Vó Ngựa Thảo Nguyên Tác giả: MikeMike Thể loại: Kiếm hiệp, cổ trang, ngược, bi kịch, HE Tình trạng: Đang viết [Thảo Luận - Góp Ý] Các Tác Phẩm Của MikeMike Văn án: Máu đẫm y trang, trăng lạnh đồng hoang, xa rời Hoàng Hoa chưa từng là ý nguyện của bản thân ta. Nhưng nếu thế gian cần một đạo chính nghĩa, một thước công bằng, thì liệu nàng có đồng ý cùng ta song mã giang hồ, đạp vó thảo nguyên. Yên Vũ, thay ta đưa nàng dạo thế gian. Lưu ý : Mọi nhân vật, sự kiện diễn ra trong truyện đều là hư cấu.
Chương 1: Cố nhân Bấm để xem Nhà gỗ nhỏ, hắc y nhân nhắc lại chuyện xưa Cựu sự lai, Tạ Vô Phong tỏ tường thân phận Thảo nguyên Hoàng Hoa. Gió vẫn hát bên cung tai những âm thanh nhàn nhã, nắng dịu dàng đem hơi ấm phả lên mặt vị thiếu niên da ngăm đang say ngủ, đôi mi khẽ lay, hàng chân mày hơi nhíu lại, dường như trong cơn mơ dài mang chút sợ hãi ghé qua.. Mưa đã tạnh, trời đã quang, nước mưa cuốn theo mọi dấu vết rửa sạch bao tang thương. Cửa lớn của Bình Dương Vương phủ vẫn đang mở và máu trong phủ viện vẫn chảy không ngừng. Máu lẫn vào nước mưa tràn loang lỗ, xác chết chồng lên nhau từng lớp, nam nữ già trẻ tầm khoảng năm trăm người. Có một cặp vợ chồng đang ôm nhau cười mãn nguyện bởi họ biết thứ họ bảo vệ trong tay vẫn an toàn. Cố gắng đưa bàn tay nhỏ bé, run rẩy bởi lạnh vì mưa dầm, cậu bé yếu ớt cất tiếng gọi: - Mẹ.. mẹ ơi, mẹ ơi tỉnh dậy đi, mẹ! - Cha ơi, cha tỉnh dậy đi! - Cha mẹ đừng bỏ con, đừng bỏ con mà! - Hu hu hu hu hu hu hu! - Tạ thúc ơi! Tạ thúc! - Mọi người làm sao thế, hu hu hu! Tiếng khóc đứt quãng, thấp dần rồi từ từ tắt lịm, cơn đau từ lồng ngực ập tới siết chặt lấy hơi thở của vị thiếu niên kia, mồ hôi trên trán rỉ từng giọt mặn chát bờ môi.. - Cha! Mẹ! Choàng tỉnh giấc sau cơn ác mộng đáng sợ, thiếu niên ấy lấy tay lau nhanh mồ hôi trên trán, thoạt nhìn quanh và bất chợt giật bắn người, nói cũng lắp bắp: - Trời.. trời ơi, hết.. hết cả hồn. Muội.. muội làm gì ở đây vậy? Cô nương mới đến vừa xinh đẹp vừa đáng yêu trong trang phục màu hồng phấn, điểm thêm vài bông hoa ở viền cổ áo. Đầu tóc tết vội làm rối cả hai bên nhưng lại đều đặn tạo nên một cái gì đó rất là kiểu cách. Nàng ấy trả lời chàng, giọng có chút trách móc: - Còn hỏi muội? Huynh mới là người làm muội hết hồn đó. Nhưng mà.. huynh có sao không đấy? Bao năm qua đều như vậy, giấc mơ đó rốt cuộc là gì thế? Bất giác nhớ tới lời sư phụ "Con phải hứa với ta, đừng bao giờ để mình phải mơ thấy giấc mơ đó một lần nào nữa", chàng lắc đầu tự nhủ sẽ quên rồi trả lời nàng, trong giọng có chút miên man lo lắng: - Không có gì đâu. Nhưng nè, muội mà đi méc với sư phụ thì ta sẽ không dẫn muội đi Trung Nguyên chơi đó. Xuýt xoa búi tóc hai bên, nàng bĩu môi đáng yêu: - Xía, ai nói là muội muốn đi. Chàng cười đùa, hỏi với giọng châm chọc: - Không muốn sao? Thật hả? Chàng trêu nàng rồi quay sang vuốt ve bộ lông mượt mà đến mềm mại của Yên Vũ, nói: - Yên Vũ, một ngày nào đó, ta nhất định sẽ đưa ngươi tới Trung Nguyên để ngươi có thể mở mang tầm mắt. Ta nghe nói ở đó rất đẹp, rất lạ, rất đông người, lại còn rất vui nữa. Nghiêng người xem xét biểu hiện của người trước mặt, nàng hắng nhẹ vài tiếng rồi nói: - Nè, lúc nãy muội chỉ giỡn thôi. Có đi thì nhớ dẫn muội theo với đó. Cô ấy là tiểu sư muội của chàng, Lệ Ân Đình. Bình thường đúng là chàng hay la mắng nàng ấy nhưng vẫn rất yêu thương, như một người muội muội. Thiếu niên ấy tên Tạ Vô Phong. Chàng được mệnh danh là anh hùng phục mã không phải vì chàng thuần được tất cả ngựa của thảo nguyên mà bởi vì chàng hữu duyên thuần phục được chú ngựa hoang đẹp nhất của Hoàng Hoa. Lông nó trắng như tuyết, bờm nó dày và mượt như lụa, chân nó ánh kim lóng lánh như được đính vào vô vàng bạch ngọc. Nó hoang dại và hung hãn nhưng bộc trực, nó không chịu khuất phục trước bất kì ai, thậm chí nó đã từng đá chàng hai cái đau thấu trời xanh, nhưng vì sự kiên định của chàng khiến nó kính nể mà quy phục. Chàng đã đặt cho nó một cái tên nghe rất mỹ miều, gọi là Yên Vũ. Cách đây không lâu, năm chàng tròn mười tuổi, sư phụ chàng đã nói sau này, chàng ít nhất sẽ phải đến Trung Nguyên một lần, nơi đó phồn hoa, đẹp đẽ nhưng cũng đầy cám dỗ, dặn chàng phải hết sức cẩn trọng. Mặc dù chàng nghe không mấy hiểu nhưng vẫn lấy đó làm động lực, càng nghe lại càng mong sẽ nhanh chóng có cơ hội đến được nơi đó. Bầu trời thảo nguyên xanh trong là thế, rộng lớn là thế nhưng vốn không đủ làm chàng thiếu niên kia thỏa mãn suy nghĩ sẽ vươn xa hơn. * * * Không khí lãnh khốc bao trùm căn nhà gỗ đơn sơ, người vừa tới đem theo rất nhiều thuộc hạ, nhắm chừng không hề có ý tốt lành. Giáp mã cứng cáp, đao trong tay kẻ đó sáng loáng, sắc bén, chiếc mặt nạ sắt chỉ để lộ cặp mắt trông đầy ghê rợn, hàng chân mày rậm cùng khí tức bức người, trận thế bày ra khiến bất cứ ai cũng phải dè chừng mà chùn bước. Ấy vậy mà, lão tráng kia một chút cũng không hề run sợ, ông đặt nhẹ quyển sách xuống bàn, tay cầm bình rượu uống một ngụm rồi mới chậm rãi nói: - Đây không phải là quán rượu hay tửu lầu, lại chẳng phải khách điếm, các vị đại nhân đông người như vậy là muốn ở nhờ sao? Tên đứng đầu nhích ngựa lên một đoạn nhỏ nhìn lão tráng kia hồi lâu rồi nhếch nhẹ môi trên, hai hàm răng cạ vào nhau nghe ken két, lời nói thoát ra sau tấm mặt nạ mang đầy hàm ý của một cố nhân lâu ngày không gặp: - Đừng nói mấy lời dư thừa đó. Ông không nhận ra ta sao, Tạ tổng quản? Đã lâu không gặp, ông cũng thật là biết hưởng thụ. - Tạ tổng quản? Đã lâu lắm rồi không nghe đến cách gọi này, ông suýt chút đã không cầm được lòng mà bật khóc. Có chết ông cũng đâu thể nào quên được ngày đó, cái ngày định mệnh đẩy ông đến bước đường này. Thoáng chút giật mình, ông tự trấn an bản thân rồi từ tốn nói: - Đại nhân, ngài nhận lầm người rồi. Phận thảo dân nơi thâm sơn, cùng cốc làm sao quen biết người cao quý như đại nhân đây được. Lão tráng vuốt râu cười nhẹ, phong thái tuy ung dung nhưng cốt là để che đậy sự lo lắng trong lòng, tròng mắt ông đảo quanh, mồ hôi trán ra liên tục, lòng lúc này rõ là đang ngập tràn bất an. Bất cứ ai gặp phải tình huống giống ông đều hy vọng có người đến cứu nhưng với ông, đôi mắt trông chờ dõi theo kia lại không mang ngụ ý như vậy, ông đang cầu xin cho ai đó đừng về, ít nhất là ngay thời điểm này. Nhếch miệng đắc ý, tên hắc y nhân cười lớn, nói: - Haha, Tạ tổng quản thật khéo đùa. Nói gì thì nói, chúng ta cũng được tính như cố nhân, sao ông lại nỡ lòng ngoảnh mặt làm ngơ bảo rằng không quen biết ta chứ. Hay là, ông làm chuyện gì trái lương tâm, sợ người khác biết được? Lão tráng sựng người khi nghe đến hai từ "cố nhân", thật ra ông thừa biết kẻ đến hẳn không phải bạn, cũng chẳng phải người lạ, chỉ là chưa biết đích danh. Tuy hiện tại ông cũng đã lờ mờ đoán ra được thân phận của họ nhưng lại vờ như không biết gì, tiện thể dò xét thêm một chút: - Ta đây, chưa từng làm chuyện gì trái lương tâm. Nếu muốn, sao đại nhân không hỏi chính bản thân mình, rằng ngài đã từng làm chuyện gì khiến bản thân hối hận, đêm không ngủ được chưa? Tên hắc y nhân cười một tràng dài, nói: - Ông hỏi ta? Hahaha, ông muốn hỏi chuyện nào? Bổn gia ta trước giờ làm rất nhiều chuyện xấu nhưng tối, ta vẫn ngủ rất ngon. Ngược lại là ông, Tạ Sâm, bao năm qua ông khiến ta tìm ông thật vất vả. Nói rồi hắn liền xuống ngựa, đi thẳng lại chỗ lão tráng đứng, nói: - Đừng dong dài vô ích, ta nghĩ ông biết hôm nay ta đến đây là có mục đích gì? Lão tráng vẫn điềm nhiên như không, từ tốn nói: - Ta nghe không hiểu gì cả, người mà ngài nói, là ai? Tạ.. Tạ cái gì? Tạ Sâm, người đó là ai? Ta không quen biết họ, cũng chẳng quen biết ngài, vậy thì làm sao ta biết được mục đích của ngài là gì chứ. Tên hắc y nhân cười lớn, nói: - Chẳng trách khi xưa, Bình Dương vương gia lại coi trọng ông như vậy, ông thật là biết đóng kịch đó. Nhưng mà đáng tiếc, huyết án năm xưa tại Bình Dương Vương phủ, Tạ Sâm ông lại mang theo cả ngọc Kỳ Lân thoái ẩn giang hồ. Ông biết không? Ta tìm ông thật không dễ dàng. Lão tráng một chút bối rối cũng không để lộ, mắt không đổi hướng, trực diện nhìn thẳng vào người trước mặt, không chút xao động, e dè, lời nói ra dửng dưng không đổi: - Đại nhân nói gì ta nghe không hiểu. Ai là Bình Dương vương gia? Còn cái gì mà ngọc Kỳ Lân? Ta không biết họ là ai cả, cũng không biết đó là gì. - Ha ha ha ha ha ha. Cười lớn một tràng dài, tên hắc y đó chậm rãi tháo bỏ lớp mặt nạ, để lộ ngũ quan kinh người. Cặp mắt đen sâu dưới hàng chân mày rậm, khuôn diện góc cạnh, hai má nhô cao, đúng nhân tướng của một người ác độc. Hắn khoác trên người chiếc áo choàng đen, bao trùm lên bản chất của một sát thủ máu lạnh, vô tình. Hắn cười khẩy, gằng giọng hỏi: - Thế nào, bây giờ thì ông đã có thể nhớ ra ta là ai chưa? Lão tráng đứng hình trước gương mặt đối diện. Mười bảy năm trước, tại phủ đệ của Bình Dương Vương, huyết án hơn năm trăm mạng người lần lượt kéo về, đâm từng nhát một vào tim ông, ông cười mà như khóc: - Hahaha! Ta còn tưởng là ai, hóa ra là tên vong ơn bội nghĩa, lấy oán báo ân nhà ngươi. Bao năm qua, ta đã luôn tự hỏi rằng hằng đêm ngươi ngủ có ngon không, có đêm nào giật mình tỉnh giấc bởi những tiếng khóc oan khiên, nhưng oan hồn không siêu thoát kia không. Ta thật không hiểu tại sao một người như ngươi lại có thể còn sống tới giờ này. Đáng ra, khi đó ta nên một kiếm giết chết ngươi thì sẽ không có chuyện năm xưa ngươi đồ sát hơn năm trăm mạng người của vương phủ. Là ta sai, ta sai rồi! Là ta, lòng nhân từ đặt không đúng chỗ đã đẩy cả gia đình vương gia vào hiểm cảnh, đã khiến cả phủ Bình Dương máu chảy thành sông. Là ta, tất cả là tại ta, ha ha ha! Lão tráng kia đích thực là Tạ Sâm, tổng quản khi xưa của phủ Bình Dương. Ông thả một tràng cười dài với những tiếng nấc nghẹn ngào, điều vốn đã được kìm nén, giấu kín suốt mười mấy năm, nay được một lần nói ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng nhưng tâm ông lại đau đớn từng cơn. Tên hắc y nhân điềm tĩnh như không, hắn thản nhiên lắng nghe câu chuyện từ miệng Tạ Sâm như thể đó là một câu chuyện hài, và kẻ thủ ác trong câu chuyện đó không phải hắn, cũng chẳng liên quan gì đến hắn. Khi Tạ Sâm dứt lời, hắn liền lên tiếng: - Đừng phí lời, mau giao ra ngọc Kỳ Lân, ta sẽ tha mạng cho ông. Xem như là báo đáp chút ân tình năm xưa. Ánh nắng mỗi lúc một chói chang, tán cây đổ bóng dài nghiêng mình che đậy chút tâm tư nơi hốc mắt sâu hoắm, Tạ Sâm biết người đó đã sắp về. Không còn cách nào khác, ông nhất định phải kết thúc mọi chuyện trước khi quá muộn, bèn cười lớn, nói: - Hahaha! Ngọc thì không có nhưng mạng thì có một. Ngươi muốn lấy cứ tới mà lấy. Tên hắc y nhân tức giận, lớn tiếng hỏi: - Ông thật sự rượu mời không uống muốn uống rượu phạt? Trương Nhất Sơn đã chết rồi, ông trung thành với ai nữa chứ. Chỉ cần giao ra ngọc Kỳ Lân, ta liền tha chết cho ông. Nhâm nhi vài giọt rượu còn sót lại trong bình, Tạ Sâm mỉm cười, nói: - Người vô âu vô lo, thì chết có gì đâu phải sợ. Ra tay đi! Đặt úp bình rượu xuống bàn, giọt sót lại bên trong chảy dọc làm ướt đi một góc của quyển sách đặt cạnh đó, Tạ Sâm rút lấy đoản kiếm trong người ra, thẳng một hướng tiến về phía hắc y nhân. Đường kiếm ngắn nhưng đủ mạnh và hiểm, nó rạch trúng tay áo người đó một đường dài để lộ hình xăm hắc báo. Giận mình, hắn tung chưởng trực diện vào ngực Tạ Sâm khiến ông văng ra xa hơn hai mét, ngã sõng soài. Nói gằng từng tiếng một, người đó dùng ánh mắt giận dữ nhìn Tạ Sâm, lòng rõ nôn nóng: - Thế nào? Ngươi có chịu nói không? Miệng đầy máu, Tạ Sâm vẫn cười lớn, nói trong vui vẻ: - Hahaha, ta đã nói, ta chỉ có cái mạng này, ngươi muốn lấy cứ lấy. Nhưng xem ra, ngươi đối với người đó đúng là một mực trung thành, bao năm qua vẫn vì ông ta mà bán mạng, liều thân. Thật tiếc cho một trang nam tử. Đáng tiếc, đáng tiếc! Máu nơi miệng đã ứa đầy cổ áo, Tạ Sâm biết mình không giữ nổi mạng. Chỉ mong còn đủ hơi sức gặp người cần gặp. Tên hắc y nhân nhìn chằm chằm vào Tạ Sâm, gằng giọng, nói: - Hôm nay, xem như ta trả ơn năm xưa ông tha mạng cho ta, ngày khác lại ghé thăm. - Chúng ta đi! Gió ngựa khuất bóng, Tạ Sâm thở phào nhẹ nhõm. * * * - Sư phụ, con về rồi! - Sư phụ, con cũng về rồi! Tạ Vô Phong và Lệ Ân Đình cùng nhau trở về, đang vui vui vẻ vẻ, hào hứng như mọi lần thì giật mình khi trông thấy cảnh tượng trước mắt. Tạ Sâm nằm đó, trên người đầy máu, hơi thở thoi thóp, đứt quãng, lúc có lúc không. Chàng lập tức chạy như bay về phía Tạ Sâm, lớn tiếng gọi: - Sư phụ? Sư phụ? Sư phụ, người sao vậy? Là ai? Là ai đã làm? Sư phụ! Lệ Ân Đình ở kế bên sụt sùi, giọt ngắn giọt dài, khóc lóc: - Sư phụ, đáng ra con không nên đi tìm sư huynh, con nên ở nhà với người. Sư phụ ơi, người đừng bỏ con, đừng bỏ sư huynh mà, sư phụ. Tạ Vô Phong mắt đẫm lệ, nhìn thân ảnh đầy máu của người trước mặt, kí ức của giấc mơ kia lại ùa về không kiểm soát, đầu chàng đau như búa bổ, cơn đau nơi lồng ngực không hẹn mà cùng nhau kéo đến, khiến cơ thể chàng cơ hồ như muốn nổ tung. Chàng không cảm nhận được gì khác ngoài nỗi đau thống khổ từ tâm can. Tạ Sâm đã tỉnh táo hơn đôi phần, ông cố nhướng người ngồi dậy, quỳ bằng đôi chân vốn không còn quá nhiều sức lực, giọng thều thào: - Thuộc hạ.. thuộc hạ Tạ Sâm! Bái kiến.. tiểu vương gia. Không gian xung quanh bỗng tĩnh lặng đến đáng sợ, bàn tay dần dần nới lỏng, bắt đầu đuối sức, Tạ Vô Phong cố trấn tĩnh bản thân, thấp giọng: - Sư phụ, người gọi ai vậy? Người đang làm gì vậy? Người.. người mau đứng lên đi, sư phụ. Tạ Vô Phong không hiểu chuyện gì đang diễn ra, chàng chực chờ đứng dậy, dìu Tạ Sâm vào bên trong. Ông nhìn chàng âu yếm, hỏi: - Tiểu Phong, con có còn đeo sợi dây chuyền ta đưa cho con không? Tạ Vô Phong đưa tay sờ vào cổ, lôi ra một sợi dây chuyền kiểu cách rất tầm thường, duy chỉ có mảnh ngọc bội trên đó là trông có chút giá trị. - Đây, sư phụ! Đồ nhi chưa một lần dám tháo nó xuống. Dù là đi tắm, con cũng không cởi ra. Gật đầu mỉm cười, Tạ Sâm nói với giọng thều thào: - Tốt, con phải giữ lấy nó thật cẩn thận. Nghe ta dặn đây. Khụ.. hụ.. hụ.. Máu từ cổ họng Tạ Sâm trào ra như nước, có lẽ do rượu mà máu loãng đến thấm ướt cả trang phục của ông. Tạ Vô Phong lo lắng không yên, hấp tấp nói: - Sư phụ, con đi tìm đại phu. Người nhất định sẽ không sao, Vô Phong chỉ có mình người và sư muội là người thân duy nhất trên đời này. Người tuyệt đối đừng bỏ rơi con. Sư phụ! Lệ Ân Đình ngồi khóc nãy giờ, vừa nghe nhắc tên thì liền nói thêm vào: - Đúng đó sư phụ, người đừng bỏ con và sư huynh. Con hứa sau này sẽ siêng năng luyện tập, không cãi lời người nữa. Tạ Sâm ngước nhìn Tạ Vô Phong, giọng thều thào, đau xót: - Tiểu Phong, con từng hỏi ta cha mẹ con đâu, ta đã nhiều lần không đối mặt với câu hỏi này. Hôm nay.. Tạ Vô Phong lên tiếng ngắt lời, lòng chàng giờ đây đâu còn thiết tha gì khác ngoài việc bảo toàn tính mạng cho Tạ Sâm. Chàng không quan tâm điều ông vừa nhắc đến, gấp gáp nói: - Không cần đâu, vết thương của người quan trọng hơn mà. Con không muốn biết nữa, giờ con sẽ đi tìm đại phu. Sư phụ, người đợi con.. Không có bất kì âm thanh gì lúc này, chỉ có tiếng Tạ Sâm nói, từng câu từng chữ rõ ràng không chút va vấp, nó đập thật mạnh vào tai chàng, đánh động lòng chàng tạo thành một mớ hỗn độn tan tành: - Con là người Hán. Chân như chôn tại chỗ, một bước cũng không nhấc nổi, lòng chùng xuống với những kí ức ngủ quên, nay đã trỗi dậy, đem tất thảy an nhiên nơi chàng vùi sâu mãi mãi. Xoay lưng lại với gương mặt không còn cảm xúc, Tạ Vô Phong lạc giọng: - Người? Thật ra người là ai? Còn ta, ta là ai? Cả bọn họ nữa? Bọn người đã ra tay với người? Họ là ai? Cố gượng người đứng dậy, lại gần trước mặt Tạ Vô Phong, Tạ Sâm một lần nữa kính cẩn, cúi đầu nói: - Thuộc hạ Tạ Sâm, bái kiến tiểu vương gia! Lệ Ân Đình há hốc miệng ngạc nhiên, không nói nên lời: - Tiểu.. vương.. gia? Vương.. gia sao? Tạ Vô Phong lắc đầu, miệng cười liên tục, chàng hỏi lại trong vô thức: - Vậy cha mẹ của ta? Nhà của ta? Ở đâu? Họ ở đâu? Hả? Lồm cồm đứng dậy, lấy tay chùi vết máu trên miệng, Tạ Sâm mấp máy từng tiếng khó khăn: - Tiểu vương gia, thuộc hạ là Tạ Sâm. Thân phận thật sự của ta là chưởng quản nhà giam của Đại Lý Tự-Triều Nguyên. Sau này, vì phạm lỗi nên bị giáng chức rồi nhờ cơ duyên mà được làm thuộc hạ dưới trướng của cha người, là Bình Dương vương gia. Tạ Vô Phong tiếp tục lùi về sau, lòng bàn tay nắm chặt, miệng vẫn không ngừng cười khổ: - Vậy tức là giấc mơ đó, toàn bộ đều là thật? Tạ Sâm trả lời, từng chữ dứt khoát: - Đúng vậy! Huyết án mười bảy năm trước đã cướp đi hơn năm trăm mạng người của phủ Bình Dương. Cười một tràng dài trong đau xót, Tạ Vô Phong hỏi lại: - Tại sao? Cha mẹ ta đã làm gì sai sao? Tạ Sâm tiến về phía bàn, hai tay run rẩy, cố bám víu thứ gì đó rồi từ từ ngồi xuống, thở dài, nói: - Nếu muốn nhắc thì phải bắt đầu từ chuyện của bốn mươi hai năm về trước.. * * * Tại đỉnh núi Phong Vân, dưới rặng tre xanh ngát, có một thiếu niên anh hùng, khôi ngô bất phàm và một công tử tướng người đạo mạo đang bái thiên địa: - Ta Trương Nhất Sơn. - Ta Chu Đình Uý. - Nay kết thành huynh đệ, có phước cùng hưởng, có nạn cùng chia. Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Trời đất chứng giám! - Từ nay, đệ sẽ gọi huynh là đại ca. - Còn ta, ta sẽ gọi đệ là nhị đệ. - Hahahahahahahahaha! Trương Nhất Sơn năm đó vừa tròn hai mươi tuổi. Chàng xuống núi theo lời dặn của sư phụ, đầu quân cho đại quân Mạc Bắc. Trên đường đi, vô tình gặp gỡ và kết nghĩa với Chu Đình Uý - thiếu gia của U Linh sơn trang. Sau ba năm đầu quân giết giặc, lập nhiều công lao, Trương Nhất Sơn trở thành thống lĩnh của nghĩa quân Di Hướng. Sau đó, nhanh chóng trở thành thân tín bên cạnh Duệ Vương - hoàng huynh của Nguyên Đế đương triều. Vì yêu mến tài năng và trí tuệ của Trương Nhất Sơn, hoàng đế đã ban hôn cho vị tướng quân trẻ tuổi ấy cô cháu gái yêu thương là nàng quận chúa Bình Dương xinh đẹp, tài giỏi mang tên Ân Diễm. Ban cho phủ Bình Dương cùng tước hiệu Bình Dương Vương. Tặng ngọc Kỳ Lân làm quà cưới. Mọi tại họa ập tới vào sinh nhật lần thứ năm của tiểu vương gia phủ Bình Dương. - Lục soát! Hai hàng quân dàn nhau bao vây tứ phía phủ viện, trận thế bày ra khiến mọi người ai ai cũng hoảng loạn. Đứa trẻ nắm chặt tay mẫu thân, run sợ. Ân Diễm xoa nắn tay thằng bé để trấn an, đoạn hỏi: - Các người đây là muốn làm gì? Không biết ta là ai sao? Trần đô uý cũng thật oai phong, phủ của Bình Dương quận chúa mà cũng dám lục soát, chẳng lẽ ngài cho rằng ta đang che giấu phản tặc? - Tham kiến quận chúa! Trần Lăng không mấy làm kính cẩn, chỉ tham bái theo lễ nghĩa. Mặt nghênh ngang, vênh váo, nói: - Quận chúa thông cảm. Quả thật có người của thuộc hạ trông thấy phủ của quận chúa chứa chấp người không nên chứa chấp. Thuộc hạ là đang làm tròn chức trách, bảo vệ an toàn cho quận chúa và vương gia. - Quý hóa quá, Trần đô uý! Tiếng của một nam nhân tướng mạo đường hoàng, khí thế hiên ngang, khoác trên người bộ trang phục màu nâu sẫm ánh vàng, trông qua y phục thì hẳn cũng là người có thân phận. Ân Diễm bước tới đón lấy tay người nam nhân đó, dịu dàng: - Vương gia, chàng về rồi! Trương Nhất Sơn mỉm cười, ôn nhu: - Quận chúa! Trần Lăng nhếch môi, ôm quyền cúi đầu: - Trần Lăng tham kiến vương gia! Trương Nhất Sơn khoát tay, nói: - Trần đô uý đa lễ rồi. Dám hỏi Trần đô uý là vì cớ gì lại muốn lục soát phủ Bình Dương? Trần Lăng tuy vẫn cúi đầu nhưng thái độ khinh khỉnh, rõ là chẳng nể nang: - Vương gia, lão chủ chẳng qua là vì muốn tốt cho ngài và quận chúa. Còn Trần Lăng cũng chẳng qua là làm tròn trách nhiệm và giao phó của lão chủ mà thôi. Nói rồi, hắn đưa cặp mắt đầy sát ý hướng về phía đám thuộc hạ, lớn tiếng: - Lục soát, không được để sót một chỗ nào! Đoạn liền quay lại, mặt niềm nở như thể chưa có gì xảy ra, mỉa mai: - Vương gia, quận chúa! Đắc tội rồi! Trương Nhất Sơn điềm tĩnh như không, từ tốn nói: - Thanh giả tự thanh. Có điều, nếu không tìm được người cần tìm, Trần đô uý phải cho ta một lời giải thích hợp lý. Nếu không.. Vừa nói Trương Nhất Sơn vừa ngồi xuống chiếc bàn thạch anh bên cạnh. Tay đặt lên mặt bàn gõ thành từng tiếng nghe rất ưu tư. Ân Diễm im lặng nhìn phu quân với vẻ mặt đầy lo lắng, nắm chặt tay đứa trẻ đang khép nép sau lưng. Trần Lăng nở nụ cười hiểm độc, nói: - Vương gia yên tâm. Ta chỉ sợ lát nữa đây người cần có lời giải thích lại không phải là ta. - Báo cáo đô uý! Bên này không có. Trước thái độ tự tin đó của Trần Lăng, Trương Nhất Sơn thật ra vẫn khá lo lắng, tuy mọi sự đều đã được sắp xếp ổn thỏa nhưng nếu không có gì chắc chắn, tên Trần Lăng đó cũng không thể bày ra thế trận lớn đến vậy. Tuy nhiên, khi nghe tên thuộc hạ kia báo lại, cơ mặt Trương Nhất Sơn liền dãn ra, lòng thoáng chút dễ chịu. Ánh mắt tức giận thoáng hiện trên gương mặt của Trần Lăng, hắn hỏi lại tên thuộc hạ bằng thái độ kiềm nén: - Đã lục soát kỹ chưa? Thật sự là không có? Tên thuộc hạ có hơi nhùn, lí nhí nói: - Dạ không! - Báo cáo đô uý! Bên này cũng không có! Trông qua tâm trạng Trần Lăng đang không mấy tốt, Trương Nhất Sơn phần nào cảm thấy bớt ưu tư, nói: - Xem ra, tin tức của đô úy không đúng lắm. Giờ thì.. Trương Nhất Sơn vẫn chưa kịp nói hết câu thì tên thuộc hạ khác của Trần Lăng đã vội vàng chạy tới báo: - Báo cáo đô uý. Không tìm được người nhưng tìm thấy một bức huyết thư. Trương Nhất Sơn bất giác hoang mang, đảo mắt tìm Tạ Sâm, thuộc hạ thân cận nhất của chàng. Tạ Sâm cũng đang nhìn Trương Nhất Sơn bằng ánh mắt không tin vào những gì đang diễn ra. Ân Diễm ôm chặt con trai, lùi về sau vài bước. Miệng lắp bắp: - Huyết thư? Vương gia, đây là chuyện gì? Trần Lăng bật cười thật lớn, tiếng cười giòn giã như mũi dao nhọn đâm vào tim Trương Nhất Sơn một nhát chí mạng, mọi thứ xung quanh chàng lúc này hoàn toàn mơ hồ, không chút gì là thật. Chỉ nghe đâu đó có tiếng nói, giọng lanh lảnh: - Vương gia, ngài còn gì để nói? Có phải lúc này vương gia nên cho thuộc hạ một lời giải thích không? Bừng tỉnh sau những phút giây vô định, Trương Nhất Sơn lảo đảo, với tay vịn cạnh bàn, ngồi bệt xuống ghế: "Tại sao? Tại sao lại hại ta. Tại sao?". Ân Diễm dẫn theo con trai tới bên Trương Nhất Sơn, đặt nhẹ tay lên vai chàng, nhẹ nhàng khuyên bảo: - Vương gia, chàng hãy bình tâm. Nói cho thiếp nghe xem rốt cuộc là chuyện thế nào? Hoàng gia gia thương thiếp như vậy lại vô cùng trọng dụng chàng, thiếp nghĩ chỉ cần chàng giải thích rõ ràng thì mọi chuyện có lẽ sẽ không sao. Trần Lăng thừa thắng, hỏi gằng: - Vương gia, ngài còn gì để giải thích? Khép hờ đôi mắt, một giọt lệ đang chảy trên mặt của một nam nhân, giọt lệ cay đắng của sự bất lực và thất vọng. Trương Nhất Sơn đứng thẳng người, chân vững vàng không xê dịch, đôi mắt sáng như sao trời giữa đêm, miệng cười ngạo nghễ: - Hahaha. Trương Nhất Sơn ta cả đời lỗi lạc, bao lần vào sinh ra tử nơi sa trường cũng chưa từng biết sợ, mỗi một việc ta làm trước giờ đều không hổ thẹn với lương tâm. Nếu hôm nay, ông trời thật muốn diệt ta, thì Trương mỗ sẽ xem đó là số mệnh, chỉ mong đô úy nể tình tha cho vợ con ta cùng mấy trăm mạng người của vương phủ. Về phần ta, ngươi muốn giết cứ giết. Nhưng ta nói trước, ta tuyệt đối sẽ không theo ngươi về chấp nhận thẩm án của Đại Lý Tự đâu. Tạ Sâm hốt hoảng, chạy tới nói trong lo lắng, mắt nhìn chằm chằm Trần Lăng: - Vương gia, giữ được rừng xanh sợ gì không có củi đốt. Tiểu vương gia hãy còn nhỏ tuổi, vương gia xin tam tư. Đưa tay ngắt lời Tạ Sâm, Trương Nhất Sơn lên tiếng, thái độ dứt khoát: - Mọi việc đều là do một mình Trương Nhất Sơn ta làm, hoàn toàn không liên quan tới người khác. Mạng chỉ có một, nếu ngươi muốn cứ tự nhiên dùng bản lĩnh tới lấy. Ân Diễm tay dắt con trai bước đến bên cạnh Trương Nhất Sơn, nói: - Vương gia, chàng nói gì vậy? Ân Diễm trong mắt chàng yếu đuối, tham sống sợ chết vậy sao? Ngày đồng ý gả cho chàng, thiếp đã biết phải đối diện với hiểm nguy gì, dù chàng có chiến tử sa trường, hy sinh vì nước hay gặp phải bất kì chuyện gì, thiếp cũng tự dặn lòng sẽ cùng chàng đối mặt. Nay chàng vì giữ mạng cho thiếp và con mà hạ mình đi cầu xin tên tiểu nhân lấy oán báo ân này thì nghĩa phu thê chúng ta được gọi là gì. Ân Diễm nguyện cùng chàng bạc đầu nơi chín suối, nối tiếp tình duyên kiếp sau. Những năm tháng thiếu niên chinh chiến sa trường, Ân Diễm không ít lần bày tỏ tâm ý cùng Trương Nhất Sơn, khi đó chàng còn là thuộc hạ thân tín của Duệ Vương. Tuy chàng cũng đã không ít lần xao xuyến trước vẻ đẹp và sự thông tuệ của nàng Bình Dương quận chúa nhưng vì nàng mang thân phận hoàng tộc, lá ngọc cành vàng nên chút suy nghĩ về tấm chân tình đó nhanh chóng vì những lần xuất quân mà dần dà nguội lạnh nơi trái tim của chàng thiếu tướng. Lần đó, Hào Châu gặp nạn đói liên miên, Trương Nhất Sơn được cử đi hỗ trợ phân phát lương thực và chăm lo ổn định đời sống cho người dân ở đó, Bình Dương quận chúa cũng đồng hành trong chuyến đi và cùng chàng trải qua vô vàng cực khổ, viết nên giai thoại tình yêu đầy cảm động của một thiếu tướng quân tuy anh dũng trên sa trường nhưng lại rụt rè trước tình trường nhi nữ và nàng quận chúa kiêu kì, xinh đẹp mà dịu dàng e ấp bên tình lang. Trương Nhất Sơn không khỏi bồi hồi trong những lần nhớ lại chuyện tình yêu khắc cốt ghi tâm của họ, chàng đi lại cầm tay Ân Diễm, hôn nhẹ lên trán nàng một nụ hôn ấm áp, nhỏ giọng: - Ta yêu nàng, Ân Diễm. Đời này lấy được nàng là viễn phúc lớn nhất của ta. Ân Diễm bật cười, hai giọt lệ lăn dài trên gò má, nàng vốn không nói được gì trong lúc này, chỉ biết nhìn Trương Nhất Sơn, người mà lần đầu gặp mặt ở Tử Cấm Thành nàng đã biết, đó là định mệnh lang quân. Trần Lăng cũng không phải kẻ vô tình, trông thấy cảnh tượng trước mắt cũng mang chút xót thương, hắn đi đến kế bên Trương Nhất Sơn, nhẹ giọng: - Vương gia, lão chủ có vài lời muốn ta nói lại với ngài. Đang đau lòng, xót xa nhìn Ân Diễm, nghe tiếng Trần Lăng, Trương Nhất Sơn lập tức đổi sắc, dùng gương mặt lạnh lùng nhìn về phía hắn, nói: - Không cần đâu! Lời gì ta cũng không muốn nghe. Sinh tử đối với Trương mỗ mà nói chẳng qua như gió thoảng mây bay, từ lâu ta đã xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Trần Lăng bật cười, bước tới cạnh Trương Nhất Sơn, nói nhỏ: - Thuộc hạ tất nhiên biết, vương gia can trường, nghĩa đảm, gan dạ, anh dũng hơn người. Chỉ có điều, ngài dù không lo lắng cho quận chúa thì cũng phải nghĩ cho tiểu vương gia chứ, đúng không vương gia? Phòng khách vương phủ xa hoa, lộng lẫy đến thế nào cũng không thể khỏa lấp được âm khí đang tồn tại. Tất cả mọi thứ dường như đang bị chính cái uy quyền không liêm chính kia hù dọa, đến một tấm rèm che, một nhành hoa cũng chẳng buồn lay động. Trương Nhất Sơn nâng nhẹ chén trà, đưa lên mũi ngửi, một giọt cũng không chạm tới môi, tâm tư nặng trĩu, chàng lên tiếng: - Ông ấy muốn gì ở ta? Binh phù ta không nắm, quyền hạn cũng chẳng liên can. Ở trong triều, cho dù là Tống quốc công, thậm chí cả Trương thừa tướng đức cao vọng trọng cũng chưa chắc sẽ uy hiếp tới địa vị của ông ấy, huống chi là một phủ Bình Dương nhỏ nhoi, không đáng nhắc tới. Lão chủ làm vậy, không phải là thừa thải quá sao? Trần Lăng đặt thanh đao xuống, tay trái nắn cổ tay phải, giọng điềm tĩnh: - Đúng là vậy nhưng vương gia có điều không biết, trong ngài lại có thứ mà người khác không có. Và thật trùng hợp, đó lại là thứ lão chủ muốn. Trương Nhất Sơn lờ mờ đoán ra được thứ họ muốn là gì nhưng vẫn ra vẻ như chẳng biết gì, nói: - Trần đô uý cần gì vòng vo, mời nói thẳng. Trần Lăng cười lớn, nói: - Vương gia đúng là hào sảng. Được, nếu là vậy Trần Lăng không dong dài nữa. Ngọc Kỳ Lân, đổi lấy Bình Dương vương phủ. Vương gia thấy sao? Trương Nhất Sơn bật cười, nói: - Quả nhiên là ngọc Kỳ Lân, hahaha. Trần Lăng rút kiếm kề ngay cổ Trương Nhất Sơn, gằng giọng: - Vương gia, đừng để ta phải đưa ra lựa chọn mà cả ngài và ta đều không mong muốn. Trương Nhất Sơn cười khẩy, lấy tay đẩy lưỡi kiếm ra khỏi cổ, nói: - Hừ. Trần đô úy cảm thấy ta sẽ sợ sao? Còn nữa, sinh thời Trương mỗ ghét nhất ai đó kề kiếm lên cổ mình. Trương Nhất Sơn hừ một tiếng bất cần, nâng chén trà lên uống. Sự điềm tĩnh này, Trần Lăng không mấy bất ngờ. Nếu không phải vì hai người hầu hai chủ thì với khí khái anh hùng và chính trực mà hắn biết về Trương Nhất Sơn, hắn nhất định sẽ kết bạn với người này. Tra kiếm vào bao, thần sắc có phần dịu bớt, Trần Lăng thấp giọng, nói: - Vương gia, nếu ngài đã không màng danh lợi, không tranh chức tước thì há gì lại khư khư giữ lấy thứ họa diệt thân? Trương Nhất Sơn vẫn im lặng, không nói lời nào, không phản đối cũng không thỏa hiệp. Một lúc sau, Trần Lăng đứng dậy, bước đi. Tới bậc cửa, hắn đột nhiên dừng lại, lùi về sau hai bước, nhỏ giọng: - Vương gia, ngài có muốn biết vì sao ta lại chắn chắn khẳng định bức huyết thư đang ở phủ Bình Dương không? Cánh cửa chính của phòng khách đã mở nhưng tuyệt nhiên không có người bước ra. Ân Diễm và Tạ Sâm mặt đầy lo lắng hướng về nơi đó, mũi kiếm đầy máu chìa ra sau khe cửa, từng giọt một nhỏ đầy lên mỗi bước đi. Tạ Sâm lên tiếng: - Là bảo kiếm của vương gia! Trần Lăng tung cước đá văng Trương Nhất Sơn ra khỏi phòng, đoạt luôn khí giới, dõng dạc ra lệnh: - Không để một ai sống sót! Ân Diễm lo lắng, toang chạy đến chỗ Trương Nhất Sơn, một tay đỡ chàng dậy, một tay lấy khăn lau vết máu trên miệng, xót xa: - Vương gia? Chàng không sao chứ? Vết thương sâu bởi bảo kiếm sắc bén, máu từ bụng dưới chảy ướt đẫm y phục, Trương Nhất Sơn đau đến nổi không thể đứng thẳng. Mỗi cái chạm vào của Ân Diễm là một lần chàng giật thót. Mồ hôi toát ra đầy trán, Trương Nhất Sơn nắm chặt lấy tay Ân Diễm, miệng cười mà lòng đau thắt lại. Nhìn thê tử và con trai hãy còn nhỏ dại, chàng chỉ hận bản thân sao lại quá tin người. - Thật.. thật không ngờ, Thần Long Kiếm bấy lâu cùng ta.. cùng ta chinh chiến sa trường, dấy không ít máu tươi của địch, giờ phút cuối cùng lại.. lại ngấm máu của chính chủ nhân.. Ân Diễm xót xa, nghẹn ngào nhìn phu quân đau đớn mà không làm gì được, nàng nới lỏng bàn tay Trương Nhất Sơn, từ từ đứng dậy, lớn tiếng nói: - Trần Lăng, ngươi ăn gan hùm mật gấu hay sao mà dám ra tay với cả quận mã. Ngươi không muốn sống nữa à? Không chút dè dặt, Trần Lăng lấy khăn từ trong tay áo chùi đi vết máu còn dính lại trên Thần Long Kiếm, cười nói: - Các người.. mới không muốn sống. Thực lực của Thiết Y Vệ quả là không thể coi thường, một người từng là tướng quân binh thao võ lược như Trương Nhất Sơn, thuộc hạ dưới trướng cũng há phải kẻ tầm thường, ấy vậy mà vẫn có cuộc đối đầu không hề có lợi. Đao đấu đao, kiếm đấu kiếm, võ thi võ, lực cản lực, không bên nào yếu thế hơn. Tạ Sâm chiến trực diện với Trần Lăng. Một người là thị vệ thân cận của Bình Dương vương gia, từng là chưởng quản nhà giam của Đại Lý Tự, một người là thuộc hạ thân tín dưới trướng lão chủ Thiết Y Vệ. Hai bên một đao một kiếm, một võ một lực. Trời bắt đầu đổ mưa, mặt đất đầy máu tươi, mùi tanh bốc lên khiến người ta khó chịu. Trên sân, máu đã chảy thành dòng. Dưới thảm cỏ, máu tạo màu huyết nhũ, ánh nắng mặt trời đứng bóng lồng vào tia sáng làm đẹp thêm màu đỏ chu sa. Giọt nước mắt nữ nhân đẹp tuyệt hảo rơi xuống làm ấm nóng hai gò má đỏ ửng của đứa trẻ. Không nói lời nào, Trương Nhất Sơn chỉ nắm chặt lấy tay Ân Diễm với ánh nhìn tràn đầy yêu thương, đọng chút gì đau xót. Chàng nhìn xuống con trai, giữ lấy tay thằng bé, âu yếm lần cuối gương mặt bầu bĩnh và đáng yêu, dặn dò: - Hàng Phong có nghĩa là hàng phục phong ba, bão táp. Con phải thật kiên cường, phải là một người đỉnh thiên lập địa, hãy sống thật vui vẻ và bình an. Đó là tất cả nguyện ước của cha mẹ. Ân Diễm đau đớn, nàng chỉ biết im lặng, hai hàng nước mắt không ngừng chảy, hòa cả vào nước mưa. Mưa vẫn rất lớn, nhưng chừng ấy vẫn chẳng thể làm dịu đi cái mặn của nước mắt, cái đắng của lòng người tàn nhẫn. Nàng chỉ không biết rằng, giọt nước mắt ấy đã vô tình làm thắt lòng ai đó, đau hơn cả vết thương đang rỉ máu. "Đời này, Trương Nhất Sơn không phụ thiên hạ, không phụ bằng hữu, không phụ người, cũng không phụ ta, chỉ đáng tiếc, đến cuối cùng lại phụ hồng nhan tri kỉ là nàng. Ân Diễm, kiếp này không trọn, nguyện hẹn kiếp lai sinh" Không quá một nén hương, đám thuộc hạ của Trần Lăng đã theo lệnh giết sạch người của vương phủ. Trần Lăng quả không hổ danh là thuộc hạ thân tín bên cạnh lão chủ Thiết Y Vệ Thành Phá Lãng, từng nhát kiếm hạ xuống vô tình, không sai một ly, không thừa một tấc, mỗi nhát chém xuống là một mạng người của phủ Bình Dương phải ra đi. Máu nhuộm đỏ tiền viện, máu chảy tràn hậu viện. Máu tô thêm màu cho vườn hoa nở thắm, máu hòa màu cửa lớn phủ Bình Dương. Bầu trời Đại Đô tắt nắng, một không gian âm u bao trùm không khí lạnh lẽo, những xác chết chất chồng lên nhau, trông thật đáng sợ. Mây mù kéo về như bao trùm chết chóc, che đậy cho tội ác. Mưa lớn không ngừng như đang khóc cho thảm sát toàn gia. Ông trời cũng muốn giúp cho kẻ thủ ác, cơn mưa ấy đủ để rửa trôi tất cả vết tích, thứ còn sót lại chỉ là vệt máu loang lỗ trên những thảm cỏ hay những viên gạch. Một đứa bé năm tuổi còn chưa đủ lớn để hiểu chuyện gì đang xảy ra, nó chỉ biết lạnh và cảm nhận được một chút gì đó đau thương. Trong đáy mắt nó bây giờ chính là biển máu long lanh. Phủ Bình Dương ngày đó, mưa mang màu máu đỏ.
