Đại đặt tên là đường Bảo Hộ Thọai. Đến ngày 6-10-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi là đường Bùi Viện.
Đường Calmette - Q.1:
Léon Charles Albert Calmette (12 tháng 7 năm 1863 – 29 tháng 10 năm 1933) là một bác sĩ, một nhà vi khuẩn học, miễn dịch học người Pháp và là một thành viên quan trọng của viện Pasteur (tiếng Pháp: Institut Pasteur). Ông nổi tiếng nhờ công trình nghiên cứu vắc xin chống bệnh lao.
Đường này ban đầu mang số 32. Từ ngày 14-5-1877, chính quyền thuộc địa Pháp lấy tên là đường Bourdais, đến ngày 22-3-1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên là đường Calmette.
Đường Mã Lộ - Q.1:
Thủa xưa khi phương tiện di chuyển chính của Sài Gòn là xe ngựa, các phu xe sau khi xuống hàng và khách thì cho xe và ngựa tập trung ở đoạn đường này, lấy cỏ cho ngựa ăn, chờ tan chợ lại đón khách và hàng trở về. Do đó, người ta gọi là đường Mã Lộ - đường của ngựa. Đường này nhỏ nhưng thuộc loại rất xưa của vùng Sài Gòn, có từ khi xây cất chợ Tân Định năm 1928. Thời Pháp thuộc gọi là đường Lê Văn Duyệt. Từ ngày 16-10-1955 đổi là đường Mã Lộ cho đến nay.
Đường Bông Sao - Q8:
Con đường này sở dĩ có tên như vậy là vì ngày xưa khu vực này trồng rất nhiều cây sao – loại cây lấy gỗ để đóng ghe xuồng.
Đường Bàu Cát - Tân Bình:
Hay đường Bàu Cát ở Quận Tân Bình xưa kia từng có một cái bàu (ao tù) lớn chứa đầy nước mưa ở khu vực này. Người dân cứ thế xây nhà xung quanh, rồi lấn dần, lấn dần vào cái bàu và dần dần, tên Bàu Cát đã được dùng như tên đường ở đây.
Đường Cao Bá Nhạ - Q.1:
Cao Bá Nhạ là cháu của Cao Bá Quát và là một người giỏi văn chương. Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do Cao Bá Quát lãnh đạo thất bại, dòng họ Cao chịu hình phạt tru di tam tộc, ông phải cải dạng đổi tên chạy trốn khắp nơi. Cuối cùng, ông ẩn cư ở vùng Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông kiếm sống bằng nghề dạy học. Ở đây, ông lấy vợ sinh con, nhưng chỉ sống yên ấm được khoảng tám năm thì bị tố giác và bị bắt. Trong ngục, Cao Bá Nhạ viết một bài biểu trần tình và một khúc ngâm trình lên nhà cầm quyền để tự minh oan cho mình, nhưng vẫn bị triều đình Huế đày lên Quảng Bình và rồi chết ở đấy.
Đường Cao Bá Nhạ này trước năm 1919 là một hẻm nhỏ có tên là đường Abattoire de Cầu Kho. Từ năm 1920 đổi tên là đường Le Man. Sau năm 1954 gọi là đường Cao Bá Nhạ cho đến ngày nay.
Đường Cô Giang - Q.1:
Đường Cô Giang có từ năm 1920. Trước đó, đường có tên là Douaumont, được chính thức đổi tên thành đường Cô Giang vào năm 1955 dưới thời chính quyền Sài Gòn.
Cô Giang là tên gọi khác bà Nguyễn Thị Giang, nhà cách mạng người Việt chống thực dân Pháp và là hôn thê của Nguyễn Thái Học - lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Bà là tổng thư ký của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nguyễn Thái Học đã tặng cho bà khẩu súng và bà đã nói: "Nếu Học chẳng may chết vì nước, thì Giang cũng xin lấy khí giới này mà chết theo chồng!"
Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị thực dân Pháp đưa lên máy chém. Khi chồng bị bắt, bà đã lên kế hoạch tấn công nhà tù Hoả Lò để giải cứu chồng cùng em gái bà là Cô Bắc và những người khác nhưng chưa kịp thực hiện thì Nguyễn Thái Học đã bị xử chém. Bà đã tự sát bằng chính khẩu súng của chồng tặng ngay sau đó. Nghe tin Cô Giang tự sát, quân Pháp lập tức có mặt để nhận dạng. Biết đúng là cô, họ liền ra lệnh chôn, rồi đặt điếm canh để không ai được đến thắp hương. Tuy nhiên, theo Lê Minh Quốc, thì "trên mồ của người nữ cách mạng này bao giờ cũng có những bông hoa đỏ thắm."
Đường Cô Bắc - Q.1:
Cô Bắc tên thật là Nguyễn Thị Bắc là em gái của Cô Giang. Bà là một trong những nhà lãnh đạo của khởi nghĩa Yên Bái. Chính bà đã cùng một số phụ nữ khác đưa bom từ làng Xuân Lũng (huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) lên tàu lửa đi Yên Bái để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tháng 2 năm 1930. Khởi nghĩa Yên Bái bất thành, bà cùng các đồng chí bị bắt và bị đưa ra trước Hội đồng đề hình xét xử ngày 28 tháng 3 năm 1930 tại Yên Bái và bị kết án 5 năm cấm cố. Trước Hội đồng đề hình, bà tuyên bố: ''Các người hãy về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d'Arc đi thôi!"
Trước năm 1920 đường Cô Bắc chỉ là một đường đất, lúc đầu mang tên là đường số 9. Từ ngày 23-1-1943 chính quyền thuộc địa Pháp gọi là đường Monseigneur Dumortier. Sau ngày 22-3-2955 đổi tên mới gọi là đường Cô Bắc.
Đường Cống Quỳnh - Q.1:
Nguyễn Quỳnh là một danh sĩ thời vua Lê Hiển Tông, từng thi đỗ Hương Cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên.
Đường Cống Quỳnh có từ thời Pháp thuộc, lúc đầu hợp với đường Hùynh Quang Tiên cũ thành một đường gọi là Blancsubé Cầu Kho. Ngày 26-4-1920 tách ra đoạn hiện nay gọi là đường D'Arras. Từ ngày 22-3-1955 đổi tên là đường Cống Quỳnh như hiện nay.
Đường Kha Vạn Cân:
Viết chệch từ Kha Vạng Cân. Ông là kỹ sư nổi tiếng. Nguyên Bộ trưởng Công nghiệp nhẹ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, còn là một nhân sĩ trí thức nổi tiếng của miền Nam, từng tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động cách mạng từ trước năm 1945.
Đường Trương Quốc Dung
Đường Trương Quốc Dung trên địa bàn quận Phú Nhuận cũng được đặt tên không chính xác vì đúng phải là Trương Quốc Dụng. Trong lịch sử Việt Nam không có vị danh nhân nào như tên con đường đang có. Chỉ có ông Trương Quốc Dụng, là nhà văn, nhà sử học, nhà thiên văn nổi tiếng của Việt Nam và là người có công chấn hưng lịch pháp thời nhà Nguyễn.
Đường Ký Con - Q.1:
Bí danh của Đoàn Trần Nghiệp, nhà cách mạng Việt Nam, một trong những lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng. Người tổ chức đội cảm tử ném bom tại năm điểm ở Hà Nội và cuối cùng bị thực dân Pháp chém đầu tại nhà tù Hoả Lò. Đường này thuộc loại xưa nhất vùng Sài Gòn, thời Pháp thuộc lúc đầu mang tên đường số 34. Từ ngày 14-5-1877, đổi tên là đường Marchaise. Ngày 22-3-1955 đổi là đường Ký Con cho đến nay.
Đường Ông Tạ - Tân Bình:
Ông Tạ tên thật là Ông Bỉ sinh năm 1918, gốc người Mỹ Tho, từ nhỏ đã từng lên học đạo và học nghề bốc thuốc Nam với sư phụ núi trên chùa núi Bà Đen (Tây Ninh). Sau, ông về cất am tu và bốc thuốc cứu người. Bà con quanh vùng và cả từ các tỉnh lân cận như Long An, Định Tường... cũng lên chữa bệnh, hầu hết là bà con nghèo.
Ông rất thương người nghèo, trước nhà ông ngày trước lúc nào cũng có một thùng đựng bạc lẻ để cho bà con nghèo lỡ đường. Có nhiều người nghèo quá, ông bắt mạch, bốc thuốc không lấy tiền mà còn cho tiền ăn, tiền xe về quê. Mọi người rất kính trọng nhưng không ai biết ông thầy tu bốc thuốc Nam tên gì, thấy ông trụ trì một am nên gọi ông là thầy Thủ Tọa, đọc theo giọng bình dân Nam Bộ là "Thủ Tạ", rồi lâu dần bà con chỉ gọi "Ông Tạ" - hồi nhỏ bị bịnh là được đi bằng xích lô Máy vô Ông Tạ hốt thuốc rất đông phải chờ đợi.
Thời chiến tranh, nhiều phụ nữ có con nhưng không có điều kiện nuôi đều đem đến hiệu thuốc để lại và thầy nhận nuôi, cho ăn học lớn khôn nên người. Khi thầy thuốc Thủ Tạ qua đời, đám tang ông có rất đông người tập trung về viếng. Quan tài được kéo bằng cỗ xe ngựa 6 con, chạy từ nhà lên ngã tư Bảy Hiền vòng theo đường Cộng Hòa xuống vòng xoay Lăng Cha Cả và về chôn tại nhà. Sau khi mất, hiệu thuốc được truyền lại cho con cháu tiếp tục phát triển, đến nay vẫn còn.
Theo bà Mai, trong những năm chế độ cũ, cả làng chỉ một nhà thầy Thủ Tạ có giếng nước, mọi người ngày ngày ghé giếng gánh nước về dùng, ổng cũng vui vẻ và hay hỏi thăm mọi người về làm ăn và sức khỏe.
Ngã ba Ông Tạ trước đây là giao lộ giữa đường Lê Văn Duyệt – Thoại Ngọc Hầu (nay là Cách Mạng Tháng Tám – Phạm Văn Hai), khi ông mất, nhiều người qua đây đều nhớ và tiếc thương ông Thủ Tạ, từ đó ngã ba này cũng gọi với tên thân thuộc là ngã ba Ông Tạ.
Giồng Ông Tố
Giồng tiếng Nam bộ xưa là gò đất cao rộng ở gần sông, Tố là tên người đàn ông Trương Vĩnh Tố có công khai hoang vùng đất và hiến miếng đất của ông làm ngôi chợ. Mộ phần của 2 vợ chồng ông được cho là nằm trong khu nghĩa trang chùa Nam Đào ( nay là trường tiểu học ), cũng có ý kiến khác cho rằng mộ của ông nằm trên đường Nguyễn D Trinh.
Đường Bà Lài - Quận 6:
Bà Lài vốn là tên của một người phụ nữ sống ở ngoại ô Chợ Lớn xưa. Bà mở một quán hàng hàng ở vùng quận 5. Khi người Pháp lập thành phố Chợ Lớn, đường chạy qua quán của bà được lấy theo tên bà. Tuy nhiên, khi bà dời xuống quận 6 buôn bán, người ta chuyển tên đường Bà Lài từ quận 5 xuống quận 6 cho phù hợp với thực tế.
Đường Bà Hạt, Bà Ký, Bà Hom:
Thực ra, Bà Hạt, Bà Lài, Bà Ký gần gũi hơn mọi người nghĩ nhiều. Họ đều là các bà cụ ngày xưa buôn bán có tiếng ở xung quanh khu vực đó. Do dân quen gọi tên những người này nên đã lấy họ làm tên phố.
Chợ Bà Hoa:
Theo đó, ngày trước có người phụ nữ tên Hoa, dân gốc Bắc di cư vào Nam. Vì yêu nếp sống và ẩm thực xứ Quảng nên đã mua miếng đất trũng rồi đổ đất xây nên ngôi chợ, phân lô và cho mọi người thuê buôn bán. Người ta nhớ ơn nên gọi mãi là chợ Bà Hoa - một khu chợ đặc biệt dành riêng cho xứ Quảng.
Đường Ký Thủ Ôn - Q.8:
Lấy tên một người Hoa thường gọi: Ký Thông. Ông tham gia kháng chiến, hoạt động bí mật trong chính quyền Sài Gòn, giả vờ hợp tác với Ngô Đình Diệm và tử trận trong khi giao chiến với quân Bình Xuyên.
Đường Nam Quốc Cang - Q.1:
Nam Quốc Cang tên thật Nguyễn Văn Sinh, là nhà báo cách mạng chủ bút của nhiều tờ báo nổi tiếng được độc giả yêu thích và là quản lý tờ báo Dân Quý thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông bị ám sát cùng với 1 nhà báo khác tại cổng toà soạn tờ báo Dân Quý. Cái chết của hai nhà báo đã gây chấn động giới báo chí và công chúng Sài Gòn. Đám tang của ông được tổ chức vào ngày 9 tháng 5, đã thu hút hàng vạn dân chúng Sài Gòn tham dự.
Đường Nam Quốc Cang trước đây mang tên đường Lucien Lacouture. Từ ngày 19-10-1955 đổi là đường Đặng Đức Siêu. Ngày 4-4-1985 đổi là đường Nam Quốc Cang.
Đường Sương Nguyệt Ánh:
Nguyệt Anh là con gái thứ 5 của cụ Nguyễn Đình Chiểu, có sắc đẹp và tài làm thơ. Đến sau ngày chồng qua đời bà thêm chữ Sương tức "người đàn bà góa chồng" đứng trước để thành biệt hiệu Sương Nguyệt Anh. Bà làm chủ bút tờ báo phụ nữ đầu tiên xuất bản ở Sài Gòn năm 1918 là tờ Nữ giới chung - tiếng chuông của giới nữ. Nhưng người dân hay nhầm thành Sương Nguyệt Ánh.
Bến Dược:
Vùng này khi xưa chuyên trồng cây thuốc Nam. Sau này người ta tìm được địa danh xóm Bà Dược. Dược là tên một người phụ nữ, và cái bến tại xóm này có thể ban đầu được gọi là bến Bà Dược sau gọi tắt thành Bến Dược.
Đường Bờ Bao Tân Thắng - Quận Tân Phú:
Trước đây có trại bò Tân Thắng rất lớn ở đó và con đường này chạy vòng quanh trại bò nên người dân thường gọi là đường bờ bao Tân Thắng.
Đường Kênh Nước Đen - Quận Bình Tân:
Con đường này trước đây một dòng kênh dài, nước dơ và thường bốc mùi rất khó chịu. Sau này một phần kênh đã được san lấp và trồng cây xanh và đặt tên đường là đường Kênh Nước Đen.
Ngã Tư Bảy Hiền - Quận Tân Bình:
Bảy Hiền tên thật là Trần Văn Hiền, một đại điền chủ giàu có. Đất đai của ông trải rộng khắp khu vực Trường Chinh, Cộng Hòa, Bàu Cát.. ngày nay. Bảy Hiền giàu có nhưng không khoa trương và hay chia sẻ giúp đỡ người nghèo. Một lần, nhân dân miền Nam lâm cảnh đói kém vì mất mùa, ông Bảy Hiền đăng báo sẽ bố thí tiền xu, lúa gạo cho bà con Sài Gòn - Gia Định trong một tuần lễ. Dân chúng nhiều địa phương khác nghe tin đều lặn lội tìm đến.
Tiếng lành đồn ra, mọi người truyền tai nhau về một người đàn ông nhân đức hay "phát chẩn", giúp người nghèo. Hàng nghìn người tìm đến và ông Bảy đều ra tay cứu giúp. Dần dà, khu vực ngã tư - nơi có nhà của ông - được người dân đặt là ngã tư Bảy Hiền, theo tên người đàn ông nhân đức. Khi chết, ông được chôn cất tại khu vực Lăng Cha Cả cùng vợ mình. Sau này, khu vực nghĩa trang bị giải tỏa, người nhà ông Bảy Hiền có lấy hài cốt đưa về thờ tại chùa Vạn Thọ trên đường Nguyễn Văn Nguyễn - phường Tân Định, quận 1.