Chương 2: Ngọc Kỳ Lân Bấm để xem Sáng Hoàng Hoa, bạch thiếu niên gạt hồi ức cũ Sơn trang đêm, Chu Đình Úy ôn lại chuyện xưa Thảo nguyên Hoàng Hoa. - Sư phụ! Người đừng nói nữa, đừng nói nữa! Con xin người, xin người đó! Đừng nói nữa! Tạ Sâm gắng gượng hết sức, thốt ra từng lời đứt quãng: - Tiểu vương gia! Huyết án năm xưa là do một tay Thành Phá Lãng gây ra. Chỉ có điều, địa vị.. địa vị trong triều của ông ta quá lớn. Không phải ngày một ngày hai là có thể lật đổ được.. khụ khụ khụ.. Máu tiếp tục ứa ra từ cổ họng làm chặn đứng câu chuyện lòng dang dở. Nhắm mắt nghe nỗi đau thảm án, nghiến răng cảm thán năm trăm mạng người, Tạ Vô Phong nhìn Tạ Sâm xót xa, hỏi: - Nếu là vậy, hà cớ gì hắn lại tha cho con? Khựng lại bao cảm xúc vì câu hỏi như là điểm nút của lý do ẩn nhẫn mười bảy năm qua. Tạ Sâm nhìn Tạ Vô Phong, miệng cười khổ. Mắt ông long sòng sọc những đường gân đỏ, ngập tràn màu máu mênh mông giữa ánh xanh của cánh rừng trúc trong cuộc rượt đuổi tìm con đường sinh tử. * * * Người đàn ông nắm chặt tay của một đứa trẻ chạy thật nhanh về phía cổng thành, ngựa phi nước đại men theo bìa rừng đi mãi, bỏ lại phía sau nơi chôn nhau cắt rốn. Phủ Bình Dương nguy khốn, thuộc hạ Tạ Sâm tham sống sợ chết, bỏ mặc chủ nhân, bỏ trốn cùng con trai. Ai cũng đều cho là như vậy, kể cả hắn cũng phải cho là như vậy. - Tạ thúc thúc, chúng ta đi đâu vậy? Tạ Sâm ngoái đầu về sau, tay ôm chặt Trương Hàng Phong vào lòng, kiềm nén đau thương, nghẹn ngào nói: - Vương gia, ngài yên tâm, thuộc hạ dù chết cũng sẽ cố hết sức mình bảo vệ giọt máu cuối cùng của Trương gia. Trương Hàng Phong chỉ mới năm tuổi, vốn chẳng hiểu được cơ sự gì, liền chẳng biết chẳng hay bị Tạ Sâm kéo tay đi, thảy lên yên ngựa, tức tốc phi nước đại. Cậu đã nín khóc, từ lúc mưa bắt đầu tạnh, nước mắt trên mặt cậu đã khô và tuyệt nhiên không còn rơi thêm giọt nào nữa. - Tạ thúc thúc, chúng ta đi đâu vậy? Cha mẹ con họ có đi cùng chúng ta không? Bao giờ thì chúng ta quay về đó? Tạ Sâm nhìn Trương Hàng Phong, cậu còn quá nhỏ để phải gánh chịu nổi đau lớn lao này, hắn càng thêm nghẹn ngào, một lời cũng không nói nổi "Tiểu vương gia, chúng ta đã vĩnh viễn không thể quay về đó được nữa rồi". Đuổi theo! Tạ Sâm nhìn về phía sau, nơi xanh um những tàng tre ngọn trúc, nơi gác lại quá khứ, nơi chôn vùi huyết án tan thương, hắn giục: - Tiểu vương gia! Người mau ôm lấy ta, nhanh lên! Hí hí hííííí.. Đầu ngựa bị chặn lại bởi một tuấn mã khác, người trước mặt khoác một chiếc áo choàng màu đỏ, làm nổi bật thân ảnh nam nhi khôi ngô giữa núi rừng xanh ngát. Tạ Sâm thoáng chút bàng hoàng: - Thiếu trang chủ? Ngài, sao lại đến đây? Chu Đình Úy đưa ánh mắt đau xót nhìn vào Trương Hàng Phong, giây phút cảm thán qua đi, chàng nhìn Tạ Sâm rồi nói: - Mau đưa Phong nhi rời khỏi đây. Về phía Tây 2 dặm, có một sơn cốc, dưới sơn cốc có đồ ta chuẩn bị cho hai người. Đưa nó đi, đến một nơi không ai biết, nuôi dưỡng nó trưởng thành. Đi nhanh! Tạ Sâm đắn đo hỏi lại: - Ta đi rồi, ngài phải làm sao? Chu Đình Úy cười nói: - Không sao, cha ta dẫu gì cũng có chút giao tình với thừa tướng đương triều. Trần Lăng là ai chứ? Chỉ là một đô úy nhỏ nhoi bên cạnh Thành Phá Lãng, tuy lão chủ đó của hắn nắm trong tay không ít quyền hành nhưng trong triều cũng phải kiêng nể thừa tướng đôi phần. Hắn không dám làm gì ta đâu. Đi mau! Tạ Sâm hai tay ôm quyền, nói: - Được! Đa tạ! Ân tình này ngày sau Tạ Sâm ta nhất định báo đáp. Trông ngựa của Tạ Sâm vừa quay đầu, Chu Đình Úy như nhớ ra điều gì đó, liền lên tiếng: - Khoan đã! Nhích ngựa một đoạn chặn lấy đầu ngựa của Tạ Sâm, Chu Đình Úy lấy trong ngực áo ra một mảnh ngọc bội, bên trên có hình bán nguyệt đưa cho Tạ Sâm và nói: - Đây là tín vật của U Linh sơn trang, hãy giữ lấy phòng về sau cần đến. Thay ta chăm sóc tốt cho Phong nhi. Bảo trọng! Tạ Sâm giữ chắc tín vật trong tay, ôm quyền kính cẩn: - Bảo trọng! Đông Xưởng. Dưới ánh nến mập mờ của tầng hầm mật thất, Thành Phá Lãng với bộ hắc phục khắc ưng long, uy nghiêm, oai võ, khí thế ngang nhiên chễm chệ, tay nắn cổ tay, điệu nghệ và hứng thú, đưa ánh mắt dò xét, hỏi: - Ngươi chắc chắn Bình Dương phủ không một ai sống sót? Cung kính cúi đầu, Trần Lăng nói: - Bẩm lão chủ, thuộc hạ bất tài đã để Tạ Sâm chạy thoát. Cổ tay dừng xoay, mắt liếc xoáy, Thành Phá Lãng nhìn thuộc hạ đắc lực nhất mà ông tin tưởng, dường như có dụng tâm khác, ông khẽ khàng nhẹ giọng: - Không sao! Tạ Sâm cũng chẳng phải là kẻ khó đối phó. Nhấp chén trà nóng, Thành Phá Lãng nhìn Trần Lăng, hỏi khẽ, trong âm giọng mang vài phần sát ý: - Ngọc Kỳ Lân đâu? Trần Lăng vội quỳ phụp xuống, cúi đầu sát đất, hai tay ôm quyền, giọng run rẩy: - Lão chủ tha tội. Thành Phá Lãng hạ thấp tầm mắt, tay nâng ly trà đưa lên miệng, giọng trầm xuống, hỏi: - Không tìm thấy? Trần Lăng run rẩy, lắp bắp: - Bẩm, bẩm lão chủ. Có thể.. có thể là.. là.. Đặt mạnh ly trà xuống bàn làm nước bên trong văng tung tóe, Thành Phá Lãng lớn tiếng: - Là sao? Đầu vẫn cúi sát đất, hai tay và cơ thể vẫn run. Trần Lăng chậm chạp nói: - Bẩm lão chủ! Ngọc Kỳ Lân không có trong phủ. Thuộc hạ cho rằng Tạ Sâm đã mang theo nó cùng con trai hắn ta. Cổ tay ngừng xoay, chầm chậm kéo chén trà về chỗ cũ, Thành Phá Lãng nhíu mày, hỏi: - Đích tử của Trương Nhất Sơn, nó thế nào? Trần Lăng tự tin báo lại: - Lão chủ yên tâm. Trương Hàng Phong cũng chết rồi! Là thuộc hạ đã đích thân giết nó. Thở phào nhẹ nhõm, Thành Phá Lãng ngồi lại xuống ghế, đặt tay trái lên bàn, tay phải cầm đoản kiếm lia vài đường qua lại, tia sáng heo hút từ cửa nhỏ của tầng hầm làm ánh lên vẻ sắc bén của hung khí đoạt mệnh. Nở một nụ cười gian hiểm, ông lên tiếng, làm giật mình tên thuộc hạ đang quỳ trước mặt: - Vậy sao ngươi không cho người đi tìm Tạ Sâm? Thứ ta cần đâu phải vài mạng người nhỏ nhặt của phủ Bình Dương. Ngẩng mặt nhìn sắc thái của Thành Phá Lãng, trông qua ánh mắt đã có chút thần hồn, Trần Lăng yên tâm phần nào, liền nói: - Thuộc hạ đã cho người đuổi theo, nhưng.. Thành Phá Lãng nhíu mày lần nữa, hỏi gặng: - Lại thế nào? Trần Lăng tay ôm quyền, mắt vẫn lưu tâm sự biến đổi trên mặt Thành Phá Lãng, nói: - Bẩm lão chủ.. Thành Phá Lãng ngắt lời của Trần Lăng, đây là điều không mấy ngạc nhiên. Từ lâu, vì không có con trai nên Trần Lăng được ông xem như nghĩa tử. Nếu không phải như vậy, ông sao có thể để hắn đi làm việc trọng đại này. - Đứng lên nói chuyện. Trần Lăng nhẹ nhõm, ôm quyền, nói: - Tạ lão chủ. Bẩm lão chủ, thuộc hạ và đám cận vệ đã đuổi theo tới bìa rừng, không thấy Tạ Sâm và con trai ông ta đâu nhưng lại gặp được thiếu trang chủ của U Linh sơn trang. Thành Phá Lãng cười khẩy: - Chu Đình Úy? Hắn đến làm gì? Đến để cứu Trương Nhất Sơn hay.. đến vì ngọc Kỳ Lân? Trần Lăng dõng dạc: - Lão chủ anh minh! Hắn quả thật là vì ngọc mà đến. Thành Phá Lãng bật cười thích thú, nói: - Haha! Người trong thiên hạ ai ai cũng muốn có giang sơn và vì thế mà chuyện những kẻ đó muốn có ngọc Kỳ Lân là điều dĩ nhiên. Nếu không phải vì chút giao hảo của cha hắn Chu Lĩnh và Trương thừa tướng, ta cũng đã không nhiều lần nhượng bộ. Trần Lăng nói tiếp: - Thuộc hạ cho rằng Tạ Sâm lấy ngọc vì hắn cũng muốn có giang sơn. Nhưng khi đuổi gần tới chân núi, bên dưới là vực thẩm sâu vạn trượng, chỉ cần rớt xuống thì chắc chắn sẽ thịt nát xương tan, đừng hòng sống sót. Thuộc hạ chính mắt nhìn thấy hắn đã cùng con trai nhảy xuống đó, chắc hẳn là chết không toàn thây. Lão chủ có thể yên tâm. Cổ tay vẫn xoay, chân vẫn nhịp. Thành Phá Lãng nhìn Trần Lăng, hỏi: - Ngươi theo ta lâu như vậy, vẫn không thay đổi được suy nghĩ đó sao? Trần Lăng đưa mắt nhìn Thành Phá Lãng rồi nói: - Lão chủ, thuộc hạ không hiểu. Mong lão chủ chỉ dạy! Thành Phá Lãng cười nửa miệng, sau đó đưa mắt nhìn Trần Lăng, từ tốn nói: - Tạ Sâm theo Trương Nhất Sơn chinh chiến bao năm, ít nhiều gì cũng học được vài khả năng phòng thân trong lúc nguy cấp. Ta không tin hắn dễ dàng chết như vậy. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Ta muốn cả Tạ Sâm cùng con trai hắn. Vừa dứt lời, Thành phá Lãng đột nhiên tiến về phía Trần Lăng, thấp giọng: - Cho người đi tìm Tạ Sâm về đây! Trước mắt, hắn là manh mối duy nhất của ngọc Kỳ Lân. Trần Lăng ôm quyền: - Thuộc hạ đã rõ! Xin lão chủ yên tâm! * * * - Vậy.. đứa bé mà Trần Lăng đã giết là? Tạ Sâm nhìn ánh mắt nghi ngờ của Tạ Vô Phong mà lòng thêm quặng thắt, miệng cười khổ: - Đúng vậy! Là con trai.. con trai của ta. Tạ Vô Phong suy sụp, ngã khuỵu tại chỗ: - Sư phụ? Người.. người.. Tạ Sâm nhắm hai mắt lại, giọt nước mắt hiếm hoi sau mười bảy năm cuối cùng đã có thể rơi, bí mật kia cuối cùng cũng đã có thể nói ra, ông xót xa nói: - Ân tình mà ta nhận từ vương gia đâu chỉ có bấy nhiêu. Nếu năm xưa không có vương gia tương cứu thì ta.. thì ta hẳn đã chết từ hơn hai mươi năm trước rồi. Tạ Vô Phong bàng hoàng, chàng thật không dám tin mọi chuyện đang nghe thấy, thứ chỉ xuất hiện trong lời kể của những lão nhân nay lại có thể xảy ra với chính bản thân chàng. - Sư phụ! Còn người cứu chúng ta là ai vậy? Thân phận người đó thế nào? Sao lại dám cả gan đối đầu với Thiết Y Vệ? Tạ Sâm cười buồn, nói: - Tiểu vương gia! Nếu người đó đến sớm hơn một chút, không biết chừng còn có thể cứu cả vương phủ chứ nói gì đến cái mạng của hai chúng ta. Chu Đình Úy là con trai duy nhất của trang chủ U Linh sơn trang Chu Lĩnh. Chu Lĩnh là bạn thuở hàn vi của thừa tướng đương triều Trương Tâm Chí, người này thân phận cao quý, địa vị cũng không phải tầm thường. Tuy U Linh sơn trang không qua lại với bên ngoài nhưng bản tính Chu Đình Úy rất trung nghĩa, vị tha lại có lòng nhân hậu, biết đâu sau này người có thể nhờ cậy.. khụ khụ khụ.. Tạ Vô Phong sốt sắng: - Sư phụ? Người đừng nói nữa. Con biết rồi! Con nhất định điều tra rõ ràng chân tướng vụ thảm sát năm đó. Người nhất định phải khỏe lại, cùng con đi tìm ra sự thật. Tạ Sâm gắng gượng: - Tiểu vương gia, người nghe ta nói. Lần này ra đi, nguy hiểm trùng trùng, phải cẩn thận mọi sự, không được hấp tấp. Phàm là chuyện gì cũng phải hết sức cẩn trọng, không được quá tin người, hành sự kín đáo tránh để lộ thân phận. Còn nữa, người phải giữ thật kĩ miếng ngọc bội đó. Nó sẽ giúp người chứng minh thân phận với trang chủ của U Linh sơn trang. Tạ Vô Phong gật đầu, miệng nói liên hồi: - Con biết rồi, con biết rồi, sư phụ! Người yên tâm đi mà. Bây giờ, quan trọng nhất là.. Tạ Sâm giữ chặt cánh tay Tạ Vô Phong, nở nụ cười mãn nguyện, ông đưa mắt nhìn lên bầu trời lúc này đã trở lại xanh trong, miệng nở một nụ cười an nhiên: - Vương gia, thuộc hạ đã có thể yên lòng đến gặp ngài rồi! Tạ Vô Phong thất thần, cổ họng cứng ngắt, thốt không nên lời. Lệ Ân Đình òa lên khóc nức nở: - Sư phụ! Khoảnh khắc này Tạ Vô Phong cuối cùng cũng hiểu, giấc mơ của mười năm qua là gì, kí ức luôn khiến lồng ngực chàng đau thắt đến mức không thở được đó là gì, ngay thời khắc này, nó rõ ràng và chân thật hơn bất cứ thứ gì tồn tại trên đời. Sự mất mát hôm nay tính ra không là gì so với ngày hôm đó nhưng lại quá đỗi chân thật, nó khiến chàng như tỉnh mộng, mười bảy năm qua thật ra chỉ bằng một lần chớp mắt. Bầu trời Hoàng Hoa vẫn một màu xanh ngát, thảm hoa trên cát vẫn nở, rực rỡ một góc trời thảo nguyên. Đỉnh núi vẫn mọc thêm vài chồi non nhỏ, cành cây gần đó cũng chìa ra thêm vài nhánh lớn. Dưới lòng đất của Hoàng Hoa ngày đó lại có thêm một xác chết được chôn, trên mặt đất của buổi sáng hôm đó đã nổi lên một mộ phần nghi ngút khói. Lệ Ân Đình khóc nức nở, vừa lau nước mắt vừa tức giận, lời nói không mấy rõ ràng: - Bọn chúng không phải con người, là ác quỷ. Năm trăm mạng người, là năm năm đó, sao lại có thể vì một câu nói mà.. Ngắt ngang lời Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong lãnh đạm nói: - Không phải năm trăm mà là.. năm trăm lẻ một! Ta nhất định bắt họ nợ máu phải trả bằng máu. Thả lỏng bàn tay đã in hằn những vết bấu sâu hoắm, Tạ Vô Phong như cảm thấy mình được sinh ra lần hai, chỉ một khắc thôi lại đủ để chàng hiểu ra, mười bảy năm qua, chàng đã sống thật sự quá dễ dàng. Lệ Ân Đình đưa tay nắm lấy bàn tay đang run rẩy của Tạ Vô Phong, thấp giọng: - Sư huynh, huynh đừng làm muội sợ mà! Tạ Vô Phong buông lơi bàn tay Lệ Ân Đình, tiến đến gần bên bia mộ của Tạ Sâm, quỳ xuống nói: - Sư phụ, từ nay thiên lý vạn hành, con không thể sớm tối tới cúng bái người nhưng nơi đất khách, Vô Phong sẽ không quên ngày giỗ của người. Người hãy phù hộ cho con và tiểu sư muội có thể thuận buồm xuôi gió, thuận lợi gặp được Chu trang chủ. Đoạn thì quay lại nói với Lệ Ân Đình: - Chúng ta đi thôi! - Được! * * * - Lục soát thật kỹ cho ta! Trần Lăng đứng trước căn nhà gỗ không một bóng người, trong chất giọng đã có đôi phần gấp gáp. Thuộc hạ vừa vào lại chạy ra ngay: - Trần tổng quản, không có ai cả. Ánh mắt tối sầm, Trần Lăng nhìn ngó xung quanh, nghe thoảng mùi nhang khói, hắn phi ngựa theo đó đến thẳng đến bìa rừng sau căn nhà gỗ. Đứng lặng người trước tấm bia mộ được viết bằng máu hãy còn tươi mới, thứ Trần Lăng kích động không phải tên người chết mà là dòng chữ nhỏ phía dưới "Tạ Vô Phong chi mộ". - Tạ Vô Phong? Tạ Sâm, ngươi tính toán cả đời lại không bằng ta chỉ một khoảnh khắc thời cơ. Đứa con trai này của ngươi có phải là thật thà quá rồi không. Tại một quán trà nhỏ cách thảo nguyên Hoàng Hoa không xa lắm, Lệ Ân Đình vừa uống trà vừa trầm ngâm suy nghĩ. Được một lát thì không nhịn được mà hỏi: - Sư huynh, muội không hiểu một chuyện. Cứ nghĩ mãi vẫn không ra. Tạ Vô Phong thản nhiên như thể đã biết trước chuyện này, cười nói: - Từ nãy tới giờ, không ít hơn ba lần muội vốn định hỏi nhưng cuối cùng lại không hỏi, ta cũng sốt ruột thay muội rồi. Giờ thì sao, không nhịn được nữa rồi à? Lệ Ân Đình đặt mạnh ly trà xuống bàn, giận dỗi: - Này, nếu huynh đã biết vậy sao còn không nói. Để người ta suy nghĩ nhức cả đầu. Tạ Vô Phong cười lớn: - Haha, muội ngốc à? Ta chỉ biết muội có điều muốn hỏi chứ làm sao ta biết muội muốn hỏi gì mà chủ động nói chứ. Lệ Ân Đình đưa mắt trông qua biểu hiện có vẻ chân thật của Tạ Vô Phong thì cũng phần nào nguôi giận, nàng ngồi xuống hỏi nhỏ: - Sư huynh, muội không hiểu. Rõ ràng trước khi sư phụ ra đi đã căn dặn huynh, đường tới Trung Nguyên khó khăn nguy hiểm, tuyệt đối không thể để lộ thân phận. Vậy tại sao trên bia mộ của người huynh lại để dòng chữ "Tạ Vô Phong chi mộ"? Mỉm cười nhìn Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong ôn nhu nói: - Ân Đình, sau này huynh muội chúng ta sẽ cùng nhau đồng cam cộng khổ. Huynh sẽ không giấu muội dù là bất cứ chuyện gì. Chưa kịp vui mừng, Lệ Ân Đình nhận ngay một câu nói khiến nàng chỉ muốn lập tức đem chàng đi ngũ mã phanh thây: - Nhưng chuyện này thì đừng hòng, muội giỏi thì tự mà nghĩ đi. Nàng tức giận, lớn tiếng: - Tên mắc gió chết bầm này, huynh chán sống rồi đúng không? Dám trêu ta hả? Tạ Vô Phong cười lớn, hai tay giữ lấy Lệ Ân Đình, phân bua: - Thôi thôi thôi, được rồi. Ta đùa muội đó, chuyện này.. là ta cố tình làm vậy. Lệ Ân Đình đã thôi huyên náo, nàng đăm chiêu nhìn Tạ Vô Phong. Miệng chàng mở không quá nửa, chậm rãi nói: - Bấy lâu ẩn danh, chúng ta không biết được ngoài kia có những gì đang chờ đợi. Địch trong tối, ta ngoài sáng. Lần đó, đám người tới tìm sư phụ rõ ràng là vì ngọc Kỳ Lân mà đến. Họ sẽ bỏ qua khi chưa có được thứ họ muốn sao? Không đâu, họ nhất định sẽ quay lại. Ta là cố tình để lại dòng chữ đó trên bia mộ, vì nếu hắn đọc được, chắc chắn sẽ cho rằng sư phụ đã giao lại ngọc Kỳ Lân cho con trai người là Tạ Vô Phong. Lệ Ân Đình ngạc nhiên, liền lập tức hỏi lại: - Vậy há chẳng phải là chúng ta đã tự tạo phiền phức cho mình sao? Tạ Vô Phong lắc đầu, nói: - Ta lại nghĩ khác. Hắn là người đầu tiên ta muốn tìm, cũng là người duy nhất mà ta có thể truy lần ra kẻ đứng sau, lão chủ của Thiết Y Vệ Thành Phá Lãng. Nếu như chúng ta không có cách nào tiếp cận bọn quyền vương thế phụ đó vậy thì chỉ còn cách bắt buộc chúng phải chủ động tìm đến chúng ta. Lệ Ân Đình cảm giác được một chút lo lắng bất an. Nàng vui vì sư huynh của nàng đã trưởng thành, chính chắn hơn so với trước kia rất nhiều. Nhưng lại không khỏi suy tư vì ánh mắt chàng thiếu niên đó bây giờ đã không còn ngây thơ, vô ưu vô lo, Tạ Vô Phong hào sảng với tính cách ngông cuồng, hoang dại của ngày ấy đã không còn nữa. Một nụ cười nửa miệng hiện lên trên gương mặt tiêu soái, Tạ Vô Phong ngoái đầu nhìn về chân trời đại mạc, gác lại sau lưng quá khứ mười bảy năm. Cầm chắc ngọc bội trong tay, chàng đưa ánh mắt kiên định hướng về Trung Nguyên xa xôi: "U Linh sơn trang, sẽ là nơi ta bắt đầu tất cả". Bước đến gần bên Yên Vũ, Tạ Vô Phong âu yếm vuốt ve bộ lông mượt mà, thì thầm vào tai nó: - Đi thôi, chúng ta.. về nhà! * * * U Linh sơn trang. Giáp với Mông Cổ rộng lớn là đoạn Thiên Sơn, nơi đại quân Mạc Bắc đặt doanh trại. Cách mười dặm về phía Đông đoạn Thiên Sơn chính là Liên Nhân trại. Nơi trung lập giữa triều đình và phản triều đình. Con rễ của trại chủ Liên Nhân trại chính là Trang chủ của U Linh sơn trang Chu Đình Uý. Phía Tây ngoài thành Đại Đô có một ngọn núi lớn, hùng khí và hiên ngang, sánh tầm mây, cản chiều gió. Đó là đỉnh Phong Vân. Từ Liên Nhân trại đi về phía Nam đỉnh Phong Vân, bên cạnh chân núi là năm dặm tùng lâm, lối vào duy nhất của U Linh sơn trang. Dày đặt và âm u, bao phủ nơi đây trong vòng mây bán nguyệt, đẹp lạ lùng về đêm, ảo diệu và say đắm. Cuối khu rừng ma mị như mê cung đó là biệt viện rộng lớn với màu đen chủ đạo, điểm xuyến vài đường dọc thiên màu vàng, cánh cửa lớn của sơn trang là văn tự phát nghiêng được khắc màu vàng nổi bật trên nền đen gỗ tùng quý hiếm thọ mấy chục năm: U Linh. Trang viện của sơn trang tráng lệ và xa hoa không kém gì hoàng cung hay phủ đệ. Chỉ khác là người ở đây học võ để phòng thân và tuyệt nhiên không màng danh lợi. Thế nhưng, đó không phải là tất cả, U Linh sơn trang bí hiểm và khó lường như chính cái tên của nó. Giữa màn đêm tĩnh mịch, không trăng chiếu, không sao sáng, trời đêm Mạc Bắc lạnh buốt đến vô cùng. Gió bên ngoài không thổi nhưng nến trong phòng lại tự tắt, nỗi lo trong lòng không ai thấy nhưng mày châu trên mặt lại bộc lộ đường hoàng. Bàn tay đặt nhẹ lên bình thuốc nhỏ gần cạnh quyển sách đã cũ. Cánh cửa mật thất hé mở, bí mật tới nỗi chỉ đủ một thân người nép nghiêng. Bên trong không chút ánh sáng, cũng chẳng có cửa sổ. Người đó lấy mồi lửa từ tay áo thắp sáng ngọn đèn nhỏ bên trong căn phòng. Ánh sáng không nhiều, chỉ đủ thấy một phần gương mặt. Chân mày rậm, mắt đen sâu, mũi cao, khuôn mặt đầy góc cạnh, đúng chuẩn tướng mạo của một người luyện võ. Người đó là trang chủ của U Linh sơn trang, Chu Đình Úy. Kể từ lần cuối cùng đến Đại Đô, đã mười bảy năm ông chưa chưa từng rời Mạc Bắc. Lấy từ cổ áo sợi dây chuyền có mặt cẩm thạch lớn. Ông tách hai mặt rời nhau, lấy ra một chiếc chìa khóa nhỏ, bước lại gần bức tranh thủy mặc đồ họa đỉnh Phong Vân, nhấn nhẹ viên đá trên tường, lộ một khe trống, ông lấy ra từ đó chiếc hộp màu đen kích thước tầm bằng nghiêng mực. Mở khóa, bật nắp hộp, nhắm mắt, nén đau thương. Thật ra, Chu Đình Úy cũng không thường xuyên mở chiếc hộp này, chỉ là lần nào mở cũng lấy đi của ông những mảnh vỡ từ tim, lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ nhung về cố nhân. Ánh sáng le lói từ ngọn nến sắp tàn phản chiếu lên tường hình ảnh món đồ trong chiếc hộp. Hình tròn nhưng lại không tròn, nhìn có lỗ trống nhưng kì thực lại rất kín kẽ. Miếng ngọc bội là hình ảnh của thanh long ôm trọn kỳ lân hỏa. Điểm đặc biệt của nó chính là độc nhãn của Thanh long và Kỳ lân hỏa, nhưng đáng tiếc, nếu không được nhìn trực diện thì không thể nào thấy được toàn thể kết cấu của nó. Quả là một miếng ngọc đẹp. Mở đôi mắt trông có chút mệt mỏi, hai hàng chân mày nhíu lại rồi dãn ra, nếp nhăn cũng tự nhiên hiện rõ. Miệng người đó nói vài câu khe khẽ: - Đại ca, nếu ngày đó đệ cùng huynh quay lại Đại Đô, thảm án có lẽ sẽ không xảy ra. Bao năm qua, đệ không ngừng cho người dò la tin tức của Phong nhi, nhưng.. Đệ thật hổ thẹn với lời thề năm xưa lúc kết bái. Mưa rơi càng lúc càng nặng hạt, đánh vào cửa sổ phòng ngoài mật thất những tiếng đáng sợ. Kể từ ngày đó, với ông tiếng mưa cũng như tiếng lòng, khóc mãi không thôi. Ông ngước nhìn bầu trời đêm qua lỗ hổng có chắn kính trên trần mật thất, cảm thán: - Mưa đêm tối nay lớn như mưa đêm năm đó, chỉ khác là đệ còn đây, huynh lại ngủ một giấc dài.. * * * Mây đêm đen kịt, mưa như trút nước, ồ ạt cuốn trôi từng lớp lá rụng chảy mãi về con sông lớn cạnh đỉnh Phong Vân. Có một người phi tuấn mã không kịp dừng chân, tranh thủ lúc trời mưa vắng người qua lại nhanh chóng đến nơi cần đến. Vó ngựa bay làm cho nước mưa vung vãi, âm thanh nghe buốt lạnh thê lương. Hoàng bào trên người ướt sủng, cả người cả ngựa bay thẳng màn mưa đối đầu mê cung tùng lâm tìm đến U Linh. Dừng chân trước cửa lớn của sơn trang vào một đêm mưa gió. Người đó bước xuống ngựa, tiến đến nấc thang đầu tiên thì chưa cần bước tiếp đã thấy một người khác chạy ra tiếp đón: - Đại ca, sao huynh lại đến giờ này? Trương Nhất Sơn gấp gáp, hơi thở nhanh chậm không đều: - Nhị đệ, ta có chuyện quan trọng cần đệ giúp. Chu Đình Úy thay xong y phục cho Trương Nhất Sơn liền bảo y lại ghế ngồi, bản thân thì rót trà đưa y, nhẹ giọng nói: - Huynh uống chút trà nóng cho ấm người, đệ ra ngoài đóng cửa đã. Có chuyện gì quan trọng và gấp gáp đến nỗi huynh phải đích thân đến đây vào đêm khuya thế này? Ngoài trời mưa lớn như vậy, lỡ huynh mà bệnh thì tẩu tẩu và điệt nhi phải làm sao? Đại ca, sao huynh không biết thương bản thân gì cả vậy. Chu Đình Úy tướng mạo đường hoàng, mày rậm, trán cao, thiếu trang chủ của U Linh sơn trang nổi danh là người tài đức vẹn toàn. Trương Nhất Sơn, Bình Dương vương gia của phủ Bình Dương hào khí can trường, xuất chúng hơn người, một thân cao quý. Chàng đang cầm trong tay chiếc hộp nhỏ, trong hộp có một miếng ngọc bội. Thở dài đầy ưu tư, Trương Nhất Sơn đứng dậy đi đi lại lại, có vẻ khá lo lắng, đoạn thì đưa chiếc hộp cho Chu Đình Úy, nói: - Đây là ngọc Kỳ Lân. Chu Đình Úy giật mình, lập tức mở chiếc hộp ra và rồi không khỏi bàng hoàng: - Thật.. thật là ngọc Kỳ Lân? Đại ca, sao ngọc Kỳ Lân lại ở trong tay huynh? Trương Nhất Sơn thấp giọng: - Đó là quà mà Hoàng đế đã tặng cho ta và tẩu tẩu của đệ trong ngày đại hôn. Rồi theo đó mà nói tiếp: - Nhị đệ, U Linh sơn trang tuy không liên hệ với bên ngoài nhưng lại vô cùng gần Mông Cổ, Ba Tư và Nữ Chân. Đệ có từng nghe nói tới ngọc Kỳ Lân bao giờ chưa? Chu Đình Úy lắc đầu, nói: - Đệ chưa từng nghe qua cũng không biết gì về nó. Đệ chỉ biết có một truyền thuyết về quang định thiên, chuyện này không biết có liên quan tới ngọc Kỳ Lân không? Trương Nhất Sơn suy tư, nói: - Ngọc Kỳ Lân không sáng như ngọc bình thường, nó cũng không nhẵn mịn, không cầu kỳ, không kiểu cách. Điểm đặc biệt của nó chính là tả nhãn Thanh long và hữu nhãn Kỳ lân hỏa. Nhíu mày tỏ ý không hiểu, Chu Đình Úy hỏi lại: - Đại ca, điều đó có gì đặc biệt sao? Mỉm cười, Trương Nhất Sơn hỏi Chu Đình Úy: - Vậy đệ có biết nếu tả hữu nhãn đồng loạt mở thì sẽ thế nào không? Đã bắt đầu có chút hứng thú, tuy nhiên Chu Đình Úy vẫn giữ sự bình tĩnh, tay rót thêm một ly trà cho Trương Nhất Sơn rồi nói: - Cái này thì đệ khẳng định là không biết. Nhưng với câu chuyện huynh kể và lời đệ nói trước đó thì hẳn là phải có liên quan tới quang định thiên. Gật đầu đồng ý, Trương Nhất Sơn nhấp chén trà nóng, cười nói: - Không sai, tả hữu nhãn đồng loạt sáng chỉ khi đủ điều kiện mà Gia Cát tiên sinh đã phát hiện từ ánh sáng của quang định thiên. Hai hàng long mày lại tiếp tục dính vào nhau, tay cầm chén trà xoay tới lui ba bận, Chu Đình Úy hỏi: - Đại ca, người huynh nói đến có phải là quốc sư tiền triều của Ba Tư, Gia Cát Chính Ngã không? Hiểu biết nhiều là Vạn Thần Thông nhưng hiểu biết sâu xa lại là Chu Đình Úy. Trương Nhất Sơn gật đầu cười nói: - Đúng vậy. Ngài ấy có công khai quốc, được phong làm quốc sư, đức cao vọng trọng. Năm đó, trong một lần dạo đoạn Thiên Sơn, ngắm nhìn đỉnh Phong Vân và bầu trời Mạc Bắc. Gia Cát tiên sinh đã vô tình nhìn thấy một ánh sáng nhất tâm chỉ đúng vào người tiểu thế tử. Sau đó, ông đã thỉnh giáo qua sư phụ mình mới biết thì ra tia sáng lúc đó không phải khi nắng mới thấy, lúc mưa thì mất mà là nó mặc định sẵn cho người mang chân mệnh thiên tử. Qua mấy chục năm, Ba Tư vẫn dồi dào hưng thịnh, ông vì không muốn người đời sau phải chọn lầm thiên tử, hại cực bách tính, làm khổ chúng sinh nên đã quyết định mài mò sử sách, cuối cùng đã tìm được cách đưa quang định thiên vào trong độc nhãn của hai thần thú mạnh nhất nhì trên dưới trời đất. Đó là Rồng và Kỳ lân. Chu Đình Úy ngộ ra vài điều, hai mắt sáng hẳn ra, nói: - Thì ra, thật sự có chuyện đó. Trước đây khi nghe qua, đệ còn cho rằng nó quá ảo diệu, không thể nào là thật. Trương Nhất Sơn mỉm cười, tiếp tục: - Điều bí ẩn của ngọc Kỳ Lân nằm ở tả hữu nhãn của Thanh long và Kỳ lân hỏa. Ngọc Kỳ Lân chỉ thật sự sống khi mắt của cả hai thần thú mở cùng lúc. Không kịp đợi câu chuyện, Chu Đình Úy hấp tấp: - Đại ca, vậy là thứ gì mới có thể khiến tả hữu nhãn đồng loạt mở? Trương Nhất Sơn lắc đầu rồi nói: - Không dễ, cần phải có ba thứ quan trọng. Một là thiên thời, vào đúng đêm trăng tròn thủy triều lên cao nhất. Hai là địa lợi, vật chứa khớp với ngọc Kỳ Lân, bản thân ta còn chưa rõ vật đó là gì. Ba là nhân hòa, cũng là thứ quan trọng nhất. Đó là người mang dòng máu đế vương, được quang định thiên lựa chọn. Dùng máu của người đó nhỏ vào ngọc Kỳ Lân đã được đặt khớp chỗ vào đúng đêm trăng tròn, tả hữu nhãn sẽ đồng loạt mở. Khi đó, bí ẩn lớn nhất của ngọc Kỳ Lân về tông mạch của vương thất Nguyên triều sẽ được hé lộ. Chu Đình Úy nhận ra mấu chốt của vấn đề liền lên tiếng hỏi: - Vậy người mang dòng máu đế vương đó là ai? Không phải là Hoàng đế đang tại vị kia sao? Trương Nhất Sơn lắc đầu, nói: - Người đó, cả ta và đệ đều quen biết. Chu Đình Úy nghe xong cái tên được nói ra từ miệng Trương Nhất Sơn thì liền biết được, việc được nhờ cậy ngày hôm nay hoàn toàn có thể dẫn đến họa diệt vong cho sơn trang, nhưng vì tình huynh đệ, lời hứa này chàng bắt buộc phải hứa và thực hiện nó. Tiếng mưa bên ngoài làm se thắt lòng hai quân tử. Thế cục trước mắt quả là lành dữ khó lường. Trong ánh đèn le lói của màn đêm u tối, ánh mắt kinh ngạc của Chu Đình Úy cùng gương mặt thất thần của cả chàng và Trương Nhất Sơn đã đủ chứng minh, thân phận người có quang định thiên hẳn là không tầm thường. Người đó đúng là người mà cả hai người họ đều quen biết. * * * Bầu trời đêm Mạc Bắc đầy sao, trăng sáng soi bóng tùng lâm, đỉnh Phong Vân nghiêng mình hữu tình bên đoạn Thiên Sơn hùng khí, U Linh sơn trang tĩnh lặng, cô đơn. Chỉ có mỗi Chu Đình Úy một mình ôm nỗi đau quá khứ cùng sự nhớ nhung người xưa, cũng chỉ có mỗi ông biết, mười bảy năm trước rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Thêm một năm nữa qua đi, Chu Đình Úy cảm thấy sự chờ đợi của bản thân thật khổ sở, cô đơn. Mười bảy năm trước, thứ ông mất đi đâu phải chỉ đơn giản là một nghĩa huynh tình như ruột thịt..
Chương 3: Tín vật Bấm để xem Tùng lâm năm dặm, Tạ Vô Phong sơ kiến cố nhân U Linh sơn trang, Chu Đình Úy trao tay ngọc quý U Linh sơn trang. Buổi sáng nhiều mây, tia nắng ấm áp phủ lên cả sơn trang một sức sống mới, làm sống dậy không ít những khát khao chinh phục. Bóng dáng ai đó khinh công thoăn thoắt, đánh lừa phần lớn thị vệ, dừng chân trước cửa phòng Chu Đình Úy. Không chút nhẹ nhàng và khép nép, tên thích khách đó rõ là không biết sợ trời đất gì, hiên ngang đẩy cửa bước vào như thể đây là phòng của hắn. Trời tối mặc hắc phục thì thành hắc y nhân, trời sáng mặc bạch phục thì gọi là bạch y nhân, suy nghĩ ấy cũng thật quá là ngây thơ và đơn thuần. Bước những bước thật khẽ khàng và rón rén, hắn cố gắng điều chỉnh cho hơi thở thật đều đặn, cuối cùng tay đã thành công chạm vào chiếc bình cũ đặt trên kệ sách. Cổ tay vừa định xoay thì đột nhiên có tiếng nói phát ra từ phía sau: - Linh nhi! Con đang làm gì vậy? Bạch y nhân rút tay lại, khẽ nhíu mày, tặc lưỡi, biểu hiện rất tiếc nuối: - Cha, người cứ xem như không nhìn thấy con đi, một lần thôi cũng được. Chu Đình Úy thở dài, nói: - Không chịu nổi con. Bạch y nhân bước tới bàn, ngồi xuống ghế, chân bắt chéo, giận dỗi: - Cha! Con là con gái duy nhất của người, là đại tiểu thư của U Linh sơn trang. Sau này, nơi đây sẽ do con tiếp quản. Có mỗi chuyện muốn vào mật thất xem trong đó có gì mà người cũng khó khăn với con. Không lẽ, trong đó có thứ gì mà con không thể biết sao? Nàng ấy tên Chu Linh, là con gái duy nhất của Chu Đình Úy. Nàng xinh đẹp, yêu kiều với mái tóc đen tuyền, dài mượt, làn da trắng mịn, chân mày được kẻ ngang thanh thoát tô nét cho đôi mắt trong như nước, long lanh tựa sao trời, đôi môi đỏ mọng, đường nét gương mặt hài hòa như tạc tượng. Nếu có một bức sơn thủy nên thơ mà thiếu cái hồn thì sự có mặt của nàng chính là trái tim làm sống dậy bức tranh vô tri đó. Chu Đình Úy bước đến nhìn con gái, tay phủi nhẹ chút bụi vướng ở tóc nàng rồi quay lại bàn ngồi xuống, nghiêm nghị: - Khi nào tới lúc ta sẽ tự nhiên nói cho con biết. Còn bây giờ thì ra sau núi, luyện kiếm cho tốt vào. Con không luyện thành Đoạt mệnh nhất chiêu thì đừng nghĩ đến chuyện được vào mật thất. Chu Linh "hứ" một tiếng, nói: - Con không cần nữa. Lần nào cha cũng nói lúc thích hợp, lúc thích hợp, vậy tới khi nào mới là thích hợp? Kiếm thì con vẫn luyện và dĩ nhiên là sẽ tốt. Con sẽ cho người thấy, một nữ nhi như con cũng sẽ giúp người nở mày nở mặt, không thua kém đấng nam nhi. Nói xong thì nàng lập tức rời đi, Chu Đình Úy nhìn theo bóng lưng Chu Linh mà hai hàng chân mày nhíu lại: - Tới khi người đó xuất hiện, khi đó mới thích hợp. Ta đã chờ đúng mười bảy năm rồi, ngọc Kỳ Lân cũng yên vị mười bảy năm rồi. Thật sự, sắp không chờ nổi nữa rồi. Thảm án mười bảy năm trước cũng đã chôn sâu quá lâu rồi. Đã đến lúc nên làm ấm lại. Thành Phá Lãng, ông tịnh tại quá lâu rồi.. * * * Ở giữa cánh rừng rậm rạp, một gốc tùng nhỏ đã bị chặt đứt bởi một thứ vũ khí rất sắc bén. Ánh mắt Chu Linh tràn đầy sát ý, như thể muốn nuốt chửng cả khu rừng. Tay cầm kiếm, một chân trụ, một chân thả. Nàng dùng lực từ bàn chân nâng cả người thẳng lên không trung sau đó xoay đầu tiếp đất. Lưỡi kiếm chạm nhẹ vừa đủ sau đó bật ngược lại, nàng nhắm thẳng hướng giữa hai mắt tung chiêu, đường kiếm đi thẳng nhưng lực kiếm tạo độ xoáy, nhìn như thể có ba thân kiếm hợp thành một, sau lại tách ra, biến ảo tinh tế. Đây là một trong những điểm kì diệu của Đoạt mệnh nhất chiêu, một loại võ công thiên về kiếm pháp, là điển hình cho võ học của U Linh sơn trang. Lưỡi kiếm sắc nhọn, đâm xuyên thủng không gian nơi đây, làm rách toang màn không khí bực tức, nàng nhoẻn miệng cười, rút kiếm lại, quay người nói lớn: - Còn không mau bước ra, đừng tưởng là ta không biết. Bản lĩnh của huynh cũng tệ quá đó, Dương Nhất Phàm. * * * Lại nói, sau bao khó khăn vì đường xa mệt nhọc, cuối cùng Tạ Vô Phong và Lệ Ân Đình cũng đến được đỉnh Phong Vân. Lệ Ân Đình từ nhỏ đã sống ở Hoàng Hoa, thảo nguyên không có gì ngoài gió và cát. Lần đầu được đến Trung Nguyên, nơi bạt ngàn rừng xanh, có núi cao, có cỏ hoa bát ngát, nàng hẳn nhiên là vô cùng thích thú, nhìn ngó nhìn nghiêng, chỗ nào cũng thật là lạ lẫm. Ngước mắt nhìn đỉnh Phong Vân từ tùng lâm bạt ngàn chạy dài xa tít, nàng nói: - Sư huynh, đỉnh núi này cao thật đó. Nếu leo được lên đó thì sẽ thế nào nhỉ? Tạ Vô Phong chỉ thoáng gật đầu, không mấy để tâm. Chàng dò xét xung quanh, chậm rãi nói: - Nơi đây rừng rậm âm u, chưa tới đâu đã thấy có chút rợn người, có vẻ như chúng ta đã đến đúng nơi cần đến rồi. Xem ra, phải tranh thủ trước lúc trời tối, vượt được tùng lâm vào đến sơn trang. Lệ Ân Đình hãy còn nuối tiếc lắm nhưng vẫn chăm chú lắng nghe, suy nghĩ rồi nói: - Sư phụ cũng đã chỉ huynh đường đi rồi mà. Hơn nữa, chúng ta có ngọc bội nhận thân. Cố nhân năm xưa sẽ không phải là kiểu vờ như không quen biết đó chứ. Huynh nói, có phải không? Thở dài lo lắng, Tạ Vô Phong nói với giọng ưu tư: - Cũng không hẳn, không có gì là tuyệt đối cả. Đã bao năm trôi qua, lòng người thay đổi. Hơn nữa, ta không biết được người ta muốn tìm có còn ở sơn trang hay không. Nói đến đây, Tạ Vô Phong bỗng im lặng, bước đi chậm rãi, tiến về phía tùng lâm trước mặt. Lệ Ân Đình ngạc nhiên, nói: - Sư huynh, kia.. kia là tùng lâm, đúng không? Sao âm u như mê cung vậy? Đường nào để đi vào được bên trong đây? Cũng giống như Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong cũng là lần đầu đến Trung Nguyên, lạ lẫm cũng là điều khó tránh. Trông qua khung cảnh trước mắt, chàng cũng đầy lo lắng, nhưng tâm lại tự trấn tĩnh, chàng ôn nhu nói: - Cứ đi rồi sẽ tới thôi. Muội theo ta là được. Một lát sau.. Mồ hôi trên trán nhễ nhại, Lệ Ân Đình tay xách hành lý, tay chống ngang hông, có vẻ rất mệt mỏi kèm theo gương mặt thất vọng, nàng thều thào nói: - Cứ đi rồi sẽ tới của huynh là đây hả, sư huynh? Chúng ta vòng đi vòng lại đúng mười lần rồi đó. Muội sắp mệt chết rồi đây. Tạ Vô Phong hoang mang, thật đúng là họ đã vòng tới vòng lui, dù có chọn bất kì con đường nào thì nơi kết thúc vẫn là nơi họ bắt đầu đi. Quay người dìu Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong tuy mệt nhưng vẫn ôn nhu với tiểu sư muội, giọng nhỏ nhẹ: - Được rồi, là lỗi của huynh. Muội ngồi xuống đây nghỉ một chút nha. Để huynh tranh thủ nghĩ xem làm thế nào để vào trong. Lệ Ân Đình mệt mỏi tựa vào một gốc tùng lâm gần đó, thể như muốn ngủ say luôn một giấc. Mắt nhắm nghiền, miệng lại nói không thôi: - Phải chi được một lần đứng trên đỉnh Phong Vân nhìn xuống đây, chắc là sẽ đẹp lắm. Tùng lâm rộng như vậy, cưỡi ngựa nửa ngày chắc mới tới được nơi, huống chi chúng ta lại đi bộ, biết lúc nào thì tới chứ. Sư huynh, hay là.. Ngắt ngang lời Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong hơi lớn tiếng khiến nàng bất giác giật mình. - Dừng! Sư muội, muội vừa nói gì? Vẫn chưa hết hoảng loạn, Lệ Ân Đình nhìn chăm chăm vào mắt chàng, nói lắp: - Muội.. muội nói là đỉnh Phong Vân đẹp.. đẹp như vậy, nếu.. nếu được thì chúng ta mua ngựa đi.. đi.. cho.. cho nhanh. Sư.. huynh, huynh sao vậy? Muội chỉ nói thế thôi chứ không.. Tạ Vô Phong hấp tấp: - Không phải câu đó. Là trước đó, câu phía trước ấy. Lệ Ân Đình vẫn tiếp tục nói lắp: - Là.. là nếu.. được đứng trên đỉnh Phong Vân nhìn xuống.. có lẽ.. có lẽ là.. Tạ Vô Phong bật cười sảng khoái, tay vỗ đùi, nói: - Hây da, có vậy là mà ta không nghĩ ra. Sư muội, cảm ơn muội. Lệ Ân Đình ngạc nhiên, hỏi: - Sư huynh, có phải.. có phải huynh đã nghĩ ra cách vào U Linh sơn trang? Gật đầu đắc toại, Tạ Vô Phong niềm nở nói: - Phải, ta đã tìm được rồi! Lệ Ân Đình mừng rỡ, nói: - Thật sao? Tốt quá rồi. Tạ Vô Phong gật đầu, nói: - Sư muội, trước đây lúc đưa cho ta sợi dây chuyền có miếng ngọc hình bán nguyệt này, sư phụ đã có nói: Tùng lâm dài năm dặm, Bán nguyệt ngặm Phong Vân, Khẩu sơn chín bước chân, Tự thân vào trang viện. Lúc đầu ta không hiểu cho lắm, giờ thì đã hiểu rồi. Cảm ơn muội, tất cả là nhờ câu nói của muội đó. Lệ Ân Đình ngu ngơ, kiểu không mấy hiểu, vừa ngẫm nghĩ vừa hỏi: - Sư huynh, nãy giờ muội có thấy câu nào là chỉ đường đâu? Bật cười lớn, Tạ Vô Phong búng trán Lệ Ân Đình, nói: - Muội đúng là ngốc. "Tùng lâm dài năm dặm" là chỉ nơi chốn. Nơi chúng ta đến chắc hẳn là đúng rồi. "Bán nguyệt ngặm Phong Vân" tức nói lối vào chính là theo hướng hình bán nguyệt ôm đỉnh Phong Vân. "Khẩu sơn chín bước chân" là từ đỉnh núi đi chín bước về phía khu rừng. "Tự thân vào trang viện" tức là nói chỉ cần làm đúng như vậy thì chúng ta có thể vào được U Linh sơn trang rồi. Lệ Ân Đình mừng rỡ, nói: - Thật vậy sao? Tốt quá rồi, sư huynh. Quả thật vậy, cuối cùng họ cũng đã từng bước tiến vào sâu bên trong tùng lâm mà không bị lạc trở về điểm ban đầu nữa. * * * Phía sau thân cây lớn, một nam nhân bước ra, tay cầm thanh kiếm trông cũng không mấy đặc biệt, chỉ là chuôi kiếm có treo một miếng ngọc hình bán nguyệt. Chu Linh lấy kiếm tra vào vỏ, trông qua chuôi kiếm của nàng cũng có miếng ngọc y như vậy. Hóa ra, phàm là đệ tử của sơn trang đều sẽ sở hữu vật này. Chàng là Dương Nhất Phàm, là đệ tử tâm đắc của Chu Đình Úy, cũng là người thầm mến mộ Chu Linh. Chàng mỉm cười nhìn Chu Linh, nàng "hừ" một tiếng rồi nói: - Huynh đứng đó xem ta luyện kiếm lâu rồi phải không? Sao lại không.. Lời chưa dứt bỗng nàng nghe thấy tiếng chuông cảnh báo truyền tới. Chu Linh quay sang nói với Dương Nhất Phàm: - Có người lạ đột nhập vào sơn trang, huynh mau đi báo với cha ta. Nhanh như cắt, Chu Linh khinh công bay về hướng tùng lâm năm dặm. * * * Bên ngoài dù có âm u thế nào nhưng khi đã vào được đến bên trong, tùng lâm này thật sự cũng quá đẹp đi, Tạ Vô Phong như được sống lại những ngày ở Hoàng Hoa, vừa có gió, vừa có mùi hương cỏ cây. Đang phấn khởi trong lòng, vừa đi vừa ngắm cảnh, Tạ Vô Phong bỗng khựng lại vì mũi kiếm xoẹt ngang, chàng bất ngờ nhưng đã nhanh trí dùng một tay tưng mũi kiếm, tay còn lại lập tức kéo Lệ Ân Đình về phía sau. Chu Linh trượt chiêu bay thẳng về trước rồi xoay người lại, thả người nhẹ nhàng từ từ chạm đất. Chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi, Tạ Vô Phong đã lặng người vì gương mặt quá ư là diễm lệ. Chàng từ nhỏ lớn lên ở thảo nguyên, thứ đẹp nhất mà chàng từng ngắm có lẽ là mặt trời lên xuống nơi đại mạc. Nhưng lần này, chàng được ngắm nhìn một thứ đắt giá hơn cả màu đỏ chu sa của chân trời Mông Cổ. Đó là nữ nhân Trung Thổ, đẹp đắm say! Đang mải đắm chìm trong nhan sắc mỹ miều đó, một mũi kiếm bất ngờ chĩa thẳng mặt Tạ Vô Phong làm chàng không kịp tránh né, tay nải đeo trên lưng bị rớt xuống, cổ áo lệch đi phân nửa để lộ sợi dây chuyền có miếng ngọc hình bán nguyệt. Lệ Ân Đình chạy vội tới đỡ Tạ Vô Phong: - Sư huynh, huynh có sao không? Chu Linh lớn tiếng, hỏi: - Các người là ai, sao lại dám xông vào U Linh sơn trang? Lệ Ân Đình đứng dậy, nói: - Chúng tôi không đến tìm cô, người chúng tôi muốn gặp là trang chủ của sơn trang, Chu Đình Úy. Chĩa mũi kiếm về phía Lệ Ân Đình, Chu Linh cười khẩy: - Ngươi nghĩ mình là ai mà lại dám đường hoàng gọi thẳng tên úy của trang chủ? Nói rồi, Chu Linh thu tay, vung thẳng đường kiếm, định đoạt mạng Lệ Ân Đình thì bỗng nhiên có một bàn tay từ đâu tới tưng nhẹ đầu kiếm, chỉ một lực nhỏ cũng đủ làm toàn thân kiếm bật ngược về sau, cắm phập vào gốc tùng gần đó, đủ thấy nội lực hẳn phải cực kì thâm hậu. Người mới đến không ai khác, chính là Chu Đình Úy. Không nói với Chu Linh câu nào, ông quay sang nhìn Tạ Vô Phong, một phút thoáng giật mình vì cảm giác quen thuộc bất giác xuất hiện trong tâm trí. Chu Đình Úy ôn tồn hỏi: - Thiếu hiệp tìm trang chủ là có chuyện gì? U Linh sơn trang không phải nơi muốn vào thì có thể vào. Thứ lỗi, nơi đây không tiếp người của võ lâm, hôm nay ta bỏ qua, không tính toán với hai vị. Mời đi cho! Định xoay mặt quay đi nhưng tia nắng xuyên từ tán cây tùng lâm làm sáng lên ánh ngọc trên sợi dây chuyền ở cổ áo vừa bị lệch ra. Chu Đình Úy giật mình quay lại, nhìn thật kỹ miếng ngọc lần nữa, hỏi gấp: - Ngươi là ai? Sao lại có Bán Nguyệt bích? Cả Chu Linh lẫn Lệ Ân Đình đều không mấy hiểu chuyện gì đang diễn ra. Tạ Vô Phong lồm cồm bò dậy, chùi lấy vết máu còn vương trên miệng, tay thò vào cổ áo, tháo sợi dây chuyền xuống, đưa ra trước mặt Chu Đình Úy: - Ta muốn gặp trang chủ của U Linh sơn trang. Chân mày nhíu lại, ánh mắt trông đợi mang chút gì đó khắc khoải, ông nói rõ từng chữ một: - Ta chính là trang chủ của U Linh sơn trang, Chu Đình Úy. Ngươi đây là? Không chút sợ hãi hay lo lắng, Tạ Vô Phong tay giữ chặt ngọc bội, tay bấu chặt tay, nói rõ ràng: - Ta tên.. Trương Hàng Phong! Một tiếng "đùng" nổ ra trong đầu Chu Đình Úy, nhất thời mất hẳn nhịp tim, tay ông run rẩy, chân không bước nổi, miệng mấp máy mãi chẳng thành lời, cuối cùng cũng nói được vài chữ: - Phong nhi! Là con sao? * * * Vầng trăng thảo nguyên sáng rực soi bóng Yên Vũ xuống thảm cỏ, tiếng gió vi vu hòa lời ca suối thác, không gian Hoàng Hoa đầy lãng mạn mỗi khi đêm về. Ánh trăng ngày rằm giữa thảo nguyên bao la rộng lớn hệt như lòng đỏ trứng yên giấc mộng dưới lớp vỏ bảo vệ. Thiên nhiên ưu ái đem tặng cho Hoàng Hoa mỹ cảnh như một bức họa tuyệt vời giữa rừng xanh núi bạc. Những tháng ngày sống tại thảo nguyên là chuỗi kí ức đẹp mà suốt đời Tạ Vô Phong không bao giờ muốn quên.. Suối thác vẫn nghiêng mình bên vách đá, U Linh sơn trang mang cả thiên nhiên kì vĩ bên ngoài tạc vào đó tạo thành một song sinh tinh tế, phải nói là tuyệt đẹp. Tạ Vô Phong đứng ở cạnh cửa, mắt hướng ra ngoài nhìn theo dòng nước đang chảy. Chàng lắng lòng cảm nhận, buộc miệng nói: - Trung Nguyên thật lạ lẫm, cũng thật cô liêu. Sư phụ, sao người nói ở đây rất vui. Có phải vì lần này con đến không đúng lúc không.. Nói rồi, chàng tựa đầu vào cạnh cửa, thở dài im lặng. Chàng không ngờ được, tất cả động thái đó đã lọt vào mắt Chu Linh. Không chịu được nỗi bực tức lúc ở tùng lâm, nàng bước lại gần nơi Tạ Vô Phong đang đứng, đoán là chàng sẽ khó nghe được tiếng mình nên cố tình nói lớn, giọng đầy thách thức: - Chim sẻ nên chọn cành cao. Cá nên dưới nước.. Lời Chu Linh chưa kịp dứt thì Lệ Ân Đình đã chen ngang vì tức: - Cô nói ai đấy? Tạ Vô Phong hướng mắt về phía Lệ Ân Đình phì cười, nói: - Chu cô nương đang tức cảnh làm vài câu thơ, muội xen vào thật không đúng lúc chút nào. Chu Linh định trả lời nhưng đã bị Lệ Ân Đình ngắt ngang: - Đúng vậy, ta thô thiển từ nhỏ nhưng lại không như ai đó, có ăn học mà miệng mồm không như chó mọc ngà voi. Chu Linh bật cười, nói: - Cái gì? Cô vừa nói gì? Miệng mồm không như chó mọc ngà voi? Hahaha, cười chết ta rồi. Ta nói cô biết, thành ngữ Trung Nguyên không phải nói như thế đâu, đã không biết lại còn cố thể hiện. Là miệng chó không mọc được ngà voi. Hahaha! Lệ Ân Đình cười lớn, nói: - Ê này, là do cô tự mình nói đấy nhé, không phải tôi nói đâu à. Chu Linh bực tức, bỏ đi một mạch. Lệ Ân Đình bước lại chỗ Tạ Vô Phong, nói: - Đúng là đáng ghét mà. Sư huynh, huynh nói xem, cô ta xinh đẹp như thế sao tính tình lại khó ưa quá vậy? Tạ Vô Phong mỉm cười, hỏi lại: - Muội thấy cô ấy xinh đẹp lắm sao? Lệ Ân Đình ngây người, vô tư nói: - Muội đúng là không ưa cô ta cho mấy nhưng phải thừa nhận một điều rằng cô ta thật sự rất xinh đẹp. Chẳng lẽ huynh thấy cô ấy không xinh đẹp sao? Tạ Vô Phong lắc đầu: - Không phải! Chỉ một câu "Không phải" kèm nụ cười nhạt và không nói thêm gì nữa. Từ lúc rời Hoàng Hoa, thái độ Tạ Vô Phong đã như thế này, thoạt đầu nàng không quen lắm nhưng dần dà cũng không lấy làm lạ. Người phải trải qua một biến cố lớn, vừa mất đi người thân, giờ lại còn gánh trên vai mối thù sâu như biển, muốn an nhiên cũng khó. Lệ Ân Đình im lặng ngồi cạnh Tạ Vô Phong, hai bóng người một cao một thấp, một mạnh mẽ, một dịu dàng, yên lặng qua đêm.. Buổi sáng đẹp dưới vầng quang nắng nhạt, Chu Đình Uý đích thân đến phòng Tạ Vô Phong, cùng chàng tâm sự. - Phong nhi, bao năm qua con sống thế nào? Có tốt không? Có vui vẻ không? Tạ Vô Phong cười nhạt, nói: - Tốt? Thế nào gọi là tốt? Vui? Thế nào mới là vui? Đoạn thở dài, nói: - Mười bảy năm qua, sư phụ đã nuôi nấng ta như con ruột. Yêu thương, dạy dỗ.. Nhắc đến Tạ Sâm, Chu Đình Uý hỏi: - À phải, sao Tạ tổng quản không tới cùng con? Tạ Vô Phong trả lời trong uất nghẹn: - Tới? Người làm sao tới được? Vĩnh viễn cũng sẽ không tới được. Chu Đình Uý ngờ ngợ, hỏi lại: - Lẽ nào.. Tạ tổng quản đã.. Tạ Vô Phong giọng buồn mang chút căm phẫn, nói: - Một tháng trước, có một nhóm người tới gặp sư phụ đòi ngọc Kỳ Lân.. Chu Đình Uý nghĩ thầm: "Không lẽ là Trần Lăng?", rồi đặt tay lên vai chàng, an ủi: - Được rồi Phong nhi, tháng ngày đó đã qua rồi. Sau này, thúc thúc sẽ bảo vệ cho con, chăm sóc cho con. Tạ Vô Phong nghe thấy liền hỏi lại: - Thúc thúc? Chu Đình Uý gật đầu, mắt ươn ướt lệ, nói: - Phải! Sau này, U Linh sơn trang sẽ là nhà của con, ta và Linh nhi chính là người thân của con. Phong nhi, hối hận lớn nhất cuộc đời của ta chính là đã không thể cứu đại ca và đại tẩu. Con là giọt máu còn sót lại của huynh ấy, ta đã từng thề trước vong linh của đại ca sẽ bảo vệ con chu toàn. Tạ Vô Phong ngượng nghịu ôm lấy Chu Đình Uý, nhưng chỉ một khắc sau đã liền giọt ngắn giọt dài, bao nhiêu uất hận suốt mười bảy năm qua cứ thế mà trút ra hết thảy. Chàng cuối cùng cũng đã thật sự được về nhà. Những tháng ngày sau đó, chàng cùng Lệ Ân Đình ở lại sơn trang, sáng luyện võ chiều học chữ, tối ôn bài, êm đềm cứ thế qua một năm. * * * Trong phòng khách của sơn trang, một ly trà rót vội hãy còn nghi ngút khói, thiếu niên bạch y hai tay kính cẩn dâng cho người trước mặt. - Chu thúc thúc, người gọi con. Chu Đình Uý mỉm cười đôn hậu nhìn Tạ Vô Phong hồi lâu rồi nói: - Phong nhi, một năm qua ta đã dạy cho con tất cả kiếm pháp của ta và cha con. Cũng đã đến lúc con phải thay chúng ta tìm ra sự thật của thảm án năm xưa. Bẵng đi một năm không hỏi han tới, nay đột nhiên nhắc lại, kí ức xưa vẫn khiến tim chàng đau nhói, Tạ Vô Phong bắt đầu cảm thấy khó thở, cổ họng nghẹn lại, khó chịu không thôi. Chu Đình Uý mỉm cười nhìn chàng, nghiêm túc nói: - Con theo ta vào đây! Mở cửa mật thất, Chu Đình Uý giữ chặt chiếc hộp trong tay, bịn rịn hồi lâu như lưu luyến tình huynh đệ giữa ông và chủ nhân của nó, sau thì dứt khoát đưa cho Tạ Vô Phong, nói: - Trước đây nó là của cha con, giờ ta giao lại cho con. Tạ Vô Phong hờ hững nhìn chiếc hộp, cũng chẳng thèm mở nắp, tay nhận lấy, nhíu nhẹ hàng chân mày hỏi: - Ngọc Kỳ Lân? Chu Đình Úy gật đầu, Tạ Vô Phong lúc này mới chậm tay mở nắp hộp, thứ đồ bên trong thật biết cách thôi thúc ham muốn của người khác, phát ra thứ ánh sáng nhàn nhạt nhưng lại vô cùng chói lóa. Chàng lấy tay chắn ngang tầm mắt, cười khẩy rồi nói: "Thứ ánh sáng chết người..". Sau khi từ biệt Chu Đình Úy, Tạ Vô Phong cùng Lệ Ân Đình mỗi người một ngựa, tiến thẳng Đại Đô. Tối đến, họ ghé vào khách điếm nghỉ ngơi, đây là khách điếm thứ bao nhiêu không biết mà nếu không phải vì lo lắng cho Lệ Ân Đình đường xa mệt nhọc thì Tạ Vô Phong cũng sẽ không nghỉ lại. Thật ra, thứ chàng bận tâm nhất bây giờ chính là ngọc Kỳ Lân, ánh sáng của nó khác hẳn với những miếng ngọc thông thường, nếu có ai đó biết được, chàng và sư muội sẽ khó tránh khỏi hiểm nguy. * * * Dương Nhất Phàm tuy là đệ tử tâm đắc nhất của Chu Đình Úy nhưng vì thích Chu Linh nên mọi động tĩnh của nàng đều được chàng nắm trong lòng bàn tay, rõ ràng hơn cả chiêu thức võ công được truyền dạy. Nhưng chỉ mới sáng nay vẫn còn gặp mặt, trời vừa chiều đã thấy chàng vừa chạy vừa thở, tiến thẳng vào thư phòng của Chu Đình Úy, gấp gáp tới độ gõ cửa cũng chưa kịp gõ. Không kịp quỳ bái, Dương Nhất Phàm nhẹ nhõm vì thấy Chu Đình Úy có ở thư phòng, liền ôm quyền nói: - Sư phụ, không thấy.. không thấy tiểu sư muội đâu cả. Chu Đình Úy nhíu mày, đặt nhẹ quyển sách lên bàn.. * * * Lại nói đến Tạ Vô Phong, từ lúc ghé lại khách điếm đến giờ, chút bản lĩnh rèn dũa được lúc còn sống ở Mông Cổ nói cho chàng biết, có ai đó đã theo chân chàng và sư muội, ít nhất cũng từ trưa hôm nay. Đó cũng là một phần lý do chàng chọn khách điếm này dừng chân, vì nếu cứ tiếp tục đi, không biết chừng lại rơi vào bẫy do hắn bày ra. Không thể tiếp tục để bản thân rơi vào thế bị động, chàng liền trực tiếp nghĩ cách đem bản thân làm mồi dụ địch.. Giữa bóng đêm tịch mịch, bóng hắc y nhân thoắt ẩn thoắt hiện, Tạ Vô Phong đi trước một đoạn rồi đột ngột dừng lại, quay đầu hỏi: - Các hạ theo ta lâu như vậy là có điều gì muốn hỏi hay có thứ gì muốn lấy sao? Hắc y nhân không nói gì, theo đó rút khí giới, là một sợi roi dài quấn gọn chỗ hông. Màn đêm nuôi lớn du mục, roi da tiếp xúc cũng hơi nhiều, Tạ Vô Phong đoán chừng trận đấu này lợi thế phần mình nhiều hơn nên cũng có chút hăng chiến, cứ thế mà trực tiếp xông lên. Tên hắc y nhẹ nhàng lách người sang hữu né đường kiếm, đoạn vòng người dùng roi giữ chặt cán kiếm, vận chút lực giật mạnh thanh kiếm trong tay Tạ Vô Phong. Chàng luống cuống biết bản thân đã khinh địch, bèn lấy lại tâm bình, ra chiêu. Sợi roi bay đủ hướng, Tạ Vô Phong vốn chưa kịp định hình nó ở đâu thì đã bị đánh trúng từ sau rồi khắp người đều trúng. Hắc y nhân nhanh chóng kết thúc trận đấu bằng một chiêu, gọn gẽ trói Tạ Vô Phong trong chiếc roi da rồi kéo đi. Tạ Vô Phong lớn tiếng: - Nè, thả ta ra. Ngươi là ai? Mau thả ta ra! Gọi khô họng nhưng không nhận được câu trả lời, Tạ Vô Phong tức giận ghì người ngồi bệt xuống, nói: - Ta mệt rồi. Không đi nữa. Hắc y nhân chẳng thèm nhìn chàng, vừa ghì chặt roi vào tay vừa kéo lê chàng trên đất. Đoạn, hắn cũng mệt, ngồi bệt xuống, thở hổn hển. Tạ Vô Phong thấy ổn, bèn hỏi: - Ai sai ngươi tới đây? Sao lại muốn lấy mạng ta? Hắc y nhân vẫn im lặng không nói, Tạ Vô Phong tức giận, quát: - Ngươi bị câm hả? Sao không trả lời ta? Hắc y nhân quay sang nhìn chàng đăm đăm, giây phút đó chàng đã thoáng giật mình vì đôi mắt kia thật sự rất đẹp, nó long lanh màu nước, tròn xoe với cặp mi dài cong vút. Tạ Vô Phong chớp chớp mắt, ngại ngùng quay mặt đi tránh né. Lúc này, hắc y nhân mới tháo bỏ che mặt và trùm đầu, quát lại: - Ngươi nói ai câm? Nếu không phải ta mà là một ai khác thì ngươi đã đi chầu diêm vương rồi, biết không hả? Khóe môi hơi giật, Tạ Vô Phong ngạc nhiên, cười hỏi: - Chu Linh? Sao lại là cô?