Đường Mẫu Giáo Nghĩa Địa - Quận Tân Bình:
Trên đường có rất nhiều nhà mẫu giáo giữ trẻ nằm gần khu nghĩa địa Bình Hưng Hòa.
Đường Điện Cao Thế - Quận Tân Phú:
Từ Tân Sơn Nhì nối dài đến Trương Vĩnh Ký ở quận Tân Phú, vì người dân thấy có đường điện cao thế chạy qua nên gọi đường này là đường Điện Cao Thế.
Ngã tư Hàng Xanh:
Ngã tư Hàng Xanh - Hàng Xanh Chữ Xanh phải viết là Sanh mới đúng. Sanh là tên một loại cây lớn có họ hàng với cây đa, cây đề, cây si... (họ Ficus). Xưa trên con đường đi từ đường Thiên Lý (đường Cái Quan), chổ gần cầu Sơn, đi băng qua rạch Cầu Bông đến lăng Ông - Bà Chiểu, hai bên đường có trồng hàng cây Sanh, do vậy đường có tên là Hàng Sanh, nay là đường Bạch Đằng. Theo một số tư liệu mang tính cá nhân thì đến khoảng thập niên 40 vẫn còn cây này ở ven đường. Trên Bản đồ đô thành Sài Gòn năm 1962 thì đoạn đầu của đường Bạch Đằng vẫn còn ghi tên là đường Hàng Sanh. Vậy sự sai lệch từ Xanh thành Sanh cũng mới đâu đây thôi, không quá xa lắm. b) Ngã Tư Ngã tư này chỉ xuất hiện sau khi có xa lộ Biên Hòa (xa lộ Hà Nội ngày nay) cắt ngang đường Cái Quan cũ, đó khoảng thời gian đầu thập niên 60 của thế kỷ XX. Đây là một giao lộ đồng mức thuộc loại hiện đại nhất thời ấy, với hệ thống dải phân cách, phân luồng và đèn tín hiệu giao thông vẫn còn sử dụng tốt cho đến tận 1995. Địa danh mang tên cây tại Sài Gòn xưa Sài Gòn xưa là rừng, đến giữa thế kỷ XX vẫn còn nhiều vết tích. Còn tồn tại đến tận bây giờ trong tâm trí người Sài Gòn qua những địa danh mang tên các loài cây, như : cây Vắp, cây Củ Chi, cây Sanh, cây Quéo, cây Thị, cây Da Sà, cây Sơn (có cầu Sơn gần ngã tư Hàng Sanh), cây Gõ, cây Xoay, cây Gòn.
Ngã Năm Chuồng Chó:
Thời Pháp thuộc, vùng này gọi là Ngã Năm Hàng Điệp.
Lúc đó, ở đây dọc năm bên đường chéo nhau của khu vực có trồng mấy hàng cây Điệp rất lớn và đẹp. Sau đó lực lương quân sự Pháp Việt phối hợp nhau thành lập ở vùng này một trường Quân Khuyển. Trường huấn luyện chó làm tình báo và đánh giặc. Kể từ đó, người dân trong vùng gọi nơi đây bằng địa danh "Ngã Năm Chuồng Chó"
Hiện nay tên gọi đó vẫn lưu truyền và còn được gọi là Ngã 6 Gò Vấp..
Vòng xoay Lăng Cha Cả:
Trước đây là khu lăng mộ rộng hơn 2.000 m2, nơi chôn cất và thờ cúng giám mục Bá Đa Lộc, người xưa gọi là "Cha Cả". Ông quốc tịch Pháp, sinh năm 1741, tên là Pierre Pigneaux. Sau khi được sắc phong linh mục năm 1765, ông qua Việt Nam truyền giáo và phò tá Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn.
Tên đường trước 75 -> Tên đường sau 75
			Cần đăng nhập và nhấn Thích để xem đoạn này
        
    
			
				Chỉnh sửa cuối: 
			
		
	
								
	
							
								
							 
	 
			 
 
 
		


 
 
		 
 
		 
 
		 
 
 
		 
 
		 
 
		 
 
		 
 
		