Chương 4: Thiếu tướng quân Bấm để xem Giáp bào ngựa chiến chí sa trường, loạn lạc Gấm thêu phục mỏng vọng no ấm, bình yên Ban sư hồi triều, lệnh từ triều đình triệu hồi mấy trăm vạn binh lính. Lần này dẫn quân, tuy tuổi còn trẻ nhưng vẫn như thường lệ, Tống Thanh Dực trở về trong khải hoàn, bá tánh Đại Đô vô cùng hoan hỉ, bằng chứng là họ đã bỏ cả buổi sáng đứng đợi chỉ để chiêm ngưỡng phong khí ngút trời của thiếu tướng quân nhà quốc công. Tống Thanh Dực là đích tử của Tống Trích Tư, người giữ chức vị quốc công đương triều, được xem như thân tín bên cạnh Nghinh Thành Đế, công danh hiển hách, có được đặc ân bất lệ, đó là được phép mang khí giới vào Kim Loan Điện. Phải biết, điều này chưa từng xảy ra trong lịch sử Nguyên triều. Nguyên cớ của đặc ân này phải nhắc lại năm Nghinh Thành Bác đăng cơ, Kim Loan Điện đã xảy ra một vụ thích sát bất thành, mà người khiến đám sát thủ kia thất bại đó chính là Tống Trích Tư. Ông đã dùng thân mình chắn mũi gươm của thích khách, cứu giá trong sát na. Từ lần đó, Nghinh Thành Bác đã ban cho Tống Trích Tư đặc ân này, quần thần không ai dám có ý kiến vì lúc sự việc xảy ra, cả đám bọn họ trốn như rùa rụt cổ, giờ chẳng lẽ lại tự tát mặt mình, nên đành im lặng cho qua. Phủ quốc công. - Phụ thân, con đã về! Tống Trích Tư đang chăm chú vào con chim mới nuôi, nhìn cũng có chút tay nghề. Ậm ừ vài tiếng xem như đã nghe thấy rồi hất tay cho lui. Tống Thanh Dực rời đi ngay sau đó, chàng chẳng lạ gì thái độ của phụ thân. Từ nhỏ, ông đối với chàng đã rất nghiêm khắc, yêu cầu vô cùng cao, chính là kiểu trực tiếp thay chàng nhận lệnh dẫn binh lúc chàng chỉ mới mười lăm tuổi, chính là thanh thiên bạch nhật mắng chàng trước mặt hàng ngàn binh sĩ, chẳng cho chàng chút thể diện nào, chính là thẳng tay đánh chàng bằng roi gai, rồi nhốt vào nhà củi, trông chẳng chút xót xa. Nhưng ông vẫn là cha chàng, là người lén gửi bồ câu hỏi thăm tình hình chiến sự, đưa ra lời khuyên, tham mưu chiến lược, chính là người bênh vực sau lưng, hết lời khen ngợi chàng trong những lần diễn binh, cũng là người mỗi tối lén chạy tới nhà củi thoa thuốc cho chàng. Ông chính là nghiêm khắc nhưng quan tâm như thế, mới có chàng của hôm nay. A Lan nhẹ nhàng vén phần đuôi tóc cho Cao Lâm Mạn, mỉm cười nói: - Phu nhân, hôm nay trông người hồng hào sắc diện. Có phải là bởi vì biết tin thiếu gia ban sư hồi triều nên tâm trạng cũng theo đó mà vui vẻ hay không? Vị phu nhân ấy là chính thất của Tống Trích Tư, con gái của tiền ngự sử, địa vị cao quý vô cùng. Tống Trích Tư yêu thương nhất là tiểu thiếp cưới về sau này, nhưng chức vị ngự sử cao như vậy, đại phu nhân dĩ nhiên được nể trọng hơn bội phần. Hơn nữa, trong hết thảy ba người vợ cả chính lẫn thiếp, duy chỉ có Cao Lâm Mạn là sinh được cho ông một đích tử hẳn hoi, tuy nói là được yêu thương vì "nối dõi" nhưng đó chỉ là một phần nhỏ lý do, cốt lõi là vì Tống Thanh Dực thật sự quá xuất chúng, hệt như bản sao của chính ông. Tống Thanh Dực bước vào phòng, nhanh chân đi về phía Cao Lâm Mạn, ôm quyền khấu đầu: - Mẫu thân! Hài nhi xin thỉnh an mẹ. Tiếng Tống Thanh Dực thanh vang, trong trẻo như sưởi ấm cõi lòng lạnh giá bao ngày không cận kề phu quân của Cao Lâm Mạn, bà mỉm cười nhìn chàng ôn nhu, nói: - Dực nhi, mau, lại gần đây cho mẫu thân xem nào. Con ốm đi rồi phải không? Cao Lâm Mạn là ái nữ duy nhất của Cao Lâm Bái, tiền ngự sử Nguyên triều, công trạng không nhiều nhưng đều hiển hách, tuy tuổi đã xế chiều nhưng người ra vào thăm nom, hỏi han không ít. Năm nào đến dịp sinh thần hay lễ lộc, quà cáp, bạc vàng, kì trân, dị bảo cũng nhiều không đếm xuể. Không ít người nói rằng, địa vị hiện giờ mà Tống Trích Tư có được là nhờ cả vào nhà vợ, nói thế há lại chẳng phải động đến lòng tự ái của kẻ cầm quân. Có điều, rước được người vợ xinh đẹp, hiểu chuyện, lễ nghĩa như Cao Lâm Mạn thật cũng chẳng biết kiếp trước Tống Trích Tư tu đức nhiều ra sao. Từ lúc lấy nhau, nàng ta một câu cũng phu quân, hai câu cũng phu quân, đúng kiểu "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu", lần đó rời nhà đi lấy chồng liền đem họ Cao chuyển hẳn thành họ Tống. Người làm cha như Cao Lâm Bái chỉ có nước thở dài chua xót, ra sức bồi tụ con rể, hòng mong một cuộc đời an nhiên cho con gái và cháu ngoại. Địa vị và quyền lợi hiện có của hai mẹ con cũng coi như là Tống Trích Tư đang nể mặt người nhạc phụ kia. Tống Thanh Dực nếu không nói là bản sao của Tống Trích Tư thì hẳn phải là huynh đệ ruột rà. Y cao ráo, thong thái, mày thanh mi dày, đẹp nhất là đôi mắt. Thanh tú thế này làm sao đánh giặc được, ấy thế mà mỗi lần điều binh, khiển tướng là điệu bộ oai phong không tả xiết. Kẻ dịu dàng, ôn nhu, lễ nghĩa, gọi là tài tử, kẻ cương trực, đoan chính, nhân nghĩa, gọi là quân tử, còn kẻ ít nói, từ tốn, dũng mãnh như chàng thì gọi là nhân khí. Là nhân khí quốc gia, Tống Thanh Dực thuộc lớp nhân sinh mới của Nguyên triều, nằm trong hàng ngũ những đối tượng phối hôn của công chúa, quận chúa. Tống Thanh Dực nhìn ngắm Cao Lâm Mạn hồi lâu rồi ôn nhu nói: - Mẫu thân, Dực nhi xa nhà đã lâu, lòng nhớ mẫu thân khôn xiết. Chiến trường gươm đao loạn lạc, nghĩ tới mẫu thân mà lòng con lo lắng không yên. Nay trở về, tự thấy mình đã nghĩ chuyện không đâu. Mẫu thân vẫn trẻ, lại còn càng ngày càng xinh đẹp. Cao Lâm Mạn phì cười, ngước nhìn A Lan, nói: - Nhũ nương, người xem. Chiến trường đao gươm loạn lạc mà miệng lưỡi nó thì cứ ngọt như mật. Con học từ đâu ra thế? Tống Thanh Dực đặt bảo kiếm cạnh chân mình, hai tay vòng qua ôm lấy Cao Lâm Mạn, điệu bộ như thể nhớ nhung vô cùng. Chiến trường là nơi không bàn tình nghĩa, bảo kiếm kia chưa từng rời chàng một khắc, bao năm đã quen nên đi đâu chàng cũng mang theo. Có điều, công trạng hiện chưa đủ để chàng có được đặc ân vinh sủng như cha chàng. Cao Lâm Mạn cười rồi kéo chàng ra khỏi người mình, nói: - Lần này khải hoàn, cha con đã cho người chuẩn bị tiệc rượu thiết khách, con mau ra đó xem qua một chút. Đừng để ông ấy mất mặt đó. Lại nữa rồi, Tống Thanh Dực luôn tự thấy mình bị bỏ rơi mỗi lần có chuyện gì đó liên quan đến cha chàng. Không hổ là đại phu nhân của quốc công đương triều, kiểu người này nếu có ai muốn đẩy bà ta khỏi vị trí đó thì chỉ có thể nói là kẻ bạc tình, vô nghĩa. Tống Thanh Dực vốn chẳng muốn đi, giờ này nơi chàng nên đến đúng ra là Lý phủ chứ không phải ở đây nhưng đành chịu, chàng tự nghĩ cứ xem như là phép tắc phải có. Lửng thửng đi ra chỗ bày tiệc, chàng nhìn khắp một lượt rồi gượng gạo mà gật đầu cho có, họ đều là họ hàng xa của chàng đây mà, xa tới nỗi người như mẹ chàng còn chẳng nhớ có bà con với họ từ lúc nào. Thân tín bên cạnh Tống Trích Tư bước lại gần chàng, nói: - Thiếu tướng quân, quốc công nói ngài không cần ra đó. "Loạn rồi, loạn rồi! Thật sự không cần ra sao? Cha chàng không cần mặt mũi nữa à?" Ngờ vực hỏi lại, Tống Thanh Dực vẫn còn nét kinh ngạc vương trên ngũ quan: - Không phải qua đó? Có thật không vậy, Tiết hộ vệ? Tiết Minh gật đầu thay cho câu trả lời. Tống Thanh Dực quay người bỏ đi thật nhanh, chỉ hận bản thân không phải thỏ, có thể vương chân, búng thân mà chuồng cho lẹ. Lý phủ. Lý viên ngoại có một biệt phủ phải nói là phong cảnh hữu tình, có một không hai ở Đại Đô. Gia nhân ra vào cũng nhiều, ngoi lên thụp xuống cả chục lần rồi vẫn chưa tìm được thời cơ thích hợp để trèo vào. Từ nhỏ, Tống Thanh Dực đã không quen đi cửa lớn, đối với riêng Lý phủ thì lại cứ thích trèo tường mà qua. Thuở ấy, mấy lần gia nhân không biết còn tưởng chàng là tên trộm mà đánh cho thừa sống thiếu chết, ngẫm cũng thấy vui, tuổi trẻ đúng là tuổi trẻ. Trông qua sân vườn lúc này không có ai, chàng định leo lên rồi đi qua nơi muốn đi, ai mà ngờ thiếu tướng quân nhà quốc công lại bị bắt ngay tại trận, hết đường chối cãi: - Sáu ngàn hai trăm lẻ sáu lần, ta nói này Tống Thanh Dực, cửa lớn Lý phủ nhỏ đến thế sao? Lần nào huynh cũng phải trèo tường vào thì mới đặng? Tống Thanh Dực cười lớn, phủi phủi y phục qua loa có lệ, rồi chọn chỗ mái ngói ngang ngang mà ngồi xuống, thở ra nói: - Thế chẳng phải lần nào huynh cũng đến đón ta đó sao? Lý đại thiếu gia gần đây lại có được thêm món gì thú vị mà ở lì trong phủ vậy? Lý viên ngoại, người không làm quan giàu có nhất Đại Đô, Lý Phúc Đức. Nghe tên là thấy phúc đức đầy nhà rồi, con trai đầu tên Lý Kiên, con trai thứ tên Lý Dũng, ái nữ duy nhất tên Lý Tiên. Mỗi người đều được trời ban cho cái nét đúng như tên gọi. Lý Kiên bắt chân vắt vẻo, trả lời trống không: - Bách Lý Đồ? Nghe thú vị không? Bách Lý Đồ tương truyền là bản đồ cất giấu kho báu của tiền triều, chỉ có điều hễ ai có được nó đều mang họa sát thân. Mười năm trước đã từng bặt tin một lần, hôm nay đột nhiên lại xuất hiện. Tống Thanh Dực trầm ngâm lúc lâu, lắc đầu nói: - Không hứng thú. Nhưng mà, ta nghe lời đồn về nó không ít, cũng không thể không phòng. Huynh nói xem, Lý phủ có bao nhiêu là bảo vật huynh không chơi lại đi vấy vào cái thứ nguy hiểm đó. Lý Kiên tặc lưỡi nói: - Còn không phải là vì huynh sao? Thiếu tướng quân cũng hẹp hòi với ta quá rồi. Chúng ta thân thiết bao năm, vậy mà huynh lại không chịu giúp ta. Tống Thanh Dực phì cười, hỏi: - Gì hả? Huynh vẫn còn chấp niệm với bức phù điêu đó sao? Mười năm trước, vào thời điểm Bách Lý Đồ là vật thu hút toàn võ lâm, gây nên bao ân oán kéo dài tới hôm nay, biệt phủ Tống Trích Tư có một mật thất chứa những bảo vật hiếm có trong thiên hạ. Tiểu thiếu gia của phủ quốc công lại là đứa trẻ hay tò mò, thích khám phá mọi thứ. Trong một lần tình cờ cậu đã lẻn vào mật thất, rồi chẳng hay chẳng biết lại lọt vào một căn hầm bí mật phía trong mật thất đó. Nơi đây, bỏ qua bốn bức tường nhỏ hẹp, cũ kĩ thì chẳng có thứ gì đáng giá ngoài bức phù điêu được đúc bằng vàng với hoa văn vô cùng tinh xảo. Về sau, trong lúc trò chuyện với Lý Kiên, người huynh đệ từng cùng chàng quỳ gối mỗi lần cha trách phạt, từng cùng chàng chịu đánh, bị nhốt, chàng đã vui miệng mà tiết lộ việc này. Từ đó tới nay, Lý Kiên luôn mang chấp niệm có bằng được bức phù điêu ấy, nhưng mặc nhiên không thể hỏi thẳng, vì như thế chẳng khác nào thay mặt Tống Thanh Dực mà "lạy ông tôi ở bụi này" nên đành thôi, thế mà lại ôm ấm ức đến tận giờ này. Nghe Tống Thanh Dực nói thế, cõi lòng Lý Kiên lạnh lẽo thêm, y nói: - Đó không phải là chấp niệm, mà là chân ái, huynh hiểu không? Thôi bỏ đi, huynh chắc chắn không hiểu được đâu. Tống Thanh Dực ngửa đầu cười khoái chí, hồi lâu thì nói: - Chuyện gì ta cũng có thể giúp huynh, duy chỉ có việc này là không được. Lý Kiên lãnh cảm buông một câu: - Thế thì chẳng còn gì để nói nữa. Không khí chùng xuống một lúc, Lý Kiên giả ho vài tiếng, hỏi thăm: - Lần này về kinh, bao lâu sẽ lại đi? Hỏi là "lại đi" thì quá đúng thời hợp thế, không trận nhỏ thì chiến lớn, chẳng biết thế nào mà lại liên miên không dứt, từ mười năm trở lại đây. Năm nay Lý Kiên hai mươi hai tuổi, hơn một vài tháng so với Tống Thanh Dực nhưng cũng tính là cùng tuổi, thế mà chẳng thể có được vinh quang chói lọi như vậy, y tự thấy mình thua, chỉ là chưa bao giờ nói ra, nhưng trong lòng thì phục rồi. Năm đó, y mười lăm tuổi, Tống Thanh Dực cũng mười lăm tuổi. Vì cha là quốc công nên cứ cho rằng nhờ đó mà Tống Thanh Dực được dẫn quân, mà y thì lại bị cha ngăn cấm, muốn đầu quân cũng không được, đành lỡ cơ hội làm người hùng trong chiến loạn. Tống Thanh Dực thở dài một hơi, nói: - Tạm thời vẫn chưa có lệnh gì. Nhưng chắc cũng không lâu. Trên đời ai cũng hy vọng có được cuộc sống an nhiên, yên bình. Có người nào lại muốn suốt ngày cầm quân đánh trận, máu nhuộm chiến bào, từ ly chiến hữu. Chỉ là lỡ sinh ra trong thời loạn, tự thân nam nhi phải mang chí sa trường. Tống Thanh Dực tự thấy hãnh diện về mình lắm, ở cái tuổi hai mươi hai đầy rực rỡ, chàng đã tô cho mình màu sắc đẹp đẽ nhất của thế gian, màu đỏ chu sa. Phủ quốc công. Tống Thanh Dực ôm quyền, cúi đầu, hỏi: - Phụ thân! Bữa tiệc kết thúc rồi ạ? Tống Trích Tư mắt nhìn vào binh thư, miệng "ừ" một tiếng, lạnh hơn cả khối băng. Thấy chàng mãi không đi, ông mới ngước mắt lên, hờ hững hỏi: - Còn việc gì sao? Những lần trước lúc chàng khải hoàn trở về, yến tiệc không lần nào được vắng mặt, đó là lệnh từ cha chàng. Thế nên lần này, đúng là có vắt nát óc chàng cũng vẫn chẳng thể nghĩ ra lý do. Tống Trích Tư hiểu ý, liền hắng một tiếng, nói: - Họ đến đâu phải chúc mừng con thắng trận, hà cớ gì ở lại làm chi. Im lặng hồi lâu, ông lại hỏi: - Lại đến gặp Lý Kiên à? Tống Thanh Dực gật đầu một cái rồi rời đi ngay sau đó. Trước nay, cha chàng là người trầm mặc, không thích nói nhiều, chàng cũng không khác ông là mấy, lúc về phòng thấy trời đã sập tối nên cũng không tiện ghé thăm mẫu thân. Buổi sáng trời đẹp, chàng chỉnh y xong liền đến vấn an bà. Hai người dùng bữa sáng rồi cùng thưởng trà, lúc này Cao Lâm Mạn mới nhẹ giọng hỏi: - Con thấy Triều Dương quận chúa thế nào? Lâu rồi không gặp con bé, hẳn là càng lớn càng xinh đẹp. Hồi bé, Triều Dương hay đến nhà mình chơi, con còn nhớ không? Tống Thanh Dực ngờ ngợ, đôi mắt đăm chiêu rồi như ngẫm ra được điều gì đó không đúng, chàng liền buông nhanh ly trà, cười cười hỏi: - Mẫu thân, sao tự dưng người lại nhắc đến quận chúa vậy? Cao Lâm Mạn mỉm cười, chậm rãi nói: - Triều Dương quận chúa vừa xinh đẹp vừa thuỳ mị, nết na, kiến thức thông tuệ lại hiểu lòng người. Mẫu thân rất ưng. Tống Thanh Dực lại lần nữa dần hiểu ra cơ sự, liền lảng tránh, nói: - Mẫu thân người xem, món chè hạt sen này vẫn ngon như vậy. Năm tháng có qua đi, tay nghề của mẫu thân vẫn không hề suy giảm. Ngon vô cùng! A Lan đứng cạnh cười khúc khích, nói: - Thiếu gia, chè đó là do nhũ nương nấu. Hôm nay, phu nhân bận làm bánh hoa quế cho ngài nên ta đã nấu thay. Tống Thanh Dực đành ngậm bồ hòn làm vui. Chàng im lặng không nói, ngoan ngoãn lắng nghe. Cao Lâm Mạn phì cười, hỏi lại: - Con đã có ý trung nhân chưa? Từ năm mười lăm tuổi, thứ Tống Thanh Dực biết đến là gươm, giáo, chiến trường loạn lạc, người chàng thân nhất là binh lính nơi quân trướng, là kẻ địch không đội trời chung, chẳng mấy khi tiếp xúc với nữ nhi. Ngoại trừ Lý Tiên của Lý phủ thì nhắc đến cũng chỉ có Chiêu Tâm Đan, nàng y nữ của Dược Tâm Đường. Nghĩ tới hai người họ thì chàng lại thấy vui, muốn nhanh chóng đến đó gặp mặt, liền mỉm cười nói: - Con vẫn chưa gặp được người trong mộng, khi nào có con sẽ nói với người. Mẫu thân, con ra ngoài một lát, cảm ơn chè của nhũ nương. Con đi đây! Dứt lời, chàng phóng như bay lên Hắc Cẩu, nhanh chóng đi mất, chỉ còn tiếng vó ngựa vọng lại.. Cao Lâm Mạn phì cười, nói với A Lan: - Nhũ nương, bà nói xem thằng bé có hợp với Triều Dương không? A Lan mỉm cười, nói: - Thiếu gia xét về dung mạo và cả tài năng đều xuất chúng, trung nghĩa lại hiếu thảo. Còn quận chúa thì xinh đẹp, hiền ngoan, thùy mị, hiểu biết. Tất nhiên là hợp, rất hợp, thưa phu nhân. Cao Lâm Mạn gật đầu cười hiền, sau thì bảo A Lan sắp xếp ngày thích hợp sang bên đó mời quận chúa tới phủ làm khách. Xem ra lần này, thiếu tướng quân có mọc cánh cũng không thoát được. Lý phủ. Lý gia có một cô con gái cực kì xinh đẹp, đôi mắt sáng như sao, da trắng như tuyết, má hồng môi đỏ, phải gọi là tiên nữ, tên gọi Lý Tiên được đặt như chỉ dành riêng cho nàng. Lý Tiên đang cặm cụi phủ rơm, vén đất, nhét nhét vật gì đó vào trong một cái chậu nhỏ. Tống Thanh Dực rón rén lại gần, vốn định trêu nàng một chút nhưng rồi lại thôi, chàng khẽ khàng ngồi xuống ngay bên cạnh, hỏi nhỏ: - Hoa này lúc nở chẳng biết có xinh đẹp như Tiên nhi nhà ta không nhỉ? Lý Tiên không có chút ngạc nhiên vì từ lúc Tống Thanh Dực bước vào, nàng đã biết được đó là chàng. Trên người chàng luôn có một thứ mùi không tài nào lẫn lộn với một ai được, đó là mùi máu tanh và hy vọng, nàng từng nói thế không chỉ một lần với chàng mà với cả những người nàng quen biết, như thể một niềm tự hào không thôi. Mỉm cười nhỏ nhẹ, Lý Tiên đứng lên, vừa đi vừa nói: - Hoa đẹp rồi sẽ tàn, con người cũng giống như hoa, rồi sẽ già nua, xấu xí thôi. Tống Thanh Dực thở ra một hơi, nói lại: - Ai thì ta không rõ chứ Tiên nhi thì không cần nói, muội trong lòng huynh chính là nữ tử xinh đẹp nhất, hơn cả hoa. Nếu được sánh cùng muội, đó chỉ có thể là hoa bất tử. Lý Tiên mỉm cười, nàng e thẹn đi nhanh, Tống Thanh Dực đuổi theo, hồi sau thì hỏi: - À phải rồi Tiên nhi, đại ca nhị ca của muội đâu? Lúc ở ngoài vào ta đã không thấy họ. Lý Tiên vuốt ve đuôi tóc, nhìn qua một lượt dãy hành lang, nói: - Hai huynh ấy ra ngoài từ sớm rồi. Vậy thật ra, huynh đến tìm họ hay là tìm muội? Tống Thanh Dực tươi cười, nói: - Tìm họ là phụ, cái chính là ta đến để thăm muội. Tống Thanh Dực đối với Lý Tiên thực là có chút yêu mến, hơn hẳn những nữ tử khác. Những lần hồi kinh phục mệnh, dù bận thế nào chàng cũng sẽ dành chút thời gian ghé thăm nàng, không bao giờ xao lãng. Việc cha không bắt chàng phải ở lại trong gia yến tối qua đã quá rõ ràng. Thêm vào mẹ chàng lúc nãy còn hỏi chàng về ý trung nhân, rõ là muốn thay chàng định hôn sự, chỉ là đối tượng thì chưa chắc chắn, rất có thể là Triều Dương quận chúa. Thay vì cưới một người tuy không phải xa lạ nhưng cũng đã nhiều năm không gặp thì chi bằng chàng chọn Lý Tiên, dẫu sao cũng là người từng quen biết. Phủ quốc công. Tiết Minh đặt ly trà lên bàn Tống Trích Tư, nhẹ giọng: - Quốc công, tối qua thiếu gia không ở phủ tham dự gia yến, ngài cũng không bắt buộc. Thuộc hạ có chút không hiểu dụng ý của quốc công, xin được thỉnh giáo. Tống Trích Tư cười khẩy, nói: - Bọn họ cũng thật không biết thân phận, lại còn dám có ý nghĩ muốn kết thân với ta. Nực cười! Tiết Minh nghe thế liền hỏi: - Kết thân? Lẽ nào họ muốn.. Tống Trích Tư đặt ly trà xuống bàn, ngả lưng tựa ghế, lấy tay xoa hai bên thái dương, nói: - Người Dực nhi nên lấy phải là tam công chúa đương triều, viên ngọc quý trong tay Nghinh Thành Đế, Nghinh Hương Đoan Mẫn. Như Lai tửu quán. Lệ Ân Đình tay bưng khay trà bánh, mặt mũi hằm hằm, trông chẳng mấy vui. Nàng đặt thật mạnh cái khay xuống bàn, nói bâng quơ: - Lộ phí đã không đủ dùng cho hai người, giờ lại thêm một người.. Chu Linh không nói gì, chỉ lẳng lặng lấy từ trong tay áo ra một cái túi nhỏ. Nàng cũng theo thanh âm khi nãy mà Lệ Ân Đình tạo ra đập "cộp" một tiếng rồi dùng tay đổ số bạc bên trong ra, không ít tí nào, là năm mươi lượng. Tính cách Lệ Ân Đình hào sảng, thoải mái, bộc trực, nàng thích sẽ nói, không thích cũng sẽ nói, lại chẳng sợ phiền toái tới ai. Lúc này, lại bĩu môi mà mạnh miệng: - Thì chắc là đủ.. Sống chung đã hơn một năm, ít nhiều cũng hiểu nhau đôi chút, Chu Linh chẳng thèm chấp vặt Lệ Ân Đình. Nàng bước lại gần chỗ Tạ Vô Phong, hỏi: - Ngươi định ở đây cho tới lúc nào hả? Còn không mau đi tìm người. Tạ Vô Phong thờ ơ, chẳng thèm trả lời nàng, ngược lại hỏi: - Cô tới đây, Chu thúc thúc có biết không? Chu Linh có tật giật mình, giọng xìu xuống thấy rõ, đôi mắt thoáng chút ưu tư, nàng nói: - Không biết, nhưng mà chắc giờ đã biết rồi. Có lẽ tên ngốc đó cũng sắp đuổi theo tới rồi đó. Tạ Vô Phong cắn miếng lớn chiếc màn thầu rồi hỏi: - Dương Nhất Phàm? Huynh ấy tới đây làm gì? Bắt cô về à? Chu Linh tròn xoe hai mắt, cười khẩy, nói: - Muốn bắt ta? Phải xem xem huynh ấy có cái bản lĩnh đó không đã. Tạ Vô Phong mỉm cười im lặng, hồi sau mới nói: - Ta vẫn chưa biết người đó là ai nên không thể tìm được.. Chu Linh ngạc nhiên, hỏi: - Không biết? Chẳng phải cha ta nói rồi sao, người đó tên là Vân Du. Hỏi thăm là được mà. Lệ Ân Đình lại chẳng ngồi yên được, chịu không nổi liền lên tiếng: - Tìm được thì đợi tới cô nhắc à? Chu Linh giận đỏ người, thực tình một câu cũng bắt, hai câu cũng bắt, rõ là muốn kiếm chuyện với nàng. Trước đó thì nhịn, giờ xem ra lại chẳng thể ngồi yên. Nghĩ vậy nên liền lên tiếng: - Nè! Cô không thể nói chuyện tử tế được sao? Cứ phải gây sự với ta mới được hả? Lệ Ân Đình trông thấy Chu Linh tức giận thì lấy làm hả hê lắm, được lúc thì vui lại rồi, sau mới từ từ xuống giọng: - Chúng tôi thử hỏi rồi. Xung quanh đây không một ai biết Vân Du là ai cả. Dù là người ba đời tổ tiên đều ở đây đến cả những kẻ thông tường mọi sự trên đời cũng đều không biết. Chu Linh xoay người định hỏi thì Tạ Vô Phong đã lên tiếng: - Như Lai tửu quán hệt như tên gọi. Phàm là bất kể chuyện gì trong thiên hạ đều có thể thông qua các vị khách tới lui nơi đây mà tỏ tường. Chu Linh gật gù, tiếp lời: - Vì thế nên hai người mới chọn chỗ này sao? Lệ Ân Đình buông câu khinh khỉnh: - Chẳng lẽ rảnh rỗi ở đây chơi sao? Chu Linh quay đầu liếc nhẹ một cái rồi im lặng, suy tư. Nàng trốn cha tới đây thì chí ít cũng phải là người hữu dụng, để lúc trở về còn có đường ăn nói. Phủ quốc công. Tiết Minh bước những bước dài, tiến thẳng thư phòng của Tống Trích Tư, ôm quyền nói: - Quốc công, thiếu gia tới rồi. Tống Trích Tư buông bút, đặt lên nghiên mực rồi phẩy tay cho Tiết Minh lui. Đoạn, hỏi: - Sức khỏe con nay ổn rồi chứ? Nguyên là lần trước xuất binh, chàng đã bị thương một chút. Việc này đến người tỉ mỉ như mẹ chàng còn chẳng biết, thế mà khối băng như cha chàng thì lại rõ mới hay. Chàng thầm vui trong lòng nhưng thôi chẳng nói, chỉ gật đầu một cái rồi im lặng. Tống Trích Tư xem xét biểu hiện của chàng, hồi lâu thì nói: - Ôn Châu có dịch bệnh, hoàng thượng phái con tới đó kiểm soát tình hình, hỗ trợ quan địa phương. Không vấn đề gì chứ? Tống Thanh Dực im lặng gật đầu nhận lệnh. Từ nhỏ chàng đã lĩnh binh xông pha trận mạc, chỉ chút việc cỏn con là đi tới vùng dịch thì lại có gì to tát? Thậm chí đến cả ông ấy là cha ruột của chàng còn không thấy có vấn đề gì thì với chàng có thể có vấn đề gì. Tống Trích Tư trầm ngâm một lát thì nói thêm: - Con trở về chuẩn bị mọi thứ đi, ba ngày sau sẽ xuất phát. Tống Thanh Dực lúc này mới lên tiếng: - Ba ngày? Sao lại.. Tống Trích Tư đứng lên chỉnh y rồi từ tốn nói: - Ngày mai là sinh thần của tam công chúa, con cùng ta vào cung tham dự gia yến. Sáng mốt hãy lên đường. Trước nay gia yến trong cung dù lớn hay nhỏ cha chàng cũng chưa từng bảo chàng đi, theo kiểu nhất nhất phải đi thế này. Hôm qua yến tiệc tại nhà thì không cần chàng ở lại, mẹ chàng lại đột nhiên hỏi chuyện về quận chúa Triều Dương, sắp tới lại phải đi tham dự gia yến sinh thần của tam công chúa. Tới lúc này rồi, chỉ có kẻ ngốc mới không nhận ra mình sắp bị gả bán. Không ngăn được lòng, Tống Thanh Dực buộc miệng hỏi: - Phụ thân, chuyện này là.. Tống Trích Tư bước lại gần chỗ con chim quý, lấy tay khều nhẹ thành lồng, nói: - Bao nhiêu người tới không quan trọng, tam công chúa mới nên là đối tượng của con. Rồi theo đó ví von: Lồng son, chim quý, tiếng hót thanh. Vinh cao, chức trọng, vãn lưu danh.
Chương 5: Như Lai tửu quán Bấm để xem Ngoại thành hữu duyên, Chiêu Tâm Đan cứu người gặp nạn Tửu quán Như Lai, Tạ Vô Phong chạm trán song hùng Cổng thành Đại Đô. Cái nắng đầu hạ gay gắt tới độ nếu ai đó mang đôi hài rách có thể làm bỏng cả bàn chân, trẻ sơ sinh cháy luôn làn da mỏng, quần áo mới giặt bỏ chưa đầy ba khắc đã khô rang. Năm nay có mưa nhưng nắng vẫn cứ như hạn hán, quần chúng ăn mày lại có dịp sinh sôi, ngày càng đông đúc. Thường thì họ sẽ bám theo thương nhân từ ngoài thành vào mà xin xỏ, rảnh rỗi thì lại tựa lưng vào tường thành, không thì nằm vật vã ngay chỗ đất trống, nơi mà quan sai qua lại kiểm duyệt. Ấy vậy mà hôm nay, quan sai thì trú trong quán nước, ăn mày trốn hẳn chỗ xó nhỏ, chẳng thấy tên nào ra ngoài nằm bụi ngủ bờ. Ngoái đầu tới lui cũng chỉ có thằng nhóc ôm cái tay nải, ngồi tựa tường thành như chết khô. Chiêu Tâm Đan vốn đã đi qua nửa cánh cổng vào thành rồi thì quay đầu nhìn lại, cầm lòng không được liền đi đến gần, thấp người hỏi: - Nè, đệ không nóng sao? Chỗ bên kia mát, qua đó mà ngồi. Trông cái tay nải được gói khá cẩn thận, hẳn là mẫu thân nó làm, nàng ngước lên nhìn quanh thì chẳng thấy ai, lúc quay người lại thì thằng nhóc đã đi đâu mất dạng, bên chỗ lúc nãy nàng chỉ nó cũng không có, coi vậy mà nhanh. Chiêu Tâm Đan cũng không tiện mà quan tâm nhiều, nàng chỉ ra ngoài thành hái chút thảo dược theo lời căn dặn của sư phụ, thời gian gấp rút, phải tranh thủ về. Đang gấp gáp lại đụng ngay phải tên tiểu tử của Dược Tâm Đường, hắn cắm đầu cắm cổ chạy như ăn cướp, thành thử chẳng nhìn thấy nàng. Rõ là một cô nương mảnh khảnh, trên vai còn mang theo một cái gùi lớn, thêm nữa là có tấm mạng che mặt dài, thế mà lại bảo không nhìn thấy thì thật chẳng thể nào tha thứ. Nàng tằng hắng một tiếng như biểu hiện của sự không hài lòng, liền đó hỏi: - Bánh Ú, mắt ngươi bỏ ở dược đường hay sao mà không nhìn thấy ta hả? Hắn ngẩng mặt lên thấy nàng thì cười như được mùa, hồ hởi nói: - Tâm Đan tỷ tỷ, có.. có thiếu.. thiếu tướng quân.. thiếu tướng quân tìm tỷ.. Chiêu Tâm Đan cười thật tươi, bỏ gùi thuốc cho Bánh Ú rồi nhanh chân chạy về. Dược Tâm Đường. Con đường từ đầu thành vào tới Dược Tâm Đường khá ngắn, cái nắng đầu hạ thiêu đốt mọi thứ nhưng lại vô tình làm dậy mùi đặc trưng của Dược Tâm Đường. Những lần tới thăm, Tống Thanh Dực đều mang theo chút dược liệu tự mình kiếm được bên ngoài, với cả nơi đây cũng chẳng cần gì ngoài nó, thành ra quà của chàng cũng được xem như là giá trị. Bạt Phong của Dược Tâm Đường là người đầu tiên mở ra con đường thiện đức này, ông cũng không nhận đệ tử, chỉ có Chiêu Tâm Đan mang tâm hành y quá nặng, ông đành phá lệ giữ lại Dược Tâm Đường, qua loa xem như đệ tử. Nàng cũng coi như có chút thiên bẩm, năm năm theo ông đã học hỏi được không ít, lắm lúc có thể tự mình kê đơn thuốc cho những bệnh thường gặp mà không phải chờ hỏi ý kiến của ông. Tống Thanh Dực trông thấy Bạt Phong đang cặm cụi giã giã thứ gì đó, bèn lại gần hỏi: - Bạt sư phụ, ông đang làm gì vậy? Mùi hơi nặng thì phải. Bạt Phong chìa tay bốc thêm một nắm hạt màu đỏ nhỏ như hạt mè bỏ vào cối và tiếp tục giã, nói: - Cái này là quà ta tặng thiếu tướng quân. Chẳng phải ngài sắp đi Ôn Châu sao? Tống Thanh Dực ngạc nhiên, mỉm cười hỏi: - Sao.. sao sư phụ lại biết? Chiêu Tâm Đan ngoài cửa bước vào, tiếng đã tới trước người: - Sao sao cái gì? Thiếu tướng quân lại còn có thời gian tới thăm ta cơ đấy. Tống Thanh Dực quay đầu mỉm cười nhìn Chiêu Tâm Đan, nói: - Ai nói ta tới thăm muội. Ta là muốn đến thỉnh giáo Bạt sư phụ. Chiêu Tâm Đan ngạc nhiên, im lặng. Từ lúc quen biết nhau tới giờ, tuy cũng đã ba năm, nhưng chẳng lần nào nghe y nhắc đến Bạt Phong, vậy mà lần này hẳn là đến thỉnh giáo mới lạ. Suy nghĩ một hồi, nàng vờ hỏi: - Thỉnh giáo? Cách đánh trận hay dụng binh? Suy nghĩ nàng đơn giản là vậy nhưng mặt mũi thì cũng thật khó coi, thật ra một phần là vì lo lắng, một phần là trời nắng phải đứng ngoài sân lại chẳng nheo mắt nhíu mày sao được. Bạt Phong chẳng nói chẳng rằng, tay cầm cối thuốc đứng lên đi thẳng vào trong. Chiêu Tâm Đan nhìn theo rồi buông câu hờ hững: - Cái tên Bánh Ú đó lại ham chơi chốn nào mà giờ này còn chưa tới nơi nữa. Thật là, héo hết thuốc của ta. Tống Thanh Dực bật cười, nói: - Muội nói xem, nữ nhi như muội suốt ngày ôm đống thảo dược, nói chuyện với cỏ cây, không thấy buồn à? Chiêu Tâm Đan một tay cởi bỏ mạng che mặt, một thuận tay xốc xốc sàn thuốc, tươi cười nói: - Muội chẳng có bạn bè. Ngoại trừ sư phụ và Bánh Ú, cũng chỉ có mỗi huynh. Tống Thanh Dực nhìn phía sau tấm lưng của Chiêu Tâm Đan mà đau lòng, thoáng chút xót xa. Nàng là nữ tử mang tấm lòng Bồ Tát, nàng yêu cuộc sống này đã cho nàng cuộc đời, chưa bao giờ hận nó đã tướt đi của nàng một gia đình trọn vẹn, cũng chưa từng trách ông trời sao lại cho nàng mang một vết bớt lớn ngay trên khuôn mặt, cướp đi ước nguyện được một lần điểm phấn, tô son. Nàng tủi thân lắm, lúc trước chàng từng nhìn thấy nàng khóc giữa một bầu trời pháo hoa ngày hội lớn, người người nhà nhà đều vui chỉ mỗi nàng là chưa bao giờ có được niềm vui thật sự. Nhưng nàng vẫn sống với ước nguyện cao đẹp, trở thành một nữ danh y, cứu người, giúp đời. Thở dài một hơi, nàng đổi giọng hỏi: - Nghe nói huynh sắp đi Ôn Châu? Tống Thanh Dực gật đầu, hỏi lại: - Mọi người đều biết cả sao? Chiêu Tâm Đan cười nhẹ, hững hờ buông một câu: - Vỡ đê, nạn đói còn chẳng quan tâm. Huống chi giờ lại là dịch bệnh. Quý Châu từng có thổ phỉ, vỡ đê gây lụt, mùa màng thất thoát, Tô Châu nạn đói mấy năm liền, quan địa phương còn chẳng để tâm, bao chi phí viện trợ từ Đại Đô đều không đến được với người dân, xong việc thì mỗi người tự trích ra một vài đồng lẻ ém nhẹm chuyện này đi. Người bị ức hiếp là dân đen vô tội, kẻ giả khóc tiếc thương là bọn quan tham ô lại, hoàng đế ở xa như vậy, làm sao nhìn thấy được. Lần này, có thêm dịch bệnh, có đánh chết cũng chẳng thể tin có ai dám đứng ra gánh trách nhiệm này ngoài Tống quốc công và dĩ nhiên, người thực thi việc này chính là thiếu tướng quân, Tống Thanh Dực. Tuy tin này bảo mật, nhưng Bạt Phong và cả Chiêu Tâm Đan đều đoán ra được cả. Lúc sáng, Bạt Phong có bảo Chiêu Tâm Đan ra ngoài thành lên núi tìm cho ông vài loại thảo dược còn thiếu, dùng cho việc gì thì chẳng nói. Tống Thanh Dực nghiêng người dòm vào bên trong phòng thuốc, miệng hỏi: - Nè, tiểu tiên nữ, sư phụ muội đang làm gì vậy? Lúc nãy còn nói là thứ đó dùng để tặng cho ta. Chiêu Tâm Đan trời sinh có cái vết bớt lớn trên mặt, kẻ không rõ nhìn qua còn tưởng là vết sẹo, trông hơi đáng sợ. Lần đầu gặp nhau vào ba năm trước, Tống Thanh Dực là người duy nhất không xa lánh nàng, chàng đang dẫn quân rời thành, lần đó là đến vùng đất Giang Nam dẹp phản loạn. Chiến mã cùng phong thái ngất trời lại xuống ngựa cùng nàng dìu một lão bá, giây phút đó, có biết bao người đứng nhìn, chỉ xem vui. Lúc rời đi, chàng đã tặng cho nàng ba chữ mà từ đó đến nay đã trở thành tên gọi độc nhất vô nhị mà chỉ có chàng dùng, "tiểu tiên nữ". Chiêu Tâm Đan mỉm cười, nói: - Chẳng phải Ôn Châu có dịch sao? Sư phụ là đang thay bách tính thiên hạ cảm ơn huynh. Chờ một lát, chắc cũng gần xong rồi. Hóa ra, thứ Bạt Phong chuẩn bị cho Tống Thanh Dực là thuốc trị dịch bệnh, quả là thứ chàng đang cần. Vốn dĩ chàng tới đây thăm Chiêu Tâm Đan chỉ là phụ, đích thực là muốn thỉnh giáo đôi chút về phương thuốc chữa bệnh dịch. Với chàng, khi có vùng dịch, quan trọng nhất là kiểm soát dịch và cứu được những người mắc bệnh. Trong thâm tâm chàng, không ai được quyền quyết định sống chết của bất cứ ai, chỉ có cứu hoặc không cứu, bỏ hoặc không bỏ, không có quan trọng hay không quan trọng, càng không nói đến thân phận hay địa vị. Với chàng, lần này đi, mục đích không đơn thuẩn là hỗ trợ quan địa phương, cái chàng muốn là cứu được nhiều người nhất có thể. Không lâu sau đó, Bạt Phong đem ra một cái hộp, bên trong có rất nhiều viên thuốc nhỏ màu nâu, nói với Tống Thanh Dực: - Bao nhiêu đây tạm thời đủ dùng. Nếu ổn, hãy cho người về báo lại. Tống Thanh Dực cảm tạ Bạt Phong rồi từ biệt ra về. Chiêu Tâm Đan trầm ngâm một lúc lâu rồi biểu hiện như đã đưa ra được quyết định gì đó, tay vẫn đang lắc sàng thuốc, miệng hỏi: - Sư phụ, người sống một mình ổn không? Từ lúc thầm nhận nhau là sư đồ, Bạt Phong và Chiêu Tâm Đan chăm sóc nhau như người thân. Nàng ít khi ra ngoài, ông thì ít nói, chẳng mấy khi chuyện trò quá năm câu, mỗi lần mở miệng đều là việc gì cần lắm mới nhờ, không thì đều tự mình làm lấy. Nghĩ cũng lạ, người dân quanh đây không một ai biết đến Bạt Phong, ông sống ở đây cũng gần cả đời người rồi, hỏi lại chẳng ai biết, ông đến từ đâu và có bà con họ hàng gì hay không. Bạt Phong nghe hỏi liền trống không, nói: - Năm năm trước cũng đã có ngươi đâu. Chiêu Tâm Đan phì cười, nói thế là đủ hiểu ông ta cho phép nàng đi. Thật ra, muốn đi cùng Tống Thanh Dực chỉ là phần nhỏ, lý do lớn hơn là nàng muốn cứu người, học hỏi thêm. Soạn xong hành lý, nàng thò đầu vào phòng thuốc, nói: - Sư phụ, con đi đây. Người bảo trọng, đừng uống nhiều rượu quá, không tốt đâu. Bạt Phong chẳng thèm nhìn ra, chỉ tiện tay ném thẳng lọ thuốc trên bàn cho nàng, giọng lạnh tanh: - Đừng có làm mất mặt ta. Chiêu Tâm Đan chộp lấy lọ thuốc, vừa chạy đi vừa nói: - Sư phụ yên tâm. Lần này con nhất định sẽ làm rạng danh người. Bạt Phong nhếch nhẹ môi trên, thủng thẳng cầm bình rượu lại ghế gỗ mà ngồi, trực tiếp đặt một chân lên bàn, tự thân nâng người nằm ngang chễm chệ, gió bên ngoài lùa vào cửa chính, làm bong một lớp da nhỏ, để lộ bên trong một phần gương mặt khác.. * * * Chiêu Tâm Đan vốn không định sẽ đi cùng Tống Thanh Dực nên một mình nàng tự thân đi trước, trực tiếp cưỡi ngựa ra khỏi thành. Đủng đỉnh trên yên ngựa, nàng thư thả buông hồn theo gió, lâu lâu cũng không quên lấy tay giữ mạng che mặt. Đi được đoạn khá xa cổng thành, nàng nghe đâu trong lùm cây có tiếng người đang rên rỉ. Bán tín bán nghi, nàng chần chừ không vội xuống ngựa, cứ thế đẩy chân nhích từng chút một, đoạn sau mới xuống hẳn. Nàng đi lại vạch bụi cỏ ra thì thấy có một đống thù lù đang co người nằm đó, cả kinh nhận ra là thằng nhóc lúc trưa nàng gặp ở cổng thành. Chiêu Tâm Đan nhanh chóng vạt tay nải sang bên, tay đụng nhẹ vào người nó, cảm nhận còn chút hơi ấm thì lật hẳn người nó qua, đem tựa vào thân cây gần đó rồi đi tìm nước. Cái nắng hạn của mùa mưa cũng thiệt là nhiệt tình, sông suối bốc hơi bay theo bầu trời mà bỏ lại đá sỏi, nhìn nứt nẻ cả đôi môi. Chiêu Tâm Đan khó khăn lắm mới lấy được một ít nước, liền đó nhanh chóng đem về. Đang tập trung giữ phần nước hiếm hoi cực khổ lắm mới lấy được, nàng lại bị tập kích từ phía sau, người đó đẩy nàng một cái trong tâm thế chẳng có chút phòng bị, liền trực tiếp nhào tới trước, đổ hết nước đi. Nàng quay lại, định bụng sẽ trút hết tức giận thành một trận long trời lở đất nhưng khi trông thấy người đó rồi lại thôi, chẳng buồn mà chửi nữa, nàng thều thào như kiểu hết hơi: - Nè, là ta cứu đệ đó. Đệ có biết cái gì gọi là báo ơn không hả? Thắng nhóc lấm lét, tóc mái che nửa phần mắt trên, nhiều ngày không gội, từng sợi bết lại sánh vào nhau cứng đờ, trông nó vừa gớm giếc, vừa dơ bẩn. Chiêu Tâm Đan chẳng để ý ngoại hình làm gì, chỉ trông qua y phục nó đang mặc, rõ là tươm tất lắm, chẳng qua vì nhiều ngày không giặt nên thành ra cũ kĩ, nàng thở hơi ra, nói một câu: - Tỷ là người tốt. Thằng nhóc đó lại chẳng thèm nghe, bỏ đi một mạch. Chiêu Tâm Đan hẳn nhiên là tức giận, nàng chẳng làm gì sai ngoại trừ việc tự làm lỡ hành trình, đích thân đi lo chuyện bao đồng, ra tay cứu nó. Nghĩ vậy thì lập tức đuổi theo, chặn ngay trước mặt, định là giáo huấn thêm một trận nữa nhưng thôi xong, thằng nhóc đổ rụp xuống, ngất xỉu tại chỗ, một chút ý thức cũng không còn. Theo phản ứng của người đại phu, Chiêu Tâm Đan lấy tay sờ vào phần mạch cổ, phát hiện là dịch hạch. Rõ ràng là thằng nhóc này đã bị nhiễm bệnh, còn là một thời gian rồi. Có điều, sức sống trong nó quá mãnh liệt mới có thể gắng gượng đến hôm nay. Chiêu Tâm Đan xốc nó lên ngựa, nhanh chóng đi về phía trước, thầm mong tìm thấy nhà của người dân nào đó, bằng không thì dù thần tiên cũng bó tay. Mặt trời theo chân tuấn mã ẩn mình sau màn đêm, bóng người ngựa nhanh chóng mờ dần, khoảng không tĩnh lặng cuốn theo gió nuốt thanh âm côn trùng rồi nhả ra nghe rỉ rả.. * * * Như Lai tửu quán. Buổi chiều nhàn nhạt nắng, từng tia từng tia chen nhau một chỗ ngồi trong Như Lai tửu quán. Không phân biệt sáng chiều, khách vãn lai ra vào đều đặn không ngớt, tuy không thật quá nhiều nhưng cũng không khi nào vắng vẻ. Phía cuối góc trái tửu quán, có một thiếu niên trông diện mạo khá anh tuấn, lưng tựa hẳn vào mép cửa sổ, chân vắt chéo đong đưa, mắt nhắm nghiền. Nhìn nhanh qua tưởng người đó đang ngủ thật ra là vẫn còn hoạt động, linh hoạt nữa là khác. Tay trái chọc vào cái đĩa đậu phộng trên bàn, bốc lựa kiểu gì lại trúng toàn hạt to, cứ thế cho vào miệng, một lần cũng không sai, đều trúng phóc. Thường thì kiểu như vầy trong mấy phim kiếm hiệp sẽ có hàng loạt những tràng vỗ tay tán tụng, có điều thời điểm người này trổ tài thật không đúng lúc, cả đám người trên lầu dưới lầu đều đang bận nghênh đón hai vị công tử nức danh khắp Đại Đô. Đó là Lý Dũng, nhị thiếu gia của Lý Phủ và Dương Oai, đại thiếu gia của Dương gia. Hai người này đều nhận được sự công nhận của tất cả tài tử trong thiên hạ rằng họ trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, muôn sự trên đời không gì không biết, không gì không hay. Tạ Vô Phong mở hí một bên mắt lướt nhanh xem có việc gì náo nhiệt rồi lại nhắm nghiền hai mắt, tay lúc này lại thôi không hoạt động nữa. Tiếng reo hò vẫn theo đôi chân hai người vào tới tận chỗ ngồi của Như Lai tửu quán. Tiểu nhị bên cạnh cười tới độ mặt cũng cứng theo hàm, vui vẻ nói: - Nhị thiếu, tứ thiếu. Hai vị muốn dùng gì ạ? Dương gia chỉ có mình Dương Oai là đích tử, sở dĩ mọi người đều gọi chàng là tứ thiếu bởi vì trong cuộc thi tài tử mới đây, chàng xếp thứ tư, còn có hai người nữa là đại thiếu Lý Mẫn Đức và tam thiếu Du Thừa Ngạn, Lý Dũng xếp thứ hai nên giữ nguyên danh xưng nhị thiếu. Lý Dũng mỉm cười, nói: - Không cần phiền phức, như cũ đi. Đoạn, hỏi Dương Oai: - Nè Dương huynh, ta nghe nói sắp tới huynh sẽ thay cha đến Hàng Châu nhập vải. Ta hứng thú với cảnh sắc ở đó lâu rồi, hay lần này ta đi cùng huynh nhé? Dương Oai ực xong ly trà, hỏi lại: - Được thôi. Nhưng mà đại ca huynh không gì chứ? Mặc dù mang danh là nhị thiếu gia của Lý gia nhưng trước mặt Lý Kiên, Lý Dũng vẫn chỉ là đệ đệ. Lời huynh trưởng không muốn nghe cũng khó, mọi việc trong ngoài không nói tới chủ quản là cha của chàng thì tất cả chuyện còn lại đều được thông qua Lý Kiên mà định đoạt. Lý Dũng ngẫm nghĩ một lát rồi tươi cười, nói: - Huynh ấy dạo này bận với thú vui riêng nên đâu quan tâm gì tới ta. Với lại, nghe đâu là huynh ấy sẽ đi Ôn Châu cùng Tống Thanh Dực. Dương Oai nghe thấy thì hỏi lại: - Ta nghe phụ thân nói Ôn Châu đang có dịch bệnh. Đại ca huynh đến đó, huynh không lo lắng à? Lý Dũng đâu phải chưa từng nghĩ qua. Đêm đó nghe Lý Kiên nói sẽ cùng Tống Thanh Dực đến Ôn Châu, chàng vừa lo lắng vừa thoáng chút vui mừng, nhưng rồi suy nghĩ đó nhanh chóng mất đi, dẫu sao thì đó cũng là huynh trưởng của chàng, suy nghĩ ghê tởm đó sao có thể sống được trong đầu óc chàng lúc này chứ. Đang suy nghĩ thì tiếng tiểu nhị vang lên, hắn mang thức ăn và rượu đến bàn cho hai người. Dương Oai trông qua lại hỏi: - Nè, ta nghe nói gần đây đại ca của huynh đang sưu tầm Bách Lý Đồ, có thật không vậy? Lý Dũng tay gắp thức ăn, miệng ậm ừ xác nhận, Dương Oai cũng cầm đũa lên, lầm bầm gì đó. Đoạn, Lý Dũng hỏi: - Nhưng.. sao huynh lại hỏi chuyện đó? Dương Oai cười qua loa rồi nói: - Không có gì, ta chỉ thuận miệng hỏi vậy thôi. Lý Dũng đưa đũa gắp một hạt đậu trên đĩa cá hấp tương, cố ý đẩy cọng hành sang bên, nhất quyết phải kèm theo một thớ thịt cá thì mới đặng, Dương Oai trông thấy thì cười, chàng chẳng lạ gì người huynh đệ này, người ta thà chết không đầu hàng, bạn của chàng lại thà đói không ăn hành. Tới đây, chàng đưa đũa giữ hành cho Lý Dũng gắp cá, đột nhiên nghe đâu từ trên lầu vọng xuống tiếng cãi nhau, chưa kịp xác định là gì thì "rầm" một cái, con cá hấp tương kia chính thức biến thành cá băm hầm tương. Dương Oai giận lắm, sắc diện lập tức thay đổi, trực tiếp đi lại ngồi xuống nắm cổ áo tên đang nằm trên đĩa cá của chàng mà cố kiềm hỏa khí, gằng hỏi: - Ngươi.. là ai? Lầu trên lầu dưới của Như Lai tửu quán cách nhau khá xa, không gian thoáng đãng nơi đây là điểm cộng để khách tứ phương lựa chọn, nhưng cũng vì thế mà lưng và mông của tên này hẳn là tê tái, cảm giác đau từ từ âm ỉ, được lúc mới tới đầy đủ. Hắn còn chưa kịp nói gì thì trên lầu đã có một bóng người phi xuống, hỏi: - Còn ngươi.. lại là ai hả? Dương Oai buông tay khỏi cổ áo tên kia, đứng lên phủi phủi y phục của mình rồi nhếch môi, hỏi lại: - Ta là ai hả? Thay vì hỏi ta là ai sao ngươi không tự hỏi xem bản thân đã có đủ tư cách để biết ta là ai chưa? Thiếu niên lầu trên nhếch môi, nói khẽ: - Thật ngông cuồng.. Dứt lời, thiếu niên ấy tay quơ ống đũa rút hai chiếc phóng nhanh về phía Dương Oai, Lý Dũng chỉ kịp nói "Cẩn thận" đã thấy hai chiếc đũa cắm phập vào trụ lớn, sâu tới ba phân, lực dùng quả không nhỏ. Tạ Vô Phong nhướng mày, miệng bật ra một thanh âm tán tụng rồi trở mình ngồi ngay ngắn xem kịch hay. Vị thiếu niên trẻ tuổi ấy trông rất bình thường, chỉ được mỗi thân thủ cũng nhanh, khí giới thì không có, rõ là chẳng thể có ưu thế gì. Dương Oai bản tính nóng nảy, lúc này chàng giận dữ thì không nói, Lý Dũng cũng chẳng kiềm được nộ khí trong người, liền nói: - Ngươi đúng là chẳng biết trời cao, đất dày. Đại Đô này là nơi nào, lại dám hống hách, khoe tài trước song hùng bọn ta. Hôm nay ta sẽ dạy cho ngươi biết thế nào là lễ độ. Nói xong, Lý Dũng hoa kiếm đi tới, thiếu niên kia thì tránh kiếm đi lùi, cũng không phải lùi cho có mà rõ ràng là có quy tắc, Tạ Vô Phong nhìn lại thấy hay hay. Dương Oai cũng rút trường kiếm bay tới, cắt mặt thiếu niên kia, thiếu niên kia chẳng nói chẳng rằng, trực tiếp lấy tay bật kiếm, chỉ nghe "keng" một tiếng, Dương Oai trong một phút khinh địch đã mất đà, buộc phải lùi về sau một đoạn. Tiếp đó, y xoay kiếm phóng tới, bản thân theo sau vài nhịp, kiếm vừa tới đã không ra chiêu mà dùng chân đá văng mũi, người bật hai vòng, tung tả chưởng vào ngực thiếu niên kia. Rõ là tránh kiếm né chiêu, không hề tính toán trước địch nhân sẽ giở trò, bất ngờ trúng chưởng trong sát na, thiếu niên kia hộc ra một búng máu, tuy nhiên lại không mấy hề hấn. Phun vài cái cho thoáng miệng, thiếu niên kia nói với giọng khinh khỉnh: - Hóa ra song hùng chính là như vậy. Ta lĩnh giáo rồi. Dương Oai bực mình định xông lên thì bị Lý Dũng cản lại. Lý Dũng tuy không phải là con nhà võ nhưng từ nhỏ đã tiếp xúc với kiếm nghệ, chiêu trò vừa nãy của Dương Oai chàng đúng là không mấy đồng tình, liền đó lên tiếng: - Huynh đệ này của ta ra tay đúng là có hơi không trượng nghĩa nhưng người sai rõ ràng là huynh. Huynh gây sự với bọn ta trước lại có thái độ như bản thân vốn chẳng hề có lỗi. Thiếu niên kia không nói gì, chỉ đi lại chỗ tên bầm dập khi nãy, lấy tay móc từ trong ngực áo của hắn một cái túi nhỏ, hất hất tóc mái, nói: - Hắn trộm đồ của ta, còn định bỏ trốn. Ta muốn bắt hắn lại, là tại hai người xui thôi. Song hùng là ai kia chứ, Đại Đô này có được mấy người vừa có gốc gác vừa có thực tài như họ. Lời nói vừa rồi nếu dễ dàng cho qua há chẳng phải đang nói cái danh xưng đó chỉ là gọi cho vui thôi sao. Thiếu niên kia đứng lên bỏ đi một nước, Lý Dũng bước lên ngăn lại, hỏi: - Nói vậy nghĩa là huynh không định sẽ xin lỗi bọn ta sao? Thiếu niên kia nhướng mày, hỏi lại: - Ngươi nói xem? Lý Dũng nộ khí bừng bừng, lấy chân bật chuôi kiếm đưa thanh kiếm về tay, nói: - Hôm nay, ta nhất định phải bắt huynh xin lỗi. Lý Dũng bắt đầu tung kiếm, đường kiếm lần này chiêu nào cũng hiểm, thiếu niên kia ngả người về sau, chân trái trượt về trước một đoạn dài, sau thì úp người sang bên hữu, đổi chân thủ, đá chân kia, Dương Oai cũng xông lên tương trợ, kẻ đánh dưới, người công trên, lúc thì thay đổi qua lại, thuần thục vô cùng. Tạ Vô Phong bắn nhanh hạt đậu trong tay, lực xuất ra vừa mạnh vừa nhanh, trong chớp mắt cắt được chiêu tấn công của Dương Oai. Được thế, Tạ Vô Phong khinh công bay tới, bắn tiếp hai hạt đậu nữa vào đầu gối của Dương Oai và Lý Dũng, cả hai vì đau quá nên đành dừng tay. Dương Oai lớn giọng: - Gọi cả đồng minh tới cơ à. Tạ Vô Phong tay bỏ đậu vào miệng, tay kéo ghế ngồi xuống, ngạo nghễ nói: - Ấy, ta không quen biết người kia đâu. Lý Dũng nhíu mày, hỏi: - Vậy huynh có biết bản thân đã lo chuyện bao đồng không? Tạ Vô Phong cười nói: - Tại hạ không biết gì cả. Chỉ thấy hai vị hai người đánh một người, thật không công bằng. Dương Oai lên tiếng: - Nói vậy là ngươi muốn hai đánh hai? Tạ Vô Phong cười nhạt rồi nói: - Cũng được. Có điều, tại hạ võ công kém cỏi, chi bằng chúng ta chọn cái khác để giải quyết. Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, là tài tử trong số tài tử, song hùng Đại Đô đâu phải chỉ có hư danh. Lý Dũng nghe qua thì niềm nở, nói: - Được thôi. Chúng tôi cho huynh chọn. Chu Linh không biết đã tới từ khi nào. Lúc này, mới bước vào, nói: - Đếm đậu. Tạ Vô Phong hơi nhếch môi, lòng cười thầm vì đúng là chàng muốn thi đếm đậu. Được người mở lời, dĩ nhiên là tận dụng hết khả năng, chàng nói thêm vào: - Ta thế nào cũng được. Chỉ là không biết hai vị song hùng đây có đồng ý hay không? Dương Oai cười một cái, buông câu lãnh cảm: - Đếm đậu? Há chẳng phải đang hạ thấp tài năng của bọn ta sao? Tạ Vô Phong cười lớn, Lý Dũng thở ra nói: - Không sao. Lúc nãy ta đã nói cho huynh chọn thì dĩ nhiên phải tôn trọng. Đếm đậu thì đếm đậu. Chẳn lẻ thế nào? Tạ Vô Phong cười lớn hơn khi nãy, bốc một hột bỏ vào miệng, nói: - Ai đếm chẳn lẻ chứ? Ta là đếm đủ. Lý Dũng châu mày, suy nghĩ qua. Chu Linh tới gần Tạ Vô Phong, hỏi nhỏ: "Mắc gió, đếm đủ gì chứ? Ngươi có bệnh à? Luật lẻ thắng, chẵn thua, ngươi không biết hả?". Lúc này, Dương Oai mới hắng giọng, hỏi: - Đếm đủ là đếm thế nào? Nói đi. Tạ Vô Phong lại ngồi lên bàn, chỉ vào chén đậu nói: - Đậu phộng đã tách vỏ bỏ vào vò rượu trống. Chỉ lắc một lần duy nhất, báo số lượng. Không thiếu, không dư, chỉ có thể đủ, dù là một hạt. Thế nào? Dám chơi không? So độ nhạy ngũ quan, Lý Dũng nhỉnh hơn Dương Oai về mặc thính giác, dĩ nhiên cuộc thi này chàng sẽ tham gia. Đậu đã được tách vỏ, số lượng không một ai biết, từng vò được bỏ vào đó lượng đậu ngẫu nhiên. Tạ Vô Phong chẳng lấy làm căng thẳng, chàng lớn lên ở thảo nguyên mênh mông, giữa bốn bề gió lộng, chàng nghe được cả tiếng dế kêu, tiếng suối chảy xa, nghe được bao nhiêu bước chân mà đếm đủ số cừu. Thực chất, cuộc thi này chưa bắt đầu chàng đã thắng. Có điều, đối thủ lần này của chàng là Lý Dũng, một trong tứ đại tài tử của Đại Đô. Người này am hiểu âm luật, đàn, sáo, trống, không gì không phân biệt được, không gì không nghe ra được. Kẻ tám lạng, người nửa cân, cuộc đọ sức này không cá cược cũng thật là buồn. Thiếu niên khi nãy lại gần Tạ Vô Phong nói: - Cho ta cược chút nhé! Tạ Vô Phong cười khổ, có đánh chết chàng cũng không ngờ trong tình cảnh này dù không phải kiểu dầu sôi lửa bỏng hay đao phủ kề cổ thì cũng là vinh nhục bản thân, sao lại có thể còn nghĩ đến việc cá cược thắng thua. Thiếu niên kia hỏi rồi không cần chàng đồng ý, cứ thế trực tiếp đi gom tụ với những vị khách khác có mặt trong tửu quán. Tạ Vô Phong lắc đầu chịu thua, phần y thì chỉ có thể tự trách mình đã lo chuyện bao đồng. Tổng cộng mười vò đã chuẩn bị hoàn tất xong xuôi. Tạ Vô Phong đứng lên, nói: - Lý huynh phải không? Được, chỉ cần nói chính xác số lượng hạt đậu có trong mỗi vò rượu là thắng. Huynh trước hay ta trước? Lý Dũng gật đầu, tự mình bước lên trước, đi thẳng lại đó nhấc vò rượu lên lắc. Sau một lúc, chàng mỉm cười tự tin, nói lại số lượng đậu chứa trong từng vò, mọi người có mặt đều vỗ tay tán tụng, không ngớt lời khen. Tới lượt Tạ Vô Phong thì lại không được êm đềm như thế, lời xì xầm bàn tán rất nhiều, chàng dĩ nhiên không để tâm lắm, lấy chân đá nhẹ từng vò. Được đoạn thì đi lại chỗ ban nãy, nói ra số lượng, tất thảy mười vò đều nhiều hơn nửa hạt so với đáp án của Lý Dũng. Mọi người xung quanh dĩ nhiên là tin vào đáp án của Lý Dũng hơn, vả lại tiền họ cược cũng là cược cho đáp án của Lý Dũng, không muốn tin cũng bắt buộc phải tin. Sau một hồi bàn tán xôn xao, chưởng quầy của tửu quán đứng ra kiểm tra số lượng hạt thực tế có trong vò. Đang đếm bỗng dưng ngừng lại, chưởng quầy ngẩng đầu hỏi: - Nhị thiếu, nửa hạt.. có tính không? Lý Dũng thoáng chút ngạc nhiên, chàng đưa mắt nhìn về phía Tạ Vô Phong, gật đầu nói: - Ta thua rồi! Không cần đếm nữa. Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên với quyết định của Lý Dũng, kể cả Dương Oai. Dù ai có hỏi thì cả hai người của cuộc thi vừa nãy đều không nói gì. Thật ra trong lúc thi đấu, số hạt trong vò vẫn không hề thay đổi, chẳng qua là Tạ Vô Phong dùng một chút mánh khoé nhỏ, mỗi vò đều bỏ vào đó nửa hạt, kết quả dĩ nhiên là nhiều hơn số đếm ban đầu của Lý Dũng, nhưng để làm việc này thì chàng đã gần như tin chắc vào đáp án mà Lý Dũng đưa ra. Ngẫm lại thì hành động này của chàng cũng chẳng quang minh chính đại gì, chỉ là lấy đạo của người trả lại cho người mà thôi. Lúc này, Tạ Vô Phong mỉm cười, nghĩ bụng: "Nhị thiếu, tại hạ phục rồi!". Trên đường về, Dương Oai cứ gặng hỏi mãi nhưng Lý Dũng lại chẳng chịu nói gì, được đoạn thì thấy gia nhân Lý phủ chạy như bay tới, hấp tấp nói: - Nhị thiếu.. nhị thiếu gia, phủ quốc công.. phủ quốc công có chuyện lớn. Lý Dũng vẫn điềm nhiên, mặt không đổi sắc, dẫu sao cũng đâu phải chuyện nhà. Chàng thở ra một tiếng dài, từ tốn: - Ngươi xem, nhìn ngươi ta cứ tưởng trời sắp sập đến nơi. Là chuyện gì? Tên gia nhân thở ra, nói: - Đêm qua, có người.. có người đột nhập vào mật thất phủ quốc công.
Chương 6: Bí mật bức phù điêu Bấm để xem Tọa Thanh Long độc hữu nhãn, tả phù điêu kim ánh Ngự Kỳ Lân độc tả nhãn, hữu phù điêu bạc sa Độc tiếu nằm cạnh Đoạn Thiên Sơn, là một ngọn núi nhỏ có hình thù hệt như Đoạn Thiên Sơn. Ban đầu người ta gọi nó là Đoạn tiểu, tức là tiểu Đoạn Thiên Sơn nhưng về sau, có vài người lại nhìn ra được ngoài những góc cạnh tứ phía không khác gì Đoạn Thiên Sơn, nó còn có thêm một cái mặt như đang cười phía góc trái, hướng về năm dặm tùng lâm, lối vào của U Linh sơn trang. Cũng từ đó, Đoạn tiểu được thay bằng Độc tiếu. Nhưng không hiểu vì sao, vào hai mươi năm trước, ngọn núi nhỏ ấy lại đột nhiên biến mất không dấu vết, con đường qua chỗ ấy một chút dốc hay nhấp nhô cũng không có, dường như nơi đó chưa từng có ngọn núi nào là Độc tiếu. Phủ quốc công. Đã hơn hai mươi năm kể từ khi có được bức phù điêu khuyết nét, Tống Trích Tư luôn giữ lời hứa với người bạn năm xưa, chỉ giao nó cho người có thể trả lời đúng câu hỏi mật, ấy vậy mà tối qua kẻ đột nhập kia lại khiến ông có chút lung lay. Phủ quốc công lúc này kẻ ra người vào không ngớt, ai nấy đều bất an không biết sự tình thế nào. Tống Thanh Dực nhanh chân tiến vào phòng khách cùng Lý Kiên, ôm quyền nói: - Phụ thân, không tìm thấy chút manh mối nào từ kẻ đột nhập tối qua. Ngoại trừ đồ đạc trong phòng đã bị xáo trộn thì tất cả vẫn còn nguyên, không mất thứ gì. Nói tới đây, Tống Thanh Dực liền ngưng lại, chàng sực nhớ đến bức phù điêu ở căn hầm bí mật bên trong mật thất. Do đó là nơi mà chàng vô tình tìm thấy nên lúc tra xét hiện trường cũng không tiện vào trong xem thử, lại chẳng biết thứ đó còn hay không. Tống Trích Tư trầm ngầm một hồi thì nói: - Thứ hắn muốn tìm có lẽ không có ở phủ. Nói rồi thì đi thẳng ra ngoài về lại tư phòng, Tống Thanh Dực nhìn theo với vẻ mặt khó hiểu. Lý Kiên trông thấy thì tự nghĩ: "Quốc công không hổ là chiến thần một thời, sao lại có thể bình tĩnh như vậy được chứ?". Đoạn, quay sang Tống Thanh Dực, hỏi nhỏ: - Phù điêu, vẫn còn chứ? Tống Thanh Dực thở dài, nói: - Ta cũng không rõ. Lý Kiên tỏ ngay thái độ không vui, liền đó nói: - Sao huynh không vào đó xem thử, lỡ như.. ta nói là lỡ như, nó mất rồi thì sao? Không kẻ nào ngu ngốc tới nỗi đem mạng mình ra đánh đổi chỉ để vào xem bảo vật mà một thứ cũng chẳng đem đi. Ta nói huynh.. sao lại.. hầy! Tống Thanh Dực đưa ánh mắt thờ ơ nhìn Lý Kiên, đoạn hỏi lại: - Huynh nói xem ta sẽ giải thích thế nào về việc bản thân biết được mật thất còn có căn bí mật? Và còn, phụ thân ta cũng nói rồi, có vẻ thứ kẻ đó muốn tìm không có ở phủ Quốc công. Lý Kiên im lặng một hồi thì lên tiếng: - Chắc không đơn giản như thế đâu. Một ngọn đèn dầu le lói dần xuất hiện ở phía bậc thang dẫn xuống mật thất, Tống Trích Tư đi một mạch lại chỗ chiếc bình gốm, xoay nhẹ một cái sang phải, ba cái sang trái rồi bước vào bên trong cánh cửa phía sau bức tranh sơn thủy. Nhớ lại thì đây chính là căn hầm bí mật mà Tống Thanh Dực đã từng đi lạc vào, có điều cách để vào được đây thì rõ là hơi phức tạp với một đứa trẻ chỉ mới mười tuổi, xem ra năm đó, tiểu tướng quân cũng thật quá tài năng rồi. Cửa hầm vừa mở, một nụ cười nhẹ nhõm hiện trên môi của Tống Trích Tư, dĩ nhiên bức phù điêu kia một miếng cũng không hề sức mẻ. Ông đi lại gần lấy tay sờ lên đó một cách vô cùng trân quý, rồi thở dài tự hỏi: "Tiên sinh, khi nào người đó mới đến? Đã có kẻ chờ không nổi bắt đầu hành động rồi. Tống mỗ e rằng không đợi được tới ngày đó, phụ lòng giao phó của tiên sinh". Hai mươi năm trước, có một vị tiên sinh phong thái ngời ngời, tóc trắng, râu dài đến phủ Quốc công nhờ Tống Trích Tư giữ hộ mình một bức phù điêu. Không nói đến hình dáng kì lạ của nó, chỉ cần biết được bí mật đằng sau thì đã đủ khiến cả nhà ông từ đó không còn an nhiên được nữa. Bao năm trôi qua, Tống Trích Tư vẫn ngày ngày lo lắng, có khi tỉnh giấc nửa đêm vì sợ bức phù điêu sẽ bị ai đó lấy mất. Ám ảnh này theo ông suốt những năm tháng khi còn ở sa trường lẫn tới lúc đã cởi bỏ khôi giáp. Bức phù điêu được chạm trổ cực kì tinh xảo. Nửa bên trái ánh vàng, khắc hình Thanh Long độc hữu nhãn, nửa bên phải ánh bạc, khắc hình Kỳ Lân độc tả nhãn, sống động như thật. Lần đầu tiên được ngắm qua bức phù điêu này, Tống Trích Tư đã không kiềm được lòng ngưỡng mộ, "Ồ" lên một tiếng, sau đó nhận được lời gửi gắm đầy thâm ý của vị tiên sinh kia "Phù điêu liên quan tới vận thể Nguyên triều, đại tướng quân hào khí trượng nghĩa, sau này ắt sẽ có một vị trí rất quan trọng trong triều. Ta gửi nó lại cho ngài, khi thời cơ đến, hãy thay ta phò tá người đó đăng cơ". Đã ngần ấy năm qua đi, bức phù điêu vẫn nằm yên trong căn hầm đó, đột nhiên hôm nay lại có kẻ ghé thăm, điều này khiến Tống Trích Tư trằn trọc không yên giấc, nửa đêm một mình tới đây. Mật thất tuy rộng nhưng căn hầm này lại thật là nhỏ, hơi thở của người thứ hai đánh động bản năng tự vệ, Tống Trích Tư nhẹ nhàng đứng lên, đi về phía cửa căn hầm, khởi động hệ thống phòng bị rồi rời khỏi ngay sau đó. Không lâu sau khi Tống Trích Tư rời đi, quả nhiên đã có người thứ hai xuất hiện. Người này đi thẳng một mạch vào giữa mật thất, tránh được tất cả cơ quan được bày trí bên trong, ba mươi mũi tên được bắn ra từ năm cái đầu hổ đính trên vách tường, kế đó là năm hồi phi tiêu liên tiếp từ tứ phía. Tống Trích Tư vỗ tay đi vào từ cửa, vừa đi vừa nói: - Thân thủ nhanh nhẹn, võ công phi phàm. Các hạ mạo hiểm quay lại lần hai lẽ nào là có thứ gì quan trọng muốn mang đi sao? Hắc y nhân không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn quanh rồi nhanh tay tung ám khí, trong sát na cắt đi một vài sợi tóc của Tống Trích Tư, liền đó phi thân tẩu thoát. Tống Trích Tư cầm ám khi lên xem thì chẳng thấy có gì đặc biệt, chỉ là một phi tiêu tà mũi bình thường, rõ ràng người đến không hề có ác ý muốn lấy mạng ông, nhưng nhờ đó mà thấy được bản lĩnh kẻ đó quả không tồi. Hồi lâu sau, ông trở về phòng, trên mặt vẫn ngập tràn lo lắng. Cánh cửa phòng hé mở, Bạt Phong bước nhanh vào trong, trước khi đóng cửa không quên quan sát xung quanh. Gỡ bỏ khăn che mặt, ánh mắt lãnh cảm nhìn vào hư không, ông nắm tay thật chặt đập mạnh xuống mặt bàn, khí sắc không chút dễ chịu, gằng giọng: "Rốt cuộc là ở đâu?". Hoàng cung. Từ cổng hoàng cung đến ngự hoa viên, từ ngự hoa viên đến Diễm Tiên Các, hoa trên thảm, thảm trên hoa, một màu vàng rực rỡ. Sinh thần của tam công chúa Nghinh Hương Đoan Mẫn, người được mệnh danh là đệ nhất mỹ nhân của Nguyên triều được tổ chức vô cùng hoành tráng. Nàng là ái nữ thứ hai trong số ba người con của Nguyên đế Nghinh Thành Bác, cũng là vị công chúa được sủng ái nhất trong hoàng tộc. Nguyên đế ít con, duy chỉ có nhị hoàng tử Nghinh Hương Túc Nhật là nhi tử, nhưng lại chẳng hiểu vì nguyên cớ gì mà cho đến nay, tuy đã ngoài hai mươi lăm, tài năng vượt bậc người thường lại chưa có được vị trí trữ quân, còn trưởng công chúa Nghinh Hương Đoan Thanh sớm đã theo chồng về Biên Thành, từ dạo ấy đến nay cũng chỉ vài đôi lần về thăm. Hoàng cung ngoài những lần tiệc tùng, yến hội thì cũng không mấy khi được náo nhiệt. Bên ngoài hoa kết, đèn treo, toàn bộ Diễm Tiên Các được trang trí lại theo đúng ý muốn của tam công chúa, lấy màu vàng làm chủ đạo, mang ước muốn vạn điều tốt lành. Mọi sự được chuẩn bị từ tận hai tháng trước, quà tặng, lễ vật cũng được các cung mang đến từ rất lâu. Kì trân, dị bảo không thiếu món nào, tất cả đều được chọn lọc từ những thứ tốt nhất. Bên trong cung thì lại được bày trí khá tao nhã, tuy mang thân phận quyền vương nhưng Đoan Mẫn chưa bao giờ lấy đó làm phô trương, Diễm Tiên Các vô cùng giản dị, khác hẳn tính cách của nàng, hơi có chút ngạo mạn. Một vị thái giám dẫn theo sau một tì nữ, trên tay cầm một cái hộp dài. Bước vào trong Diễm Tiên Các, vị thái giám đó lệnh cho tì nữ lấy đồ bên trong hộp ra và treo lên, là một bức họa. Bên trên vẽ một đại mỹ nhân, đôi mắt sáng như ngọc, gương mặt thanh thoát, đầy đặn, hàng chân mày kẻ sắc điểm thêm nét đẹp cho hàng mi cong vút, đôi môi đỏ mọng, hai má hồng hồng, cả khuôn diện hài hòa không thiếu chẳng dư. Không biết vị họa sư nào tài năng như thế, lại có thể vẽ ra một tiên nữ như thật trên đời, bức họa chân dung kia là vẽ tam công chúa đương triều, Nghinh Hương Đoan Mẫn. Nàng là nữ tử xinh đẹp nhất của thiên hạ, nét đẹp của nàng chỉ có hoa vừa nở, trăng vừa tròn mới có thể sánh được. Ngày nàng sinh ra, ngàn hoa nở rộ, hương tỏa khắp nơi, nắng vàng lan khắp chốn, hoàng đế cho đó là điềm lành, từ ấy đến nay đều hết mực yêu thương, xây hẳn một cung riêng cho nàng, đặt tên là Diễm Tiên Các. Dĩ nhiên, không phải chỉ vì nàng mang lại quốc thái, dân an mà còn vì nàng hiểu chuyện lại thông tuệ hơn người, chỉ khổ một nỗi là tính cách thì cực kì kiêu ngạo và ương bướng. * * * Tiểu thư đồng bên cạnh vị công tử cao ráo, khôi ngô cứ lầm bầm mãi, một hồi thì thở dài than ngắn, được lúc thì lại kéo tay lôi lại, rõ là chẳng muốn lại cứ bị ép phải đi. Tiểu thư đồng kia má hây hây đỏ, chân mày được tỉa gọn gàng, đôi môi không thoa son lại tự nhiên đỏ, dáng người mảnh khảnh, nói thế nào thì cũng giống một nữ nhi hơn là nam nhi. Thật thế còn gì, nàng là tiểu Noãn Nhi, tỳ nữ thân cận cao cấp của tam công chúa và dĩ nhiên vị công tử cao ráo khi nãy chính là.. - Công chúa! Người hãy mau chóng trở về hoàng cung đi mà, hoàng thượng mà biết người trốn ra ngoài thế này thì cái đầu nhỏ của em chắc phải dọn nhà mất thôi. Nghinh Hương Đoan Mẫn mỉm cười khoái chí, tay bốc đậu cho vào miệng, hờ hững nói: - Thế cũng tốt mà. Chẳng phải em hay nói "Làm người khổ quá" sao? Thế giờ cho em làm cái khác, lại đúng ý còn gì? Tiểu Noãn Nhi nghe qua thì chóng cả mặt, lần này thì hay rồi, vốn định dùng khổ nhục kế nhưng xem ra lại chẳng hề có chút tác dụng nào. Ngẫm lại cũng do nàng đã đánh giá quá thấp chủ nhân nhà nàng, tam công chúa lãnh cảm vô tình, trước giờ đã nhường nhịn và chịu thua ai đâu. Nghĩ bề không ổn, tiểu Noãn Nhi liền thấp giọng, nói: - Công chúa, xem như em năn nỉ người, người thương em được không? Thái hậu mà biết chắc mông em nở hoa mất, công chúa.. Nghinh Hương Đoan Mẫn mỉm cười, cố lờ đi như không nghe thấy, dạo qua hàng quán bên đường của một họa sư. Nàng đọc thật chậm rãi dòng thư pháp bên trên bức tranh: "Nhất hội Hàng Châu, nhị tửu Vạn Xuân Lầu, Vạn thần thông, Như Lai tửu quán, Nhất mỹ nhân, hoa đán Đại Đô" Đoạn thì đưa mắt nhìn họa sư đang ngồi, hỏi: - Không biết hoa đán trong câu này là đang ám chỉ ai? Họa sư kia đưa mắt nhìn vị khách trước mặt, thoáng chút nheo mày, liền đó cười thật lớn rồi nói: - Hahaha! Công tử hỏi đây ư? Dĩ nhiên là Triều Dương quận chúa, ái nữ của Bảo Thân Vương. Đoan Mẫn hơi châu mày, lần nữa nhìn vào bức họa, lúc nãy mãi chăm chú vào câu nói mà quên nhìn người, giờ ngắm lại thì đúng là có chút giống Triều Dương quận chúa. Nàng nghĩ thầm: "Triều Dương quận chúa trong mắt của dân chúng thành Đại Đô chính là hoa đán, vậy.. ta là gì?". Tiểu Noãn Nhi từ đâu chạy tới, lên tiếng: - Cô.. ông công.. tử, người đi đâu vậy? Làm ta tìm gần chết. Chúng ta về được không? Lão thái thái và lão gia chắc đang mong người lắm. Công tử.. Đoan Mẫn quay sang nhìn thì thấy đúng là nàng đã thật sự dọa tiểu Noãn Nhi một trận. Cứ nhìn trán nàng ta lấm tấm mồ hôi thì biết đã hốt hoảng ra sao khi mất dấu nàng. Ngẫm lại thấy cũng thương, đành nói: - Được rồi, được rồi. Thì về! Tiểu Noãn Nhi vui mừng khôn xiết, việc giữ chân và khuyên được tam công chúa trở về như thể đã lập được một đại công, không phần thưởng nào xứng đáng hơn là một cái thở phào nhẹ nhõm. Đang đi bỗng dừng lại, Đoan Mẫn lên tiếng hỏi: - Tiểu Noãn Nhi, em nói xem, ta.. có xinh đẹp không? Trước giờ, nàng vốn chẳng để tâm bản thân có xinh đẹp hay không, chỉ là nghe lâu dần thành quen, tự dưng hôm nay có kẻ nói người xinh đẹp nhất không phải nàng thì lòng lại có chút không được thoải mái, định không hỏi nhưng lại mở miệng rồi. Sựng người một lát, tiểu Noãn Nhi dụi dụi hai mắt, trực tiếp đi một vòng quanh Đoan Mẫn rồi ngây thơ nói: - Đâu có chỗ nào không ổn chứ. Nghinh Hương Đoan Mẫn tức tối, lấy tay búng một cái "cốc" vào trán tiểu Noãn Nhi, rõ là đau lắm nhưng nàng ta chẳng phản ứng gì, liền đó hỏi tới: - Công chúa, người làm sao vậy? Sao lại hỏi em như thế? Nghinh Hương Đoan Mẫn ngắm tiểu Noãn Nhi một lát rồi thôi, quay người bỏ đi, tiểu Noãn Nhi cũng lắc đầu ngu ngơ rồi lẽo đẽo theo sau, không rõ chuyện gì, miệng cứ lầm bầm: "Công chúa là đệ nhất mỹ nhân của Nguyên triều, còn ai có thể xinh đẹp hơn người nữa chứ?". Bữa trưa nắng gắt thì thôi chẳng nói, người cũng đông đúc, mỗi việc chen lấn thôi cũng đủ mất khối thời gian. Tiểu Noãn Nhi ở đằng trước dẹp đường cho Đoan Mẫn, lơ ngơ thế nào lại chẳng để ý có người dòm ngó chủ nhân nhà nàng. Sau một đoạn dài không động tĩnh gì, chợt nghe tiếng Đoan Mẫn hét lên: - Ngươi dám? Tiểu Noãn Nhi giật mình, xoay người một cái đã chẳng thấy Đoan Mẫn đâu, chỉ thấy một hàng người dạt sang hai bên rồi có bóng một người nhấp nhô tháo chạy. Tiểu Noãn Nhi tri hô đuổi theo, miệng cầu xin chủ nhân đừng có chuyện, nếu không nàng thật sự sẽ tiêu đời. Chạy theo cả buổi vẫn chẳng thấy Đoan Mẫn đâu, tiểu Noãn Nhi sợ đến hồn vía bay theo mây, miệng lầm bầm: "Chết rồi, lần này chết thật rồi! Tiểu tổ tông của em ơi, người đang ở đâu vậy?". Nghinh Hương Đoan Mẫn chạy theo tên cướp chỉ là phụ, cái chủ yếu là nàng muốn xem thằng nhóc trộm đồ của nàng gia cảnh ra sao mà lại phải mạo hiểm ra ngoài móc túi người khác hoặc giả dụ là đang có người ép nó phải làm thế. Mất dấu hẳn sau khi truy đuổi qua ba bốn con đường, Đoan Mẫn đành trở về tay không, đang mãi suy nghĩ thì đụng phải một người, nàng không hề thấp nhưng kẻ này ít nhất cũng cao hơn nàng một cái đầu. Ngước mắt nhìn lên, Đoan Mẫn bị chính cái mùi sương gió trên người Tạ Vô Phong cuốn hút, nó vừa lạ vừa quen, trực tiếp gieo vào lòng nàng một cảm giác khó tả. Hỏi một câu đầy sự khó chịu, Đoan Mẫn đẩy tay Tạ Vô Phong ra khi chàng đang cố giữ để nàng khỏi ngã: - Ngươi không có mắt à? Tạ Vô Phong cười khẩy, tự hỏi vu vơ: - Đại Đô này người nào cũng như người nấy sao? Ăn mặc thì rõ là tri thức mà.. Thôi vậy, xem như hôm nay ta xui đi. Nói rồi thì bỏ đi ngay, liền đó nhận lại được cái kéo tay của Đoan Mẫn. Nàng hỏi: - Nói vậy là ngươi không định xin lỗi ta sao? Tạ Vô Phong "tặc" lưỡi một cái, cười nói: - Lại nữa hả? Ngươi học chung thầy với tên kia sao? Rồi nhìn túi đậu treo lủng lẳng bên hông của Đoan Mẫn, nói: - Êy, ta không rảnh để đếm nữa đâu nhé! Đi đây! Đoan Mẫn kiên quyết giữ lấy không buông, Tạ Vô Phong thở ra mấy cái, kiểu bất lực nói: - Được, được. Ta sai rồi! Là ta có mắt không nhìn thấy Thái Sơn, xin huynh bỏ qua cho. Rồi trở giọng khác ngay: - Ta đi được rồi chứ? Vốn định ngăn Tạ Vô Phong nhưng đúng lúc bị tiểu Noãn Nhi giữ lại, Đoan Mẫn đành để người đó đi. Tiểu Noãn Nhi xem như trong cái khó liền ló cái khôn, nhất nhất không buông tay Đoan Mẫn, kiên định nói: - Lần này có nói thế nào em cũng không bỏ người ra đâu. Công chúa, tiểu tổ tông, tiểu nãi nãi, người làm ơn theo em về có được không? Em xin người đó! Nghinh Hương Đoan Mẫn bất lực nhìn tiểu Noãn Nhi, thều thào nói: - Em bỏ ra trước đi được không? Ta hứa, ta hứa lần này không bỏ chạy nữa, ha? Mà em xem, lúc nãy đâu phải ta cố tình chạy, là ta bị người ta trộm mất túi tiền mà. Như sực nhớ điều gì đó, tiểu Noãn Nhi ngờ ngợ, nói: - Đúng rồi! Thế cái người đó đâu? Hay là.. hay là người lúc nãy? Hắn dám lấy tiền của người sao, chán sống lắm rồi. Em đi tìm hắn tính sổ. Nghinh Hương Đoan Mẫn cười khẩy một tiếng, nói: - Đại Đô này chắc chỉ rộng bằng đầu ngón út của em thôi nhỉ? Không danh tánh, không quen biết, tìm là tìm làm sao? Tiểu Noãn Nhi nở một nụ cười đắc ý, nói: - Em nói người biết. Em có thể vượt qua ba trăm người khác trở thành tỳ nữ thân cận nhất bên cạnh người thì dĩ nhiên bản thân phải có chút xíu bản lĩnh. Đại Đô này có rất nhiều khách điếm, quán trọ lớn nhỏ nên mỗi nơi đều tự định cho mình một phương thức. Nhìn vào phong thái của người lúc nãy, rõ ràng không phải là người ở đây, nên chắc chắn là đang ở lại một khách điếm hay quán trọ nào đó trong kinh thành. Hơn nữa, trên cổ người đó có đeo một cái túi thơm nhỏ màu xám, đây là kí hiệu riêng của tửu quán Như Lai. Em khẳng định.. Nghinh Hương Đoan Mẫn mỉm cười, vỗ tay tán tụng, thái độ ngưỡng mộ, nói: - Thật ngắn gọn, dễ hiểu, đúng trọng tâm. Tỳ nữ cao cấp có khác ha, lợi hại lợi hại! Có điều, tiền của ta không phải do người đó lấy. Tiểu Noãn Nhi rớt tận chín tầng mây, té sấp mặt, cảm giác hụt hẫng dâng tới tận mắt, nước sắp trào ra lại thôi, dỗi hờn hỏi: - Thế.. thế người lúc nãy là ai? Nghinh Hương Đoan Mẫn im lặng không trả lời, trông qua ánh mắt thì biết nàng đang suy nghĩ điều gì đó, được hồi sau thì nói: - Thôi bỏ đi. Chúng ta hồi cung. Phủ quốc công. Hắc y nhân nhẹ nhàng mở cánh cửa mật thất bước vào trong, đây đã là lần thứ hai y tới nên tâm tư không cẩn trọng như lần đầu, đi được vài bước thì bất giác phát hiện có người đã ngồi sẵn đợi mình từ bao giờ. Tống Trích Tư thong thả buông quyển binh thư xuống bàn, mắt không rời khỏi y, hỏi: - Ngươi là ai? Mục đích thật sự đột nhập vào đây là gì? Hắc y nhân không nói câu nào, trực tiếp quay đầu bỏ đi. Phủ quốc công không phải nhỏ, mọi ngõ ngách đều được bố trí người canh gác rất cẩn mật, nhất là mật thất này, duy chỉ có đêm nay một người đứng ngoài cũng không có, dễ thấy Tống Trích Tư vốn không hề muốn bắt trộm, cốt là hỏi về điều ông muốn biết. Thấy tên trộm đã bỏ đi, Tống Trích Tư vội vàng đuổi theo, gần tới cửa ngoài của mật thất thì tên trộm đã dừng lại, xoay nửa mặt về sau, nói với giọng trầm khan: - Nếu.. ngài đang giữ thứ đó thật, hãy bảo quản nó cẩn thận, ngày sau sẽ cần. Khi đó, ta sẽ dốc hết lòng phụ trợ. Tống Trích Tư ngờ ngợ, chôn chân tại chỗ, lòng nghi hoặc: "Giọng nói này rất quen, đã từng nghe qua ở đâu đó rồi". Đoạn sau thì về lại thư phòng, xác định đêm nay lại mất ngủ, đành tìm gì đó giải khuây. Bộ tượng gỗ ông đã gìn giữ hơn hai mươi năm vẫn còn mới lắm, có tổng cộng bốn người, đều là những tên tuổi lớn thời đó, đáng tiếc bây giờ mỗi người một nơi, muốn tụ hội tứ kiệt năm xưa thật không dễ dàng. Hai tay giữ lấy hai tượng gỗ, mắt nhắm hờ, lòng bồi hồi xúc động, một bên là chính ông, năm đó bồng bột, tuổi trẻ háo thắng, là người trẻ nhất trong tứ kiệt, một bên là huynh đệ thân thiết nhất của ông, anh tuấn, quý soái, một trong những nhân tài thời đó.. Mắt đang nhắm tự dưng mở, tay buông nhanh tượng gỗ, Tống Trích Tư bật người ngồi dậy, mắt nổi đầy những đường gân đỏ, hai tay run run giữ lấy cạnh bàn, giọng cũng vì đó mà run theo: - Vân Du? Là.. là huynh sao?
Chương 7: Phải lòng Bấm để xem Ngự hoa viên, Tống Thanh Dực ánh nhìn đầu rung động Tửu quán chiều, Tạ Vô Phong tâm loạn, tỏ nguồn cơn Phủ quốc công. Sáng đó, người hầu trong phủ đem đến một bộ y phục cho Tống Thanh Dực, nói rằng là thứ mà phu nhân chuẩn bị, xem ra bà quả thực dốc lòng muốn đem "gả bán" chàng. Chinh chiến sa trường bao năm, vận phục giáp nặng trịch cũng không hề gì, ấy vậy mà triều phục hôm nay lại khiến chàng chẳng thoải mái chút nào. Nó trông đẹp thì có đẹp, kim vân ôm trọn dọc nửa người, sơn lâm chiếm nửa còn lại, bộ triều phục này thật sự rất tinh tế, từ mũi thêu, đường chỉ đến chất liệu vải phải nói là vô cùng hoàn mỹ, dù thích hay không vẫn phải tấm tắc gật gù cho sự kì công tỉ mỉ này. Chỉnh y xong, Tống Thanh Dực đến phòng Cao Lâm Mạn vấn an: - Mẫu thân, yến tiệc tối nay có thể kéo dài. Con và phụ thân chắc sẽ về trễ, người hãy nghỉ ngơi trước, đừng đợi ạ! Cao Lâm Mạn mỉm cười, mắt nhìn triều phục mà Tống Thanh Dực đang vận, quay sang hỏi A Lan: - Nhũ nương, hãy thay ta nhìn xem. Hôm nay Dực nhi trông thế nào? A Lan mỉm cười, lại gần bên Cao Lâm Mạn, nói: - Đại phu nhân, thiếu gia chúng ta anh tuấn, khôi ngô, hôm nay lại càng phong thái ngút trời, chắc hẳn sẽ làm các tiểu thư, quận chúa phải xiêu lòng từ cái nhìn đầu tiên. Tống Thanh Dực phì cười, nói vui: - Xem ra mẫu thân thật lòng rất muốn có con dâu, nôn nóng đem bán con như vậy mà. Nói rồi thì trực tiếp đi lại quỵ gối xuống gần bên Cao Lâm Mạn, thủ thỉ: - Mẫu thân, là Dực nhi bất hiếu. Bao năm chinh chiến sa trường, không lo nghĩ cho người. Con.. Cao Lâm Mạn ngắt lời, dịu dàng nói: - Sao có thể nói như vậy. Dực nhi của ta lòng mang chí lớn, sao có thể so bì với thứ tình cảm tầm thường ấy được. Tống Thanh Dực sụt sùi, hai mắt đỏ hoe, nghĩ một lúc thì cương định nói: - Hôm nay, con nhất định sẽ tìm cho người một nàng dâu thật ưng ý. Cao Lâm Mạn cười hiền, nhìn chàng đôn hậu. Tống Thanh Dực hiểu rõ mẫu thân của chàng, bà là yêu thích nàng Triều Dương quận chúa của phủ Bảo Thân Vương, không như phụ thân chàng, muốn chàng phải kết thân cùng tam công chúa. Cũng dễ hiểu thôi, Triều Dương quận chúa nổi tiếng xinh đẹp, nhu mì, đoan trang, tiết hạnh, lúc nhỏ lại còn có vài lần ghé qua phủ quốc công, vừa hiếu thuận vừa hiểu chuyện lại hiền dịu, nếu hỏi chàng có ưng ý không thì thật ra cũng là thích lắm. Bao năm không gặp, không biết bây giờ nàng ta trông thế nào, chắc là sẽ rất xinh đẹp. Hoàng cung. Cùng Tống Trích Tư vào hoàng cung chỉ có Tống Thanh Dực và Tiết Minh. Dọc đường lại gặp không biết bao nhiêu là vương công, quý tộc, đều mang theo nhi tử. Xem ra, yến tiệc tối nay không chỉ có mình phụ thân chàng hướng đến việc kết thân, tình hình có vẻ vô cùng căng thẳng. Ngoài mặt họ chào hỏi khách sáo nhưng trong lòng hẳn là đã đoán được tất thảy ý đồ của nhau, chỉ nhìn ánh mắt là biết, quan trường không có bạn thân, chỉ có xu nịnh, chàng chính là không ưa gì điều này nên rất hiếm khi tham dự yến tiệc của hoàng cung. Vốn định sẽ bỏ đi nhưng lại sợ cha chàng không thuận ý, đang không biết phải làm thế nào thì từ xa đã nghe tiếng của Dương Oai: - Thanh Dực huynh, huynh cũng có mặt ở đây à? Dương Quảng từ sau bước tới, lên tiếng trách mắng: - Vô lễ! Con không thấy quốc công đang có mặt hay sao? Dương Quảng là thừa tướng đương triều, rất có tiếng nói trong những lần nghị chính, cùng với Tống Trích Tư được xem là đòn bẩy hai đầu của thế lực Nguyên triều. Đưa mắt nhìn quanh một lượt những quan lại đang có mặt, Dương Quảng vừa cười vừa nói, trong điệu bộ có chút mỉa mai: - Cái bọn rắn nước vùng vẫy ao lầy lại còn vọng tưởng hóa rồng bay lượn trời cao. Tống Trích Tư nhếch môi không nói, chỉ đưa mắt nhìn Dương Quảng rồi thôi. Tống Thanh Dực nở một cười nhàn nhạt, lòng lúc này chợt nghĩ qua: "Dương bá phụ trong triều được xem là thân thiết nhất với phụ thân, liệu với ông ấy, phụ thân có đề phòng hay toan tính điều gì không?". Tống Trích Tư vốn là người ít nói, thân thiết cỡ nào chưa chắc đã đủ khả năng khiến ông khai khẩu quá ba câu, ngoại trừ những chuyện có liên quan đến công vụ. Tống Thanh Dực nghĩ bụng: "Lẽ nào phụ thân sợ nói nhiều sai nhiều, nói ít sai ít nên không nói sẽ không sai? Thế cũng quá khắc khe với bản thân rồi!". Nghĩ vậy cũng đúng, vì từ nhỏ dù chàng có làm bao nhiêu việc khiến ông vừa lòng, chỉ cần là một lần lỡ nói ra điều gì cấm kỵ hoặc mang ý không may mắn đều sẽ vì đó mà bị nhốt vào nhà củi tận mấy ngày không cho ăn uống. Với chàng, chỉ khi đi cùng Lý Kiên hoặc Chiêu Tâm Đan thì lời thật từ tâm can mới theo đó mà thoát ra nổi, bằng không thì nửa chữ cũng đừng hòng cạy được từ miệng chàng. Mà kể cũng lạ, từ nhỏ đã vì sợ bị trách phạt mà kiềm lòng nói ít lại, khi nói phải dè chừng, suy tính, lớn dần lại không cần phải như thế nữa, tự bản thân sinh ra một lớp phòng vệ, mặc định chỉ nói nhiều, vui nhiều khi gặp người nào thân thiết. Nhưng cái đó chỉ dành cho chàng thôi, chứ phụ thân chàng thì khác, ông ấy với cả người bạn già bao năm sát cánh đảm đương nhau trong triều cũng đâu có mở miệng nói quá ba câu, thói quen này hẳn phải tập rất lâu, rất khó, không thoải mái chút nào. * * * Từ sáng, hoa ở ngự hoa viên đã được tỉa tưới, chăm sóc kỹ càng, chính điện thì bày đủ ngự thiện, đều là cực phẩm. Một mình Tống Thanh Dực rời khỏi nơi lừa lọc xu nịnh, tự đi dạo xung quanh. Chân đang bước bỗng dừng lại bất ngờ, chàng phát hiện có một mùi hương khác biệt, rõ là không phải hương hoa nhưng lại rất thơm, không quá nồng nàn nhưng lại cuốn hút, tạo cảm giác dễ chịu vô cùng. Chinh chiến sa trường bao năm, khả năng phòng bị nhạy bén hơn người thường đã cho Tống Thanh Dực những kinh nghiệm không sao học được ở bất cứ đâu. Chàng nhẹ nhàng bước từng bước thật chậm rãi, vừa đi vừa quan sát xung quanh, đặt vào mắt chàng là một nữ tử da trắng, tóc đen, vận y phục ánh kim rực rỡ, giữa vườn hoa của ngự hoa viên, nữ tử đó vừa kiêu sa vừa lộng lẫy, người quyện vào hoa, hoa khép nép bên người, nếu có giấy bút chàng sẽ vẽ ngay một bức họa, đặt tên là "Diễm sắc". Thoáng bất giác vì từ "Diễm" Tống Thanh Dực thất thần, tự nghĩ: "Diễm? Diễm Tiên Các? Lẽ nào là..". Trong lúc chàng còn đang bận suy tư thì bỗng nghe tiếng người gọi: - Phiêu kỵ tướng quân? Bị gọi ngay đúng chức trách, Tống Thanh Dực giật mình đưa mắt nhìn người trước mặt, thoáng chút ngây ngô. Trước nay, ngoại trừ mẹ chàng Cao Lâm Mạn thì Lý Tiên là nữ tử được coi là người xinh đẹp thứ hai trong mắt chàng. Thế mà hôm nay, đối diện với nữ tử này, không một câu từ nào có thể diễn tả được hết sự diễm lệ đó. Mắt nàng ta trong suốt tựa sương mai buổi sáng, long lanh như nước hồ trong vắt, đôi mắt ấy đang nhìn chàng chờ câu trả lời, vừa ngạo mạn vừa tinh nghịch. Trời đang nắng, hai má nàng hồng hào, trên trán lấm tấm mồ hôi, đôi môi đỏ mọng hệt quả đào mọng nước. Tống Thanh Dực nuốt "ực" một cái nhẹ rồi nói: - Phải! "Gì thế này? Phải ư? Có thất lễ quá không?". Tống Thanh Dực lúng túng lùi về sau một bước rồi đưa tay che miệng, hắng giọng, ấp úng: - À, mạt tướng.. Nghinh Hương Đoan Mẫn ngắt lời, thẳng thắn: - Đích tử của quốc công, phiêu kỵ tướng quân trẻ tuổi nhất của Nguyên triều, Tống Thanh Dực. Ta nói đúng chứ? Lúc này, Tống Thanh Dực đã gần như xác định được người trước mặt chàng đúng thật là tam công chúa Nghinh Hương Đoan Mẫn, có điều nàng thực sự đúng như lời đồn, quả nhiên là tuyệt sắc khuynh thành. Cả Lý Tiên, và cả Triều Dương quận chúa tuy chưa gặp lại kia cũng không thể nào so bì được. Tia nắng trên cao chạy theo hướng mặt trời lui về sau hậu viện, dưới ánh hoàng hôn của buổi chiều nhàn nhạt, nét kiều diễm kia dù đã trải qua cả trưa gay gắt, tóc mai bên tai tuy có chút rối vẫn khiến lòng người say đắm. Tống Thanh Dực đưa ánh nhìn về khuôn mặt của Đoan Mẫn, tim liên hồi từng nhịp, lúc có lúc không. Đoạn thì lên tiếng: - Mạt tướng tham kiến tam công chúa. Chúc tam công chúa sinh thần vui vẻ, trường lạc an khang. Vài hôm trước sinh thần, Đoan Mẫn có nghe phụ hoàng nói qua về hôn sự của nàng. Mặc dù ông không cưỡng ép nhưng dường như cũng là mặc định, và người mà ông chọn cho nàng là đích tử của quốc công đương triều, cháu ngoại của tiền ngự sử, Tống Thanh Dực. Nàng đưa mắt nhìn rồi cười qua loa, nói: - Đa tạ tướng quân. Nhưng.. làm sao mà tướng quân lại biết là ta? Tống Thanh Dực ngước nhìn Đoan Mẫn, vẫn là ánh nhìn say đắm, chân thành như thế, vẫn là thái độ ngượng ngùng, bối rối như thế, chàng ngập ngừng giây lát, hồi lâu mới nói: - Hồi tam công chúa, hôm nay là sinh thần của người, chẳng phải cả hoàng cung đã có lệnh bất cứ ai cũng không được bước vào ngự hoa viên này sao? Hơn nữa, Diễm Tiên Các của tam công chúa cũng gần nơi này nhất, với lại.. Lúc này, lại nghe tiếng nàng hỏi: - Thế sao ngài lại vào đây? Đoan Mẫn nhướng mắt đợi câu nói tiếp theo, Tống Thanh Dực kiên định nhìn thẳng mặt nàng, phần nào đó bớt đi sự ngại ngùng, điềm nhiên nói: - Mạt tướng không phải người trong cung. Rồi trầm giọng, ôn nhu: - Trước đây, thần từng nghe qua một câu nói được lưu truyền trong dân gian, đó là tam công chúa Nghinh Hương Đoan Mẫn là đệ nhất mỹ nhân của Nguyên triều. Nếu người đây không phải là tam công chúa thì chẳng lẽ trên đời lại thật sự có tiên nữ hạ phàm hay sao? Nghe qua lời khen có chút không trực tiếp này, Đoan Mẫn vừa vui vừa lạ, ai gặp nàng không khen cũng tụng, ca ngợi đủ điều, không khéo lại đưa nàng lên tận mây xanh chứ nói gì là kiểu nhẹ nhàng mà chân thật này. Thoáng chút thú vị, nàng cười rồi hỏi lại: - Thế ra, tướng quân là đang khen ta xinh đẹp sao? Tống Thanh Dực mỉm cười, ngượng nghịu gật đầu nói: - Không phải là xinh đẹp, mà là vô cùng xinh đẹp. Đôi mắt này của mạt tướng nhìn chiến loạn, dấy máu tanh đã quen, hôm nay may mắn được dùng nó ngắm sự kiều diễm của tam công chúa, thật là vô cùng diễm phúc.. Đoan Mẫn ngắt lời chàng, cười nói: - Tướng quân anh hùng xuất thiếu niên. Tuổi còn trẻ như vậy đã lập được biết bao công lao hạng mã cho triều ta, phụ hoàng đánh giá rất cao năng lực của ngài. Gặp được nhau đây xem như là có duyên, ta đa tạ lời chúc phúc của tướng quân, nhân tiện cũng chúc tướng quân bách chiến bách thắng, cũng mong ngài sẽ trường lạc an khang. Nói xong thì bỏ đi ngay sau đó, còn chẳng thèm đợi Tống Thanh Dực nói thêm lời nào. Chàng mỉm cười, nghĩ bụng: "Quả nhiên là nàng công chúa ngạo mạn, nhưng.. sao nàng ấy lại có thể xinh đẹp thế này". Buổi tiệc tối đó diễn ra êm đềm, không có gì đặc biệt cũng chẳng có dấu hiệu gì của việc kết thân như lúc đầu chàng thấy, mọi người chỉ chào hỏi nhau và rồi ra về sau khi tiệc kết thúc. Hôm nay Bảo Thân Vương cáo bệnh không tới được, vì thế chàng cũng không có cơ hội gặp được Triều Dương quận chúa. Nhưng việc đó đã là gì, vì tối nay chàng chắc chắn sẽ chẳng thể nào ngủ được. Lúc về, phụ thân có hỏi chàng về tam công chúa, chàng lại giả vờ bình tĩnh, ậm ừ qua loa rồi thôi. Kỳ lạ là ông lại chẳng gặng hỏi gì nhiều, cứ thế về đến tận phủ, hai người chia nhau mỗi người một hướng. Tối đó, chàng quả nhiên không ngủ được, nhưng đến sáng vẫn nằm im ở đó, có lẽ là mệt quá thiếp đi lúc nào không hay. * * * Thay xong y phục, Tống Thanh Dực đến ngay phòng khách gặp Tống Trích Tư. Vừa tới nơi đã thấy ông như đang đợi chàng, liền hỏi: - Phụ thân, người đang chờ con sao? Tống Trích Tư gật đầu, nói: - Lần này tới Ôn Châu, ngoài mặt là hỗ trợ vùng dịch, nhưng thực ra là vì ta có việc quan trọng muốn con đi làm. Tống Thanh Dực thoáng nghĩ qua: "Lẽ nào có liên quan với người đột nhập mật thất mấy hôm trước". Như thể đã đoán được suy nghĩ của chàng, Tống Trích Tư bày ra nét mặt có hơi nghiêm trọng, nói: - Đúng thế! Ta muốn con thay ta thăm dò về tin tức của một người. Diễm Tiên Các. Tô Lịch chân thoăn thoắt đi nhanh như bay về phía Diễm Tiên Các, vừa vào tới cửa đã lớn tiếng gọi: - Tiểu Noãn Nhi, mau ra đây! Tô Lịch là ma ma thân cận của Nghinh Hương Đoan Mẫn, cũng có chút quyền hạn nho nhỏ trong Diễm Tiên Các. Nghe tiếng gọi, tiểu Noãn Nhi chạy nhanh ra, kéo tay Tô Lịch lại gần mình, suỵt khẽ: - Ma ma, ma ma, người nhỏ tiếng thôi. Công chúa mà nghe thấy là con đi đời đó. Nguyên là lúc sáng, tiểu Noãn Nhi có dọn đẹp lại Diễm Tiên Các vì mớ hỗn độn của yến tiệc tối qua. Không may cho nàng ta là trong lúc vô tình đã lỡ làm bể miếng ngọc lưu ly mà Đoan Mẫn xem như báu vật, và khoảnh khắc đó đã bị Tô Lịch bắt gặp. Đang bối rối không biết phải làm sao, cả người tiểu Noãn Nhi lập tức bất động khi nghe thấy tiếng Đoan Mẫn từ sau vọng tới: - Có chuyện gì mà mới sáng đã ồn ào rồi, ma ma? Tô Lịch còn chưa lên tiếng đã bị tiểu Noãn Nhi cướp lời: - Không.. không có gì đâu ạ. Công chúa, người.. người đói chưa? Em có nấu cháo hạnh nhân, người đi bên này nè. Nói rồi liền dùng tay trực tiếp đẩy Đoan Mẫn đi khỏi đó, mặt tái xanh không còn chút máu. Lúc tới bàn ăn được chừng đôi ba muỗng, Đoan Mẫn như sực nhớ tới điều gì quan trọng, liền đó hỏi: - À phải rồi tiểu Noãn Nhi, tối qua ta nhớ là có đưa em giữ hộ ta miếng ngọc. Giờ nó đâu rồi, em đưa lại cho ta đi. Chạy trời không khỏi nắng, bao nhiêu chân lý luân thường giờ được tái hiện chân thật trên người của tiểu Noãn Nhi, đã xui thì xui cho tới như thế đã đành, giờ lại còn bị bắt tại trận, đành bước ra mà quỳ xuống xin tha: - Công chúa, em xin lỗi người. Em lỡ.. em lỡ làm nó vỡ rồi! Một tiếng "vỡ" đánh tan chút cô lãnh trên gương mặt Đoan Mẫn, nàng thất thần nhìn vào miếng ngọc vỡ vụn trên tay của tiểu Noãn Nhi, vừa đau vừa ức. Đó là kỉ vật duy nhất còn sót lại trong kí ức mơ hồ của nàng về "tiểu ca ca". Lần đó nàng đi lạc, là "tiểu ca ca" hơn nàng đôi ba tuổi đưa nàng về, trong đêm vắng lạnh, một thân một mình khoác áo cho nàng ấm, đưa bánh cho nàng ăn, lấy nước cho nàng uống, "tiểu ca ca" đó là người duy nhất cho đến bây giờ mà nàng luôn chờ đợi, không trách móc. Giờ phút này đây, nàng giận cũng không được, trách cũng không xong, cứ thế im lặng rồi một mình rời khỏi, tiểu Noãn Nhi cực kì lo lắng, vội vàng đi tìm Tô Lịch cầu xin giúp đỡ. Tô Lịch giận thì có giận nhưng thực cũng thương người, theo đó đi đến tư phòng của Đoan Mẫn. Tới cũng được một lúc, đứng ngoài suy nghĩ đắn đo cũng được một lúc, Tô Lịch không biết phải nói gì nên lần lựa mãi mà chưa gõ cửa. Đoan Mẫn hiểu cả, nói vọng ra: - Tô ma ma, ma ma về đi. Ta không sao. Từ lúc hoàng quý phi qua đời, tất cả sủng ái mà bà có được khi còn sống dồn hết cả lên người Đoan Mẫn. Hoàng đế yêu thương nàng hết mực, trong số hai người con gái, ông chiều chuộng nhất là nàng, nhưng bao nhiêu đó vẫn không đủ để vơi đi sự trống vắng trong lòng Đoan Mẫn. Kể từ ngày mẫu phi mất đi, nàng trở nên lãnh cảm, vô tình, ngoại trừ Tô Lịch và tiểu Noãn Nhi, dĩ nhiên không tính hoàng đế thì rất ít ai có thể bắt chuyện với nàng quá hai câu. Tất nhiên, trường hợp của Tống Thanh Dực cũng là cực kì hiếm hoi. Sinh thần của nàng ngoài mặt thì hoành tráng thế thôi chứ đến đêm của năm nào cũng chỉ có mỗi nàng ngồi trước bức họa của mẫu phi, tay cầm ngọc bội, tay cầm bình rượu, uống cạn ngon lành. Đã năm năm rồi, lần nào chả thế, nàng vốn đã quen với việc đón sinh thần kiểu cô độc như vậy, tốt nhất là đừng có ai làm phiền hay kiếm cớ bắt chuyện, lại càng hay. Năm nay, có chút đổi thay, ngọc bội đã vỡ, rượu cũng tỉnh rồi, hiện thực dường như đang muốn nàng quên đi kỉ niệm ngày xưa, chẳng còn lại thứ gì lưu giữ. Buổi chiều hôm đó, Đoan Mẫn cuối cùng cũng rời khỏi phòng, tiểu Noãn Nhi mừng lắm, ríu rít chạy lại nắm lấy tay áo nàng, nhỏ giọng mà nũng nịu: - Công chúa, công chúa. Người dọa nô tì sắp chết rồi! Đoan Mẫn không muốn khiến mọi người khó chịu, không vui lại cắn rứt bèn nở nụ cười nhạt nhẽo, vô cảm nói: - Đem vứt đi.. Tiểu Noãn Nhi buông nhanh tay áo Đoan Mẫn, miệng lắp bắp: - V.. ứt vứt? Cô.. ông công chúa, người bảo vứt là vứt ngọc.. ngọc bội sao? Đoan Mẫn đưa ánh mắt vô hồn nhìn tiểu Noãn Nhi rồi hờ hững buông một câu: - Đúng thế! Dù sao cũng đã vỡ rồi, giữ lại có ích gì nữa. Nói xong thì quay lưng bỏ đi, chẳng thèm đoái hoài xem vật đó bị vỡ thành thế nào. Tiểu Noãn Nhi phải nói là cực kì sốc, bình thường chủ nhân của nàng trân quý miếng ngọc đó thế nào, nàng là người rõ nhất, ấy vậy mà hôm nay lại chủ động đòi vứt đi. Nghĩ tới nghĩ lui vẫn cảm thấy không ổn, tiểu Noãn Nhi đem nó bỏ lại vào túi thơm rồi cất ở tư phòng. Như Lai tửu quán. Như Lai tửu quán thật không hổ danh là đệ nhất tửu lầu của Đại Đô, khách đến đây không ngớt bất kể ngày đêm, mỗi người đều là đại phú, mà kể cả bản thân chưa giàu có thì cũng là tiểu thiếu gia, người kế thừa chính tông của dòng họ. Tính ra, nhóm người của Tạ Vô Phong, Chu Linh và Lệ Ân Đình là khách vãn lai rỗng túi nhất. Đâu đó vài tiếng cười vui, trêu nhau lâu ngày không gặp, Lệ Ân Đình chán ngán vô thức bóc tách vỏ đậu rồi bóp nắn cái màn thầu, thực là chẳng có gì để làm nên đâm ra rảnh rỗi. Lúc sáng, đúng lý sẽ ra ngoài cùng Tạ Vô Phong nhưng vì trông cái bản mặt Chu Linh không mấy thích nên nàng làm lẫy chẳng thèm đi, đành ở lại tửu quán một mình. Bàn đối diện cửa chính mới thêm hai vị khách, có vẻ là thương nhân, làm ăn hẳn là kha khá, quần áo trên người trông qua cũng rất có giá trị, điệu bộ hống hách lắm. Vừa tới bàn ngồi xuống liền lớn tiếng nói: - Đúng là xúi quẩy, đám quan lại Ôn Châu làm gì không biết. Dịch bệnh đã xảy ra cả tháng trời lại chẳng có ai đứng ra giải quyết. Đám dân đen gánh nạn chết thì chẳng nói làm gì, con đường làm ăn của chúng ta lại cũng vì thế mà liên lụy. Người còn lại chọt vào mấy tiếng: - Triều đình còn chưa lo thì đâu đến lượt chúng ta. Tôi nghe nói dịch bệnh lần này triệu chứng giống hệt như của hai mươi năm trước. Lần này Ôn Châu lại xác chất thành núi rồi. Lệ Ân Đình nghe qua thì có chút ngạc nhiên. Lúc tới đây, nàng và Tạ Vô Phong cũng có đi ngang Ôn Châu. Nơi đó sung túc, ấm no, giàu có, không phải kiểu lưa thưa, thiếu thốn. Nếu là hai mươi năm trước dịch bệnh khiến Ôn Châu xác phơi đầy đồng thì lẽ nào ngày đó nơi họ đi qua lại là bãi tha ma. Nghĩ tới mà ớn lạnh cả người, Lệ Ân Đình đứng lên đi về phía đám người lúc nãy, dò dèm hỏi: - Xin lỗi, lúc nãy ta nghe các vị nói trước đây khá lâu Ôn Châu từng bị dịch bệnh giống như bây giờ sao? Người khách trong bàn nghe hỏi thì lập tức thể hiện sự hiểu biết của mình, kể liền một mạch: - Đúng thế! Chuyện cũng khá lâu rồi, là khoảng hai mươi năm trước. Ôn Châu hứng chịu sự trừng phạt của lão thiên gia, hạn hán, vỡ đê, mất mùa và dịch bệnh kéo đến cùng một lúc. Năm đó, bá tánh Ôn Châu kéo tới đây mấy trăm người, hoàng đế không hiểu vì sao lại nhất quyết không mở cổng thành, bỏ mặc sự sống chết của họ. Sau đó, họ đã bỏ cuộc trở về, xác chết khắp nơi, trở thành một cuộc chết chóc hiếm hoi nhất trong lịch sử Nguyên triều. Người bên cạnh nói thêm vào: - Cũng không thể trách hoàng đế được, tất cả là vì nghĩ cho bách tính thiên hạ mà thôi. Khi ấy, những người đó đã bị nhiễm bệnh cả rồi, nếu mở cổng thành cho họ vào trong khác nào đem mầm bệnh gieo rắc cho cả Đại Đô và hoàng cung đại nội sao? Lệ Ân Đình nghe qua đầy cảm thán, trong lòng chợt dấy lên suy nghĩ: "Cũng đều là một mạng người, lại có kẻ được cứu, kẻ không có quyền sống. Công bằng, công lý ở đâu?". Im lặng hồi lâu, nàng lại hỏi: - Vậy.. năm đó làm sao Ôn Châu vượt qua được? Tiểu nữ có đi ngang Ôn Châu vào hai tháng trước, thấy nơi đó vẫn an hòa, bá tánh có cuộc sống rất khắm khá. Không giống gì là bị tàn phá, dù cho đã hai mươi năm thì việc khan phục như thế cũng khiến người ta thật khó tin. Người khách đó vỗ tay lên đùi, cười lớn, ồ ồ nói: - Dĩ nhiên rồi, năm đó là Ôn Châu gặp may, nếu không có người đó ra tay cứu giúp thì giờ này nơi đó đã là miền đất hoang khô cằn rồi. Lệ Ân Đình nghe thấy thì hồ hởi, hỏi tới: - Có người giúp sao? Người đó lợi hại tới vậy à? Người khách ôn tồn, nói: - Không phải là lợi hại mà là vì người đó yêu dân, bát ái lại được trời thương, ban mưa, dừng lũ, Ôn Châu mới tai qua nạn khỏi. Lệ Ân Đình ngây người ra, vị khách đó lại tiếp: - Người đó được mệnh danh là phật sống của Ôn Châu, Bình Dương vương gia, Trương Nhất Sơn. Lệ Ân Đình lùi về sau mấy bước, tim nàng như ngừng đập khi được nghe lần nữa tên gọi của một người mà trước khi chết sư phụ của nàng, Tạ Sâm đã từng nhắc đến. Bao lâu đến Đại Đô vẫn mãi chưa có tin tức gì của người cần tìm, nay lại vô tình bắt được chút manh mối có liên quan, nàng dĩ nhiên không bỏ qua cơ hội, liền đó hỏi tới: - Vậy.. không biết huynh có biết gì về sự việc năm đó và những chuyện có liên quan tới vị vương gia đó không? Người khách đó có hơi nhíu mày, từ từ nói: - Ta cũng không rõ, chỉ biết là không lâu sau lần đó phủ Bình Dương đã xảy ra một thảm án lớn, cướp đi hơn năm trăm mạng người, cả chủ nhân nơi đó là phu phụ của Bình Dương vương gia và đích tử của họ. Thật đau xót! Ta còn nhớ năm đó, bá tánh Ôn Châu kéo tới không ít, khóc lóc suốt ba ngày ba đêm ngoài cổng thành Đại Đô, có đuổi thế nào cũng không chịu rời khỏi. Hoàng đế cũng vì nhớ thương con cháu mà ngã bệnh mấy tháng trời. Lệ Ân Đình sụt sùi một hồi lâu thì hỏi: - Theo như mọi người nói thì dịch bệnh năm đó là nhờ có Bình Dương vương gia mà giải quyết được. Vậy là ngài ấy rất giỏi y thuật sao? Vị khách đó xua tay, nói: - À không, Ôn Châu là nhờ phúc của ngài ấy mới được cứu chứ ngài ấy thì không biết y thuật. Dịch bệnh là do bạn của ngài ấy chữa, một trong tứ kiệt vang danh thời đó, Vân Du. Lệ Ân Đình há hốc mồm, bất giác ngây người. Tạ Vô Phong cùng Chu Linh ở bên ngoài vừa vào thì nghe thấy câu chuyện, chân như chôn tại chỗ, môi mấp máy không thành tiếng: "Vân.. Vân Du?"
Chương 8: Sơ kiến Bấm để xem Đại Đô hữu duyên, võ phu chạm mặt đại mỹ nam Ôn Châu nguy cấp, Chiêu Tâm Đan gặp được chân tình Một nơi nào đó ngoài kinh thành. Đã bắt đầu từ tối qua, khi biết được chút manh mối về người tên Vân Du, Tạ Vô Phong quyết định sẽ nhanh chóng tới Ôn Châu càng sớm càng tốt. Lòng chàng nóng như lửa đốt, phần vì lo lắng không biết người đó còn sống hay không, mà giả dụ vẫn còn sống thì liệu có mắc bệnh hay không, có còn nhớ chuyện năm xưa hay không. Và cứ thế, chàng cả đêm trằn trọc không ngủ được, tờ mờ sáng đã vội cùng Chu Linh và Lệ Ân Đình rời khỏi Như Lai tửu quán. Trời cao xanh, mây trôi xa lơ đãng, gió nhẹ mang theo mùi đất vì nắng gắt hắc lên xộc vào mũi, cổ họng khô rang, vẻ mặt gần như không thể chịu đựng thêm được nữa, Chu Linh giọng có chút bực dọc, nói: - Chết tiệt, cô ấy đi ngủ hả? Sao lâu thế? Nguyên việc là lúc sáng, ba người có ghé qua một quán ăn, do đi quá vội nên quên mất đã mua màn thầu và vẫn để đó không đem theo, Lệ Ân Đình xung phong về đó lấy nhưng cũng khá lâu mà nàng vẫn chưa quay lại. Bình thường ai đó sẽ nghĩ do Chu Linh không thuận với Lệ Ân Đình nên tìm cớ kiếm chuyện nói xấu nàng, nhưng hiện giờ người chứng kiến là Tạ Vô Phong, chàng cũng như Chu Linh, khó chịu với cái nóng bên ngoài, lại thêm lòng cũng nóng như lửa với manh mối vừa có được nhưng vẫn cố dằn lòng bình tâm, nói: - Chắc phải có chuyện gì rắc rối. Muội ấy biết chúng ta đang vội, không đi lung tung đâu. Nói xong liền quay đầu ngựa cùng Chu Linh đi lại vào thành tìm Lệ Ân Đình. Đại Đô. Tiểu Noãn Nhi châu mày suy nghĩ điều gì đó, có vẻ rất nhập tâm. Được hồi thì thả lõng cơ mặt, hỏi: - Công chúa, em không hiểu vì sao người lại cứ nhất quyết phải tới Ôn Châu chứ? Nơi đó đang có dịch bệnh. Nguy hiểm lắm! Nghinh Hương Đoan Mẫn mỉm cười, không nói gì, nàng tự có tính toán của riêng mình. Đi được vài bước thì lên tiếng, nói: - Chính vì nơi đó có dịch bệnh nên ta càng phải tới. Nói rồi thì nhanh chân bước đi, Tiểu Noãn Nhi chạy theo, gọi: - Cô.. ng tử, người chậm thôi! Em vẫn chưa hiểu. Công tử! "Đứng lại", "Tránh ra", Đoan Mẫn quay đầu nhìn lại thì thấy một tên ăn mày, áo quần rách tả tơi, đầu cổ rối bù cầm một cái tay nải chạy thục mạng về phía nàng. Nhanh chân, nàng lách sang một bên tránh né, chưa hoàn hồn thì người đuổi theo phía sau đã sượt ngang vai nàng nghe "vù" một cái, búi tóc cải nam trang cơ hồ muốn rớt xuống theo, cùng lúc tiểu Noãn Nhi vừa đến thì giữ nàng lại rồi xuýt xoa, hỏi: - Nguy hiểm quá! Người.. người không sao chứ? Đoan Mẫn tay giữ búi tóc, mắt nhìn theo mà miệng thì lầm bầm: "Chết tiệt, xuýt chút là lộ tẩy rồi! Mà khoan đã, tên trộm lúc nãy..". Nói tới đây thì nàng đột ngột tức tốc đuổi theo, lần nữa bỏ lại tiểu Noãn Nhi. "Đứng.. đứng lai.. lại..", Lệ Ân Đình một tay chống hông, một tay chỉ về phía tên trộm, thều thào nói: - Ngươi.. ngươi.. ngươi, ta nói ngươi đó, muốn ăn thì lấy.. lấy đi, trả.. trả.. trả tay nải lại cho ta. Tên ăn mày lấm lét, mắt vẫn dòm chừng, sau đó thì nhanh nhẹn tháo tay nải ra, lấy một cái cho vào miệng rồi mỗi tay cầm thêm hai cái nữa. Lệ Ân Đình đưa ánh nhìn về phía sau lưng hắn thì phát hiện có người đang tới, nhìn gần thì là một vị công tử tướng mạo xuất chúng, vừa khôi ngô vừa đẹp đẽ, trông sạch sẽ, đáng yêu như một cái bánh bao sữa. Người vừa tới đâu ai xa lạ, là Nghinh Hương Đoan Mẫn, nàng tức giận lớn tiếng: - Tên khốn nhà ngươi mấy hôm trước lấy trộm tiền của ta, giờ lại đi trộm màn thầu. Còn không mau trả tiền cho ta. Tên ăn mày hoảng hốt, ngó qua mới thấy đúng là người lần trước đã bị hắn trộm túi tiền, bèn lấy cái bánh khỏi miệng, liền đó chối: - Tiền.. tiền gì chứ? Ta không có trộm tiền của ai cả. Nói rồi, trực tiếp gạt tay Đoan Mẫn ra, càn người toan bỏ chạy, liền đó va vào một người nữa vừa tới, là Tạ Vô Phong. Chàng chỉ mới đến đầu đường nhưng lớ ngớ thế nào lại nghe ra Đoan Mẫn chính là kẻ trộm nên chẳng truy chẳng hỏi mà nắm lấy cổ tay nàng không buông. Đoan Mẫn tức tối, nói với giọng bực dọc: - Lại là ngươi? Sao lần nào gặp ngươi ta cũng đều xui xẻo vậy hả? Tạ Vô Phong chẳng thèm để ý lời của Đoan Mẫn, ngó mặt về phía Lệ Ân Đình mà hỏi: - Hắn ta giấu tay nải ở đâu rồi? Lệ Ân Đình há hốc mồm, nàng cười mà như khóc, lần này tiêu đời rồi, vừa để xổng mất kẻ trộm giờ lại còn bắt nhầm người, phen này là mất cả chày lẫn cá, rõ ràng như thế. Đoan Mẫn cố hết sức vung tay khỏi nắm tay của Tạ Vô Phong nhưng vô dụng, cổ tay nàng bé xíu, lọt thỏm trong nắm tay của chàng, thành ra càng vung chàng càng giữ chặt. Được hồi thì xuống giọng, kiểu bất cần: - Ta không phải kẻ trộm. Ngươi vừa để tên trộm thực sự chạy mất rồi đó. Chu Linh từ đầu đường bước vào, nói: - Là thật đó, tay nải ở đằng kia, tên đó cầm bánh chạy mất rồi! Lúc này, chàng mới giật mình nhìn lại người trước mặt, ánh mắt đầu tiên giao nhau, chàng bất giác sựng người, một ánh mắt cực kì quen thuộc, cảm giác đã từng gặp ở đâu đó, rất lâu, rất lâu rồi. Khuôn mặt bầu bĩnh tròn tròn, hai má phúng phính hồng hồng dưới nắng trưa, đúng như Lệ Ân Đình nói, người này vừa sạch sẽ, vừa đẹp đẽ và đáng yêu như một cái bánh bao hồng ngày chúc thọ. Tạ Vô Phong vô thức buông nắm tay khỏi cổ tay Đoan Mẫn, phút giây ngước nhìn nàng lần nữa, ngập ngừng nói: - Ta.. ta xin lỗi! Ngươi không sao chứ? Đoan Mẫn tức giận, không lấy lại được tiền thì không nói, cái ấm ức lớn hơn đó là nàng đã bị vụ oan là kẻ trộm, mà trộm gì không trộm lại đi trộm màn thầu, nói ra xem có mất mặt không chứ. Nghĩ tới đó, nàng liền hỏa khí xung tới đầu, lấy tay vạch cổ tay áo lúc nãy bị chàng nắm lên, hỏi: - Ngươi nhìn đi, có giống không sao không? Tạ Vô Phong đưa mắt nhìn vào cổ tay Đoan Mẫn, đúng là cái nắm lúc nãy của chàng có hơi mạnh, thành ra bây giờ chỗ đó đã ửng đỏ cả. Chàng ngó qua lại thoáng chút bồi hồi vì cổ tay kia lộ da một chút thôi mà trông vừa mịn vừa trắng, sực nhớ khi nãy lúc giữ lấy cổ tay người đó đúng là da thì mịn, xương thì nhỏ, không giống cốt cách một nam nhi nên có. Đột nhiên "ậm ừ" rồi gật gù vài cái, một nụ cười dần hiện rõ trên mặt, Tạ Vô Phong mỉm mỉm khoé môi, hắng giọng nói: - Thì.. thì ta đã xin lỗi rồi mà. Chứ bây giờ ngươi muốn ta phải làm gì? Mà chuyện này không phải tại ngươi sao? Nếu không phải trộm thì từ đầu nói rõ ra đi. Đoan Mẫn nhìn thẳng mặt Tạ Vô Phong, giây phút bối rối vì sự anh tuấn đặc biệt của chàng. Nó không phải kiểu nho nhã, chỉnh tề của các thiếu gia, công tử, cũng không phải kiểu phong trần, tiêu soái của đại hiệp giang hồ, càng không giống kiểu anh tuấn, lẫm liệt như Tống Thanh Dực, nó đẹp theo kiểu từ cốt cách, hoang dại mà mãnh liệt, ánh mắt đó trong sáng không chút tạp niệm, cái mũi cao nhìn vào chỉ thấy đầu chót mũi tự dưng lại khiến toàn thể khuôn diện gọn gẽ, chiếc cằm chẻ đôi chia hai bên gò má cặp xương hàm đầy đặn, chính là kiểu này, kiểu đẹp mà Đoan Mẫn rất thích. Chớp mắt vài cái, nàng có chút hơi ngượng ngùng nhưng thái độ vẫn cao ngạo, lãnh cảm, hờ hững nói: - Còn có thể làm sao? Ta đúng là xui xẻo mới gặp phải ngươi. Tránh ra! Lấy tay đẩy người Tạ Vô Phong sang một bên rồi bỏ đi một mạch, Lệ Ân Đình nhìn theo hồi lâu thì nói: - Nam nhi gì đâu mà hẹp hòi, có vậy cũng day dưa cho được. Đẹp thì có đẹp mà tính toán quá luôn. Tạ Vô Phong mỉm cười, vô thức nghĩ: "Nam nhi? Phải rồi, hơn nữa còn là.. còn là một.. tiểu mỹ nam". * * * Tia nắng luồng qua khung cửa hình bán nguyệt, trốn mặt trời đi chơi nên tấp hẳn vào mặt thằng nhóc nằm trên chiếc giường gần cửa sổ. Nó hé hé một bên mắt trái rồi chầm chậm mở mở bên mắt phải, thấy chói quá liền nhắm híp lại, lần nữa mở ra, lần này thì tốt rồi, cảm nhận được chút sinh khí xung quanh, nó mỉm cười như thầm cảm ơn lão thiên gia. Một lát sau, nghe có tiếng người bước vào, nó ngả đầu về hướng cửa sổ, giả vờ ngủ. Mà nghĩ cũng hay, nó nhắm tịt mắt lại, một kẽ hở cũng không thấy, chỉ là xui cho nó đụng phải người đã gặp không biết bao nhiêu đứa trẻ vì không muốn uống thuốc mà dùng chiêu này, chỉ là bản lĩnh những đứa đó cao tay hơn chút, đôi ba lần đầu cũng thành công lừa được nàng. Chiêu Tâm Đan tay cầm chén thuốc, nhẹ nhàng bước từng bước nhỏ tới gần bên chiếc giường của nó, nói với giọng điệu như buồn bã lắm: - Đã lâu thế rồi mà còn chưa khỏi, nếu tình hình này kéo dài, ta dù không muốn lắm cũng phải buộc lòng đem ngươi đi hỏa thiêu thôi.. "Hỏa thiêu?" Nghe tới đây thì nó lập tức bật dậy, miệng lắp bắp: - Ta.. ta khỏi rồi, khỏi.. rồi! Chiêu Tâm Đan lúc này phải nói là hoan hỉ lắm nhưng lại làm mặt nghiêm, nói: - Cái thằng nhóc chết tiệt này, ngươi đã khỏi lại còn giả vờ giả vịt, có tin ta đem ngươi đi hỏa thiêu thật không hả? Thằng nhóc trợn mắt, bĩu môi nhìn Chiêu Tâm Đan rồi thái độ như kiểu bất cần, hỏi: - Là ngươi cứu ta hả? Chiêu Tâm Đan "cốc" một cái đau điếng vào trán nó, nói: - Ngươi hả? Gọi là tỷ tỷ, thật là vô tâm, vô phế.. Nói rồi, nàng bỏ ra ngoài, thằng nhóc coi vậy mà ngoan, tay với lấy chén thuốc, miệng lí nhí: - Cảm ơn.. tỷ tỷ.. Tay rót chén trà đưa cho một vị nương tử tuổi trung niên, Chiêu Tâm Đan đưa mắt nhìn quanh rồi nhỏ giọng, hỏi: - Đại thẩm, chỗ này heo hút, chỉ có một mình thẩm ở đây, không thấy sợ sao? Vị nương tử đó cười buồn, nói: - Từ lúc ta theo phu quân tới đây nó đã như thế rồi. Dần dà cũng quen, mọi thứ không đến nỗi nào. Mấy ngày sau, nàng cùng thằng nhóc rời khỏi, không quên để lại cho đại thẩm đó chút bạc xem như đền đáp. Vốn muốn đến Ôn Châu nhưng vì đường hơi xa mà lại có thêm đứa trẻ cần dưỡng bệnh nên nàng thuê hẳn một cái xe ngựa rồi tự mình làm phu xe. Thằng nhóc ngủ một hồi thì thức giấc, ngó qua cửa sổ thấy bản thân đang trở về cái nơi mà nó đã từng từ đó bán mạng chạy tới đây thì hoảng loạn thật sự, liền vén rèm nắm áo nàng, nói lắp: - Gì vậy? Sao.. sao tỷ lại đưa ta trở về Ôn Châu? Chiêu Tâm Đan lập tức dừng xe ngựa lại, tuy bình thường nó hay càn quấy lại bướng bỉnh, còn khó bảo nhưng suy cho cùng cũng là một đứa trẻ, tính cách chân thật nhất bị ảnh hưởng bởi mọi thứ xung quanh cũng là điều dễ hiểu. Bao ngày qua tiếp xúc, nàng phát hiện nó ngoại trừ tính cách hay cao ngạo hay khiến nàng tức ói máu ra, còn lại tất thảy đều khá tốt. Trông qua sự hoảng loạn khi nãy, Chiêu Tâm Đan biết nó đã sợ thật sự nên vội vàng dừng xe, vào trong trấn an. Khi tình trạng đã ổn hơn, nàng mới nhẹ giọng nói: - Đệ đừng sợ! Tỷ là đại phu, tỷ rất giỏi y thuật, bệnh của đệ không phải cũng là do tỷ chữa mà khỏi sao? Bây giờ, chúng ta sẽ đến Ôn Châu cứu người, họ cũng bị bệnh giống như đệ, nếu tỷ còn không đến cứu có thể họ sẽ chết đó. Đệ ngoan, chúng ta đến đó cứu họ, được không? Thằng nhóc rụt rè đưa đôi mắt rơm rớm nước ngước nhìn nàng, khoé miệng từ từ mở, nói: - Chỗ đó.. có rất nhiều.. rất nhiều, rất nhiều người đã chết. Đệ không muốn, không muốn quay lại đó. Không muốn.. Chiêu Tâm Đan càng nghe càng nóng lòng, theo tình hình mà nó nói thì có lẽ dịch bệnh ở Ôn Châu đã lan nhanh tới mức không thể kiểm soát. Nàng nghĩ bụng: "Quan lại địa phương không đá động tới thì đã đành, đến cả Nam Bình Vương cũng không quan tâm gì sao? Thật không hiểu nổi!". Rồi lại nhìn xuống thằng nhóc thở dài, nghĩ một lát rồi dỗ dành: - Chỗ kia có một ngôi chùa bỏ hoang, chúng ta vào đó nghỉ qua đêm rồi tính tiếp, được không? Lần này thì nó gật đầu đồng ý, Chiêu Tâm Đan mừng thầm trong bụng, tính cách quái gỡ khi vầy khi khác này nếu nói nó là con của sơn tặc chắc hẳn nàng cũng tin. Tối đó, nó một mình ngồi buồn bên đống lửa, tự nhiên lại bắt chuyện trước, hỏi nàng: - Sao tỷ không hỏi ta là ai, tên gì, ở đâu? Chiêu Tâm Đan mỉm cười, đi lại ngồi cạnh bên nó, nói: - Vì tỷ là đại phu. Tỷ cứu người, không quan tâm tới việc họ là ai, họ đến từ đâu, họ giàu hay nghèo, họ quyền quý hay bần nông. Đây là chức trách cũng là tâm đức cần có của một đại phu. Nó đưa mắt nhìn nàng rồi tự dưng chu miệng thổi phồng hai má, đoạn bỏ đi lại chỗ ngủ, khe khẽ tiếng: - Ngủ thôi, mai còn lên đường nữa. Chiêu Tâm Đan đỏ mặt, ánh lửa bập bùng soi rõ con ngươi đen láy, lấp lánh giọt nước đọng hai bên khoé mắt, nàng là cảm động, cảm động thực sự trước cái dũng khí của một đứa trẻ còn quá nhỏ. Tối đó, nàng ôm nó ngủ ngon lành, một nụ cười được vẽ trên khuôn mặt hai người, trông hạnh phúc và yên bình lắm. Sáng hôm sau, Chiêu Tâm Đan thức giấc trong tâm trạng hết sức vui vẻ, có một điều lạ là không thấy thằng nhóc đâu. Ban đầu, nàng không lo lắng lắm, còn khá bình tĩnh, vì thằng nhóc vốn hiếu động, nghịch ngợm, lỡ nó chạy ra ngoài phá phách thì sao. Được hồi lâu không thấy nó về, nàng liền bắt đầu bất an, lòng hơi có chút hoảng loạn, mắt đã đỏ đi lúc nào không hay. Sau một hồi nghĩ ngợi, nàng đã cố thử tìm kiếm xung quanh, không thấy nó đâu cũng không có dấu tích giằng co hay xô xát, điều đó khiến nàng yên tâm phần nào. Đoạn, nàng quyết định nhanh chóng đến Ôn Châu xem thử nó có về đó hay không, dẫu sao cũng là một đứa trẻ, không thể đi nhanh hơn nàng được. Ôn Châu. Khoảng hơn hai tháng trước, dấu hiệu của dịch bệnh không quá rõ ràng, nhiều người còn cho rằng đó chỉ là chứng ngộ độc bình thường, không ngờ trong vòng ba ngày sau đó, chuyển biến của tình trạng này ngày càng nặng hơn, giờ đây đã chính thức trở thành đại dịch đã từng xuất hiện hai mươi năm trước. Bá tính nơi đây, những người đã sống được từ ba mươi năm trở lên đều cầu xin có phép màu lần nữa, một người có thể đem lại cho họ ánh sáng của hy vọng giống như hai mươi năm trước đây. Nhưng tất thảy mong ước đều vô vọng, họ bị quan lại nơi đây cầm chân trong một trấn nhỏ, người muốn vào không được, người muốn ra lại càng khó khăn hơn. Nam Bình Vương Nghinh Thành Mãn là vị vương gia quản hạch cao nhất của Ôn Châu, đúng lý ông sẽ là người có quyền can dự chuyện này, người dân cũng không đến nỗi lâm vào tình cảnh màn trời chiếu đất. Chỉ là không rõ vì nguyên cớ gì mà từ giữa tháng đầu của dịch bệnh, nhi tử độc nhất nhà Nam Bình Vương, vương thái tử mới mười tuổi đầu đã mất tích trong phạm vi vùng dịch, tới nay vẫn chưa rõ tung tích. Nam Bình Vương yêu thương đích tử này vô cùng, vương thái tử thông minh, hiểu chuyện, lại rất đáng yêu, tuy tính tình có hơi cao ngạo nhưng điểm này lại cực kì giống ông nên càng được yêu thương. Nghinh Thành Mãn từng đưa ra yêu cầu với những người trong trấn, nếu còn không giao ra vương thái tử, ông tuyệt đối sẽ không can thiệp, mặc cho họ tự sinh tự diệt. Chỉ là người có để giao thì không nói, đằng này vương thái tử đó thực sự không hề có mặt trong trấn, giả dụ có chết rồi cũng sẽ nằm trong đống xác chỗ đầu thành, nhiều người vì muốn được sống mà như điên như dại mặc kệ mọi thứ lao vào đó moi móc từng người từng người, hòng mong tìm thấy chút hy vọng mong manh. Đã hai tháng từ lúc dịch chính thức bùng phát, không một ai dám bước vào nơi đó, ban ngày bọn họ chui vào nhà tránh nắng, ban đêm lại ra đường tránh muỗi. Gọi là tránh muỗi cho sang chứ thực ra là sợ nếu ở trong nhà lỡ họ chết thì lại chẳng có ai trông thấy. Trấn Bình An này đã từng sầm uất thế nào, được xem là một trấn giàu có và xinh đẹp nhất của Ôn Châu, vậy mà giờ đây không có gì ngoài những tiếng khóc than, gào thét, oán hận. Nam Bình Vương phủ. Nô tì Nhược Mai hành lễ, giọng run run: - Vương gia, vương phi người.. người cả ngày không nói chuyện, không ăn uống gì rồi. Ngài mau khuyên người đi, bằng không.. bằng không.. Nghinh Thành Mãn khoát tay ra hiệu bảo Nhược Mai rời khỏi, một mình ông bước vào tư phòng của Bạch Ý Nương. Nàng là nữ tử bình thường, thân phận tầm thường, không kiêu sa, diễm lệ, nhưng ngày đó lần đầu ông tới đây, nàng là người cùng ông vượt qua nhiều khó khăn, trải qua nhiều kỉ niệm nên năm tháng sau này đã càng trân trọng nhau hơn. Lấy tay cầm chén tổ yến lại cạnh giường Bạch Ý Nương, Nghinh Thành Mãn ôn nhu khuyên bảo: - Ý Nương, nàng ăn chút gì đi. Nàng cứ như thế bản vương thật rất đau lòng. Bạch Ý Nương đưa ánh mắt vô hồn nhìn Nghinh Thành Mãn, khuôn mặt nàng nhợt nhạt, tái xanh, rõ ràng là biểu hiện của một thời gian bỏ bê săn sóc nên trông thật yếu ớt. Khoé môi nhếch lệch một bên, giọng điệu vô tình thốt ra từ đôi môi trắng bệt: - Lòng của vương gia đau có bằng lòng của thiếp đau không? Ngạn nhi của thiếp, thằng bé.. thằng bé chỉ mới có mười tuổi thôi, chỉ mới mười tuổi thôi. Tất cả là tại ngài, là tại ngài. Ngài trả con lại cho thiếp, trả Ngạn nhi lại cho thiếp.. Nghinh Thành Mãn xót xa, trầm giọng nói: - Ý Nương, ta xin lỗi nàng. Ngạn nhi nó là cốt nhục của ta, ta cũng đau đớn như nàng, nhưng xin nàng đừng hành hạ bản thân như thế nữa. Ta thật sự rất xót xa! Bạch Ý Nương không nói không rằng, liền đó kéo chăn nằm xuống, hai dòng lệ chảy dài xuống gối, đôi mắt nàng mờ dần, không còn chút sắc tố. Nghinh Thành Mãn đặt chén tổ yến vào lại khay rồi lặng lẽ đi ra khỏi phòng, triệu tập thị vệ lần nữa đem theo người tìm kiếm. * * * Chiêu Tâm Đan lần đầu rời khỏi Dược Tâm Đường, mọi thứ vừa lạ vừa mới mẻ, thú vị có, bất ngờ có, bất mãn cũng có. Đang suy nghĩ tự dưng có một toáng người từ đâu xuất hiện, chặn ngay trước đầu ngựa của nàng. Trông qua diện mạo và trang phục, bọn chúng chắc hẳn là sơn tặc Mao Lâm Sơn trên núi Trường Lâm. Nghe danh đã lâu rằng đám sơn tặc này rất ác độc, không việc xấu xa nào không làm, kể cả cưỡng bức lẫn giết người, già trẻ lớn bé đều không tha. Lòng nàng lúc này chợt thoáng qua suy nghĩ: "Mặt mình xấu xí như vậy, có khi bọn chúng sợ rồi không thèm làm gì không chừng". Nghĩ vậy nàng liền tháo mạng che mặt xuống, để lộ một vết bớt lớn bên má phải, lòng thầm vui thay vì xấu hổ. Đám sơn tặc trông thấy thì cười lớn, tên cầm đầu nói: - Đã xấu xí như thế lại còn dám ra đường. Để tránh việc ngươi sẽ dọa những người khác, bọn ta sẽ tiễn người về chầu Diêm vương, ngươi xấu như vậy chỉ hợp với địa ngục thôi. Hahaha! Đúng vậy, nàng xấu xí như thế đúng là chỉ hợp với địa ngục thôi, lúc này Chiêu Tâm Đan buồn hơn là vui, mới vừa nãy nàng còn tự thưởng bản thân nhanh trí, giờ lại cảm thấy mình thật ngu ngốc. Bỗng có tiếng người từ phía sau bọn sơn tặc vọng tới: - Đúng là xấu xí chỉ hợp với địa ngục thôi. Trong sát na, mặt của từng tên bị người vừa tới kia vẽ cho nhiều vạch màu đen, thứ gì đó vừa hôi vừa thối. Chiêu Tâm Đan là đại phu mà, nhìn qua thì biết đó là phân heo, mà người kia cũng cao tay lắm, là gián tiếp thông qua một cái túi da dày mà trét, xong rồi bỏ, còn nằm thù lù một đống chỗ chân bọn sơn tặc. Chiêu Tâm Đan hoan hỉ một hồi, nhìn người vừa tới mà có chút ngượng ngùng. Dù chàng không phải kiểu người nàng thích, trông có chút hoang dại, bất cần, có vẻ không hay chiều chuộng, kiểu rất sẵn lòng bỏ rơi người khác nhưng lại có nét gì đó rất thu hút. Lấy tay tém hờ tóc mái sang một bên, Tạ Vô Phong cười mỉa mai, nói: - Đám sơn tặc các ngươi việc cần thì không làm, lại ở đây ăn hiếp một y nữ, có đáng mặt nam nhi không hả? Còn không mau đi, có tin ta.. Tạ Vô Phong chưa kịp nói hết câu thì bọn sơn tặc kia đã cuống cuồng chạy mất dép, chàng nhoẻn miệng cười, nụ cười đem theo chút ấm áp vô tình chạm đến cõi lòng băng giá của Chiêu Tâm Đan, đặc biệt là cái đồng tiền sâu hoắm sau tràng cười dài của người đó, điểm đặc biệt mà chỉ khi cười nhiều mới thấy, tim nàng rung động thật rồi, một chút cũng không giả dối, tất thảy hiện rõ lên khuôn mặt. Chu Linh từ xa bước tới, nói: - Tạ đại hiệp, làm ơn tập trung vào chuyện chính đi. Chúng ta tới Ôn Châu để tìm người, không phải đi hành hiệp trượng nghĩa. Chiêu Tâm Đan tay kéo mạng che mặt lên, mắt ngước nhìn Chu Linh với ánh nhìn ngưỡng mộ, nàng ta thật xinh đẹp, đường nét khuôn mặt rõ rệt như vẽ, hoàn hảo vô cùng. Lệ Ân Đình khó chịu đẩy Chu Linh sang một bên, ân cần hỏi: - Cô nương không sao chứ? Mặc kệ cô ta, đồ không có lương tâm. Lại thêm một mỹ nhân nữa vừa tới, người này khác hẳn người kia, dễ thương và tinh quái, có chút hoang dại giống nam nhân lúc nãy. Chiêu Tâm Đan mỉm cười, nói: - Tiểu nữ không sao. Đa tạ các vị đã ra tay cứu giúp. Nếu sau này có cơ hội, tiểu nữ nhất định sẽ báo đáp ân tình. Tạ Vô Phong nhướng nhướng mày, hỏi: - Cô nương muốn đi Ôn Châu sao? Chiêu Tâm Đan có chút giật mình, sực nhớ lại khi nãy lúc nói chuyện với đám sơn tặc, người này còn biết nàng là y nữ, bèn hỏi: - Ân công sao lại biết tiểu nữ muốn đi Ôn Châu? Và.. Tạ Vô Phong miệng ngặm cọng cỏ xanh, khóe môi giật vài cái, cười nói: - Có gì khó đâu chứ? Một cô nương trẻ tuổi như cô, sắc diện thì hồng hào, khỏe mạnh mà trên người lại toàn mùi thuốc, không là đại phu thì chẳng lẽ mắc bệnh hiểm nghèo gì mà suốt ngày phải ngâm mình trong đống thảo dược sao? Chu Linh và Lệ Ân Đình đồng loạt nhìn về phía Chiêu Tâm Đan, Tạ Vô Phong nói tiếp: - Ôn Châu chỉ có một hướng đi duy nhất này, nơi đó đang có đại dịch, người bình thường muốn tránh còn không kịp. Nếu cô không phải đại phu thì còn có thể là gì? Chiêu Tâm Đan cười ngượng nghịu, lòng có chút ngưỡng mộ, lần nữa tất thảy sùng bái hiện hết lên mặt, mắt đối mắt lại đem chút ngượng ngùng chặn ngay miệng, một lời cũng không nói ra được. Lệ Ân Đình lên tiếng: - Chúng tôi cũng đang đến đó, hay là đi chung đi, biết đâu đám sơn tặc lúc nãy quay lại, một mình cô thì phải làm thế nào? Chiêu Tâm Đan còn chưa kịp nói gì thì Chu Linh đã lên tiếng: - Đừng dong dài nữa, đi thôi! Trấn Bình An. Hàng rào chắn ngang đường vào trấn Bình An cao hơn hai thước, xung quanh là gai nhọn làm bằng sắt, hệt bộ da của nhím. Bên trong có rất nhiều gian hàng, nhưng đều đã bỏ trống, nơi đây quả nhiên là thị trấn sầm uất nhất của Ôn Châu. Tử Xung Lân Thanh thở dài một tiếng rồi đi về phía Tống Thanh Dực, nói: - Thiếu tướng quân, thuộc hạ thấy ngài vẫn nên đến phủ Nam Bình Vương một chuyến. Tống Thanh Dực vẫn giữ khuôn diện tĩnh sắc, lạnh lùng hỏi: - Tình hình thế nào? Tử Xung Lân Thanh quá hiểu tính cách của Tống Thanh Dực, đem cảm xúc bản thân trông thấy khi nãy thể hiện với giọng đau xót: - Thiếu tướng quân, xem ra lời đồn chúng ta nghe thấy trên đường không phải là vô căn cứ. Nơi đây, xác chất thành đống, người dân bị cô lập hoàn toàn với bên ngoài. Cứ cho là không chết vì bệnh dịch cũng sẽ chết vì đói. Tống Thanh Dực im lặng, một biểu hiện cũng không ra mặt. Không lâu sau thì lên tiếng: - Ra lệnh tháo bỏ hàng rào, chúng ta sẽ vào trong. Tử Xung Lân Thanh lập tức ngăn cản: - Thiếu tướng quân, vậy phía Nam Bình Vương.. Tống Thanh Dực đưa ánh mắt sắc lạnh nhìn Tử Xung Lân Thanh, y lập tức quay người đi về phía binh lính, ra lệnh dỡ bỏ hàng rào. Đám binh lính còn chưa kịp làm gì đã bị một dàn người vây quanh, sau lưng Tống Thanh Dực tiếng một người vang lên: - Phiêu Kỵ tướng quân cũng thật là oai phong.
Chương 9: Nghi ngờ Bấm để xem Trấn Bình An, Chiêu Tâm Đan hữu tâm vô vọng Đêm Tây Hồ, Tống Thanh Dực đón tiếp hắc y nhân Trấn Bình An. Tống Thanh Dực quay mặt về sau, trông thấy Nghinh Thành Mãn thì quỳ xuống, ôm quyền nói: - Thần, Tống Thanh Dực, tham kiến vương gia. Chỉ nói tới đó, không thêm câu nào cũng chẳng biểu hiện gì, thuộc hạ bên cạnh chàng cũng đang theo chân chủ nhân quỳ hết tất thảy. Nghinh Thành Mãn hẳn nhiên là không vừa ý, trong triều người ông hận nhất là Tống Trích Tư, người mà năm đó đã thay Nghinh Thành Bác đỡ một mũi kiếm, từ đó chôn chân ông ở Ôn Châu xa xôi này. Nhếch môi trên một cái đầy khinh bỉ nhưng lại nói với thái độ kiểu xí xóa chuyện vừa rồi: - Đa lễ làm gì, phiêu kỵ tướng quân là tướng tài của Nguyên triều ta. Bấy lâu nghe danh hôm nay được gặp thật là vinh hạnh cho bổn vương. Đứng lên đi! Tống Thanh Dực vừa đứng lên, Tử Xung Lân Thanh và đám binh lính cũng chuẩn bị nhấc gối thì Nghinh Thành Mãn đã nói tiếp: - Khoan đã, bổn vương chỉ nói cho tướng quân đứng lên, còn những người khác.. hãy cứ quỳ ở đó đi. Tống Thanh Dực đưa mắt nhìn Nghinh Thành Mãn như muốn hỏi, chỉ thấy ông ta cười rồi nói: - Ấy, tướng quân đừng hiểu lầm ý của bổn vương. Bổn vương biết tướng quân chinh chiến sa trường, bôn ba vất vả, ngày đêm bận rộn, có thể quên một vài chuyện gì đó, không quan trọng. Rồi nhìn về phía đám binh lính đang quỳ, nói tiếp: - Thân là thuộc hạ, bọn họ có nhiệm vụ nhắc nhở chủ nhân. Chẳng hạn như.. Tống Thanh Dực cúi đầu ôm quyền, hạ giọng nói: - Mạo muội tới đây không đến vấn an vương gia là lỗi của một mình mạt tướng, bọn họ không liên quan. Mong vương gia lượng thứ! Nghinh Thành Mãn cười lớn rồi trầm giọng, hỏi: - Thế nếu bổn vương không lượng thứ thì sao? Phiêu kỵ tướng quân cũng thật là, chuyện ngươi đến đây bổn vương là phải nhờ tới Hồng Tử Nhân mới biết được. Ngươi xem, ta không biết gì cả nên một bữa tiệc nhỏ tẩy trần cho ngươi cũng chưa kịp chuẩn bị. Trách nhiệm này ai gánh đây? Tử Xung Lân Thanh nhịn mãi chẳng chịu nỗi, trông qua tình huống này nếu y còn không lên tiếng, chủ nhân của y sẽ phải thiệt thòi đến thế nào, nghĩ vậy thì lấy hết ruột gan, nghĩ ra được một lý do cực kì hợp lý, nói: - Vương gia, thiếu tướng quân không đến vấn an đều là vì lo nghĩ cho sức khỏe của vương gia. Trên đường đến đây, ngài ấy cùng chúng thuộc hạ đã gặp và tiếp xúc với không ít người, lỡ đâu họ đã bị nhiễm bệnh thì việc thiếu tướng quân đến phủ là vô cùng nguy hiểm. Nghinh Thành Mãn nhướng mày nghĩ ngợi, Tống Thanh Dực khá hài lòng với lý do của Tử Xung Lân Thanh, được hồi thì cúi đầu, ôm quyền nói: - Mạt tướng.. sẽ tự mình thỉnh tội với hoàng thượng. Nghinh Thành Mãn cười nhạt, lòng nghĩ: "Cái kim bài miễn tử đó Tống gia dùng cũng tốt thật!". Rồi lấy tay đỡ lấy Tống Thanh Dực, cười nói: - Không việc gì phải phiền phức như thế. Tướng quân ngày đêm bận rộn, sau này chú ý một chút là được rồi. Bổn vương thì không sao, lỡ gặp phải người khác biết đâu sẽ lại gây khó dễ. Tướng quân nói phải không? - Mọi người.. đứng lên hết đi! Lúc này Hồng Tử Nhân mới bước tới ôm quyền, cúi đầu, nói: - Hạ quan tham kiến thiếu tướng quân. Hồng Tử Nhân giữ chức quan bát phẩm, ngồi mát ăn bát vàng đã hơn năm năm ở Ôn Châu. Vốn chẳng có tài cán gì ngoài việc có nạn thì trốn tránh trách nhiệm, có án thì kéo dài lê thê rồi kết luận qua loa, nhưng lại có được vị trí bát phẩm, tất cả là nhờ mối quan hệ được tạo dựng bấy lâu với Nam Bình Vương, ở cạnh ông ta giống như tay sai vặt. Lần này, Tống Thanh Dực đến Ôn Châu hỗ trợ dịch bệnh rõ là đã có thông báo từ sớm nhưng Hồng Tử Nhân lại một lời chẳng báo cho Nghinh Thành Mãn, tới nay lại đột ngột báo tin, quy người có tội là Tống Thanh Dực. Nghĩ cũng phải, ai bảo chàng cứ vậy mà đến, khiến điều đó vô tình trở thành cái cớ bắt lỗi quá sức hợp lý. Tống Thanh Dực cũng ôm quyền, nói: - Tham kiến Hồng đại nhân, mạt tướng phụng lệnh đến đây hỗ trợ. Nếu bây giờ đại nhân đã đến vậy chi bằng ngài cho người dỡ bỏ hàng rào kia để chúng tôi có thể vào đó xem xét. Hồng Tử Nhân ậm ừ giây lát rồi đảo mắt về phía Nghinh Thành Mãn, lấp lửng: - Việc này.. việc này.. Tống Thanh Dực nhíu mày, hỏi: - Có gì không tiện sao? Nghinh Thành Mãn lúc này mới lên tiếng: - Là ý của bổn vương. Tống Thanh Dực lòng cười như khóc, trên đường tới đây chàng đã nghe không ít người nói trấn Bình An bị cô lập là lệnh của Nam Bình Vương, dù lúc ấy có không muốn tin cỡ nào thì hiện nay tình hình trước mắt cũng bắt buộc phải tin. Chàng cố gắng kiềm nén nộ khí đang bừng bừng trong người, dẹp luôn tiếng kêu la phát ra từ trong trấn, trầm giọng hỏi: - Tại sao? Vương gia, hoàng thượng yêu dân như con, ngài lại.. Nghinh Thành Mãn và Nghinh Thành Bác là huynh đệ cùng cha khác mẹ, huyết mạch đang chảy trong người là cùng chung huyết thống, tiếng gọi phụ thân là hướng về cùng người nhưng nhiêu đó không đủ để họ có thể tỉnh táo trước vị trí cửu ngũ chí tôn. Năm đó, tiên hoàng băng hà, theo di nguyện để thái tử đăng cơ, Nghinh Thành Mãn nuốt nỗi hận đem theo mộng tưởng chôn sâu đáy lòng. Yến tiệc mừng lễ đăng cơ xảy ra một vụ thích sát, trong giây phút thoáng qua, ông còn nghĩ mình sẽ có cơ hội ngồi lên long ngai, nhưng không ngờ mũi kiếm đó lại khiến bảo tọa kia chính thức vững chắc mang tên Nghinh Thành Bác. Sau đó, vì để đề phòng bất trắc, hoàng đế vừa đăng cơ ban hẳn cho ông một tước vị danh giá Nam Bình Vương, lệnh ông đến Ôn Châu quản hạch, rõ là một nước đi quá mức an toàn. Bấy lâu, Nghinh Thành Mãn luôn không ưa gì những trung thần bên cạnh hoàng đế, dù không trực diện những cũng là ngầm thừa nhận và trong đó, Tống Trích Tư là người mà ông không thuận mắt nhất. Chặn ngang lời Tống Thanh Dực, Nghinh Thành Mãn thờ ơ, lãnh cảm, nói: - Đây là Ôn Châu! Sau thì quay sang bảo Hồng Tử Nhân: - Ngươi hãy mau chóng sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho thiếu tướng quân và thuộc hạ. Bổn vương có việc phải về phủ trước. Nghinh Thành Mãn bỏ đi một nước, được một đoạn thì dừng lại, quay đầu nói: - Thiếu tướng quân cứ nghỉ ngơi trước đã. Đừng làm gì khiến bổn vương phải khó xử với quốc công và cả.. hoàng thượng nữa. Lời dặn dò kia khác nào lời nhắc nhở ngầm rằng chàng không được động tay vào đại dịch lần này và hơn hết là hãy bịt tai che mắt để tránh nghe và thấy những điều không nên. Tống Thanh Dực quay đầu nhìn thị trấn lần nữa, lúc rời đi không quên bỏ lại đó chút hy vọng: - Mọi người hãy cố gắng gượng, ta hứa sẽ quay lại! Chúng ta.. đều sẽ sống! Hồng phủ. Tử Xung Lân Thanh bỏ tay khỏi cửa sổ, bước vào trong nói với Tống Thanh Dực: - Thiếu tướng quân, đúng như ngài nói, Hồng đại nhân này quả nhiên là muốn cầm chân chúng ta. Trước cửa phòng tuy không có ai nhưng dọc hành lang hai phía về hậu viện, ba con đường dẫn ra cửa lớn đều có người của ông ta. Đây rõ ràng là giam lỏng. Tống Thanh Dực nâng ly trà đăm chiêu, nói: - Không có gì lạ. Hồng Tử Nhân đang làm việc theo chỉ thị của Nam Bình Vương, muốn cãi cũng khó. Tử Xung Lân Thanh hỏi: - Thiếu tướng quân, chẳng lẽ chúng ta cứ để như vậy sao? Tống Thanh Dực ực một lần hết ly trà trong tay, đoạn quay về giường, hỏi: - Vậy ngươi nói xem, mục đích chúng ta tới đây là gì? Tử Xung Lân Thanh có chút không rõ lắm nhưng vẫn nhớ lời chàng nói trước đây, liền theo đó trả lời: - Dĩ nhiên là cứu người rồi. Thiếu tướng quân, ngài có ý gì vậy? Tống Thanh Dực nằm xuống gối, mắt nhắm hờ, nhẹ giọng nói: - Thế thì đúng rồi! Trấn Bình An. Lệ Ân Đình lấy tay che hai mắt, trong miệng như có dòng nước chảy ồ ạt, nàng ực từng chút từng chút một, mồ hôi nhễ nhại, run giọng nói: - Không phải chứ? Như thế mà cũng được sao? Xác chất thành đống trước cổng trấn thì không nói, cảnh người dân tràn ra ngoài đường nằm phơi thây mới đáng sợ. Họ khô khan và nhợt nhạt như những cái xác sống, mặt không chút huyết sắc, quần áo thì rách tả tơi, không khí xung quanh cảm tưởng như có màn sương che phủ. Nhìn vào đó không thấy chút gì khác ngoài tang tóc. Chiêu Tâm Đan bước tới trước vài bước, lòng nặng trĩu những lo âu, hai mắt đỏ hoe, nàng cười chua xót: - Bình An từng là thị trấn sầm uất nhất của Ôn Châu.. Chu Linh hờ hững chen vào một câu: - Hoàng đế sao không thử thị sát dân tình một lần cho biết chứ. Ngồi mãi trên long ngai dát vàng đó liệu thấu hiểu được bao nhiêu nỗi khổ của dân sinh. Tạ Vô Phong nở nụ cười lãnh cảm, lòng nghĩ: "Hai mươi năm trước tuy phụ thân ta mang lòng bác ái nhưng cũng phải có người tài giúp đỡ. Hiện nay, dù ta có lòng nhưng lại không đủ sức..", nói tới đây chàng bất giác nhìn Chiêu Tâm Đan, nghĩ bụng: "Cô ấy.. có được không nhỉ?". Chiêu Tâm Đan đi về phía Tạ Vô Phong, ngập ngừng: - Ân nhân.. Tạ Vô Phong cười khẩy, lên tiếng ngắt lời: - Tại hạ họ Tạ. Chiêu Tâm Đan ngẩng mặt nhìn Tạ Vô Phong, đôi mắt ấy vừa lạnh lùng vừa khó hiểu, phong tình phức tạp trong lòng nàng cứ vậy mà bị ánh nhìn sắc lạnh kia làm cho đóng băng, không nhớ phải nói gì. Bình tĩnh một lát, nàng lên tiếng: - Tạ ân công.. Tạ Vô Phong đưa ánh nhìn không đồng thuận lần nữa phản bác cách xưng hô của Chiêu Tâm Đan, nàng nhíu mày kiểu không hiểu ý, ngập ngừng hỏi: - Vậy huynh.. huynh muốn ta gọi thế nào? Tạ Vô Phong mỉm cười, trầm giọng nói: - Gọi sao cũng được, miễn là cô nương thấy thoải mái, nhưng.. tuyệt đối đừng gọi ân công, ân nhân. Ta.. nghe không quen lắm, hơi khó chịu. Chiêu Tâm Đan gật đầu mỉm cười, đoạn sau thì nghe lời, liền thay đổi xưng hô: - Tạ đại ca, huynh giúp muội vào bên trong trấn xem thử tình hình của mọi người, được không? Tạ Vô Phong ngạc nhiên, khóe miệng hơi đơ, làm rớt ngay cọng cỏ đang ngậm trước đó, nghiêng nghiêng đầu như muốn hỏi nhưng rồi lại thôi. Ánh mắt Chiêu Tâm Đan trong trẻo vô cùng, hệt như lần đó chàng gặp Lệ Ân Đình năm lên sáu tuổi, đôi mắt ngây thơ, sáng rực tựa những vì sao, lần đầu gặp gỡ chàng cũng được gọi là "đại ca". Chớp mắt vài cái, Tạ Vô Phong ậm ừ, nói: - Được! Cái đó.. chúng ta thăm dò tình hình trước đã. Đừng gấp! Chiêu Tâm Đan cười tươi, gật đầu đồng ý. Bỏ đi một đoạn thì quay lại hỏi: - Huynh có ngại muội gọi như thế không? Đang mãi suy nghĩ về chuyện vừa nãy nên khi được hỏi, Tạ Vô Phong đã giật mình, người ngả nghiêng như sắp té, ấp úng hỏi: - Gọi.. gọi gì? Chiêu Tâm Đan cười híp mắt, lớn tiếng gọi: - Tạ đại ca! Gọi xong thì bỏ đi một mạch, mặt Tạ Vô Phong lúc này phải nói là đỏ hơn ăn ớt. Chàng có chút xao động, khoé miệng hơi cong lên, ánh mắt có vài phần hoan hỉ. Buổi trưa hôm đó bọn họ ghé lại trà quán, từ đó nhìn vào bao quát được cả thị trấn. Trông qua cách bày trí thì đủ biết, cái trà quán này rõ ràng là được "mọc" lên sau khi đại dịch bùng phát, mục đích đằng sau thì chưa rõ nhưng trước mắt là kiểm soát số người ra vào trấn. Chủ quán đem trà và bánh ra cho nhóm người Tạ Vô Phong, hỏi: - Các vị không định vào đó đấy chứ? Ấy đừng, hôm qua có một vị tướng quân định dỡ bỏ hàng rào vào trong liền bị Nam Bình Vương đích thân ra mặt ngăn cản. Đó, sáng nay còn cho hẳn đám người của quan phủ tới canh chừng kìa. Chiêu Tâm Đan nghe thấy thì nghĩ bụng: "Là Tống Thanh Dực sao? Huynh ấy tới rồi, còn bị ngăn lại. Vậy số thuốc mình đem theo phải làm sao? Nam Bình Vương kia sao lại..", bèn hỏi: - Chủ quán, tôi có một thắc mắc. Nam Bình Vương chẳng phải trước nay luôn coi trọng việc giao thương trong trấn Bình An sao, giờ lại ra lệnh cấm thế này khác nào ép chết người ta? Chủ trà quán xìu mặt, buồn giọng nói: - Còn chẳng phải do người của trấn đó cứ nhất nhất kiếm chuyện với ngài ấy hay sao? Hai tháng trước, vương thái tử Nghinh Hương Túc Ngạn đã mất tích trong phạm vi của trấn Bình An nhưng có nói thế nào, bọn họ vẫn không chịu giao người ra. Vương thái tử này tuy nhỏ tuổi nhưng thông minh lanh lợi, là viên ngọc báu trong tay Nam Bình Vương. Ông ấy đã nói rất nhiều lần những điều sẽ xảy ra nếu không tìm thấy người và hậu quả thì cô nương thấy rồi đó. Chu Linh ngồi bên cạnh nghe qua thì tự thấy nực cười, chen vào nói: - Không ai ngu tới nỗi mạng mình thì chưa lo xong còn phí thời gian đi chăm một đứa bé. Ông ta có bằng chứng không? Chủ quán nói: - Bằng chứng thì không nhưng nhân chứng thì có. Có người đã thấy vương thái tử đi vào trấn và sau thời gian đó thì không hề về lại phủ. Vậy các vị nói xem, có phải là họ đang giấu ngài ấy không? Chu Linh hực một tiếng, buông lời lãnh cảm: - Một đứa trẻ tuổi nhỏ hiếu động, lén bỏ ra ngoài rồi đi lạc, ai có thể đảm bảo? Chi bằng nói là ông ta vì không tìm được con nên bịa ra một cái cớ, lấy đại một người chịu tội, vậy có phải hơn không? Hơn nữa, nếu ông ta thật sự là người tốt thì sao lại có người đi bắt cóc vương thái tử? Chủ trà quán có chút không vừa lòng, bực dọc nói: - Vương gia rất tốt, ông ấy không phải người như vậy. Chu Linh cười khẩy, ánh mắt nghi ngờ, hỏi lại lần nữa: - Thật sao? Chủ trà quán có chút ngập ngừng, hồi sau thì nói: - Dù thế nào thì.. thì ngài ấy cũng không phải người như vậy.. Trời chiều, tia nắng giấu mình sau cổng lớn thị trấn, hắt vào mặt những người đang nằm giữa đường những giọt yếu ớt, chút thưa chút nhạt rải khắp khuôn mặt như đang cố gắng kiếm tìm vài phần huyết sắc để hút lấy sinh khí cuối ngày. Một cô bé đang vật vã, mòn mỏi trên đùi một bà lão lớn tuổi, nằm bấp bênh như kiểu trở mình một cái là văng hẳn ra đường, môi nó khô rang, nứt nẻ, mắt lờ đờ trông vô cùng phờ phạc. Chiêu Tâm Đan ló đầu vào từ một cái lỗ chó ở góc tường, lí nhí gọi: - Nè, tiểu muội muội, tiểu muội muội.. Trong tình cảnh màn trời chiếu đất thế này, nếu có thể có thứ gì bám víu được, họ sẽ không ngần ngại lao tới vồ lấy như mãnh thú săn mồi. Biết được điểm này nên người mà Chiêu Tâm Đan chọn đang ở một vị trí khá vắng, xung quanh không có ai, cũng ít người thấy được. Cô bé đang nằm bỗng nghe có tiếng gọi bèn lấy hết sức mình gượng dậy, nhìn về phía phát ra tiếng động, hỏi: - Ai? Ai đó? Chiêu Tâm Đan lần nữa thò bàn tay vào, kèm theo một cái màn thầu. Quả nhiên, thức ăn giờ với họ còn tốt và hiệu quả hơn lời nói, cô bé như cây khô háo nước, chạy như bay về phía cái lỗ, giật ngay cái bánh trên tay Chiêu Tâm Đan rồi hấp tấp giấu vào áo, liền đó chạy về đưa cho bà nó. Không biết hai người nói gì mà lát sau nó đã quay lại, ngồi phạch xuống đất, gõ cốc cốc mấy cái vào tường, nói: - Cảm ơn tỷ tỷ. Chiêu Tâm Đan mỉm cười hài lòng, nàng cuối cùng đã thành công tiếp cận với người trong thành, giờ chỉ cần tìm được đường vào trong nữa thì mọi chuyện sẽ dễ giải quyết hơn. Lát sau, nàng trở về lại chỗ của nhóm người Tạ Vô Phong, nói: - Trong số bọn họ không phải ai cũng mắc bệnh. Xem ra, đại dịch lần này không đáng sợ như hai mươi năm trước. Nghe tới đại dịch hai mươi năm trước, Tạ Vô Phong không lấy gì bất ngờ, điềm nhiên hỏi: - Tình hình trong đó thế nào? Chiêu Tâm Đan gật đầu nói: - Cũng ổn, không đến nỗi xấu như muội nghĩ. Hơn nữa, trước đó mấy ngày đã có người đưa thuốc vào trong, tạm thời đã kiểm soát được lây lan. Tạ Vô Phong nghe nói tới thuốc thì bật hẳn người khỏi ghế, nôn nóng hỏi: - Ai? Chiêu Tâm Đan không để tâm tới câu hỏi này của Tạ Vô Phong, nàng ngược lại cảm thấy lạ vì thái độ trước đó của chàng khi nghe đến đại dịch hai mươi năm trước, bèn hỏi: - Nhưng mà, huynh không hỏi muội gì sao? Tạ Vô Phong vốn đã xem chuyện đại dịch năm xưa là quá khứ, hơn nữa cũng không muốn có quá nhiều người vướng vào rắc rối của bản thân nên không hỏi han gì khi được nhắc đến. Chàng đã trấn tĩnh lại sao câu hỏi vừa rồi của Chiêu Tâm Đan, bèn hỏi lại như thể chẳng biết gì: - Hỏi? Hỏi gì chứ? Chiêu Tâm Đan nhíu mày, nói: - Chuyện đại dịch hai mươi năm trước. Huynh có biết, nó giống hệt như hiện giờ không? Và còn, những người liên quan chủ chốt trong lần đại dịch đó kẻ thì mất tích, người thì bị thảm sát cả nhà. Sao huynh không tò mò về nó? "Kẻ thì mất tích, người thì bị thảm sát cả nhà", kẻ mất tích ở đây có lẽ đang ám chỉ Vân Du. Nhân tiện được hỏi tới, Tạ Vô Phong theo đó mà dò la: - Ta có chứ, rất tò mò là khác. Chẳng qua, mọi việc đang rối rắm, thật không tiện hỏi han. Tâm Đan, kẻ mất tích mà muội vừa nhắc đến là một trong tứ kiệt nổi danh thời đó, Vân Du sao? Chiêu Tâm Đan gật đầu, mỉm cười nói: - Muội còn tưởng Tạ đại ca không để ý đến lời muội nói chứ. Đúng thế, ông ấy là hình mẫu mà muội hướng đến, muội rất ngưỡng mộ tài năng y thuật và cả y đức của ông ấy nữa. Đáng tiếc, một người có đức, còn một người có tài, cả hai lại cứ thế mà.. Tạ Vô Phong bất giác cảm thấy có một cơn đau quặn lên nơi lồng ngực làm chàng cực kì khó thở. Đối với một người đã lâu không gặp hay nói đúng hơn là mười bảy năm xa cách, chàng thậm chí còn không thể nhớ rõ khuôn mặt, hình dáng ông ấy ra sao, vậy mà chỉ cần nghe đến tên gọi, liền khiến chàng đau đớn tới vậy, lẽ nào đây chính là cái gọi máu thịt liền tâm sao.. Hồng phủ. Tử Xung Lân Thanh nét mặt hoan hỉ, bước vào tư phòng của Tống Thanh Dực, ôm quyền nói: - Thiếu tướng quân, ngài đoán xem hôm nay ở trấn Bình An, thuộc hạ đã gặp được ai? Tống Thanh Dực ngẩng mặt nhìn y rồi cười nói: - Ta không đoán ra nhưng nhìn ngươi vui như thế chắc không phải bọn thuộc hạ của Nam Bình Vương đâu nhỉ? Tử Xung Lân Thanh lần nữa hoan hỉ, nói: - Thiếu tướng quân nhãn ý tinh tường, nói đúng rồi. Thuộc hạ theo lệnh của ngài ghé qua trấn xem thử tình hình của mọi người sau khi dùng thuốc thì thế nào. Trong lúc đi ra đã gặp được Tâm Đan cô nương của Dược Tâm Đường. Tống Thanh Dực có chút kinh ngạc nhưng lại bình tâm ngay sau đó, hỏi: - Cô ấy có gửi gì cho ta không? Tử Xung Lân Thanh gật đầu, thế đúng là Chiêu Tâm Đan có gửi đồ cho chàng, y lấy trong ngực áo ra một tờ giấy nhỏ đưa cho Tống Thanh Dực rồi rời khỏi phòng. Đêm đó, có một bóng người vượt tường rời phủ, yên bình đi khỏi, không một ai cản đường. * * * Vừa tới điểm hẹn, Tống Thanh Dực đã bị một hòn đá từ đâu bắn trúng vào lưng, liền đó một thân ảnh từ sau lao tới, khi lưỡi kiếm vừa chạm vào cổ, người đó đã nhanh tay xoay cán kiếm, đẩy lưỡi kiếm tuột khỏi bao sượt qua mặt chàng, chiêu này rõ ràng là muốn giỡn cợt chứ nào có đánh thật. Tống Thanh Dực ngả người tránh kiếm, bản thân trượt dài về trước một đoạn, sau thì quay đầu lộn hai vòng rồi dùng bàn tay đánh mạnh vào cổ tay của địch nhân, kiếm trên tay người đó lập tức rơi xuống nhưng thân thủ kẻ đến lại không tồi, hắn nhanh nhẹn dùng chân đỡ lấy rồi tưng kiếm lên cầm lại. Chiêu Tâm Đan từ sau bụi cây chạy tới nói: - Đừng đánh nữa, người nhà cả mà. Trà quán chỉ mở cửa ban ngày, nhưng vì để tiện cho việc theo sát tình hình dịch bệnh nên nhóm người của Tạ Vô Phong không hề rời khỏi đó, điểm hẹn tối nay cũng là ở phía cuối trấn cách đó không xa. Ánh lửa sáng rực trong đêm soi rõ khuôn diện, giây phút thoáng nhìn Lệ Ân Đình có chút bối rối, chẳng biết vì sao lại tự dưng thấy người kia đẹp hơn cả mẫu người nàng xem là lý tưởng bấy lâu nay. Tống Thanh Dực quan sát một lượt những người có mặt rồi ôm quyền, ngắn gọn nói: - Tống Thanh Dực. Chiêu Tâm Đan cười huề, nói: - Mọi người đừng để ý. Huynh ấy là tướng quân của Phiêu Kỵ Doanh nên cứng nhắc vậy đó. Này, huynh làm gì vậy? Mọi người sẽ sợ đó. Quân pháp trong Phiêu Kỵ Doanh đã nuôi dưỡng ra một Tống Thanh Dực không chỉ tài giỏi, lãnh cảm mà còn cứng nhắc với những tiểu tiết đời thường, với chàng lễ phép này không thể bỏ qua khi gặp người lạ. Danh xưng nói ra thì dõng dạc lắm chứ trong lòng lúc này lại sợ người khác sẽ bảo chàng khoe khoang. Nghe Chiêu Tâm Đan nói vậy chàng cảm thấy hơi lúng túng, liền nói: - Ta.. không phải. Ta chỉ muốn giới thiệu bản thân thôi. Không có ý gì cả. Tạ Vô Phong nhếch môi cười, nói: - Tại hạ, Tạ Vô Phong. Theo lời của chàng, Chu Linh và Lệ Ân Đình đều tự mình giới thiệu. Chiêu Tâm Đan lúc này mới hỏi: - Thuốc mà mọi người trong trấn đang dùng là của sư phụ muội đưa cho huynh phải không? Tống Thanh Dực gật đầu, nói: - Đúng vậy, có vấn đề gì sao? Chiêu Tâm Đan nghĩ ngợi một lát rồi nói: - Không phải, chỉ là tác dụng của thuốc không đúng lắm. Muội theo sư phụ năm năm rồi, ít nhiều cũng biết cách phối thuốc của ông ấy, rõ ràng biểu hiện của họ có chút kì lạ. Lúc trưa, muội có thử bắt mạch cho một cô bé trong trấn, mạch tượng không giống đã dùng thuốc của sư phụ. Tống Thanh Dực châu mày, hỏi: - Ý muội là sao? Lẽ nào đã có người đổi thuốc? Lòng Chiêu Tâm Đan ngập tràn câu hỏi, điều nàng lo lắng lúc này không phải là có ai đổi thuốc, mà chính là dụng tâm thực sự đằng sau số thuốc kia. Bao năm ở Dược Tâm Đường, tuy học không nhiều nhưng cũng không thể nói là ít, nàng không thể lầm cách phối thuốc của Bạt Phong. Khuôn mặt lo lắng dần tan, Chiêu Tâm Đan trầm giọng nói: - Đừng gấp, sáng mai muội sẽ tìm cơ hội vào trấn, tới khi đó sẽ dễ tìm hiểu hơn. Tống Thanh Dực gật đầu, mặt có chút trầm ngâm. Chiêu Tâm Đan tay nắm chặt bình thuốc lúc đi được Bạt Phong cho, lòng nghĩ: "Sư phụ, thật là người sao?". * * * Mỗi người tứ phía đều bị bao vây, bọn binh lính của nha môn cũng thật khỏe mạnh, Chu Linh và Lệ Ân Đình cứ xem như không tính là người học võ, dùng sức thường không đẩy được thì không nói, trước mặt là nữ nhi mà bọn họ cũng không chút nhẹ nhàng. Tống Thanh Dực vừa tới cũng bị chặn lại ngoài cổng, Hồng Tử Nhân đích thân tới đây thì cũng đủ hiểu nếu hôm nay có ai muốn bước vào thì e là không có đường trở ra. Hồng Tử Nhân đưa cặp mắt lươn ti hí nhìn nhóm người của Chiêu Tâm Đan rồi nói: - Mấy người các ngươi dám tự ý vào trong khi chưa có được sự đồng ý của bổn quan sao? Có tin ta đem các ngươi đi đánh mỗi người năm mươi đại bản không hả? Tống Thanh Dực xuống ngựa đi lại gần chỗ Hồng Tử Nhân, xoắn tay áo hỏi: - Bản tướng quân muốn vào có cần được sự đồng ý của Hồng đại nhân không vậy? Hồng Tử Nhân nghe hỏi liền bày ra gương mặt thảo mai, ậm ừ nói: - Hạ quan nào dám cản đường thiếu tướng quân. Chẳng qua là lệnh của Nam Bình Vương, ta không muốn nghe cũng khó. Mong thiếu tướng quân hiểu cho. Lời này nghe ra có vẻ chịu thiệt thòi lắm nhưng xem mặt hắn thì chẳng đồng điệu chút nào, cái thái độ kia rõ là ta đây có hậu thuẫn vững chắc, một tướng quân nhỏ bé của Phiêu Kỵ Doanh mà lại muốn vượt mặt sao. Chiêu Tâm Đan trông vào trấn, lòng bất an mỗi lúc một nhiều, bèn thấp giọng nói: - Đại nhân, ngài cho chúng tôi vào đi. Bọn họ sắp không cầm cự được rồi. Cổ nhân có câu "Cứu một mạng người hơn xây bảy tháp phù đồ", ngài xem, bây giờ ngài là cứu cả trấn đó, công đức sẽ vô lượng. Tạ Vô Phong cười khẩy, nói: - Tiểu tiên nữ, muội nói nhiều với hắn làm gì. Nếu hắn mà có được công đức vô lượng thì chúng ta đã thành phật hết rồi. Tống Thanh Dực kinh ngạc đưa mắt nhìn Tạ Vô Phong rồi lại nhìn về phía Chiêu Tâm Đan, danh xưng đó chỉ mỗi mình chàng được gọi, giây phút ấy chàng tự thấy mình bất lực, chút sở hữu riêng tư cuối cùng cũng theo tiếng gọi đó mà mất hết, nơi Ôn Châu lạ lẫm này rốt cục một người ủng hộ chàng cũng không có. Trà quán lúc này không đông khách lắm, chỉ có hai thư sinh đang nhàn nhã uống trà, xung quanh không có thêm vị khách nào cả. Một người nhốn nháo, đứng ngồi không yên, trông qua sắc diện chủ nhân vẫn tĩnh tại như thiền thì tức mình nói: - Công chúa, người không định làm gì sao? Nghinh Hương Đoan Mẫn và tiểu Noãn Nhi đã bám sát đoàn người của Tống Thanh Dực từ lúc khởi hành. Buổi sáng hôm nay, họ đã theo chân Tử Xung Lân Thanh tới, chỉ trễ hơn những người ở đây từ đêm qua đôi ba khắc. Nàng đưa mắt nhìn tiểu Noãn Nhi rồi lại hờ hững uống trà, chú ý không hề rời khỏi diễn biến đằng xa kia. Được lúc thì nói: - Em việc gì phải hoảng, ngồi yên xem nào. Phiêu kỵ tướng quân là theo lệnh của phụ hoàng tới đây, em còn lo là hắn bị kề đao vào cổ hay bị bắt giam vào đại lao sao? Rồi được lúc lại trầm tư như nghĩ ngợi điều gì đó, nói: - Dù ta có muốn giúp cũng phải chọn thời điểm, không thể không nể mặt hoàng thúc được. Nhóm người của Chiêu Tâm Đan và Tống Thanh Dực đang mãi đấu khẩu với đám quan sai của Hồng Tử Nhân thì từ đâu vang lên tiếng một đứa bé trai: - Cho bọn họ vào! Tất cả đồng loạt hướng về nơi phát ra âm thanh, người đầu tiên có phản ứng là Chiêu Tâm Đan, đứa bé đó nào phải ai xa lạ, chính là người nàng đã cứu trên đường. Đi thật nhanh về phía nó mà quên mất quan sát xung quanh, nàng bị hai thị vệ chặn lại, nhưng vì lo lắng, nàng vẫn cố chồm lên hỏi: - Nè, đệ đã đi đâu vậy? Ta lo lắng lắm đó biết không? Nhưng mà.. sao đệ lại ở đây? Thằng nhóc trầm tĩnh, mặt lạnh tanh, hệt thái độ lần đầu nàng gặp nó. Thị vệ bên cạnh lớn tiếng nói: - Vô lễ. Đây là vương thái tử! Chiêu Tâm Đan ngây người, hỏi lại: - Vương.. thái tử? Nhóm người Tạ Vô Phong, Lệ Ân Đình, Chu Linh, Tống Thanh Dực lúc này đều kinh ngạc, một phần là vì thân phận người trước mặt, phần còn lại là sự quen biết của Chiêu Tâm Đan với người đó. Không nở một nụ cười, Nghinh Hương Túc Ngạn lên tiếng, thái độ bình tĩnh còn hơn cả Tống Thanh Dực: - Cho họ vào. Nói xong câu đó liền quay người bỏ đi, Chiêu Tâm Đan nhân lúc không ai để ý đã đuổi theo Nghinh Hương Túc Ngạn, chưa kịp hỏi đã nghe tiếng nó, lời lẽ ngắn cũn nhưng thái độ lại khá ngoan ngoãn: - Cứu người quan trọng. * * * Những ngày tiếp theo có thể coi là chuỗi ngày tăm tối nhất của trấn Bình An, nhiều người bên ngoài còn nói thậm chí nó tệ hơn gấp nhiều lần so với hai mươi năm trước. Chiêu Tâm Đan cầm trên tay gùi thuốc mình vất vả tìm được dù không biết có tác dụng hay không, lòng bất lực nhìn từng người từng người một chết đi, trên mặt họ lại thanh thản như một kiểu được ban ân huệ. Có lẽ họ đã quá đau khổ, quá xót xa trước hiện thực tàn nhẫn này, từ tình người cho đến thiên định, đều phũ phàng và tàn nhẫn như nhau. Không biết vùng đất Ôn Châu từ bao giờ lại trở thành nơi của mọi tai họa, cũng chẳng biết rốt cuộc người khai sinh mảnh đất này đã phạm phải lỗi lầm gì lớn hay chăng. Tạ Vô Phong nhìn đống xác chất đầy đến nỗi tràn xuống cả bên đường, lòng không khỏi xót xa, cảm thán: - Chẳng lẽ cứ để mọi chuyện tiếp diễn như vậy sao? Tiểu tiên nữ, chẳng phải trước đó muội nói đã cứu được một đứa bé cũng đang mắc bệnh rồi à? Bây giờ.. Chiêu Tâm Đan lắc đầu, vô thức nói: - Vô ích thôi. Độc đó.. muội không giải được. Tạ Vô Phong chết đứng giữa ngàn bông tuyết rơi lạnh lẽo, đôi mắt Chiêu Tâm Đan chứa đầy băng lãnh, vô hồn, khuôn diện mất đi thần sắc vốn có. Lần đầu gặp nàng, ngoại trừ vết bớt lớn trên khuôn mặt, còn lại tất thảy đều vô cùng hoàn mỹ, nhất là đôi mắt. Cái ánh nhìn mênh mông nhân ái, một lần chớp mắt là một lần đem theo nụ cười trên môi gửi gắm vào cuộc sống một điều hy vọng. Nhưng hiện giờ, đôi mắt ấy chỉ toàn là tuyệt vọng, thứ tuyệt vọng chàng đã từng được nhìn thấy ở chính bản thân mình. Chiêu Tâm Đan không nói lời nào, trực tiếp quay mặt bỏ đi. Lệ Ân Đình định gọi thì bị Chu Linh cản lại, nói: - Đừng! Để cô ấy yên tĩnh một chút. Huynh ấy.. cũng thế! Một giọt nước mắt lặng lẽ rơi, làm ướt một mảng lớn tấm mạng che mặt, để lộ nụ cười đắng ngắt và đôi môi mím chặt: "Tại sao người lại làm như vậy! Sư phụ, tại sao chứ?". Trước khi đến với Dược Tâm Đường, Chiêu Tâm Đan chưa từng được sống với đúng nguyện ước của bản thân. Nàng sống vì người khác, vì những đứa trẻ mồ côi nay đi mai đó giống nàng, chỉ nghĩ làm sao qua một ngày rồi lại thêm một ngày. Cho đến một lần tình cờ trong con hẻm nhỏ, nàng gặp được Bạt Phong, người đó như một tia sáng hiếm hoi sưởi ấm lòng nàng những ngày lạnh lẽo, cô liêu. Từ đó đến nay, không kể Vân Du, Bạt Phong là hình tượng mà Chiêu Tâm Đan ái mộ, dốc lòng theo đuổi. Mãi đến tận hôm nay, Chiêu Tâm Đan không biết liệu những gì mình tâm niệm có còn ý nghĩa nữa không, có còn là điểm đến trong tương lai vốn tưởng chừng vô vọng nữa không. Hóa ra, thứ khiến người ta đau khổ nhất lại không phải là tổn thương thể xác, càng không phải là sinh ly tử biệt, mà đó là sự bất lực. Chiêu Tâm Đan đưa mắt nhìn vào khoảng không vô định, chân trời đỏ au màu máu, hệt cõi lòng nàng lạnh giá trong đêm đen không chứa nổi một vì sao. * * * Tin tức về số người chết ngày một nhiều từ trấn Bình An không chỉ gây hoang mang cho dân chúng mà còn khiến những người có liên quan trong vụ này chịu ảnh hưởng. Việc sẽ bị trách tội thì chưa bàn đến, bản thân tự trách mới đáng nói. Tống Thanh Dực buổi tối một mình rời khỏi phủ của Hồng Tử Nhân, bước chân vô định đưa chàng đi không biết điểm dừng. Bên dòng sông Ám Thủy có một cao lầu, nằm về hướng đông của Ôn Châu, cửa khẩu hướng về cái hồ lớn ở phía tây nên có tên gọi là Tây Hồ. Hàng quán hai bên đường cạnh Tây Hồ vẫn còn để đó, san sát nhau, đủ thấy bình thường nơi đây cực kì sầm uất, nhộn nhịp. Dừng chân tại một quán trà nhỏ bên đường, ngọn đèn le lói treo nơi đầu gió dập dìu qua lại như kiểu có thể rớt bất cứ khi nào, cái khí lạnh đêm thu làm lạnh cả ấm trà mới pha, ngó vào trong lại chẳng có ai để nhờ pha lại. Tống Thanh Dực nhìn quanh cũng chỉ có mỗi hàng quán này mở, mà kì lạ là quán cũng chỉ có mỗi mình chàng ngồi, đường thì cũng có mỗi mình chàng đi. Định thần một lát rồi tự nhủ cho yên lòng, đêm khuya như thế dĩ nhiên là đâu ai đương không ra đường làm gì. Chàng cũng như bao người khác, cũng một thân nhục thể, cũng có mối lo, nỗi sợ của riêng mình, chẳng qua là vì những năm tháng được quyền sợ chàng đã phải học và rèn luyện cái bản lĩnh can trường của một người nam tử, vô luận là đao gươm chiến trường hay thú dữ đồng hoang, thậm chí là ma quỷ địa ngục cũng không thể làm chàng sợ hãi. Chỉ là từ khi đến Ôn Châu này, chàng sợ cái cảnh con trẻ khóc mẹ già, vợ khóc chồng, con đòi mẹ, từng tiếng nỉ non phá tan gông xiềng, đánh thức thứ bản năng của một con người bình thường nơi chàng. Đêm nay gió lạnh, chút máu tanh vướng nơi vạt áo dạ hành sớm đã không thể làm ấm cõi lòng lạnh giá của Tống Thanh Dực, chàng đưa chén trà lên miệng, đến hương còn chưa ngửi được thì từ sau một vầng quang khí giới đột nhiên vụt đến, chàng bình tĩnh ngả đầu sang phải, mũi kiếm chạm trúng thành chén nghe "cạch" một tiếng. Tống Thanh Dực một tay rút nhẹ chén trà về, liền đó ngửa bụng chén chắn đường kiếm, vốn đã dùng tay không thuận lại thêm điệu bộ hiện giờ của chàng thật chẳng ra kiểu người biết võ chuẩn bị ra chiêu. Địch nhân bịt kín mặt mũi, chỉ để lộ đôi mắt sâu hoắm, lãnh cảm đến lạnh người. Tống Thanh Dực tay buông chén trà, chân nhanh chóng lùi về sau hai bộ, đưa mắt dò xét, hỏi: - Ngươi là ai? Sao lại muốn lấy mạng ta? Địch nhân nghe hỏi thì cười khẩy một tiếng rất nhỏ, không trả lời mà hỏi lại: - Ngươi.. là con trai của Tống Trích Tư? Tống Thanh Dực có chút hoang mang, chân tả lại lùi thêm một bộ, trước đó chàng còn cho rằng thích khách là người của Nam Bình Vương hoặc Hồng Tử Nhân, mà nếu đúng là thế thì câu hỏi này chẳng phải quá thừa thải hay sao. Rõ ràng người đến vốn không hề có ý định lấy mạng chàng mà chỉ đơn giản là thăm dò điều gì đó. Nghĩ ngợi một hồi chàng nghi hoặc hỏi: - Ngươi có thù oán gì với phụ thân của ta? Tên thích khách phát giác phía sau có người sắp đến thì chẳng nói câu nào, trực tiếp phóng ra ba hồi ám khí về phía Tống Thanh Dực rồi khinh công đi mất, để lại cho chàng một câu nói: "Ngươi về hỏi lại Tống Trích Tư, có phải đã quên mất lời hứa của hai mươi năm về trước hay không?". Tử Xung Lân Thanh từ xa chạy đến, lo lắng hỏi: - Thiếu tướng quân, ngài không sao chứ? Tống Thanh Dực lắc đầu, lòng nghĩ: "Lại là hai mươi năm trước, rốt cuộc hai mươi năm trước đã có chuyện kinh thiên động địa gì xảy ra. Còn nữa, người kia là ai? Lẽ nào đó là người mà phụ thân muốn ta điều tra, tứ kiệt vang danh thời đó, diệu thủ hồi xuân Vân Du".